-
Số nội dung
76 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by PhucTuan
-
2. Chữ Việt: chỉ âm bộ Kim: chỉ ý Vậy thì đọc làm sao? Thưa đọc là Việt (xin xem tự điển Thiều Chửu trang 711) có nghĩa là cái búa lớn mà ta thường gọi là Phủ Việt. Vậy có hai điểm chính ở đây. Các học giả ở trên đã chẳng những nhìn lộn chữ Việt ra chữ Tuất, và cũng chẳng soát lại coi cái âm đọc như thế nà o để coi mình nói đúng hay sai. Ðể rõ ràng dể hiểu hơn chúng ta hãy coi cách cấu tạo chữ mới như thế nào trong chữ Nho. Ở đây tôi xin được nói phớt qua một chút để thấy ngày xưa người ta làm thế nào để cấu tạo một chữ mới trong chữ Nho, tuy nhiên những điều viết sau đây không phải là một điều cố định vì nó còn có những trường hợp ngoại lệ. Ðể dể hiểu tôi xin lấy chữ Nghệ làm ví dụ: Ví dụ người xưa bắt đầu bằng chữ Nghệ (tự điển Thiều Chửu trang 7). Bây giờ muốn tạo một chữ mới lấy gốc từ chữ Nghệ này thì họ làm sao? Họ lấy chữ Nghệ nầy viết kèm với một bộ khác,ví dụ bộ Khảm thì ra chữ Hung (tự điển Thiều Chửu tr.48). Từ chữ Hung nầy muốn tạo thêm một chữ mới khác thì họ làm sao? Họ lại viết kèm nó với một bộ khác, ví dụ bộ bộ Bao thì nó ra chữ Hung . Rồi họ lại cứ tiếp tục lấy chữ Hung có bộ bao đó viết kèm với một bộ mới, ví dụ bộ Tâm thì ra chữ Hung (xem tự điển Thiều Chửu tr. 204). Rồi cứ như thế mà tạo ra một chữ mới Ðối với chữ Việt cũng thế; đầu tiên nó là chữ Việt , xong để tạo ra một chữ mới người ta mới nhập nó với bộ Tẩu và đọc với âm Việt. D. BỘ TẨU Mặc dầu đã giải thích chữ Tuất và chữ Việt rồi, nhưng bạn vẫn còn thắc mắc rằng nếu chữ Việt này đủ để đọc là Việt thì thêm bộ Tẩu vào làm gì? Tôi xin nhắc lại trong chữ “Việt“ gồm bộ Tẩu và chữ Việt . Chữ Việt đây chỉ là cái âm có nghĩa là cách đọc, cách phát cái âm ra như thế nào mà thôi. Còn tấ t cả ý nghĩa gói ghém lại nằm ở bộ Tẩu là cái phần chỉ ý và đó là phần chính. Vậy tổ tiên chúng ta muốn nói cái gì khi viết bộ Tẩu vào với âm Việt . Ðó là đều mà bạn và tôi phải tìm hiểu đến. Ở trên tôi có giải thích chữ Việt , chữ xưa viết là là hình một cái qua có cái móc phía sau; mà cái qua là một loại binh khí ngày xưa vậy nó phải có liên quan gì với bộ Tẩu. Bộ Tẩu : Ðầu tiên chúng ta thử tìm xem trong các tự điển cắc nghĩa thế nào về bộ tẩu nầy. Tự điển Hán-Việt của Thiều Chửu: Tẩu: 1. Chạy. 2. Trốn. Tự điển Hán-Việt Từ Nguyên của Bửu Kế: Tẩu: bộ Tẩu¨« bảy nét: chạy. Tự điển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của: Tẩu: chạy. Tự điển chữ Nôm của Vũ văn Kính: Tẩu: tẩu thoát, bôn tẩu. Hán-Việt từ điển của Nguyễn Văn Khôn: Tẩu: chạy, trốn, đi, về. Tự điển Trung Hoa: A New Practical Chinese-English dictionary do Công Ty Viễn Ðông xuất bản: zoêu: 1. to walk có nghĩa là đi; to go on foot tức là đi bộ. 2. to run tức là chạy. Tự điển Trung Hoa: A Chinese-English dictionary do Viện Ngoại Ngữ của Bắc Kinh xuất bản: zoêu: 1. walk, go có nghĩa là đi. 2. run có nghĩa là chạy
