-
Số nội dung
76 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by PhucTuan
-
Giả thuyết làm Moai chuyển động này PhucTuan thấy không có tính khả thi lắm. Cảm ơn anh MrPlkar đã chia sẻ những thông tin thú vị :(
-
Phát hiện khối đá lạ ở cố đô Hoa Lư Một khối đá có những vết khắc vạch vừa được người dân tìm thấy tại khu vực cố đô Hoa Lư. Theo các cán bộ Phòng Di sản văn hóa Ninh Bình, Sở VH-TT-DL, khối đá sẽ hé lộ một di tích cự thạch mới. Vào những ngày cuối năm 2009, khi nạo vét dòng sông Sào Khê, ở phía trước khu vực đền vua Đinh và đền vua Lê, thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư (Ninh Bình), người dân đã tìm thấy một khối đá hình trụ ở độ sâu khoảng 3m so với thềm ruộng lúa quanh đó. Khối đá có chiều dài 1,2m (kể cả vấu là 1.5m), đường kính 0,7m. Ở hai đầu của khối đá này có vấu hình tròn. Trên thân của khối đá hình trụ này có những vết khắc vạch có tiết diện rộng từ 1 - 4cm, sâu từ 0,5 - 3cm. Đến nay, chưa giải mã được đó là biểu tượng gì. Đầu năm 2009, cách địa điểm này khoảng 200m, người dân cũng phát hiện một cột đá hình tròn dài khoảng 3m, trên thân của cột đá cũng có những nét khắc vạch có độ rộng và sâu tương tự. Chất liệu đá thì hoàn toàn giống nhau. Điều đặc biệt nữa là ở đầu của cột đá có hai lỗ mộng đối nhau. Lỗ mộng này lại có kích thước tương ứng với vấu của khối đá hình trụ mới phát hiện. Trước đó, đầu năm 2009, tại hang Son cách đó khoảng 700m, các nhà khảo cổ đã phát hiện dấu ấn của cư dân văn hoá thời đại đồ đá và thời đại kim khí cách ngày nay từ 2.000 đến 10.000 năm. Và xa hơn một chút về phía Tây Nam (khoảng 1.000m), tại núi Con, các nhà khảo cổ cũng đã tìm thấy rìu đá và những dấu ấn khác trên những khối đá. Từ những cơ sở đó, các cán bộ Phòng Di sản văn hóa Ninh Bình cho rằng, hai di vật đá lớn được phát hiện kể trên cùng nằm trong một công trình đá lớn (cự thạch). Và rất có thể cư dân cổ ở hang Son, công trường khai thác đá cổ ở núi Con cùng những di vật đá lớn mới phát hiện này có liên quan với nhau. Theo những tài liệu hiện có, Việt Nam mới phát hiện một số công trình đá lớn (cự thạch) ở các tỉnh thuộc miền núi phía Bắc Việt Nam là Bắc Giang; Vĩnh Phúc; Cao Bằng; Hà Giang; Tuyên Quang; Lạng Sơn... Các khối cự thạch phát hiện tại Ninh Bình. Ảnh: Cao Tấn Về phía Đông Nam của đồng bằng Bắc bộ, đây là lần đầu tiên phát hiện một di tích cự thạch. Di tích cự thạch này có thể là của cư dân thời tiền sử vào giai đoạn kim khí cách ngày nay từ 2.000 đến 3.000 năm. Có một đặc điểm chung của cư dân thời tiền - sơ sử giai đoạn này ở Đông Nam Á là thờ thần đá theo tín ngưỡng Tôtem giáo, thờ đa thần. Hiện, các khối đá trên đang được lưu giữ tại Bảo tàng Ninh Bình và đang cần các nhà khoa học nghiên cứu, giải mã những bí ẩn lịch sử để làm rõ thêm di tích Cự Thạch ở vùng đất Cố đô Hoa Lư. Cự thạch là thuật ngữ khảo cổ học chỉ những công trình dựng từ những khối đá lớn để nguyên hình dạng tự nhiên hay đã qua gia công. Cự thạch được phát hiện ban đầu ở vùng Địa Trung Hải, sau phát hiện được ở hầu khắp thế giới. Cự thạch có niên đại kéo dài từ thời đại đá mới đến thời đại đồ đồng (khoảng thiên niên kỷ 3 - 1 trước công nguyên). Theo Nguyễn Cao Tấn
-
Đúng là khi tìm hiểu về UFO nó mập mờ như vậy. Chuyện đùa mà như thật, thật giả lẫn lộn không biết đường nào mà lần. Lang thang trên mạng Phúc Tuấn có mấy thông tin post cho mọi người giải trí chơi :angry: Trên Discovery Channel cũng đã có nhắc tới UFO nhưng nó không liên quan gì đến người ngoài hành tinh mà nó liên quan đến Đệ Tam Đế Quốc và tên trùm phát xít Adolf Hitler. Trong bộ phim tài liệu, tất cả các giáo sư có nói rằng, đứng đằng sau bộ máy chính trị là một hội có tên là Vril. Hội này cũng theo chủ nghĩa bài Do Thái, coi người Do Thái là con của quỉ Sattan. Tất cả những thủ lĩnh trong chính quyền phát xít đều là thành viên hội Vril như Adolf Hitler, Heinrich Himmler... Đức quốc xã đã có một chương trình phát triển những vũ khí siểu việt vào thời bấy giờ, đĩa bay là một ví dụ. Chương trình này được đứng đầu bời những thành viên hội Vril, những bà đồng trong hội Vril có nhiệm vụ nhận các khoa học từ thế giới thần linh bên ngoài. Họ cho rằng những thần linh là tổ tiên của họ người Aryan, Đức Quốc Xã đã chi hàng chục tỉ USD tính vào thời điểm bây giờ cho những dự án ở Tây Tạng để tìm kiếm nguồn gốc của mình. Nhưng rất tiếc rằng sau những lần chế tạo và thử nghiệm những chiếc đĩa bay vẫn không thể cất cánh được, nếu thành công có lẽ thế giới bây giờ đã có một kết cục khác. Sau khi Đức bại trận, nhưng hồ sơ tuyệt mật về công nghệ này đã lọt vào tay Liên Xô và Mỹ. Cũng có thể Nga và Mỹ bây giờ đang tiếp tục công trình đó, những chiếc máy bay tàng hình và tên lửa đạn đạo bây giờ của Mỹ bây giờ cũng là tiền thân từ những công nghệ đó của Đức .UFO xuất hiện rất nhiều ở Nga và Mỹ, đầy cũng là điều mà chúng ta không nên bỏ qua. Một số bức ảnh cho là dự án Haunebu của Đức Quốc Xã: Thực sự Alien đã đến hành tinh chúng ta sớm hơn chúng ta tưởng rất nhiều. Từ thời cổ đại đến trung cổ. Bức tranh “The crucifixion” được vẽ năm 1350. Hãy nhìn hai vật thể ở phía trên bức tranh. Nó chỉ rõ hai người đàn ông đang lái một chiếc phi thuyền. Tranh cổ không rõ nguồn cũng như ngày tháng Bức tranh “The Madonna with saint Giovannino” được vẽ vào thế kỷ thứ 15 bởi họa sĩ Domenico Ghirlandaio. Bức “The baptism of Christ” được vẽ năm 1710 bởi họa sĩ Aert de Gelder. Không phải nói gì nhiều. Hình ảnh một chiếc đĩa bay rọi ánh sáng xuống mặt đất quá rõ ràng. Bức tranh “The annuiciation with St Emidius”. Hãy nhìn vật thể phát sáng trên bầu trời. Những hình ảnh nói trên là bản dịch Tây Tạng thế kỷ 10 của văn bản tiếng Phạn "Prajnaparamita Sutra", được giữ tại một bảo tàng Nhật Bản. Chú ý vào 2 hình đánh dấu ta sẽ nhìn thấy 2 chiếc đĩa bay. Nó được mô tả: bay với "tốc độ của gió" và đã cho ra một âm thanh "du dương". Hai tấm thảm được làm ra thế kỷ 15. Cả hai đều miêu tả cuộc đời của Mary. Vật thể hình cái mũ có thể được thấy rõ trong 2 chiếc thảm. Chiếc bên dưới là mang tên "The Magnificat". Cả hai đều nằm ở Notre-Dame, Beaune, Burgandy. Đây là một minh hoạ từ một cuốn sách "Ume Không Chiri" xuất bản năm 1803. Một tàu nước ngoài và thủy thủ đoàn đã chứng kiến tại Haratonohama (Haratono Seashore) tại Hitachi no Kuni, đã thấy vật thể lạ. Theo giải thích trong bản vẽ này, lớp vỏ được làm bằng sắt và thủy tinh, và chữ lạ được ghi trong bản vẽ này đã được thấy bên trong tàu.
-
Bụt chùa nhà Bùi Ngọc Tuấn Trong quá trình tiến hóa, sự tồn tại và phát triển của một giống sinh vật hay thực vật dựa trên sức mạnh của giống vật ấy. Đối với một dòng giống, một văn hóa con người, sức mạnh ấy dựa trên hai yếu tố: ý chí và bản chất đặc biệt. Ngoài yếu tố thể chất, bản sắc đặc biệt ấy là nền văn hóa của mỗi dân tộc. Chính ý chí và bản chất của dân Do Thái đã làm cho dân tộc này tồn tại suốt hai nghìn năm vong quốc. Mạnh mẽ hơn thế nữa là sự tồn tại của dân tộc Việt Nam qua một nghìn năm bị người Trung Hoa đô hộ, qua một nghìn năm thường xuyên chống trả với những cố gắng đồng hóa dân Việt về văn hóa và chủng tộc. Tuy nhiên, trong đôi ba trăm năm gần đây, bên cạnh những nỗ lực phi thường để mở mang bờ cõi theo hướng đồng bằng sông Cửu Long, người Việt lại trở nên nhu nhược trước sự sống còn của văn hóa Việt. Từ trí thức, chính quyền, tới dân dã người ta trở nên lơ là với văn hóa “thuần Việt”, trở nên thiếu hiểu biết rõ ràng và trung thực về lịch sử, nguồn gốc và văn hóa Việt Nam. “Bụt chùa nhà đã trở nên hết linh thiêng” trong tâm trí người Việt. Tất nhiên không ai nhận vậy, nhưng nhìn vào hành vi của đa số chúng ta, đó là một sự kiện rõ ràng. Chỉ vì “bụt chùa nhà không thiêng” mà trong biết bao năm qua, chúng ta đã không tìm hiểu, không nghiên cứu và không phổ biến nền văn hóa thuần Việt. Tệ hơn, chúng ta lại cho rằng cái gì không từ bên ngoài mang vào thì không tốt, không quý. Để làm giảm mặc cảm tự ti, chúng ta đã tự gán mình làm một nhánh phụ của Trung Hoa. Phụ bạc bao công lao gìn giữ nòi Việt của tổ tiên. Người Tây phương vẫn coi văn hóa Việt Nam chỉ là một sự nối dài của văn hóa đa dạng Trung Hoa; họ vẫn coi văn hóa nòi Việt không khác gì văn hóa của một tỉnh phương nam nước Tàu. Hiểu biết về lịch sử, về văn hóa Việt Nam của Tây phương dựa trên sách vở do người Pháp viết lúc còn cai trị nước ta, mà sách Pháp lại dựa trên sách Tàu, những kẻ luôn luôn muốn coi Việt Nam là một tỉnh của họ và coi văn hóa Việt Nam chính là bản sao chép của văn hóa Tàu. Họ coi như thế vì chúng ta cho phép họ coi như thế, bởi vì rất nhiều người Việt chúng ta lại cũng coi như thế, dạy nhau như thế. Trong bao năm qua, chúng ta đã lệ thuộc vào sách vở do người Pháp viết, người Tàu viết ấy để làm cơ sở cho hiểu biết của mình về văn hóa Việt. Những sách vở này có nhiều nhận xét, nhiều kết luận bắt nguồn từ những thành kiến và những chủ đích ngoài phạm vi văn hóa, khoa học thuần túy mà bỏ qua những yếu tố, những sự thực khác. Trong bao năm qua, giới trí thức Việt Nam, đã như “những con vẹt”, học và dạy nhau những sai lầm về văn hóa về nguồn gốc dân ta một cách rất hồn nhiên, vô tư. Chúng ta học mà không hỏi, thuộc lòng mà không suy nghĩ, nhai lại mà không tìm hiểu, không nghiên cứu. Đến bây giờ, với vài triệu người ở hải ngoại, nhu cầu học hỏi về dân tộc của giới trẻ ngày càng tăng, mà những người đi trước vẫn còn tiếp tục truyền dạy cho họ những điều mình nhắm mắt học thuộc lòng từ những năm đi học trước đây. Trong khi đó thì nền giáo dục ở trong nước hiện nay thoái hóa trầm trọng. Bên cạnh những lỗi lầm khác, lỗi lớn nhất của rất nhiều trí thức Việt Nam là không có hiểu biết rõ ràng về bẳn sắc văn hóa Việt Nam, không có ý chí tìm hiểu, truyền bá nền văn hóa ấy. Thế nhưng cũng trong suốt bao nhiêu năm qua, nhiều người đã tìm hiểu, đã cố gắng viết lên các nét đặc biệt của văn hóa thuần Việt, các sự thực, đúng sai của lịch sử, của nguồn gốc dân tộc. Nhưng những công trình này không được giới giáo dục và giới truyền thông (hai lực lượng mạnh nhất của sự tìm hiểu, phổ biến văn hóa) chú ý tới. Hiểu biết về lịch sử dân tộc của những thế hệ sinh vào thập niên 1940 cho đến 1960 chỉ dựa trên bộ sách viết cho học sinh trung học của ông bà Tăng Xuân An (tóm lược từ bộ Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim), hay những bộ sách giáo khoa trung học tương tự. Ở bậc đại học, nếu người ta có học về sử Việt, thì cũng không thêm được bao nhiêu. Trong những thời gian tốt, những hiểu biết ấy được truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ kia, trong những thời gian xấu thì còn tệ hại hơn hàng ngàn lần. Đọc lại bộ sử giá trị của Trần Trọng Kim, ta thấy rõ rằng những điều cụ đã dè dặt, đã nhấn mạnh là truyền thuyết không đáng tin lắm, thì sau đó lại bị dạy thành những những sự thực về dân Việt. Hai lầm lẫn ghê gớm nhất về dòng giống chúng ta là: 1. người Việt có nguồn gốc từ một giống người ở Nam Trung Hoa (thuyết Bách Việt), 2. văn hóa Việt Nam mang nặng ảng hưởng Trung Hoa. Các sử gia Việt Nam đời trước viết rằng: … Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam đến Ngũ Lĩnh, lấy con gái Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục… Sau Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng hiệu là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm Tuất (2879 TCN) và lấy con gái Đông Đình Quân là Long Nữ, đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai (Đế Lai là con Đế Nghi) tên là Âu Cơ đẻ ra được một bọc nở ra trăm người con trai. Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: “Ta là dòng dõi Long Quân, nhà người là dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được; nay ta được trăm đứa con thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi còn 50 đứa ta đem xuống bể Nam Hải”. Lạc Long Quân phong cho người con trưởng sang làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương… Trần Trọng Kim viết thêm rằng: … Có lẽ là từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỷ chia ra những nước gọi là Bách Việt. Bởi vậy ngày nay đất Hồ Quảng (tỉnh Hồ Nam, tỉnh Quảng Đông và tỉnh Quảng Tây) còn xưng là đất Bách Việt. Đấy là một điều nói phỏng, chứ không lấy gì làm đích xác được. Ở trang kế tiếp, Trần Trọng Kim viết tiếp: … Xem thế thì đủ biết truyện đời Hồng Bàng không chắc là chuyện có thực. Quả vậy, đây không phải là câu chuyện kể lại một sự kiện lịch sử, mà là một truyền thuyết có tính cách triết lý. Cũng giống như người Nhật Bản khi họ truyền dạy nhau câu chuyện Thái dương Thần nữ, họ không thể nào tin một cách khoa học rằng nữ thần mặt trời đã sinh ra dân tộc họ; Ông cha chúng ta khi tạo ra truyền thuyết này, đã không chú trọng vào tích cách xác thực khoa học của nó, mà muốn truyền cho chúng ta một khái niệm triết lý trừu tượng nhằm khơi động tinh thần dân tộc tự chủ của chúng ta sau này. Khi nhắc lại truyền thuyết này, Trần Trọng Kim tỏ rõ ý nghi ngờ về tính cách xác thực của nó. Nhưng tiếc thay, những chi tiết phụ trong truyện đã được người đời nay chú trọng quá đáng mà làm lu mờ ý nghĩa đích thực của truyền thuyết vẻ vang này. Nói như thế không phải là phủ nhận truyền thuyết này, mà ngược lại, chính là để nhấn mạnh ý nghĩa cao sâu của nó, để nhận rõ, để duy trì tinh thần dân tộc Việt Nam, để hãnh diện với nguồn gốc độc lập và cá biệt của nòi Việt. Về phương diện triết lý, điều chính yếu chúng ta phải ghi nhận từ truyền thuyết “Con rồng, cháu tiên” là: * Dân tộc ta là một dân tộc độc lập. Đế Nghi giữ đất phương bắc, Lạc Long Quân giữ đất phương nam. Văn hóa ta không phải là văn hóa Tàu nối dài. * Chúng ta thuộc về một dòng giống oai hùng, linh thiêng (con cháu của Rồng và Tiên). Với các nhà nho Việt thuở xưa, những gì liên hệ tới lời nói, hành vi, quê hương của Khổng Tử đều có tính cách cao quý. Họ cho rằng để làm tăng thêm phần cao cả, chính thống, họ phải nói rằng chúng ta bắt nguồn đâu đó từ những thời, từ những người mà Khổng Tử ca ngợi (Tam hoàng Ngũ đế). Vì thế Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Minh, Đế Nghi được đưa vào truyền thuyết này. Ngày nay, ta phải thấy rằng truyền thuyết này là một trong nhiều phương cách ông cha ta đã dùng để truyền dạy tính cách cao cả, khác biệt và độc lập của nguồn gốc, của văn hóa Việt Nam, để giữ vững tinh thần dân tộc Việt Nam, và nhờ đó ông cha ta đã thành công, đã giành lại, đã giữ vững quyền tự chủ. “Bụt chùa nhà chúng ta đã rất linh thiêng và còn mãi mãi rất linh thiêng”. Ông Nguyễn Khắc Ngữ, trong bộ sách Mỹ thuật cổ truyền Việt Nam, nhấn mạnh rằng thuyết bách Việt không chính xác, vì theo thuyết Bách Việt thì các nước Việt (Đông Việt, Mân Việt, Điền Việt, Nam Việt…) chỉ có sau khi nước Việt của Câu Tiễn bị nước Sở thôn tính, người Việt chạy xuống phương nam, lập thành nhiều bộ lạc người Việt, tức là từ thế kỷ thứ 6 về sau. Ông cha ta đã sinh sống, đã phát triển văn hóa ở vùng Bắc Việt từ rất nhiều ngàn năm trước đó rồi. Về phương diện nhân chủng, người Trung Hoa thuộc giống Mongoloid từ tây bắc châu Á đi xuống. Chúng ta thuộc giống Malayo-Polynesien, Malanesiens và Indonesiens, nghĩa là thuộc các sắc dân từ các hải đảo phía nam Thái Bình Dương đi lên, từ nhiều ngàn năm trước Thiên chúa giáng sinh. Ông Bình Nguyên Lộc đã dày công nghiên cứu về nguồn gốc dân tộc qua khoa ngôn ngữ học cũng đã chứng minh rằng tổ tiên chúng ta từ phương nam đi lên, chứ không phải từ phương bắc đi xuống. Nhìn vào bản đồ, ta thấy nước Tàu thời cổ đại chỉ quanh quẩn ở vùng núi rừng phía tây bắc, mà từ đó đi về lãnh thổ của các Hùng Vương xa vô cùng (15 Bộ của Hùng Vương nằm trọn trong vùng Bắc Việt và Bắc trung Việt bây giờ). Sử Tàu cũng chép những điều ngược với truyền thuyết “chạy về phương nam” của người Việt. Trong Thông chí, Trịnh Tiều viết: Năm Mậu Thân thứ năm đời Đường Nghiêu, sứ giả Việt Thường qua hai lần sứ dịch sang dâng con rùa thần; có lẽ nó được đến hơn nghìn năm, mình nó dài ba thước, trên lưng có dấu khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang về sau, vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch. Trong Sử ký, Tư Mã Thiên cũng viết: Năm Tân Mão (1109 TCN) đời vua Chu Thành Vương, sứ giả nước Việt Thường sang cống chim bạch trĩ, phải qua ba lần thông ngôn, rồi dùng xe chỉ nam để về nước. Như vậy đây là hai dân tộc, hai nước biệt lập, cách xa nhau và có rất ít trao đổi văn hóa, chính trị, nhân chủng. Phải qua hai, ba lần thông dịch mới hiểu được nhau, thì làm sao mà văn hóa Tàu ảnh hưởng vào văn hóa ta được. Lại nữa, nếu câu chuyện sứ giả Việt Thường dâng cho vua Nghiêu con rùa thần với dấu khoa đẩu trên lưng (mà vua Nghiêu dùng làm căn bản cho lịch pháp) là có thật, thì văn hóa truyền từ phương nam lên phương bắc hay truyền từ phương bắc xuống phương nam? Chúng ta vẫn chỉ nhớ các bài Việt sử dạy theo tài liệu thiếu sót trước đây, mà không chú ý gì đến những kết quả nghiên cứu nghiêm chỉnh của các nhà khảo cổ và nhân chủng hiện thời. Trong số này có những người như nhà nhân chủng học Mỹ, TS. Paul K Benedict. Sau khi phân tích nguồn gốc nguyên thủy của một số tiếng dùng trong ngôn ngữ của các dân tộc thuộc vùng Đông Nam Á, ông đã nói rằng những tiếng mà trước đây người ta lầm tưởng là dân Đông Nam Á mượn của tiếng Tàu, thì thật ra người Tàu mượn những tiếng đó từ ngôn ngữ của dân vùng Đông Nam Á. Ông còn nói thêm rằng đã có nhiều trao đổi văn hóa giữa Trung Hoa và vùng Đông Nam Á, trong những trao đổi này, Trung Hoa chịu ảnh hưởng chứ không cho ảnh hưởng vào nền văn hóa ở vùng Đông Nam Á này (“with Chinese as the recipients rather than the donors”). TS. Wilhelm G. Solheim II, giáo sư nhân chủng học tại University of Hawaii, đã viết rằng: … trước đây người ta cho rằng văn hóa truyền từ tây qua đông và từ bắc xuống nam. Trước đây người ta cho rằng văn minh nhân loại bắt nguồn từ vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia) và Ai Cập, rồi sau đó là Hy Lạp và La Mã. Văn minh lần hồi truyền qua Ấn Độ và Trung Hoa, Đông Nam Á là vùng thụ nhận sau cùng. Người Âu châu thấy văn minh Trung Hoa và Ấn Độ đã tiến cao, khi gặp những tương tự về kiến trúc, trong đời sống trưởng giả ở vùng Đông Nam Á, họ lập tức cho rằng vùng này học theo Ấn Độ và Trung Hoa. Vì thế họ còn đặt tên vùng này là Indochina. Ông Carl Sauer, cũng cho rằng canh nông bắt nguồn trên thế giới trước nhất là ở Đông Nam Á, từ nền văn hóa Hòa Bình. (Dấu vết của văn hóa Hòa Bình không chỉ giới hạn ở Bắc Việt Nam bây giờ, mà còn ở toàn Việt Nam và chạy dài qua vùng Thái Lan, hiện nay). Năm 1968, ông Donn Bayard tìm thấy ở Non-Nok-Tha một mảnh đồ gốm có dấu hột lúa. Khi dùng carbon-14 để định tuổi, người ta thấy mảnh đồ gốm này cổ hơn năm nghìn năm (vào khoảng 3.500 năm TCN). Đây là dấu tích cho thấy lúa gạo ở Đông Nam Á đã có trước Trung Hoa cả một ngàn năm. Khi dùng carbon-14 để định tuổi chất than gỗ trên các dụng cụ bằng đồng ở nơi này, họ thấy các vật bằng đồng này đã được đúc vào khoảng trước 3000 năm TCN. Ông Whilhelm Solheim đã kết luận rằng kỹ thuật đúc đồng bằng khuôn đôi (double molds) đã có ở Đông Nam Á hơn năm ngàn năm rồi, trước Trung Hoa một ngàn năm. Vì di tích đó cổ như thế, ông kết luận rằng: Kỹ thuật đúc đồng phát xuất từ Đông Nam Á chứ không phải từ vùng Cận Đông như trước đây lầm tưởng. Ông Chester Gorman tìm thấy nhiều mảnh thực vật đã hóa than trong đó có vài hột đậu, một củ mã thầy, một quả ớt, vài miếng bầu và dưa leo, bên cạnh những đồ dùng bằng đá của văn hóa Hòa Bình. Nơi đây ông Gorman cũng còn thấy những mảnh xương xúc vật đã được cắt thành miếng nhỏ nhưng không có vết cháy, đây là điều chứng tỏ thịt được cắt ra và nấu chín chứ không nướng trên lửa. Thử carbon-14, những vật tích này có tuổi từ 6000 cho tới 9.700 năm TCN. Thêm vào đó, dưới các lớp đất sâu hơn còn có những vật cổ hơn như thế. Cũng tìm thấy ở chỗ khai quật này là các đồ gốm với dấu dây in, với nét vẽ bằng mũi nhọn, những dao đá và dụng cụ đá, tất cả đều thuộc văn hóa Hòa Bình. Ngày nay những vật tích (dụng cụ và dấu rau cỏ canh nông) của văn hóa Hòa Bình vẫn còn tiếp tục được tìm thấy ở đây. Những vật tích với nét đặc biệt của văn hóa Hòa Bình (đồ gốm trang trí bằng dấu dây in và hình vẽ băng mũi nhọn) còn được tìm thấy ở Đài Loan, xa nhất về phía tây, dấu vết này còn được thấy ở hang Padah-lin phía đông Miến Điện. Wilhelm Solheim kết luận rằng đồ đá của văn hóa Hòa Bình đã có từ 20.000 năm TCN và canh nông xuất hiện ở vùng này vào khoảng 15.000 năm TCN. Đồ gốm từ trước 10.000 năm TCN. Thuyền độc mộc được chế ra ở Đông Nam Á vào khoảng 4.000 năm TCN tới 5.000 năm TCN đã đưa dân Đông Nam Á đến vùng Đài Loan và Nhật Bản. Rồi vào khoảng hai nghìn năm trước đây, người vùng Đông Nam Á còn di chuyển xa về phía tây, lập nghiệp ở Madagasca và mang nhiều giống cây canh nông vào đông bộ Phi Châu, cũng trong khoảng thời gian này đã có nhiều trao đổi thương mại giữa Việt Nam và vùng Địa Trung Hải. Những di tích khảo cổ học này, cho thấy ở vùng Bắc Việt bây giờ đã có một nền văn minh cao và khác hẳn văn minh Trung Hoa từ hơn mười nghìn năm trước. Những người sống ở nơi này vào thời đó chắc chắn không phải là con cháu Đế Minh bởi vì lúc ấy chưa có Đế Minh (theo sử Tàu thì thời Phục Hy vào khoảng 4480 - 4365 TCN. Thần Nông vào khoảng 3220 - 3080 TCN) Nhà sử học Nguyễn Khắc Ngữ đã chia các thời kỳ văn hóa tiền sử Việt Nam như sau: 1. Cựu thạch: với các di tích ở Núi Đọ, Sơn Vi, Hoà Bình I, Bắc Sơn, đã có cách nay 300.000 năm 2. Trung thạch: với các di tích cụ thể ở Hòa Bình II, đã có cách nay 10.000 năm 3. Tân thạch: với các di tích ở Bắc Sơn II, Bàu Tró, Hạ Long đã có cách nay khoảng 5.000 năm 4. Kim loại: với các di tích ở Phùng Nguyên, Đông Sơn, đã có cách nay khoảng 4.000 năm Ngôn ngữ hai dân tộc Việt, Hoa hoàn toàn khác nhau. Ở bên Tàu, người tỉnh này không thể nói chuyện với người tỉnh khác được, vì tiếng nói mỗi nơi mỗi khác. Tuy nhiên đó chỉ là sự khác biệt về cách phát âm, tiếng Tàu ở nơi nào cũng có chung cấu trúc, cho nên họ vẫn hiểu nhau qua chữ viết (bút đàm). Ví dụ: những bài ca, những chuyện cổ của người Quảng Đông khi viết ra giấy thì người Phúc Kiến vẫn hiểu như thường, đem đọc lên bằng giọng Phúc Kiến, thì dẫu người nghe có không biết chữ vẫn hiểu rõ ràng như nghe những chuyện cổ vùng họ. Họ không cần chuyển dịch gì cả. Nhưng tiếng Việt của chúng ta hoàn toàn khác tiếng Tàu. Để hiểu nhau, nói hay viết, ta và họ phải dùng thông ngôn, phải chuyển dịch. Bởi vì đây là hai ngôn ngữ khác nhau, của hai giống người khác nhau (cũng như tiếng Anh khác hẳn tiếng Pháp…). Cấu trúc của tiếng Việt ngược hẳn với tiếng Tàu. Họ nói “bạch vân” (tĩnh tự đi trước danh tự) ta nói “mây trắng” (tĩnh tự đi sau danh tự). Ta có mượn nhiều từ ngữ của họ, nhưng lại đem dùng theo cách riêng của ta, mà nhiều khi biến đổi hẳn ý nghĩa của những chữ ấy (ví dụ như khi dùng chữ “tử tế” ta hàm ý “tốt bụng” nhưng chữ “tử tế” của tiếng Tàu lại có nghĩa “kỹ lưỡng”...). Để ghi chép, người Tàu ở nơi nào cũng dùng chữ Hán được. Nhưng chúng ta không thể làm như thế được, ta đã phải mượn chữ Hán để chế ra chữ Nôm mà dùng, và người Tàu lại hoàn toàn không đọc được, không hiểu được chữ Nôm. (Gần đây số lượng chữ Hán du nhập vào tiếng Việt càng nhiều hơn vì hai yếu tố: 1. khi soạn bộ Danh từ kỹ thuật ông Hoàng Xuân Hãn đã gần như dịch trọn một quyển tự điển kỹ thuật của người Tàu, 2. chính quyền Việt Nam ở Hà Nội ưa dùng chữ của cơ cấu hành chánh, kinh tế của người Tàu, mà bỏ đi những chữ vốn có từ trước, ví dụ trước nói “ghi tên”, thì nay nói “đăng ký”, trước nói “trở ngại kỹ thuật” thì nay là “sự cố kỹ thuật”, trước nói “sổ gia đình” thì nay là “sổ hộ khẩu”) Thêm vào đó, những tên người, tên đất mà chúng ta biết về lịch sử Việt thời thượng cổ cũng không chắc gì là đúng. Thời ấy chúng ta đã có tiếng nói riêng, có văn hóa riêng, thì không có cớ gì chúng ta tự gọi là Lạc Long Quân, là Âu Cơ, là Xích Quỷ, là Văn Lang, là Việt Thường, là Hùng Vương… bởi vì đây là những chữ Hán Việt. Chẳng qua là vì chúng ta không có những quyển sử viết bởi ông cha mình từ thời đó, và cũng đã mất cả chữ viết riêng của mình, nên đành phải dùng những tên người tên đất theo sách vở Trung Hoa, mà người Trung Hoa vì không nói được tiếng ta, không chép được tiếng ta, nên khi thì họ phiên âm, khi thì họ dịch nghĩa những tên ấy và ngày nay ta đành chỉ biết thế mà thôi. Trong quyển Lịch sử âm nhạc Việt Nam - từ thời Hùng Vương đến thời Lý Nam Đế, Lê Mạnh Thát đã dẫn ra những sử liệu hùng hồn chứng minh rằng nguồn gốc dân tộc ta vốn từ phương nam tràn lên, và văn hóa Việt Nam cổ thời đã ảnh hưởng sâu đậm vào văn hóa Trung Hoa. Lê Mạnh Thát đã dẫn Hậu Hán thư của Phạm Việp về việc Mã Viện tịch thu trống đồng của Việt Nam để đúc ngựa dâng vua nhà Hán rằng: Viện ưa cưỡi ngựa, nên ở Giao Chỉ được trống đồng Lạc Việt bèn đúc ngựa phép, trở về dâng lên vua…. Địa lý chí của Tuỳ Thư, chép rằng: Giao Chỉ là một nơi đô hội… (người Giao Chỉ) hết sức cấy cày, khắc gỗ làm phù thế. Lời đã thề thì đến chết không đổi. Cha con làm nghề khác nhau. Cha nghèo thì sống nhờ những người con. Chúng đều đúc trống đồng lớn. Sau này, đến năm 981, Lý Phưởng cũng viết: Đại Chu chính nhạc nói rằng: trống đồng đúc bằng đồng, trống một mặt để trống, một mặt bịt mà đánh lên. Những thứ của An Nam, Phù Nam, Thiên Trúc đều như vậy cả…. Lý thú nhất là việc Lê Mạnh Thát giải mã bài Việt ca ghi lại trong Thuyết uyển. Lưu Hướng viết bộ sách này vào khoảng năm 16 TCN, kể chuyện Trang Tân kể chuyện Ngạc Quân Tử Tích (sống vào thế kỷ 6 TCN) nghe người Việt ôm chèo hát bài Việt ca. Khi nghe, Ngạc Quân Tử Tích nói không hiểu bài ca bằng tiếng Việt nên gọi người Việt tới giải nghĩa. Lưu Hướng chép lại lời phiên âm bài ca giọng Việt và bản dịch bằng tiếng Sở. Từ bản ghi âm giọng Việt, Lê Mạnh Thát đã dùng phương pháp phân tích các từ cổ để ghi lại bài Việt Ca theo giọng nói của chúng ta bây giờ. Ngoài ra Lê Mạnh Thát còn dùng Tiền Hán thư và Sử ký của Tư Mã Thiên để chứng minh rằng văn hóa Việt Nam đã thâm nhập vào văn hóa Trung Hoa đầu tiên qua các thuật bói gà, tín ngưỡng nhà cháy và loại hình âm nhạc như Việt ca… hay sự kiện bộ Việt luật của Hùng Vương được lưu hành rộng rãi tại nước ta mà sau khi đánh hạ Hai Bà Trưng năm 43, Mã Viện đã phải sửa hơn mười việc cho hợp với luật nhà Hán. Những chứng liệu ấy cho thấy rõ ràng là văn hóa thuần tuý của người Việt đã rất cao dưới thời Hùng Vương. Lê Mạnh Thát đã thành công trong việc chứng minh bốn nghìn năm văn hiến của lịch sử Việt Nam. Dân tộc chúng ta, có nguồn gốc xa xưa từ những giống dân ở những hải đảo phía nam biển Thái Bình, chứ không phải từ nam Trung Hoa phương bắc. Nền văn hóa dân gian Việt Nam khác hẳn văn hóa Trung Hoa. Phần ảnh hưởng chỉ là phần kỹ thuật, không phải là phần ý nghĩa, tâm tình, hay cách biểu hiện. Có những yếu tố văn hóa hoàn toàn ngược với văn hóa Trung Hoa. Ở bất cứ nơi nào trên đất Trung Hoa người ta cũng “trọng nam, khinh nữ”, còn ở Việt Nam thì - ngoài giới hạn của những gia đình quan lại, nho học - vai trò của người phụ nữ được tôn trọng, được đề cao, được coi là cột trụ của gia đình, xã hội. Cũng như bất cứ nền văn hóa nào khác của nhân loại, chúng ta thu nhập ảnh hưởng văn hóa từ nhiều nguồn, bên cạnh những ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, ta cũng có những ảnh hưởng Ấn Độ, Tây Phương và văn hóa ta còn mang nhiều dấu vết văn minh Nam Đảo. Xin trích trang 17 của Mỹ thuật cổ truyền Việt Nam của nhà sử học Nguyễn Khắc Ngữ: “Trước đây người ta thường lầm lẫn mà cho rằng nguồn gốc văn minh Việt Nam bắt nguồn từ Trung Quốc mà ra. Sự thực, từ đời Thượng cổ, Việt Nam và Trung Quốc đã có hai sắc thái văn minh khác biệt. Dựa vào các cuộc khảo cổ ở Việt Nam, Thái Lan, Trung Hoa, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, người ta đã chứng minh được rằng: tổ tiên người Đông Nam Á đã biết trồng cây, mài đá làm đồ dùng, làm đồ gốm trước người Trung Hoa, Ấn Độ và cả Cận Đông hàng mấy ngàn năm. Về thuật đúc đồng bằng khuôn đôi, theo một số chuyên gia, vùng này đã có từ 3.000 năm trước kỷ nguyên Tây lịch, nghĩa là trước cả người Trung Hoa và có thể trước cả người Cận Đông. Tất nhiên, sau này, qua các cuộc đô hộ kéo dài hàng ngàn năm, ảnh hưởng của văn minh Trung Quốc không thể tránh được, nhưng nó không thể xóa bỏ hẳn nền văn minh cổ truyền của Việt Nam, mà nó chỉ đóng góp thêm cho nền văn minh Việt Nam càng thêm súc tích mà thôi.” [1] Sự tồn tại và phát triển văn hóa Việt Nam, là một công trình vĩ đại của tiền nhân ta, nhất quyết chống trả với cuộc đồng hóa của người Tàu. Ngoài những cuộc đấu tranh võ lực, đã có biết bao nhiêu cuộc chiến âm thầm nhưng quyết liệt giữa hai dòng văn hóa Trung Hoa và Việt Nam. Ta phải nhận rằng văn hóa Việt Nam đã thắng. Chúng ta đã thắng bởi vì âm mưu đồng hóa chủng tộc của người Tàu đã thất bại. Về thể chất ta vẫn giữ nguyên những yếu tố Việt. Về văn hóa, không những ta đã duy trì, đã phát triển được nền văn hóa cá biệt của mình, mà lại còn thu nhập được cái hay cái đẹp của văn hóa Trung Hoa. Hơn thế nữa, nhiều yếu tố văn hóa Việt Nam lại còn ảnh hưởng vào văn hóa Trung Hoa. Biết được điều này nên vua nhà Minh đã ra lệnh cho quan quân của mình phải tịch thu tất cả những gì có chữ viết mang về Tàu, những gì không mang được như bia đá, kiến trúc… phải đốt cháy, phải đập tan… Số lượng sách vở, kiến trúc bị họ hủy diệt nhiều vô cùng, tuy nhiên cái mà họ không hủy được là những yếu tố văn hóa Việt Nam trong tinh thần, trong đời sống dân gian của ông cha chúng ta. Trong cuộc chiến đấu cam go và dài hàng ngàn năm như thế, ông cha ta đã chứng tỏ văn hóa thuần Việt mạnh vô cùng. Nhìn vào sinh hoạt, phong tục dân gian, nhìn vào ngôn ngữ văn hóa Việt Nam, dù có những ảnh hưởng Trung Hoa nhưng nét thuần Việt vẫn là nét chính, bao quát khắp đời sống Việt. Ta vẽ mình, ăn trầu, nhuộm răng…; người Tàu, cho dù là Tàu ở Hoa Nam cũng không hề có những tập tục ấy. Tổ chức đình làng là một tổ chức không có trong xã hội Trung Hoa. Nguời Tàu mặc áo cài cúc bên trái, ta cài cúc bên phải… Hãy nhìn vào đồ gốm cổ truyền Việt Nam, một nhành văn hóa ít được biết đến, ít được nghiên cứu, ta sẽ thấy tính chất thuần Việt sắc bén, phong phú và mạnh vô cùng. Chính Đạo Phật cũng truyền thẳng từ Ấn Độ vào nước ta trước khi truyền sang Tàu. Từ chữ Buddha chúng ta dã chuyển âm thành tên gọi “Bụt”, trước khi các nhà nho theo kinh điển Trung Hoa mà gọi là “Phật”. Thiền uyển tập anh chép rằng: Năm 1016, quốc sư Thông Biện khi trả lời Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu (mẹ vua Lý Nhân Tông) đã dẫn sách Tục cao tăng: Sư Đàm Thiên (542-607) trả lời vua Tùy Cao Tổ rằng “Một phương Giao Châu, đường thông Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới thì Giang Đông chưa có, mà Luy Lâu (Giao Chỉ) lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ tăng hơn 500 người, dịch kinh 15 quyển, vì nó có trước vậy”. Vào lúc ấy có Khâu Đà La, Ma La Kỳ Vực, Thương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó. Các vị sư Ấn Độ này sống vào thời Sĩ Nhiếp đang làm thái thú Giao Châu (187-226). Như vậy để có chừng đó ngôi chùa và dịch chừng đó kinh thì đạo Phật đã vững vàng lắm ở đất ta, như thế chắc đã phải truyền vào cả trăm năm trước. Ngày nay, thế giới đang sôi nổi trong vận động toàn cầu (globalization). Vì thế vấn đề tìm hiểu, phổ biến và duy trì những nền văn hóa cá biệt của nhân loại càng trở nên khẩn thiết. Vì toàn cầu không có nghĩa là mọi người bỏ quên đi các cá biệt để trở nên giống nhau, để suy nghĩ như nhau, để nói một thứ tiếng mà thôi. Càng chung nhau nhiều chừng nào càng phải duy trì những cái riêng hay đẹp nhiều chừng nấy. Toàn cầu để xoá bỏ cương giới hành chánh, kinh tế, để giao lưu văn hóa, không phải để làm cho tất cả mọi người trên thế giới đồng nhất về mọi mặt, vì toàn cầu chính là “hòa nhi bất đồng”. Các nhà giáo dục và truyền thông Việt Nam, trong bao nhiêu năm qua, đã không chịu tìm hiểu rõ ràng, đã nhắm mắt nhai lại những điều học thuộc lòng mà không suy xét, không nghiên cứu, không đọc thêm các tài liệu, các phát hiện mới, mà cứ dạy nhau những hiểu biết sai lầm, nông cạn về các truyền thuyết cổ và những kiến thức sai lầm tạo ra từ người Tàu và người Pháp vào đầu thế kỷ 20 với những dụng ý chính trị. Khi viết về văn hóa Việt, người Tàu luôn có thái độ rằng Việt Nam là giống “man”, là một phần của Trung Hoa, cần phải được cai trị, giáo hóa (An Nam). Người Pháp khi viết về văn hóa Việt lại dựa trên sách Tàu, chữ Tàu, nên những điều người Tàu viết lại được người Pháp nhắc lại. Người Việt học sách Tàu, sách Pháp với tinh thần nô lệ sách lại truyền bá các điều sai lầm khắp nơi. Trong những lỗi lầm của trí thức Việt Nam, lỗi lầm ấy, lỗi tiếp tục duy trì những ý thức hệ vong bản, những sai lầm sử học đã làm thui chột tinh thần dân tộc, đã duy trì tinh thần nô lệ, vọng ngoại là lỗi lầm lớn nhất, tai hại nhất. Tai hại hơn nữa là ngày nay nó còn tiếp tục được truyền dạy cho giới trẻ, còn tiếp tục làm cơ sở cho những tìm hiểu, nhận định về nguồn gốc dân tộc và văn hóa Việt Nam. Trong buổi bình minh của xã hội toàn cầu, nếu chúng ta không còn ý chí để duy trì và phát triển bản chất dân tộc, thì tương lai nòi Việt sẽ ra sao? Chúng ta sẽ đóng góp gì vào cái xã hội mới này? “Bụt chùa nhà chúng ta linh thiêng vô cùng”, chúng ta phải mau mau sửa chữa lại những hiểu biết thiếu sót và sai lầm về nguồn gốc và về tính cách biệt lập của văn hóa thuần Việt mà gióng chuông ca ngợi mà tự hào về nguồn gốc về nền văn hóa ấy. Ông cha chúng ta đã giành được hoàn toàn quyền tự chủ về chính trị, hành chánh từ suốt thế kỷ thứ 10, vậy thì chúng ta không có cớ gì để trở lại làm nô lệ văn hóa cho người Tàu. Hãy để cho Đế Minh, Đế Nghi, Đế Lai ngủ yên trong sử Tàu. Lạc Long Quân và Âu Cơ là người phương nam chứ không phải là người phương bắc. Chúng ta chính là “Con rồng cháu tiên” với nguồn gốc với nền văn hóa thuần Việt, phong phú, rực rỡ, nhân bản và khác hẳn người Tàu, khác hẳn văn hóa Trung Hoa. Viết tới đây, lòng tôi thêm bồi hồi, nhớ lại bài học thuộc lòng đã học lúc còn nhỏ, sống với gia đình ở phố Hàng Cau, Nam Định vào đầu thập niên 1950, mà đến nay không nhớ được tựa bài và tên tác giả: Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu Trên non sông làng mạc ruộng đồng quê Chúng tôi ngồi yên lặng lắng tai nghe Tiếng thầy giảng khắp trong giờ quốc sử Thầy tôi bảo các em nên nhớ rõ Nước chúng ta là một nước vinh quang Bao anh hùng thuở trước của giang san Đã đổ máu vì lợi quyền dân tộc Các em phải đêm ngày chăm chỉ học Để sau này nối được chí tiền nhân Ta chắc rằng sau một cuộc xoay vần Dân nước Việt lại là dân hùng liệt Vâng, văn hóa thuần Việt sẽ chói ngời, và sau một cuộc xoay vần mới, dân nước Việt sẽ lại là dân hùng liệt như thời Lý, thời Trần thuở trước. © 2006 talawas [1]Trong nguyên bản, tác giả Nguyễn Khắc Ngữ dùng cách viết có gạch nối giữa những từ như văn-minh, đô-hộ, khảo-cổ, Trung-Quốc… (chú thích của talawas)
-
