Làng xưa

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    183
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Danh tiếng Cộng đồng

16 Good

About Làng xưa

  • Rank
    Hội viên mới
  • Birthday

Xem hồ sơ gần đây

1.093 lượt xem hồ sơ
  1. Henry Kissinger: Thảm họa hạt nhân là không thể tránh khỏi? James Lewis (American Thinker) Phạm Nguyên Trường dịch Henry Kissinger, theo tôi, vẫn là nhà phân tích chính sách đối ngoại thông thái nhất thế giới, vừa cho công bố trên tờ Wall Street Journal bài báo nhan đề: “Con đường đưa Trung Đông thoát khỏi sụp đổ” Hôm nay bài viết này đang được mọi người trên khắp thế giới phân tích một cách cẩn trọng. Tư tưởng quan trọng nhất của Kissinger: “Nếu vũ khí hạt nhân được chính thức hóa (ở Trung Đông), thì hậu quả thảm khốc là gần như không thể tránh được”. Đúng thế, Obama và châu Âu đã vừa trao chìa khóa hạt nhân cho Iran, còn Saudi Arabia thì đang tìm người cung cấp. Pakistan đang bán. Chúng ta chưa bước chân vào khu vực “không thể tránh khỏi thảm họa” ư? Những người theo phái tự do đầy ảo tưởng của chúng ta đã băng qua cái nghĩa địa này để bảo vệ Obama. Nhưng vị tổng thống tiếp theo sẽ không còn lựa chọn. Putin vừa nói rằng “trong đầu một số chính trị gia Mỹ toàn bã đậu” và đây hoàn toàn không phải là lời phỉ báng suông. Khởi đầu, tiến sĩ Kissinger viết về sự sụp đổ của cán cân quyền lực ở Trung Đông. Và bởi vì ông viết những câu rất dài và khó hiểu, cần phải tập trung chú ý vào những ý chính. 1. “Cùng với việc Nga tiến vào Syria, cấu trúc địa chính trị đã tồn tại suốt bốn thập kỷ qua bắt đầu sụp đổ”. 2. Bốn quốc gia Ả Rập: Libya, Syria, Iraq và Yemen không còn hoạt động được nữa. Tất cả đều có nguy cơ bị Nhà nước Hồi giáo (IS) thâu tóm, mục tiêu của IS là trở thành vương quốc Hồi giáo toàn cầu, được cai trị theo luật Shariah. 3. Mỹ và phương Tây cần một chiến lược nhất quán. Nhưng hiện chúng ta không có chiến lược như thế. 4. Coi Iran là nhà nước bình thường là mơ ngủ. Trong tương lai, nước này có thể trở thánh như thế. Nhưng hiện nay, Iran “đang trên đường dẫn đến ngày tận thế”. Israel, cũng như phần còn lại của thế giới, đang lâm vào tình trạng rối loạn, đó là lý do vì sao Nga quyết định can thiệp quân sự chưa từng có tiền lệ vào Syria. Trước hết, Putin bảo vệ Nga. 5. Khi còn IS và tổ chức này còn kiểm soát một vùng lãnh thổ không được xác định về mặt địa lý thì nó còn tạo ra căng thẳng ở Trung Đông ... Tiêu diệt IS là công việc cấp bách hơn lật đổ Bashar Assad”. 6. “Mỹ đã chấp nhận vai trò quân sự của Nga trong những sự kiện này”. (Vladimir Putin đã xuất thành lập liên minh mới giữa Nga và phương Tây theo mô hình thời Thế chiến II) Phương Tây đang thiếu ý chí chính trị trong khi chiến lược của Putin thì rõ ràng, liên minh như thế có thể hoạt động hiệu quả. Tiến sĩ Kissinger không nói như thế, nhưng Putin đã từng theo dõi lực lượng thánh chiến trên vùng biên giới phía nam của nước mình đang ngày càng tiến gần hơn tới vũ khí hạt nhân. Putin leo lên đỉnh cao quyền lực nhờ cuộc chiến tàn nhẫn, như vẫn diễn ra ở Nga, nhằm chống lại phe thánh chiến ở Chechnya. Hiện nay, hàng ngàn người Chechnya đã tham gia lực lượng IS ở Iraq và Syria, và có thể quay trở lại chiến đấu ở Nga và Trung Quốc. Hãy tưởng tượng hàng ngàn những kẻ cuồng tín sẵn sàng đánh bom tự sát ở biên giới phía nam của đất nước mình và lúc đó bạn sẽ hiểu được cách đánh giá tình hình của Moskva. Kết luận: Muốn tránh “thảm họa” của một cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân nóng bỏng ở Trung Đông thì cần một liên minh hiệu quả của phương Tây với nước Nga, liên minh này có thể cứu được thế giới Nguồn: http://www.americanthinker.com/blog/2015/10/henry_kissinger_is_nuclear_catastrophe_inevitable.html http://phamnguyentruong.blogspot.com/2015/10/henry-kissinger-tham-hoa-hat-nhan-la.html
  2. Điện phân H2O cho H2 và O2 người ta đã làm hàng thế kỷ nay rồi . Việc sản xuất Hydro làm nhiên liệu thông thường không hiệu quả về kinh tế . Nếu có khả năng thì bác Khánh hãy chế tạo máy sản xuất hydro cho phòng thí nghiệm . Hiện chúng tôi vẫn phải mua mấy máy này từ nước ngoài ~ trăm triệu VND một cái với công suất chỉ cỡ 300cc( 300cm3 quy về áp suất thường) một phút - độ tinh khiết 99,9995% .