-
3a. HỘI Ý Mỗi chữ đều mang ý nghĩa của nó. Hội ý là do hai chữ hoặc nhiều chữ hợp lại để ra một ý nghĩa khác. Ví dụ: Chữ Chiêm. Chữ nầy gồm hai bộ hợp lại thành một chữ. Ở trên là bộ Bốc và ở dưới là bộ Khẩu . Bốc có nghĩa là bói, và Khẩu là cái miệng, hai bộ nầy nhập lại thành chữ Chiêm có nghĩa là xem coi điều gì để biết xấu tốt. 4a. HÌNH THANH Chữ Hình Thanh là do sự họp lại của một hoặc nhiều chữ. Chữ Hình Thanh gồm hai phần: Một phần là bộ để chỉ ý (nghĩa của chữ) Một phần là âm để nói lên cách đọc của chữ. Ví dụ: 5a. CHUYỂN CHÚ Là một loại chữ được dùng rộng hơn ý nghĩa ban đầu của nó. Chữ đó mang nghĩa chính, ngoài ra nó đẻ thêm một nghĩa phụ nữa. Ví dụ: (xin coi tự điển Thiều Chửu trang 310) 6a. GIẢ TÁ Ðây là một sự vay mượn do lầm lẫn hoặc thiếu sót mà ra, bất nguồn từ: Do sự chép sai lấy từ chữ gốc Mượn chữ trùng âm hoặc chữ đồng âm để thay thế phần chữ không có trong chữ viết, mà chỉ có trong lời nói mà thôi. Ví dụ: đậu là một cái thố để đựng thịt cúng thần, cùng âm với chữ hạt Ðậu, nên cũng được dùng để chỉ hạt đậu.C. CHỮ VIỆT THUỘC LOẠI NÀO? Trong 6 loại của cách cấu tạo chữ Nho kể trên, thì chữ Việt nằm trong loại Hình Thanh tức là một bên chỉ ý và một bên chỉ âm. Ðể dẫn chứng bạn lấy quyển CHỮ NHO TỰ HỌC của Ðào Mộng Nam, Giảng Sư Viện Ðại Học Huế, ở trang 110 có viết như sau: cách cấu tạo chữ Nho, phần 3: Chỉ âm - Chỉ ý: Lấy hai chữ vẽ hình hay gom ý có sẵn ghép lại rồi dùng một chữ để chỉ âm, một chữ để chỉ ý: Ví dụ: cửu: chỉ âm ửu - ừu, người: chỉ ý. Con người khác con vật ở điểm biết thù hằn nhau. đọc là cừu (lấy từ âm ửu của chữ cửu) có nghĩa là thù hằn. Bây giờ áp dụng chữ “Việt" vào: Các học giả ở các bài báo ở trên cho rằng chữ Việt gồm bộ Tẩu đi với chữ Tuất ; chúng tôi cho rằng bộ Tẩu đi với chữ Việt . Bây giờ chúng ta hãy xem cách đọc: Chữ Việt gồm bộ Tẩu và chữ Tuất Việt Tuất: chỉ âm: âm ở đây là T, âm tờ, tẩu: chỉ ý Trong tự điển không có bộ Tẩu đi với chữ Tuất, nên không đọc được! Chữ Việt gồm bộ Tẩu và chữ Việt Việt Việt: chỉ âm tẩu: chỉ ý đọc là Việt Bạn thử so sánh coi, nếu lấy âm T, Tờ của chữ Tuất thì làm sao mà đọc ra Việt được! Nó phải âm Việt thì mới đọc ra Việt được. Ðể rõ ràng hơn tôi xin đưa ra hai ví dụ trong đó có chữ Tuất đi với một bộ khác và chữ Việt đi với một bộ khác như sau: 1. Chữ Tuất: chỉ âm: âm ở đây là T, âm tờ bộ bối: chỉ ý Vậy thì đọc như thế nào? Thưa đọc là Tặc (xin xem tự điển Thiều Chửu trang 648).