Tác giả: Hội nghiên cứu đĩa bay Đài Loan - Hà Hiển Vinh (He Xian Rong) Trong quyển "Nhã Đường Văn Tập","Đài Loan Du Kí" có viết như sau: "Chư sơn danh thắng, giai khoa đẩu bi văn, mạc khả biện thức". Câu nói này có nghĩa là: tất cả những ngọn núi có cảnh đẹp đều có những văn bia ghi bằng chữ Khoa Đẩu, không một ai là không biết đến nó cả. Vậy Khoa Đẩu có phải là những chữ đại triện trước cả những cổ tự ghi chép trong sách xưa không? Phải chăng từ thời Tam Đại đã có người Hoa đến̉ Đài Loan. Vậy những người dân bản địa của Đài Loan có chữ viết riêng không? Căn cứ vào những quan điểm của các nhà sử học, khảo cổ học, ngôn ngữ học hầu như phủ định luận điểm này. Trong những năm thập niên 1970, một học giả nghiên cứu văn hóa nổi tiếng của Đài Loan, ông Vệ Tụ Hiền (Wei Ju Xian) chuyên nghiên cứu về văn hóa cổ của Đài Loan, tác phẩm "Mối liên hệ giữa thổ dân Đài Loan và người Mân Việt","Khảo cổ học hang dơi và thổ dân Đài Loan" và một số quyển sách khác. Trong những quyển sách của ông đã thu thập được, có nhiều chữ tượng hình và chữ Khoa Đẩu, những kí tự đó được miêu tả như sau: Những kí tự ghi chép̣̣ ở Đài Loan gần như là những chữ tượng hình Thứ nhất, những hình vẽ của người dân tộc Bố Nông (Bunun) Trong quyển "Đài Loan phong thổ chí" có sưu tập được những hình vẽ của 2 loại tiêu bản ̉̃giống như hình vẽ từ thủ lĩnh bộ lạc Kanetovan và Tarom Magulapa. Căn cứ vào trí nhớ của các bô lão thì nó như một dạng lịch, được khắc trên những tấm gô cây bách̃, dài 3 thước, rộng bốn tấc. Những hình kí tự này được khắc thẳng hàng, những hình vẽ này được khắc và sau đó đổ mực vào. Những hình khắc được miêu tả như sau: *Những hình vẽ của tộc Bố Nông (Bunun): Mỗi một hình khắc hình tam giác ▲ được biểu thị là một ngày, q biểu thị là bình nấu rượu, 口 biểu thị kiêng kị không được chặt củi, biểu thị cái sọt mang sau lưng đựng đầy những là khoai môn, biểu thị cái sọt mang sau lưng chứa thóc, ︵ biểu thị đi săn bắn, biểu thị cái xẻng, có ý nghĩa là dùng xẻng để khai khẩn và canh tác, biểu thị canh tác ruộng lúa, 丁 biểu thị cho số sọt thóc Biểu thị chơi bóng Biểu thị trong nước có cỏ huyên Biểu thị một cuộc săn bắn hươu đực Biểu thị con heo Biểu thị hạn hán Những điều này cho thấy rằng, những ghi chép cổ xưa này thực sự đã đạt đến một trình độ văn minh nhất định. Thứ hai đó là chữ tượng hình của người Bài Loan(Paiwan). Ngoài tiêu bản thứ nhất thì chúng ta còn tìm thấý những một bản khắc gỗ chữ tượng hình của người dân tộc Bài Loan (Tsyakvukvan) tại nhà của một tộc trưởng, bản gỗ dài năm thước, độ rộng khoảng bốn năm tấc, có khoảng 50 hình khắc đa số là người và động vật, hầu hết đa số các hình vẽ đều lặp lại. Sau khi phân loại, chỉ có 14 hình khắc là khác nhau *Những hình vẽ của tộc Bài Loan Hình 1: Người thổ dân mặc quần áo đẹp, tay cầm thương, đầu đeo trang sức Hình 2: Một đứa bé đang cưỡi hươu Hình 3: Người thổ dân ăn mặc đẹp, tay phải cầm dao Hình 4: Người thổ dân đứng thẳng tay cầm một cái lông chim Hình 5: Người thổ dân bắt được kẻ thù và chặt đầu. Hình 6: Người thổ dân mặc áo lông chim, tay cầm thương đưa ngang vai Hình 7: Người thổ dân đeo trang sức Hình 8: Người thổ dân hai tay cầm 2 đầu kẻ thù Hình 9: Tay trái người thổ dân cầm một cây gậy gỗ Hình 10: Con hươu mẹ Hình 11: Con hươu con Hình 12: Con nghé Hình 13: Trẻ em đeo trang sức Hình 14: Con rắn Những hình vẽ này người dân tộc coi rằng đó là những hình thiêng liêng, ca ngợi lịch sử tổ tiên của họ nhưng họ không thể cho biết được nó có từ bao giờ. Những hình vẽ này tuy đã miêu tả được một số thứ nhưng chúng vẫn còn rất đơn giản và sơ khai. Những hình vẽ này có ý nghĩa tượng trưng rất lớn, chúng thường được vẽ trên một dòng và cùng đồ hình. Thứ 3, đó là những hình xăm tượng hình của người Bài Loan. Tại trường đại học Đài Loan, chuyên nghành Khảo cổ học và nhân chủng học, nghiên cứu về những tập tục của thổ dân Đài Loan, đã có những nghiên cứu về tập tục xăm mình của người dân tộc Đài Loan, họ đã liệt kê những hình minh họa những hình xăm quan trọng nhất của người Bài Loan. Những hình xăm của người Bài Loan lại không có trên những bản gỗ ghi chép, vì vậy họ không thể hiểu được ý nghĩa của các hình xăm đó, nhưng đó là một tục lệ xăm người của người Bài Loan. Nhưng mỗi hình xăm lại mang một ý nghĩa tượng hình, những hình xăm đó như sau: *Mẫu hình xăm của người Bài Loan Hơn nữa trong vùng phía Đông Nam Thái Bình Dương, châu Mỹ, Chile, trong quần đảo Polynesian, phía đông đảo Phục Sinh là vùng có nhiều ngôn ngữ Austronesian. Những quần đảo này có một khoảng cách địa lý bằng nửa vòng Trái đất với Đài Loan và Ấn Độ này lại có tàn tích của chữ tượng hình "lunge lunge (Lungo Lungo) "(cột E), giống với những cổ tự của Ấn Độ(cột I). Khi so sánh, chúng tôi thấy rằng những kí tự cổ ở đảo Lungo Lungo có ý nghĩa sát với ý với ban đầu mà người vẽ muốn truyền tải, trong khi những kí tự của Ấn Độ thì tiến hóa thành những chữ tượng hình. Cho đến nay thì 2 loại kí tự trên vẫn có những kí tự không thể giải mã được, tuy nhiên hai loại kí tự này vẫn có nhiều điểm tương đồng. Nếu cho rằng những văn tự ở đảo Lungo Lungo và văn tự cổ Ấn Độ là một thì điều đó hoàn toàn không thể đúng trên mặt lý thuyết. Nền văn minh̉ Ấn độ lại thuộc vào một trong 4 nền văn minh lớn nhất nhân loại, những văn tự cổ đã tồn tại hơn 4000 năm, thậm chí có thể nhiều hơn nữa. Trong khi đó độ tuổi tồn tại của những văn bản trên đảo Lungo Lungo mới chỉ là một vài trăm năm trước, trước khi những kí tự này dần biến mất. Hai thứ chữ cổ ở đảo Lungo Lungo, Ấn Độ và Đài Loan, tộc Bài Loan có phần giống nhau. Theo những nhà nghiên cứu về ngôn ngữ Trung Quốc, nhiều học giả đã có đồng quan điểm, sau khi xem xét hệ thống 48 kí tự trên , đã có một kết luận ban đầu cho thấy rằng̣ rằng có sự liên hệ giữa hai hệ thống văn bản này. Do đó một số học giả đã nghĩ rằng giữa hai vùng đất này đã có sự thông thương qua đường biển. Qua nghiên cứu, những nhà học giả còn cho biết trong DNA di truyền của người Polynesia có kết quả di truyền DNA của người Đài Loan. Một tổng kết sơ bộ cho thấy những văn bản cổ xưa của Ấn Độ, đảo Lungo Lungo thuộc quần đảo Polynesian giống với những văn bản của Đài Loan. *Chữ Khoa Đẩu của thổ dân Đài Loan "Tùy thư lưu cầu truyện" ghi rằng " phụ nhân dĩ mặc kình thủ , vi trùng xà chi văn" Trong Thượng Thư( Kinh Thư) có ghi rằng: "đắc tiên nhân sở tàng cổ văn ngu hạ chu chi thư cập luận ngữ hiếu kinh , giai khoa đẩu văn tự" Câu này ý nói có được những cổ văn của các thời Ngu, Hạ, Chu như luận ngữ hiếu kinh, được ghi chép bằng chữ khoa đẩu. Trong"Hậu Hán thư, Lô thực truyện" có nói đến "cổ văn khoa đẩu" Yan Shigu ghi rằng: cổ văn, vị khổng tử bích trung thư dã . Hình tự khoa đẩu , nhân dĩ vi danh ." Câu này có nghĩa rằng trong bức tường nhà của đức Khổng Tử, có sách ghi bằng chữ Khoa Đẩu, Khổng Tử đã đọc được sách đó, sau này mọi người cho là đức Khổng Tử là tác giả của những sách đó, vì thế đức Khổng Tử được mọi người tôn thờ. Yan Shigu (581–645) là một nhà văn, ngôn ngữ học rất nổi tiếng thời nhà Đường. Ông đã viết chú thích cho một số những tác phẩm kinh điển như Hán Thư, Sử Ký Tư Mã Thiên. "Tấn thư, Vệ hằng truyện" có ghi rằng:"Hán đế thời , lỗ cung vương hoại khổng tử trạch , đắc thượng thư , xuân thu , luận ngữ , hiếu kinh , Thời nhân bất tri phục hữu cổ văn , vị chi khoa đẩu văn" Câu này có ý: vào thời vua Hán, nếu Lỗ Công không cho phép Khổng An Quốc- cháu đời thứ 12 của đức Khổng Tử sửa nhà và̀ phát hiện ra thượng thư (kinh thư), biên niên sử xuân thu, luận ngữ, hiếu kinh thì người đời cũng không bao giờ biết là có thứ văn tự như vậy. Đó chính là Khoa Đẩu văn. Giải thích: khoa đẩu , trùng danh , hà minh tự đều có hình dạng giống nhau " Trùng thư ", " trùng xà văn " , " khoa đẩu văn " tất cả đều cùng là văn tự của thời Hạ Thương, Chu, và tất cả đều gọi chung là Khoa Đẩu văn. Thứ nhất, tìm thấy những văn tự Khoa Đẩu tại tỉnh Đài Đông Tại Đài Bắc, huyện Vĩnh Hòa, có một người đàn ông tên là Lâm Đăng Thái đã sưu tập được rất nhiều bản khắc gỗ của người người dân tộc sống ở vùng Đài Đông. Ông sinh ra và lớn lên ở Đài Đông nhưng sau đó thì ông chuyển qua sống tại Đài Bắc. Tại đây ông xây một gian nhà tranh và một khu vườn nhỏ. Bên trong nhà của ông treo rất nhiều những bản khắc gỗ, trong đó có 4 tấm gỗ được chạm khắc, tổng cộng lại là 15 kí tự. Phía trên bề mặt bản khắc là những "xà tự". Tộc người Bài Loan rất sùng bái con rắn, nên đã sử dụng hình tượng con rắn đưa vào trong văn tự. Nhưng vì chữ xà 蛇 và chữ khoa đẩu 蝌蚪 đều có bộ trùng 虫 nên chúng gần giống nhau, nên vì thế đều được gọi chung là Khoa Đẩu văn tự. Ông Lâm Đăng Thái đã đồng ý cho giáo sư Wei Ju Xian chụp những bức ảnh về Khoa Đẩu tự, những bức ảnh đó như sau: *Những nét trạm lồi trên những bản khắc của tộc Bài Loan Thứ hai, những kí tự Khoa Đẩu tại hồ Nhật Nguyệt Hồ Nhật Nguyệt là một trong 15 thắng cảnh du lịch đẹp nhất ở Đài Loan, Hồ Nhật Nguyệt thuộc huyện Nam Đầu, là hồ nước ngọt lớn nhất đảo Đài Loan, diện tích mặt hồ rộng hơn 900 ha, chu vi 33 km, giữa hồ có đảo La Lu, nửa hồ phía bắc có hình giống mặt trời, nửa hồ phía nam có hình giống mặt trăng, nên hồ được đặt tên là hồ Nhật Nguyệt. Ngày mùng 1, tháng 9, năm 1959 ông Hoắc Bồi Hoa (Huo Pei Hua) là một người dân sống tại thị trấn Vĩnh Hòa và một số người bạn đang ngắm cảnh tại hồ Nhật Nguyệt thì phát hiện thấy một số phiến đá nằm bên cạnh một túp lều tranh. Sau khi được hỏi han và trả một số tiền lớn, ông Hoắc Bồi Hoa đã mua cả hai phiến đá về nhà mình. Vào khoảng năm 1966, những người thổ dân miền núi đưa một số phiến đá có khắc những đường ngoằn ngoèo cho cửa hàng bán đồ lưu niệm Đài Loan ở hồ Nhật Nguyệt để bán, nhưng không có ai quan tâm đến những phiến đá này, về sau những người thổ dân đã lấy lại những phiến đá này, từ đó những phiến đá này cũng mất tung tích. *Những chữ viết Khoa Đẩu ở hồ Nhật Nguyệt Hai phiến đá khắc chữ Khoa Đẩu mà ông Hoắc Bối Hoa cất giữ, được khắc bằng những nét lõm. Mặc dù đã trải qua nhiều lần nghiên cứu, nhưng những kí tự này vẫn chưa thể giải mã được, đương nhiên là chúng ta không thể hiểu được ý nghĩa của chúng là gì. Sau đó trong cuốn sách "Mối liên hệ giữa thổ dân Đài Loan và người Mân Việt" của giáo sư Vệ Tụ Hiền (Wei Ju Xian), quyển thứ nhất, trong một tác phẩm điêu khắc có khắc chữ Khoa Đẩu như là một đồ hình. Ở Trung Quốc, tại núi Hành Sơn (thuộc một trong ngũ nhạc danh sơn, ở Hồ Nam) có một tấm bia gọi là Vũ Vương thạch bia (hình dưới đây), người ta tìm thấy trên đỉnh Cẩu Lũ những văn tự cũng gần giống như chữ Khoa Đẩu tìm thấy ở hồ Nhật Nguyệt. Tấm bia Vũ Vương ở Hành Sơn đã tồn tại khoảng 4200 năm trong lịch sử. Những dòng chữ này là những dòng chữ duy nhất xuất hiện ở Hành Sơn. Bởi vi đỈnh Cẩu Lũ là đỉnh cao nhất trong các ngọn núi ở núi Hành Sơn, nên người ta gọi những văn tự này là Cấu văn. * Tấm bia Vũ Vương ở Hành Sơn. Thứ ba, những chữ rất cổ ở đảo Hòa Bình Tại đảo Hòa Bình đã khai quật được những tấm bia đá rất cổ. Những phiến đá này đang được bảo quản tại viện bảo tàng ở Tokyo, Nhật Bản. Những cổ văn ghi trên những phiến đá này thuộc dạng như những chữ khoa đẩu, niên đại của những tấm bia đá này được xác định tương đương với tấm bia Vũ Vương ở Hành Sơn, khoảng 5000 năm trước. Qua những nghiên cứu trên, chúng ta thấy rằng lịch sử văn hóa của Đài Loan cũng có thể rơi vào khoảng 6000 đến 12000 năm. Căn cứ vào quá trình tiến hóa chữ viết của nhân loại bắt đầu theo thứ tự: xà văn, mã thư, trùng văn, khoa đẩu văn, hà đồ, lạc thư, chữ tượng hình, giáp cốt văn, kim văn đại triện, tiểu triện, lệ thư, giai thư, hành thư đáo thảo thư. Những văn tự khai quật được ở đảo Hòa Bình cũng thuộc vào dạng "trùng" tự, có thể là tiền thân của chữ Khoa Đẩu. Chữ Khoa Đẩu có thể là tiền thân của lối chữ đại triện, so sánh với những văn tự trên tấm bia Vũ Vương thì nó ra đời sớm hơn rất nhiều. *Những phiến đá cổ ở đảo Hòa Bình *Những cổ tự trên tấm bia ở đỉnh núi Giác Thảo. *Văn bia được phát hiện ở thung lũng Gong Liao Xiang Lan Ngoài ra, phía đông bắc con đường cổ lên núi Giác Thảo có "Hổ tự bia", bên cạnh đó còn có những văn tự khác và những hình vẽ. Trên tấm bia này cũng chỉ có rất ít những cổ tự. Cũng ở thung lũng Gong Liao Xiang Lan cũng đã phát hiện ra phiến đá có khắc những kí tự, có niên đại rất lâu, những nét khắc cũng không được rõ ràng lắm, tất cả đều được cho là những̀ di tích của tiền nhân để lại. Kết luận Từ những dữ liệu sơ bộ này, chúng ta có thể thấy rằng người dân bản địá ở Đài Loan đã có chữ viết riêng.Thế nhưng chưa có những nhà học giả như giáo sư Vệ Tụ Hiền (Wei Ju Xian) chú tâm nghiên cứu. Bài nghiên cứu này chỉ dừng tại đây, hi vọng nó sẽ là một nghiên cứu mở màn để các học giả quan tâm hơn và sẽ có những người tiếp tục công trình nghiên cứu này. Chúng ta biết rằng Đài Loan đã có thời kì thuộc về nhà Thanh, vào thời vẫn có những bia cổ và văn tự cổ tồn tại, nhưng kể từ khi người Nhật chiếm đóng̉ Đài Loan thì chúng dần dần biến mất. Chúng ta có thể tưởng tượng rằng, đế quốc Nhật Bản đã có một kế hoạch đồng hóa nền văn hóa của người dân Đài Loan trong thời kì Đài Loan là thuộc địa của Nhật Bản. Đế quốc Nhật đã có ý định xóa sổ hết nền văn hóa của người bản địa bằng cách triệt tiêu hết những văn tự của người dân bản địa. Đương nhiên những tấm bia khắc là những văn vật của nền văn hóa Đài Loan cũng là đối tượng bị tiêu hủy, ví dụ như việc phá hủy những đền miếu thờ Đạo giáo. Từ những tấm bia cổ ở đảo Hòa Bình và những cổ văn quí giá tổng cộng là mười mẫu, hiện nay một số mẫu vật đang được cất giữ tại viện bảo ở Tokyo, Nhật Bản. Chỉ còn sót lại những tấm bia vô cùng quý giá được vô tình được lưu giữ lại. Những văn vật quí giá này nên được các cơ quan có trách nhiệm khuyến khích mọi người tìm lại để quốc gia thu thập và nghiên cứu. Tất cả các văn vật cổ của Đài Loan bị Nhật Bản chiếm giữ nên thu hồi lại, trả về cho Đài Loan nền văn minh cổ của mình càng sớm càng tốt. Bài nghiên cứu trên PhúcTuấn lấy từ nguồn này http://www.ufo.org.tw/study/fk104.htm. Trong bài dịch không thể tránh khỏi sai sót, nếu mọi người có thể đọc được tiếng trung thì có thể vào link trên để đọc. Nếu ai quan tâm đến vấn đề, có trình độ tiếng trung tốt xin dịch lại cho mọi người cùng đọc. Trong bài Phúc Tuấn có chú thích thêm một số thông tin, không ảnh hưởng đến nội dung bài nghiên cứu. Quay lại với bài nghiên cứu, chúng ta hãy xem qua về lịch sử, ngôn ngữ, dân tộc Đài Loan. Những tài liệu này được trích từ cuốn Lịch sử và ngôn ngữ Đài Loan - Oceanic Taiwan: History and Languages của PGS - TS Wi-vun T.Chiung. Tổng diện tích của Đài Loan, bao gồm đảo chính và một số hòn đảo nhỏ là 35.961 km2. Dân số của Đài Loan năm 1995 là khoảng 21 triệu người, gồm bốn nhóm dân tộc thiểu số chính: bộ tộc bản xứ (1,7%); Holo (73,3%); Hakka (12%) và "Người tỉnh khác"(13%). Người Holo, Hakka và "Người tỉnh khác" thường được gọi là người Hán và ngôn ngữ của họ cũng được gọi là ngôn ngữ Hán, khác với các thổ ngữ. Thời kì sơ khai: Theo khám phá khảo cổ học, trước khi người châu Âu khám phá ra người Đài Loan và người Hán di cư sang Đài Loan thì các bộ tộc ở Đài Loan thuộc họ ngôn ngữ Austronesian - Formosan đã sinh sống ở đó hơn 50 ngàn nă ( ví dụ như văn hóa thời tiền sử "Trường Tân" ở phía Đông Nam Đài Loan. Mặc dù vậy, các bộ tộc Đài Loan hiện này chỉ chiếm 1,7 tổng số dân Đài Loan, đa số các bộ tộc sống rải rác trên toàn đảo Đài Loan trước khi người Hán di cư đến, tức là vào khoảng nửa sau thế kỷ XVII. Tuy nhiên, lúc đó các bộ tộc Đài Loan chưa hề thành lập bất cứ một tổ chức chính trị nào để liên kết các bộ tộc trên toàn đảo Chính vì ngày càng có nhiều người Hán di cư đến Đài Loan, các bộ tộc bản xứ sinh sống ở khu vực đồng bằng miền Tây ngày càng có mối quan hệ với người Hán nhiều hơn so với các bộ tộc sinh sống ở miền núi. Do có quá nhiều người Hán di cư đến Đài Loan và cũng do có nhiều người kết hôn với người Hán, cho nên, họ đã bị ảnh hưởng phong tục, văn hóa của người Hán. Một thời gian, ngôn ngữ của họ cũng dần dần bị thay đổi, sự thừa nhận dân tộc trong họ bị phai mờ bởi số lượng rất đông người Hán định cư. Chúng ta có thể liệt kê các bộ tộc chính như sau: Bộ tộc thân thiện với người Hán gọi là Sek-hoan - Bộ tộc đã thoát ra khỏi cuộc sống nguyên thủy sơ khai suốt thời nhà Thanh và sau này gọi là Penn-pou chok - Bộ tộc sinh sống ở đồng bằng Bộ tộc sinh sống ở khu vực miền núi thường có thái độ thù địch với người Hán, gọi là Chhenn-hoan. Ở Đài Loan thường có câu nói "Ông chúng tôi là người Trung Quốc nhưng bà chúng tôi thì không". Điều đó chứng minh rằng, mặc dù chỉ 1,7% dân số Đài Loan là người bản xứ "gốc", nhưng trên thực tế, phần lớn dân cư Đài Loan mang một phần dòng máu bản xứ. Các bộ tộc đồng bằng bao gồm Katagalan, Kavalan, Taokas, Pazeh, Papora, Babuza, Hoanya, Thao, Siraya và Qaugaut. Từ cuối thế kỷ XVII trở đi, những người này dần dần chịu ảnh hưởng rất nhiều từ người Hán nhập cư, hậu quả là họ bắt đầu đánh mất ngôn ngữ và tập quán của chính họ. Các bộ tộc miền núi gồm có Atayal, Saisiyat, Bunun, Tsou, Rukai, Paiwan, Puyuma, Amis và Yami Đến đoạn này chắc bạn đọc có thể nhận ra rằng 2 bộ tộc Bunun và Paiwan là 2 bộ tộc sở hữu những kí hiệu và chữ Khoa Đẩu trong bài nghiên cứu của giáo sư Hà Hiển Vinh. 2 bộ tộc này là những bộ tộc miền núi có thái độ thù địch với những người Hán. Vậy thì chúng ta xem xét lại chữ Khoa đẩu cổ đại có phải xuất phát từ dân tộc Hán hay không? Người bản xứ Đài Loan là chủ nhân của những chữ Khoa Đẩu cổ này. Người Hán tự hào có lịch sử trên dưới 5000 năm, họ nói rằng chữ Khoa Đẩu là chữ viết của họ, chữ Khoa Đẩu là tiền thân của lối chữ đại triện. Vậy mà những bộ lạc thổ dân sơ khai lại sở hữu những chữ viết có niên đại lâu hơn của người Hán. Phần lớn những cổ vật có liên quan đến chữ Khoa Đẩu nằm trong lãnh thổ Trung Quốc bây giờ đều nằm ở phía nam, nơi mà xưa kia thuộc về một nền văn minh huyền vĩ ở Nam Dương Tử và cả ở Đài Loan. Chúng ta có thể nói rằng nguồn gốc của chữ Khoa Đẩu cổ đại không thuộc về nền văn minh Hoa Hán. Các nhà học giả vẫn chưa thống nhất về xuất xứ của người bản đia Đài Loan, có những nghiên cứu cho rằng họ cũng là người dân di cư đến đảo Đài Loan, nhưng vào thời kì cổ đại. Để bổ sung thêm cho luận điểm này mời bạn đọc thêm bài dưới về mối liên hệ giữa người Mân Việt và thổ dân Đài Loan.
-
SỰ THẬT VỀ CON RỒNG VÀ CON PHỤNG Một số người tự xem là có óc khoa học phê-phán giản-dị như sau đây: “Con rồng chỉ là con thú do người Tàu tưởng tượng ra mà thôi, không bao giờ có cả đâu.” Ta muốn cãi lại những người ấy, chắc cũng khó lắm, vì các nhà khảo cổ cứ đào bới mãi mà chẳng bao giờ gặp một bộ xương rồng, mặc dầu họ đã tìm thấy xương của rất nhiều sinh vật cổ một triệu năm. Nhưng nếu ta nhìn kỹ những bộ xương cổ một triệu năm ấy, ta sẽ có cơ sở tin rằng con rồng quả có thật, chỉ phiền là chưa tìm được bộ xương của nó thôi. Có vài con sinh vật tiền sử, có giống con rồng một cách xa xôi: Ðó là con thú giống như con cắc-ké, con Giao-Long, cá hóa rồng trong huyền-thoại và con thủy quái. Hai con thú đầu giống con rồng ở chỗ chúng quá dài như những con rắn khổng lồ, mà lại có chân, chớ không phải là loài bò sát như rắn. Chúng lại vừa ở dưới nước, vừa sống trên bờ. Thì rồng cũng xuống nước được, chớ đâu phải chỉ sống trên mặt đất. Nếu rồng bay được thì hiện nay, một loài sinh vật có thân thể giống như con cắc-ké (Caméléon) tức khá giống rồng, lại có cánh và bay được. Trong nước Việt Nam, hay Trung Hoa không có loại cắc-ké nầy nhưng ở Phi Châu và Nam Mỹ thì có. Tức là loài chạy trên đất, vẫn biết bay, cả đến ngày nay, loài ấy vẫn còn. Sách Tàu thường nói đến con Giao-Long ở Ðộng-Ðình-Hồ (Bài phú Tiền-Xích-Bích của Tô-Ðông-Pha cũng có ám chỉ đến con vật nầy). Hẳn người Tàu đã thấy con Giao-Long và đã huyền-thoại hoá nó mãi cho đến về sau thì nó thành con rồng mà họ vẽ hình. Họ đã thấy, nhưng họ không biết tả rõ. Ở Trung Hoa và ba nước có thọ lãnh văn hóa Tàu là Việt Nam, Nhựt và Triều Tiên đều có huyền-thoại cá vượt Vũ-Môn để hóa thành rồng. Huyền-thoại nầy không hoàn toàn huyền-thoại, mà có phân nửa sự thật trong đó. Và huyền-thoại nầy là huyền-thoại Tàu chắc chắn, bị Việt Nam hóa, Triều hóa và Nhựt hóa. Cái Vũ-Môn nầy là Vũ-Môn thứ thật, ở bên Tàu, mà sách vở Tàu thường nói đến, còn những cái Vũ-Môn của Nhựt, của Triều Tiên, của Việt Nam, ba nước đã thọ lãnh văn-hóa Tàu trong một thời gian, thì chẳng biết là có hay không. Nhưng nếu có, thì chắc cũng chỉ là Vũ-Môn hạng C, hạng D mà thôi, còn Vũ-Môn Tàu mới chính thật là cái đầu tiên đã tạo ra huyền-thoại cá hóa rồng. Nhưng Vũ-Môn, tự nó, không đáng nói đến, mà cái vụ “Cá vượt Vũ-Môn”, thi đua để hóa thành con Rồng thì mới là chuyện lạ. Ta có ca dao sau đây: Mồng ba (?) cá đi ăn thề, Mồng tám (?) cá về cá vượt Vũ-Môn (Không bảo đảm nhớ đúng hai câu ca dao trên đây). Người mình lại cho biết đích xác rằng Vũ-Môn ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tỉnh. Có thể tên nơi chốn thì có, còn cá thi đua để thành rồng thì như sao, chưa rõ. Chữ Tàu, Vũ, viết như tên của một vua Tàu, vua Vũ đời nhà Hạ, chớ không phải Vũ là mưa, cũng không phải Vũ là phản nghĩa của Văn, cũng không phải là “khắp cả không gian” như Vũ Trụ, cũng không phải Vũ là cái lông ống của loài chim. Tương truyền rằng chính vua Vũ đời nhà Hạ đã tìm thấy trước nhứt cái đó, nên người đời sau đặt tên nó là Cửa của vua Vũ (Vũ-Môn). Cái cửa nầy, thật ra không phải là cái cửa, mà là một cái thác ba bậc, ba nấc, như cái thang bằng gạch dùng để lên một cái nhà nền cao. Sông Dương Tử là con sông to nhứt ở Hoa Trung. Hoa Trung là do người viết bài bắt chước Tây mà chế ra, chớ thật sự thì người Tàu họ chỉ chia nước họ thành hai vùng thôi. Phía trên sông Hoàng Hà, được gọi là Hoa Bắc, phía dưới con sông đó được gọi là Hoa Nam. Nhưng người phương Tây họ thấy là không ổn, nên họ thường chia ra (trong sách riêng của họ) thành ba vùng: Hoa Bắc, từ Mông Cổ tới tả ngạn Hoàng Hà, Hoa Trung từ hữu ngạn Hoàng Hà tới tả ngạn sông Dương Tử. Ở dưới sông Dương Tử mới là Hoa Nam thật sự. Cái vùng Trung đó, Tàu không chịu gọi nó là vùng Trung, mà gọi là vùng Giang-Hoài, tức là vùng thuộc hai sông Dương Tử và sông Hoài (Giang, xưa kia không phải là danh từ có nghĩa là sông, mà là tên riêng thứ nhì của sông Dương Tử). Con sông nầy bắt nguồn từ tỉnh Tứ Xuyên của Tàu đời nay. Tỉnh nầy xưa kia là một nước độc-lập của dân-tộc Thái (nhóm Tây Bắc Thái), mang tên là nước Thục. Cạnh Thục còn một nước nhỏ hơn cũng của dân-tộc Thái, tên là nước Ba. Tàu cướp hết cả hai nước đó, rồi cho nó một tên chung là Ba-Thục, nơi mà về sau, tới thời nhà Hán, Hàn-Tín và Lưu-Bị đã tử thủ trong đó, và về sau nữa, Tưởng-Giới Thạch cũng đã tử thủ nơi đó (chống Nhựt). Tại sao trải qua lịch sử 2700 năm, có nhiều nhân vật lớn của Tàu rút vào đó để mà tử thủ? Vì đó là một cao-nguyên hiểm trở, rất hiểm trở. Cao-nguyên Việt Nam đổ xuống đồng bằng, bằng những cái dốc thoai-thoải, dễ đi, nên ta tử thủ ở cao-nguyên ta không được, còn Ba-Thục thì khác xa. Từ đồng bằng của Tàu lên đó thì, khi gặp cao-nguyên, cao-nguyên đứng sửng lên, y như ở tỉnh Quảng Bình của ta mà ta đụng đầu với dãy Trường Sơn cao ngất, không lên được dễ như ở đèo An Khê vậy đâu. Cao-nguyên Ba-Thục đất đỏ, do tro núi lửa thượng cổ tạo ra, nên rất phì nhiêu, phì nhiêu hơn Hoa Bắc là nơi đất vàng, cũng đã nổi tiếng là phì nhiêu, nhưng cứ thua đất đỏ Ba-Thục. Đường vào xứ Ba-Thục rất khó, mãi cho đến năm 1936, Nhựt muốn rượt theo Tưởng-Giới Thạch (họ Tưởng cũng rút vào trong đó), nhưng đành bó tay, chỉ thỉnh thoảng cho phi cơ vào ném bom chơi vậy thôi. May là họ Tưởng chỉ đóng ở Trùng-Khánh phủ, tức là ở ngoài bìa cao-nguyên Ba-Thục, chớ nằm tại Thành-Đô, kinh đô cổ thời Ba-Thục, thì vô phương vào, nhứt là trong cổ thời. Tuy nói thế chớ nước sông Dương Tử không rơi từ đó xuống đồng bằng Trung Hoa bằng một cái thác nước cao một nghìn thước đâu. Cao-nguyên không thoai-thoải như Trường Sơn ở An Khê, mà cũng không đứng sửng như núi Trường Sơn ở Quảng Bình, mà có thấp lần lần bằng những cái bậc, cái nấc, mỗi nấc cao chừng ba bốn mươi thước và thác cũng chỉ cao vài ba mươi thước là cùng. Cái thác cuối cùng là thác ba bậc, mỗi bậc cao chỉ độ mười thước thôi. Vũ-Môn tam-cấp chính là cái thác cuối cùng đó. Còn cá có thi đua vượt thác để thành rồng (cá hóa long) hay chăng thì xin xem dưới đây. Có một loại cá biển mà ta gọi là cá Hồi (tiếng Anh là Salmon, tiếng Pháp là Saumon), mỗi năm chúng nó vào sông một lần để đẻ. Nhưng loại cá nầy đẻ rất là rắc rối, mà lý do của lối tìm ổ đẻ kỳ khôi đó, cho đến nay, khoa học cũng chưa biết nó có ý nghĩa gì. Khoa học giả thuyết rằng những con cá đó, khi trưởng thành rồi, ở ngoài biển, thì nhớ cội nguồn nên tìm về quê tổ. Mà cái quê tổ ấy thì hết sức lạ lùng. Cá hồi chỉ tìm sông nào có thác để vượt thác mà đẻ ở phía trên thác mà thôi. Cái điểm mà khoa học bí, không phải là vào sông để đẻ, mà chỉ đẻ ở trên thác mà thôi. Ở cái thác cuối cùng mang tên là Vũ-Môn tam-cấp ấy, mỗi bậc thác cao trên mười thước. Cá hồi có lẽ là cá mạnh vô song (mạnh sánh với sự nhỏ của nó, nó chỉ to bằng đùi của một người Việt Nam trung bình, theo chỗ kẻ viết bài nầy thấy được tại xứ Huê Kỳ, khi chúng vào sông để đẻ, sẽ nói rõ lát nữa đây). Nó quá mạnh nên mới đủ sức lội ngược dòng một cây nước cao trên mười thước, mà lại là một cây nước đổ xuống mạnh vô cùng. Hơn thế, chúng nó phải ngược dòng đến ba cây nước, chớ không phải một cây. Người Tàu từ đời nhà Hạ đã quan sát những mùa vượt thác của cá hồi, và vì không hiểu chúng nổ lực như thế để làm gì nên mới bịa ra một lối giải thích là nó thi đua để biến thành rồng, con nào thành công thì hóa rồng lập tức. Nói đến sự “thành công” thì phải nghĩ đến sự “không thành công”, và có hằng mấy mươi vạn cá chết vì đuối sức, trước khi đi tới nơi, tới chốn. (Nhà học-giả Thái-văn-Kiểm, trong tạp chí Độc-Lập số Tết 1987, lại cho rằng loài cá vượt Vũ-Môn là cá Lý-Ngư. Lý-ngư là danh từ của Tàu. Tiếng ta là cá chép (Carp). Nhưng cá chép có bao giờ đủ sức mạnh để vượt ngược những cây nước cao 10 thước?) Tới đây, xin nói sơ về chút ít sử Tàu. Người Tàu từ thượng cổ đến đời nhà Hạ, chỉ định cư ở Hoa Bắc mà thôi. Cho đến đời nhà Hạ họ mới sang sông Hoàng Hà, di cư xuống Hoa Nam mà thuở ấy còn là đất của dân Mã Lai từ Trung Á bỏ xứ di cư đến đó, bởi Trung Á bị sa mạc hóa, họ ở không được nữa. Tàu chỉ xuống vùng dưới với tư cách di dân đi ở trọ chớ chưa đánh chiếm vùng dưới, mãi đến đời nhà Chu mới là có xâm lăng thật sự. Nhưng riêng Ba-Thục thì bị xâm lăng bằng cách khác, qua ngã khác. Thuở đó nhà Chu đóng đô ở cái nơi mà nay là tỉnh Thiểm-Tây, gần thành Lạc-Dương. Còn Tần thì chỉ là chư hầu bé nhỏ của Chu, giữ trọng trách trấn rợ Nhung ở phía tây của Lạc-Dương. Chư hầu Tần có mưu-đồ làm bá chủ thiên hạ, nên tìm đất lớn để tăng cường sức mạnh, hầu đủ sức chiếm trọn nước Tàu mà họ chưa chiếm được. Phía Tây Nam của Thiểm-Tây chính là nước Thục. Và Ba-Thục bị chư hầu Tần xâm lăng, chớ không phải là nước Tàu xâm lăng. Nhưng rốt cuộc Ba-Thục cũng về tay Tàu, vì rồi chư hầu Tần là chủ nước Tàu và nước Tàu được hưởng tài sản của nhà Tần. Thế thì từ đời nhà Hạ, vì đã xuống Hoa Trung nên Tàu đã biết Vũ-Môn tam-cấp, nhưng lại chưa biết rõ phía trên của Vũ-Môn, bởi thuở đó Ba-Thục cứ còn độc-lập và không có giao thiệp với Tàu. Hễ không biết phía trên thì cá lên trên, có thành rồng hay chăng, họ bất cần, cứ cho là nó thành rồng để khỏi mất công suy nghĩ hầu tìm biết sự thật. Dưới đây là những gì mà kẻ viết bài nầy đã thấy tại Huê Kỳ. Sau nhà của “bỉ nhân”, có một con sông mà người Mỹ gọi là American River. Sông nầy không có thác. Tại trung lưu của con sông, người Mỹ xây một cái đập ngăn sông lại, vì một lý do dài dòng không nên nói ra vì sẽ đi lạc đề. Cái đập nầy cao hơn là Vũ-Môn tam-cấp, hóa ra cá Salmon vượt không nỗi. Mặc dù vậy, năm nào chúng cũng từ vịnh San Francisco vào sông để đẻ, vì tuy không có thác vừa sức chúng, nhưng lại có nhiều ghềnh đá. Chúng đẻ xong rồi thì nhảy lên bờ để lăn đùng ra mà chết. Cái chết nầy cũng lạ lùng không kém việc vượt thác để đẻ, và tại sao không chết dưới nước mà phải nhảy lên bờ sông mới chịu chết thì cũng lại là một sự bí hiểm nữa. Cá hóa rồng, thế thì chỉ là chuyện huyền-thoại. Nhưng con rồng, con phụng có phải là huyền-thoại hay không? Ta vừa thấy rằng cá hóa long, tuy là huyền-thoại, nhưng cũng có một phần căn-cứ là cái vụ vượt Vũ-môn tam-cấp. Còn căn-cứ của rồng, của phụng là cái gì. Tới xứ nầy, tôi có dịp coi sách về chim chóc ở đây. Sách Mỹ in ảnh nhiều màu tuyệt đẹp, và ảnh được chụp rất là trung-thực. Có loài chim mà họ gọi là Paradise bird thì giống hệt như con phụng vẽ trong các sách Tàu đời xưa. Tôi chỉ căn cứ theo tranh xưa thôi, vì ngày nay thợ vẽ Tàu thêm-thắc quá nhiều, chắc họ đã đi xa sự thật lắm rồi. Thế thì xưa kia, con phụng chỉ là con Paradise bird mà khí hậu của nước Tàu xưa đã cho phép nó sống ở xứ ấy. Có lẽ vì khí hậu đổi thay mà Paradise bird của Tàu đã bị tuyệt chủng chăng? Còn con rồng? Cách đây một thế kỷ, tàu chiến của Pháp thường vào ra vịnh Hạ Long. Họ đã gặp một loài rắn thượng cổ, sống dưới đáy vịnh, đã trồi lên, có lẽ vì tiếng động lạ của máy tàu. Họ có vẽ hình và chụp hình loài rắn lạ đó, phúc-trình về Pháp, được báo-chí Pháp công bố ra. Và cách đây ba mươi năm, tại hồ Loch-Ness ở Anh-quốc, một con thủy-quái cũng đã từ đáy hồ trồi lên. Tây phương so sánh thì thấy thủy-quái vịnh Hạ Long và hồ Loch-Ness giống nhau. Ðó là một loại bò sát tiền-sử còn sống sót. Có lẽ huyền-thoại rồng có căn-cứ từ loài thủy-quái đó, vì chúng rất giống con rồng mà Tàu đã vẽ hình, chỉ khác là rồng có chân, còn thủy-quái thì không. Nhưng ai ngăn được người Tàu “Vẽ rắn thêm chân”? Loài rắn, khi bò tới thì uốn éo thân mình. Loài thủy-quái bò sát và rất to, rất dài nầy cũng thế, chỉ có khác là thủy-quái uốn éo theo chiều đứng, như tranh, ảnh của nhơn chứng cho thấy, còn rắn thì uốn éo theo chiều ngang. Rồng trong tranh Tàu cũng uốn éo theo chiều đứng, y hệt như tranh, ảnh của thủy-quái. (Xin xem hình vẽ dưới đây) Hình cho thấy lối uốn éo theo chiều đứng của thủy quái vịnh Hạ Long và hồ Loch-Ness. Không riêng gì vịnh Hạ Long và hồ Loch-Ness của Anh mới chứa chấp loại rắn nước thượng cổ nầy, mà ở bên Tàu cũng có. Bài phú “Tiền-Xích-Bích” của Tô-Ðông-Pha cũng có ám chỉ đến thủy quái nầy ở hồ Ðộng-Ðình mà họ Tô gọi là con Giao-Long. Chắc là người Tàu thượng cổ đã thêm chân cho con Giao-Long để biến nó thành con rồng, chớ chẳng có gì lạ đâu. Người Tàu sống quanh hồ Ðộng-Ðình, cứ bảy tám mươi năm thì thấy Giao-Long trồi lên mặt nước một lần. Họ không dè rằng tổ tiên họ đã thần-thánh hoá con vật đó, và cứ tiếp tục tin rằng là có con rồng thật sự. Tứ Linh của Tàu là Long, Lân, Qui, Phụng. Qui thì ai cũng thấy. Phụng rất có thể là con Paradise bird, Long thì như trên. Thế còn con Lân. Khổng Tử đã cho biết rằng ngài có thấy con Lân. Khổng Tử, có thể sai về mặt triết học, luân-lý, nhưng nhân vật đó chắc chắn không nói dối, không bịa càn. Nhưng quả thật, ta rất bí về con Lân, chẳng biết đã thấy cái gì mà Tàu thần-thánh hóa ra là con Lân. (1987) binhnguyenloc.com
-
Cháu nghĩ câu chuyện Lý Ông Trọng mà bác Thiên Sứ được xem từ hồi nhỏ, là câu chuyện lưu truyền trong dân gian. Trong Lĩnh Nam Chích quái: Cuối đời Hùng Vương có người ở xã Thụy Hương, huyện Từ Liêm, đất Giao Chỉ họ Lý tên Thân. Khi đẻ ra rất to lớn, rồi cao đến 2 trượng 3 thước, tính tình hung hãn, hay giết người, tội ác đáng chết, Hùng Vương tiếc mà không nỡ giết. Đời An Dương Vương, Tần Thủy Hoàng muốn cất binh đánh ta, An Dương Vương bèn đem Lý Thân tiến nhà Tần. Thủy Hoàng mừng lắm, phong cho làm chức tư lệ hiệu úy. Khi Thủy Hoàng đã lấy được cả thiên hạ, sai Lý đem quân giữ đất Lâm Thao, uá danh vang dội đến Hung Nô, Hung Nô không dám xâm phạm cửa ải. Thủy Hoàng phong Lý làm phụ tín hầu, lại gả công chúa cho Lý. Sau tuổi già trở về nước. Hung Nô lại xâm phạm cửa ải. Thủy Hoàng nhớ tới Lý Thân, sai người sang triệu. Lý Thân không chịu đi, trốn vào rừng núi. Vua Tần trách quở, An Dương Vương tìm không được, nói dối là Lý đã chết. Vua Tần hỏi vì sao mà chết. Trả lời: vì đi tả. Tần sai sứ sang khám. An Dương Vương bèn nấu cháo đổ xuống đất để làm thực tích. Vua Tần đòi mang xác sang, Lý Thân bất đắc dĩ phải tự vẫn (hôm đó là ngày mồng 2 tháng 2). An Dương Vương sai lấy thủy ngân rắc lên xác rồi đem nộp vua Tần. Thủy Hoàng lấy làm lạ, mới đúc đồng làm tượng, đặt hiệu là ông Trọng, đem dựng ở cửa Kim Mã đất Hàm Dương. Trong bụng tượng chứa mấy chục người để lay cho tượng cử động. Hung Nô trông thấy tưởng là quan hiệu úy sống, không dám động tới cửa ải. Tới đời đường, Triệu Xương sang làm quan đô hộ đất Giao Châu, đêm mộng thấy cùng Lý Thân giảng sách Xuân Thu, Tả Truyện, nhân hỏi thăm nhà cũ, lập đền thờ cúng. Sau Cao Biền dẹp giặc Nam Chiếu, Lý hiển linh cứu trợ, Cao Biền bèn sửa sang lại miếu đền, tạc gỗ làm tượng, gọi là đền Lý hiệu úy nay thuộc xã Thụy Hương, huyện Từ Liêm (xưa gọi là xã Thụy Hàm, nay gọi là xã Thụy Hương) ở bên bờ sông Cái cách kinh thành 15 dặm. Còn một câu chuyện khác nữa là: Lý ông Trọng là 1 trong Tứ Đại Trụ Thần của nước ta vào thời An Dương Vương, sau đó đi sứ sang Tàu, đấu võ với tất cả các võ sĩ Tàu và đánh bại mọi võ sĩ Tàu, Tần Vương thấy là người tài nên đề nghị ở lại giúp đánh giặc Hung nô. Sau khi dẹp xong giặc thì ông được phong chức quan và làm tướng cho nước Tần, về sau ông cáo về quê rồi trốn luôn không ở lại Tàu nữa, Lý Ông trọng về Hung nô kéo quân sang làm loạn, Tần Vương sai sứ giả triệu ông về nhưng ông nhất định không về, sợ Tần Vương gây khó dễ cho An Dương Vương nên ông đã truyền thụ lại võ công cho đệ tử rồi tự vẫn và cho người đêm xác về Tàu, Tần Vương thấy xác ông thì tiếc liền cho đúc 1 pho tượng lớn rỗng bên trong đặt lên thành, cho quân sĩ vào trong điều khiển tượng đi lại, từ xa quân Hung nô tưởng ông đã về thì sợ mà lui quân. Ở Việt Nam ông được phong là Vạn Tín Hầu Lý Thân. Lý Thân mới là tên ông. Lý Ông Trọng là tên da Tần Vương ban sau khi ông chết. PhucTuan nghĩ rằng có thể là lúc Lý Ông Trọng sinh ra vẫn còn nhỏ thuộc vào thời kì cuối cùng của thời Hùng Vương thứ XVIII, sau này trưởng thành ra làm quan dưới thời An Dương Vương. Có thể lúc đó là thời điểm chấm dứt triều đại vua Hùng và nhà nước của An Dương Vương được thành lập. Lý Ông Trọng là một nhân tài của nhà nước, đã được cử đi sứ. Những sứ thần được cử đi là những con người thay mặt cho toàn bộ quốc gia đó, cho nên bắt buộc Lý Ông Trọng phải thể hiện tài năng của mình. Tần vương thấy thế bèn giữ lại với mục đích là nếu thu phục dùng được thì quá lợi đối với Tần. Còn nếu mà Lý Ông Trọng không phục vụ cho Tần quốc, thì giữ lại không trả người tài về cố quốc, để họ khỏi phục vụ quốc gia của mình. Những điều này chỉ là ý kiến chủ quan của PhucTuan, PhucTuan cũng không dám nói gì nhiều. Còn về bài của chị Rin86 thì là lấy từ wikipedia. Chúng ta nên cẩn thận khi dùng nguồn ở đây, bởi vì wikipedia là một cuốn bách khoa toàn thư mở, có nghĩa là ai thích viết gì vào đó cái gì cũng được. Trong quá trình học tập và nghiên cứu, không bao giờ được lấy tham khảo từ wikipedia (thầy giáo ở trường PhucTuan dạy như vậy). Nhưng không phải toàn bộ kiến thức của wikipedia là lung tung cả, có rất nhiều điều mà chúng ta có thể học trong đó với điều kiện so sánh với các nguồn tham khảo khác. Chúc mọi người có một ngày cuối tuần thật là vui vẻ! :blink:
-