  3. Xin chia sẻ một góc nhìn khác : Flappy Bird và Bphone – Reboot Your PC Tác giả của Flappy Bird Nguyễn Hà Đông. Ảnh: Internet Cả hai tác giả của Flappy Bird và Bphone đều là dân IT gạo cội của Việt Nam, đều hói đến tận gáy. Một người lặng lẽ, một người thích nổ, đều thành công lúc đầu, nhưng khi cần về đích lại mang đậm dấu ấn bóng đá Việt, thắng những trận không quan trọng, thua đau vào phút cuối. Flappy Bird đang bay ở đâu? Cách đây một năm rưỡi, đầu năm mới 2014, một thanh niên Việt Nam tên là Nguyễn Hà Đông, sống ở Hà Nội, bỗng nổi đình đám ở tầm toàn cầu. Anh lập trình cho một con chim có tên là Flappy Bird “bay” trên các thiết bị di động iOS và Android, “bắt” hàng triệu bạn trẻ phải đuổi theo chim của anh. Theo Tuổi trẻ và nhiều tờ báo nổi tiếng trên thế giới như Forbes, Huffington Post, Atlantic, Cnet, Time, USA Today, Reuters, PC Magazine, Flappy Bird được Hà Đông phát hành trên Apple App Store từ tháng 5-2013. Nghe nói nhờ có ứng dụng này mà tác giả có thu nhập hàng chục ngàn đô la/ngày. Không hiểu vì lý do gì, anh Hà Đông cho con chim đang bay phải hạ cánh khẩn cấp khiến hàng triệu người tiếc nuối. Anh Đông hứa sẽ cho một con chim khác tung cánh, nhưng đã hơn một năm nay, Flappy Bird đang bay ở phương nào, có giời biết. Bphone đang nổ ở đâu? Cách đây 1 tháng rưỡi, BKAV của anh Tử Quảng, tác giả của phần mềm BKAV nổi tiếng tiền thu như nước, tung ra một chiêu quảng cáo về Bphone. Nào là Siêu phẩm hàng đầu thế giới, Vẻ đẹp thách thức thời gian, Màn hình chất lượng hiển thị hàng đầu thế giới, Hệ điều hành tốt nhất cho người dùng, Bảo mật hàng đầu thế giới… Nguyễn Tử Quảng. Nguồn BKAV.COM Một số nhà cung cấp smart phone của Việt Nam dùng hàng sản xuất tại Trung Quốc. Nếu không có module nào của người Việt phải đề là Made in China. Họ bán sang các nước thứ ba nên thị trường tạm ổn. Nếu có chút đóng góp của dân công nghệ xứ Việt có thể đề Made in Vietnam trên sản phẩm. Tuy nhiên Trung Quốc không có trách nhiệm bảo hành, và giá thành thường cao hơn nhập nguyên chiếc. Bphone nhắm vào nội địa với giấc mơ “Made in Vietnam” có thương hiệu tầm toàn cầu, cái giá đó là không nhỏ. Đối với nhà cung cấp thì profit – lợi nhuận phải đặt lên hàng đầu. Vì một danh hão mà đổ đi mấy chục triệu đô la thì Công tử Bạc Liêu có thức dậy cũng vái chào vì cách đốt tiền của các đại gia. Nghe nói được sản xuất tại Việt Nam, người dùng đoán già đoán non không hiểu nhà máy đó ở đâu, BKAV giấu như một bí mật quân sự, mà lẽ ra, nếu là niềm tự hào hàng Việt hàng đầu thế giới, tại sao lại phải làm thế. Show (sô) trình diễn Bphone được chuẩn bị rất công phu. CEO Bkav, anh Nguyễn Tử Quảng xuất hiện trên sâu khấu có dáng dấp như Steve Jobs với áo thun đen và quần jeans, và đầu hói. Có người gọi đó Bom Phone. Dù có copy Steve Jobs hay kiểu cách Iphone cũng không giúp được gì. Bphone bày bán trên thị trường trong 1 tuần đã bị thu hồi vì lý do…kỹ thuật. Tương tự như con chim của Hà Đông, Bphone đang nổ ở đâu, có giời biết. Vĩ thanh Một con chim đang bay lên tuyệt vời bỗng tác giả sợ nên cho hạ cánh, Flappy Bird – chim nhảy nhót thành Flabby Bird – chim rã cánh. Một quả bom Bphone chưa qua thử nghiệm, BKAV đã cho nổ. Tịt là phải thôi và giá cao ngất ngưởng làm sao cạnh tranh với thương hiệu có sắn như Samsung, Iphone, chưa kể còn lỗi đã vội vàng tung chưởng bốc lên trời xanh. Hai sự kiện của hai anh IT giỏi nhất nhì Việt Nam trái ngược nhau, một người lặng lẽ, một người nổ, nhưng vì không đúng lúc nên kết cục có nét tương đồng. Tử Quảng và Steve Jobs. Ảnh: VNN Thị trường smartphone thay đổi từng ngày. Cái đáng nổ phải cho nổ ngay, nhưng cái không đáng nổ cần cho tịt. Nổ cái mà biết như Bphone sẽ tịt thì đừng nổ, nhưng bắt cái đang nổ hay và đẹp như Flappy Bird phải tịt, thì cách Reboot Your Computer (khởi động lại máy tính) của cánh IT xứ Việt sẽ giống nhau, chẳng khác chi nền bóng đá nước nhà. HM. 21-7-2015
  4. LX xin ủng hộ 2 triệu VND
  5. Mời các bác xem bản chưa biên tập Trần Quang Cơ với quan hệ Việt - Mỹ Đinh Hoàng Thắng Bản lĩnh Trần Quang Cơ từ trong sâu thẳm luôn chủ trương xây dựng một nền ngoại giao phi ý thức hệ, vì lợi ích quốc gia-dân tộc, bảo vệ đến cùng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Bang giao Việt – Mỹ hiện nay đã và đang phát triển vượt bậc. Nhất là xét trong bối cảnh lần đầu tiên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng chuẩn bị thăm chính thức Hoa Kỳ vào đầu tháng 7 này. Nền ngoại giao “Đổi mới” với phương châm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” đã được khởi động vào thời điểm then chốt năm 1991 (Đại hội 7 ĐCS). Chính cái “nhân” gieo thuở ấy đã mang lại mùa gặt hứa hẹn hôm nay. Tuy nhiên, hàng thập kỷ sau này khi nhìn lại, cựu Ủy viên TƯ Đảng, Thứ trưởng Thứ nhất Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ vẫn cảm thấy có phần tiếc nuối. Theo ông, những việc cần thiết làm với Mỹ, trên thực tế chúng ta đã tiến hành, nhưng “chậm trễ tới cả mười năm”[1]. Muộn còn hơn không Giờ thì đã quá muộn để có thể hỏi trực tiếp cựu Thứ trưởng Thứ nhất Trần Quang Cơ về cách ông tính như thế nào để đưa ra chỉ dấu cho thấy, chúng ta triển khai một kế sách về an ninh quốc gia quan trọng dường ấy mà để muộn mất cả chục năm. Chúng ta rất muốn hỏi ông nguyên nhân tại sao. Không phải để quy trách nhiệm, mà cái chính là để rút bài học cho hiện tại và cho tương lai. Kế sách ấy, hồi bấy giờ chắc chắn đóng dấu “Tuyệt Mật” và hầu như khả năng các nhà báo tiếp cận tài liệu chắc bằng “không”. Mãi tới năm 2009, nhân dịp 30 năm cuộc chiến biên giới với Trung Quốc, ông mới “bật mí” cái triết lý