-
Bây giờ xin bạn hãy coi lại cách viết của chữ Việt đi với bộ Tẩu Việt Chữ Việt bao gồm bộ Tẩu và chữ Bây giờ bạn hãy nhìn chữ Tuất Bạn hãy coi chữ Tuất và chữ có giống nhau không? Chắc chắn là không giống nhau rồi. Chữ Tuất có một nét gạch ngang bên trái, còn chữ có một nét móc lên ở bên trái. Bạn sẽ hỏi tôi chữ đọc làm sao? Chữ nầy đọc là Việt. Các học giả ở trên nhìn lộn chữ Tuất với chữ Việt ! Cái chữ trong chữ Việt bộ tẩu không phải là chữ Tuất mà là chữ Việt! Vậy bạn sẽ hỏi rằng chữ Việt nầy ngày xưa chữ gốc của nó như thế nào và giải thích làm sao? Chữ Việt , ngày xưa viết là và được giải thích như sau: Hình một cái qua có cái móc ở phía sau. Như vậy trong chữ Việt có bộ Tẩu đi với chữ Việt chứ không phải bộ Tẩu đi với chữ Tuất! Bây giờ bạn và tôi lại thắc mắc là tại sao đọc là Việt? Trước khi bàn đến cách đọc, tôi xin nói phớt qua về cách cấu tạo của chữ Nho. B. CÁCH CẤU TẠO CHỮ NHO Chữ Nho được chia ra làm hai đại loại: Loại Văn là những hình thể đơn giản. Loại Tự là những chữ hợp lại hay còn gọi là hợp tự. Các cụ nhà Nho chúng ta thường hay gọi là Văn Tự. Loại Văn được chia làm hai loại: Tượng hình Chỉ sự Loại Tự cũng được chia làm hai loại: Hội ý Hình thanh Ngoài bốn loại: Tượng hình, chỉ sự, hội ý và hình thanh, thuộc về Văn Tự, chúng ta còn có thêm hai loại nữa, đó là: Giả tá Chuyển chú Tóm lại: Văn Tự gồm 4 loại: Tượng hình, chỉ sự, hội ý và hình thanh Lục thư gồm 6 loại: Tương hình, chỉ sụ, hội ý, hình thanh, giả tá và chuyển Chú. Giải Thích Từng Loại 1a. TƯỢNG HÌNH Ðây là những hình vẽ thô sơ để chỉ một vật gì hay một giống loại gì. Ví dụ: 2a. CHỈ SỰ Ðây là những hình thể để nói lên một ý nghĩa nào đó. Tuy còn là hình vẽ những chữ đã bất đầu mang một ý nghĩa trừu tượng. Ví dụ:
-
Xin mạn phép được edit thêm một số hình ảnh và chữ Hán vào bài bạn Rin86 Lê Văn Ẩn Nguồn anviettoancau.net Bạn và tôi là người Việt, chúng ta là con dân nước Việt. Cái tên "Việt" đã có từ lâu đời, ấy thế mà khi hỏi đến nguồn gốc và ý nghĩa của nó, ít có ai hiểu nó là gì! Tại sao là Việt? Nó mang ý nghĩa gì? Thỉnh thoảng trên báo chí chúng ta thấy có nhiều học giả tìm cách giải thích, nhưng rất tiếc sự giải thích đó đều mang một ý nghĩa không mấy tốt đẹp. Hôm nay bạn và tôi thử tìm hiểu, phân tích để hiểu xem vì lý do gì tiền nhân của chúng ta lại lấy cái tên "Việt" đặt cho dân tộc mình. Đầu tiên cái tên Việt đó được viết bằng một loại chữ mà ngày nay ít ai nhắc tới, đó là chữ Nho. Chúng ta có chữ viết; các cụ ngày xưa viết chữ Nho, sau đó là chữ Nôm; đến khi người Pháp đến đô hộ đất nước chúng ta, họ đưa vào một lối chữ viết với mẫu tự La-tinh và gọi đó là chữ Quốc Ngữ. Chữ Quốc Ngữ dần dần thay thế chữ Nho và Nôm. Sau đó tất cả các sách vỡ, văn kiện đều được in bằng chữ Quốc Ngữ.Ngày nay ít ai buồn nghĩ đến chữ Nho và Nôm của ngày trước; nếu có ai tình cờ nhắc lại thì bị coi là cổ hủ, lỗi thời. Từ đó với thời gian hai loại chữ trên đều bị rơi vào quên lãng. Sự mất mát của chữ Nho và chữ Nôm mang một ảnh hưởng rất tai hại mà ít ai nghĩ tới. Thông thường bạn và tôi không thấy sự tai hại đó, mãi cho đến một ngày có người hỏi chúng ta, anh là người Việt, vậy chữ "Việt" đó mang ý nghĩa gì? Cái gốc của chữ "Việt" đó từ đâu mà ra? Bây giờ bạn và tôi đem chữ Quốc ngữ ra cắt nghĩa cái nguồn gốc chữ "Việt" ư? Chữ Quốc ngữ không thể giải thích nguồn gốc của chữ "Việt"! Quay lại chữ Nho và chữ Nôm ư? Còn mấy người biết được chữ Nho