Giá trị đích thực bức tranh dân gian đông hồ : Thầy đồ cóc” và dị bản của nó Tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử của bức tranh dân gian Đông Hồ “Thầy đồ cóc” và dị bản của nó, ta không nên chăm bẳm vào thời điểm xuất hiện theo kiểu niên đại, bởi đó chỉ mới xem xét về vật thể, tức “phần xác” mà quan trọng hơn và đáng quan tâm hơn là cần phải cảm nhận cho được cái hòn của tranh, có nghĩa phải tìm hiểu “thật tới” những điều muốn nói của các tác phẩm ấy. Ta biết, những mảnh gốm bể bằng đất nung tìm thấy tại một di chỉ khảo cổ sẽ chẳng có giá trị gì đáng kể nếu tự thân nó không mang đến cho ta một thông tin đặc biệt mang tính thời đại. Trái lại, nó sẽ rất quý (có khi vô giá) nếu đó là một loại gốm hiếm (như gốm đen – hắc đào, chẳng hạn), hoặc có những nét đặc thù về kiểu dáng, hoa văn…, từ đó mà suy ra cách chế tác (vỗ đập bằng tay hay dùng bàn xoay; hầm lò âm dưới đất hay nung đốt lộ thiên…), công dụng (dân dụng, trang trí hay thờ cúng…). Nói chung đối với nhà khảo cổ, cổ vật không nhứt thiết phải đẹp mới có giá trị, mà giá trị đích thực là ở chỗ bản thân nó hàm súc các yếu tố về văn hóa – lịch sử. Qua đó nó thiết thực giúp cho các nhà nghiên cứu biết được các mặt sinh hoạt đời sống con người trên nhiều lĩnh vực về văn hóa dân gian, dân tộc học, nhân học, xã hội học, hoặc chế độ chính trị của một thời đại lịch sử cụ thể. Về đại thể, tranh dân gian Việt Nam nói chung, không khác ca dao dân ca, nó không bị gò bó bởi bất kỳ một khuôn phép nào, kể cả phối cảnh và luật viễn cận, có nghĩa trong sáng tác, người nghệ nhân hoàn toàn chủ động, tự do, miễn sao truyền đạt “thật tới” cả về hình thức lẫn nội dung, làm cho người thưởng lãm – chủ yếu là giới bình dân – dễ dàng cảm nhận là đạt yêu cầu. Thí dụ như tranh Bà Triệu cưỡi voi ra trận, nhất thiết phải vẽ bà có cặp vú thật dài (Đại Việt sử ký toàn thư, và nhiều sách sử khác đều ghi rõ, Bà Triệu vú dài 3 thước, vắt ra sau lưng…); còn voi thì bộ dáng oai hùng, cặp ngà cong dài và nhọn, vòi huơ, mắt trợn; vẽ tranh mục đồng ngồi lưng trâu thổi sáo thì trâu không thể không vễnh tai nghe tiếng sáo du dương; hoặc tranh vẽ gia súc, gia cầm như heo, gà người nghệ nhân không quên điểm xuyết những vòng xoáy âm dương ở bụng, hoặc đùi nhằm biểu đạt sự sinh sôi, nảy nở, thịnh phát… Về phương diện giáo dục truyền thống gia đình, do người Việt luôn xem chữ hiếu làm đầu (Thiên kinh vạn quyển hiếu nghĩa vi tiên), nên trong ba ngày thiêng liêng đầu năm đầu tháng, thì “Mồng một tết cha (bên nội), mồng hai tết mẹ (bên ngoại), mồng ba tết thầy” – nay “chính thức” là ngày 20 – 11. Đây là dịp nhắc nhở, toàn xã hội tỏ lòng biết ơn thầy. Tôn vinh vai trò của người thầy cũng chính là tôn vinh truyền thống hiếu học của người Việt Nam. Trong tinh thần đó, với đề tài này, người nghệ nhân làng tranh Đông Hồ không chỉ thể hiện trên tác phẩm của mình những màu tươi nhuận khinh khoái mà còn hàm chứa tính giáo dục, lòng tự tôn dân tộc vô cùng sâu sắc, rất đáng nghiêng mình. Độc đáo nhất là bức tranh “Thầy đồ cóc”. Bản gốc bức tranh Đông Hồ “Thầy đồ cóc” mà tôi có trong tay, được in mộc bản trên giấy đó, khổ tranh 18 x 31 cm, nền vàng sáng, chữ mực nho; các màu khác như xanh lục, xanh lá cây, hoa cà, trắng… được phân bố rất hài hòa, nét in sắc sảo. Bố cục của tranh phía trên có dòng chữ (nho) “Lão yết giảng độc” (yết là bảo cho rõ, tức giảng dạy). Các thành viên trong lớp học được thể hiện đủ “sắc tộc” tương cận, do đó cũng gọi “Lão oa giảng độc” (oa: chỉ chung loài ếch nhái, riêng cóc là thiềm, thiềm thừ – “cậu ông Trời” nên được chọn làm “Thầy đồ”, vì vậy dân gian thường gọi là tranh “Thầy đồ cóc”. Xem tranh, ta thường thấy dưới bóng cội tùng (loại cây được xem là quý mộc, dùng làm rường cột; sống trăm năm thì sinh phục linh, nghìn năm sinh hổ phách – biểu trưng bậc hiền triết, tiết tháo, che chở). Thầy ngồi trên sập gụ tư thế uy nghiêm, một tay chống trên sập, một tay chỉ vào chồng sách đặt bên cạnh, đôi mắt hiền từ nhìn xuống môn sinh của mình. Trên ghế nghi trước mặt là những món đồ dùng thông thường của thầy: ống bút, nghiên mực, chung trà, đĩa đèn dầu cá, điếu bình. Bên cạnh, một trò châm trà cho thầy, một trò khác cầm quyển vở khép nép ngước nhìn – chắc được gọi lên “trả bài”. Góc trên bên phải (có chữ trường/ trưởng), một trưởng trường đang tận tình giúp bạn “học tổ”, phía dưới có hai chữ cầm (bắt giữ) và chinh (đánh kẻ có tội): một trò lười đang bị một bạn đồng học khống chế để bạn kia “giơ roi đánh khẽ” dưới sự giám sát của một bạn khác (cứ xem bộ tướng nhớn nhác thì biết anh chàng bị “trị tội” là kẻ thường xuyên gây mất trật tự trong lớp). Tranh cũng không quên vẽ thêm hai bét nhí ham học đang lăng xăng dõi mắt học đòi các anh lớn làm cho hoạt cảnh của lớp học trở nên sinh động, nói chung là “rất có không khí” đồng thời cũng tạo được điểm nhấn đậm tính quy củ bằng những biện pháp giáo dục của thầy đồ. Nhưng vì sao nghệ nhân lại không biểu đạt thầy đồ là một ông cụ chỉnh tề khăn đóng áo dài, lại là con cóc? Theo tôi, đây mới đích thực là vấn đề cần tìm hiểu. Cái chính là nó đã được thể hiện bởi những đường nét khắc họa rất nghiêm chỉnh. Nghiêm chỉnh mà vẫn mang tính trào lộng – ít ra cũng đã giúp người xem cảm nhận được điều đó – vì trào lộng luôn là một nét, một bản chất rất riêng của dòng tranh mộc bản dân gian. Mà nội hàm của hầu hết các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian bao giờ cũng có chuyên chở ít nhiều cái ý giáo dục rất thâm thúy, sắc sảo. Do đó người thưởng lãm không thể không ra sức suy nghiệm. Có vậy mới thấu tình đạt ý, mới có thể biết được người nghệ nhân muốn gửi gắm điều gì trong tranh. Thế thì “ý tại ngôn ngoại” của tranh “Thầy đồ cóc” (bản gốc và dị bản) là ở chỗ nào? Ta biết, cóc và những con tương cận như ếch, nhái… đều là loài lưỡng cư, và đẻ ra nòng nọc. Theo cách hiểu của người xưa thì chữ viết của nước ta khởi thủy có tự dạng ngoằn ngoèo như con nòng nọc nên gọi “chữ nòng nọc”, sách gọi “khoa đẩu văn” (chữ khoa đẩu) vì “khoa đẩu” cũng là tên gọi loài cá nhái, một loài cá mà theo Đại Nam quốc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của thì “cóc mới nở giống loài cá, có đuôi dài, hay lội mà đen, đến khi hóa cóc thì rụng đuôi”. Rõ là cá nhưng không phải cá, mà đích thị là con nòng nọc (trùng tên với một loài cá tròn mình dài cỡ một gang tay thường lội lửng tửng trên mặt nước, dùng kho tiêu hoặc làm khô rất ngon – có nơi gọi kiềm ngư hay cá liềm kiềm). Lần tìm vết/ tích của loại “chữ tổ” nầy, sách Thanh hóa quan phong ở phần phụ lục, do 35 chữ cái của người Mường (tờ 69 a đến tờ 70 a) cụ Vương Duy trinh (1) có lời bàn về văn tự nước ta – lúc chưa tiếp xúc với văn hóa Trung Quốc: “Tỉnh Thanh Hóa, một châu quan có chữ là lối thập châu đó. Người ta thường nói rằng nước ta không có chữ. Tôi nghĩ rằng không phải, thập châu vốn là đất nước ta, trên châu còn có chữ, lẽ nào mà dưới chợ lại không? Lối chữ châu là lối chữ nước ta đó […]. Đời xưa Trung Quốc tự ngươi Lý Tư đời nhà Tần trở về sau, hay có người thay đổi làm lối khác, mà nước ta nội thuộc kể cả ngàn dư năm, tự vua Sĩ Vương dạy lấy chữ Trung Quốc, mà lối chữ nước ta bỏ đi hết. Thập châu bởi là nơi biên viễn cho nên lối chữ ấy hãy còn (Văn hóa nguyệt san số 68 tháng 1 & 2/ 1962). Lối chữ ấy thế nào? Theo truyền thuyết dã sử, từ thời xa xưa, người Việt Nam đã có chữ viết. Thứ chữ viết nầy đã được một số tài liệu trong và ngoài nước mô tả khá rõ. Trước hết có thể nêu truyện Mộng Ký trong Thánh Tông di thảo làm thí dụ. Truyện này kể rằng: Vua Lê Thánh Tông đi chơi gặp mưa, nghỉ đêm ở cạnh hồ Trúc Bạch, mộng thấy hai người con gái thời Lý Cao Tông hiện lên dâng tấu như bày tỏ nỗi oan ức, gồm một bài thơ ngũ ngôn tuyệt cú bằng chữ Hán, và một tờ tấu bằng chữ bản địa có (71 “bảy mươi mốt chữ) ngoằn ngoèo, được. Trải ba năm cả triều đình không ai đọc được tờ tấu đó. Thế rồi nhà vua nằm mộng thấy có người hiện lên giải cho vua hiểu rõ thêm bài chữ Hán; vua hỏi âm và nghĩa 71 chữ kèm theo thì người đó nói: “Lối chữ ấy là lối chữ cổ của nước Nam. Nay Mường, Mán ở núi rừng còn có người được được, nhà vua vời họ đến thì tự khắc biết”… Phải chăng đó là dấu tích của lối chữ viết “ngoằn ngoèo như con nòng nọc”. Những điều ghi chép đều nhắc đến một thứ chữ thuộc loại hình khác với chữ nôm và chữ Hán là hai thứ chữ đương thời đang thông dụng ở nước ta. Đó là thứ chữ ngoằn ngoèo “như con nòng nọc” (Hồ Công Khanh, Chữ quốc ngữ và những vấn đề liên quan đến thư pháp. Nxb. Văn nghệ TP.HCM, 2004). Thêm một “minh chứng” từ cái nhìn của một học giả Pháp (cách đây vừa tròn 80 năm) nhân phát hiện nhiều tảng đá có khắc ở Sapa, Lào Cai (2). Đó là nhà khảo cổ học Victorr Goloubew, ủy viên Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp có bài viết về vấn đề nầy trên tập san BEFEO năm 1926, có cho in kèm một số ảnh chụp và tranh vẽ những hình khắc ấy dựa trên những bản dập (xem hình) mà theo ông “thoạt nhìn ta thấy thuần túy là một chữ tượng hình. Nhưng chỗ giống nhau với chữ viết đó không nhất thiết chứng tỏ chúng ta đang có trước mặt một yếu tố chữ viết cố định và chỉ một chữ cụ thể. Nói tóm lại những đồ hình đó có vẻ thuộc lĩnh vực vừa biểu tượng vừa chữ viết”. Điều muốn nói của bức tranh dân gian Đông Hồ “Thầy đồ cóc” là một cách gợi lại lối “chữ nòng nọc” mà truyền thuyết và dã sử, đó là thứ chữ của nước ta, đã xuất hiện từ thời rất xa xưa trước khi tiếp nhận “chữ vuông” của phương Bắc (Hán, Nho; Nôm) và quốc ngữ sau nầy. Có điều khá thú vị là cho đến nay người ta vẫn còn bắt gặp đó đây ở Trung Quốc dấu tích của chữ nòng nọc. Nó được dùng như một loại chữ triện để nhằm bảo tồn với thái độ hết sức trân trọng. Chẳng hạn như trên bức tranh Sơn trai tiêu hạ đồ vốn là của Phó Tổng thống Đài Loan Trần Thành tặng Trung tướng Phạm Xuân Chiểu của chính quyền Ngô Đình Diệm, thời gian nầy làm Đại sứ Việt Nam cộng hòa ở Đài Loan. Bức tranh trở thành trung tâm của một vụ kiện năm 1988 cần được giám định về giá trị vật chất, tức giá trị bằng tiền của cổ vật mà học giả Hán nôm Cao Tự Thanh là người được chọn giám định lại (phúc thẩm). Nhà nghiên cứu văn học cổ họ Cao cho biết, tranh có kích thước 75 x 150cm vẽ màu nước, miêu tả phong cảnh một khu rừng núi yên tĩnh mát mẻ có đá, có suối, rừng là rừng tạp gồm các loại cây ước lệ như tùng, trúc và phong, tóm lại là phong cảnh Hoa Nam, cận cảnh là một gian nhà có hiện hóng gió, trên có một người ngồi, hình người chỉ có diện tích không đầy 3 x 3cm. Góc trên trái tranh có một hàng chữ ngang đề tên bức tranh là “Sơn trai tiêu hạ” nghĩa đen là ở trong căn nhà yên tĩnh trên núi để qua ngày hè, dịch cho văn chương là Nhà hon tránh nắng, kế tới phần lạc khoản gồm ba hàng chữ viết dọc “phỏng Tống nhân bút ý, Ất, Tỵ xuân tam nguyệt, Mao Tử Vân” (mô phỏng tranh thời Tống, tháng 3 mùa xuân năm Ất Tỵ, Mao Tử Vân) và hai dấu triện một âm một dương, dấu âm ở trên khắc 4 chữ theo lối kim thạch văn (chữ khắc trên đồng đá thời cổ) “Lệ Chương Mao thị” (họ Mao ở Lệ Chương); dấu dương ở dưới khắc hai chữ viết theo lối khoa đẩu văn (chữ có hình dáng như con nòng nọc) mà nói thật là tôi chưa dám khẳng định có phải là “Phó thủy” (nghĩa đen là Theo nước), có liên quan về ý nghĩa với chữ Vân – mây trong tên tác giả) hay không (Cao Tự Thanh, Dâu bể mười năm. Nxb. Tổng hợp TP.HCM 2004). Chữ nòng nọc còn để lại dấu tích ở Trung Quốc. Điều nầy không thể không cho ta suy nghĩ, phải chăng đó là một thứ chữ “tổ” của các loại “chữ vuông”? – Dù sao đây cũng chỉ là giả định. “Câu ông Trời” là mẹ đẻ của nòng nọc (chữ nòng nọc). Đó chính là lý do khiến nghệ nhân nảy ra ý tưởng rất mới, rất táo bạo: khắc vẽ các nhân vật trong tranh dân gian Đông Hồ “Thầy đồ cóc” đều toàn… cóc! Còn dị bản của nó? Là dị bản tất nhiên về đại thể không mấy khác, nghĩa là các nhân vật trong tranh cũng toàn là cóc, nhưng người nghệ nhân đã khéo léo điều chỉnh nét khắc họa và cố tình thêm bớt một số chi tiết để làm bật lên cái ý sâu kín của mình: hoàn chỉnh một bản án bằng hình nhằm tố cáo chế độ cai trị hà khắc của thực dân Pháp, mà chính sách giáo dục tàn ngược của họ là một trưng dẫn điển hình. Ở đó người nghệ nhân đã tỏ ra vô cùng tình tế trong thể hiện bởi so với tranh gốc, ta thấy tác giả đã cố tình bỏ đi một số chi tiết như: – Loại bỏ cây tùng để nhằm trơ trẻn hóa ông đồ – một cách hạ thấp vị trí đáng kính của ông thầy. – Loại bỏ hai em bé ham học (chưa đến tuổi học nhưng vẫn đến trường học đòi các anh chị). – Loại bỏ toàn bộ các chữ viết giới thiệu toàn cảnh và từng cụm – một cách phủ nhận rằng, đây không thể xem là nơi dạy chữ thánh hiền. Và thêm vào một số chi tiết rất “đáng ghét” như: – Cho ông thầy ngậm ống vố – miệng ngậm đồng nghĩa với không giảng dạy. Hoặc dạy những điều vong bản, trái ngược đạo lý thánh hiền (ống pipe trên miệng – trong khi trên bàn có bát điếu nhưng không dùng!). – Ba trò đang ngồi học trên băng (tư thế hoàn toàn xa lạ đối với người học trò ngày xưa: “dài lưng tốn vải”…). – Một học trò đang quạt bếp lò đun nước trong khi đã có một trò dâng ấm trà cho thầy tại bàn. Hẳn trò nầy đang chuẩn bị nước sôi pha cho thầy tắm – bắt học trò phục dịch như vậy là quá đáng! Tác giả cũng thay đổi một số chi tiết vô lý để cố làm cho người xem tranh thêm bất bình: – Chiếc ghế nghi truyền thống bị thay bằng cái bàn dài ốm mà cao, chưn cẳng lỏng thỏng, không ra làm sao cả! – Đánh học trò như tra tấn tội phạm: căng nọc (thẳng tay thẳng chân), đè nằm sấp sát đất và đánh bằng cây đòn (khúc cây to nặng nên phải dùng đến hai tay), tội nhân đau điếng nhưng không được giãy giụa la khóc (bị bụm miệng). Vô cùng tàn ngược chứ có phải đâu “… cho roi cho vọt”! – Thay dĩa đèn dầu cá bằng ngọn nến cũng là một cái ý gạt bỏ hình ảnh “đèn sách” truyền thống… Nếu người xem tranh bắt gặp và cảm nhận được những điều vô cùng đáng ghét đó thì cũng có nghĩa là người nghệ nhân dân gian nào đó đã diễn tả rất đạt những điều muốn nói của mình (giống như xem hát tuồng, người đóng vai đứa ác diễn xuất sao cho khán giả càng căm ghét, thì càng đạt). Bởi những lẽ ấy, theo tôi, dị bản tranh dân gian “Thầy đồ cóc” là tư liệu bằng hình rất có giá trị. Đó là một chứng tích phản ánh tình trạng nền học vấn bi đát nước nhà. Nó suy sụp tồi tệ đến mức kẻ sĩ đương thời không thể không chán chường, nhụt chí. Vài đoạn thơ dưới đây của Tú Xương đã khắc nét sự tàn hoang ấy: Đạo học ngày nay đã chán rồi Mười người đi học chín người thôi Cô hàng bán sách lim dim ngủ Thầy khóa tư lương nhấp nhỏm ngồi Sĩ khí rụt rè gà phải cáo Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi Nào có ra gì cái chữ nho Ông nghè ông cống cũng nằm co Chi bằng đi học làm ông Phán Tối rượu sâm banh sáng sữa bò Do đó, người xem tranh cần có lời bình cho thỏa đáng chứ không nên quá vội vàng dẫn đến hụt hẩng, hời hợt trong đánh giá, phê bình, và thẩm định sai lầm về niên đại. Thí dụ như khi trao đổi về chi tiết cái ống vố trên miệng thầy đồ, thì chớ khá vịn vào cái lý thuốc lá, ông pipe đã “du nhập nước ta vào thế kỷ XVII,, XVIII, XIX” để rồi cho rằng “nên xếp bức tranh nầy vào thế kỷ XVIII, XIX thì hợp lý hơn cả”. Lý luận như thế là phiến diện, không thuyết phục, nếu không muốn nói là áp đặt một cách khiên cưỡng, bởi không ai có thể chấp nhận một bức tranh hay ảnh chụp trong ấy thấy có chiếc đồng hồ rồi cho rằng nó rất cổ, có tận từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần! Cái chính đáng quan tâm không phải nhằm vào việc nó ra đời lúc nào sớm hay muộn, mà vấn đề là nó nói lên điều gì. Về mặt thẩm mỹ, mọi họa tiết của dị bản đều kém xa bản gốc. Nhưng về phương tiện chuyển tải thì có khác hơn. Các độc đáo của bức tranh dân gian Đông Hồ đã gợi lên ý tưởng về nguồn, nhắc nhở giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Còn dị bản của nó tất nhiên là dựa vào cơ sở đó mà “chế biến” lại, hoàn thiện bản án tố cáo chế độ cai trị tàn ngược người bản xứ của chính quyền thực dân Pháp. Giá trị đích thực của những tác phẩm dân gian là ở chỗ đó § Nguyễn Hữu Hiệp Nguồn: http://vannghesongcuulong.org
-
Sức Mạnh Huyền Bí đồng Đô-la Mỹ LTS: Trong loạt bài của mục Huyền Bí, chúng tôi xin trích bài sưu khảo sau đây của Thiết Trượng đã được đăng tải trên Tạp chí Việt Nam Press năm 1995. Thiết Trượng sưu khảo Qua bao thế kỷ, các chiêm tinh gia đều xác quyết có một luật tuần hoàn và tự nhiên của vũ trụ; thành thử trong lịch sử nhân loại rất nhiều người đã cố gắng tạo dựng những kiến trúc, kiểu mẫu hay biểu tượng ứng hợp với sự vận chuyển tự nhiên của thiên văn học không ngoài mục đích đạt được mong ước cho riêng cá nhân, tôn giáo hay quốc gia mình... Chữ Vạn của Phật giáo, chữ Vạn ngược của Đức quốc xã, Thánh giá của Thiên Chúa giáo, tượng Người đầu sư tử hay Kim Tự Tháp của Ai Cập, Thiên Nhãn của Cao Đài... mỗi mỗi đều có ý nghĩa của nó. Chính vì vậy, nếu chúng ta cho rằng Hoa Kỳ, ngay từ khởi đầu đã được một số nhà lập quốc của nước này cân nhắc, xếp đặt biểu tượng quốc hiệu sao cho Hoa Kỳ lúc nào cũng là một quốc gia hòa bình nhưng cũng là một nước hùng mạnh về quân sự, chắc nhiều người cho đây là điều hoang tưởng. Trước hết, trong bài này chúng tôi muốn nhấn mạnh một điểm là việc chọn quốc hiệu cho Mỹ, đầu tiên các nhân vật được tuyển lựa đều là những nhà thiên văn, khoa học gia (kiểu Á đông thường cho là “trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý”). Thứ hai, Quốc hiệu này đã được phổ biến rộng rãi bằng nhiều hình thức, đặc biệt nhất đã in trên đô-la, giấy một đồng của Mỹ. Ngoài ra, điểm thứ ba là phi thuyền của Mỹ đã phóng hình Quốc hiệu Mỹ vào vũ trụ. Đồng đô la Mỹ là một ngoại tệ giá trị độc nhất vô nhị đã tung hoành khắp nơi trên thế giới. Phải chăng đồng đô la của Mỹ là một loại “bùa ếm” mà những nhà lập quốc Mỹ đã có chủ ý, với dụng tâm biến Hoa Kỳ thành một quốc gia phú cường và hùng mạnh về quân sự như họ từng mong ước? QUỐC HIỆU HOA KỲ: Quốc hiệu hay quốc ấn của Hoa Kỳ là kết quả một công trình thâm cứu của các tiền nhân lập quốc Mỹ. Thời đó rất nhiều dân cử của Mỹ hiểu biết và ứng dụng thiên văn học. Tất cả đều mang những hiểu biết về thiên văn đem ra ứng dụng vào biểu tượng, với tham vọng Mỹ quốc sẽ là một lãnh thổ luôn luôn được sống trong hòa bình, nhưng vẫn là một quốc gia có tiềm lực mạnh nhất về quân sự. Các ông Thomas Jefferson, Benjamin Franklin và John Adams được Quốc hội Lục địa (tiền thân Quốc hội Mỹ ngày nay) chỉ định giám sát việc đúc Quốc ấn sao cho thật tinh vi, sắc sảo. Quốc hiệu nhuốm đầy sắc thái huyền bí đó đã được quốc hội Mỹ chấp thuận ngày 20 tháng 6 năm 1782 tại Philadelphia. Quốc hiệu có chim ưng (cũng được coi như phượng hoàng hay hỏa điêu) ghép chung với kim tự tháp. Kết nạp này là một nỗ lực hòa hợp của quốc gia tân lập Hoa Kỳ với các nền văn minh cổ của Trung Đông, cận Đông kể cả Hy Lạp, Do Thái và Ai Cập. Các dân Do Thái và Hy Lạp trong việc tính toán thiên văn học không quan tâm đến những con số. Họ chỉ dùng chữ hay mẫu tự cùng các ký hiệu tinh tú; môn Hình học chính là nó, được gọi là “geometria” xuất phát từ tiếng Hy Lạp, tiếng Anh là “geometry”. Quốc hiệu hay đúng hơn là Đại ấn quốc của Hoa Kỳ đã được chụp và phóng xa 35,000,000 dặm vào vũ trụ (Tài liệu chúng tôi tham khảo không thấy liệt kê vào ngày nào). Chỉ biết vệ tinh Mariner IV bắt lại được hình ảnh này lúc chụp hành tinh Mars năm 1965, xác quyết sự khẳng định của Mỹ quốc rằng, không một quốc gia nào lãng quên và phủ nhận Thượng Đế mà lại tồn tại được lâu dài. Và cũng xác tín rằng Mỹ quốc luôn luôn nhận biết sự hằng cửu của đấng Tạo Hóa tối cao, cũng như Mỹ quốc sẽ tiếp tục nuôi dưỡng dài hạn và thu hút các lãnh địa mới như Puerto Rico, Guam, Cuba và kể cả những quốc gia Á châu Thái Bình Dương (Lời người sưu khảo: Sách đề cập điều này xuất bản năm 1967, hơn 20 năm trước khi Liên bang Sô viết tan rã và các tiểu bang đòi tự trị thành những quốc gia riêng biệt) Phần kế tiếp dưới đây cho ta biết những gì xảy ra trong việc thực hiện quốc ấn, những bí ẩn cùng những thảm kịch của nó trong thời gian các chiêm tinh gia thai nghén quốc hiệu và những điều kỳ bí chứa đựng trong quốc hiệu của Hoa Kỳ.Mỗi hình ảnh trong quốc hiệu của người Mỹ đều có một ý nghĩa rõ ràng và chắc chắn đã ảnh hưởng đến sắc thái của quốc gia này. Ý NGHĨA QUỐC HIỆU MỸ: Trên tấm chắn trước ngực Chim Ưng, những vạch sọc tượng trưng cho các tiểu bang. Các vạch được vẽ hướng về trung tâm và cũng có ý nghĩa để hỗ trợ trung ương.Màu xanh dương là màu của địa cầu, màu của hòa bình, cẩn trọng, kiên tâm và công chính. Màu đỏ là màu của hành tinh Mars, màu của dũng cảm, nghị lực và cầu tiến. Còn màu trắng biểu trưng sự dung hợp giữa khát vọng tột cùng và chừng mực. Chim Ưng (tượng trưng cho chính quyền Mỹ) ôm tấm lá chắn, vì vậy chính phủ Mỹ phải làm cho mình thật vững mạnh và có thể trợ giúp cho các quốc gia kém may mắn trên thế giới, dù có lúc họ đã là kẻ thù của Mỹ quốc.(!?) Nhìn vào quốc hiệu Mỹ, người ta thấy hình chim Ưng bao trùm tất cả, lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu bởi móng vuốt bên trái có một bó tên giương thẳng, một biểu trưng nhắm đến mục tiêu, có chuẩn đích và khát vọng. Những mũi tên có ý nghĩa cho sự sẵn sàng chiến đấu, đó cũng là điều tại sao người ta phải hiểu Hoa Kỳ phóng vào chiến trận một cách cấp kỳ khi cần thiết (nhanh như tên bắn). Nhưng đầu chim ưng không hướng về mũi tên mà lại quay về móng vuốt bên phải đang ôm giữ nhành ô-liu, tượng trưng cho lòng yêu chuộng hòa bình, không hiếu chiến. CON SỐ 13: MAY MẮN HAY XUI XẺO? Trên đầu chim ưng là đám mây tròn chiếu tỏa bởi 13 ngôi sao. Còn hình ảnh của Hào quang, có nghĩa tượng trưng cho Mặt trời, nguyên ủy của sự sống. Những tia chiếu rọi là biểu tượng của huy hoàng rực rỡ, của triển vọng và quyền lực.Còn đám mưa từ mây rơi xuống nuôi dưỡng sự sống cho địa cầu, xuất phát từ nơi cao cả uy nghi. Các ngôi sao biểu hiện cho vũ trụ bao la cùng sự bảo vệ đậm sắc thần linh đi từ nơi cao cả đó. Đây là “Vương miện bất tử”, sự tái sanh của ý tưởng nội tại mà người Ai Cập đề cập, và cũng là một hồi ức đến chuyện thần thoại về một địa đàng đã mất. Gạt bỏ sự kiện hiển nhiên là Hoa Kỳ lập quốc với 13 tiểu bang, nhưng đã có một sức mạnh kỳ bí ẩn dấu đằng sau con số 13 này; một con số mà những “thày bói mò”, “những lốc cốc tử tay ngang” thời Trung cổ cho là xui xẻo đã khiến nhiều người cho đến nay còn ngộ nhận. Trên mặt của quốc hiệu Hoa Kỳ đếm được 13 vạch ở tấm lá chắn, 13 ngôi sao trong vòng hào quang, 13 nhánh và 13 trái trên cành ô-liu ở móng vuốt phải chim ưng, 13 mũi tên ở móng vuốt trái chim Ưng và 13 mẫu tự của chữ E Pluribus Unum ở giải lụa mà mỏ ngặm. E Pluribus Unum (Out of One, many), có nghĩa là một quốc gia hợp bởi nhiều lãnh địa. Có thể khẳng định những việc này không phải ngẫu mhiên trùng hợp. Nội dung của luật đề cập về quốc hiệu đã nhấn mạnh phải lập đi lập lại con số 13 trong việc kết hợp khi thực hiện. Do đó, niên biểu (phần đáy của kim tự tháp) đã có lệnh phải khắc bằng số La Mã (tổng cộng là 9) thay vì bằng số Ả rập. Chữ “Saeclorum” đã được khắc thành “Seclorum” trên giải lụa như ta thấy dưới hình Kim Tự Tháp. Câu châm ngôn này gồm 17 mẫu tự. Tổng cộng phái trái của quốc hiệu cả chữ và số là 39. Đây cũng là con số mà các nhà số học đều biết có nghĩa riêng của nó. Ta thấy 3+9 là 12, và 1+2 là 3. Chưa kể số 39 là 3 lần của 13. Trên hình phía mặt trái của quốc hiệu Mỹ, nhận thấy 13 từng gạch của kim tự tháp đang còn dang dở. Hàng chữ “Annuit Coeptis”, cũng có 13 mẫu tự. Theo Nora Forrest, một trong những sáng lập viên Hội Chiêm tinh gia Liên bang Hợp chủng quốc: “Ngày lập quốc của Hoa kỳ đã được hoạch định vào bộ lạc thứ 13 của Do Thái, và Manasseh là đầu đàn của bộ lạc - người mà các nhà lập quốc Mỹ mơ tưởng họ tùy thuộc vào”. Con số 13 cũng là con số của Chúa cùng với 12 tông đồ, con số của Phật với 12 vị đồ đệ, con số của Quetzalcoalt (thượng đế của dân Aztecs) và 12 môn đồ... Tất cả các vị trên cùng với môn đệ của mình đều thành số 13. (Hình: G.Washington với hội Tam Điểm) Trong thời nội chiến Hoa Kỳ, dù liên bang chỉ có 11 tiểu bang, nhưng quốc kỳ Mỹ vẫn có 13 ngôi sao. Tướng George Washington (lúc đó chưa lên làm Tổng thống) và 12 vị tướng dưới quyền đều nằm trong một hội kín (hội Tam Điểm), tổng cộng vẫn 13 người. Đúng giờ tuyên bố độc lập, mặt trời nằm ở vị trí 13 độ trong cung Cancer. Ngoài ra đã có nhiều sự kiện liên hệ đến số 13 trong lịch sử Hoa kỳ. Như trong Đệ I thế chiến, đoàn tàu trực chỉ đến Pháp là 13 chiếc, nhổ neo ngày 13 (June 1917), mất 13 ngày vượt Đại tây dương. Tổng thống lúc đó là Woodrow Wilson, cộng lại là 13 mẫu tự... (Hình: so sánh Kim Tự Tháp với cấu trúc của Tam Điểm) NHỮNG DẤU HIỆU TIỀN ĐỊNH TRONG THIÊN VĂN: Như ta đã thấy không thể nào có một sự ngẫu nhiên kỳ lạ cho các việc trên. “Con số 13 hài hòa với những khuôn mẫu căn bản trong thiên nhiên”. Chim Ưng, Đại Bàng, Phượng Hoàng hay Hỏa Điêu và số 13, cả hai theo các nhà thiên văn Mỹ là một kỷ nguyên tái sinh và biến đổi. Một điều ta nên biết đối với các nhà thiên văn học, Phượng Hoàng là tiến hóa thiên nhiên cao nhất của Bọ Cạp (Scorpion); loài sinh vật độc nhất có thể nhìn thẳng vào ánh sáng mặt trời mà không bị thương tật. Trong ba thể tiến hóa của Bọ Cạp, mức độ thấp nhất là khi Bọ Cạp chết, mức cao nhất là Rắn (tượng trưng cho sự khôn ngoan), và mức cao tuyệt đỉnh là Hỏa Điêu hay Phượng Hoàng. Trong chiêm tinh học, bọ cạp và con số 13 có ý nghĩa căn bản tương tự như nhau. Cho đến ngày nay con số 13 vẫn được nhiều người cho là con số xui xẻo chỉ vì lòng mê tín oái ăm và dễ dãi của con người. Cái dị đoan vin vào sự bội phản Chúa của Judas (13 người trong bàn tiệc), rất khó dựa vào đâu để làm căn cứ. Lòng dị đoan ảnh hưởng cả đến những chuyện làm ăn của người đời. Nhiều văn phòng dịch vụ, phòng ngủ không có phòng số 13. Chủ nhân bỏ con số này và nhảy từ số 12 thẳng đến số 14. Trở lại chim Phượng Hoàng, một loại chim huyền thoại từ Âu sang Á, một biểu tượng cao quý và kỳ công của tạo hóa cho địa cầu. Thời đại tân tiến sau này, người ta đã thêm một ngọn lửa trên đầu Phượng Hoàng; rút cục lại, chả khác gì cái nhãn quan ngày xưa của người Ai Cập cổ kính: chim Phượng Hoàng tái sinh từ tro tàn của mình. Nó là biểu tượng của sự vĩnh cửu, bất diệt và nội tại hằng cửu của sự Sống. Chính vì lý do đó, nhiều nhà đạo học gần đây đã phải công nhận Hoa Kỳ là một linh hồn của Ai Cập tái sinh. Trong niềm ước vọng được bay bổng tít mù vào vũ trụ xa xăm, chim Phượng Hoàng là biểu hiệu cho niềm khao khát sâu xa đó của nhân loại. Thực tế, đối với đôi mắt trần tục, chúng ta không thể thấy chim ưng hay phượng hoàng đang bay trên cao tít mù xanh, vì vượt quá tầm nhìn của mắt. Đại bàng đã là hình ảnh quen thuộc của nhiều dân tộc và bộ lạc qua lịch sử, nhưng không có dấu hiệu của móng vuốt ôm nhành ô-liu và bó tên như chim Ưng của Hoa Kỳ. Những dấu hiệu khác cũng không là một khuôn rập hay bắt chước của cổ La Mã (như quốc hiệu Đức thời Hitler), mà chỉ là những gì tổ tiên của người Hoa Kỳ sáng tạo để phù hợp cho một trật tự mới của nhân loại; với nền tảng xây dựng không phải từ sức mạnh, xâm lăng, gây chiến, nhưng đặt trên lẽ phải, hạnh phúc và an bình... Tất cả các ý nghĩa của quốc hiệu đã được quốc hội Hoa Kỳ chuẩn y bằng một đạo luật năm 1782 và màu sắc này cũng được ứng hợp cho quốc kỳ Mỹ với cùng một ý nghĩa. Quốc Hội Hoa Kỳ cũng đã hai lần được đệ trình với đạo luật đòi hủy bỏ mặt trái Quốc Ấn, nhưng lần nào cũng không thành công (một trong năm 1792, lần khác năm 1884). Công trình của các nhà khoa học chiêm tinh Jefferson, Adams và Franklin cho quốc ấn của Hoa Kỳ vẫn còn đầy đủ hai mặt, với mặt trái lồng vào cái Kim tự tháp Ai cập huyền bí. (Hình: Cấu trúc theo hội Tam Điểm) SỐ MỆNH AN BÀI: Năm 1935, lần đầu tiên, bằng cách thu nhỏ lại, hai mặt của quốc hiệu Hoa Kỳ được in trên đô-la 1 đồng và phát hành rộng rãi. Kim tự tháp (hình này đúng ra do Thomas Jefferson quyết định với sự thỏa thuận của 2 thành viên khác là Adams và Franklin) tượng trưng cho sự trường tồn và vĩnh cửu của liên bang Hợp chủng quốc, cũng như mang một ý nghĩa được dựng nên với sự cẩn trọng tối đa và đầy kiên trì. Kim tự tháp còn dang dở chỉ với 13 tầng, trong ngụ ý, sẽ có nhiều tiểu bang khác sẽ gia nhập. Kim tự tháp có 4 mặt, tượng trưng cho vật chất. Phía trên Kim tự tháp, một hình tam giác ánh sáng chói lòa, bên trong là Thiên Nhãn (con mắt thấy hết mọi sự), tượng trưng cho linh hồn. Nhiệm vụ của nước Mỹ, một tân quốc gia, là phải phối hợp và ứng dụng vật chất lẫn tinh thần để tạo dựng một Trật Tự Mới trong thời đại tân tiến (Aquarian Age). Nước Mỹ đã chứng tỏ trong quá khứ với những chứng tích vĩ đại về canh nông, kỹ nghệ ngay tại lục địa của mình và sau đó mang đến áp dụng cho nhiều quốc gia khác. Tiến trình kế tiếp là Hoa Kỳ phải xây dựng một kỷ cương vật chất trên nền tảng tinh thần, một sự kiện nhân bản đang còn thiếu sót, thiếu hướng thượng. Tiến bộ về khoa học nhưng bỏ quên linh hồn là một thiếu sót lớn cần được bổ sung. Câu châm ngôn phía trên Kim tự tháp “Annuit Coeptis”, có thể hiểu: “Thượng đế quan tâm đến công việc chúng ta” và câu châm ngôn phần dưới Kim tự tháp, Novus Ordo Seclorum, có nghĩa “Thời đại của trật tự mới”.Quốc Hội Mỹ khi chấp thuận quốc ấn này, đã tuân hành những ẩn dụ mà các vị dân cử trong hội chiêm tinh gia đề xướng. Benjamin Franklin và nhóm của ông mất 4 năm để hoàn thành Quốc Ấn và phải đợi 2 năm nữa để các vị dân cử trong Quốc Hội tranh cãi trước khi được chấp thuận. * Tóm lại, từ xưa tới nay, thịnh suy của một quốc gia không đi ngoài sự sắp đặt theo luật tuần hoàn của vũ trụ. Đi sâu vào ý nghĩa của quốc hiệu Hoa Kỳ, căn cứ theo tài liệu của chính người Mỹ (Độc giả nào muốn biết thêm về quốc hiệu của Hoa Kỳ, có thể xin Bộ Ngân Khố Mỹ, tạp chí Egypt, ấn bản Spring 1952, có tiêu đề “The Great Seal of the United States”, tác giả là Maury Maverick), chúng ta thấy quốc gia tân lập hơn 200 năm này đã làm nhiều chuyện “động trời” trên thế giới. Liệu chúng ta tin được bao nhiêu phần trăm vào những điều bí ẩn mà người viết sách giải nghĩa cho quốc hiệu của họ? Ai đã ra lệnh phóng hình ảnh quốc hiệu Hoa Kỳ vào không gian? Cũng như năm ngoái (LTS: Năm ngoái trong bài là năm 1992, bài này đầu tiên đăng trên Việt Nam Press vào tháng 11 năm 1993, dài và nhiều chi tiết hơn, được người sưu khảo lược bớt cho ngắn gọn in trên tuần báo Tình Thương năm 2003), phi thuyền không gian Nga Sô đi vào vũ trụ, ngoài những nhiệm vụ khác, chúng ta còn thấy báo chí loan tải các phi hành gia Nga đã được lệnh xóa bỏ dấu hiệu “búa liềm” trên không gian. Ai đã ra lệnh họ xóa đi hình ảnh biểu trưng cho cộng sản đó? Rốt cuộc, lưu giữ hay xóa bỏ hình ảnh trong vũ trụ của hai quốc gia dẫn đầu về lãnh vực không gian là một “trò chơi kỹ thuật” hay biểu hiện cho một lòng sùng tín nào đó? Câu trả lời xin dành cho quí độc giả. Thiết Trượng (1993)
-
HỘI TAM ĐIỂM Hội tam điểm hay còn gọi là hội kín Illuminati là 1 hội có từ xa xưa , ko ai biết chắc chắn nó bắt đầu từ đâu , theo tiếng Latin có nghĩa là những người được thần linh khai sáng. Illuminati có lẽ là hội kín bí mật nhất trong số các hội kín trên thế giới. . Hình như nó là 1 hội của các người thợ chuyên xây cất các thánh đường xa xưa vốn chứa nhiều điều bí ẩn . Các đoàn viên đều phải giữ bí mật nghề nghiệp nên dần dần trở thành 1 hội kín . Các hội viên đều được tuyển chọn trong những phần tử trí thức và quyền quí . Mỗi hội viên khi gia nhập đều phải qua 1 nghi lễ rửa tội và nhận 1 con vật làm hộ mệnh . Mục tiêu của hội này là triệt hạ tất cả những tôn giáo , nhất là Thiên Chúa Giáo để xây dựng 1 tòa nhà lý tưởng cho nhân loại Không dừng lại thời xa xưa đó, Illuminati ngày nay còn được xem là đã xâm nhập tận trong các trung tâm quyền lực ở Mỹ. Marcus Allen của tờ Nexus Magazine cho rằng toàn bộ hệ thống chính trị ở Hoa Kỳ và Anh là do... một nhóm trí thức ưu tú thuộc Illuminati kiểm soát. Ở Mỹ, Illuminati được xem là có chân rết trong Hội đồng Ngoại giao, một hội đồng hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ (xem The Illuminati and the council on foreign relations, Myron Fagan), và một hội kín mang cái tên rất “hình sự” là Skull and Bones” (Sọ và xương người). Đề quyết này cũng tương tự như việc cho rằng ở Pháp hội Tam Điểm len lỏi tận trong các chính quyền. Dấu vết cụ thể nhất của Illuminati ở Mỹ chính là những dấu chỉ bí mật trên tờ giấy bạc 1 đôla Mỹ. Phía sau tờ giấy bạc này ta thấy bên trái có một kim tự tháp chưa xây xong, còn thiếu hòn đá chóp; trên có hình con mắt, con mắt thấy hết mọi sự. Phía dưới tháp có khẩu hiệu “Novus ordo seclorum” (có nghĩa là “trật tự mới toàn cầu”). Bên phải có con chim phượng hoàng, mang một tấm vải vuông trước bụng; trên đó thường có vẽ những biểu tượng bí ẩn. Nếu đúng là như thế, thế lực của Illuminati quả là đáng gờm khi khẩu hiệu và biểu hiệu của họ không hiểu vô tình hay cố ý mà được in trên giấy bạc 1 đôla. Trong hơn 200 năm qua, hội kín đầy bí ẩn này đã chất chứa vô số giai thoại nổi tiếng .Mục đích tối hậu của hội kín này là lật đổ thế quyền và thần quyền khắp nơi, cải biến bản chất của con người và thống trị toàn thế giới, liên kết mọi quốc gia dân tộc thành một đế chế toàn cầu. Chính vì thế, Illuminati còn được dùng đồng nghĩa với “trật tự thế giới mới”. Thường thì Illuminati hoạt động trong bóng tối, bí mật kiểm soát các vấn đề của thế giới, trong hậu trường chính trị. Lực lượng của Illuminati bao gồm những trí thức có thế lực và những chính khách cấp tiến, trong đó có cả những văn tài thế giới như Goethe và Herder... Có nhiều ý kiến cho rằng thành viên của hội này cơ bản được lôi kéo từ hội Tam Điểm dù không có bằng cớ chứng minh cho liên hệ này. Illuminati tỏa ra khắp các nước châu Âu dưới dạng nhóm bán công khai. Ở Anh có hội Fabian và hội Round Table; ở Mỹ có Hội đồng Ngoại giao. Illuminati còn được xem là có chân trong Câu lạc bộ Rome mà đằng sau các tổ chức này là một thành phần cốt yếu gồm các nhà băng quốc tế; đặc biệt là các tập đoàn tài chính Rothschild và Rockefeller. Illuminati tồn tại dưới nhiều danh xưng, nhiều hình thức bí mật, bán bí mật, công khai, với nhiều cơ quan có “bảng hiệu” khác nhau. Một vài nguồn tin cho rằng Bavarian Illuminati vẫn tồn tại cho đến hôm nay, dù rất ít chứng cứ cho thấy hội kín này của Weishaupt tồn tại đến thế kỷ 19. Tuy nhiên, một vài hội nhóm đã dùng cái tên Illuminati để gọi cho hội nhóm mình như Grand Lodge Rockefeller của David Goldman (Mỹ), Orden Illuminati của Gabriel López de Rojas (Tây Ban Nha), và The Illuminati Order của Solomon Tulbure (Mỹ). Ở Việt Nam Hội Illuminati du nhập từ thời Toàn quyền Pháp P.Pasquier (1937) và bành trướng tại miền Bắc vào thời Thống Chế Petáin . Đến thời Bảo Đại dưới chính phủ Trần Văn Hữu và Nguyễn Văn Tâm hội lại càng hoạt động mạnh và xâm nhập vào bộ máy chính quyền. The Masonic Seal of America Đầu tiên bạn hãy nhìn vào biểu tượng kim tự tháp: Dòng chữ Latin: "Annuit Coeptis " nghĩa là "Thông báo về sự ra đời của " và " Novus Ordo Seclorum " là " Trật tự thế giới mới " . Vì vậy nghĩa của nó là : " Thông báo về sự ra đời của trật tự thế giới mới ".Ngày theo số La Mã trên biểu tượng là 1776 , đó là năm thành lập của hội kín Illuminati và cũng chính là năm ra đời Hợp Chủng Quốc Hoa Kì . Từ Latin 'E Pluribus Unum' nghĩa là " 1 phần của rất nhiều " , đây là nền móng cho kế hoạch thống nhất toàn thế giới của New World Order về : chính phủ , tôn giáo và tiền tệ . Vì vậy thế giới có thể được kiểm soát dễ dàng. Tỷ lệ các cạnh của Kim Tự Tháp là 600, 60, 6 tương ứng với con số của quỷ SATAN 666 theo hình sau: See below for more Masonic hidden symbolism. Hệ thống chữ số mà hội Tam Điểm thiết kế nên biểu tượng là hệ lục phân (của người Babylon),nếu quy đổi sang hệ thập phân tương ứng là 1000,100,10.Nếu ta cộng lại các số trên ta được 1000+100+10+600+60+6=1776 là năm thành lâp tổ chức đồng thời là năm thành lập Hợp Chủng Quốc Hoa Kì.Sáu chữ trên các đình tam giác khi ghép lại tạo thành chữ MASON( nghĩa là hội Tam Điểm) Giờ đến biểu tượng con đại bàng .Hãy nhìn lên trên đầu con đại bàng , bạn sẽ thấy có 13 ngôi sao 5 cánh bên trong đám mây . Những ngôi sao 5 cánh được sắp xếp theo hình dạng của 1 ngôi sao 6 cánh . Nhưng có 1 điều : ngôi sao 6 cánh là biểu tượng của những kẻ thờ quỷ Satan . Đó cũng chính là hình có 6 điểm , 6 góc , 6 mặt phẳng ( 666 ) , dấu hiệu của những kẻ chống Chúa . Tiếp tục ta thấy được có: 13 chiếc lá trên cành oliu 13 thanh chắn và vệt sọc trên chiếc khiên 13 mũi tên ở móng phải ( móng vuốt con đại bàng ) 13 chữ ở trên ruy-băng 13 ngôi sao 32 chiếc lông dài bên cánh phải tượng trưng cho 32 cấp bậc trong luật Hội Tam Điểm 13 hòn đá trên Kim Tự Tháp. Ngoài ra , 13 ngôi sao 5 cạnh trên đồng tiền nếu nhân lên sẽ ra số 65 . Đây là 1 con số bí ẩn trong chủ nghĩa thần bí Châu Âu .Năm 1841 , đại bàng đã thay thế cho phượng hoàng vào để trở thành biểu tượng của quốc gia. Kế đến bạn hãy nhìn vào đồng 1 USD của Hoa Kì do hội Tam Điểm thiết kế: Ta thấy chúng có nhiều điểm tương quan với nhau như: Ở bên phải bức hình chân dung George Washington trên đồng 1$ ( tiền giấy ) bạn sẽ thấy dòng chữ "Seal of the Department of the Treasury" ( nôm na nghĩ là dấu ấn của kho báu ) . Nó gồm có : chìa khóa , cái cân của công lí và hình vuông - biểu tượng cực kì quan trọng của HTD ( xin chú ý là cái hình vuông theo lời của họ chính là hình ^ ngăn cách cái cân và chiếc chìa khá đó ) . Nếu nhìn vào hình ngăn cách bạn sẽ thấy có 13 lỗ trong đó , và có 39 chấm xanh bao quanh 3 hình này ( chìa khóa , cái cân và hình ngăn cách ) . Hãy nhớ đó là 39 . Chia đôi sẽ được 19.5 . Số 19.5 có thể bắt gặp trong các thiết kế của Cydonia, Mars, Avebury, England and Washington D.C. Hình trên cho bạn thấy được một con cú nhỏ ờ góc bên phài tờ 1 USD Khá nhiều lần các chính trị gia của Mỹ giơ tay về phía máy ảnh với bàn tay hình con cú. Qua đó ta thấy được sự liên quan nào đó giữa tổ chức Illuminati ,biễu tượng của HK,và đồng 1 USD.Vậy liệu thật sự có một tổ chức nào đuợc thành lập để kiễm soát hậu trường chính chị trên thế giới khi đa phần những người thành lâp nên quốc gia HK là thành viên của hội Illuminati. Nguồn: Sưu tầm từ internet