sống còn về an ninh quốc gia với truyền thông: “Trong cái thế anh nằm ngay cạnh nước lớn, nước khổng lồ, mà không có bạn thì anh sẽ bị ép”[2]. Và cũng trong năm 2009 ấy, khi được hỏi, nếu nghĩ lại, ông có thấy trước đây những cơ hội nào bị bỏ lỡ, những điều gì Việt Nam có thể làm khác không, ông Cơ đã thẳng thắn: “Tôi thấy điều có thể làm khác là phải đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế sớm hơn. Trước Đại hội Đổi mới (năm 1986), Việt Nam đã quá phụ thuộc vào ý thức hệ mà không đa phương hóa được quan hệ”[3]. Quả thật, ngay từ rất sớm, ông Trần Quang Cơ đã có cái nhìn rất tỉnh táo khi cho rằng, một nước Việt Nam đổi mới, độc lập với các nước lớn, cải thiện quan hệ và hoà nhập với các đồng minh của Mỹ ở Đông Nam Á là phù hợp với lợi ích của Mỹ về hoà bình, ổn định, nhằm duy trì ảnh hưởng của Mỹ và hạn chế các thách thức nổi lên đối với vị trí của Mỹ ở khu vực. Ông Cơ cũng đã phân tích các mối tương tác tạo nên vị thế của Việt Nam trong quan hệ với Mỹ. Ông cho rằng, tuy không có một vị trí quan trọng hàng đầu trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, nhưng Việt Nam vẫn là một nhân tố mà Mỹ không thể không tính đến trong chiến lược của Washington ở Châu Á–TBD và Đông Nam Á. Hơn nữa, về kinh tế Mỹ có lợi ích tranh thủ thị trường và nguồn nguyên liệu của Việt Nam. Mỹ không muốn vắng mặt trong khi các đối thủ của Mỹ đi mạnh vào thị trường Việt Nam. Rất nhiều suy tư và đánh giá của ông Trần Quang Cơ đã được thể hiện trong cuốn hồi ký của mình cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tại một hội thảo gần đây về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, nguyên Đại sứ đầu tiên của nước ta tại Mỹ Lê Bàng đã đề nghị việc ghi nhận công lao của của một số cá nhân trong việc thúc đẩy, đàm phán bình thường hoá quan hệ với Mỹ mà trước nay chưa được nhắc đến nhiều trong đó có Thứ trưởng Trần Quang Cơ, Thứ trưởng Lê Mai...[4] Vẫn là sự mong đợi Là chuyên gia loại một, ngay từ những ngày đầu, ông Trần Quang Cơ đã giữ cương vị nòng cốt trong hầu hết các giai đoạn quan trọng nhất của ngành ngoại giao vào những năm từ 1960 đến 1980 của thế kỷ trước. Với tư cách là một chuyên viên cao cấp về Mỹ, ông đã tham gia với vai trò là một trong những cán bộ lãnh đạo các đơn vị chuyên trách, tham mưu về giải pháp phục vụ cho cuộc hòa đàm Paris, sau đó trực tiếp tham gia đoàn đàm phán cả công khai lẫn bí mật (Kết thúc vào tháng 1/1973). Mấy năm về sau, trong chiều hướng đi tìm những đối thoại thẳng thắn giữa các cựu thù, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara đã đề nghị các học giả và các nhà lãnh đạo cuộc “chiến tranh Việt Nam” (theo cách nói của người Mỹ), cùng ngồi xuống duyệt lại những quyết định trong chính sách để hiểu rõ hơn, nhưng đặc biệt là để rút tỉa những kinh nghiệm lịch sử cho toàn cầu thông qua “bài học Việt Nam”. Sáu hội nghị như thế đã diễn ra tại Hà Nội từ tháng 11/1995 đến tháng 2/1998. Hội nghị thứ 7 diễn ra tại Viện Rockefeller ở Bellagio, Italy. Ông Trần Quang Cơ, ông Nguyễn Cơ Thạch và một số học giả, tướng lĩnh và cựu lãnh đạo CHXHCN Việt Nam đã tham dự chuỗi hội nghị ma-ra-tông này, mà quan trọng nhất là hai hội nghị chính vào tháng 6/1997 và tháng 2/1998. Cả ông Cơ lẫn ông Thạch đã có những đóng góp đáng kể vào quá trình hàn gắn quan hệ Việt – Mỹ. Nhưng có lẽ liên quan đến các diễn tiến phức tạp hơn trong quan hệ với Mỹ và các nước lớn khác là giai đoạn đầy năng động và sáng tạo của ngoại giao Việt Nam vào cuối những năm 1980, đầu những năm 1990. Ông Trần Quang Cơ lúc ấy đã là thành viên ban lãnh đạo của Bộ Ngoại giao, cùng với tân Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, Thứ trưởng Trần Quang Cơ luôn chủ động đề xuất các ý kiến dựa trên những đánh giá tỉnh táo, những trăn trở về quyền lợi của đất nước, thấm nhuần tinh thần độc lập, tự chủ trong tư duy cũng như trong tác phong lãnh đạo. Liên quan đến công tác nghiên cứu chiến lược cũng như các hành vi mang tính động thái, ông Trần Quang Cơ luôn có cách nhìn “cân bằng và đối trọng”. Trong quan hệ với Mỹ, ông chủ trương phải tăng cường hợp tác trên nhiều mặt nhưng vẫn cần đấu tranh khi nẩy sinh vấn đề trái với lợi ích của ta. (Ví dụ như vấn đề chất độc da cam chẳng hạn). Với Trung Quốc cũng vậy, ông thường nhắc không thể quá nặng về hợp tác và nhân nhượng để bị đánh giá là ta thúc thủ, coi nhẹ mặt đấu tranh[5]. Viết những dòng này nhân ngày tiễn ông Trần Quang Cơ đi xa, lớp hậu sinh chúng ta hẳn không quên một trong những dòng tâm sự cuối cùng của ông: “Rút cục chỉ có chính nhân dân ta mới thực sự cứu được nước ta thôi. Nhưng trên dưới phải một lòng, như thời Hội nghị Diên Hồng ngày xưa. Đảng phải dựa vào Dân, Dân vững lòng tin cậy vào Đảng thì dân tộc ta mới thực sự có sức mạnh để bảo vệ đất nước. Tiếc thay hiện nay điều đó còn là sự mong đợi của chúng ta”[6]./. (Hà Nội ngày 1/7/2015, viết nhân Tang Lễ cựu Thứ trưởng Thứ nhất Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ) [1] http://www.bbc.co.uk/vietnamese/lg/vietnam/2009/02/090220_tranquangco_tc2.shtml [2] http://www.bbc.co.uk/vietnamese/lg/vietnam/2009/02/090220_tranquangco_tc2.shtml [3] http://www.bbc.co.uk/vietnamese/lg/vietnam/2009/02/090220_tranquangco_tc2.shtml [4] http://www.thanhnien.com.vn/chinh-tri-xa-hoi/co-thu-truong-ngoai-giao-tran-quang-co-mot-long-vi-to-quoc-579208.html [5] “Hồi ức và suy nghĩ”: http://www.truyen-thong.org/so14/so14.html [6] Những dòng này được lưu lại trong một bài viết có tên là “Suy tư”, ghi dưới là “tháng Chạp năm 2010” mà ông Cơ đã chuyển cho ông Nguyễn Vĩnh, nguyên Tổng Biên tập báo Quốc Tế.