và Nôm, và có chắc họ còn nhớ cái nguồn gốc của chữ đó không! Một hôm, ông Bùi Tuấn Dũng, một người bạn thân của tôi, mang đến cho tôi một số bài báo giải thích về nguồn gốc của chữ "Việt". Tôi rất mừng và vội đăng lên đây để bạn và tôi cùng tìm hiểu nguồn gốc dân tộc mình qua danh xưng là Việt. Dưới đây là những đoạn trích từ các bài báo vừa kể: Ông Phạm Cao Dương có viết bài "Việt Nam hay Đại Nam" (Một vấn đề liên hệ tới quốc hiệu nước ta) đăng trong tờ Chiêu Dương. Ông viết như sau: "... Chữ Việt trong danh xưng Việt Nam đã không được viết là Việt chỉ hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây mà là Việt có nghĩa là vượt, một chữ mà các bậc lão thành cho là có nghĩa xấu vì nó hợp với chữ Tẩu có nghĩa là chạy và chữ Tuất chỉ một chi trong 12 chi tượng trưng cho chó". Cuối cùng nếu mê tín, dị đoan mà nói, một quốc gia mà mang tên những vượt và chạy do người ngoài đặt cho như vậy thì khó mà sống trong hòa bình, ổn định và đoàn kết xây dựng được. Ông Phan Hưng Nhơn có viết bài "Nhận thức về một số suy luận mới về sử liệu Việt Nam" đăng trong tờ Viên Giác số 135 tháng 6 năm 2003 (xuất bản ở Đức). Ở trang 135 ông viết như sau: "... Đối với những bộ lạc sống vùng Nam man mà họ không mấy biết và cho rằng những bộ lạc nầy có lối sống hỗn độn. Nên người nhà Chu dùng từ Việt, có nghĩa là Vượt để gọi những dân tộc người ở vùng Nam man này mà họ cho "có lối sống Vượt ra ngoài vòng lễ giáo của nhà Chu". Như thế danh xưng Việt người thời nhà Chu dùng đầu tiên và chỉ có nghĩa đơn giản như vậy. Sau đó ở trang 137 ông lại viết tiếp: "... Vì vậy từ thời thượng cổ cho đến cận đại, dân tộc mà ngày nay bị gọi là Việt Nam này không bao giờ chịu nhận mình là người Việt và từ xưa cho đến nay luôn luôn tự xưng mình là dân Nam, nước mình là nước Nam (cho đến năm 1945). Ông Hoàng Văn Chí có viết bài "Nguồn gốc dân tộc" (đây là bài Tham Luận) đăng trong tờ Chiêu Dương. Ông viết như sau: "... Chữ Việt có nghĩa là vượt qua, như việt quyền là vượt quá quyền hạn, việt ngục là vượt ngục. Người Hán dùng chữ Việt để chỉ những sắc tộc ở phía Nam sông Dương Tử, mà họ coi là thấp kém ví chẳng khác người Thượng hiện nay, họ không định cư ở một nơi để canh tác nông nghiệp. Cứ ở mỗi nơi vài năm, phá rừng làm rẫy, rồi hễ đất hết màu mỡ, lại vượt sông, vượt núi, di chuyển tới một khu rừng khác. Vì có nhiều sắc tộc Việt quá nên người Hán gọi hằm-bà-lằng tất cả là Bách Việt. Sau đó ông lại viết tiếp như sau: "... Rồi người Việt-nam được gọi tắt là Người Việt, làm cho nhiều người ngộ nhận chúng ta là một trong các sắc tộc Bách Việt bên Tàu. Đáng lẽ nên gọi là Người Nam. Chữ Nam đối chọi với chữ Bắc. Ta là Nam, Tàu là Bắc. Ông Trần Hữu Lễ có viết trong tờ Viên Giác số 122, tháng 4 năm 2001 (xuất bản ở Đức) dưới đề mục "một bọc trăm con". Ông có nhận xét như sau: ... Họ (Cao Biền) viết chữ Việt gồm hai bộ Tuất và Tẩu. Tuất là chó. Tẩu là chạy, với nghĩa xách mé, như một lời chửi rủa... Có một chữ Việt khác gồm các bộ Phiệt (gần giống âm Việt), Quynh (miền đất ở xa ngoài cõi), Mễ (lúa gạo), Khảo (khéo léo). Rồi ông giải thích như sau: một miền đất ở xa ngoài nước Tàu chuyên nghề trồng lúa một cách tinh xảo. Phải chăng đấy là ý người xưa. Chữ Việt này nhìn giống như một trái cây, có cuống, có quả, có nhiều hạt. Có quả có nhân, có nhân có quả... Ngoài phần phân tích chữ Việt, bài viết "Một bọc trăm con" của ông viết rất đầy đủ ý nghĩa. Ông Huy Việt