-
TIẾNG CHÀM CÓ THỂ LÀ NGUỒN GỐC CỦA VĂN TỰ PHI LUẬT TÂN GEOFF WADE University of Hong Kong NGÔ BẮC dịch I. VĂN TỰ PHI LUẬT TÂN Năm 1593, một quyển sách in từ mộc bản (bản khắc gỗ) đáng lưu ý nhất được ấn hành tại Manila, bao gồm tập Doctrina Christiana (Học Thuyết Thiên Chúa Giáo) của Juan de Plascenia bằng tiếng Tây Ban Nha, bằng tiếng Tagolog được ký âm sang mẫu tự La Mã, và bằng văn tự Tagalog (xem Bảng 1) (1) Trong khi vẫn còn một vài sự tranh luận về việc đây có phải là quyển sách đầu tiên được ấn hành tại Phi Luật Tân hay không (2), ít có sự nghi ngờ rằng quyển sách này đã làm thành thí dụ về ấn phẩm đầu tiên còn sót lại của bất kỳ chữ viết nào của Phi Luật Tân. Bảng 1: Một trang trong quyển Doctrina Christiana in tại Manila năm 1593. Khoảng hơn 10 năm sau đó, trong năm 1604, một tác phẩm của linh mục Dòng Tên Pedro Chirino, người đã sống 12 năm tại Phi Luật Tân từ năm 1590 đến 1602 (3), ấn hành tại Rome với nhan đề Relación de las Islas Filipinas (Các Quan hệ Của Quần Đảo Phi Luật Tân). Trong Chương 10 của tác phẩm này, Chirino ghi nhận: “Tất cả người dân quần đảo này đều được học đọc và viết và hiếm có một người đàn ông nào, càng ít hơn nhiều đối với phụ nữ, lại không biết đọc và viết bằng thứ chữ được dùng trong đảo Manila – các văn tự hoàn toàn khác biệt với thứ chữ của Trung Hoa, Nhật Bản và Ấn Độ. (4). Kế đó ông tiến đến việc trình bày chi tiết và minh họa văn tự mà ông đã đề cập đến, như gồm mẫu viết ba nguyên âm (dùng để tượng trưng cho năm nguyên âm) và mười hai phụ âm. Các phụ âm, ông ghi nhận, thường được đọc với một âm gắn liền với nguyên âm “a” cơ hữu, nhưng nếu có kèm một dấu phát âm ở trên hay dưới, cũng có thể được đọc với âm “i “ hay “e” (có dấu phát âm bên trên phụ âm) hay “o” hay “u” (có dấu phát âm bên dưới phụ âm) (xem Bảng 2). Sự mô tả của Chirino có vẻ cấu thành sự mô tả sớm nhất về mẫu tự “Manila” (tiếng Tagalog), hay một chính xác hơn (như vạch ra bởi Juan R. Francisco (5) một “ bảng các âm tiết (vần): syllabary”, và cơ chế cho sử dụng của nó. Bảng 2: Bảng Vần (Âm Tiết) “Manila” của Chirino, trong quyển Relacion de las Filipinas (1604). Quyển sách Sucesos de las Islas Filipinas của Antonio de Morga, được ấn hành trong năm 1609, tổng hợp phần lớn những gì đã được hay biết khi đó bởi người Tây Ban Nha về Phi Luật Tân và bao gồm các chi tiết về các ngôn ngữ và văn tự, ghi nhận: Ngôn ngữ của tất cả sắc dân Pintados và Bicayas là một và giống nhau, nhờ đó họ hiểu được người khác khi nói chuyện, hay khi viết bằng các mẫu tự và dấu hiệu riêng mà họ sở đắc. Các mẫu chữ này trông giống như các mẫu tự của người Ả Rập. Cách viết thông thường giữa các người dân bản xứ là viết trên lá cây và trên vỏ cây tre … Ngôn ngữ của đảo Lữ Tống (Luzon) và của những đảo lân cận nó thì khác biệt sâu xa với ngôn ngữ của vùng Bicayas … Thổ dân khắp các đảo có thể viết một cách thành thạo bằng một số mẫu tự nào đó, gần giống như tiếng Hy Lạp hay Ả Rập. Các mẫu tự này gồm tất cả mười lăm mẫu tự. Có ba nguyên âm, được dùng như năm nguyên âm của chúng ta. Số phụ âm là mười hai, và từng một và tất cả chúng được kết hợp với một số dấu chấm hay phẩy nào đó, và như thế sẽ mang bất kỳ ý nghĩa nào mà người ta muốn viết ra, một cách trôi chảy và dễ dàng như thể được làm với các mẫu tự tiếng Tây Ban Nha của chúng ta. Cách viết là viết trên cây tre, nhưng bây giờ là trên giấy, bắt đầu các hàng viết từ bên tay phải và chạy sang trái theo cách của Ả Rập. Hầu như tất cả các thổ dân, cả đàn ông lẫn đàn bà, đều biết viết ngôn ngữ này. Chỉ có ít người là không viết được một cách trôi chảy và chính xác. (6) Một tài liệu khác không ký tên được gán cho là của Diego de Bobadilla S.J. và có nhật kỳ khoảng năm 1640, bao gồm một sự thảo luận sâu xa hơn và có bản minh họa văn tự sử dụng tại đảo Lữ Tống (7). Một điểm đáng lưu ý là trong bản minh họa này, giống như bảng mẫu tự của Chirino, không có bao gồm phần minh họa của các vần “nga” và “wa” (xem Bảng 3). Bảng 3: Hình mẫu văn tự “Tagál” từ một tài liệu không ký tên. được cho là của Diego de Bobadilla. Sự tham khảo phần chú giải cuối cùng của thế kỷ thứ mười bẩy được gồm trong tập Labor evangélica của Francisco Colin, có nhật kỳ vào hậu bán thế kỷ đó, nơi phần tham chiếu “các mẫu tự của người Phi Luật Tân,” tác giả đã ghi nhận rằng “các mẫu tự nguyên âm chí có ba chữ, nhưng chúng được dùng cho năm nguyên âm khi áp dụng; bởi nguyên âm thứ nhì và thứ ba không phân biệt các nguyên âm e, i, y, o hay u, mà [thay đổi] tùy theo sự yêu cầu bởi ý nghĩa hay ý niệm của từ ngữ được nói hay viết ra. Các phụ âm gồm mười ba phụ âm trong số lượng và được dùng (ngoại trừ khi khởi đầu nhóm từ hay là chữ khởi đầu) như phụ âm và nguyên âm; bởi khi mẫu tự đứng một mình không có dấu chấm ở trên hay ở dưới, sẽ được phát âm với âm của mẫu tự “A”. Nếu có dấu chấm đặt ở trên, phụ âm được phát âm cùng với âm của mẫu tự “e” hay “i”. Nếu dấu chấm được đặt ở dưới, nó sẽ được phát âm với cùng với âm “o” hay “u”. Chính vì thế, mẫu tự “B” với dấu chấm bên trên sẽ được phát âm là “bi” hay “be”, và với dấu chấm ở dưới, sẽ được phát âm là “bo” hay “bu”. Tầm quan trọng của phần tham chiếu này là con số 13 phụ âm, trái với số 12 phụ âm trước đây, được thừa nhận. Thay vì tiếp tục thuật lại các sự tham khảo lịch sử về các văn tự Phi Luật Tân, như thế cũng đã đủ bởi mục đích của chúng ta nơi đây chỉ là đơn giản ghi nhận rằng cùng với các thế kỷ kế tiếp, sự kiện trở nên rõ rệt cho các người quan sát bên ngoài là bảng mẫu tự sẽ bao gồm ba nguyên âm và 14 phụ âm. Tác giả Pardo de Tavera đã cũng cấp một bảng hữu ích các mẫu biến thể được ghi chú bởi các văn gia khác nhau về mẫu tự và bảng này được tái tạo bởi tác giả Francisco (xem Bảng 4) (9). Bảng 4: Các âm tiết (vần) Phi Luật Tân (theo Pardo de Tavera) (từ Francisco, Philippine Palaeography, trang 93) Có lẽ cũng là điều thích đáng để ghi nhận nơi đây về “Thủ Bản Mẫu Tự của Boxer”, được gán cho tác giả Boxer vào khoảng năm 1590 (10), bao gồm một sự tham chiếu về các văn tự Phi Luật Tân, cho hay rằng cùng với các sự việc khác, “họ không có sách vở và không có lịch sử, và họ không viết dài dòng ngoại trừ khi viết thư từ và các văn kiện cho nhau. Nhằm mục đích này họ có các mẫu tự với tổng số chỉ gồm mười bẩy chữ cái” (11). Chính “Thủ Bản Mẫu Tự của Boxer” và tập Doctrina Christiana, cả hai được cho là xuất hiện trong thập kỷ 1590, ghi chép 17 “chữ cái” trong văn tự Tagalog, trong khi nhiều tác phẩm sau đó trong thế kỷ mười bảy chỉ ghi nhận có 15 hay 16 mẫu tự” như thế, khiến ta nghĩ rằng hoặc đó là các sự sai biệt theo dòng thời gian, hay, với nhiều xác xuất hơn, bởi người Tây Ban Nha đã đi tìm hiểu về các văn tự Phi Luật Tân xuyên qua các chiều hướng cách biệt và khác nhau. Các sự khám phá gần đây hơn về các thí dụ ban đầu của văn tự bao gồm hơn 100 mẫu chữ ký của người Phi Luật Tân có nhật kỳ từ 1603 đến 1645, được lưu trữ tại trường Đại Học University of Santa Tomas và Văn Khố Quốc Gia Phi Luật Tân (12). Sự xác thực của thí dụ duy nhất hay biết được về một chiếc bình bằng đất có khắc chữ có thể thuộc thời tiền Tây Ban Nha, chiếc bình Calatagan nổi tiếng, hãy còn là điều bị tranh luận (13). Ngoài ra, sự tiếp tục sử dụng, cho đến ngày nay, các loại văn tự khác biệt bởi sắc dân Tagbanuwa tại đảo Palawan và sắc dân Mangyan thuộc đảo Oriental Mindoro, đà cung cấp cho các nhà nghiên cứu nhiều thông tin về các hình thái khác nhau của văn tự cũng như các truyền thuyết liên quan đến các nguồn gốc của văn tự (14). Một thí dụ về sự sử dụng hiện đại văn tự Mangyan được biểu thị nơi Ảnh 1. Ảnh 1: Một Thí Dụ Hiện Đại của Văn Tự Mangyan (từ A. Postma, “The Unchanging Mangyan” trong Filipino Heritage: The Making of A Nation, tập 2, các trang 555-60). Chúng ta dễ dàng suy tưởng rằng các văn tự được sử dụng để viết các ngôn ngữ Tagalog, Bisayan, Tagbanuwa và Mangyan có chung một nguồn gốc nguyên thủy, duy nhất bởi chúng có cùng chung các thành tố (15), và chính sự tìm kiếm nguồn gốc duy nhất này từ lâu làm bận tâm các học giả. II. CÁC LÝ THUYẾT VỀ NGUỒN GỐC CỦA VĂN TỰ PHI LUẬT TÂN Các nhà quan sát gốc Tây Ban Nha ban đầu không ưa thích việc suy tư về các nguồn gốc của các văn tự mà họ khảo sát tại Phi Luật Tân. Sự nhận xét của Chirino rằng các mẫu tự được sử dụng bởi người Phi Luật Tân thì “hoàn toàn khác biệt với mẫu tự của Trung Hoa, Nhật Bản, và Ấn Độ (16) khiến chúng ta nghĩ rằng ông đã không nhìn ra bất kỳ sự liên kết nào giữa văn tự đuợc sử dụng tại Phi Luật Tân và các cách thức viết chữ đưọc sử dụng tại các khu vực khác của Á châu. Tuy nhiên ông có ghi nhận rằng “Sắc dân Bisaya … không có mẫu tự cho mãi đến khoảng vài năm trước đây, họ vay mượn chữ viết của mình từ sắc dân Tagalos” (17). Trong hậu bán thế kỷ thứ mười bẩy, Francisco Colin đã sẵn sàng để đưa ra ý kiến của mình hơn. “Từ hình thức, số lượng và sự sử dụng các dấu và chữ cái của dân tộc này, điều khá rõ rệt là chúng đều được du nhập từ vùng Moro Malaya và có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập” (17). Hai thế kỷ sau đó, tác giả người Anh John Crawfurd, trong quyển Descriptive Dictionary of the Indian Islands and Adjacent Countries, được ấn hành lần đầu nằm 1856, phát biểu quan điểm của ông rằng văn tự là một phát minh địa phương. Ông ghi nhận rằng “hình thức của các chữ, vả chăng, hoàn toàn khác biệt với hình thức của bất kỳ bảng mẫu tự Mã Lai nào, và, bởi thế, chữ viết của Phi Luật Tân phải được xem có gốc bản xứ” (18). Trong vòng 150 năm vừa qua đã thấy xuất hiện một khối trước tác đa dạng liên quan đến văn tự Phi Luật Tân và nhiều tác phẩm trong số này chứa đựng các đề xướng và ý kiến về nguồn gốc văn tự Phi Luật Tân. Một sự khảo cứu các ý kiến này, cùng với một thư tịch trọn vẹn, được bao gồm trong quyển Philippine Palaeography của Francisco, và bản tóm tắt dưới đây sẽ lược qua các lý thuyết chính được chọn lọc từ tác phẩm này (19): 1. Trong quyển The Alphabet được biên soạn năm 1883, Isaac Taylor đề xướng rằng, dựa vào các sự tương tự với văn tự của Ấn Độ, văn tự Tagalog đã được du nhập trực tiếp từ vùng Bengal trước thế kỷ thứ tám sau Thiên Chúa, và rằng các mẫu tự của vùng Sulawesi và Makassar kế đó đã được rút ra từ văn tự Tagalog. 2. Tác giả Fletcher Gardner, trong tập Philippine Indic Studies của ông, ấn hành năm 1943, đề xướng rằng các văn tự Phi Luật Tân đã được phát minh, dựa trên căn bản các văn tự của Brahmi và Karoshti, bởi các tu sĩ Ấn Độ hay các văn gia du hành sang vùng Đông Nam Á. Đây là phần khai triển xa hơn các tư tưởng đã được đưa ra trong tác phẩm trước đây của ông có nhan đề Indic Writings of the Mindoro-Palawan Axis, được viết với sự cộng tác của Ildefonso Maliwanag. 3. Năm 1948, David Diringer, nhà biên soạn tập The Alphabet, A Key to the History of mankind, nêu ra ý kiến rằng văn tự [Phi Luật Tân] đã phát sinh từ mẫu tự của dân đảo Java và đã du nhập đến Phi Luật Tân xuyên qua sự trung gian của văn tự Buginese. Lý thuyết về mẫu tự Java này được phát triển thành các mẫu âm tiết (vần) của Sulawesi và tiếp đó tiến hóa thành văn tự Phi Luật Tân cũng được tán đồng bởi Harold Conklin và Robert Fox. Fox đã nêu ý kiến rằng sự kiện văn tự Phi Luật Tân không ghi âm các phụ âm sau cùng đã phản bác tư tưởng về sự du nhập trực tiếp các văn tự từ đảo Java, và hậu thuẫn cho ý tưởng cho rằng văn tự Buginese, tương tự, cũng không có ghi âm các phụ âm sau chót, là một hình thức văn tự trung gian. William Henry Scoytte cũng tin tưởng rằng kiểu mẫu các chữ viết Phi Luật Tân “có thể là một văn tự được dùng bởi một sắc dân vùng Sulawesi chẳng hạn như người Bugis mà ngôn ngữ ít khi dùng đến các phụ âm sau cùng” (20). (Các âm tiết tiếng Buginese được trình bày nơi Bảng 5). 4. Trong một bài viết nhan đề “Some Data on South Indian Cultural Influences in South East Asia, được ấn hành trong tập Tamil Studies năm 1964, tác giả V.A. Makarenko đề xướng thuyết nguồn gốc Tamil cho văn tự Phi Luật Tân, nêu ý kiến về một cuộc di dân từ Nam Ấn Độ sang Đông Nam Á năm 200 trước Thiên Chúa và tuyên bố rằng bằng chứng khảo cổ học từ Phi Luật Tân hậu thuẫn cho lý thuyết này. Bảng 5: Vần (âm tiết) Bugis (từ quyển Compendium of the World’s Languages, của G.C. Campbell (London, 1991), trang 1503. Đây là những lý thuyết chính được đề ra về nguồn gốc của văn tự Phi Luật Tân trước khi có sự ấn hành quyển Philippine Palaegraphy, mà trong căn bản có thể chia thành hai nhóm chính: 1. Sự du nhập các văn tự trực tiếp từ Ấn Độ. 2. Sự phát triển các chữ viết Phi Luật Tân từ văn tự Buginese và sâu xa hơn hết, từ mẫu tự của dân đảo Java. Francisco bác bỏ ý kiến về sự di dân và du nhập trực tiếp từ Ấn Độ các văn tự trên cả hai nền tảng ghi chép theo niên lịch (biên niên sử) và ngôn ngữ/cổ tự (chữ xưa), trong khi ông cũng bác bỏ “ lý thuyết Buginese” với lý do là “chúng ta không thể trông thấy bất kỳ sự tương đồng nào về cổ tự (chữ khắc xưa) giữa hai hệ thống viết chữ” (21). Ý kiến riêng của Francisco về nguồn gốc văn tự Phi Luật Tân được đặt trên sự nghiên cứu và so sánh sâu rộng chữ cổ của các văn tự phát khởi từ Ấn Độ thời ban sơ tại các phần đất khác trong vùng Đông Nam Á, và ông đã kết luận rằng văn tự Phi Luật Tân “thuộc vào cùng họ với các hệ thống của đảo Sumatra”. Ông cũng trích dẫn Mervyn Jaspan, nhà khảo cứu về văn tự Sumatra, người trước đó đã kết luận rằng “có một sư tương hợp cao độ giữa các văn tự của Sumatra và Phi Luật Tân Ấn Độ (Philippine Indic)” (22). Trong một ấn phẩm sau này, Francisco trình bày quan điểm của mình một cách chi tiết hơn: Các chữ viết theo vần cổ xưa của Quần Đảo [Phi Luật Tân] được tin là có tổ tiên từ văn tự Pallava Grantha thuộc miền Nam Ấn Độ. Nhưng sự phát triển của chúng để thành văn tư như chúng đã có (và hãy còn đang được sử dụng bởi sắc dân Tagbanuawa tại đảo Palawan và sắc dân Mangyan tại miền Nam Đảo Oriental Mindoro) chỉ có thể được hiểu xuyên qua các hình thức trung gian của văn tự đảo Sumatra (23). Cuộc tranh luận sâu rộng về chiều hướng/ tiêu đích được sử dụng trong cách viết chữ của văn tự Phi Luật Tân sẽ không được nghiên cứu ở đây, bởi vì, như các bản báo cáo đã trình bày, cách viết theo chiều dọc, chiều ngang, từ trái qua phải, từ phải qua trái, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên của văn tự, tôi không tin điều này có một tầm quan hệ lớn lao trong sự tìm kiếm nguồn gốc của văn tự. III. TIẾNG CHÀM CÓ THỂ LÀ MỘT NGUỒN GỐC? Vai trò lịch sử của dân Chàm là những người, trong vài thiên niên kỷ vừa qua đã cư ngu trong các miền mà ngày nay tạo thành miền nam Việt Nam và Căm Bốt, vẫn còn là một trong những khía cạnh ít được nghiên cứu nhất trong lịch sử Đông Nam Á. Tuy thế, điều hiển nhiên từ những nguồn tư liệu được cung cấp ngày nay cho thấy các hoạt động hàng hải của họ thì dàn trải rất rộng rãi và rằng vai trò mà họ đã đóng giữ trong mạng lưới mậu dịch trong vùng không phải là không đáng kể. Công trình tham khảo tiêu chuẩn về xứ Chàm vẫn là quyển Le Royaume de Champa (24) của Georges Maspero nhưng sự nghiên cứu gần đây, chủ yếu bởi các học giả người Pháp, cũng được cung cấp. Một tuyển tập giá trị các bài viết về lịch sử, văn hóa và văn chương Chàm, nhan đề Kerajaan Campa, và biên soạn bởi Trường Viễn Đông Bác Cổ (École Francaise d’Extrême-Orient được ấn hành tại Jakarta dưới sự bảo trợ của Balai Pustaka năm 1981 (25). Công trình này bao gồm một thư tịch, được sưu tập bởi P. – V. Manguin, các tác phẩm liên quan đến xứ Chàm và các sự nghiên cứu về Chàm và tài liệu này làm thành thư tịch đầy đủ nhất về các công trình biên khảo như thế cho đến nay (26). Trong tập La Statuaire du Champa, tác giả J. Boisselier có cung cấp một sự nghiên cứu sâu rộng về hình tương của người Chàm, bao gồm một số sự tham chiếu về các văn tự trên bia ký liên hệ (27). Lịch sử cổ tự của các vương quốc Chàm đã được trình bày chi tiết trong Tập San (Bulletin) và các ấn phẩm khác của Trường Viễn Đông Bác Cổ trong thế kỷ vừa qua. Các bản dịch sang Anh ngữ nhiều bản văn bia ký này được cung cấp bởi R.C. Majumdar trong tác phẩm của ông về xứ Chàm ấn hành năm 1930 (28). Majumdar sau đó cũng đóng góp một bài viết quan trọng về sự nghiên cứu chữ cổ của các bia ký của người Chàm (29). Tuy nhiên, bất kể đến số lượng nghiên cứu không phải là không đáng kể, chỉ có sự lưu tâm ít về mối liên quan giữa các văn tự Chàm được dùng trong các bản văn bia ký, với các văn tự Chàm bản gốc, viết tháu (viết ngoáy kiểu thảo) “hiện thời, hay về sự tiến hóa đến cách viết ngày nay”. Chính trên văn tự “hiện đại” này mà các tác giả Aymonier và Cabaton đã soạn thành quyển Từ Điển Chàm-Pháp (Dictionnaire Cam-Francaise), được ấn hành trong năm 1906 (3). Tôi tin tưởng rằng bởi việc khảo sát hình thức gần cận hơn của mẫu chữ viết của người Chàm song song với các mẫu cổ tự được nhìn thấy trong các bia ký, chúng ta sẽ có thể xác định một vài tiền thân của các mẫu chữ được xuất hiện trong các văn tự Phi Luật Tân. Trong phần giới thiệu quyển tự điển của họ, các tác giả Aymonier và Cabaton đã cung cấp các thí dụ về các văn tự Chàm tiêu chuẩn được sử dụng tại Việt Nam (ký danh là A) và tại Căm Bốt (ký danh là C) (xin tham khảo Bảng 6 và Bảng 7) và đã mô tả các biến thể như sau: 1. Akhar Srab (Chữ viết thông thường) – Đây là văn tự Chàm viết tháu tiêu chuẩn được dùng tại Việt Nam và Căm Bốt. Nó tương ứng với Aksar Chrieng của người Khmers. 2. Akhar Tapul (Văn Tự Văn Chương) -- Loại hình này được dùng chính yếu tại Căm Bốt. 3. Akhar Garmin (“Chân Con Nhện”) -- Một văn tự biến thể cũng được dùng bởi người Chàm tại Căm Bốt. 4. Akhar Yok (Văn Tự Thần Bí) -- được dùng ở Việt Nam để cầu nguyện v.v… Điều khác thường là, không giống như âm tiết tiêu chuẩn, các mẫu tự chỉ phụ âm được đọc mà không có âm chữ “a” đi cùng. 5. Akhar Atuo’l -- Một văn tự biến loại được dùng tại Việt Nam. Với các cách viết hoa mỹ hơn, nó được gọi là loại chữ “kết (monogram) “ [hai hay nhiều mẫu tự được viết lồng vào nhau, chú của người dịch]. 6. Akhar Rik – Được dùng ở Việt Nam. Một thể loại đặc biệt của bảng âm tiết (vần), trong đó các mẫu chữ “treo” (móc) từ các nét phía trên hàng ngang. Sự tương đồng của các nét phía trên hàng ngang này với các nét matra hàng ngang đặc trưng cho các mẫu chữ deva-nagari của Ấn Độ hiển hiện rõ ràng. (Về mẫu của một vài chữ trong các văn tự này, xem Bảng 8). Bảng 6: Mẫu tự Chàm được dùng tại Việt Nam (từDictionnaire Cam-Francaise, của Aymonier và Cabaton, trang xviii) Bảng 7: Mẫu tự Chàm được dùng tại Căm Bốt (từ Dictionnaire Cam-Francaise, của Aymonier và Cabaton, các trang xviii-xix). Bảng 8: Các biến thể của mẫu chữ Chàm (Dictionnaire Cam-Francaise) Khi đề cập đến các biến thể này và khi cung cấp các mẫu biểu thị sự đa trạng của chúng điều này gợi ý rằng đã có nhiều biến thể của các văn tự được sử dụng bởi người Chàm, điều mà đến lượt nó lại mang ý nghĩa rằng bất kỳ một thể loại nào trong nhiều biến thể đều có thể đã cung cấp kiểu mẫu cho các văn tự Phi Luật Tân. Sự đa trạng của các mẫu chữ trong các văn tự cá biệt thuộc ngữ hệ Ấn Độ được nhấn mạnh bởi De Casparis là người đã ghi nhận rằng “không thể xác định hình thể chính xác của một aksara, vốn là một thể loại lý tưởng có thể đạt đến một cách gần đầy đủ nhưng không hoàn toàn được. Trong thực tế, mọi aksara xảy ra trong một số các biến thể: phạm vi mà trong đó aksara “di chuyển” (32). Dưới đây, tôi muốn so sánh các thí dụ của các mẫu chữ Phi Luật Tân với các mẫu chữ trong văn tự Chàm, trong một nỗ lực để trình bày nhiều sự tương đồng khác nhau. Với các vần (âm tiết) Phi Luật Tân, tôi đã sử dụng, trước tiên, một số thí dụ được cung cấp bởi tác giả Francisco trong quyển Philippine Palaeography (33) của ông, vốn được rút ra từ: 1. Văn tự Bisaya, từ tác giả Esguerra (1747). 2. Văn tự Tagalog, từ tác giả Chirino (1604). 3. Văn tự Tagalog, từ tác phẩm Doctrina Christiana (1593). 4. Văn tự Tagbanuwa, từ tác giả Fox (1950). 5. Văn tự Mangyan (Hanunoo), từ tác giả Conklin (1953). Các thí dụ về Phi Luật Tân khác được lấy từ tác phẩm của Scott (34) và bao gồm các thí dụ “tiêu chuẩn” từ kiểu mặt chữ in của Francisco Lopez năm 1621 và nhiều thí dụ khác từ các tài liệu thuộc thế kỷ thứ mười bẩy. Các mẫu chữ cổ tự Chàm được lấy từ tác giả Majumdar (35) và bao gồm mẫu chữ từ: (A) bia ký ở Võ Cạnh (thế kỷ thừ nhì đến thế kỷ thứ ba sau Thiên Chúa); (:o Bản khắc bia đá ở Mĩ-Sơn viết về Bhadravarman (từ thế kỷ thứ tư đến thứ năm sau Thiên Chúa); © Bản khắc chân cột ở Dương-Mong [?] về Prakacadharma (khoảng 675 sau Thiên Chúa); (D) Bia ký “Yang Tikuh” tại Đá-tráng (năm 799 sau Thiên Chúa); (E) Bản khắc ở Pô Nagar về Jay Indravarman. Toàn thể bảng đối chiếu các chữ viết từ các bản khắc này đuợc cung cấp ở Bảng 9. Các thí dụ về mẫu chữ Chàm “hiện đại” được trích từ các tác giả Cabaton và Aymonier, với các biến thể văn tự Việt nam được ký danh bằng chữ (A) và các biến thể Căm Bốt được ký danh bằng chữ ©. Bảng 9: Bảng đối chiếu các mẫu chữ Chàm cổ (từ “La Paléographie des Inscriptions du Champa, Plate IX” của Majumdar). Để trợ giúp cho sự phân tích, một số đồ biểu các văn tự Ấn Độ sử dụng ở Đông Nam Á được bổ túc và sẽ được đề cập đến trong phần thảo luận. Các mẫu chữ này được rút ra từ quyển The Alphabet (36) của Diringer (Bảng 10 và Bảng 11), quyển Philippine Palaeography (37) của Francisco (Bảng 12), quyển Sign, Symbol and Script (38) của Jensen (xem Bảng 13 và 14), và quyển “Les écritures d’origine indienne et dans le Sud-Est Asiatique Continental” (39). Bảng 10: Bảng đối chiếu các vần Ấn Độ được dùng tại Đông Nam Á(từ The Alphabet của Diringer, trang 298). 18.16. Các mẫu tự chính của vùng Ngoại Ấn Độ, đặc biệt của quần đảo Phi Luật Tân (theo F. Gardner, Philippine Indic Studies, 1943). 1-6, Java cổ hay Kavi. 7-8, Sumatra Thuở Ban Đầu. 9. Chữ Batak. 10, Bugis. 11-14, Tagalog. 15-16, Iloco. 17-18, Bisaya. 19, Pangasinan. 20, Pampangan. 21, Tagbanua. 22-26, nhiều loại chữ Mangyan. 27-30, Buhil. Bảng 11: Bảng đối chiếu các vần Ấn Độ (một phần) (từ The Alphabet của Diringer, các trang 254-55) IV. SO SÁNH VĂN TỰ PHI LUẬT TÂN VỚI VĂN TỰ CHÀM [ Chú của người dịch: Trong các mẫu chữ để chỉ các nguyên âm và các phụ âm, có chú thích đi kèm như sau: <h5 style="margin: 0in 0in 0.0001pt;">Philippine Scripts: Các Văn Tự Phi Luật Tân</h5> Modern Cham: Mẫu tự Chàm hiện đại Epigraphic Cham: Mẫu tự Chàm cổ xưa Cùng một số thí dụ khác trong mẫu tự Ấn Độ hay Lào v.v…] (i) Các Nguyên Âm 1. “A” Mẫu chữ Phi Luật Tân cho chữ “A” cho thấy hình dạng chữ “V” nổi bật, cũng là điểm đặc trưng trong mẫu chữ văn tự Chàm hiện đại, với nét thắt nút vòng khép kín ở phía trên bên tay trái trong chữ Chàm được thay thế, trong các thí dụ Phi Luật Tân, bằng một hay hai nét phẩy. Các thí dụ của chữ “A” trong tiếng miền nam Ấn Độ nơi Bảng 11 và các thí dụ vùng Đông Nam Á trong Bảng 13 cũng biểu thị thành tố cốt lõi của chữ “U” hay “V”, và các mẫu này đều có thể được xem như là các nguyên mẫu khả hữu. 2. “I – E” Mẫu chữ Phi Luật Tân cho chữ “I – E” đều gồm hai thành tố viết theo chiều ngang, một gần như thẳng và một gợn sóng. Có vẻ như mẫu chữ này tiến hóa từ chữ “I” của Ấn Độ. Chữ “I” được dùng trong bản khắc Chàm tại Dương-mong thời thế kỷ thứ bảy và của bia ký ở Pô Nagar năm 965 sau Thiên Chúa đều gồm hai nét nằm ngang. Các thí dụ tiếng miền Tây và Đông nước Lào được đưa ra trong sách viết bởi tác giả Holle (40) cũng có các mẫu chữ gồm hai thành tố tương tự, như trong nhiều thí dụ nơi Bảng 13. Tuy nhiên, mẫu chữ Chàm hiện đại là mẫu chữ gồm 1 thành tố, theo đó hai thành tố được nối với nhau chỉ bằng một nét viết tháu (ngoáy). Điều này khiến ta nghĩ rằng mẫu chữ được du nhập vào Phi Luật Tân trước khi biến thể Chàm hai thành tố tiến hóa thành hình thức một nét hiện nay. 3. “U – O” Nhiều thí dụ khác nhau của chữ “U –O” trong các văn tự Phi Luật Tân được tiêu biểu bởi hình số “3”. Hình thể này trông giống như chữ “U” deva-nagari tiêu chuẩn nơi Bảng 11, chữ “U” của Khmer nơi Bảng 12, và các thí dụ của chữ đó trong tiếng Assam và tiếng Lào (41). Điều này có vẻ được biểu thị trong tiếng Chàm hiện đại bởi chữ “O” như trong biến thể sử dụng tại Việt Nam, nhưng sự tiến hóa của nó từ các hình thể cổ tự không rõ rệt. Bất kỳ mẫu nào trong các mẫu chữ này đều có thể là nguồn gốc của chữ “U – O” Phi Luật Tân. Tuy nhiên, cần phải ghi nhận nơi đây rằng mẫu chữ “U – O” Phi Luật Tân hiển nhiên là có liên hệ mật thiết với mẫu chữ nguyên âm của vùng lục địa Đông Nam Á hơn nhiều so với các mẫu chữ của vùng quần đảo Đông Nam Á. Bảng 12: Bảng đối chiếu các vần Ấn Độ được dùng tại Đông Nam Á (từ quyển Philippine Palaeography của Francisco, trang 94) Bảng 13: Bảng đối chiếu các vần Ấn Độ được dùng tại Đông Nam Á (từ quyển Sign, Symbol and Script, của Jensen, trang 388). Bảng 14: Bảng đối chiếu các vần Ấn Độ được dùng tại Đông Nam Á (từ quyển Sign, Symbol and Script, của Jensen, trang 395). Bảng 15A: Bảng đối chiếu năm aksaras trong nhiều văn tự Đông Nam Á khác nhau (1) (từ quyển Les écritures d’origine indienne en Indonésie et dans le Sud-Est Asiatique continental, của Damais, Fig. 15) Bảng 15B: tiếp theo. (ii) Các Phụ Âm 4. “Ka” Các thí dụ Chàm về âm “ka” không hiển nhiên là các tiền thân của các thí dụ trong văn tự Phi Luật Tân, và tôi muốn nêu ý kiến rằng một nguồn gốc khác khả dĩ đúng hơn là mẫu vần “kha” trong tiếng Chàm. Mặc dù các mẫu chữ Phi Luật Tân có góc cạnh hơn và thường gồm ba nét cách biệt, sự tiến hóa từ âm tiết “kha” trong văn tự vùng lục địa Đông Nam Á thì rõ rệt nếu chúng ta khảo sát các thí dụ về âm “kha” được ghi trong Bảng 13. Phần lớn các thí dụ vùng lục địa Đông Nam Á bao gồm các biến thể trên mẫu chữ chỉ gồm một nét nhìn giống như số “2”. Nét viết bắt đầu từ phía trên bên trái, sang phía trên bên phải, và rồi được kéo xuống phía dưới bên trái trước khi vạch ngang và chấm dứt ở phía dưới bên phải. Hình thể tổng quát này có vẻ đã được đơn giản hóa trong các thí dụ Phi Luật Tân thành một nét ngang từ phía trên bên trái sang phía trên bên phải, một nét thẳng xuống và một nét khác nằm ngang từ phía dưới bên trái sang phía dưới bên phải. Các mẫu chữ Chàm cổ hay “hiện đại” đều cho thấy các biến thể của hình số “2”, nhưng chính các hình thể chữ cổ cung cấp những tiền thân khả hữu giống nhất. Một lần nữa, cần phải được nhấn mạnh rằng các thí du Phi Luật Tân trông có liên hệ mật thiết với các mẫu chữ của lục địa Đông Nam Á hơn rất nhiều so với các mẫu chữ vùng quần đảo Đông Nam Á. 5. “Ga” Các thí dụ Phi Luật Tân về phụ âm “ga” thường bao gồm hai nét -- một nét căn bản bao gồm hình thể số “3”, và một nét viết tháu kéo dài sang bên phải. Mẫu này rõ ràng là không giống với bất kỳ hình dạng của phụ âm “ga” nào trong tiếng miền Nam hay miền Bắc Ấn Độ thưở ban sơ hay hiện đại. và trong thực tế không giống bất kỳ hình thể nào của vùng hải đảo Đông Nam Á cho mẫu tự đó. Tôi có ý kiến rằng âm tiết “ga” của Phi Luật Tân phát sinh từ âm “gha” của tiếng Chàm, vốn giống với các thí dụ của tiếng Lào khí có cùng một nét khởi đầu được kéo xuống, trông ít nhiều giống như hình số “3”, như là bộ phận bên tay trái, và một đoạn kéo dài sang bên phải “hay “đuôi” của chữ. Mẫu âm “gha” của bản khắc Yang Tikuh (năm 799 sau Thiên Chúa) cung cấp một nguyên mẫu rõ rệt cho âm “ga” Phi Luật Tân, với hình số “3” của nó và “đuôi” được kéo sang bên phải. Không biết là mẫu âm “gha” đặc biệt này đã đuợc dùng tại xứ Chàm trong bao lâu, nhưng các dấu tích đặc thù của nó hãy còn hiển hiện trong mẫu chữ Chàm “hiện đại”. 6. “Nga” Sự tương tự giữa các thí dụ Phi Luật Tân với âm “nga” trong tiếng Chàm “hiện đại” thì rõ rệt. Hình số “3” trong phụ âm “nga” Chàm xuất hiện trong phần lớn các thí dụ Phi Luật Tân như các biến thể của nửa vòng tròn, mặc dù trong ít nhất một thí dụ, hình của số “3” đã được giữ lại. Phần còn lại của mẫu chữ Chàm có vẻ đã được viết đúng cách, trong các thí dụ Phi Luật Tân, thành một nét gợn sóng kéo dài sang bên phải. Một số âm “nga” trong văn tự lục địa có chung một vài thành tố, nhưng không có mẫu nào trông giống với mẫu chữ Phi Luật Tân một cách rõ ràng cho bằng thí dụ mẫu chữ Chàm “hiện đại”. Các hình thể chữ cổ xưa của Chàm nơi Bảng 9 trông không phải là các tiền thân, và điều này khiến ta nghĩ rằng mẫu chữ Chàm “hiện đại” này đã tiến hóa tại xứ Chàm trước thời kỳ mà mẫu chữ được thừa nhận vào các văn tự Phi Luật Tân. 7. “Ta” Các thí dụ Phi Luật Tân về phụ âm “ta” thì biến đổi khá nhiều, nhưng nói chung có vẻ cùng mang đặc điểm của hình chữ “V” viết tháu, với một nét cong duy nhất kéo dài sang bên phải hay từ dưới đáy chữ. Tôi có ý kiến rằng phụ âm này đã phát sinh từ âm “tha” của tiếng Chàm. Mẫu phụ âm “tha” trong bản khắc ở Dương-mong vào khoảng năm 675 sau Thiên Chúa có vẻ là một tiền thân của mẫu chữ sẽ được vay mượn để trở thành phụ âm “ta” trong các văn tự Phi Luật Tân. Hình dáng chữ “V” lúc khởi đầu thì hiển nhiên, giống như nét cong kéo dài. Chúng ta không hay biết là mẫu chữ Chàm này đã thay đổi ra sao trong cách sử dụng chữ cổ sau đó, nhưng trong các biến thể của tiếng Chàm “hiện đại”, phần kéo dài từ hình chữ “V” đã tiến hóa thành khuy tròn. Chính vì thế, phụ âm “ta” của Phi Luật Tân có lẽ đã phát triển từ một hình thái trung gian của mẫu chữ Chàm cho phụ âm “tha”. 8. “Da” Các thí dụ Phi Luật Tân cho phụ âm “da” thường bao gồm hai nét và có các sự tương đồng với các thí dụ Ấn Độ và Assam thời ban sơ được cung cấp bởi tác giả Holle (43). Các thí dụ Ấn Độ bao gồm một nét bên trên nằm ngang, với một nét cong phia dưới, gần như tạo thành một chiếc móc bên phải. Các sự tương đồng với các mẫu chữ Java nơi Bảng 10 và Bảng 11 cần phải được ghi nhận. Phụ âm “da” của Chàm khắc nơi cột đá ở Dương-mong cũng cho thấy một mẫu chữ tương tự. Trong các thí dụ Phi Luật Tân, nét nằm ngang và nét cong vòng (hay dấu tích của chúng) hãy còn hiện diện đến nay, mặc dù một vài sự biến thể có xảy ra, với nét cong vòng bắt đầu bên trên nét nằm ngang và cuộn tròn xuống bên dưới nó. Hiển nhiên, với sự sử dụng rộng rãi mẫu chữ tương tự phụ âm “da” khắp vùng Ấn Độ và Đông Nam Á, nguồn gốc Chàm duy nhất cho mẫu chữ này của Phi Luật Tân sẽ không thể chứng minh được. Tuy nhiên, các hình thức phụ âm “da” của Chàm với mẫu chữ Dương-mong như tiền thân của chúng cũng đều có thể được xem đồng đẳng với các mẫu khác như là các nguyên mẫu khả hữu cho phụ âm “da” của Phi Luật Tân. Phụ âm “da” trong tiếng Chàm “hiện đại” thì không giống như phụ âm tương ứng của nó trong tiếng Phi Luật Tân và không có vẻ là kiểu mẫu trên đó phụ âm Phi Luật Tân đã được đặt nền. 9. “Na” Âm “Na” Phi Luật Tân thường bao gồm hai nét -- một nét ngang hay nét cong một bên ở trên và một nét thẳng hay gợn sóng ở dưới. Mẫu chữ này tương ứng với các mẫu phụ âm “na” thường xuyên xuất hiện trong nhiều thí dụ khác nhau thưở ban đầu của ngôn ngữ Ấn Độ và Đông Nam Á (xem các Bảng 10, 11, 12). Mẫu phụ âm “na” trong bốn bản khắc chữ sau này của Chàm dưới đây cho thấy mẫu chữ bao gồm một nét nằm ngang bên trên với các độ dài ngắn khác nhau, và một thành tố thẳng đứng có thắt vòng ở dưới. Các nút thắt vòng trong các mẫu chữ này có vẻ như đã tiến hóa, trong các thí dụ Phi Luật Tân viết tháu hơn, thành một nét gợn sóng, hay hoàn toàn biến mất, để lại một nét thẳng. Một lần nữa, mẫu chữ Chàm “hiện đại” đủ khác biệt với âm tương ứng của nó trong tiếng Phi Luật Tân khiến ta nghĩ rằng mẫu phụ âm “na” trong văn tự Phi Luật Tân đã được chấp nhận trước khi có sự tiến hóa của âm “na” trong văn tự Chàm “hiện đại”. 10. “Pa” Trong tất cả các thí dụ Phi Luật Tân về phụ âm “pa”, ta thấy hình dạng chữ “V” nổi bật biểu thị trong văn tự Chàm “hiện đại”, với một nét thứ nhì ngắn kéo dài ra ngoài từ nhánh bên phải của chữ “V”. Nguồn gốc của mẫu chữ này có thể được nhận thấy trong thí dụ chữ Chàm cổ xưa ký danh B, C và D dưới đây, cũng bao gồm một chữ “V” khởi đầu và một đoạn nối dài. Cũng có phần liên hệ đến các mẫu chữ của phụ âm “pa” trong tiếng Java và Bali được trình bày nơi phần văn tự Siddhamatrka trong biều đồ đối chiếu của Damais ở Bảng 15. Sự tương tự rõ rệt của phụ âm “pa” ban đầu với phụ âm “ba” Chàm “hiện đại” có vẻ khiến ta nghĩ rằng mẫu chữ sau có thể đã phát sinh từ mẫu tự trước. 11. “Ba” Hình dạng hạt đâu tây [kidney bean, có hình trái thận, chú của người dịch] biểu trưng cho mẫu tự “ba” trong các văn tự Phi Luật Tân có thể từ nguyên thủy tiến hóa từ bất kỳ một trong nhiều văn tự của Ấn Độ hay Đông Nam Á, vì tất cả đều sử dụng một vòng tròn lõm bụng hay “hộp lõm bụng” để tượng trưng cho âm tiết “ba”. Các Bảng 9 đến 13 cho thấy một khoảng khác biệt của các mẫu chữ này. Hiển nhiên, không thể nói với bất kỳ sự quả quyết nào là từ văn tự nào trong số văn tự này đã làm phát sinh mẫu chữ của Phi Luật Tân. Một sự thiếu sót các dữ liệu về các thí dụ chữ Chàm cổ của phụ âm “ba” tiếp theo sau bản khắc ở Võ Cạnh đã loại trừ ý kiến nào khác về nguồn gốc khả dĩ đi từ văn tự Chàm trên mẫu chữ phụ âm “ba” của Phi Luật Tân. Tuy nhiên, cần phải ghi chú rằng các thí dụ chữ Chàm “hiện đại” chắc chắn không phải là các tiền thân của mẫu chữ Phi Luật Tân này. 12. “Ma” Các thí dụ Phi Luật Tân cho phụ âm “ma” đều mang đặc tính có hình dạng chữ “V” trong nét viết đầu tiên, với nét thứ nhì vắt ngang che kín cổ chữ “V”. Các mẫu tự này có thể so sánh với các mẫu tự khác nhau của phụ âm “ma” trong các Bảng 10 đến 15. Một sự so sánh như thế làm phát hiện rằng các mẫu chữ Khmer và Chàm cho thấy một mối quan hệ lớn lao với phụ âm “ma” của Phi Luật Tân. Sự phát triển của mẫu chữ Chàm có thể được mô tả như sau: Các thí dụ ở Võ Cạnh và Mĩ-Sơn, cả hai đều thuộc thưở ban đầu của thiên niên kỷ thứ nhất sau Thiên Chúa, bao gồm một nét duy nhất tự cắt ngang, tạo thành một mẫu chữ đối xứng với một khoảng trống khép kín ở đáy chữ. Vào khoảng thế kỷ thứ tám hay đầu thế kỷ thứ chín, bản khắc Yang Tikuh cho thấy một mẫu chữ hiển nhiên đòi hỏi đến hai nét – trước tiên một nét có hình dạng chữ “U” và thứ nhì là một nét cắt ngang che kín chữ “U”. Mẫu chữ Chàm “hiện đại” cho thấy một sự phát triển xa hơn, với chữ “U” biến thành chữ “V”, nhưng vẫn có nét ngang cắt hay che kín chữ “V”. Sự tương đồng khá rõ giữa các thí dụ về phụ âm “ma” ở Yang Tikuh và các thí dụ Phi Luật Tân đặc biệt đáng để ý. Các cách viết khởi đầu với một nét thắt vòng hay nối dài bên nhánh phải trong mẫu chữ Phi Luật Tân có thể chỉ dấu cho thấy một hình dạng trung gian giữa mẫu Yang Tikuh và mẫu phụ âm “ma” trong tiếng Chàm “hiện đại” đã là kiểu mẫu cho mẫu phụ âm “ma” của Phi Luật Tân. 13. “Ya” Một lần nữa các mẫu chữ Phi Luật Tân lại cho thấy hình dạng chữ “V” nổi bật vốn là nét đặc trưng của các âm tiết Chàm “hiện đại”, với sự bổ túc một vòng thắt nửa kín hay thắt kín nối dài từ nhánh bên phải của chữ “V”. Các thí dụ này đặc biệt là không giống với bất kỳ thí dụ nào trong các thí dụ của phụ âm “ya” trong các văn tự của Ấn Độ và hải đảo Đông Nam Á, nhưng tương tự như các thí dụ của văn tự Thái Cổ và Lào, như xuất hiện trong Bảng 13. Sự tương đồng giữa các thí dụ Phi Luật Tân và Chàm “hiện đại” thì đặc biệt rõ rệt và càng khiến chúng ta có ý nghĩ về ảnh hưởng của một số mẫu chữ Chàm “hiện đại” hay trung chuyển trong sự hình thành văn tự nguyên mẫu của Phi Luật Tân. Nguồn: http://www.gio-o.com/NgoBacTiengCham.htm
-