  6. 40 năm sau: Lich sử đang lặp lại Nguyễn Quang Dy “Có lẽ chúng ta đã tạo ra một quái vật Frankenstein” (Richard Nixon nói với William Safire (bình luận gia của New York Times) năm 1994, trước khi chết). 40 năm sau Chiến tranh Viêt Nam, cuối cùng người Mỹ và Việt Nam đang làm những gì mà họ đáng lẽ phải làm từ năm 1978 khi nước Việt Nam thống nhất rất cần hòa giải và hợp tác với Mỹ (là kẻ thù cũ) để tái thiết và đối phó với hiểm họa mới từ Trung Cộng (là anh em bạn thù); hoặc từ năm 1945 khi nước Việt Nam mới do Ho Chi Minh đứng đầu đang cố giành sự ủng hộ của Mỹ để hóa giải sự thù nghịch của nước Pháp thực dân và Trung hoa Dân quốc; hoặc từ năm 1875 khi vua Tự Đức cử ông Bùi Viện sang Mỹ tìm kiếm sự ủng hộ để chống lại ý đồ nước Pháp thực dân muốn biến Annam thành thuộc địa. Nhưng hai nước đã để tuột mất những cơ hội lịch sử, bây giờ phải “trở về tương lai”, sau khi bị bầm dập bởi cuộc chiến tranh sai lầm đẫm máu, và lãng phí quá nhiều thời gian, sức lực và mạng sống vào những trò chơi hậu chiến điên khùng, bao gồm cái gọi là “Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba” không kém khôc liệt giữa “anh em bạn thù” và những đồng minh mới của họ. Đấy là phác thảo nhanh bức chân dung đầy bi kịch của quan hệ Việt-Mỹ. Thật trớ trêu là tương lai quan hệ Việt-Mỹ lại gắn liền với tương lai của Biển Đông, mà tương lai của Biển Đông nay lại gắn liền với quan hệ Trung-Việt, cũng như quan hệ Trung-Mỹ. Để làm rõ những khía cạnh đầy uẩn khúc của những mối quan hệ này, hãy bình tâm xem lại một số bối cảnh lịch sử có liên quan và một số biến chuyển gần đây, như những dấu hiệu mới. Ngăn chặn Trung Quốc: Trở về tương lai? Ai quan tâm đến lịch sử chắc vẫn nhớ 60 năm về trước (sau chiến tranh Triều Tiên và Điện Biên Phủ), Mỹ đã triển khai chiến lược Ngăn chặn Trung Cộng bằng cách sử dụng SEATO (South East Asia Treaty Organization) làm cơ chế an ninh tập thể ở Đông nam Á. Chẳng có gì sai khi Mỹ ngăn chặn Trung Quốc lúc đó cũng như bây giờ khi họ hung hăng trỗi dậy và bành trướng ở khu vực, bằng cách “xoay trục sang Châu Á” để tái cân bằng lực lượng, và sử dụng TPP (Tran-Pacific Partnership) làm khuân khổ hợp tác mới ở khu vực. Nhưng mục đích kinh tế của TPP có lẽ không quan trọng bằng mục đích chiến lược. Nói cách khác, đây là trò “rượu cũ bình mới”. “Rượu cũ” là mối đe dọa tiềm ẩn của chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán (không hề thay đổi). “Bình mới” là Trung Quốc nay áp đặt “Đường Lưỡi bò” và dùng dàn khoan để lấn chiếm Biển Đông, và ráo riết xây dựng các đảo nhân tạo và công trình quân sự tại các đảo san hô mà họ chiếm ở Hoàng Sa và Trường Sa, hòng kiểm soát Biển Đông (như “lợi ích cốt lõi”). “Rượu cũ” là Mỹ “Ngăn chặn” Trung Cộng, và “bình mới” là trò chơi TPP (thay cho “SEATO”). Quan hệ Trung-Việt đầy phức tạp vừa là đối tác chiến lược (cùng ý thức hệ), vừa là đối thủ chiến lược (do tranh chấp chủ quyền). Đó là mối quan hệ bất bình thường (vừa yêu vừa ghét) như “anh em thù địch”. Nhưng lúc này thật là dại dột và bất khả thi, nếu Việt Nam cố duy trì nguyên trạng mối quan hệ bất bình thường đó bằng cách đong đưa và đi trên dây để căn bằng quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ. Cách đây 60 năm, Mỹ đã ngăn chặn một Trung Quốc nghèo nàn (như con “hổ giấy”), tuy ngoài mặt thách thức Mỹ nhưng trong bụng rất muốn bắt tay. Còn bây giờ, Mỹ đang ngăn chặn một Trung Quốc giàu có như một “quái vật kinh tế và quân sự”, vừa muốn giữ nguyên trạng (bên trong), lại vừa muốn thay đổi nguyên trạng (bên ngoài), thách thức vai trò cầm đầu của Mỹ. Trước đây, Mỹ ngăn chặn Trung Quốc bằng cách đánh Việt Nam (tưởng là kẻ thù ý thức hệ). Còn bây giờ Mỹ ngăn chặn Trung Quốc đang hung hăng trỗi dậy bằng hợp tác với Việt Nam (như đối tác chiến lược mới). Đây là một sự chuyển đổi đầy kịch tính, để sửa chữa một sai lầm lớn mà cả hai nước đã mắc phải. Chiến lược Ngăn chặn và chiến tranh Việt Nam là hai chuyện khác nhau, không nên nhầm lẫn. Đáng lẽ Mỹ không nên can thiệp vào Việt Nam bằng “một cuôc chiến tranh sai lầm, tại một địa điểm sai, vào một thời điểm sai, với một kẻ thù sai” (Omar Bradley, 1951). Nhưng phải 20 năm sau cuộc chiến, ông Robert McNamara mới công khai thừa nhận sai lầm này (trong cuốn sách xuất bản năm 1995). Thực ra, ngay từ năm 1965, ông George Ball (trợ lý ngoại trưởng) đã nhìn thấy trước một cuộc chiến sai lầm, đã cảnh báo và khuyên can tổng thống John Kennedy đừng quyết định đưa quân sang Việt Nam để can thiệp trực tiếp. Nhưng đáng tiếc là không ai muốn nghe George Ball, mà người ta còn cười nhạo ông ấy. Theo tôi, George Ball giỏi không kém gì George Kennan. Họ là những người Mỹ thông minh, dũng cảm, có tầm nhìn xa. Nếu Chính quyền biết lắng nghe họ, thì nước Mỹ đã tránh được bao tổn thất về xương máu và nguồn lực tại Việt Nam (và Iraq sau này). Việt Nam và Iraq là những bài học đẫm máu, còn tiếp tục ám ảnh người Mỹ. Thomas Vallely (cựu chiến binh, giám đốc chương trình Việt Nam tại Harvard) đã nói rất đúng (trong tư liệu TV, 1985), “chúng ta không nên làm cái việc sai lầm là đưa thanh niên đến chỗ chết, chỉ vì lòng tự hào của mấy ông già”. Khi ông Archimedes Patti (cựu sĩ quan OSS) ký tặng tôi cuốn sách “Why Vietnam” (Bangkok, 1990), tôi có hỏi ông ấy, “lúc đó họ có đọc sách của ông không”. Ông Patti nói với ánh mắt buồn rầu, “chẳng ai đọc nó cả, chẳng ai nghe tao cả”. Trong một lần báo chí phỏng vấn (năm 1981), ông Patti đã nói rất rõ, “Theo tôi, chiến tranh Viêt Nam là một sự lãng phí khồng lồ. Trước hết, nó không cần phải xảy ra. Hoàn toàn không. Không đáng tí nào cả. Trong suốt những năm