Trần Văn Hợi có viết bài "Chữ Việt" đăng trong tờ Tư Tưởng như sau: "... Nếu ta tách chữ Việt bộ Tẩu ra thì ta có một bên là chữ Tẩu là chạy, và một bên chữ Tuất là chó. Đó là họ muốn ghi chiến thắng của họ là đánh đuổi dân ta chạy về Phương Nam như đuổi chó vậy" Trong năm học giả ở trên thì có ba người cho chữ "Việt" gồm bộ Tẩu và chữ Tuất, rồi chú thích là chó chạy; còn hai người gọi Việt là vượt và cho đó là một cái tên thấp kém, sống vượt ngoài vòng lễ giáo, rồi đề nghị đừng gọi là người Việt mà nên gọi là người Nam! Nếu bạn và tôi không biết chữ Nho và chữ Nôm, thì chúng ta nên tin ai và bỏ ai đây? Họ đúng hay sai, thật khó mà biết được vì tất cả đều phân tích giống nhau! Vậy tổ tiên chúng ta không biết cái tên đó xấu hay sao mà lại chọn cái tên như vậy? Chúng tôi tin tưởng rằng tổ tiên của chúng ta phải có lý do chính đáng để chọn cái tên "Việt", tuy nhiên đám con cháu không chịu tìm hiểu cặn kẽ rõ ràng rồi quay lại hiểu lầm tiền nhân! Với khả năng hạn hẹp và thô thiển, tôi cố gắng tìm lại nguồn gốc qua sự phân tích, dẫn chứng về chữ Việt. Biển học thì mênh mông mà sự hiểu biết của mình thì quá hạn hẹp, nếu tôi có gì sơ xuất hay sai sót thì xin các bậc cao minh chỉ bảo để tôi có dịp học hỏi thêm. Đầu tiên, chữ Việt được viết bằng chữ Nho. Chữ đó viết bằng hai cách: Việtvà Việt Trước tiên để hiểu chữ Việt trên mang ý nghĩa gì, chúng ta thử tìm qua tự điển. 1. TÌM CHỮ VIỆT QUA TỰ ĐIỂN Việt đây là chữ Việt đi với bộ Mễ . Muốn tìm chữ Việt này bạn lấy cuốn tự điển chữ Nho, hay cuốn tự điển Hán-Việt hoặc tự điển của Trung Hoa, lật tới bộ Mễ (là bộ thứ 119 trong số 214 bộ). Bộ Mễ theo cách viết gồm có sáu (6) nét hợp thành, hãy tra ở phần các bộ có sáu nét thì tìm ra bộ Mễ, sau đó tìm trong bộ Mễ ở phần 6 nét thì thấy chữ Việt nầy. Vì nó nằm ở bộ Mễ cho nên người ta nói chữ Việt bộ Mể là mang ý nghĩa như vậy. Việt đây là Chữ Việt bộ Tẩu (là bộ thứ 156 trong 214 bộ), bạn cũng làm giống như trên, tìm đến bộ Tẩu (bộ 7 nét), rồi tìm đến phần năm nét của bộ tẩu thì thấy chữ Việt nầy. Sau khi tra tự điển tìm ra chữ Việt rồi, nay bạn và tôi thử tìm coi trong tự điển chữ Nho và tự điển Hán-Việt người ta giải thích thế nào về chữ Việt đó. Ở đây chúng tôi lấy tự điển Thiều Chửu để làm ví dụ. 2. GIẢI THÍCH CHỮ VIỆT QUA TỰ ĐIỂN A. Việt , chữ Việt bộ Tẩu được giải thích như sau (Tự điển Thiều Chửu trang 655): Qua, vượt qua Rơi đổ Nước Việt, đất Việt Giống Việt: ngày xưa các giống Việt như Ư-Việt thì ở Triết Giang; Mân-Việt thì ở Phúc Kiến; Dương-Việt thì ở Giang Tây; Nam-Việt thì ở Quảng Đông; Lạc-Việt thì ở nước ta, đều là Bách Việt cả. Một âm là Hoạt: cái lỗ dưới đàn sắt. B. Việt , chữ Việt bộ Mễ được giải thích như sau (tự điển Thiều Chửu trang 474): Nước Việt, đất Việt, cùng nghĩa như chữ Việt . Tĩnh Quảng Đông, Quảng Tây nguyên trước là đất của Bách Việt nên người Tàu gọi hai tỉnh ấy là tỉnh Việt. Bèn, tiếng mở đầu (phát ngữ), như Việt hữu là bèn có. Nếu bạn và tôi không biết chữ Nho, có cố gắng mà tìm hiểu nguồn gốc, thì cùng lắm chỉ tìm được lối giải thích như trên. Trong tự điển chữ Nho, hay tự điển Hán-Việt hoặc tự điển thông dụng của Trung Hoa, người ta chỉ giải thích như vậy, chứ không có cuốn tự điển nào phân tích cái gốc của chữ Việt cả! Vì không có sự phân tích chữ gốc từ tự điển, cho nên mọi người phân tích mỗi kiểu khác nhau, từ đó chúng ta không biết tin ai bỏ ai! Bây giờ bạn và tôi thử phân tích coi chữ Việt