14. “La” Tổng quát, các thí dụ của phụ âm “la” trong các văn tự Phi Luật Tân bao gồm một nét như cuộn (quấn) lại là thành tố ở trên và một nét gợn sóng hay vòng cung sổ xuống ở dưới. Có ý kiến cho rằng âm tiết “la” Phi Luật Tân phát sinh từ vần “ra” của Ấn Độ. Trong sự giải thích của ông về sự biến đổi ngữ âm của các từ tiếng Phạn (Sanskrit) thành tiếng Phi Luật Tân, tác giả Francisco ghi nhận rằng “âm r trong tiếng Phạn có khuynh hướng biến thành âm l trong tiếng Phi Luật Tân (44). Chính vì thế, sẽ không phải là điều ngạc nhiên khi mẫu chữ âm “ra” được thừa nhận để thay cho phụ âm “la”. Nhiều thí dụ trong các mẫu chữ Ấn Độ được trưng bầy bởi tác giả Damais ở Bảng 15 cho thấy một hình dạng tương tự, bao gồm một nét bên cạnh khởi đầu và một nét thứ nhì cong vòng hay sổ thẳng xuống. Trong thí dụ Chàm “hiện đại”, nét một bên cạnh (hông) thì hiển hiện, trong khi nơi phần cuối nét sổ thẳng xuống có một nút thắt vòng tròn, là phần có thể là nguồn gốc của hình gợn sóng trong nét sổ xuống trong thí dụ Phi Luật Tân. 15. “Wa” Các thí dụ phụ âm “wa” Phi Luật Tân lại một lần nữa biểu lộ hình dạng chữ “V” đặc trưng trong bảng âm tiết Chàm hiện đại. Rất có vẻ là mẫu viết phụ âm “wa” Phi Luật Tân phát sinh từ mẫu chữ “va” trong văn tự Ấn Độ. Sự nhận xét của tác giả Francisco rằng khi các từ ngữ trong tiếng Phạn được du nhập vào các ngôn ngữ Phi Luật Tân, âm v Phạn ngữ được thay thế nhiều lần nhất bằng âm b hay w, củng cố cho xác xuất này. Tuy nhiên, chính mẫu viết mới đem lại bằng chứng vững chắc nhất. Các thí dụ chữ Chàm cổ, đặc biệt thí dụ bản khắc Pô Nagar thuộc thế kỷ thứ mười, trưng bày hình chữ “U” hay “V” lúc khởi viết và điều này khiến ta nghĩ rằng âm tiết “wa” Phi Luật Tân đã được chấp nhận từ mẫu chữ “va” của văn tự Chàm. Tuy nhiên, một số các văn tự vùng Nam Ấn Độ và bản khác bia ký Java cũng cho thấy mẫu viết âm “va” tương tự và phải nhìn nhận rằng nguồn gốc Chàm chỉ là một trong nhiều khả tính. Sự phất (phóng) bút ở phần dưới bên phải của mẫu Chàm “hiện đại” có vẻ như là một sự canh cải khá tân tiến và không có dấu hiệu nào trong các mẫu chử phụ âm “wa” Phi Luật Tân cho thấy tiền thân của chúng lại có bất kỳ nét phất bút như thế. 16. “Sa” Hình dạng chữ “V” tiêu biểu của văn tự Chàm “hiện đại” một lần nữa lại xuất hiện trong mẫu viết Phi Luật Tân. Thành tố nhất quán của nhiều thí dụ Phi Luật Tân khác nhau cho phụ âm “sa” có vẻ là nét đầu tiên có hình dạng chữ “V” và một nét bổ túc viết tháu (ngoáy) chạy sang bên phải, như một nét thứ nhì riêng biệt hay như một phần nối dài của nét thứ nhất. Điều này làm liên tưởng đến một vài thành tố bên phía phải của chữ “V” trong mô thức nguyên mẫu. Các mẫu chữ Đông Nam Á thưở ban đầu cho phụ âm “sa” thường trưng bày hình dạng chữ “U” hay “V” với một nét phất bút sang phía trái (xem các Bảng 12 và Bảng 15). Tôi cảm thấy các mẫu này không phải là tiền thể của phụ âm “sa” Phi Luật Tân. Đúng hơn, chúng ta phải nhìn đến các mẫu chữ của âm huýt gió (hay xuýt, hay rít gió) (retroflex sibiolant) “sa” (tức âm “Sh” trong bảng của tác giả Holle) trong các văn tự Ấn Độ và Đông Nam Á như là các nguyên mẫu khả dĩ. Các mẫu này thường gồm một thành tố có hình dạng chữ “U” hay chữ “V“ với một nét ngang che kín chữ “U” hay chữ “V” (xem Bảng 11). Biến thể Chàm thưở trước của hình dạng đó có thể được nhận thấy ở bản khắc ở Võ Cạnh. Tuy nhiên, vào thời khoảng của bản khắc Pô Nagar năm 965 sau Thiên Chúa, một mẫu có thể là tiền thân nhiều hơn đã xuất hiện. Trong bản khắc này, mẫu “sa” có đuôi quặt ngược lại cho thấy một thành tố bên trái;’ xuất hiện trở thành nguồn gốc của hình dạng chữ “V” trong mẫu chữ Phi Luật Tân, trong khi phần bên tay phải của mẫu chữ Pô Nagar, cùng với “đuôi chữ”, có vẻ là nguồn gốc của thành tố viết tháu (ngoáy) bên tay phải của mẫu tự Phi Luật Tân. Trong một vài trường hợp, các thí dụ Phi Luật Tân vẫn biểu hiện vết tích của “đuôi chữ” này. Các thí dụ liên hệ của mẫu chữ này tại vùng lục địa Đông Nam Á bao gồm âm tiết “sa” của tiếng Khmer Cổ, nay không còn dùng nữa (46), và trong văn tự Thái Lan gồm “chữ s, rồi đến chữ c ngược có dấu v ở trên và sau cùng một chữ c ngược kế tiếp [mô tả của người dịch] (47). Cả hai mẫu chữ này bao gồm một hình dạng chữ “U” căn bản, với một nét ngang ngắn cắt nhánh tay phải của chữ “U”. 17. “Ha” (iii) Các Dấu Phát Âm Nguyên Âm Như đã ghi nhận ở trên, các văn tự Phi Luật Tân từ lâu có sử dụng các dấu phát âm (trong ngôn ngữ Tagalog được gọi là kudlit (48) để thay đổi nguyên âm được đọc kèm với một phụ âm. Dấu đó nếu đặt trên một phụ âm sẽ làm thay đổi nguyên âm thành “I” hay “E”, trong khi nếu đặt ở dưới phụ âm sẽ làm thay đổi nguyên âm thành “O” hay “U”. Tôi tin rằng nguồn gốc của hai dấu phát âm nguyên âm này có thể nằm nơi các dấu phát âm của Chàm. Văn tự Chàm “hiện đại” dùng một nét viết tháu (ngoáy), hầu như tạo thành một hình trái xoan, bên trên một phụ âm để chỉ rằng phụ âm sẽ được đọc cùng với nguyên âm “I” thay vì với nguyên âm “A” như thường lệ. Nó cũng dùng một nét ngắn bên dưới một phụ âm để chỉ rằng phụ âm đó sẽ được đọc cùng với nguyên âm “U” theo sau. Các dấu này không phải là các dấu phát âm duy nhất trong tiếng Chàm, nhưng chúng có thể là các kiểu mẫu cho các dấu phát âm được dùng trong các văn tự Phi Luật Tân. Sự kiện rằng các dấu phát âm trong các văn tự Phi Luật Tân thường được thay thể chỉ bằng các dấu chấm hay vòng bán nguyệt, tôi nghĩ, không loại trừ [ý kiến cho rằng] các biến hóa của chúng phát sinh từ các dấu của Chàm. (iv) Sự Vắng Mặt Của Các Phụ Âm Sau Cùng Một câu hỏi chính làm bối rối các nhà nghiên cứu khi nhìn vào các văn tự Phi Luật Tân là tại sao các mẫu chữ trong bảng các âm tiết (vần) lại không được dùng để chỉ các phụ âm sau cùng của các từ (words) xuất hiện trong các ngôn ngữ Phi Luật Tân. Nếu văn tự nguyên mẫu Phi Luật Tân phát sinh từ một văn tự được sử dụng bởi những người nói một ngôn ngữ có mang các phụ âm sau chót, tại sao các phụ âm sau cùng lại không được thể hiển trong các văn tự Phi Luật Tân? Tác giả Postma (49) loại bỏ, tôi nghĩ là chính xác, sự tuyên bố rằng sự vắng mặt của các phụ âm sau cùng trong các ngôn ngữ và văn tự Makassar-Bugis khiến các văn tự này có vẻ là các tiền thân của văn tự Mangyan. Tuy nhiên, tác giả De Casparis (50) đặt câu hỏi tại sao, với sự sử dụng phổ biến virama [?] trong các văn tự Indonesia để chỉ các phụ âm không kèm nguyên âm, văn tự Mangyan (và nói rộng ra, các người sử dụng khác các văn tự Phi Luật Tân) lại không sử dụng một công cụ như thế, trừ khi họ chấp nhận một văn tự đã thích nghi với một ngôn ngữ không có các phụ âm sau cùng. Ngôn ngữ Chàm, giống như nhiều ngôn ngữ dòng Úc-Á (Austronesian) khác, có sử dụng các phụ âm sau cùng, và những phụ âm này có được biểu thị trong văn tự Chàm. Nếu luận đề hiện nay về một nguồn gốc Chàm có giá trị, tôi chỉ có thể đưa ra hai ý kiến như là các lý dó khả hữu cho sự vắng mặt các phụ âm sau cùng trong các văn tự Phi Luật Tân: 1. Văn tự Chàm đã đuợc du nhập vào Phi Luật Tân bởi các ngư phủ hay các người khác, hoặc từ các hải đảo của Phi Luật Tân hay từ vùng lục địa Đông Nam Á, không được diễn tả đầy đủ bằng chữ viết. 2. Văn tự Chàm được mang đến Phi Luật Tân bởi người Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam. Những người nói các ngôn ngữ này, trong sự trình bày các từ ngữ ngoai quốc, đặt sự nhấn mạnh đáng kể vào các phụ âm bắt đầu hơn là vào các phụ âm sau cùng. Các thí dụ của sự trình bày cách phiên âm (phonetic) trong thế kỷ thứ mười bẩy các danh tính trong văn tự Phi Luật Tân, đưa ra bởi tác giả Scott (51), chẳng hạn như “A-gu-ti Lumaba” cho tên Augustin Lumabag và “Do A-gu-ti Wi-ka“ cho tên Don Augustin Wika, rất giống cách thức mà người Trung Hoa đã phiên âm theo vần các danh tính như thế. Một khía cạnh khác gây bối rối về các văn tự Phi Luật Tân là sự vắng mặt hoàn toàn các mẫu viết tượng trưng cho các con số. Tôi không thể đưa ra một sự giải thích có vẻ hợp lý nào về hiện tượng này, thế nhưng có vẻ loại bỏ được khả tính rằng bảng âm tiết này đã được du nhập vào Phi Luật Tân như một công cụ để mua bán. (v) Tổng Kết Sự so sánh và phân tích ở trên khơi lên các ý kiến như sau: (1) Mẫu viết ba nguyên âm trong văn tự Phi Luật Tân có thể đã được thừa nhận từ thực sự bất kỳ văn tự nào thuộc vùng Đông Nam Á. (2) Các phụ âm Phi Luật Tân “ka”, “da”, “ta”, “na”, “ba”, “la, “wa” và “ha” có thể phát sinh từ bất kỳ một trong các văn tự Đông Nam Á, kể cả của người Chàm. (3) Các phụ âm Phi Luật Tân “ga”, “nga”, “pá, “ma”, “ya” và “sa” phô bày các đặc điểm có thể được giải thích một cách hợp lý nhất bằng cách quy chiếu cho một nguồn gốc Chàm cho chúng. Tôi xin nêu ý kiến rằng văn tự Phi Luật Tân nguyên mẫu tiến hóa từ các mẫu chữ Chàm, hay có thể từ các mẫu chữ của Chàm và của các nước vùng lục địa Đông Nam Á khác, ở vào một vài thời điểm trước khi có sự xuất hiện đầy đủ văn tự Chàm “hiện đại”. Một vài mẫu chữ Phi Luật Tân có nhiều sự tương đồng hơn nữa với các thí du về chữ Chàm cổ xưa tương đương, trong khi các mẫu tự khác hiển nhiên có liên hệ mật thiết với các mẫu tự Chàm “hiện đại”. Một điểm quan trọng cần phải được nhấn mạnh là văn tự Phi Luật Tân có vẻ như có liên hệ mật thiết với các văn tự lục địa Đông Nam Á nhiều hơn là đối với các văn tự quần đảo Java. Tôi lập luân rằng sự kiện này hậu thuẫn cho ý tưởng cho là một nguồn gốc lục địa thì vững chắc hơn một luận đề cho rằng sự chuyển hóa của các văn tự Phi Luật Tân bắt nguồn từ bất kỳ một trong các văn tự nào của vùng hải đảo Đông Nam Á. Các đề xuất rằng các mẫu chữ Phi Luật Tân được rút ra từ các văn tự ít phức tạp hơn, chẳng hạn như của đảo Sumatra hay Sulawesi, và trong sự phát triển sau đó của chúng, tiến hóa một cách tình cờ thành các mẫu chữ phức tạp hơn với các sự tương đồng lớn lao như thế với các mẫu tự của vùng lục địa Đông Nam Á thì không đứng vững được, theo tôi nghĩ. Bản khắc trên bảng bằng đồng ở Laguna được khôi phục hồi gần đây, mới chỉ được công bố vào năm 1992 (52), có nhật kỳ Saka 822 (năm 900 sau Thiên Chúa) và Antoon Postma có nêu ý kiến, vốn được xác nhận bởi Giáo Sư De Casparis, rằng văn tự thuộc sắc dân Kawi Thời Ban Sơ trong thế kỷ thứ chín đến thứ mười. Các aksaras [?] trong thực tế có cùng các sự quan hệ rõ rệt với các mẫu chữ của các bản khắc Balingawan (năm 891 sau Thiên Chúa), Er Kuwing (vào khoảng 913 sau Thiên Chúa) và Linggasuntan (năm 929 sau Thiên Chúa) trên đảo Java. Ngôn ngữ của bản khắc trên bảng đồng có vẻ là một sự trộn lẫn của các ngôn ngữ Java cổ, Mã Lai cổ, Tagalog cổ, và Phạn ngữ (Sanskrit). Nếu nguồn gốc tiếng Phi Luật Tân đề xướng theo bảng đồng được chấp nhận, hiển nhiên nó sẽ làm liên tưởng đến ảnh hưởng của Java tại Phi Luật Tân vào thời điểm đó. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng không điều gì khiến ta nghĩ rằng các văn tự Phi Luật Tân, như chúng đã được ghi chép từ thế kỷ thứ mười sáu, là phát sinh từ văn tự được dùng trong bản khắc trên bảng đồng ở Laguna. Các đặc điểm chữ cổ nổi bật được ghi nhận ở trên về nhiều mẫu tự khác nhau của Phi Luật Tân khiến ta nghĩ một cách khác, bởi có sự kiện rằng mẫu tự được dùng cho bản khắc Laguna có biểu trưng cho các phụ âm sau cùng. Sự nghiên cứu sâu xa hơn nữa về sự tiến hóa của văn tự Chàm, Khmer và các nước trên đất liền khác chắc chắn là cần thiết. Chỉ xuyên qua sự nghiên cứu như thế, song song với sự tìm hiểu hơn nữa về các mẫu tự Phi Luật Tân, thời kỳ sử dụng các mẫu tự cá biệt mới được xác định một cách vững chắc hơn, và sẽ có thể giúp tuyên bố với bất kỳ sự tin tưởng nào về thời khoảng khi mà các mẫu tự như thế đã được chấp nhận tại Phi Luật Tân. V. BỐI CẢNH LỊCH SỬ Nếu các văn tự Phi Luật Tân được phát sinh từ văn tự Chàm, hay từ các văn tự lục địa khác, câu hỏi là bằng cách nào và khi nào điều này đã xảy ra sẽ có một vài tầm quan trọng. Các sự khảo cứu của các nhà khảo cổ học trong nửa thế kỷ qua khiến ta nghĩ rằng đã có các sự tiếp xúc hàng hải dàn trải khá rộng giữa các nền văn hóa lục địa và hải đảo Đông Nam Á từ ít nhất vào lúc khởi đầu kỷ nguyên đồ sắt. Các bài viết của W.G. Solheim (53) và những tác giả khác trong Tạp Chí Asian Perspective trong 30 năm qua có trình bày các quan hệ khá mạnh mẽ giữa nền văn hóa Sa Huỳnh, đi liền với các người Chàm-Nguyên Thủy tại miền nam Việt Nam ngày nay, với nền văn hóa Kalanay của Phi Luật Tân. Các hoa tai với ba khoen lủng lẳng (khoen hình chữ O treo vào nhau) và các cây lao có đầu chạm hình thú vật đuợc tìm thấy ở cả hai nền văn hóa, cùng với các truyền thống làm đồ gốm, khiến liên tưởng đến các sự giao tiếp văn hóa, và chính vì thế, sự di chuyển giữa vùng đất liền và các hải đảo Phi Luật Tân qua nhiều thiên niên kỷ. Các ảnh hưởng Ấn Độ trên quần đảo Phi Luật Tân đã là đề tài của nhiều cuộc nghiên cứu được thực hiện bởi Francisco, và tác phẩm Indian Influences in the Philippines của ông cung cấp một sự khảo sát sâu rộng về các khu vực tại đó các ảnh hưởng Ấn Độ có thể được nhận thấy trong các nền văn hóa Phi Luật Tân. Ông có ghi nhận trong một ấn phẩm khác rằng các cứ liệu khảo cổ học và ngôn ngữ học làm nảy sinh ý kiến rằng 400 năm từ thế kỷ thứ mười đến thế kỷ mười bốn đã là giai đoạn quan trọng của ảnh hưởng Ấn Độ tại Phi Luật Tân và rằng “các thành tố văn hóa Ấn Độ như chúng có thể nhận thấy rõ trong cơ cấu văn hóa Phi Luật Tân chỉ có thể được giải thích xuyên qua sự trung gian của các sắc dân Java, Mã Lai hay Chàm … là những người đầu tiên đã tiếp nhận các thành tố Ấn Độ này” (54). Ảnh hưởng Chàm trong phương diện này không thể bị xem nhẹ, theo tôi thấy. Giả định rằng nguồn gốc và tính chính thống Phi Luật Tân của nó được xác nhận, Bản Khắc Trên Bảng Đồng Laguna có vẻ như cấu thành bằng chứng văn bản sớm nhất của văn minh Ấn Độ tại Phi Luật Tân. Bản khắc làm liên tưởng đến nhiều từ ngữ tiếng Phạn khác nhau, kể cả nhan đề senapati, đã được dùng tại Phi Luật Tân vào năm 900 sau Thiên Chúa. Các nguồn tư liệu Trung Hoa thời nhà Tống cũng cung cấp bằng cớ mạnh mẽ về ảnh hưởng Ấn Độ tại Phi Luật Tân. Quyển sách do triều đình ủy nhiệm soạn thảo, Song Hui-yao Ji-gao [có kèm chữ Hán, chú của người dịch] hay Các Hội Viện Đời Nhà Tống (Bản Thảo) (Collected Institutes of the Song Dynasty), được biên soạn trong nhiều ấn bản liên tiếp nhau từ lúc bắt đầu thế kỷ thứ mười một đến giữa thế kỷ thứ mười ba, dựa trên các bản văn ghi nhớ, các văn kiện hoàng cung và các tài liệu địa phương. Đây là một trong những nguồn tư liệu căn bản được dùng để biên soạn lịch sử triều đại, tức Tống Sử (Song Shi) [có kèm chữ Hán, chú của người dịch]. Trong phần “Các Ngoại Nhân” của quyển Song Hui-yao Ji-gao, một xứ sở có tên là “Pu-duan” [có kèm chữ Hán, chú của người dịch] được ghi với nhiều chi tiết. Sự xác minh, được chấp nhận rộng rãi ngày nay, cho thấy Pu-duan tượng trưng cho vùng Butuan tại đảo Mindanao đã được xác nhận lần đầu tiên, theo tác giả Wolters (55), bởi Grace Wong trong bài viết năm 1979 nhan đề “The Place of Porcelain” (Xứ Đồ Gốm) của bà được ấn hành trong tập Chinese Celadons and Other Related Wares in Southeast Asia. Quyển Song Hui-yao Ji-gao đã ghi nhận về thực thể này như sau: Pu-duan nằm giữa đại dương. Nó gần cận với xứ Chàm và [trước đây] không có tiếp xúc với Trung Hoa. Trong tháng chín năm thứ sáu niên hiệu Xian-ping của vua Zhen-zong (tháng Chín – Tháng Mười năm 1003), sứ giả Li Yi-ban cùng phó sứ Jia-mi-nan được phái bởi nhà vua của họ tên Qi-ling, đã đến chầu và dâng cống vật gồm các thổ sản và các con chim vẹt màu đỏ … Trong tháng hai của năm thứ tư vương hiệu Dazhong Xiang-fu (tức Tháng Ba/Tư năm 1011), sứ giả Li Yu-xie lại được phái bởi người lãnh đạo xứ đó, tên Xi-li Pa-da-xia-zhi, đến với một quà kỷ niệm chạm khắc trên một thẻ bằng vàng, để dâng cống vật gồm đinh hương, long não trắng, mu rùa, và các chim vẹt màu đỏ … (56). Nơi đây, chúng ta đọc được tên hai nhà lãnh đạo xứ Pu-duan, hay có thể là các tên khác nhau của cùng một người lãnh đạo. Tên đầu tiên là Qi-ling [có kèm chữ Hán, chú của người dịch] được đọc là “Gi-líng” theo giọng Hokkien, nhiều phần để chỉ “Keling”, một từ ngữ được dùng tại Mã Lai và bởi người Căm Bốt để chỉ các người dân vùng nam Ấn Độ hay người Ấn Độ, một cách tổng quát hơn. Nguồn gốc của từ ngữ có vẻ là một địa điểm Ấn Độ có tên là “Kalinga”, nay là một phần của Orissa (57). Các liên hệ khả hữu giữa từ ngữ này và từ ngữ “Keling”, được ghi nhận như là một Rắn Thần quan trọng (Naga King?) của sắc dân Iban (58) cũng có thể nên được điều tra. Danh xưng tước hiệu thứ nhì được nói đến, Xi-li Pu-da-xia-zhi [có kèm 6 chữ Hán, chú của người dịch] chắc chắn là một danh hiệu Ấn Độ. Theo giọng Hokkien, các chữ này được đọc là Sih-li Bá-dâi-ha-zhi, có thể được sắp xếp lại thành “Sri Maharaja” (59). Sự sử dụng từ ngữ “maharaja” tại Phi Luật Tân đã được thảo luận bởi Francisco (60). Đoạn văn trên, nói đến thời đầu thế kỷ thứ mười một, có vẻ như là sự tham chiếu bằng văn bản đầu tiên đến sự sử dụng vương hiệu tại một khu vực nay là một phần của nước Phi Luật Tân hiện đại. Sự dâng cúng một vật kỷ niệm được khắc bằng vàng, được đề cập trong bản văn này, cũng cho thấy ảnh hưởng của Ấn Độ, và cho thấy rằng một vài văn tự đã được dùng trong khu vực thời thế kỷ thứ mười một. Với các sự tham chiếu như thế về ảnh hưởng Ấn Độ tại Phi Luật Tân trong thời kỳ này, câu hỏi là từ khi nào ảnh hưởng này đã xuất hiện. Như đã ghi nhận trước đây, Bản Khắc Trên Bảng Đồng Laguna làm liên tưởng đến ảnh hưởng của Java, trong khi các văn tự Phi Luật Tân lại gợi ý kiến rằng ảnh hưởng Ấn Độ lại đến từ các khu vực khác. Sự đề cập trong quyển Song Hui-yao Ji-gao đến xứ Pu-duan được dịch ở trên bao gồm trong phần nói về “xứ Chàm” của tác phẩm đó. Trong đoạn được phiên dịch, chúng ta đọc được rằng “Pu-duan … thì gần cận với xứ Chàm”. Sau đó, trong cùng bản văn này nó cũng đã ghi nhận rằng “Pu-duan ở dưới Champa” [có kèm 6 chữ Hán, chú của người dịch]. Điều này có thể được giải thích có nghĩa hoặc là Pu-duan thì “thấp kém” hơn xứ Chàm hay nó là một “phiên thuộc” của Chàm. Bất kể nơi mà ngườI ta chọn để vạch ra các giới hạn giả định của quyền lực chính trị của Butuan và Chàm, Trung Hoa đã thừa nhận rằng hai chính thể này có biên giới liền nhau và chính vì thế, một cách mặc nhiên, đã tiếp xúc vớI nhau. Một sự tham chiếu khác về sự xác đáng khả hữu được gồm trong bài văn tường thuật về Căm Bốt trong quyển sách của Trung Hoa có nhan đề Zhu-fan Zhi, hoàn tất vào năm 1225. Dưới mục “các xứ sở lệ thuộc” [có kèm 2 chữ Hán, chú của người dịch] của Căm Bốt có liệt kê một thực thể được gọi là Bo-si-lan [có kèm 3 chữ Hán, chú của người dịch] (61). Rất có thể vùng đất này để chỉ đảo Basilan của Phi Luật tân, nằm giữa Zamboanga và Sulu. Tác giả Wolters (62) ghi nhận rằng lý do duy nhất để xác định Bo-si-lan là Basilan mà trước đây chưa được đề xướng chính là vì Bo-si-lan đã được ghi nhận là một vùng đất lệ thuộc của Căm Bốt. Các sự nối kết mà tôi đang đề xướng khiến điều này trở nên khả dĩ là trong suốt thời kỳ này các vùng lệ thuộc của Căm Bốt trong thực tế nằm ở các khu vực mà ngày nay là phần lãnh thổ của Phi Luật Tân, và khả tính này được hậu thuẫn bởi quyển sử ký triều đại nhà Tống tức Tống sử (Song Shi) trong đó ghi nhận rằng Bo-si-lan nằm ở phía đông nam của Căm Bốt (63). Tập Wen-xian Tong-kao, được biên soạn trong năm 1307 nhưng dựa trên các nguồn tư liệu trước đó, đã ghi nhận trong phần viết về Champa: Xứ Chàm nằm ở phía tây nam Trung Hoa. Phía đông của nó là biển, trong khi phía tây là Vân Nam. Giáp phía nam là xứ Chân Lạp (Zhen-la) [Căm Bốt] và phía bắc là tiểu trấn Huan … Đi quá nó, băng ngang biển … ở phía đông là Ma-yi [Mindoro], [mất] hai ngày đường, trong khi xứ Pu-duan nằm ở nơi cách bảy ngày đường … (64) Các nguồn tư liệu Trung Hoa đó phải ghi nhận rằng Mindoro và Butuan có thể đến được từ xứ Chàm có lẽ có tầm quan trọng về mặt các hải lộ mậu dịch được hay biết đối với người Trung Hoa vào thời điểm đó. Hai bài viết gần đây nhấn mạnh hơn nữa tầm quan trọng của các hảI lộ nối liền các chính thể lục địa Đông Nam Á thời trung cổ với quần đảo Phi Luật Tân và đảo Borneo. Các chuyên viên đồ gốm Burns và Brown, trong một bài viết đệ trình tại một hội nghị ở Việt Nam năm 1990 (65), đã ghi nhận sự tương đồng nổi bật của các sưu tập đồ gốm của Quảng Đông được tìm thấy tại Trà Kiệu, kinh đô thời cổ của Chàm, với các đồ vật được tìm thấy ở Butuan, và trên căn bản này đã nêu ý kiến về các sự liên kết mậu dịch giữa hai khu vực trong thế kỷ thứ mười. Sử gia kinh tế Ptak cũng sử dụng một loạt các tư liệu đa dạng để chứng minh là làm thế nào mà các hải lộ này giữa đất liền và vùng hải đảo Đông Nam Á đước nối kết vào một màng lưới lớn hơn nhiều các mắt xích mậu dịch trong thời khoảng từ thế kỷ thứ mười bốn đến thế kỷ thứ mười sáu (66). Sau cùng, chúng ta có lẽ phải xét đến một bài viết từ thời cuối thập niên 1829, được viết bởi J. Dalton và nguyên thủy được đăng tải trong tờ Singapore Chronicle hồi tháng Ba và tháng Tư năm 1831. Tác giả Dalton đã du hành khắp vùng Đông Nam Á và đặc biệt vùng biển chung quanh Borneo, Sulawesi và các đảo phía nam của Phi Luật Tân. Trong bài viết này ông đã ghi nhận: Ý kiến của nhiều người Bugis hiểu biết mà tôi đã đối thoại cho rằng phần lớn các đảo này có cư dân gốc nguyên thủy từ Xiêm La và Căm Bốt. Xứ sau này là một đất nước rộng lớn nằm phía tây của Trung Hoa mà người Xiêm La nói trước đây thuộc về họ. Ngôn ngữ của người dân Cochin-Chinese này có sự liên hệ lớn lao với ngôn ngữ người dân Bugis hơn là với ngôn ngữ của vùng Tonkin, và người Xiêm La có thể hiểu được họ không mấy khó khăn… Từ thủa không ai biết rõ đã có sự buôn bán vô cùng sâu rộng được thực hiện giữa Xiêm La, Cochin-China và nhiều các bộ lạc cư ngụ trên giải đất rộng lớn của xứ sở nằm ở cửa sông Căm Bốt; cũng như với quần đảo Sooloo, kể cả phần phía bắc của Borneo và có lẽ cả đảo Celebes nữa. Sự giao thông vẫn còn tiếp tục. Mỗi năm hàng trăm con thuyền ít nhiều đi trực tiếp từ lục địa sang rất nhiều hòn đảo nằm trong biển Sooloo, liên tục đổ lên đảo số dân rất mực dư thừa của nó, là những người, bị cưỡng bách, đẩy về phía tây. Đây chỉ là bước liên tục của một hệ thống xuất cảnh trước đây, chắc chắn từ nguyên thủy đã chất người lên phần lớn các hòn đảo này. Megidano là một trong những hòn đảo đầu tiên trong vùng biển phía đông; nó chứa trên phẫn lãnh thổ rộng lớn nhất chiếm diên tích hàng dặm vuông các người Phi Luật tân, và trải dân cư khắp nơi bằng một giống người cần cù đến từ bờ biển xứ Camboja … Tôi được thông báo bởi các anakodahs [?] về các con thuyền của Cochin-China (một người trong họ là một rajah [?] vốn là kẻ thường hay có mặt trên các chuyến du hành này, rằng trên phần đất rộng lớn hơn của đảo Megidano và ở những phần khác trên các hòn đảo này, có một dân cư đông đúc như dân số của bất kỳ phần đất nào của miền bắc Trung Hoa và rằng từ Cochinchina không thôi, kể cả các quốc gia bản xứ tọa lạc khoảng cửa sông Căm Bốt, hàng năm có tới 140 con thuyền lớn nhỏ, được lái nhắm tới Magidano. Các con thuyền này chuyên chở từ năm mươi đến năm trăm hành khách, là những người xuất cảnh đến nơi đó, và là những người khi đến nơi, ra sức làm công trong một giai đoạn nào đó để trả nợ tiền du hành … Cũng chính vị rajah này đã nói với tôi rằng, số lượng con thuyền hàng năm khởi hành từ cùng các phần đất để đến đảo Palawan không ít hơn tám mươi chiếc thuyền cỡ khá lớn. Đảo Palawan được cai trị bởi một ông rajah có liên hệ với vị hoàng đế Cochin-China … miền cực bắc của đảo Borneo cho thấy một mật độ tương tự dân số đến cùng nguồn gốc. Với sự tính toán trung bình, không ít hơn 500 chiếc thuyền được lái hàng năm từ bờ biển Căm Bốt đến các đảo này … Ngôn ngữ Cochin-china được nói phổ quát tại khắp nơi trên đảo Palawan và Megidano; ở vùng xa hơn về phía tây và đặc biệt dọc theo bờ biển của các đảo nằm xa hơn nữa về phía tây, dân số này được pha trộn với sắc dân Bugis. Tại các địa điểm miền bắc đảo Borneo, ngôn ngữ Căm Bốt được nói nhiều như bất kỳ [ngôn ngữ] nào khác … (67) Cần phải phát biểu ngay rằng Dalton không phải là nhà ngữ học hay một sử gia. Tiểu sử của ông ta có phần không minh bạch, nhưng một số chi tiết về lai lịch và các khát vọng thương mại của ông có thể được lượm lặt từ tác giả Tarling (68). Dalton thú nhận mình là một kẻ phiêu lưu tọc mạch và nhiều ý kiến của ông khiến ta nghĩ ngợi rằng các sự kết luận của ông không hoàn toàn dựa trên các sự quan sát vô tư. Bất kể điều này, ông đã du lịch và điều tra sâu rộng trong khu vực và có ít nhất hai điểm khiến cho đoạn văn này đáng được trích dẫn dài dòng như thế. Điểm đầu tiên là có vẻ đã có, vào đầu thế kỷ thứ mười chín, nhiều sự tiếp xúc giữa Căm Bốt (Camboja), Cochin-China (xứ Chàm trước đó), và các đảo của Phi Luật Tân, sử dụng các kỹ thuật hải hành vốn được cung ứng từ hàng nghìn năm. Điểm thứ nhì là đã có một sự tin tưởng phổ thông đương thời rằng một số dân cư ở khu vực Borneo/Sulu phát sinh từ Căm Bốt, làm liên tưởng đến sự xuất cảnh của một số người khá xa xưa. Sự kiện này càng củng cố khả tính rằng đã có một sự di chuyển dân số giữa Chàm, Căm Bốt và quần đảo Phi Luật Tân trong thời trung cổ. VI. KẾT LUẬN Bằng chứng về cổ tự (chữ xưa) đủ mạnh để nghĩ rằng nguyên mẫu văn tự Phi Luật Tân phát sinh từ một văn tự vùng đất liền Đông Nam Á, và chính văn tự Chàm cung cấp mối quan hệ vững chắc nhất và có lẽ là nguồn gốc đúng nhất. Bằng chứng văn bản cũng nêu ý kiến về các sự tiếp xúc hàng hải và các quan hệ chính trị khả hữu giữa Chàm, Căm Bốt và các phần đất thuộc Phi Luật Tân ngày nay trong một thời kỳ kéo dài từ thế kỷ thứ mười đến thế kỷ thứ mười lăm, khi các ảnh hưởng Ấn Độ được du nhập vào các hải đảo này. Các ảnh hưởng của vùng lục địa Đông Nam Á trên các nền văn hóa Phi Luật Tân, cũng như các ảnh hưởng di chuyển theo chiều ngược lại, cần phải được điều tra sâu rộng hơn nữa, không chỉ xuyên qua sự. nghiên cứu thêm về khu vực lan truyền chữ cổ, mà còn, một cách quan trọng hơn, xuyên qua các sự khảo sát đối chiếu về khảo cổ học, ngôn ngữ học và dân tộc học./- CHÚ THÍCH: * Bài viết này là bản văn khai triển rộng các ý tưởng đã được đưa ra trong một bài thuyết trình được đọc tại Hội Nghị Lần Thứ Mười Hai của Hiệp Hội Quốc Tế Các Sử Gia Về Á Châu được tổ chức tại Hồng Kông trong tháng Sáu măm 1991. Tác giả xin bày tỏ lời cảm ơn đến Tiến Sĩ Norman G. Owen, Ban Lịch Sử, Đại Học Hồng Kông và một người đọc vô danh về sự trợ giúp và các ý kiến. 1. W.H. Scott, Prehispanic Source Materials for Philippine History (Quezon City, 1984), trang 53. Một ấn bản chụp litho (photolithographic) từ một bản in duy nhất còn được hay biết của tác phẩm này đã được ấn hành tạI Washington, D.C. năm 1947. Scott, trong Prehispanic Source Materials, trang 164, ghi nhận một ấn bản sao chụp khác được ấn hành bởi National Historical Commission, Manila năm 1973. 2. Trong bài khảo luận giớI thiệu ấn bản sao chụp năm 1947, được ấn hành với nhan đề Doctrina Christiana – The First Book Printed in the Philippines, Manila, 1593: A Facsimile of the Cvopy in the Leasing J. Rosenwald Collection, Library of Congress (Washington D.C., 1947), Edwin Wolf 2nd bày tỏ sự tin tưởng của ông rằng tác phẩm đã là quyển sách đầu tiên có thể chứng thực được là đã được in tại Phi Luật Tân. Tuy nhiên, P. Van der Loon, trong bài “The Manila Incunabula and Early Hokkien Studies”, Asia Major XII (1966): 1-43, nêu ý kiến rằng quyển Hsin-ko seng-shih Kao-mu Hsien chuan Wu-chi tien-chu cheng-chiao chen-chuan shi-lu, một ấn phẩm in bằng bản khắc gỗ của một tác phẩm về thần học và vũ trụ được viết bằng tiếng Trung Hoa bởi Sư Huynh dòng Dominican Juan Cobo, được ấn hành tại Manila hồi tháng Ba năm 1593 và do đó có thể đã có nhật kỳ trước cả quyển Doctrina Christiana. 3. Trong quyển The Philippine Islands 1493-1803 của E.H. Blair và J.A. Robertson, (ấn bản nguyên thủy được ấn hành tại Cleveland 1903-1909, được in lại bởi Rizal, 1973), tập XII, trang 10, các nhật kỳ của ông sống tại Phi Luật Tân bị ghi sai là từ 1595 đến 1602. Edwin Wolf 2nd, trong lời giới thiệu bản sao chụp quyển Doctrina Christiana có bổ túc (nơi trang 9) rằng Chirino đã quay trở lại quần đảo trong năm 1606 và đã ở lại đó cho đến khi từ trần vào năm 1635. 4. Blair và Robertson, The Philippine Islands, vol. XII, các trang 242-43. 5. J.R. Francisco, Philippine Palaeography, Philippine Journal of Linguistics Special Monograph Issue No. 3 (Quezon City, 1973), trang xii. 6. Blai and Robertson, The Philippine Islands, vol. XVI, các trang 115-17. 7. Cùng nơi dẫn trên., vol. XXIX, các trang 288-90. 8. Cùng nơi dẫn trên, vol. XL, trang 49. 9. Francisco, Philippine Palaeography, trang 93. 10. C.R. Boxer, “A Late Sixteenth Century Manila MS”, Journal of the Royal Asiatic Society of Great Britain and Ireland (1950): 38-49. 11. F. Landa Jocano, The Philippines at the Spanish Contact: Some Major Accounts of Early Filipino Society and Culture (Manila, 1975), trang 196\. 12. Scott, Prehispanic Source Materials, trang 53. 13. Francisco, Philippine Palaeography, trang 83. 14. Cùng nơi dẫn trên, các trang 22-31, 44-50, 97-100. 15. Về các thí dụ khác nhau của nhiều loạI văn tự Phi Luật Tân, xem các Bảng 8, 9, và 10 trong Francisco, Philippine Palaeography. 16. Blai và Robertson, The Philippine Islands, vol. XII, trang 241. 17. Cùng nơi dẫn trên, vol. XL, trang 49. 18. J. Crawfurd, A Descriptive Dictionary of the Indian Islands and Adjacents Countries (được ấn hành nguyên thủy năm 1856; in lại trong tập Oxford in Asia Historical Reprints, Singapore, 1971), trang 348. 19. Francisco, Philippine Palaeography, các trang 4-20. 20. Scott, Prehispanic Source Materials, trang 61. 21. Francisco, Philippine Palaeography, trang 87. 22. Cùng nơi dẫn trên, trang 84. 23. J.R. Francisco, Indian Culture in nthe Philippines: Views and Reviews, Fourth Sri Lanka Endowment Lecture, bài giảng đọc tại Đại Học Mã Lai ngày thứ Sáu, 18 tháng Mười, năm 1985 (Kuala Lumpur, 1985), trang 49. 24. G. Maspero, Le Royaume de Champa (Paris, 1928). 25. École Francisco d’Extrême-Orient (ed.), Kerajaan Campa (Jakartsa, 1981). 26. Cùng nơi dẫn trên, các trang 297-318. 27. J. Boisselier, La Statuaire du Champa: Recherches sur les Cultes et L’Iconographie (Paris, 1963). 28. R.C. Majumdar, Champa: History and Culture bof an Indian Kingdom in the Far East 2nd – 16th Century AD (In lại, Delhi, 1985). 29. R.C. Majumdar, “La Paleographies des Inscriptions du Champa”, Bulletin de l’École Francaise D’Extrême-Orient XXXII (1932): 127-39. 30. E. Aymonier và A. Cabaton, Dictionaire Cam-Francaise (Paris, 1906). 31. Cùng nơi dẫn trên, các trang x-xxii. 32. J.G. de Casparis, Indonesian Palaeography: A History of Writing in Indonesia from the Beginnings to c. A.D. 1500 (Leiden, 1975), trang 10. 33. Francisco, Philippine Palaeography, trang 91, Hình 1. 34. Scott, Prehispanic Source Materials, các trang 57, 60. 35. Majumdar, “La Paleographie des Inscriptions du Champa”, các trang 128-29 và Bảng IX. 36. D. Diringer, The Alphabet: A Key to the History of Mankind (London, 1968), vol. II, các trang 244-45, 298. 37. Francisco, Philippine Paleography, trang 94. 38. H. Jensen, Sign, Symbol and Script: An Account of Máns Effort to Write (London, 1970), các trang 388, 395. 39. L.-C. Damais, “Les écritures d’origine indienne en Indonesie et dans le Sud-Est Asiatique continental”, Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Nouvelle Serie, Tome XXX, (1955): 365-82. 40. K.F. Holle, Tabel van Oud- en Nieuw-Indische Alphabetten, 2 phần (Buitenzorg, 1877 và Batavia, 1882), trang 47. 41. Holle, Tabel, các trang 46-47 và Diringer, The Alphabet, Vol. II, trang 254. 42. Holle, Tabel, trang 43. 43. Cùng nơi dẫn trên, các trang 42-43. 44. J.R. Francisco, Indian Influences in the Philippines, with Special References to Languages and Literature (Quezon City, 1964), trang 258. 45. 45. Cùng nơi dẫn trện 46. P.N. Jenner và Saverous Pou, “A Lexicon of Khmer Morphology”, Mon-Khmer Studies, vols. IX-X (Hawaii, 1980-81), các trang viii-ix. 47. M.R. Haas, Thai Vocabulary (Washington, 1955), trang 517. 48. Scott, Prehispanic Source Materials, trang 58. 49. Ạ Postma, “Contemporary Mangyan Scripts”, The Philippine Journal of Linguistics (1972): 1-12. 50. De Casparis, Indonesian Palaeography, trang 67. 51. Scott, Prehispanic Source Materials, trang 54. 52. Ạ Postma, “The Laguna Copper-Plate Inscription: Text and Commentary”, Philippine Studies 40 (1992): 183-203. 53. Xem, thí dụ, W.G. Solheim II, “Further Relationship of the Sa-Huynh – Kalamay Pottery Tradition”, Asian Perspective 8, 1 (1964): 196-211. 54. Francisco, Indian Culture in the Philippines, trang 51. 55. O.W. Wolters, “A Few and Miscellaneous Pi-Chi Jottings on Early Indonesia”, Indonesia, no. 36 (1983): 58-59. 56. Song Hui-yao Ji-gao (Beijing Zhonghua Shuju, 1957), Juan 197, trang 7761. Một bản dịch đầy đủ đoạn văn, cũng như bản tiếng Trung Hoa, được tìm thấy trong W.H. Scott, Filipinos in China Before 1500 (Manila, 1989), các trang 27-28, và 45. 57. Xem R. J. Wilkinson, A Malay-English Dictionary (Romanised) (Mytilene, Greece, 1932), tập I, trang 542; F. E. Huffman và Im Proum, Cambodian-English Glossary, 1977, trang 13; và Francisco, Indian Influences in the Philippines, trang 59; Henry Yule và A.C. Burnell, Hobson-Jobson: A Glossary of Coloquial Anglo-Indian Words and Phrases (London: John Murray, 1903), các trang 487-90. 58. A. Richards, An Iban - English Dictionary (Oxford, 1981), các trang 150-51. 59. Chữ viết tắt b/m trong tiếng Hokkien được thảo luận trong quyển “Studies in the Phonological History of Amoy Chinese của Yen Sian-lin (luận án Tiến Sĩ, Đại Học Illinois, 1965). Yen trích dẫn từ quyển Spoken Amoy Hokkien của Bodman như sau: “Điều đơn giản hơn để phát biểu rằng trong tiếng Trung Hoa Amoy có hiện hữu một sự tương phản cơ cấu giữa các nguyên âm thường và giọng mũi theo sau mọi chữ viết tắt, và rằng các phụ âm b và m, và g và ng chỉ là các biến thể của nhau, tùy thuộc việc có một nguyên âm thường hay giọng mũi hay nhị trùng âm (dipthong) theo sau hay không.” Yen (trang 34) cũng phân tích các âm “m” và “b” như là các biến thể âm vị (allophonic) của âm /m/. Đặc tính này thường được nhận thấy trong sự biểu thị trong tiếng Hokkien thời ban sơ các từ ngữ không phải là tiếng Trung Hoa nơi mà các chữ đượcc đọc bằng chữ “b” khởI đầu thường được dùng để thay cho từ ngoại quốc khởi đầu bằng chữ “m”. Sự sử dụng âm “ba” thay cho âm “ma” trong từ “maharajah” là một trường hợp được nói đến. 60. Francisco, Indian Influences in the Philippines, trang 19. 61. Zhao Ru-gua, Zhu Fan-zhi (ấn bản của Taiwan Bank Economic Research Office; Taiwan, 1961), trang 35. Một bản dịch sang Anh ngữ bài viết này được gồm trong quyển Chau Ju-kua: His Work on the Chinese and Arab Trade in the Twelfth and Thirteenth Centuries, entiled Chu-fan-chih của F. Hirth và W.W. Rockhill (St. Peterburg, 1911). 62. O.W. Wolters, “A Few and Miscellaneous Pi-Chi Jottings on Early Indonesia”, Indonesia, no. 36 (1983): 49-64. Xem trang 63. 63. Tuo-tuo et al, Song Shi, (Beijing Zhonghua Shuju, 1977), Juan 489, trang 14,087. 64. Ma Duan-lin, Wen-xian Tong-kao, Juan 332, “Champa”. 65. P. Burns and R. M. Brown, “Eleventh-Century Cham-Philippine Foreign Affairs”, trong Ancient Town of Hoi An, biên tập bởi The National Committee for the International Symposium on the Ancient Town of Hoi An (Hanoi, 1991), các trang 64-67. 66. R. Ptak, “The Northern Trade Route to the Spice Islands: South China Sea – Sulu Zone – North Moluccas (14th to Early 16th Century), Archipel 43 (1992): 27-56. 67. J.H. Moor, Notices on the Indian Archipelago and Adjacent Countries (được ấn hành nguyên thủy tại Singapore năm 1837, in lại bởi Frank Cass and Co., Ltd, London, 1968). Xem các trang 46-47 bài Mr. Dalton’s Essay on the Diaks of Borneo”. 68. N. Tarling, Piracy and Politics in the Malay World: A Study of British Imperialism in Nineteenth-Century South-east Asia (Melbourne, 1963), các trang 112-14, 117. Nguồn: Journal of Southeast Asian Studies 24, 1 (March 1993): 44-87 @ 1993 by National University of Singapore NGÔ BẮC dịch Nguồn: http://www.gio-o.com/NgoBacTiengCham.htm
-
http://doremon360.multiply.com/journal http://www.vietlyso.com/forums/showthread.php?t=12594 http://www.vietlyso.com/forums/showthread.php?t=11553 http://www.bradshawfoundation.com/journey/ Cái link này hữu ích này. Nếu bạn thuyết trình thì down cái file flash về để thuyết trình rất hay. Bạn vào link này để xem thêm tại liệu tham khảo nhé. Nếu có thời gian thì đọc thêm cuốn Địa đàng ở phương Đông của Stephen Oppenheimer. Chúc nhóm bạn đạt được điểm tối đa khi chứng minh luận điểm "nhiều nguoi nói rằng văn hoa viet nam bắt nguồn từ văn hóa trung hoa" là sai!