chiến tranh Việt Nam, không ai đến gặp tôi để tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra năm 1945 hoặc 1944. Trong suốt những năm tôi làm việc ở Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại Giao, và Nhà Trắng, không một ai có quyền hành đến gặp tôi cả…” Điều đó làm tôi nhớ lại sự kiện “Blood Telegrams” (mà chắc nhiều người đã quên). Ông Archer Blood, tổng lãnh sự Mỹ tại Dacca (thủ phủ Đông Pakistan lúc đó) đã gửi điện khẩn về Washington (ngày 6/4/1971, có 29 cán bộ ngoại giao Mỹ ký tên) cảnh báo về nạn “diệt chủng có chọn lọc” đang biến Dacca trở thành “thành phố ma” (3/4 dân số bị giết hoặc bỏ chạy). Họ công khai phản đối chính sách của Mỹ ủng hộ chính quyền quân sự (của tướng Yahya Khan) đàn áp dã man người Bengali đòi độc lập cho Bangladesh. Nhưng tổng thống Nixon và Tiến sĩ Henry Kissinger lúc đó đã lờ đi, vì muốn tướng Yahya Khan làm cầu nối với Trung Quốc để tổng thống Nixon đến Thượng Hải bắt tay Mao Chủ tịch, như một “bước ngoặt lịch sử”. Tôi xin trích một đoạn bức điện đó, “Chính phủ chúng ta đã không lên án việc đàn áp dân chủ. Chính phủ chúng ta đã không lên án tội ác. Chính phủ chúng ta đã không có biện pháp mạnh mẽ để bảo vệ công dân của mình, trong khi đó ra sức làm vừa lòng chính phủ do người Tây Pakistan nắm quyền và làm giảm bớt đi mọi sức ép tiêu cực của dư luận quốc tế đối với chính phủ Pakistan. Chính phủ chúng ta đã chứng tỏ một điều mà tất cả mọi người đều coi là phá sản về đạo đức…”. Tham dự tích cực: Trò chơi kết thúc? Tôi không biết tổng thống Nixon thực sự nghĩ gì khi ông ta bắt tay Mao chủ tịch tại Shanghai năm 1972. Nhưng tôi tin ông Nixon đã một lần nói thật khi ông ấy nhận xét một cách chí lý (năm 1994, trước khi ông ấy chết), “Có lẽ chúng ta đã tạo ra một quái vật Frankenstein”. Ông Nixon lúc sắp chết đã trở thành “thiên tài”! Thực tế là phải 42 năm sau, đến tận 2014, đa số người Mỹ mới nhận ra “hệ quả không định trước” này và bắt đầu lo ngại về sự trỗi dậy “không hòa bình” của Trung Quốc (tuy vẫn tranh cãi về nguy cơ xung đột Trung-Mỹ). Công bằng mà nói, không nên đổ lỗi cho ông Nixon vì Dr Henry Kissinger mới chính là kiến trúc sư của chính sách Trung Quốc, từ “Shanghai Communique” để cho Mỹ rút quân khỏi Việt Nam “trong danh dự” và chia sẻ quyền lực với Trung Quốc tại Đông Á, đến “Constructive Engagement” để thay thế “Containment” giúp Trung Quốc “trỗi dậy trong hòa bình”, và “China Card” để biến Trung Quốc thành đồng minh “trên thực tế” chống Liên Xô, và cuối cùng “China Lobby” để vận động hành lang ủng hộ Trung Quốc trong mọi chuyện làm ăn khác. Trong nửa thế kỷ qua (nói chính xác là qua 8 đời tổng thống Mỹ, cả Cộng hòa lẫn Dân chủ), Washington vẫn cho rằng chủ trương “Can dự tích cực” là cách duy nhất để khuyến khích Trung Quốc cởi mở dần trong quá trình mà ông Kissinger gọi là “co-evolution” (hay diễn biến hòa bình) theo các giá trị của Mỹ, và “trỗi dậy trong hòa bình”. Chỉ gần đây, người Mỹ mới bắt đầu thất vọng như bị bạn tình Trung Quốc phản bội. Các chuyên gia về Trung Quốc bắt đầu nói đến sự cần thiết phải “ngăn chặn” Trung Quốc, và hai bên bắt đầu coi nhau như đối thủ (thay cho đối tác). “Đồng thuận Washinton” về lợi ích của “Constructive Engagement” bắt đầu đổ vỡ. Điều này làm ta nhớ lại trận Trân Châu Cảng (7/12/1941) khi hạm đội Mỹ tại đây đã bị hải quân Nhật đánh đắm, nhưng đa số người Mỹ lúc đó vẫn không tin là Nhật Bản dám khởi chiến. Có lẽ “Đồng thuận Washington” giống như một con voi quá lớn và quá chậm để dễ dàng chuyển động. Không biết người Mỹ có thật ngây thơ về Trung Quốc không, hay là cái bóng của ông Kisinger quá lớn, nhưng gần nửa thế kỷ qua, chính sách của Mỹ tại Châu Á-Thái Bình Dương vẫn xoay quanh “cái trục Trung Quốc” mà ông Kissinger đã thiết kế. Dù nguyên nhân Trung Quốc trỗi dậy ngày càng hung hăng (như đầu gấu tại khu vực) có phải do chính sách “Can dự tích cực” hay không, thì nhiều người cho rằng Mỹ và Trung Quốc khó tránh khỏi chiến tranh lạnh (thậm chí xung đột). Gần đây, tỷ phú George Soros lập luận rằng nếu không nhân nhượng Trung Quốc về vấn đề tài chính sống còn đối với họ, thì lãnh đạo Trung Quốc có thể phải dùng đến xung đột vũ trang để tồn tại, dễ gây ra chiến tranh thế giới mới. Điều này làm ta nhớ lại chính sách “Appeasement” của chính phủ Anh (Neville Chamberlain) đã thỏa hiệp quá nhiều với Hitler (tại Munich, năm 1938). “Constructive Engagement” nếu đi quá đà, mà không có điều kiện khắt khe ràng buộc, sẽ phản tác dụng hơn cả “Appeasement”. Michael Pillsbury (một chuyên gia kỳ cựu về Trung Quốc) nhận xét, “Trung Quốc không đạt được hầu hết những mong muốn màu hồng của chúng ta”. David Lampton (một học giả về Trung Quốc tại Johns Hopkins) kết luận, “Quan hệ Trung-Mỹ đã đi đến chỗ đổ vỡ”. Robert Blackwill (một chuyên gia về an ninh quốc tế tại Belfer Center, Harvard) cho rằng “Constructive Engement với Trung Quốc chỉ giúp cho đối thủ mạnh lên”. Kevin Rudd (cựu thủ tướng Australia, một chuyên gia về Trung Quốc) đã tóm tắt quan điểm của người Trung Quốc về mục tiêu của Mỹ là “nhằm cô lập, ngăn chặn, làm suy yếu, phân hóa Trung Quốc, và phá hoại lãnh đạo chính trị của Trung Quốc”. Ông ấy còn khuyến nghị “Constructive Realism” để thay cho “Constructive Engagement”. Tôi cũng không rõ liệu cao kiến của ông Kevin Rudd, tuy có thực tế hơn, nhưng liệu có hiệu quả hơn không, khi điều chỉnh quan trọng gần đây của Washington vẫn tỏ ra “quá ít và quá muộn”. Thái độ cứng rắn hơn của Mỹ (điều máy bay quân sự đến Biển Đông) là một tín hiệu tích cực và lời cảnh báo rõ ràng đối với Trung Quốc, nhưng có lẽ vẫn chưa đủ thuyết phục Bắc Kinh phải thực sự nghiêm túc, và chưa đủ thuyết phục các nước Asean đang bị Trung Quốc bắt nạt và phân hóa cần phải dựa vào Washington hơn là Bắc Kinh. Ít nhất đó là cách hiểu (không chính thức) về thái độ nhìn nhận của Trung Quốc tại Đối thoại Shangri-La gần đây (May 29-31, 2015). Biển Đông: Một thùng thuốc súng? Hơn một năm nay, từ khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào Biển Đông và ráo riết xây dựng các công trình quân sự và đảo nhân tạo trên các đảo san hô họ chiếm tại Hoàng Sa và Trường Sa, để chuẩn bị thiết lập khu vực nhận diện phòng không, đe dọa tự do hàng hải, thì Biển Đông đã nóng lên như thùng thuốc súng. Quốc Hội Mỹ và giới nghiên cứu đã chuyển biến mạnh, buộc Chính quyền Obama phải có thái độ cứng rắn hơn, đưa máy bay quân sự và tàu chiến vào Biển Đông để răn đe, bất chất Trung Quốc phản đối. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế đã thực sự lo ngại. Một số nước đồng minh của Mỹ (như Japan và Australia) đã thay đổi hẳn thái độ, sẵn sàng tham gia tuần tra hải quân trên Biển Đông. Trong khi bức tranh địa chính trị tại khu vực thay đổi nhanh và rõ nét hơn, thì tương lại Biển Đông vẫn mù mịt và bất định. Liệu đối đầu Trung-Mỹ tại Biển Đông có dẫn đến chiến tranh thật không, hay chỉ là chiến tranh lạnh? Liệu Trung Quốc và Mỹ có thể thỏa thuận với nhau để chia sẻ quyền lực (như trước đây)? Liệu căng thẳng Trung-Việt có dẫn đến chiến tranh không, hay tiếp tục nhùng nhằng (không hòa không chiến) và Trung Quốc tiếp tục chiến thuật “cắt lát gặm dần” như “chuyện đã rồi”, không đánh vẫn thắng? Và cuối cùng, liệu sức ép của Mỹ và cộng đồng thế giới, cũng như quá trình dân chủ hóa tại Trung Quốc, có đủ sức xoay chuyển thái độ của Bắc Kinh, và hóa giải được xung đột lợi ích tại Biển Đông để biến thùng thuốc súng này thành khu vực hợp tác hòa bình và cùng khai thác? Một số chuyên gia về Trung Quốc theo thuyết “cái bẫy Thucydides” (Graham Allison đặt tên) cho rằng xung đột Trung-Mỹ là khó tránh khỏi, và Biển Đông có thể là cái ngòi nổ cho thế chiến thứ ba. Một số khác theo thuyết phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế (phái Neo-liberalism) lập luận rằng chiến tranh Trung-Mỹ rất khó xảy ra vì hai nền kinh tế khổng lồ này đã quá phụ thuộc vào nhau, nên khả năng cùng bị hủy diệt do chiến tranh là một sự răn đe hiệu quả. Số còn lại đưa ra nhiều giả thuyết và kịch bản khác nhau, chủ yếu dựa trên phân tích học thuật, thường làm rắc rối hơn là làm sáng tỏ vấn đề, và góp phần làm cho Biển Đông nóng hơn (trên mặt báo và các diễn đàn nghiên cứu) như thêm gia vị vào các thực đơn nghiên cứu. Graham Allison dựa vào thực tế lịch sử để rút ra quy luật, chủ yếu nhằm cảnh báo về một nguy cơ tiềm tàng khó tránh, để biết mà phòng tránh chứ không phải để kết luận như đinh đóng cột rằng chiến tranh nhất thiết sẽ xảy ra. Trong thế giới đầy biến động khôn lường và đầy biến số này, không ai có thể chắc chắn về một điều gì như hằng số. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia trong thế giới phẳng là một thực tế hiển nhiên. Trong trường hợp quan hệ Trung-Mỹ thì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới càng lớn hơn. Nhưng sự phụ thuộc lẫn nhau càng lớn thì mâu thuận cũng càng lớn và rủi ro cũng càng cao, rất khó kiểm soát. Sự khác biệt về hệ thống giá trị cơ bản giữa hai quốc gia này như mặt trăng và mặt trời. Trong khi Mỹ dẫn đầu thế giới trong việc phát triển phương tiện truyền thông xã hội, thì Trung Quốc dẫn đầu thế giới trong việc kiểm soát nó. Trong khi Mỹ muốn Trung Quốc áp dụng hệ thống giá trị của mình, thì lãnh đạo Trung Quốc coi đó là lật đổ. Nếu cả hai xu hướng chính là “cái bẫy Thucydides” và “phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế” cùng tồn tại trong quan hệ Trung-Mỹ thì nó có thể triệt tiêu lẫn nhau, dẫn đến nhùng nhằng (không hòa không chiến) như chiến tranh lạnh kiểu mới (như xu hướng thứ ba). Nếu tình huống này thắng thế, thì Trung Quốc càng có lợi, tiếp tục “cắt lát” để gặm nhấm, biến thành “chuyện đã rồi”, và cuối cùng đạt được mục tiêu kiểm soát Biển Đông mà không tốn một viên đạn. Có lẽ cả Trung Quốc và Mỹ đều qúa bận tâm về các vấn đề chính trị nội bộ nên muốn hướng dư luận vào các vấn đề chính trị quốc tế. Họ cũng có thể gây căng thẳng tại vài nơi trên thế giới để thử gân nhau. Nhưng có lẽ lúc này cả hai đều không muốn và không sẵn sàng chiến tranh tổng lực. Kết quả có thể là chiến tranh lạnh kiểu mới, một dạng chiến tranh nửa dơi nửa chuột (hybrid warfare) hoặc mượn tay người khác (proxy warfare). Tuy nhiên, khi căng thẳng được đẩy lên thành kịch tính thì rủi ro càng lớn, và hai bên cần một cơ chế kiểm soát rủi ro để tránh sử dụng vũ lực. Dù sao, người ta cho rằng chiến tranh lạnh vẫn còn hơn là “Thế chiến thứ 3”. Trong khi chưa biết là chiến tranh lạnh hay thế chiến thứ ba, thì các học giả về Trung Quốc cho rằng màn chót của chế độ Trung Cộng có lẽ đã bắt đầu. Bề ngoài, Trung Quốc có vẻ giàu có và hùng mạnh, nhưng nó che đậy một hệ thống đã đổ vỡ bên trong. Không phải chỉ có ông Gordon Chang lâu nay dự báo “Trung Quốc sắp sụp đổ”, mà cả giáo sư Paul Krugman (được giải Nobel kinh tế) cũng báo động rằng “Trung Quốc đã kịch đường” (tới điểm giới hạn). Đáng chú ý là cả giáo sư David Shambaugh (một chuyên gia hàng đầu về Trung Quốc tại George Washington University) đã tuyên bố “màn chót của chế độ Trung Cộng đã bắt đầu”… Chiến dịch “đả hổ” chống tham nhũng quyết liệt của ông Tập Cận Bình để cứu chế độ (hay củng cố địa vị) đang đẩy màn chót đến nhanh hơn. Việc tăng cường đàn áp càng bộc lộ sự rạn nứt của hệ thống và đẩy nhanh quá trình sụp đổ. Thay