đó như thế nào. 3. PHẦN PHÂN TÍCH CHỮ VIỆT A. CHỮ VIỆT ĐI VỚI BỘ TẨU Trong các bài báo đăng trích ở trên thì phần lớn giải thích chữ "Việt" đi với bộ Tẩu và chữ Tuất; tuy nhiên có một vị cho rằng đi với bộ Tuất và bộ Tẩu, ông không gọi chữ Tuất mà lại gọi là bộ Tuất. Để tránh hiểu lầm, chúng tôi xin thưa rằng không có bộ Tuất mà chỉ có chữ Tuất . Trong 214 bộ, không có bộ Tuất. Muốn tìm chữ Tuất, ta phải tìm bộ Qua (là bộ thứ 62 của 214 bộ), chữ Tuất là thuộc 2 nét của bộ Qua (tự điển Thiều Chửu trang 219). Ở đây có sự nhận định không rõ ràng giữa chữ và bộ. Cuốn tự điển Khang Hi lập thành vào năm 1716 sau Tây Lịch, gồm có khoảng bốn chục ngàn chữ, nhưng chỉ có 214 bộ.Vì số chữ quá nhiều, nên người xưa dùng bộ để xấp các chữ vào từng loại cho có thứ tự và để dể tìm, ví dụ tôi muốn viết chữ đó có liên quan với nước, thì tôi viết nó đi kèm với bộ Thủy ; tôi muốn viết chữ đó liên quan đến cây thì tôi viết kèm với bô Mộc , hay nói một cách khác là nếu tôi muốn tìm một chữ trong tự điển chữ Nho hay tự điển Hán-Việt thì việc trước tiên là phải biết chữ đó nằm ở bộ nào. Ở phần sau trong phần cấu tạo chữ Nho, chúng tôi sẽ giải thích vai trò của chữ và bộ khi họp lại với nhau. Các học giả ở trên nói rằng Chữ Việt gồm bộ Tẩu và chữ Tuất. Bạn và tôi thữ tìm hiểu chữ Tuất coi nó ra sao. Chữ Tuất , (xin xem tự điển Thiều Chửu trang 219), nếu chúng ta nhìn kỹ chữ Tuất chúng ta thấy bên trái có cái gạch ngang. Vậy ngày xưa người ta viết chữ Tuất như thế nào và giải thích ra sao? Chữ Tuất ngày xưa viết là có nghĩa là một cái qua có một nét khuyết xuống và một đường gạch ngang bên trái; đường gạch ngang tượng trưng cho vết chém, hay vết thương mà người chiến sĩ gây cho kẻ thù của mình, từ đó nghĩa xưa của chữ Tuất là tấn công, gây thương tích, sát hại. Tôi xin nhắc lại cái qua là một loại binh khí ngày xưa. Sau nầy người ta mới đặt chữ Tuất là chi Tuất, là một chi trong mười hai chi. Như vậy chữ Tuất với ý nghĩa ban đầu không dính dấp gì với chó cả!
-
Cháu xin cám ơn bác Thiên Sứ đã giải đáp thắc mắc cho cháu! :rolleyes:
-
Trên thế giới đúng là họ vẽ được thật thưa bác kadest nhưng với điều kiện: lãnh thổ quốc gia đấy phải liền kề không được tách rời. Sau đây là một đoạn trích trên wiki: Không áp dụng vào thực tế Mặc dù định lý được phát hiện ra trong quá trình tô màu bản đồ, nhưng trên thực tế nó rất ít khi được áp dụng vào khoa học vẽ bản đồ. Nhiều bản đồ phải sử dụng nhiều hơn bốn màu để thể hiện các khu vực, ngoài ra có những bản đồ sử dụng ít hơn bốn màu. Hầu hết các bản đồ thực tế đều có vẽ hồ ao, mà tất cả hồ ao này phải vẽ cùng màu. Do vậy làm tăng số lượng màu cần thiết để vẽ các vùng đất. Nếu bỏ qua không vẽ hồ ao, thì trên thực tế vẫn có những vùng đất của cùng một quốc gia nhưng bị tách rời nhau, do đó phải vẽ cùng màu và định lý không áp dụng được. Các sách vở về môn Bản đồ học cũng không nhắc đến định lý này. Những người vẽ bản đồ cho rằng họ quan tâm hơn đến việc phối màu bản đồ sao cho đẹp mắt; do vậy việc sử dụng bốn, năm hay nhiều màu hơn không phải là vấn đề đáng bận tâm. Những vùng đất không liên tục Trên thực tế có nhiều quốc gia mà các phần lãnh thổ không liền kề nhau. Ví dụ như phần lãnh thổ Alaska của nước Mỹ, Nakhchivan của Azerbaijan, hay Kaliningrad của Nga. Nếu việc vẽ bản đồ đòi hỏi các phần lãnh thổ này phải cùng màu thì việc sử dụng bốn màu là không đủ. Trong toán học, những vùng đất tách rời này được