-
Thứ Năm, 05/03/2009 16:22 Những chữ cổ ở Iberia vẫn là một bí ẩn (TT&VH) - Năm ngoái, khi tiến hành khai quật ở miền Nam Bồ Đào Nha các nhà khảo cổ đã tìm thấy một phiến đá có khắc nhiều chữ viết bí ẩn được coi là thuộc ngôn ngữ cổ Southwest Script trên bán đảo Iberia. Ngôn ngữ này không hề được sử dụng trong hơn 2.500 năm qua. Phần trên của phiến đá màu vàng có những hoa văn xoắn lại với nhau một cách đối xứng theo phong cách trình bày của ngôn ngữ cổ ở Iberia. Vì phiến đá này có tới 86 ký tự, qua đó là văn bản dài nhất của ngôn ngữ thời kỳ đồ sắt này đã được tìm thấy cho tới nay, nên các nhà khoa học hy vọng nó sẽ giúp họ bước đầu giải mã được Southwest Script. Nhưng mọi nỗ lực nghiên cứu cho đến nay vẫn chưa thu được kết quả như ý. Trong suốt hơn hai thế kỷ qua, các nhà khoa học đã cố gắng giải mã Southwest Script, được cho là chữ viết lâu đời nhất của bán đảo Iberia và cùng với ngôn ngữ của nền văn minh Etruscan (vùng Tuscany, Italia ngày nay), là một trong những chữ viết đầu tiên của châu Âu. Bán đảo Iberia nằm ở cực Tây Nam châu Âu, được bao quanh bởi Địa Trung Hải về hướng Đông và Nam, bởi Đại Tây Dương về hướng Tây và Bắc. Dãy núi Pyrenees làm thành biên giới Đông Bắc của bán đảo. Đây là bán đảo lớn nhất châu Âu với 582.860 km². Cho đến nay, đã có khoảng 90 phiến đá có khắc chữ cổ đã được phát lộ, nhưng hầu hết trong số đó đều không đầy đủ. Phần lớn trong số này nằm rải rác khắp miền Nam Bồ Đào Nha. Các ký tự này được khắc một cách cẩn thận trên phiến đá, thường là bản thảo liên tiếp với những từ không bị phân cách được đọc từ phải tới trái. Gặp khó khăn vì thiếu tư liệu Những nỗ lực đầu tiên để giải mã được loại chữ viết cổ đại này được xúc tiến từ thế kỷ 18 khi loại chữ cổ thất truyền này đã gây tò mò cho một vị giám mục, người cai quản cả khu vực Almodovar - thị trấn gồm khoảng 3.500 dân. Mặc dù phiến đá mới được tìm thấy đã dần dần cung cấp thêm những thông tin mới, song các nhà nghiên cứu vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc giải mã chúng bởi họ đang dấn sâu vào một thời kỳ lịch sử có rất ít tư liệu. Giáo sư Pierre Swiggers, chuyên gia về Southwest Script tại trường ĐHTH Leuven (Bỉ), cho biết: “Chúng tôi khó có thể biết được bất cứ điều gì về thói quen thường nhật của người dân nơi đây và tín ngưỡng tôn giáo của người dân ở khu vực này”. Hầu hết các chuyên gia đều nhất trí rằng các bản thảo Southwest Script có niên đại vào khoảng năm 800-500 trước Công nguyên và tác giả của chúng là người Tartessia ở vùng Địa Trung Hải, nhưng chúng đã biến mất vào thế kỷ 1-2 theo Công lịch và dần bị thay thế bởi tiếng Latin. Tuy nhiên, một số nhà khoa học lại cho rằng các văn bản đó do các bộ lạc thời tiền La Mã, như Conii hoặc Cynetes hoặc cũng có thể là người Celt viết nên. Việc loại chữ này chưa được chuẩn mực hóa cũng gây khó khăn cho các nhà nghiên cứu. Dường như chúng được mô phỏng từ bảng chữ cái Phoenicia và Hy Lạp vì nó có sao chép một số quy ước viết trong các bảng chữ cái. Tuy nhiên, chữ viết Iberia phá vỡ một số quy luật và tạo nên những nét mới. Cho đến nay, các chuyên gia đã nhận dạng được các ký tự đại diện cho 15 âm tiết, 7 phụ âm và 5 nguyên âm. Thế nhưng họ chưa hiểu người ta muốn truyền tải những thông điệp gì qua văn bản trên các phiến đá. Những manh mối mờ nhạt Một số phiến đá có những hình ảnh mô tả sơ sài như một chiến binh cầm mác hay trong phiến đá mới được tìm thấy thể hiện những dòng chữ cân xứng và nhiều nét xoắn. Điều đó khiến các chuyên gia cho rằng những phiến đá đó là bia của những người thuộc tầng lớp tinh tú bản địa trong xã hội thời đó. Tuy phát hiện hồi năm ngoái đã cung cấp một số thông tin hữu ích song chúng không mang tính chất đột phá như các nhà khoa học hy vọng. Không giống như phiến đá Rosetta, đã giúp các nhà khoa học giải mã được những bí ẩn của chữ viết tượng hình, thì những nỗ lực tái tạo chữ viết Iberia cổ đại còn rất chậm chạp. Lương Tuấn Vĩ Nguồn: thethaovanhoa.vn
-
Tài liệu về chữ việt cổ trích Những Phát Hiện Mới về Khảo Cổ Học năm 1981, Viện Khảo Cổ Học, Phát hiện một hệ thống chữ viết có niên đại Đông Sơn, Hà Văn Tấn (Trường đại học Tổng Hợp Hà Nội) Lưu ý: Bảng 1 bị scan lỗi, hi vọng ai có quyển sách này sẽ scan lại cho mọi người cùng xem. Nguồn: thành viên tiendoan của dactrung.net scan từ nguyên bản Qua đoạn trích trên chúng ta thấy rằng nếu những kí tự ở những chiếc qua đồng trong ngôi mộ Sở, ở Hồ Nam cùng một hệ thống chữ viết trên chiếc qua ở Thanh Hóa thì có thêm một bằng chứng người Sở cũng có mối quan hệ với người Việt chúng ta. Đọc trong đoạn trích chúng ta thấy rằng mặc dù người Hán không đọc được, không phân lập được hệ thống chữ viết này nhưng mà họ vẫn nghĩ nó là của mình mới buồn cười chứ :unsure: . Có 3 điều mà trong đoạn trích trên đã khẳng định: - Chữ viết này nằm riêng biệt trong khu vực phía nam sông Dương Tử đến sông Mã. Thật là trùng hợp, mà thực ra cũng không có gì phải ngạc nhiên. Khu vực tìm thấy loại chữ viết này lại thuộc về dân tộc Lạc Việt có đề cập đến trong những truyền thuyết, sử sách. - Hệ thống chữ viết này khác Hán, không phải Hán. Chữ viết này là chỉ ý, hoặc là tượng thanh như một số nhà nghiên cứu của Việt Nam đã phát hiện trong những năm gần đây. Nếu mà người Hán nhận là chữ của họ thì có 2 khả năng sau: một là từ chữ trên được phát triển thành bây giờ( khả năng này loại bỏ vì chữ tượng thanh mà suy ra tượng hình được thì cũng tài thánh! :P ), thứ 2 nếu họ bảo rằng đã tồn tại 2 thứ chữ song song và về sau chỉ dùng lối chữ tượng hình như bây giờ thì cũng chịu thôi! Lối chữ tượng thanh tiên tiến hơn mà lại bỏ đi dùng lối chữ tượng hình thì cũng bó tay. hix hix - Hệ thống chữ viết này đã tồn tại trước cả đế quốc Tần thống nhất Trung Quốc và trước cả cuộc thời kì đô hộ của người Hán. Trong sử sách có nhắc đến sự kiện Tần Thủy Hoàng nghe theo lời Lý Tư "chôn nho, đốt sách" để dập tắt tự do ngôn luận để dễ bề cai trị. Sự kiện này xảy ra sau khi đế quốc Tần thôn tính toàn bộ sáu nước Tề, Sở, Hàn, Yên, Triệu, Ngụy. Việc làm này cũng dễ hiểu bởi vì mỗi quốc gia có những nền chính trị, qui ước riêng ví dụ: ngôn ngữ, đơn vị tiền bạc, đơn vị buôn bán đo lường, nên Tần Thủy Hoàng đã cho đốt hết những thứ ghi chép về những điều này để thống nhất một nền chính trị duy nhất trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Phải chăng những thứ ngôn ngữ, chữ viết của Sở quốc thuộc chủng tộc Bách Việt cũng nằm trong số này? Có thể lắm chứ! :rolleyes:
-
Hình trên được đưa ra bởi một tiến sĩ có tên là Mario Pazzaglini. Ông là một người đã có nhiều nghiên cứu về những kí tự của người ngoài hành tinh, ông đã sự dụng những kí tự này để chữa các chứng bệnh liên quan đến tâm thần. Vào năm 1960, Pazzaglini vẫn đang là sinh viên học chuyên nghành vật lí và toán học. Mọi chuyện thay đổi vào cuối những năm 1960, ông ấy đã chuyển sang nghành tâm lí học, và sau đó đã tốt nghiệp. Ông ta nhận bằng tiến sĩ của trường đại học Delaware vào năm 1969, và sống tại một thị trấn nhỏ ở Newark, chỗ ở của ông ấy chỉ cách trường đại học Delaware một vài dặm và đó cũng là nơi nghỉ ngơi cho phần đời còn lại cho đến khi ông ấy mất vào năm 1999. Vào khoảng thời gian đó ông ấy trở thành một chuyên gia về các vấn đề chữa trị lạm dụng chất gây nghiện và Pazzaglini còn làm tại một số ủy ban và các hội đồng của bang Delaware, đặc biệt trong chuyên nghành chữa trị bệnh tâm thần. Ông ấy đã tham gia một cuộc hội thảo về những vụ bắt cóc bởi UFO tại học viện công nghệ Massachusetts vào năm 1992 và đã thuyết trình những nghiên cứu của mình với những nhà khoa học đứng đầu trong lĩnh vực này, nhưng chỉ có một số người bạn của ông ấy biết về điều này. Hầu hết không ai biết rằng ông ấy có một quyển sổ ghi chép rất nhiều những kí tự lạ, ở nhà ông ấy có hàng trăm những bức tranh và hình vẽ. Tiến sĩ Mario Pazzaglini đã làm một nghiên cứu trong vòng 16 năm về các chứng cứ và các nguồn thông tin được coi là kí tự của người ngoài hành tinh, ông đã viết chúng vào trong những quyển sách của mình, Symbolic Messages. Ông ta đã thu thập hàng trăm mẫu và phân loại chúng thành các loại: 1. Alphabetic: 20 – 30 kí tự (mỗi một kí tự là 1 phụ âm hoặc nguyên âm) 2. Syllabic: 50 – 60 kí tự ( mỗi một kí tự tượng trưng cho một phụ âm và nguyên âm kết hợp) 3. Ideographic: 500 – 600 kí tự ( mỗi kí tự biểu đạt ý nghĩa hoặc từ) 4. Symbol: kí hiệu đơn hoặc phức tạp Trong những nghiên cứu của Pazzaglini ông còn nghiên cứu cả những kí tự từ nhiều nguồn khác. Chúng bao gồm thuật giả kim (alchemy), Mật tông Do Thái (cabbala), Bài Tarot (Tarot), thần số học (numerology). Ông ấy còn biên soạn một hệ thống những biểu tượng phép thuật và kí tự của riêng mình mà không ai có thể giải mã được. Những kí tự của người ngoài hành tinh mà Pazzaglini không giống với bất kì kí tự nào mà những nhân chứng gặp UFO nhìn thấy, ngoại trừ một trường hợp. Andreasson là người bị bắt cóc bởi người ngoài hành tinh, cô được nhắc đến trong cuốn sách Andreasson Affair viết bởi Raymond Fowler. Sau khi so sánh những hình vẽ mà Andreasson với những biểu tượng về giả kim thuật thời trung cổ, Pazzaglini có thể dịch được một câu trong số một trăm kí tự. Câu đó được dich là: Nếu bạn muốn làm ánh sáng rắn, hãy đưa nó đến mặt trăng. Câu nói này tuy là ít mang tính thực tế nhưng nó lại là những vần thơ đẹp. Pazzaglini cho biết ông ấy đã liên lạc với những người đứng đầu những nhà nghiên cứu về những vụ bắt cóc, họ đã hứa gửi cho ông ấy những mẫu kí tự của người ngoài hành tinh, nhưng ông ấy không bao giờ nhận được chúng. Có lẽ họ muốn giữ bí mật về những kí tự ấy để xác định tính chân thực của những tuyên bố trong tương lai, hoặc có lẽ nó chỉ đơn giản là họ muốn giữ bí mật của riêng họ. Đáng tiếc rằng một nghiên cứu khác về kí tự về những người ngoài hành tinh của ông vẫn chưa được xuất bản. Từ ý tưởng của tiến sĩ Pazzaglin, PhucTuan có tìm một số thông tin sau: Thuật giả kim: Alchemy là kết hợp của 2 từ Al và Chemi, Al giống tiếng Do Thái (Hebrew) là El có nghĩa là mặt trời quyền năng, Chemi có nghĩa là lửa. Ở thời Ai Cập cổ đại nó còn được gọi là Khem, thông thường thì mọi người nghĩ rằng nó là thứ khoa học xuất phát từ vùng đất của những vị Pharaoh. Nhưng trên thực tế thì nó lại được sinh ra từ một lục địa đã mất, lục địa Atlantis, Ai Cập chỉ là mảnh đất làm nó sống lại một lần nữa mà thôi. Thuật giả kim được truyền bá vào Ai Cập bởi một người có tên là Hermes Trismegistus. Giả kim thuật là tiền than của hóa học cận đại và nó ảnh hưởng rất nhiều đến khoa học kỹ thuật thời cổ cũng như đời sống loài người. Bài Tarot: Nguồn gốc của Tarot vẫn là một bí ẩn. Theo như ghi chép thì có thể nó xuất xứ từ Ai cập cổ tuy nhiên cho đến giờ vẫn chưa tìm được những bản vẽ ghi chép về các hình bài tarot đầu tiên, chỉ biết các lá bài đã xuất hiện lần đầu tiên ở Italia vào thế kỉ 15 như một trò chơi rất phổ biến. Nguồn gốc của bộ bài Tarot có hơi mơ hồ. Những thuyết phộ biến nhất là từ Ai Cập – thần Thoth và những kết nối và những điều giảng dạy thần bí cổ xưa. Thần thoại phổ biến nhất là nó được mang tới từ Châu Âu. Bộ bài Tarot như ta biết ngày nay là một tập hợp các hình ảnh & biểu tượng thừ nhìu nền văn hóa khác nhau, từ Hi Lạp & La Mã cổ đến người Na Uy tiền sử, từ những tôn giáo cổ của Ấn Độ đến những triều đình trung cổ tại Ý & Pháp. Vào thế kỉ 18 và 19, những lá bài được phát hiện bởi một số nhà huyền học uy tín. Những người này bị lôi cuốn bởi Tarot và nhận ra rằng những hình vẽ trên các lá bài có nhiều sức mạnh hơn là một trò chơi đơn giản. Họ khám phá ra lịch sử “thật” của Tarot bằng cách liên hệ những lá bài với những bí ẩn của người Ai Cập, những nguyên lý Giả kim thuật, phép thuật của người Do Thái (Kabbalah), và những hệ thống thần bí khác. Qua những thông tin trên ta thấy tất cả mọi điều huyền bí vẫn chỉ là huyền bí. Nhưng một điều mọi người hãy thử suy nghĩ xem, nếu tất cả những điều huyền bí này đều liên quan đến nhau. Từ bộ bài Tarot tìm thấy những điều liên quan đến thuật giả kim (Alchemy) và ngược lại thì hẳn chúng phải có chung một nguồn gốc. Nếu giả thuyết cho thuật giả kim xuất phát từ lục địa Atlantis thì hiển nhiên những quân bài “định mệnh” này cũng phải thuộc về lục địa truyền thuyết đó. Những phép thuật thần bí hay những môn khoa học huyền diệu như thần số học của Pythagorax sáng lập ra 600 năm trước Thiên Chúa giáng sinh đều thuộc về một nền văn minh đã mất. Phải chăng tất cả những điều được cho là phép mầu nhiệm đó là thứ khoa học mà con người chúng ta đang tìm những mảnh ghép và lắp lại thành một bức tranh hoàn chỉnh. Những nhà khoa học trên thế giới đang theo đuổi về một giả thuyết là trên trái đất này đã từng tồn tại một nền văn minh thống nhất, mà nền văn minh đó khoa học ký thuật đã đạt đến một trình độ ngoài sức tưởng tượng. Nếu mọi thứ họ theo đuổi là đúng và giải mã được thì chúng ta sẽ có một câu trả lời thỏa mãn tất cả những vấn đề hóc búa mà nhân loại đang gặp phải. Có thể chúng ta sẽ biết chúng ta là ai, từ đâu đến? Nhưng bây giờ tất cả vẫn chỉ phụ thuộc vào tương lai.
-
Tiếp tục lang thang trên mạng tìm tất cả những kí tự có hình dạng như chữ Khoa Đẩu, và cũng thật kinh ngạc PhucTuan đã đi hết từ bất ngờ này sang bất ngờ khác khi xâu chuỗi các sự kiện này đến các sự kiện khác. PhucTuan tìm thấy những thông tin này trên wordpress của mayavision2012 Có 2 vợ chồng người mỹ ở Bakersfield, California đã chụp được những tấm hình về quĩ đạo của một vật thể bay lạ vào buổi sáng ngày 9-7-2009 vào lúc 4 rưỡi đến 6 giờ sáng Vào link bên dưới để xem rõ hơn http://mayavision2012.wordpress.com/ufo-photos-and-information-from-readers/ Những vệt hình như trên rất giống với những vệt mà mayavision2012 có được ở Stephenville, Texas trong năm nay. Những kí hiệu trên rất giống với những kí tự được khắc trên một phiến đá "cự thạch" của người Brazil tại Pedra Pinta, phía bắc lưu vực sông Amazon. Phiến đá này được phát hiện vào năm 1963 bởi một nhà khảo cổ người Pháp Marcel F. Homet. Những nét khắc trên phiến đá ước tính trên 10.000 năm tuổi. Nguồn: The Sounds of the Sun © 1963 by Marcel F. Homet, Ph.D., by publisher Neville Spearman, London, England.” Ngạc nhiên bởi những kí tự lạ lùng, người viết nhớ đến những kí tự tốc kí của Gregg ( tên đầy đủ là John Robert Gregg, phát minh những kí tự này vào năm 1888). Mẹ của người viết cũng đã sử dụng những kí tự này để ghi chép danh sách mua sắm và những ghi chú khác. Một ví dụ về những kí tự của Gregg Đoạn kí tự trên dich ra có nghĩa là: Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi con người đều được tạo hóa ban cho lý trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau trong tình bằng hữu. (Điều 1 trong tuyên ngôn nhan quyền của Liên Hợp Quốc) Mọi người có thể tham khảo các kí tự của Gregg bằng từ điển dưới link sau http://www.scribd.com/doc/1624223/Gregg-Shorthand-Anniversary-Dictionary Đoạn viết bằng kí tự trên được đưa ra bởi bà Betty Andreasson Luca là một người bị bắt cóc bởi UFO vào khoảng những năm 1980. Một điều kì lạ rằng con gái của cô có những hành động kí lạ xung quanh những kí tự này. Cô con gái của bà vẽ những biểu tượng này trên màn hình bằng những ngón tay. Sau đó một quả bóng ánh sáng sẽ vọt ra khỏi màn hình ngay trước mặt cô con gái của bà, và bên trong ánh sáng là một bức hình nhỏ bé. Những điều kì lạ này hoàn toàn trùng hợp với những người cũng đã bị bắt cóc bởi người ngoài hành tinh. Hình trên là hình vẽ của một tấm đá của người mexico, truyền thuyết được cho xuất phát từ lục địa Mu. Tấm đá này được tìm thấy tại một đền thờ ở Mexico .Đây là một tấm đá rất đặc biệt, phiến đá vô cùng đẹp. Những nét chạm khắc như thủy tinh và được tách ra khỏi bề mặt của tấm đá( một tấm sa thạch rắn chắc) với một độ sâu là 1/16th của inch. Những kí tự trên mặt kính thì vô cùng cổ xưa, và đặc biệt nó chỉ dùng cho nghi lể tôn giáo. Tuổi của tấm đá này thì chưa có ai xác định, nhưng những người đã khắc những kí tự này trên tấm đá thì có những hiểu biết về đền thờ một cách nhất định. Vì tấm đá này có liên quan đến lục địa MU mà truyền thuyết nói rằng lục địa MU tồn tại khoảng hơn 12.000 năm trước đây. Đạo Mormon, tên gọi chính thức là Giáo hội Chúa Giêsu Kitô của các Thánh ngày Sau hết. Đạo này đã được ông Joseph Smith lập ra năm 1829. Ông nói một thiên thần đã dẫn ông tới một nơi có những vật giống những đĩa vàng ở tỉnh Palmyra, tiểu bang New York, Hoa kỳ . Ông nói rằng thiên thần cho ông biết cách đọc những ký hiệu giấu ẩn trên các đĩa và đọc sách Mormon. Năm 1828, ông Martin Harris, một nông dân từ Palmyra, New York nhận được từ ông Joseph Smith một bản sao của những kí tự "Ai cập cải tiến" từ chiếc đĩa vàng để lấy ý kiến khoa học về tính xác thực của những kí tự này. Sau đó Harris đã giới thiệu vấn đề quan trọng này cho ít nhất ba học giả ở miền đông Hoa Kỳ. 2 hình trên là kí tự mà ông Martin Harris nhận được. Qua tất cả những thông tin vừa thu thập được, chúng ta thấy rằng những kí tự đặc biệt này đều có một điểm chung là rất cổ xưa, xuất phát từ những truyền thuyết, những câu chuyện lạ lùng hay thậm chí từ người ngoài hành tinh. 2 điểm mà bản thân PhucTuan thấy quan trọng nhất là những kí tự từ người ngoài hành tinh và những kí tự trên những phiến đá cổ. Chữ Khoa Đẩu có hình dạng như những chữ trên, trong văn học Trung Quốc hoặc là truyện chưởng có đề cập đến những nhân vật vô tình nhặt được "sách trời" hiểu được nó sẽ sai khiến được quỉ thần, võ công thượng thừa. Chuyện này không phải là không có căn cứ, những nhân vật đó đã tiếp cận được những tri thức mà có nằm mơ con người bình thường chúng ta có thể tưởng tượng ra nổi. Gọi là "sách trời" có thể đúng cả về mặt nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, sách từ trên trời rơi xuống hoặc con người từ hàng nghìn năm trước đã quan sát hiện tượng này trên bầu trời, đã nhận và giải mã được tín hiệu của người ngoài trái đất truyền tải. Giả thiết thứ 2 PhucTuan muốn đề cập đến đó là những chứng tích được coi là truyền thuyết xuất phát từ những lục địa đã bị nhấn chìm, mất tích. Có thể những lục địa đó đã có những người sinh sông mà trình độ kĩ thuật của họ đạt đến mức thống nhất vũ trụ. Trên lục địa đó họ dùng chung một thứ chữ viết như trên, tạm gọi là chữ khoa đẩu cổ. Chúng ta đã từng biết đến 2 lục địa huyền thoại đó là Alantis mà nhà triết học Plato nhắc đến và thứ 2 là lục địa Mu. Các nhà khoa học đã đặt ra nhiều giả thiết Alantis, Mu có thể nằm ở bắc băng dương hoặc thái bình dương, chưa ai có thể trả lời. Phải chăng 2 lục địa này chỉ là 1, khái niệm khoa học và tôn giáo ở lục địa này thậm chí không tồn tại, chỉ có 1 thứ duy nhất tồn tại đó là những điều phi thường, vượt lên trên cả khoa học và những phép mầu. Quay trở lại với công việc giải mã chữ khoa đẩu và những kí tự trên PhucTuan nghĩ rằng con đường này thật gian khó biết bao, có đích đến mà không biết độ dài quãng đường là bao nhiểu? Nhưng phần thưởng mà chúng ta đạt được nó sẽ là không đếm được. Chúng ta sẽ vinh danh được nền văn hiến Việt trải 5000, giải mã được một bải toán mà cả thế giới đang tìm hiểu, một khi giải mã được những kí tự trên chúng ta sẽ tiếp cận được với những thứ tưởng chừng như là khoa học mà không phải là khoa học. PhucTuan biết là khó nhưng hi vọng những ai quan tâm đến nền văn hiến Việt và khoa học sẽ chú ý đến vấn đề này!
-
Sư phụ ơi, quê ngoại PhucTuan ở Phú Thọ, 1 tháng thì khoảng 2 lần PhucTuan về quê vào t7 hoặc CN. PhucTuan ở Hà Nội, nếu sư phụ ra Hà Nội để PhucTuan mời sư phụ về quê ngoại chơi kêt hợp về thăm bác Xuyền luôn ạ. PhucTuan chỉ dám đóng góp ý kiến nhỏ bé thôi ạ, về vấn đề khoa đẩu thì còn phải học hỏi mọi người nhiều.
-
PhucTuan thì nghĩ chữ Phạn phát triển dựa trên chữ Khoa đẩu cổ. Bản thân chữ khoa đẩu đã có mấy biến thể, cũng như trong nghiên cứu của bác Xuyền: chữ khoa đẩu như chữ Mường cổ bây giờ là biến thể của một dạng chữ khoa đẩu cổ xưa. Hình 1 Hình 2 Hình 3 Hình 4 Hình 5 Hình 6 Hình 7 Hình 8 Hình 9 Hình 10 Hình 11 Những hình trên được chụp tại một nhà thờ hồi giáo ở Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ. Blue Mosque (Sultan Ahmed Mosque) là một đền thờ Hồi Giáo quan trọng và nhiều lịch sử tại Istanbul, thủ đô của đế quốc Ottoman. Blue Mosque được xây cất vào đầu thế kỷ 17. Đền thờ là một địa danh rất nổi tiếng thế giới vì đá lót bên trong màu xanh rất đẹp và có rất nhiều du khách tham quan. Hình 1 đến 5 là PhucTuan lấy từ blog của một bạn Trung Quốc chụp, còn 6 đến 11 PhucTuan lấy trên mạng. Trong chú thích của bạn ý còn ghi rõ ràng "蝌蚪"文徽章[/font]- Khoa Đẩu huy hiệu văn. Ngoài ra còn hình 5 không rõ người ta bán cái đồ lưu niệm gì có cả biểu tượng ngôi sao 6 cánh. Có thể nhận xét rằng, những hoa văn kí tự này xuất hiện khắp đền thờ này. Những kí tự khoa đẩu ở 2 huy hiệu thì có vẻ giống với những kí tự khoa đẩu cổ. Nhìn vào hình 6 thì mật độ kí tự có giảm, có một số kí tự giống với chữ khoa đẩu mường, đặc biệt là kí tự như chữ V không thể nhầm lẫn đi đâu được. Đi tìm những thông tin về những con chữ của cha ông PhucTuan thấy có thật nhiều cảm xúc. Có lúc thấy buồn vì nền văn minh Việt bị hủy hoại quá nhiều, có lúc thấy thật là cay cú vì tìm chữ của cha ông mà lại đi học tiếng tây tiếng tầu mới dịch ra được :blink: , nhưng cuối cùng PhucTuan vẫn cảm thấy rất vui :rolleyes: và vinh dự khi được tìm lại những bằng chứng về một nền văn hiến Việt 5000 năm.