vì mở cửa, ông Tập Cận Bình đang tăng cường kiểm soát gấp đôi. Giới tinh hoa ở Trung Quốc sẵn sàng ra đi hàng loạt nếu hệ thống bắt đầu sụp đổ. Theo Elizabeth Economy (Council on Foreign Relations) 2/3 (hoặc 64%) người Trung Quốc có tài sản trên 1.6 triệu USD đang di cư hoặc định như vậy. Anh em bạn thù: Làm sao để thoát? Định mệnh về địa lý Dù muốn hay không, Việt Nam vẫn phải sống cạnh người láng giêng khổng lồ, như một định mệnh về địa lý, không thể thay đổi được. Vì vậy về lâu về dài, Việt Nam phải tìm cách chung sống hòa bình tử tế với các nước láng giềng, trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Là một nước nhỏ hơn, muốn bảo vệ độc lập, chủ quyền của mình, Việt Nam phải thay đổi và mạnh lên để Trung Quốc phải tôn trọng. Nếu Việt Nam yếu đi trong khi Trung Quốc mạnh lên, thì chắc chắn Việt Nam sẽ mất độc lập, chủ quyền vì trở thành miếng mồi ngon cho tham vọng bành trướng bá quyền Trung Quốc. Đáng tiếc tình trạng hiện nay đúng là như vậy. Không phải Việt Nam chỉ mất đất biên giới và hải đảo tại Biển Đông, mà có thể sẽ mất tất cả, để “trở về tương lai” như thời kỳ Bắc thuộc. Tương quan lực lượng Trung Quốc đã trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới, đang thách thức vai trò số một của Mỹ, và muốn kiểm soát toàn bộ Biển Đông. Trung Quốc không chỉ là con quái vật kinh tế, mà còn là con quái vật quân sự và ý thức hệ, với tham vọng bành trướng bá quyền như đầu gấu trong khu vực. Họ đang lợi dụng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hướng dân Trung Quốc vào “Giấc mộng Trung Hoa”, hòng che đậy những mâu thuẫn cơ bản đang đe dọa sự tồn tại của chế độ. Biển Đông chỉ là một mảnh trong ván cờ lớn của họ. Trung Quốc muốn giữ chặt Việt Nam trong cái bẫy ý thức hệ, như một nước chư hầu, không được thân với Mỹ và Phương Tây. Vì vậy, Việt Nam phải mạnh lên, để thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ đó. Nếu không mạnh được như Israel, thì chung ta cũng phải đi theo hướng đó. Để khai thác được cái mỏ người hơn 90 triệu dân, chúng ta phải nâng cao dân trí, đổi mới thể chế kinh tế và chính trị. Việc này không thể một sớm một chiều mà cần vài thập kỷ. (Đáng tiếc là chúng ta đã đánh mất ít nhất bốn thập kỷ). Chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Chủ nghĩa dân tộc luôn là động lực chính trong quan hệ quốc tế. Trong lịch sử, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam và Trung Quốc đã chứng tỏ sức mạnh và sức sống tiềm tàng, như những đối thủ truyền kiếp. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan và bành trướng bá quyền là hiểm họa cho cả Việt Nam và Trung Quốc. Khi chủ nghĩa dân tộc trở thành cực đoan và bá quyền, nó như con quái vật, xô đẩy các nước vào lò lửa chiến tranh. Chủ nghĩa dân tộc thường bị các chế độ độc tài thao túng để kích động lòng yêu nước và huy động dân chúng ủng hộ các tham vọng cực đoan của họ, hoặc che đậy những mâu thuẫn xã hội và xung đột nội bộ. Người Đức thông minh tài giỏi như vậy, nhưng cũng bị Hitler và đảng Quốc Xã cực đoan thao túng, dẫn đến thảm họa chiến tranh thế giới. Người Trung Hoa có bề dày lịch sử và văn hóa như vậy, nhưng cũng bị Mao và các phái cộng sản cực đoan thao túng, dẫn đến thảm họa Cách mạng Văn hóa. Người Khmer hiền lành như vậy, nhưng cũng bị Pol Pot và Khmer Đỏ thao túng, trở thành nạn nhân của họa diệt chủng. Nguy cơ xung đột tại Biển Đông là do chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa bành trướng bá quyền. Muốn tránh thảm họa chiến tranh và xung đột, cần phải nâng cao dân trí và dân chủ hóa. Dân chủ hóa Đối với các xã hội chuyển đổi (như Trung Quốc và Việt Nam), dân chủ hóa là quy luật tất yếu và quá trình cần thiết để xã hội phát triển. Quá trình này nhanh hay chậm tùy thuộc vào đặc điểm chính trị và xã hội của từng nước. Dân chủ hóa thường song hành với quá trình phát triển tầng lớp trung lưu và dân trí. Nó vừa là động lực để đổi mới và phát triển kinh tế, vừa là đối trọng để hạn chế chủ nghĩa cực đoan và cuồng tín. Do đặc điểm lịch sử, văn hóa phức tạp nên quan hệ Việt-Trung vừa bị chi phối bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan và bành trướng bá quyền, vừa bị trói buộc bởi ý thức hệ cộng sản cực đoan. Chỉ có dân chủ hóa và nâng cao dân trí thì Việt Nam và Trung Quốc mới có thể thoát khỏi chủ nghĩa dân tộc cực đoan và nguy cơ xung đột. Sự phát triển bùng nổ của internet và truyền thông xã hội dựa trên kỹ thuật số gần đây có vai trò rất lớn trong quá trình này, như một cuộc cách mạng truyền thông. Cất cánh kinh tế Tuy Trung Quốc và Việt Nam có thể chế chính trị giống nhau (do Đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo), nhưng kinh tế hai nước phát triển không giống nhau, làm quan hệ trở thành bất bình đẳng và lệ thuộc. Trong khi kinh tế Trung Quốc cất cánh với tốc độ tăng trưởng 2 con số trong suốt 3 thập kỷ, thì kinh tế Việt Nam không cất cánh lên được, thậm chí còn tụt hậu. Mặc dù đều độc tài và tham nhũng, nhưng Trung Quốc đã trỗi dậy mạnh mẽ và nhanh chóng theo kinh tế thị trường, trong khi Việt Nam vẫn duy trì “định hướng XHCN”, dựa vào các doanh nghiệp nhà nước tham nhũng và yếu kém làm chủ đạo, dẫn đến thua lỗ và phá sản (như Vinashin và Vinalines). Trong khi Trung Quốc vơ vét tài nguyên khoáng sản toàn cầu để nuôi con quái vật kinh tế khổng lồ, xuất khẩu hàng hóa ra khắp thế giới để tích lũy tư bản, thì Việt Nam không công nghiệp hóa và nội địa hóa sản xuất, chỉ bán rẻ tài nguyên khoáng sản lấy tiền nhập siêu hàng tiêu dùng. Đây cũng là một bi kịch quốc gia. Nếu không thay đổi cơ bản về thể chế kinh tế và chính trị, để hội nhập vào