gọi là điểm cô lập của tập hợp miền quốc gia. Thử xét một hình vẽ đơn giản sau Trong hình, hai khu vực được đánh dấu "A" cùng thuộc về một quốc gia, và phải được vẽ cùng màu. Bản đồ này phải sử dụng năm màu. Nakhchivan của Azerbaijan Nói một cách ngắn gọn khác của bài toán vẽ bản đồ là: chỉ với 4 màu chúng ta sẽ tô sao cho 2 vùng liền kề của bản đồ thế giới không trùng màu. Với cách vẽ trên lí thuyết ta sẽ hiểu là: tất cả các vùng cùng màu không liền kề nhau là các quốc gia khác nhau. Nhưng thực tế có những trường hợp rơi vào điểm cô lập như trên, 2 hay 3 thậm chí nhiều vùng một màu lại phải hiểu là cùng thuộc về một quốc gia. Còn với trường hợp mỗi vùng đều có tiếp giáp với cả 4 vùng còn lại điều đấy đúng là không bao giờ xảy ra. Trừ trường hợp đặc biệt ra bác Hà Uyên đã đưa lên đồ hình Tứ Tượng đạt tiêu chuẩn rồi ạ :P
-
Cháu tìm được một thông tin trên mạng của bài toán 4 màu ở đây http://www.vninformatics.com/forum/topic/2672/Bai-toan-4-mau.html%3Bjsessionid=648E53C3290F53AD16177DA22EA4F5DA .Cách chứng minh 1 thì có thể hiểu được, còn cách chứng minh sau thì bó tay :P Cháu có hỏi một người bạn nó bảo cái này thuộc về thuật toán với máy tính, không học về cái này cũng đành chịu. Người thách đố bác Thiên Sứ cũng cao tay thật, bài toán này thuộc vào 23 vấn đề toán học cần giải quyết của nhân loại. ;)
-
Thưa bác Thiên Sứ và anh Thiên Đồng đọc bài nghiên cứu trên cháu có một thắc mắc nho nhỏ như sau: Nhìn đến hình tượng ngựa cột đuôi, cháu có nhớ đến hình ảnh bìa của 2 cuốn truyện Tam Quốc một quyển xuất bản vào năm 2002 và một quyển 1 2 năm sau đó (Cháu mua 2 bộ tam quốc vào 2 thời điểm khác nhau). Nhưng nhìn hình vẽ và nét vẽ thì có thể những hình ảnh này cùng một thể loại hoặc trong một thể loại tranh nào đó. 2 hình: Hình ở quyển 1 là đoạn 3 anh em Lưu, Quan, Trương 3 lần đến cầu kiến Gia Cát Lượng Hình ở quyển 3 thì cháu ko dám chắc là nhân vật nào có thể là Tào Tháo :o Với ý kiến như trên cho rằng anh hùng hoặc chiến binh thì ngược lại một chiến binh cưỡi trên một con ngựa bị cụt đuôi hay cột đuôi thì đó lại là một hình ảnh phảm cảm và tuyệt nhiên không giá trị, thì cháu cho rằng chưa hẳn là đúng. 3 nhân vật Lưu, Quan, Trương không thể coi là những người bình thường và hơn thế Quan Vũ còn được coi là thần tướng (quan võ). Cháu thì lại suy nghĩ như thế này: vào thời tam quốc là giai đoạn chiến tranh không thể mất thì giờ vào việc tết đuôi ngựa cho đẹp được, việc tết đuôi ngựa có thể là cho đuôi con ngựa được gọn gàng không vướng víu lúc xung trận. Nếu mà nói rằng việc người họa sĩ này vẽ đuôi ngựa đc tết thế này là áp vào hình ảnh ngựa cao sang quí phái vào một con ngựa chiến thì cũng đành chịu :P ! Cháu nghĩ rằng những con ngựa cột đuôi này là những chú chiến mã được tuyển lựa kĩ càng trong hàng trăm chú ngựa khác. Những chú ngựa này đặc biệt béo khỏe có thể để những chiến thần mình mẩy cao to hơn người cưỡi lên mà vẫn phi băng băng. Cũng có thể có một lí do nữa là cột đuôi ngựa là để đảm bảo vệ sinh cho chú ngựa mỗi lần thải phân, những người lính sẽ không phải mất thời gian vệ sinh cho cái đuôi và chải chuốt lông đuôi cho mỗi chú ngựa. Có chút thắc mắc mong mọi người giải đáp! ;)
-
Bạn cài Vietkey2000, chỉ cần có font VnTime là đọc được thôi bạn. :rolleyes:
-