-
Gửi người tạc tượng Alexandre De Rhodes (1) Lời HLT: Việc nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng hiến tặng tượng Alexandere de Rhodes cho Thủ đô Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long lịch sử đã dấy lên nhiều tranh luận trong và ngoài nước dạo gần đây. Ngày 18/8, HLT có nhận email và bài viết của nhà nghiên cứu Trần Vân Hạc về vấn đề này. HLT lần lượt đăng tải loạt bài viết mang tính nghiên cứu nghiêm túc của tác giả Trần Vân Hạc. Rất mong bạn đọc lưu tâm theo dõi. Và đây là bài đầu tiên trong số loạt bài viết ấy. Hân hạnh giới thiệu quý bạn đọc xa gần. Trên Báo Văn Nghệ của Liên Hiệp các Hội văn học nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh, số 69 trang 17 có bài của Trí Nhân: “Suy nghĩ từ một… bức tượng”, viết về công trình của nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng đã dày công tạc tượng Alexandere de Rhodes bằng đã hoa cương trắng, nặng tới 43 tấn và sẵn sàng hiến tặng Thủ đô Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long lịch sử và vai trò của nhân vật Alexandere de Rhodes. Tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm của tác giả, rất tôn trọng lao động sáng tạo của nhà điêu khắc và xin nói rõ thêm về vấn đề này. Nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam, từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... cho đến Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài ở Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Từ Lục Lưu, đến Hứa Thân, Trịnh Tiểu... đều khẳng định: Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng. Gần đây Nhóm nghiên cứu Chữ Việt cổ và giáo dục thời Hùng Vương, do nhà văn Khánh Hoài - Đỗ Văn Xuyền lãnh đạo đã có những khám phá rất quan trọng. Một trong những kết quả nghiên cứu của Nhóm là phát hiện ra một bộ chữ Việt cổ được lưu giữ ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Các nhà khoa học cho rằng văn tự này có thể là một biến thể của chữ “Khoa đẩu” hay “Hoả tự” đã ghi trong cổ sử. Thứ chữ đã tồn tại trong nền văn hoá tiền Việt - Mường. Do không được sử dụng phổ biến, bộ chữ này bị đóng băng, không phát triển theo kịp những biến âm trong tiếng nói người Việt hiện đại. Đến thế kỷ 16 khi đạo Thiên chúa truyền vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương tây La Tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay. Theo nhà nghiên cứu chữ Việt cổ Đỗ Văn Xuyền: “Trước và sau Alexandere de Rhodes đã có hàng chục cuốn tài liệu và từ điển của nhiều tác giả. Chữ quốc ngữ ở đấy có cấu trúc lạ như: - São le - song le, Tỏ tuầng - tỏ tường (Sách giảng tám ngày của Alexandere de Rhodes) - Đàng lão - đàng trong, Đàng ngoày - đàng ngoài (A .palmeiro 1632) - Lạc Lão Cuôn – Lạc Long Quân), Thần Nõu – Thần Nông (Iginio Văn Tín 1659) Đặc biệt trong từ điển Việt Bồ La có hàng nghìn từ như vậy: Lão - Long, Suấy - suối, Thic Ca - Thích Ca, Sống mũy - sống mũi…” Alexandere de Rhodes là người biết nhiều ngoại ngữ, tại sao không dùng tiếng Pháp hay Ý hay một ngôn ngữ khác mà lại viết như vậy? Ngay trong mấy vạn từ của cuốn từ điển Việt Bồ La, riêng phần chữ Việt có 6088 từ (vần C có 658 từ, vần T có 785 từ, vần E có 12 từ, vần F 1 từ)…) Trong số này Đàng trong chỉ có 11 từ, còn lại là các từ Đàng ngoài. Trong số các từ Đàng ngoài lại thể hiện sự đặc trưng ngôn ngữ của các vùng khác nhau: Tlàng học, hạoc tlò, tlợn mắt, vỏ tlấu… là ngôn ngữ của vùng Thái Bình. Còn những từ: Đánh phết, sâu rọm, mẹ na con, làm rốn, ghe gà, đi bến, đi sông… lại của vùng trung du Bắc bộ... “Đặc biệt những từ rất tục của riêng từng vùng, chỉ những người địa phương thật thân nhau mới nói ra, được ghi lại trong từ điển ấy chứng tỏ có một nhóm trí thức địa phương đã góp cho từ điển Việt Bồ La một ngân hàng chữ như vậy. Nếu một trí thức Việt Nam, dù ở trình độ nào cũng không đủ sức làm như vậy, chứ chưa nói đến các giáo sỹ phương tây, chưa thạo tiếng Việt lại không có điều kiện đi sâu vào các địa phương” - Đỗ Văn Xuyền. Sau khi giải mã và tìm ra được cấu trúc đặc trưng của chữ Việt cổ, ông Đỗ Văn Xuyền phát hiện ra một điều thú vị: “Những từ vô lý trong chữ Quốc ngữ buổi đầu (từ các từ điển cho đến các văn bản khác) đã sử dụng lối cấu trúc của chữ Việt cổ và chỉ thay vỏ La Tinh vào”, Cũng chính vì tìm được ít nhất 10 dòng chảy của chữ Việt cổ tràn vào từ điển Việt Bồ La, phát triển thành hàng ngàn từ khó đọc, ông Đỗ Văn Xuyền đọc được dễ dàng những trang sách chữ Quốc ngữ có tuổi hàng mấy trăm năm, nay chỉ còn lưu giữ giải rác trong dân và trong thư viện Lisbon, Pari, Roma… Như vậy phải chăng phương đông ở thế kỷ 16, 17 Việt Nam là nước duy nhất La Tinh hóa được văn tự, vì Việt Nam đã có sẵn bộ chữ Khoa đẩu từ thời Vua Hùng (Đời Nghiêu, người Việt ta đã tặng con rùa ngàn năm tuổi, trên mai có khắc chữ Khoa đẩu (chữ như con nòng nọc) chép việc từ thời khai thiên lập địa trở đi để giữ hòa hiếu giữa hai nước. Chữ Việt cổ trên mai Thần Qui có nội dung: “Kể từ trời Nam mở vận, dòng họ đầu tiên trong nước là Hồng Bàng, bậc quân Vương thụ mệnh trời đầu tiên là Kinh Dương Vương - là hậu duệ của Thần Nông. Kinh Dương Vương vốn được cha là Đế Minh phong Vương làm chủ Nam Việt. kết duyên cùng Long nữ Hồng Đăng Ngàn, con gái Động Đình Quân, sinh ra Lạc Long Quân, húy là Sùng Lãm. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là nàng Âu Cơ, sinh ra trăm con trai từ một bọc trứng, ấy là thủy tổ của Bách Việt vậy” (Ngọc phả Liệt Vị Đại Vương - La Nội, Hà Tây). Sự kiện này cũng được chép trong Ngọc phả đền: “Tứ Lạc Long Quân chi tử” đời Trần Thái Tông, tại xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Trong sách “Thông giám cương mục” của Chu Hy, sách “Tân lĩnh Nam chích quái” của Vũ Quỳnh…). Bộ chữ tượng thanh của dân tộc ta phát triển không kém bộ chữ La Tinh. Khi nền văn minh phương tây tràn vào, một số trí thức Việt Nam đã phối hợp với các giáo sỹ phương tây tạo nên một văn tự mới trên cơ sở cấu trúc chữ Việt cổ, thay vào đó cái vỏ La Tinh, đơn giản và tiến bộ hơn chữ Việt cổ đã bị đóng băng hàng nghìn năm dưới ánh đô hộ, tàn sát của phong kiến phương bắc. Như vậy nếu coi Alexandere de Rhodes là người sáng tạo nên bộ chữ Quốc ngữ là hoàn toàn sai lầm và áp đặt, mà chỉ nên coi ông là người có công cải tiến chữ Quốc ngữ. Nhưng dù có vô tình trở thành một nhà ngôn ngữ như vậy, cũng không thể quên Alexandere de Rhodes “là kẻ gián điệp sớm nhất trong lịch sử xâm lược của phương tây vào nước ta” - nhà nghiên cứu lịch sử Bùi Kha. Như vậy việc tạc tượng nhằm “tri ân” Alexandere de Rhodes có đúng với “công lao”: của ông ta hay không? Chưa nói đến việc tác giả còn định tặng cho Thủ Đô nhân dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long, Hà Nội? Người viết bài này vẫn khẳng định một lần nữa cái tâm trong sáng của nhà điêu khắc, cái sự lầm này mấy trăm năm nay cả dân tộc ta vẫn hiểu nhầm như vậy (cũng như chúng ta vẫn hiểu nhầm một số sự kiện lịch sử khác) mà không được ai có trách nhiệm chỉ ra để các thế hệ hiểu đúng về dân tộc mình. Nếu các vị nào không tin, xin mời các nhà ngoại cảm giỏi nhất gọi hồn Alexandere de Rhodes lên hỏi cho rõ xem ông ta có phải là người có công khai sinh ra chữ Quốc ngữ hay không? Chắc chắn ông ta sẽ nhảy dựng lên mà rằng: “Các ngài nhầm rồi, tôi chỉ là người góp phần cải tiến chữ Quốc ngữ của các ngài thôi, mà việc đó cũng chỉ nhằm mục đích truyền đạo và đồng hóa dân tộc của các ngài dễ dàng và nhanh hơn, bởi vậy xin đừng dựng tượng tôi, xấu hổ lắm, dựng lên rồi có lúc con cháu các ngài hiểu rõ lại đập đi thì còn nhục nhã gấp trăm lần”! Trần Vân Hạc F.201, Nhà.B4, Ngõ.189, Thanh Nhàn P. Quỳnh Lôi, Q. Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội Nguồn hoalinhthoai.com Gửi người tạc tượng Alexandre De Rhodes (2): Vài nét về tiến trình của chữ Quốc ngữ Đã từ lâu, một câu hỏi lớn làm bao người Việt Nam trong và ngoài nước, cùng giới nghiên cứu quốc tế có tài và có tâm trăn trở: Dân tộc Việt Nam ta từ 3.000 năm trước đã chế tác được hàng loạt những trống đồng vô cùng tinh xảo, đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật, cũng như tinh hoa của một nền văn minh rực rỡ, làm kinh ngạc cả thế giới văn minh hiện đại. Vậy dân tộc ta thời ấy có chữ viết hay không, chữ ấy như thế nào, ai là người tạo nên bộ chữ Quốc ngữ, chữ Quốc ngữ được xây dựng trên cơ sở nào..? Đôi điều về chữ Việt cổ: Từ hàng nghìn năm qua, các nhà khoa học trong và ngoài nước, trước hết là Trung Quốc đều khẳng định: Việt Nam có chữ viết từ rất sớm, trước chữ Hán cả nghìn năm và hoàn toàn khác chữ Hán. Các nhà nghiên cứu, Anh, Tiệp xác nhận: “Ngay từ trước công nguyên, người Việt đã có chữ tượng thanh - loại chữ ghép chữ cái thành từ”. Điều này được thể hiện trên các di chỉ khảo cổ đồ gốm, đồ đồng của thời kỳ Đông Sơn như: Lưỡi cày, lưỡi xéo, đặc biệt là trống đồng…cùng các hình vẽ chữ viết trên đá cổ Sa Pa, Xín Mần. Pá Màng… theo một hệ thống nhất quán, tất cả đều thể hiện đó là những chữ viết cổ từ thời kỳ tiền văn tự, phát triển và hoàn thiện dần thành bộ chữ “khoa đẩu”. Hệ thống giáo dục của nước ta đã phát triển ngay từ thời Hùng Vương, An Dương Vương, thời Triệu, thời Hai Bà Trưng… ở khắp vùng giao Chỉ, Cửu Chân cũ, nay tài liệu còn lưu ở kho AE Viện Hán Nôm (qua cuộc khảo sát của Pháp năm 1938). Ở Việt Nam, từ lâu, những nhà nghiên cứu như: Trương Vĩnh Ký, Vương Duy Trinh, Lê Huy Nghiệm, Lê Trọng Khánh, Hà Văn Tần, Trần Trọng Thêm, Phạm Ngọc Liễn, Đỗ Văn Xuyền… cùng đông đảo các nhà nghiên cứu Việt kiều đã có những thành công đáng kể. Tất cả đều đi đến cái đích chung, đó là những luận cứ khoa học chứng minh cho sự tồn tại của chữ Việt cổ - chữ “khoa đẩu” mà thuở xưa Hùng Quốc Vương cho khắc trên lưng rùa bản tóm tắt lịch sử nước ta tặng cho vua Nghiêu để tỏ tình hòa hiếu. Đó chính là bộ chữ ẩn trong bộ chữ “hỏa tự” do Tri châu Phạm Thận Duật tìm thấy ở Tây Bắc năm 1855 - 1856, cùng nhiều tài liệu khác có cùng cấu trúc đồng dạng. Bộ chữ này hình thành và phát triển đồng hành với dân tộc Lạc Việt cả về thời gian, không gian và quá trình lịch sử. Bộ chữ ấy dùng để ghi tiếng nói của người Việt cổ trước công nguyên, tồn tại song hành cùng ngôn ngữ Việt, thích ứng với đặc điểm ngôn ngữ Việt. Cũng chính vì tìm được cách giải mã chữ Việt cổ mà các nhà nghiên cứu hiện nay có thể đọc được dễ dàng những trang sách chữ Quốc ngữ có tuổi hàng mấy trăm năm, nay chỉ còn lưu giữ giải rác trong dân và trong thư viện Lisbon, Pari, Roma… mà đến thế kỷ 16 khi đạo thiên chúa truyền vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương tây La Tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay. Đặc biệt theo: “Những tín hiệu thu được từ bản lược đồ địa danh ngôn ngữ Việt cổ” của giáo sư Lê Trọng Khánh, thì không gian phân bố của chữ Việt cổ vô cùng rộng lớn, góp phần vào việc vạch phương hướng tìm hiểu cương vực và nguồn gốc người Việt cổ. Như vậy “Chữ viết đóng góp quyết định vào nền văn minh Việt cổ” và: “Sự đồng nhất ngôn ngữ trên chữ viết và địa danh cổ càng khẳng định tính chất bản địa của người Việt cổ có nguồn gốc Đông Sơn và rất gần với nhau. Vấn đề này có liên quan đến việc phân bố dân cư cổ đại có nguồn gốc chung trên một địa bàn. Sự đồng nhất ngôn ngữ trên chữ viết và địa danh cổ, tổ tiên trực tiếp của chúng ta ngày nay. Người Lạc Việt đã sáng tạo văn minh Đông Sơn, có ảnh hưởng rất lớn đối với các dân tộc khác trước công nguyên” - Lê Trọng Khánh. Cũng chính vì vậy mà bao năm Sỹ Nhiếp ra lệnh triệt phá, tàn sát, bộ chữ “khoa đẩu” của người Việt cổ vẫn có một sức sống bất diệt. Chữ Quốc ngữ: Khi nền văn minh phương tây tràn vào, một số trí thức Việt Nam đã phối hợp với các giáo sỹ phương tây tạo nên một văn tự mới trên cơ sở cấu trúc chữ Việt cổ, thay vào đó cái vỏ La Tinh, đơn giản và tiến bộ hơn chữ Việt cổ đã bị đóng băng hàng nghìn năm dưới ánh đô hộ, tàn sát của phong kiến phương bắc… mà công đầu và là người tiên phong thuộc về giáo sĩ Bồ Đào Nha Francisco de Pina. “Trong một bức thư viết vào đầu năm 1623, Francisco de Pina đã viết: “Về phần tôi, tôi đã biên soạn một chuyên luận nhỏ về từ vựng và các thanh của ngôn ngữ này (tức tiếng Việt) và tôi đang bắt tay viết về ngữ pháp. Tuy nhiên, tôi cũng đã tập hợp được những cổ tích, thuộc nhiều loại khác nhau nhằm cung cấp các trích dẫn của các tác giả để xác minh nghĩa của các từ và các quy tắc của ngữ pháp, cho đến nay tôi có thể yêu cầu một người nào đó đọc để tôi phiên dịch sang các chữ Bồ Đào Nha (tức chữ La tinh)... Ngoài ra, tôi đã có ba bốn cuốn tập hợp các bài viết có lý luận trong số các bài viết hay nhất mà tôi tìm thấy được ở Vương quốc này”. Đầu năm 1625, F.de Pina làm Cha bề trên ở Dinh trấn Thanh Chiêm mà A.de Rhodes là cấp dưới. Tiếp đó, ông thay mặt Giáo đoàn Đàng Trong ra Phủ Chúa yết kiến Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên về vấn đề truyền đạo, mang theo A.de Rhodes để dạy tiếng Việt. Ông bị tai nạn lật thuyền và mất ngày 15/12/1625 khi thay mặt các giáo sĩ ra một chiếc tàu đậu ở ngoài khơi Hội An để nhận hàng tiếp tế của Macao. Sau khi người Thầy Francisco de Pina qua đời, các công trình Latinh hoá tiếng Việt đầu tiên của ông đã vào tay người học trò Alexandre de Rhodes và ông này đã mang theo khi ra Đàng ngoài năm 1627. Alexandre de Rhodes đã được giáo sĩ Bồ đào Nha Gaspar do Amral trao cho cuốn Từ điển Việt - Bồ do ông biên soạn tại Macao vào mùa đông 1645. Sau đó giáo sĩ này đã bị chết trong một vụ đắm tàu ngày 23/12/1645 trên đường đến Đàng ngoài. Nhờ những công trình Latinh hoá tiếng Việt có sẵn của các đồng nghiệp nói trên, Alexandre de Rhodes về sau đã bổ sung thêm một ít tư liệu của mình để biên soạn cuốn Từ điển An Nam - Bồ Đào Nha - Latinh được Vatican xuất bản năm 1651. Trong “Cùng bạn đọc” của cuốn từ điển đó, chính Alexandre de Rhodes viết: “Ngay từ đầu, tôi đã học với Cha Francisco de Pina là người thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng này và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng phương ngữ đó mà không cần phiên dịch. Tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một hội dòng, nhất là Cha Gaspan do Amaral và Cha Antonio Barbosa. Cả hai ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển, ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam, ông sau bằng tiếng Bồ, nhưng cả hai ông đều chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng Latinh theo lệnh các Hồng y đáng tôn kính...”. Về việc người Việt có tham gia trong sự phát minh chữ Quốc ngữ, theo Roland Jacques - nhà nghiên cứu người Pháp đã viết gồm hai nhóm: Thứ nhất là giới trí thức gồm có các thầy đồ, sư sãi, các trưởng tông phái (đạo Lão, đạo Khổng...), quan lại hưu trí và sĩ tử là những người giỏi tiếng mẹ đẻ, am hiểu nền văn hoá dân tộc. Nhóm thứ hai gồm các phiên dịch là thanh niên giáo dân biết tiếng Bồ Đào Nha, La tinh giúp giáo sĩ truyền đạo. Và số người Việt này phải đông hơn gấp nhiều lần sơ với các giáo sĩ”. Bởi vậy Roland Jacques đã viết : “Chính cả Pina và các đồng nghiệp đã tập hợp được những người hợp tác có chất lượng mà nếu không có họ, mọi công trình ngôn ngữ học nghiêm túc sẽ không thể có được”. Và ông đề nghị: “Cần thiết phải đặt đứng vị trí việc làm của cá nhân Alexandre de Rhodes trong một công trình tập thể mà ông chỉ là một trong số nghệ nhân cư yếu, trong đó người Bồ Đào Nha và những người cạnh tranh ngang hàng Việt Nam của họ đã giữ vai trò hàng đầu” - Nguyễn Phước Tư. Điều này nhất quán với quan điểm của các nhà nghiên cứu chữ Việt cổ và thể hiện rõ trong cấu trúc đặc biệt của từ điển Việt - Bồ - La. Đó là việc sử dụng nhiều từ mang tính đặc thù của nhiều địa phương. Có thể khẳng định nhóm trí thức địa phương đã góp cho từ điển Việt Bồ La một ngân hàng chữ rất lớn. Nếu một trí thức Việt Nam, dù ở trình độ nào cũng không đủ sức làm như vậy, chứ chưa nói đến các giáo sỹ phương tây, chưa thạo tiếng Việt lại không có điều kiện đi sâu vào các địa phương. Vì vậy năm 1868 khi người Pháp có ý định dùng chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán, đã phải hội thảo và đến năm 1886 lại tổ chức tiếp cuộc hội thảo nữa nhưng hoàn toàn bế tắc. Đến năm 1902 phải lập một ban cải tiến chữ Quốc ngữ gồm nhiều học giả người Việt và người Pháp. Sau Cách mạng tháng Tám, ngày 21.9.1960 chúng ta đã tổ chức Hội nghị cải tiến chữ Quốc ngữ và có những thành công đáng kể. Từ đấy đến nay, chữ Quốc ngữ của chúng ta được hoàn thiện hơn rất nhiều, góp phần to lớn vào việc tôn vinh văn hóa dân tộc, nâng cao dân trí. Thay lời kết: Như vậy, chữ Quốc ngữ chúng ta dùng hiện nay có nguồn gốc từ chữ Việt cổ, một loại chữ tượng thanh phát triển không kém chữ La Tinh, nhưng không phát triển được do sự đô hộ, tàn sát của phong kiến phương bắc. Bộ chữ Quốc ngữ buổi đầu là sự hội nhập của hai nền văn hóa đông tây, mà công đầu là của hai giáo sỹ Bồ Đào Nha: Cha Gaspan do Amaral và Cha Antonio Barbosa cùng đội ngũ những trí thức người Việt, chính những trí thức người Việt đã giúp ích rất nhiều cho các giáo sỹ phương tây xây dựng nên bộ từ điển Việt -Bồ - La, nếu không có sự cộng tác đầy thiện ý này, các giáo sỹ phương tây không thể hoàn thành cuốn từ điển với chất lượng như vậy. Còn Alexandre de Rhodes chỉ có công hệ thống hóa và chỉnh lý như chính ông ta tự nhận. Trần Vân Hạc ------------------------- * Trong bài có sử dụng và trích dẫn tư liệu của giáo sư Lê Trọng Khánh, nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền và Nguyễn Phước Tư. * Chân thành cám ơn nhà văn, nhà nghiên cứu Trần Vân Hạc đã gửi bài viết về trang nhà Hoa Linh Thoại để chia sẻ các giá trị Chân-Thiện-Mỹ với mọi người. Nguồn hoalinhthoai.com Gửi người tạc tượng Alexandre De Rhodes (3): Vài nét về công trình chữ Việt cổ của Giáo sư Lê Trọng Khánh Ngày 11.6.2009 tại trụ sở Trung tâm Văn hóa người cao tuổi Việt Nam, Giáo sư Lê Trọng Khánh đã thuyết trình về những cứ liệu khoa học mới nhất, chứng minh cho sự tồn tại và phát triển của chữ Việt cổ. Đã có nhiều công trình của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, mỗi người đều tìm cho mình một con đường để đi đến cái đích chung. Với giáo sư Lê Trọng Khánh, là một nhà khoa học, nên giáo sư tìm cho mình con đường riêng: Ngoài thông qua các thư tịch cổ trong và ngoài nước, thì chủ yếu là thông qua những căn cứ khoa học đã được kiểm chứng, trong một hệ thống phát triển từ thấp lên cao, mang tính bản địa đặc thù và nhất quán. Cụ thể: Từ những đồ gốm, đồ đồng Đông Sơn, đến những văn tự “thắt gút” của người Chăm Hrê ở Nghĩa Bình, những hình đồ họa, dần dần phát triển thành ngôn ngữ viết hoàn chỉnh ở bậc cao. Cũng chính vì có phương pháp nghiên cứu có hệ thống và khoa học như vậy, nên cho đến lúc này, giáo sư là người duy nhất chứng minh được sự liên hệ của chữ viết trên đá cổ ở Sa Pa và Đông Sơn, giải mã thành công văn tự trên đá cổ ở Sa Pa, từng gây ra bao cuộc tranh luận làm đau đầu bao giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Thành công này của giáo sư Lê Trọng Khánh, với phương pháp luận không thể phủ nhận, được giới nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá rất cao. Sự nghiệp nghiên cứu chữ Việt cổ của giáo sư Lê Trọng Khánh có thể chia làm hai giai đoạn: Từ năm 1958 đến năm 1986 và từ 1986 đến nay. Nếu như ở giai đoạn đầu là giai đoạn tìm những chứng cứ và con đường đi, thì ở giai đoạn sau là sự khẳng định phương pháp nghiên cứu một cách khoa học biện chứng. Chính vì vậy ở giai đoạn này giáo sư có những bước tiến quan trọng, chính xác trong sự nghiệp nghiên cứu của mình. Qua các hiện vật khảo cổ được phát hiện ở nhiều nơi trên lãnh thổ Việt Nam, giáo sư có được phát hiện vô cùng quan trọng: “Hệ thống chữ viết ấy xác định quá trình ra đời có nguồn gốc sâu xa từ những yếu tố tiền văn tự. Với thời gian dài tiến triển thành hệ thống chữ viết hình vẽ phát triển cao, được khắc trên đá ở Sa Pa, vào giai đoạn văn hóa đồng thau phát triển – Gò Mun. Trên cơ sở đó chuyển lên loại hình chữ viết cao hơn. Và cũng chính ngay bản thân hệ thống chữ viết cao đó, cũng có cứ liệu vững chắc để thấy sự đi lên của nó, từ thấp đến giai đoạn hoàn chỉnh của chữ viết ghi âm Đông Sơn – chữ viết có nguồn gốc riêng, sớm nhất ở Đông Nam Á”. Theo giáo sư: “Sự phát hiện chữ viết góp phần hiểu sâu hơn văn hóa Đông Sơn. Nền văn minh đó, tất nhiên không giống các nền văn minh cổ khác đã ra đời ở các dòng sông lớn trên thế giới như sông Nil, Lưỡng Hà và Ấn Hà” và: “Văn minh Đông Sơn đã tỏa ảnh hưởng ra ngoài và chữ viết của người Việt cổ làm cơ sở cho các hệ chữ viết còn lại sau này”. “Chữ viết của người Việt cổ đã được định hình và phát triển trên địa bàn rất rộng vào các thế kỷ trước công nguyên. Nó phân bố rộng hơn phạm vi thống trị của Tần – Hán ở các nước phía nam và Đông Nam Á… Thời khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, chữ Hán còn rất hạn chế; chữ Việt cổ vẫn là công cụ thông tin và truyền lệnh sắc sảo, góp phần tích cực cho thắng lợi trên phạm vi 65 thành (huyện) – bao gồm Lưỡng – Việt, Hải Nam đến Nhật Nam?”. Để giải mã được chữ khắc trên đá cổ Sa Pa, giáo sư tìm thấy sợi dây liên hệ “Từ một rìu lưỡi xéo có khắc hai hình người trên thuyền, hình chó chặn hai con nai. Hình người có tính chất sơ đồ hóa cao, tương tự với chữ viết hình vẽ trên đã Sa Pa. Đây là bằng cứ mối liên hệ nguồn gốc từ chữ khắc đá tới chữ viết trên đồ đồng Đông Sơn. Hình khắc này không nhằm trang trí mà chứa đựng một ý tưởng sâu sắc. Người và thuyền chỉ sự hoạt động sông, biển. Chó và nai là hiện tượng của núi rừng. Những hình khắc này mang tính lưỡng phân: Sông, biển (nước) - núi, rừng (đất) Chó - Người Lưỡng phân có xu thế tất yếu tiến lên lưỡng hợp: Đất + Nước = Tổ Quốc. Chó + người phối hợp bao vây nai. Hình khắc này là một bản chữ viết có nội dung: Vũ khí trong tay chiến binh chống kẻ thù, như hình tượng người và chó bao vây nai”. Theo giáo sư : “Bản viết trên rìu chiến trở thành “điều lệnh chiến đấu”. Điều này từ Đông Sơn trở thành truyền thống xuyên suốt cuộc hành trình của dân tộc chống giặc ngoại xâm, biểu hiện thành hai chữ “Sát Thát” khắc trên tay người chiến binh nhà Trần chống giặc Nguyên”. Khi giải mã những hình khắc trên đá cổ Sa Pa, giáo sư có một kết luận quan trọng: “Các hình khắc trên đá ở Sa Pa không thuộc một thời kỳ, mà có lịch sử lâu dài nhiều thế hệ của một cộng đồng người cư trú tại đây, từ thời đại đá mới đến thời đại đồng thau phát triển. Những hình khắc là những ký hiệu tiền văn tự và hệ thống văn tự đồ họa, ghi chép những hoạt động lớn của xã hội lúc bấy giờ. Đây là những hình ghi lại cuộc kháng chiến chống quân xâm lược”. Cụ thể bản thứ nhất: Trước nạn ngoại xâm (hình khắc dài 3,36m, cao 2,73m), trong đó diễn tả khu vực của thủ lĩnh chiếm khu trung tâm, bên trái và phải là cánh đồng ruộng, cư dân đông đúc, nhà kho được xây dựng xa nhà để phòng cháy… Ngòai biên cương dân cư thưa, đất đai nhỏ hẹp, kẻ thù từ phương bắc tới. Quân ta đã tổ chức sẵn sàng chiến đấu, thế trận đã sẵn sàng… Bản thứ hai: Quân thù bị đánh bại (bản khắc dài 4,35m, cao 3,54m): Tổng chỉ huy thiết lập ở phía nam dãy đồi, (đầu phát những tia hào quang), bình tĩnh suy nghĩ, thái độ cương quyết (tay chân dang rộng). Giặc từ phương bắc xuống dọc theo phía đông dãy núi. Quân ta bất ngờ tiến công vào sườn địch, địch rối loạn. Quân ta lợi dụng đêm tối, trăng khuyết tập kích địch. Trận quyết định diễn ra tại cánh đồng đông nam. Kẻ địch thiệt hại nặng rút chạy về hướng bắc. Quân ta đại thắng, hòa bình trở lại. Mặt trời trên cao chiếu rọi khắp nơi. Giáo sư dự đoán: “Những bản này có niên đại thuộc văn hóa Gò Mun, khoảng đầu thiên niên kỷ 1 trước CN, thời kỳ hình thành nước Văn Lang. Gò Mun là tiền Đông Sơn, giai đoạn cực thịnh, khi đó người Việt đã từng đánh bại quân xâm lược từ phương Bắc rất mạnh. Phải chăng những bản chữ viết hình vẽ Sa Pa đã phản ánh cuộc chống ngọai xâm của Dóng (giặc Ân là tên gọi chung những kẻ xâm lược phía Bắc, trước Tần – Hán?). Chữ viết hình vẽ Sa Pa đã vượt qua giai đoạn vẽ hiện thực nguyên thủy và đã tiến tới chữ biểu ý đầu tiên. Vì vậy có thể coi là là thuộc loại hình chữ viết hình vẽ biểu ý ( pic to – idéogramme)… Trên các bản khắc Sa Pa có hình mái nhà cong như trên trống đồng Đông Sơn loại 1. Từ bản khắc Sa Pa đến trống đồng Đông Sơn là một tuyến phát triển từ thấp đến cao. Sơ đồ hình người Sa Pa tương đồng với người trên lưỡi rìu, lưỡi xéo Đông Sơn. Như vậy cũng rõ ràng có một xu hướng phát triển chữ viết hình vẽ tiến lên giai đoạn cao hơn – giai đoạn chữ viết ghi âm Đông Sơn”. Theo giáo sư, chỉ có một tảng đá ở Sa Pa có chữ viết. Theo yêu cầu của giáo sư, người viết bài này sẽ viết thành một bài riêng. Còn trong bài này chỉ xin được nói khái lược rằng, đó là lời dặn của Tổ tiên: Ông cha đã có công dựng nước, các thế hệ sau phải có trách nhiệm giữ gìn và xây dựng đất nước ! Công trình nghiên cứu bao năm trời của giáo sư Lê Trọng Khánh vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc khẳng định nền văn minh từng phát triển rất sớm của dân tộc ta, mà bao năm bị kẻ thù tìm mọi cách tàn sát, hủy diệt, vẫn có một sức sống mãnh liệt và trường tồn, làm nên bản sắc văn hóa đặc thù của một dân tộc mang trong mình dòng máu Lạc Hồng. Năm nay giáo sư đã 85 tuổi, nhưng khi nói về chữ Việt cổ, về nền văn minh Đông Sơn, về lịch sử hào hùng dân tộc, giáo sư như trẻ lại, ánh mắt ngời lên ngọn lửa tình yêu và trách nhiệm với cội nguồn văn hóa dân tộc. Trần Vân Hạc ------------ * Chân thành tri ân nhà văn, nhà nghiên cứu Trần Vân Hạc đã gửi bài viết về trang nhà để chia sẻ các giá trị Chân-Thiện-Mỹ với bạn đọc Hoa Linh Thoại. Nguồn hoalinhthoai.com Gửi người tạc tượng Alexandre De Rhodes (4): Thư từ Hà Nội Nhân bài viết về chữ Quốc ngữ với người sáng lập ra nó của bạn Trí Nhân, chúng tôi xin được bổ xung một số tư liệu để các bạn đọc hiểu rõ hơn về truyền thống văn hóa Đại Việt ta. Kính gửi: Ban biên tập Tuần báo Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, Chúng tôi ở xa, đọc báo Văn nghệ TPHCM không đều. Tuy nhiên gần đây qua một số bài có tính khảo cứu về lịch sử và văn hóa, chúng tôi rất tâm đắc. Thực tình không biết người viết chuyên sâu tới mức nào nhưng bài viết dựa trên những căn cứ lịch sử hiển nhiên, có tâm, có tình, thuyết phục và được nhiều bạn đọc hoan nghênh. Một tờ báo Văn lại viết những vấn đề về Sử không phải là một việc làm tréo ngoe vì người viết văn được trang bị những kiến thức Sử và Triết càng sâu thì ngòi bút càng vững vàng chín chắn. Trong khi nhiều báo chuyên đề Văn hóa xã hội và Lịch sử nếu không làm ngơ thì lại có những bài viết mập mờ lẫn lộn trắng đen, thậm chí trái chiều lịch sử nên những bài của quý báo là rất cần thiết. Vả chăng, bảo vệ sự chân thực lịch sử là trách nhiệm công dân, nhất là với người cầm bút. Nhân bài viết về chữ Quốc ngữ với người sáng lập ra nó của bạn Trí Nhân, chúng tôi xin được bổ xung một số tư liệu để các bạn đọc hiểu rõ hơn về truyền thống văn hóa Đại Việt ta. Thực ra người Việt từ xa xưa đã có chữ viết riêng, trước khi có chữ Hán hàng ngàn năm và hoàn toàn khác chữ Hán. Chữ Việt cổ là thứ chữ tượng thanh, ghép những chữ cái thành từ. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học của ta lâu nay như Trương Vĩnh Ký, Vương Duy Trinh, Hà Văn Tấn, Lê Huy Nghiệm, Trần Trọng Thêm, Lê Trọng Khánh, Phạm Ngọc Liễn… đã có những khám phá và còn tiếp tục dò tìm. Những nhà ngôn ngữ học Pháp, Anh, Mỹ, Tiệp và nhất là Trung Hoa như Từ Lục Lưu, Hứa Thân, Trịnh Tiểu… đều khẳng định người Việt ta đã có chữ viết riêng từ rất sớm. Năm 1855, Tri châu Phạm Thận Duật ở Tây Bắc tìm ta một bộ chữ lạ có cấu trúc gần giống với chữ Mường cổ. Gần đây, nhóm nghiên cứu Chữ Việt cổ và nền giáo dục thời Hùng Vương do các nhà văn Khánh Hoài và Đỗ Văn Xuyền chủ trì, cho rằng ngữ tự này có thể là biến thể của chữ Khoa đẩu, hay còn gọi là Hỏa tự đã được ghi trong cổ sử, nghĩa là nó có từ thời vua Hùng. Bộ chữ ấy còn lưu lại trong nền văn hóa tiền Việt – Mường. Kết hợp với bộ môn Khảo cổ học, người ta thấy trên các mặt trống đồng và nhiều di vật cổ xưa khác khai quật ở Bắc bộ, Bắc Trung bộ và rải rác ở phía nam Trung quốc, có một dạng ký hiệu giống nhau, như hình con nòng nọc và phát hiện ra đó chính là tự dạng để ghi lại những âm thanh cấu thành từ ngữ. Đó chính là chữ Việt cổ. Bộ chữ ấy dùng để ghi tiếng nói của người Việt từ xưa lắm, xa trước Công nguyên nhiều. Nó tồn tại song hành cùng ngôn ngữ Việt, thích ứng với đặc điểm ngôn ngữ Việt. Các nhà nghiên cứu đã mã hóa được các tự dạng đó và đã giải mã được các ký tự Việt cổ. Từ đó bật ra được tiếng nói của tổ tiên thời tiền sử… Đời vua Nghiêu, để giữ hòa hiếu giữa hai nước, người Việt đã đem Thần Quy ngàn năm tuổi tặng, trên mai có khắc chữ Khoa đẩu, chép việc từ thời khai thiên lập địa, nội dung như sau: Kể từ trời Nam mở vận, dòng họ đầu tiên trong nước là Hồng Bàng. Bậc quân vương thụ mệnh trời đầu tiên là Kinh Dương Vương – là hậu duệ của Thần nông. Kinh Dương Vương vốn được cha là Đế Minh phong làm chủ Nam Việt, kết duyên cùng Long nữ Hồng Đăng Ngân – con gái Động Đình Quân, sinh ra Lạc Long Quân, húy là Sùng Lãm. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là nàng Âu Cơ, sinh ra trăm con từ một bọc trứng, ấy là thủy tổ của Bách Việt vậy. (Ngọc phả Liệt phả liệt vị Đại vương – La Nội, Hà Nội; Ngọc phả đền Tứ Lạc Long quân chi tử – Lập Thạch, Vĩnh Phúc; sách Tân lĩnh nam chích quái của Vũ Quỳnh)… Nhờ biết giải mã các ký tự cổ đó, người ta phát hiện ra một điều thú vị: Những từ vô lý (Suấy = suối; São le = song le; Đàng lão = Đàng trong; Thần Nõu = Thần nông; Lạc Lão Cuôn = Lạc Long quân… ) trong chữ Quốc ngữ buổi đầu (có trong từ điển và các văn bản khác) đã sử dụng lối cấu trúc của chữ Khai đẩu và thay vỏ La-tinh vào. Nó còn giúp các nhà nghiên cứu hiện nay có thể đọc được dễ dàng những trang sách chữ Quốc ngữ có tuổi hàng mấy trăm năm, nay chỉ còn lưu giữ rải rác trong dân và trong các thư viện ở Lisbon, Rhoma, Paris... Chữ viết đóng góp phần quyết định vào nền văn minh của một dân tộc. Hệ thống giáo dục ở nước ta đã phát triển ngay từ thời Hùng Vương, An Dương Vương, thời Triệu, thời Hai Bà Trưng… ở khắp vùng Giao Chỉ, Cửu Chân cũ. Người Lạc Việt đã làm nên nền văn minh Đông sơn, có ảnh hưởng rất lớn đối với các dân tộc khác trước công nguyên và chữ Việt cổ có một không gian phân bố vô cùng rộng lớn (Lê Trọng Khánh). Tiếc rằng tổ tiên ta chịu một quá trình lâu dài đô hộ với âm mưu huỷ diệt nền văn minh bản địa và quyết liệt đồng hoá dân tộc của các nước lớn ngoại bang. Chữ viết là đối tượng bị huỷ diệt trước nhất bởi nó phản ánh tư tưởng, tâm hồn của một dân tộc. Thời Bắc thuộc, chính quyền đô hộ dùng chữ Hán để bức tử, tuyệt diệt bộ chữ Khoa đẩu của người Việt cổ. Sách sử truyền rằng Sỹ Nhiếp đã mang chữ Hán về khai hoá cho dân tộc Nam man hay là việc đó nằm trong chủ tâm thâm trầm độc địa của quốc gia xâm lược?! Đời này qua đời nọ, con chữ ngoại lai được tôn lên vị trí chính thống, dùng mãi dần quen đi, thì đồng thời con chữ truyền thống của dân tộc cũng bị lãng quên và chìm dần vào dĩ vãng! Chữ Khoa đẩu do không được phổ biến nên bị đóng băng, dần không phát triển kịp theo những biến âm trong tiếng nói của người Việt qua từng thời kỳ phát triển, mặc dù nó vẫn âm thầm tồn tại trong giao tiếp dân gian. Tuy nhiên, sức sống của người Việt vô cùng mạnh mẽ. Với khát vọng độc lập tự do luôn thôi thúc, từ chữ Hán tượng hình, người Việt chế tác ra thứ chữ Nôm cho riêng mình và chỉ qua mấy thế kỷ, chữ Nôm đã có những thành tựu rực rỡ, làm nên nền văn hoá Việt Nam cận đại với bản sắc riêng. Đến thời thuộc Pháp, một lần nữa, chữ viết của người Việt – chữ Nôm, lại bị bức tử! Một bộ chữ mới gọi là Quốc ngữ ra đời. Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt thì sự ra đời của chữ Quốc ngữ có những đặc thù riêng. Phải chăng, chữ Việt cổ cùng trên cơ sở với chữ La-tinh tượng thanh, đã mau chóng được các linh mục đồng thời là những nhà ngôn ngữ học không chủ ý người phương tây tiếp nhận, sáng chế ra một dạng chữ đơn giản và dễ phổ cập là chữ Quốc ngữ ta dùng hiện nay. Tuy nhiên, để hình thành bộ chữ mới này, mấy ông tây dù học thức, thông thái đến đâu cũng không thể thâm nhập sâu vào đời sống dân dã để làm nên những quyển từ điển dày dặn công phu với những từ ngữ dân gian khá phong phú, kể cả những lời chửi tục mà chỉ được dùng với những người thân cận trong trạng thái tình cảm thất thường. Tất nhiên họ phải có những người bản địa cộng tác đắc lực. Theo Roland Jacques – nhà nghiên cứu ngôn ngữ học người Pháp, thì số người Việt góp công trong sự phát minh ra chữ Quốc ngữ lúc sơ khai gồm hai nhóm: Nhóm thứ nhất thuộc giới có học, là những thầy đồ, thầy tu thuộc nhiều tông phái Phật, Khổng, Lão, Trang…, quan lại, sỹ tử… hiểu nhiều tiếng mẹ đẻ, am tường nền văn hóa dân tộc. Nhóm thứ hai gồm các phiên dịch là các thanh niên giáo dân biết tiếng Bồ-đào, La-tinh giúp các giáo sỹ đi truyền đạo. Tất nhiên, số người Việt này phải hơn gấp nhiều lần so với các nhà truyền giáo tây phương. Điều hiển nhiên là trước khi có cuốn từ điển Việt-Bồ-La của giám mục Alexandre de Rhodes thì đã có những giám mục Bồ-đào-nha đến đây sớm hơn, hướng dẫn A.Rhodes và để lại những công trình ngôn ngữ cụ thể, như Francisco de Pina, Gaspa de Amaral, Antonio Barbosa. Chính Giám mục A.Rhodes thừa nhận đã sử dụng công khó của hai ông (G.Amaral với cuốn từ điển Việt-Bồ và A.Barbosa với cuốn từ điển Bồ-Việt) và thêm vào đó phần tiếng La-tinh. Cho nên R. Jacques đề nghị: Cần thiết phải đặt đúng vị trí việc làm của cá nhân Alexandre de Rhodes trong một công trình tập thể mà ông chỉ là một trong số nghệ nhân cư yếu, trong đó người Bồ-đào-nha và những người cạnh tranh ngang hàng Việt Nam của họ đã giữ vai trò hàng đầu. Vậy là đã rõ, việc làm của Alexandre de Rhodes, nên được coi như có phần đóng góp cải tiến chứ không thể vinh danh đơn phương là người khai sáng ra chữ Quốc ngữ ngày nay. Việc cải tiến và đưa chữ Quốc ngữ vào đời sống của người Việt là cả một quá trình dài không đơn giản. Ý đồ hủy diệt một nền văn minh lâu đời của một dân tộc ở phương Đông không dễ được thực hiện. Trước hết nó gặp sự bất hợp tác của người bản địa là lẽ đương nhiên. Chữ Quốc ngữ ra đời vào giữa thế kỷ XVII, hầu như chỉ lưu hành trong giáo hội Cơ đốc, để các linh mục tây phương tiếp cận với người bản xứ. Nửa sau thế kỷ XIX, khi người Pháp hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam, họ có ý định dùng chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán-Nôm thì ngay trong giới cầm quyền thuộc địa cũng có những phản ứng gay gắt. Họ đã hai lần tổ chức hội thảo nhưng vấn đề vẫn chưa được khai thông. Chính Toàn quyền Pasquier, đứng ở góc độ văn hóa, đưa ra lời khuyến cáo: “Các tác phẩm văn học Việt Nam, dù đậm nét dân gian hay có giá trị đỉnh cao của Nho học – một kho tàng văn hóa độc đáo, phi thường, nếu ta làm mất đi trong quên lãng, thử hỏi đó có là trọng tội không?... Ta không nên phá hoại bất cứ thứ gì trong tòa lâu đài văn hóa cổ xưa này... Nếu với sự độ lượng khoan dung, nước Pháp sẽ có thể được tôn trọng hơn, được qúy mến hơn khi họ biết đánh giá, biết nâng niu trân trọng những tài năng, những tác phẩm của người dân An Nam tại Đông Dương, biết cúi xuống thấp hơn một chút khi chào, cười với một ông thầy Đồ, chấp nhận mà không chút miệt thị, trên quan điểm thoáng mở có chọn lọc, trung thực, những thành tựu phát triển trí tuệ của họ”. Đến đầu thế kỷ XX, chính quyền thuộc địa lập một Ban cải tiến chữ quốc ngữ gồm nhiều học giả người Pháp và người Việt. Chữ Quốc ngữ được cởi trói và các thể loại văn học mới lần lượt ra đời nhưng vẫn không nhận được sự hưởng ứng mặn mà trong giới nho sỹ và giới bình dân. Phải đến khi nhân dân ta giành được quyền làm chủ vận mệnh quốc gia thì ý thức cần được khai thông trí tuệ mới trỗi dậy mạnh mẽ. Lời Cụ Hồ nói cả nước đồng tình: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu! Yếu thì đói nghèo và mất nước! Đói nghèo – Dốt nát và Kẻ xâm lăng đều là giặc! Sự thật đó hiển nhiên nhưng mấy ai đã nhận ra? Và diệt nó tới cùng không dễ! Chữ Quốc ngữ được mạnh dạn cải tiến trên cơ sở tiếng Việt là thứ tiếng thống nhất trong cả nước nên việc phổ cập rất nhanh. Sau khi đuổi được giặc Pháp, năm 1960, Hội nghị cải tiến chữ Quốc ngữ lại được tổ chức tại Hà Nội. Chữ Quốc ngữ được nâng cấp, phát triển toàn diện, đáp ứng được trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội từ sinh hoạt, tình cảm, trí tuệ, tâm linh tới các bộ môn khoa học xã hội và tự nhiên hiện đại rất phức tạp, là ngôn ngữ chính thống giảng dạy trong các trường từ mầm non đến đại học. Song, hãy nhìn vào thành tựu của văn hóa Quốc ngữ và văn hóa chữ Nôm mà suy ngẫm. Một thứ thì dễ dụng và một thứ thì thâm trầm. Một đàng mở lòng ra đón gió bốn phương. Một đàng kín đáo khép mình biền ngẫu. Nhà Quốc ngữ tiên phong Nguyễn Văn Vĩnh từng nói: Kể những sách của những bậc tài nôm nước Nam để lại mà làm nền cho quốc văn thì thực hiếm, nhưng tuy hiếm mà thực là quý, thực là hay. Như văn Kim-Vân-Kiều mà đem vào kho tàng văn chương thế giới kể cũng xứng, chớ không đến nỗi để người An Nam mình phải hổ thẹn rằng nước không có văn. Cho đến hôm nay, văn chương Quốc ngữ đủ loại và nhiều nhưng đã có sách nào hay, quý sánh ngang bằng bậc cha ông? Nhìn vào các tác phẩm văn chương đang được người ta tung hứng mà lòng những thẹn với lòng! Có ai kịp suy nghĩ lại lời cảnh báo như là tiên tri của ông Pasquier ngày ấy: Hãy tìm cách thích nghi, hòa nhập, chứ không phải hủy hoại, sao cho trong một thế kỷ tới người Pháp sẽ không phải chuốc lấy những lời trách cứ nặng nề rằng: Dưới chế độ tập quyền nghiệt ngã, những bản sắc đặc thù của một đất nước xa xôi đã bị tàn phá ! Chúng ta khỏi phải làm một việc như đã làm đối với Provence là: Vực dậy một nền văn học chết! Trong khi lại có người gọi là trí thức, mang dòng máu Lạc-Hồng, tri ân người theo ngoa ngôn của mấy ông thầy dòng: Khi cho Việt Nam các mẫu tự la-tinh, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến ba thế kỷ! Cần biết rằng trên thế giới này có nhiều loại ký tự. Theo dòng tượng thanh như: La-tinh, Slavơ… Theo dòng tượng hình như: Ai-cập, Hán… Mỗi vùng miền có những đặc thù riêng về địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa và chính trị. Đánh giá nền văn minh và tốc độ phát triển của một dân tộc không ai chỉ dựa vào ký tự. Chúng tôi cùng nghĩ như bạn Trí Nhân: Cái xác chữ chẳng là gì. Cái thần của chữ mới làm nên văn hóa. Cái thần ấy gọi là hồn nước, tiềm ẩn trong tâm thức mỗi người dân Đại Việt. Nhiệm vụ của những người cầm bút chân chính là dựng dậy tinh thần Đại Việt. Những ngày thu tháng Tám 2009 Trần Vân Hạc Nguyễn Lê * Chân thành cảm niệm và tri ân nhà văn, nhà nghiên cứu Trần Vân Hạc và nhà văn Nguyễn Lê đã gửi bài viết chia sẻ với bạn đọc trang nhà Hoa Linh Thoại. Nguồn hoalinhthoai.com.vn Gửi người tạc tượng Alexandre De Rhodes (5): Chữ viết khoa đẩu duy nhất trên đá cổ Sa Pa Sau nhiều năm khảo sát, nghiên cứu những hình vẽ, chữ viết trên đá cổ Sa Pa, giáo sư Lê Trọng Khánh, chuyên gia hàng đầu của Việt Nam về chữ Việt cổ đã công bố những kết luận được dư luận trong và ngoài nước rất quan tâm. Người viết bài này đã có buổi làm việc với giáo sư tại Trung tâm Văn hóa người cao tuổi Việt Nam: - Thưa giáo sư, xin giáo sư cho biết những căn cứ để hiểu ý nghĩa chữ viết trên tảng đá cổ ở Sa Pa. - Trên 200 bản khắc trên đá cổ Sa Pa (190 tảng còn lại, gần 20 tảng bị phá), tôi thấy chủ yếu là chữ viết đồ họa thuộc tiền văn tự, duy nhất chỉ một tảng ở Tả Van là có chữ. Đây là loại hình chữ “khoa đẩu”, các ký tự này đồng nhất với các ký tự trên đồ đồng Đông Sơn và đặc biệt giống chữ khắc trên rìu đồng Bắc Ninh, đồng nhất với chữ viết của người Thái đen Tây Bắc. Điều đó cho phép ta giải mã và hiểu được những ký tự trên đã cổ Sa Pa. - Thưa giáo sư, như trong một bài viết giáo sư từng công bố, thì trên một số các hình đồ họa trên đá cố Sa Pa mô tả cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của tổ tiên ta? - Đúng như thế, những chữ viết hình vẽ trên đã cổ Sa Pa đã phản ánh cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của cha ông ta. Tôi khẳng định như vậy vì những chữ viết hình vẽ này đã vượt qua giai đoạn vẽ hiện thực nguyên thủy và đã tiến tới chữ biểu ý đầu tiên. Vì vậy có thể coi đây là loại hình chữ viết biểu ý có thể đọc được. Nhất là khi ta đặt trong một hệ thống phát triển từ thấp đến cao qua những hiện vật khảo cổ thuộc văn hóa Đông Sơn như lưỡi cày hình cánh bướm, rìu cân xòe, rìu Bắc Ninh, trống dồng Lũng Cú, trên những viên gạch nung ở Cổ Loa… Theo quan điểm của văn tự học hiện đại qui định thì chữ viết hình vẽ - văn tự đồ họa Sa Pa truyền đạt cả ý cả câu - chữ viết ghi câu. Như vậy ta có thể giải mã được ý nghĩa chữ viết trên đá cổ Sa Pa một cách khoa học và có sức thuyết phục cao. Giáo sư Lê Trọng Khánh với chữ đá cổ Sa Pa - Xin giáo sư cho biết ý nghĩa cụ thể của chữ viết trên tảng đá cổ có chữ viết duy nhất ở Tả Van. - Toàn bộ có trên 30 chữ, một số chữ bị mất hoàn toàn, đặc biệt là mất gần hết các dấu ở vị trí trên và dưới chữ, điều đó làm cho việc giải mã gặp rất nhiều khó khăn, trong khi ta chưa có điều kiện kỹ thuật để phục hồi những chữ đã mất. Song bằng những gì còn lại tôi thấy nội dung cơ bản của bản khắc đó nói về: “Công lao của tổ tiên đã xây dựng đất nước. Muôn đời sau con cháu phải bảo vệ lấy non sông của mình”. Trầm ngâm giây lát, nhìn ra phía trời xa, trong ánh mắt của vị giáo sư đã bước vào tuổi 85 như ngời lên ánh lửa: - Dân tộc ta ngay từ buổi đầu dựng nước đã luôn phải đấu tranh với quân xâm lược phương bắc, bởi vậy khi ta hiểu di huấn của tổ tiên, ta càng thấm thía hơn những gì ông cha ta khắc trên đá gửi lại cho hậu thế. Những tảng đá, những hình vẽ, chữ viết ấy thấm cả máu của bao thế hệ, chuyên chở khát vọng sống của bao đời. - Trân trọng cảm ơn giáo sư, kính chúc giáo sư mạnh khỏe ! Ngày 11.6.2009 Trần Vân Hạc thực hiện * Chân thành cảm niệm và tri ân nhà văn, nhà nghiên cứu Trần Vân Hạc đã gửi bài viết chia sẻ với bạn đọc trang nhà Hoa Linh Thoại Nguồn hoalinhthoai.com