Cháu xin cảm ơn bác Thiên Sứ đã giải đáp thắc mắc cho cháu và làm vững chắc hơn niềm tin vào chữ Khoa Đẩu của cha ông! Cháu ngẫm nghĩ thêm về bức ảnh, người đàn ông trong bức ảnh lại mặc một chiếc áo màu sáng chứ không phải màu tối. Thông thường những người đàn ông dân tộc họ đều mặc áo màu tối ví dụ như màu đen chẳng hạn nhưng ở đây người đàn ông lại mặc áo sáng màu (rất có thể là vải kaki, áo của một anh bộ đội hoặc một người thuộc tầng lớp trí thức vào thời đó). Một điều có thể chắc chắn rằng người đàn ông trong bức tranh này không phải là người ở vùng này, hay có thể suy luận rằng người đàn ông này ở vùng khác đến (miền đồng bằng chẳng hạn). Vậy thì điều này nói lên cái gì? Điều này chứng tỏ rằng chữ Khoa Đẩu vào thời điểm năm 1945 rất có thể vẫn được sử dụng ở một số vùng miền lãnh thổ Việt Nam, cụ thể hơn là các vùng lãnh thổ phía bắc. Chữ Khoa Đẩu đã tồn tại như một cây đại thụ đã cắm rẽ sâu đến mức cơn bão to như chữ Hán cũng không thể lay chuyển và quật ngã nổi nó. Một điều rất đáng buồn là ngày nay, không những người trẻ tuổi như cháu đã đành mà còn có cả những người đáng bậc cha bậc chú dù học tập nghiên cứu vẫn phủ nhận những giá trị của dân tộc 5000 năm. Họ không dám tin vào sự thật, họ đã bị cái bóng của một đế quốc phương Bắc làm lu mờ đi ý chí. Nếu ai đang hoạt động nghiên cứu, có thể xin đài TH đoạn phim gốc, tìm ra được người quay phim thì có lẽ không phải đoán già đoán non nữa :( Cháu xin kể một câu chuyện thế này: Chả là cháu đang đi học tiếng Trung vì nó rất cần cho công việc sau này của cháu, hơn nữa cháu cũng muốn đọc những gì mà của cha ông chúng ta đã bị đánh cắp. Thầy dạy học cháu cũng đã cao tuổi rồi (có thể gọi là ông) , thày là một người rất giỏi, 17 năm học tập bên TQ. Thày nhận dạy cháu và một em nữa không lấy tiền, miễn là phải theo học đến cùng. Buổi đầu tiên đến ngồi nói chuyện với thày, thày cháu giới thiệu thế này: Học chữ Hán là mỗi người có một mục đích khác nhau, các cháu nên học cái này bởi vì nó có rất nhiều cái hay mà có thể độ tuổi các cháu chưa để ý đến, sau này sẽ thấy rất hiệu nghiệm( chắc thày ý nói đến lý học tại vì nhìn vào tủ sách đã thấy ngay quyển Kinh Dịch Đạo Của Người Quân Tử - Nguyễn Hiến Lê cũ :( ), trước đây người Việt chúng ta không có chữ viết chúng ta được người Hán dạy cho chữ viết và chữ Nôm cũng bắt chước mà ra. Nói đến câu này là cháu chỉ muốn nói thằng là người Việt có một hệ thống chữ đàng hoàng, chỉ tại người Hán xóa sổ mất rồi. Cháu rất muốn nhưng không làm được, tại vì vừa mới buổi đầu tiên đã cự lại thày giáo thì chắc cháu cắp cặp sách ra về luôn quá :P . Cháu biết được điều đó không phải đã đành, thằng em cháu nó ngồi cạnh nó không biết thì trong đầu lại ghim như đinh đóng cột: người Việt không có chữ viết, người Hán khai sáng cho chúng ta :P Không biết là thày đã dạy bao lứa học sinh rồi, những những lứa học sinh lại đem cái câu đấy đi dạy lớp sau. Điều đó thật là kinh khủng! Bây giờ nó mới như ngọn lửa nhỏ nhen nhóm, chứ để đến vài thế hệ sau để cháy nhà thì chúng ta mất hẳn gốc. Cháu hi vọng là một buổi nói chuyện nào đó sẽ tâm sự với thày và nói rõ cho thày về những điều này! Mỗi dân tộc đều có một món quà vô cùng quí giá, đó là lịch sự̉. Chúng ta học lịch sử và nghiên cứu lịch sử để biết dân tộc đó đã đóng góp gì cho nhân loại. Tôi tự hào rằng dân tộc Việt là cái nôi văn minh đã đóng góp một phần rất vĩ đại vào tiến trình văn minh của nhân loại. Có đôi lời ngoài lề, mong mọi người không cho là nhiều chuyện.
-
PhucTuan xin đăng kí một suất học ở lớp PTLV cơ bản. Xin cám ơn ban quản trị!