-
Trích một số trang từ cuốn "Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ", tác giả : Lê Trọng Khánh, Năm 1986, Viện Văn Hóa có xuất bản
-
Thức kiến trúc cổ Việt Nam là một trật tự (order) hoặc là những quy định thống nhất về kích thước, các tương quan tỷ lệ giữa các chi tiết, thành phần kiến trúc trong một công trình kiến trúc theo phong cách cổ điển của Việt Nam với những quy tắc riêng biệt và điển hình đã được người Việt sử dụng trong lịch sử Việt Nam. Nó được đánh giá là thể hiện tài hoa, tri thức và truyền thống trong kiến trúc cổ Việt Nam. Hình ảnh ban đầu Kiến trúc cổ Việt Nam còn lại không nhiều và không phải là những công trình tiêu biểu nhất. Tinh hoa của kiến trúc cổ Việt Nam đã bị chôn vùi sau các cuộc tàn phá triệt hạ văn hóa phương Nam của Trung Hoa và quy luật thời gian (đa số những công trình cổ còn hiện hữu, có niên đại từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn). Người ta hiện còn biết rất ít (và cũng nhiều điều người ta chưa biết gì) về kiến trúc các cung điện thời Lý-Trần, được xem là thời kỳ văn minh nhất của Đại Việt và được sử sách khen ngợi là trước đó chưa hề có, sánh ngang cùng Trung Hoa phương Bắc. Những nền đất còn lại của các ngôi chùa thời kỳ này như chùa Phật Tích, chùa Dâu... có thể chứng minh được những lời này. Tuy vậy, những gì còn lại trên tại Việt Nam ngày nay cũng để người ta biết cách thức xây dựng trong dân gian và những quy định trong cấu tạo kiến trúc thời xưa, được gọi là "thức kiến trúc cổ Việt Nam". Phương đình Đền Đô ở Bắc Ninh Khi nói về kiến trúc cổ Việt Nam, nhiều người lầm tưởng nó là kiến trúc Trung Hoa. Nhưng thật ra kiến trúc cổ Việt Nam khác nhiều so với hệ kiến trúc Trung-Nhật-Hàn (3 nước này khá tương đồng nhau). Kiến trúc cổ Việt Nam cũng lấy gỗ làm vật liệu xây dựng cơ bản và tạo đặc trưng riêng cho nền kiến trúc của mình, tương phản với kiến trúc gạch đá của các vùng còn lại trên thế giới. Nét đặc trưng Thức kiến trúc cổ Việt Nam: dốc mái thẳng Có 3 nét đặc trưng của kiến trúc cổ Việt Nam làm ta phân biệt trong nền kiến trúc gỗ cổ phương Đông: - Dốc mái thẳng - Dùng bảy, kẻ đỡ mái hiên - Cột mập to, phình ở phần giữa thân dưới Nếu so sánh với thức kiến trúc cổ Trung Quốc sẽ thấy được sự khác nhau: - Dốc mái võng xuống - Đỡ mái hiên bằng hệ đấu-củng (còn gọi là con sơn chồng đấu) - Cột thanh mảnh, tròn đều Triền mái của kiến trúc cổ Việt Nam thẳng, không cong, nhưng hếch lên ở góc mái tạo sự thanh thoát, lấy cảm hứng từ mũi thuyền của nền văn hóa sông nước. Phần mái lớn và thường chiếm tới 2/3 chiều cao mặt đứng công trình. Trong khi kiến trúc Trung Hoa mái cong và chỉ hơi hếch ở góc mái. Ngói lợp mái truyền thống Việt Nam là ngói mũi hài còn gọi là ngói vẩy rồng trong khi ngói lợp Trung Hoa là ngói âm dương hay ngói ống. Trang trí trên mái cổ thường có các phần đặc trưng như những con giống gắn trên đầu đao, trong đó con giống luôn là hình tượng thể hiện tinh thần ngôi nhà, được làm từ đất nung hanh vữa truyền thống. Tiếp theo là các bờ nóc có đặt gạch hoa chanh, đỉnh mái gắn con kìm, con sô, con náp, hay lạc long thủy quái. Khu đĩ thường để trống thông thoáng và có chạm yếm trang trí gọi là vỉ ruồi. Trang trí mái lưỡng long chầu hổ phù Đỡ mái hiên bằng kẻ, hay bảy, một thanh chéo đỡ mái hiên vươn ra bằng nguyên tắc đòn bảy rất hay. Không dùng hệ đấu - củng rất nhiều chi tiết như Trung Hoa. Cột là phần đỡ chính của công trình, toàn bộ khối lượng công trình đều đặt lên các cột. Cột tròn và to mập, phình ở giữa. Chi tiết giằng cột chuẩn Sức nặng công trình được đặt lên cột, cột đặt lên các đế chân cột chứ không chôn xuống nền và chính sức nặng của công trình làm công trình ổn định và vững vàng. Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam chạm trổ là phần rất quan trọng, nó thể hiện tinh thần công trình. So với kiến trúc Trung Hoa thích vẽ hình và sơn mầu sặc sỡ, kiến trúc cổ Việt Nam thường để mộc mầu gỗ hay quét sơn ta bảo vệ có mầu nâu, thích chạm trổ. Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam, tất cả các kích thước tính của công trình đều dựa theo Thước Tầm, một cây thước được tính theo kích thước cơ thể gia chủ. Đây là một điều độc đáo, theo cách phân tích cái đẹp tỷ lệ thì thước tầm là modulor của kiến trúc cổ Việt Nam như modulor của kiến trúc Hy Lạp, tạo ra vẻ đẹp hình học tinh tế như độ dốc mái, tỉ lệ chiều cao mái với phần chân cột, sự thích hợp với người gia chủ. Thước Tầm Căn nhà được xây dựng theo các vì nhà, sau đó các vì được dựng lên và nối với nhau bằng các xà ngang và xà ngưỡng tạo thành một hình hộp, sau đố là lợp mái và làm tường nhà. Vì nhà chính là đơn vị cơ bản khi nói đến kích thước ngôi nhà, giữa hai vì gọi là "gian". Vì nhà cũng là đặc trưng cho lối kiển trúc theo từng địa phương và từng thời kỳ, tuy rất trung thành với thức kiến trúc cổ Việt Nam. Khung nhà phân không gian nhà thành các gian nhà, thường có các bộ phận sau: Tên gọi các cấu kiện bộ vì nhà và hệ mái Cột là kết cấu đứng chịu nén, thường có các loại cột: - Cột cái: cột chính của nhà đặt ở hai đầu nhịp chính - Cột quân hay cột con: cột phụ nằm ở đầu nhịp phụ hai bên nhịp chính; - Cột hiên: nằm ở hiên nhà, phía trước. Liên kết đầu cột Liên kết đầu cột Liên kết cột - kẻ nóc Liên kết chân cột Xà là các giằng ngang chịu kéo, liên kết các cột với nhau, gồm có các loại xà nằm trong khung và các loại xà nằm ngoài khung vuông góc với khung. Xà nằm trong khung, thường đặt ở cao độ đỉnh các cột quân để liên kết được cả cột cái và cột quân, gồm: - Xà lòng hay chếnh: liên kết các cột cái của khung; - Xà nách hay thuận: liên kết cột quân vào cột cái, trong khung. Kẻ là các dầm đơn đặt theo phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng liên kết mộng, thường có các loại kẻ sau: - Kẻ ngồi gác từ cột cái sang cột quân, trong khung; - Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột hiên, trong khung. Một phần kẻ hiên được kéo dài conson qua cột hiên để đỡ phần chân mái. Chi tiết hiên Bẩy hay bẩy hậu hoặc bẩy hiên: là dầm conson nằm trong khung liên kết vào cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy phía sau. Đối với nhà ở thì tiền kẻ, hậu bảy. Đối với các công trình công cộng như đình làng, thường bốn mặt xung quanh đều có hiên thoáng không có cột hiên, nên thường dùng bẩy hiên. Câu đầu là dầm ngang chính đặt trên cùng, khoá các đầu trên của các cột cái trong khung (gác lên các cột cái). Con rường là các đoạn gối đỡ mái dạng dầm gỗ hộp để đỡ hoành mái, được đặt chồng lên nhau. Chiều dài của chúng thu ngắn dần cân theo chiều vát của mái, càng các con rường bên trên càng ngắn. Ở vì nóc các con rường nằm chồng lên câu đầu. Con lợn còn gọi là rường bụng lợn: là con rường trên cùng, gối lên con rường bên dưới qua hai đoạn cột ngắn gọi là trụ trốn, và làm nhiệm vụ đỡ xà nóc (thượng lương). Bên dưới rường bụng lợn (giữa hai trụ trốn) là ván lá đề thường để điêu khắc trang trí. Con lợn có thể được thay bằng giá chiêng. Rường cụt là loại rường nằm ở vì nách (giữa cột cái và cột quân), chúng nằm chồng trên xà nách, chúng cũng đỡ hoành và vẫn thu dần chiều dài khi lên cao theo độ dốc mái. Các loại xà nằm ngoài khung gồm có: - Xà thượng liên kết đỉnh các cột cái giữa các khung với nhau. - Xà hạ hay xà đại liên kết các cột cái giữa các khung, tại cao độ đỉnh cột quân, gần sát vị trí liên kết xà lòng, xà nách vào cột cái. - Xà tử thượng (xà trên của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên trên. - Xà tử hạ (xà dưới của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên dưới, tại mức độ cao ngay trên hệ cửa bức bàn. - Xà ngưỡng nối các cột quân ở vị trí ngưỡng cửa. Xà này đỡ hệ thống cửa bức bàn. - Xà hiên liên kết các cột hiên của các khung. Thượng lương, còn gọi là đòn đô ông hay Xà nóc đặt trên đỉnh mái. Các kết cấu mái: - Hoành là các dầm chính đỡ mái đặt nằm ngang theo chiều dài nhà, vuông góc với khung nhà. - Dui là các dầm phụ trung gian, đặt dọc theo chiều dốc mái (trực giao với hoành), gối lên hệ thống hoành. - Mè là các dầm phụ nhỏ, đặt trực giao với dui, song song với hoành, gối lên hệ dui. khoảng cách giữa các mè là nhỏ nhất, vừa đủ để lợp ngói. Việc sử dụng hệ kết cấu hoành - dui - mè, nhằm phân nhỏ nhịp của kết cấu đỡ mái thành hệ lưới vừa đủ để lát lớp gạch màm và lợp ngói bên trên. - Gạch màn là một loại gạch lá nem đơn bằng đất nung, có tác dụng đỡ ngói đồng thời tạo độ phẳng cho mái, chống thấm dột và chống nóng. Gạch màn ngồi trực tiếp trên lớp mè. - Ngói mũi hài hay còn gọi là ngói ta hay ngói vẩy rồng, bằng đất nung, trực tiếp chống thấm dột và chống nóng, lợp trên lớp gạch màn và cũng có thể có lớp đất sét kẹp giữa. Chi tiết đỡ mái Các chi tiết kiến trúc khác: - Cửa bức bàn - Con tiện - Dạ tàu - Đầu đao Cửa dân gian Nhà Việt cổ có thể làm theo: - Hình thức hai mái, hai đầu hồi bít đốc - Hình thức bốn mái, với hai mái phụ hai đầu hồi gọi là hai chái nhà. Mỗi chái nhà gồm có một hàng cột quân (có thể thêm một hàng cột hiên), các hàng cột này xoay vuông góc với các hàng cột trong các gian chính. - Hình thức 8 mái chồng diêm. Modulor trong thức cổ Việt Nam Truyền thống người Việt thường làm theo nhà theo cơ số lẻ: - Phương đình 1 gian chính giữa, bốn xung quanh hệ cột quân đẳng hướng - Nhà 3 gian - Nhà 5 gian hay nhà 3 gian 2 trái - Nhà 7 gian hay nhà 5 gian 2 trái - Nhà 9 gian hay nhà 7 gian 2 trái Cơ sở tỷ lệ hài hoà giữa con người và kiến trúc Một số hình ảnh tham khảo và so sánh Hà Nội Chùa Một Cột Nghi môn Chùa Láng Văn Miếu Môn Tỷ lệ của Khuê Văn Các Mặt đứng Khuê Văn Các Chùa Kim Liên Bắc Ninh Phối cảnh góc Đình Bảng Mặt đứng, mặt bên, mặt bằng Đình Bảng Tỷ lệ Đình Bảng Gác chuông chùa Bút Tháp Thái Bình Chùa Keo Huế Mặt cắt Đoan Môn Triều Miếu ở kinh thành Huế Theo kientruc360
-
Thưa SP, PhucTuan mới nhập môn và mới học được 2 bài. PhucTuan sẽ cố gắng "hấp thu" được những kiến thức cao siêu của PTLV. Mong rằng tất cả mọi người trong khóa học sẽ được học chương trình nâng cao của PTLV! :(
-
G. CHỨNG MINH BẰNG KHẢO CỔ Khi một nhà khảo cổ đào tìm được một đồ vật, họ phải xác định cái đồ vật đó tìm được ở đâu, vào thời gian nào, địa điểm chổ nào, vùng nào và cái đồ vật đó hình thức ra làm sao, có sự liên quan gì đến các đồ vật mà ông tìm thấy được ở nơi khác không v.v... Vậy muốn nói cái qua là của Việt thì việc trước tiên là xác định vùng đất nào là của tổ tiên người Việt. Để làm việc này, bạn và tôi phải trở lại xem truyền thuyết họ Hồng Bàng. Trong Việt Nam Sử Lược quyển một, cụ Trần Trọng Kim có viết lại như sau: Họ Hồng Bàng. Cứ theo tục truyền thì vua Đế-minh cháu ba đời vua Thần nông, đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ-lĩnh gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế-minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế-nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh-Dương vương, Quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cỏi nước Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp Động-đình hồ, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba-Thục (Tứ-xuyên), phía đông giáp bể Nam-hải. Kinh-Dương vương làm vua nước Xích Quỷ và lấy con gái Động-đình quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu -cơ là con gái của Đế Lai, sanh được một trăm người con trai. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên do Nhượng Tống dịch, ông Ngô Sĩ Liên gọi trăm người con trai đó là tổ của Bách Việt tức là trăm giống Việt. Bây giờ bạn và tôi hãy xem lại Kinh Điển, coi lại Kinh Thư, xem phần Hạ Thư chương Vũ Cống , phần thượng , có để cập đến việc vua Vũ dựng ra 9 châu gồm có: Kí châu, Ung Châu, Duyện Châu, Thanh Châu, Từ châu, Dự châu, Lương châu, Kinh châu, Dương châu. Trong truyền thuyết, khi Lộc Tục làm vua thì xưng là Kinh-Dương Vương tức là ông làm vua cai trị hai châu: châu Kinh và châu Dương. Châu Kinh và châu Dương được xem là miền Nam của Trung Hoa ngày nay, bao gồm Hồ Bắc, Hồ Nam dọc theo sông Dương Tử, ra tới biển Đông và kéo xuống phía Nam. Nước của ông bao gồm từ Hồ Bắc, Hồ nam cho tới nước Chiêm Thành. Con ông là Lạc Long Quân xuất thân từ Hồ Động Đình vì Lộc Tục lấy Long Nữ, người gốc gác ở Hồ Động Đình. Hồ Động Đình bao gồm Hồ Bắc (tức là phía Bắc của Hồ Động Đình) và Hồ Nam (tức là phía Nam của Hồ Động Đình). Các nhà khảo cổ đã tìm được trong các mộ đào được ở Trường Sa (thuộc Hồ Nam) một số những cái qua, xin coi hình phía dưới (hình 1). Riêng vào tháng hai năm 1971, các nhà khảo cổ có tìm được tại phía đông của Trường Sa thuộc vùng Hồ Nam, địa điểm tên là Liu-ch'êng-ch'iao một cái qua còn nguyên vẹn (hình 2). Điểm đặc biệt hơn nữa là trong quyển "Cultural Frontiers in Ancient East Asia" của William Watson có viết về những đồ vật đào lên tại tỉnh Hồ Nam rằng các nhà khảo cổ có tìm được cũng tại Hồ Nam một cái qua có khắc tên một vị vua tên là Nhược Ngao. Sao khi tra cứu trong Sử Ký Tư Mã Thiên và Xuân Thu Tả Truyện thì vị vua có hiệu là Nhược Ngao là vị vua Hùng thứ 14 tên thật là Hùng Nghi hiệu Nhược Ngao cai trị vào năm 789 trước Tây Lịch. Đây là vị vua Hùng thú 14 trong 18 vị Hùng vương, mà chúng ta thường gọi là 18 đời Hùng vương. Những chi tiết về cái qua nầy tôi có viết trong bài "Chứng tích Hùng Vương" lấy bút hiệu là An sơn, đăng trong tờ Hoài Bão. Vậy vùng Kinh-Dương bao gồm Hồ Nam, Hồ Bắc và cả phía Nam từ vùng sông Dương Tử trở xuống, các nhà khảo cổ đã tìm được những cái qua và đặt biệt là có một cái qua có khắc tên vị vua Hùng thứ 14 là một trong 18 đời Hùng Vương của dân Việt. Như vậy cái qua là của tổ tiên người Việt. Nhưng mà bạn và tôi vẫn còn thắc mắc là tại sao và vì lý do gì mà chế ra cái qua? Có bao nhiêu loại binh khí khác, thế sao lại chọn cái qua trong chữ "Việt". Cái qua có tác dụng gì? H. TÁC DỤNG CỦA CÁI QUA Trước khi nói về tác dụng của cái qua, tôi xin nói qua một chút về Hồ Động Đình. Ngày xưa cả vùng sông Dương Tử bao gồm Hồ Bắc, Hồ Nam, An-Huy... có một cái hồ rất lớn, đó là hồ Vân Mộng. Hồ Động Đình là một phần còn lại của hồ Vân Mộng. Sau khi hồ Vân Mộng khô mất đi thì còn lại Hồ Động Đình và một số những hồ nhỏ khác. Tuy nhiên điểm đặc biệt là cái vùng của hồ Vân Mộng ngày xưa, thì trở nên những vùng đầm lầy, và có những bụi cây cỏ mọc rất cao (có thể lên tới bốn năm thước), làm lấp cả lối đi; những bụi cây nầy mang tên là cây kinh, từ đó người ta mới gọi vùng đó là vùng Kinh tức là vùng có cây kinh mọc. Vậy Châu Kinh có nghĩa từ vùng Kinh đó mà ra. Vùng phía Nam bao gồm Hồ Nam, Hồ Bắc và dọc theo vùng sông Dương Tử là vùng đầm lầy. Quân vùng phía Bắc, phần lớn là giống dân du mục nên chuyên môn dùng ngựa. Khi họ đưa quân xuống tấn công phía Nam thì gặp phải vùng đầm lầy. Vậy cái qua có tác dụng gì? Hãy nhìn hình cái qua ở dưới: Cái qua, tác dụng của nó là phía trước dùng để đâm tới, chém ngang; phía sau là để móc lại. Khi ngựa của quân Bắc xuống bị mắc lầy, thì cái qua móc chân ngựa quỵ xuống và đâm tới người lính trên ngựa; cái qua có hai điểm lợi là vừa móc vừa đâm. Cái qua có lợi điểm là tấn công từ xa, có cây qua dài trên một thước, nhưng cũng có cây dài khoảng ba thước. Cây kiếm là dùng cận chiến, còn cây qua là để tấn công từ phía xa, tấn công cả người lẫn ngựa. Chính cái qua nầy đã chận đứng được quân xâm lược nhờ vào tài biết lợi dụng địa thế thiên nhiên của tiền nhân chúng ta. Vì đó trong các loại vũ khí, tiền nhân của chúng ta không chọn vũ khí nào khác, mà lấy cái qua đặt trong tên chữ Việt . Bây giờ bạn và tôi mới thấy rằng tiền nhân của chúng ta có suy nghĩ vững chắc khi đặt cái tên Việt, chớ không phải là không có suy tính. Bạn sẽ nói rằng, tôi biết tin ai bây giờ! Anh nói là cái tên Việt do tiền nhân của chúng ta đặt ra, nhưng các học giả ở trên viết đăng trong các tờ báo, cho rằng tên Việt là do nhà Chu và nhà Hán đặt ra, vậy thì làm sao xác định được? Một lần nữa bạn và tôi thử tìm hiểu coi ai đặt cái tên Việt nầy ra. I. TÊN VIỆT CÓ PHẢI DO NHÀ CHU HAY NHÀ HÁN ĐẶT RA KHÔNG? Vì nhà Chu và nhàHán nằm trong phần lịch sử nên muốn chứng minh điều nầy thì dù muốn dù không chúng ta phải tra cứu cổ thư. Khi nhắc đến chuyện xa xưa của sử Trung Hoa, người ta nhắc đến thời ông Bàn Cổ, sau đó là Tam Hoàng có Thiên Hoàng, Nhân Hoàng, Địa Hoàng; kế tiếp đến Ngũ Long, Hữu Sào, Toại Nhân; rồi đến Thần Nông, Phục Hi, Nữ Oa; sau đó là Hoàng Đế, xong đến Nghiêu, Thuấn và Vũ. Người Việt chúng ta dựa theo truyền thuyết Họ Hồng Bàng, cho chúng ta thuộc dòng dõi Thần Nông. Người Tàu thì nhận họ là con cháu của Hoàng Đế. Từ Bàn Cổ cho tới thời Nghiêu, Thuấn các sử gia Trung Hoa rất ít chú ý đến, họ chỉ chú ý từ đời nhà Hạ do vua Vũ lập ra, qua đời Thương, đời Chu rồi Tần và Hán kể về sau, vì những triều đại nầy có thể chứng minh qua khảo cổ, và tài liệu cổ thư cũng đã dồi dào. Thông thường khi bạn coi một cuốn sử Trung Hoa, bạn sẽ thấy họ đưa ra một niên biểu như sau (trích từ The Chinese exhibition do The People's Republic of China xuất bản 1977): Niên biểu các triều đại của Trung Hoa Ở đây tôi chú ý đến đời nhà Thương và nhà Chu với hai lý do: thứ nhất là họ có những bằng chứng xác định qua cổ thư và khảo cổ, thứ hai là họ có trước đời nhà Hán rất xa. J. CHỨNG MINH QUA CỔ THƯ a. Nhà Thương Tài liệu về nhà Thương thì rất nhiều. Kinh Thư, Sử Ký Tư Mã Thiên và bộ Trúc Thư Kỉ Niên đều có viết về nhà Thương. Theo bộ Trúc Thư Kỉ Niên thì Thành Thang lập ra nhà Thương, đầu tiên đóng ở đất Bạc. Đến thời Bàn Canh là vị vua thứ 19 thì dời qua Ân và có lẽ từ đó đổi tên nhàThương thành nhà Ân. Đến thời Vũ Đinh là vị vua thứ 22, lấy hiệu là Cao Tôn, thì một biến cố quan trọng xẩy ra; bộ Trúc Thư ghi như sau: Trong truyền thuyết của chúng ta có nói Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh-Dương vương, Quốc hiệu là Xích Quỷ. Chữ Xích có nghĩa là chỉ đường Xích đạo, Quỷ ở đây là Sao Quỷ tượng trưng cho phương Nam. Khi vua Vũ Đinh nhà Ân đóng quân tại Kinh, tức là vùng Kinh thuộc châu Kinh. Thời điểm đó thì Sao Quỷ nằm tại vùng châu Kinh, cho nên Quỷ Phương tượng trưng cho dân của vùng châu Kinh, mà châu Kinh là của Việt nên người Việt chúng ta mới có truyền thuyết PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG chống giặc Ân. Chống giặc Ân tức là chống quân của Ân Cao Tôn từ phía Bắc kéo xuống. Ngoài tài liệu cổ thư, nhà Thương còn để lại một tài liệu rất là quý giá. Đó là những chữ khắc trên xương và yếm rùa còn được gọi là "Sấm Ngữ" (Oracle bones), mà các nhà khảo cổ đã đào được rất nhiều tại An-Dương. Các Sấm Ngữ còn cho chúng ta biết rằng có sự liên lạc giữa nhà Thương và dân ở miền Nam Trung Hoa và đặc biệt là dân ở vùng sông Dương Tử tức là vùng của người Việt ngày xưa. Ông Tsuen-Hsuin Tsien, tác giả quyển "Written on Bamboo and Silk" (Viết trên tre và Lụa) do The University of Chicago Press xuất bản 1962,có viết như sau: "The oracle inscriptions also contain such divinations as "there will be tortoises presented from the south" or no tortoises will be presented from the south", có nghĩa là các lời khắc của sấm ngữ còn chứa đựng những câu chiêm đoán như "sẽ có rùa mang đến từ miền Nam" hay "không có rùa được mang tới từ miền Nam". Ông cho biết các câu như thế được lập đi lập lại khoảng 500 lần trên sấm ngữ. Ông còn cho biết là theo cổ thư thì rùa được mang tới từ vùng sông Dương Tử. Như thế ngày xưa đã có sự hiểu biết nhau và trao đổi giao dịch giữa nhà Thương và dân Việt. Ngoài ra ông William Meacham, một nhà khảo cổ học, có viết một bài với tựa đề "Defining the Hundred Yue" (Định nghĩa Bách Việt) đăng trong tờ Hongkong Archaeological Society. Ông viết như sau: "The term Yue occurs fairly frequently in the oracle bone writings of the late Shang dynasty, ca 1200 BC" có nghĩa là danh từ "Việt" thường hay xuất hiện trên sấm ngữ vào cuối đời nhà Thương khoảng 1200 trước Tây Lịch. Ông William Meacham có liên lạc với ông Lefeuvre, cũng là một đồng nghiệp với ông, khi viết bài nầy, thì ông Lefeuvre có xác định với ông William là có một câu của sấm ngữ nhắc đến "vùng đất của Việt", đây là lời ông William Meacham viết: "Lefeuvre notes one inscription mentioning" the land of Yue". Vậy cái tên Việt đã xuất hiện trên sấm ngữ vào thời nhà Thương. Nhà Thương xuất hiện trước thời nhà Chu, và tên "Việt" có khắc rõ ràng trên "sấm ngữ" (trên xương và yếm rùa); vậy thì làm sao có thể nói là nhà Chu đặt tên Việt cho người Việt được? Nhà Thương xuất hiện vào 1600 tr. TL, có nơi cho là khoảng 1500 tr.TL và nhà Hán xuất hiện vào khoảng 206 tr. TL, như thế tên "Việt" xuất hiện vào khoảng trên 1000 năm trước nhà Hán, thế thì làm sao có thể nói rằng nhà Hán đặt tên Việt cho người Việt được, lấy kẻ sanh sau mà bảo đặt tên cho người sanh trước thì nghe làm sao thông được! b. Nhà Chu hay còn gọi là Nhà Châu Khi đến phần nhà Chu thì Bộ Trúc Thư Kĩ Niên có viết như sau: Trước khi dịch hai câu trên thì tôi xin có một đôi lời giải thích: Đại Vương đây có nghĩa là ông nội của Xương. Xương là tên khi còn nhỏ chưa làm vua, khi làm vua rồi thì xưng hiệu là Vũ Vương. Khi xưng là Vũ Vương thì mới thành lập ra nhà Chu. Quý Lịch là cha của Xương, tức là cha của Vũ Vương. Thái Bá là anh lớn của Quý Lịch tức là bác của Xương. Câu này có nghĩa là khi Xương mới sanh, còn nhỏ, chưa làm vua, chưa thành lập nhà Chu; nhà Chu chỉ được thành lập khi Xương lên ngôi lấy hiệu là Vũ Vương, còn trước đó chỉ là một bộ lạc thông thường, trú đóng tại miền Tây Bắc của Trung Hoa mà thôi. Vậy mà bác của Xương là Thái Bá đã biết nước Việt, khi Xương còn nhỏ, có nghĩa là nước Việt, hay nói đúng hơn là tên "Việt" đã được biết đến trước khi có nhà Chu. Vậy mà một học giả ở trên viết rằng người nhà Chu dùng từ Việt, có nghĩa là Vượt để gọi những dân tộc người ở vùng Nam man có lối sống hỗn độn mà họ cho "có lối sống Vượt ra ngoài vòng lễ giáo của nhà Chu". Câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao bao nhiêu bộ lạc khác lại không đi qua, mà lại đi qua Việt? Ông Thái Bá có thể sai, nhưng cha của ông là người biết rộng, làm sao có thể để con đi vào chổ chết vì theo học giả ở trên nói là dân vùng Nam man (tức là dân Việt) sống ngoài vùng lễ giáo và có lối sống hổn độn! Họ có thể giết con ông bất cứ lúc nào! Vậy việc ông Thái Bá đi qua Việt, có phải là lúc đó tên Việt đã có một ảnh hưởng quá lớn không, hay là vì tiếng vang của cái tên Việt nên ai cũng tìm tới. Thời đời nhà Thương, nhà Chu là thời nhiểu nhương, loạn lạc, người ta muốn tìm một nơi tá túc thì phải coi nước mà mình tìm đến đó như thế nào, có đủ khả năng để bảo vệ mình không? Vậy tên "Việt" đã xuất hiện trước thời nhà Chu và đồng thời cũng có trước nhà Hán rất lâu, vậy thì làm sao quả quyết là nhà Chu hay nhà Hán đặt tên Việt cho người Việt được? Sử Trung Hoa còn rất nhiều nghi vấn cần phải đặt lại sau nầy.Bạn muốn tìm nguồn gốc của dân Việt ư? Bạn phải tìm tài liệu viết trước đời Tần và Hán, vì hai triều đại nầy đã sửa đổi tất cả sử liệu viết trên đất Trung Hoa theo ý họ rồi! K. PHẢI HẢNH DIỆN XƯNG MÌNH LÀ VIỆT Trong số năm học giả ở trên thì có hai học giả cảm thấy xẩu hổ khi xưng mình là Việt, và đề nghị xưng mình là người Nam! Sau khi tìm hiểu nguồn gốc chữ "Việt" tôi không thấy có gì là xấu hổ cả! Tổ tiên của chúng ta đã có suy nghĩ rất kỹ khi đặt tên "Việt" cho dân tộc mình. Tên "Việt" đã được ghi rõ ràng qua kinh điển và qua bằng chứng của khảo cổ trên những chữ khắc trên xương và yếm rùa mà chúng ta gọi là sấm ngữ. Khi nghiên cứu lại tiền sử của dân Việt, chúng ta sẽ đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác, vì người ta viết không trúng về người Việt rất nhiều. Trong mỗi chặn sử của Trung Hoa, đều có sự hiện diện của tiền nhân người Việt. Những di tích của người Việt còn để lại trên đất Trung Hoa, những ảnh hưởng của người Việt còn tìm thấy qua khảo cổ, nhân chủng học, ngôn ngữ học vv... ở trên đất Trung Hoa. Các học giả Trung Hoa đã đề xướng "Chủ Thuyết Trung Nguyên" để tìm cách loại cái ảnh hưởng của tiền nhân người Việt ra khỏi sử Trung Hoa, nhưng họ đã không làm được chuyện đó, vì lý do đơn giản là họ không thể gạt bỏ Kinh Điển và những cổ thư mà khảo cổ đào được. Đừng bao giờ nói như một học giả ở trên viết:... "Từ thời thượng cổ cho đến cận đại, dân tộc mà ngày nay bị gọi là Việt Nam này không bao giờ chịu nhận mình là người Việt". Cái lỗi ở đây là tại chúng ta không tìm hiểu cho cận kẽ, rõ ràng rồi tuyên bố không muốn xưng mình là Việt, chứ tiền nhân của chúng ta vẫn gọi họ là người Việt. Cổ thư, kinh điển đều ghi là Việt, là người Việt, bạn và tôi đâu có bịa những chuyện đó ra đâu. Trước khi kết thúc tôi xin tóm tắt lại như sau: Nói chữ Việt gồm bộ Tẩu với chữ Tuất là sai. Chữ Việt đúng là gồm bộ Tẩu và chữ Việt. Có hai cái sai: thứ nhất là sai chữ. Các học giả trên đọc lộn chữ Việt ra chữ Tuất . Cái sai thứ hai là các học giả trên không kiểm soát lại cái âm khi đọc để biết mình nói có đúng hay không. Không có ai, kể cả nhà Thương hay nhà Chu hoặc nhà Hán, đặt tên Việt cho người Việt. Tên Việt là do chính tổ tiên của người Việt đặt cho dân Việtï, bằng chứng từ kinh điển và khảo cổ có cho biết là tên Việt đã có từ lâu đời. Chữ Việt có hai nghĩa. Chữ Việt bộ Mễ là để nói, thời bình người Việt làm nghề nông sanh sống, lúa gạo trữ trong kho. Chữ Việt bộ Tẩu là để nói, thời chiến người Việt cầm vũ khí đi chống xâm lăng để giữ nước. Chữ Việt mà người ta lầm tưởng là chó chạy, đã giải thích trật từ lâu lắm rồi, không phải đợi tới các học giả trên viết ra mới biết là sai. Các học giả trên viết bài với tấm lòng yêu nước, nhưng chỉ lập lại cái trật của những người đi trước mà thôi.Thật ra, tôi lấy năm tài liệu nầy để làm cái cớ mà đính chính và giải thích chữ "Việt", chứ không có ý chỉ trích ai. Tôi xin cám ơn năm học giả trên đã cho tôi cơ hội, giải thích lại phần nào nguồn gốc của người Việt. Nếu trong sự giải thích nầy có đều gì xúc phạm đến năm học giả trên, xin miển thứ. Trước khi kết thúc tôi xin lập lại câu nói của cụ Trần Trọng Kim ghi trong Việt Nam Sử Lược: "Người trong nước có thông hiểu những sự tích nước mình mới có lòng yêu nước, yêu nhà, mới biết cố gắng học hành, hết sức làm lụng, để vun đắp thêm vào cái nền xã-hội của tiên-tổ đã xây dựng nên mà để lại cho mình". Tôi hy vọng bài viết nầy gíúp cho bạn và tôi biết được một đôi chút sự-tích nước mình để cho khỏi tủi quốc hồn, tôi chỉ có ước mơ đơn giản vậy thôi. Lê Văn Ẩn
-
Các tự điển Việt, phần lớn đều dịch là chạy, chỉ có ông Nguyễn văn Khôn dịch là đi, chạy. Tự điển Trung Hoa thì nghĩa thứ nhất là đi, và nghĩa thứ nhì là chạy. Các tự điển Việt và Trung Hoa không có cắt nghĩa chữ gốc của bộ tẩu. Vậy Tẩu , chữ gốc của nó viết như thế nào và giải thích làm sao? Chữ đầu tiên vẽ một người quơ hai cánh tay của họ, với bộ túc (nghĩa là chân) ở dưới, từ đó mang ý nghĩa là đi. Nhưng sau đó chữ thành hình một người đi hơi nghiêng về phía trước, có ý nói lên một ý chí cương quyết và bước đi có vẽ nhanh nhẹn, đây là bước quân đi hay còn gọi là bước quân hành, chứ không phải là lối đi bình thường. Vậy bộ Tẩu và kế bên có cái qua là binh khí có nghĩa là người đó chẳng những đi và mà còn cầm vũ khí. Ðó là hình ảnh người chiến sĩ bước đi tay cầm cái qua. Một người đi bình thường thì không có cầm binh khí. Chữ Việt là cái qua mà đi với bộ Tẩu có ý nói là người chiến sĩ cầm vũ khí, đi từng đoàn và đi với một ý chí cương quyết để ra trận. Ðây là thời gian mà các nước Việt phía Nam tiến lên đánh chiếm phía Bắc. Cái ý nghĩa sâu xa của chữ Tẩu là như vậy. Nếu chúng ta chỉ lấy chữ Việt chỉ là binh khí mà thôi, thì tự nó không đủ để giải thích cái gì cả! Chữ Tẩu mang ý nghĩa chạy là do sau nầy người ta đưa vào chứ chứ gốc không có nghĩa là chạy. Tóm lại, Chữ “Việt“ có bộ Tẩu và chữ kế bên đọc là Việt có nghĩa là người chiến sĩ cầm vũ khí là cái qua, đi trong cương quyết, đi từng đoàn theo thế quân hành để ra trận. Vậy chữ Việt không dính dấp gì với chó chạy cả! E. CHỮ VIỆT ÐI VỚI BỘ MỄ Trong số năm học giả trên, có người giải thích chữ Việt đi với bộ Mễ là một bản đồ đất đai của người Việt ở từ khi mới lập quốc. Người khác thì lại phân tích rằng chữ Việt gồm các bộ Phiệt (gần giống âm Việt), Quynh (miền đất ở xa ngoài cõi), Mễ (lúa gạo), Khảo (khéo léo). Rồi ông giải thích như sau: một miền đất ở xa ngoài nước Tàu chuyên nghề trồng lú a một cách tinh xảo; Chữ Việt này nhìn giống như một trái cây, có cuống, có quả, có nhiều hạt. Mỗi người giải thích theo mỗi ý. Bạn và tôi thữ tìm xem coi chữ Việt bộ Mễ này có nghĩa gì. Ðầu tiên chữ Việt gồm có bộ Mễ . Vậy bộ Mễ ngày xưa chữ gốc của nó là gì? Ðầu tiên người xưa vẽ chín hạt gạo tượng trưng cho bộ Mễ . Con số chín đây có nghĩa là nhiều, sung túc, đầy đủ. Xem hình 1, cây lúa có rất nhiều hạt. Sau đó hạt lúa văng đi bốn hướng; họ gạch chứ thập tượng trưng cho bốn hướng. Hình 2, khi người ta đập lúa thì hạt lúa văng đi tứ (bốn) hướng. Bỗ Mễ ngày nay viết đổi khác hơn chữ lúc ban đầu. Chúng ta đã có lúa gạo tức là bộ Mễ, vậy thì cái chữ mà bọc bộ Mễ là chữ gì? Ðể dễ nhận thức tôi xin đưa ra một ví dụ: chữ Hướng , chữ bộc bộ khẩu cũng viết giống như chữ bọc bộ Mễ . Chữ Hướng , đầu tiên viết là , người xưa giải thích là cái cửa sổ (hình tròn), nằm dưới cái mái nhà , là cái hướng để cho gió lọt vào. Bây giờ chúng ta nhìn lại chữ Việt , cái chữ bọc bộ Mễ đó là cái mái nhà, có nghĩa là gạo được trữ dưới mái nhà hay còn gọi là trữ trong kho. Kế tiếp chữ ở dưới bộ Mễ là cái gì? Bạn hãy coi hình ở dưới. Người xưa lấy một khúc cây, ráp một cái lưỡi bằng đá vào để làm cái cày để cày đất. Rồi người ta đứng lên trên cái cày đó để làm sức nặng và đàng trước có súc vật kéo. Bạn và tôi nên nhớ là người Việt ngày xưa nổi tiếng về nghề trồng lúa. Vậy chúng ta thấy có sự liên hệ giữa ba chữ với nhau trong chữ Việt ; bộ Mễ là lúa, gạo, được trữ dưới mái nhà tức là trữ trong kho, và để tạo ra lúa gạo thì cái cày là một dụng cụ nông nghiệp. ; bộ Mễ là lúa, gạo, được trữ dưới mái nhà tức là trữ trong kho, và để tạo ra lúa gạo thì cái cày là một dụng cụ nông nghiệp. F. Ý NGHĨA CỦA HAI CHỮ VIỆT: Việt và Việt Tại sao tiền nhân của chúng ta lại dùng tới hai chữ Việt để đặt cái tên Việt? Thông thường người ta chỉ cần một chữ là đủ rồi. Chúng ta thấy trong hai chữ, mỗi chữ Việt đều mang một ý nghĩa khác nhau. ChữViệt đi với bộ Mễ thì có mang một dụng cụ nông nghiệp là cái cày để nói lên trong thời bình người Việt trồng lúa để sinh sống. Còn một chữ Việt có kèm theo một vũ khí tức là cái qua đi với bộ Tẩu có ý nói là trong thời chiến người Việt, từng đoàn cầm vũ khí ra đi để chống giặc và giữ nước. Vậy Tổ tiên chúng ta muốn dạy điều gì cho chúng ta ở đây trong danh xưng là Việt ? Với chữ Việt đi với bộ Mễ, tổ tiên chúng ta muốn nói rằng vào thời bình người Việt chúng ta phải lo làm lụng nuôi sống gia đình, lo cho đất nước giàu mạnh; ngày xưa đất nước của chúng ta là một nước nông nghiệp nên nghề nông là nghề chánh. Ngoài ra chữ Việt nầy đồng thời cũng nói lên đức tính siêng năng cần cù của người dân Việt. Với chữ Việt đi với bộ Tẩu có nghĩa là khi gặp thời chiến thì phải cùng ra đi, cầm vũ khí đứng ra chống giặc để giữ nước. Tổ tiên của chúng ta khi đặt một cái tên gì, hay để lại một câu chuyện gì, đều có kèm theo một ý nghĩa rất sâu sắc trong đó. Như vậy tổ tiên của chúng ta có ý dạy cho dân ta phải biết trách nhiệm và bổn phận của mình đối với đất nước và dân tộc: thời bình thì phải làm gì, và thời chiến thì phải như thế nào đối với đất nước. Cái lỗi ở đây là tại chúng ta không tìm hiểu cho rõ ràng và cặn kẽ cái ý nghĩa của tên “Việt“, rồi quay lại hiểu lầm tiền nhân. Bây giờ bạn và tôi mới nhận thấy cái ý nghĩa sâu sắc của tiền nhân khi đặt cái tên Việt cho dân tộc mình. Tuy rằng đã hiểu ý nghĩa của chữ “Việt“, nhưng bạn và tôi vẫn còn thắc mắc. Bạn sẽ nói rằng anh nói tiền nhân lấy cái qua đặt vào với tên “Việt“, nhưng làm sao dám chắc rằng cái qua đó là của người Việt? Cái khí cụ đó có chắc là của người Việt hay không hay là lấy từ một chổ nào khác đem lại? Mà nếu nó là của người Việt thì nó ra sao? Hình dáng như thế nào?