thị trường thế giới, thì Việt Nam khó tránh khỏi lệ thuộc vào Trung Quốc và mất chủ quyền tại Biển Đông. Đối tác chiến lược. Muốn đối phó với một láng giềng lớn chuyên bắt nạt (như Trung Quốc), Việt Nam phải liên kết với đối tác chiến lược mạnh hơn (như Mỹ) làm đối trọng và răn đe. Đó là quy luật tất yếu ai cũng biết, nhưng vận dụng như thế nào là một chuyện khác. Có nhiều bài học lịch sử. Ví dụ, không nên dựa hẳn vào bên này để chống bên kia, gây thù chuốc oán, như trước đây Việt Nam đã dựa hẳn vào Trung Quốc để chống Mỹ, rồi sau này lại dựa hẳn vào Liên Xô để chống Trung Quốc. Nhưng cũng không nên có quan hệ đối tác chiến lược với quá nhiều nước, mà chẳng nước nào có khả năng đương đầu với Trung Quốc để bênh vực Việt Nam. Nó giống như câu thành ngữ “lắm mối tối nằm không”. Việc giữ cân bằng quan hệ với Trung Quốc và Mỹ bằng cách đi trên dây không phải là một chiến lược lâu dài. Càng không phải là một cái cớ để trì hoãn quan hệ đối tác chiến lược sống còn với Mỹ khi Trung Quốc đã lộ rõ bộ mặt thật là mối đe dọa chung đối với khu vực. Không nên nhầm lẫn mục tiêu chiến lược với phương tiện chiến thuật. Nếu không có quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ và gia nhập TPP, Việt Nam dễ bị Trung Quốc bắt nạt và đô hộ. Muốn có quan hệ đối tác chiến lược hiệu quả, trước hết người Việt Nam phải đoàn kết và tự cường mạnh lên, để các đối tác tôn trọng và tin cậy. Quan hệ đối tác chiến lược sẽ trở thành vô nghĩa nếu không dựa trên tầm nhìn chiến lược và lòng tin chiến lược. NQD 6/2015 Tham Khảo 1. “Hitting China’s Wall”, Paul Krugman, the New York Times, July 18, 2013 2. “Pivot 2.0”, A Report of the CSIS Asia Program, CSIS, Jan 2015 3. “The Coming Chinese Crackup”, David Shambaugh, the Wall Street Journal, March 6, 2015. 4. “Revising US Grand Strategy Toward China”, Robert Blackwill & Ashley Tellis, Special Report, Council on Foreign Relations Press, April 2015 5. “The Future of US-China Relations under Xi Jinping”, Kevin Rudd, Summary Report, Belfer Center, Harvard Kennedy School, April 2015, 6. “A Tipping Point in US-China Relations is upon us”, David Lampton, speech at the Carter Center conference, May 6-7, 2015 7. “Retaining America’s balance in the Asia-Pacific: Countering China’s Coercion in South East Asia”, Patrick Cronin, Crongressioanl Testimony, May 13, 2015 8. “China’s Place in US Foreign Policy”, Karl Eikenberry, the American Interest, June 9, 2015 9. “Can China Be Contained”, Andrew Browne, the Wall Street Journal, June 12, 2015 Tác giả gửi cho viet-studies ngày 23-6-15
  7. Lập mộ giả là 'việc làm rất nhân văn'? Trong buổi hội thảo khoa học về việc tìm hài cốt liệt sĩ bằng khẳ năng đặc biệt và phần hài cốt còn lại (thủ cấp) của liệt sĩ Phùng Chí Kiên sáng ngày (6/11), tiến sĩ Vũ Thế Khanh – Tổng giám đốc hội liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng – UIA đã kể câu chuyện "ba liệt sĩ chia sẻ hài cốt để tạo thành hài cốt của đồng đội thứ 4" và ông cho rằng đây là dẫn chứng "nhà ngoại cảm tìm hài cốt liệt sĩ là hành động rất nhân văn". Ông Khanh kể: Đó là câu chuyện của 4 liệt sĩ quê Thái Bình hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Dùng năng lực của mình, nhà ngoại cảm đã thu thập được các thông tin, biết được 4 người này hy sinh do trúng đạn pháo và đã tìm ra được vị trí mà 4 liệt sĩ này hy sinh. Tuy nhiên, khi khai quật lên thì chỉ có di cốt của 3 người. Nhà ngoại cảm dùng năng lực để nói chuyện với các liệt sĩ, họ cho biết, một người do bị đạn pháo bắn thẳng vào người nên xác bay tứ tung, giờ không còn lại gì. Sau khi hội ý, 3 liệt sĩ này đồng ý mỗi người bỏ ra một phần tro cốt để đúc thành người thứ 4 mang về cho gia đình. Thông qua nhà ngoại cảm, họ chia sẻ: "4 anh em đi với nhau chẳng lẽ khi về lại thiếu 1 người sao". Thế nên, để gia đình liệt sĩ thứ 4 không tủi thân, đoàn tìm kiếm hài cốt liệt sĩ đã lấy xương cốt của 3 người đã tìm được làm hài cốt thứ 4, mang về cho gia đình". Cũng theo ông Khanh, việc chia sẻ hài cốt của 3 liệt sĩ thành 4 không được tiết lộ với gia đình liệt sĩ thứ 4, nên khi hài cốt được đưa về, gia đình thân nhân liệt sĩ vui mừng đến rơi nước mắt. Tiến sĩ Vũ Thế Khanh: Lập hài cốt giả là ý nguyện của liệt sĩ. Câu chuyện được tiến sĩ Khanh cho là nhân văn nhưng phải chăng đó là sự lừa dối gia đình các liệt sĩ?. Để rộng đường dư luận, phóng viên đã có cuộc trao đổi lại với ông Vũ Thế Khanh ngay sau khi buổi hội thảo kết thúc. - Thưa tiến sĩ, câu chuyện ông kể về việc sẻ hài cốt 3 liệt sĩ thành 4 cho thấy hài cốt liệt sĩ thứ 4 là sai và thi thể ba liệt sĩ kia cũng không toàn vẹn. Vậy liệu có phải là nhân văn như ông nói. - Đấy là liệt sĩ họ bảo thế, liệt sĩ yêu cầu - Làm sao để chứng minh được việc đó thực sự là do liệt sĩ yêu cầu, khi chỉ một mình nhà ngoại cảm có khả năng trò chuyện với người đã khuất và nói lại cho mọi người? - Không ai biết được 4 ông liệt sĩ này đi cùng ngày, cùng giờ và chết cùng nơi… có nhiều thông tin mới đến ngôi mộ đó được. - Trường hợp gia đình phát hiện ra hài cốt họ đang thờ cúng không phải là của cha ông, chồng hoặc con họ thì tiến sĩ nghĩ như thế nào? - Bạn nhầm ở chỗ này, đấy là ý của ông liệt sĩ. - Nhưng cũng không thể làm sai sự thật được? như vậy là dối trá thân nhân liệt sĩ? - Không, ông liệt sĩ ông thích sai thì sao? Ông liệt sĩ có công mà ông nói “tôi phản động” thì sao? Bây giờ mình phải tôn trọng cái nguyện vọng của liệt sĩ. Chứ không phải mình theo cái cảm tính của mình. - Tại sao đoàn tìm kiếm không trao đổi thẳng thắn với gia đình? - Trao đổi thì gia đình người ta buồn, ông liệt sĩ muốn cho gia đình yên thân…. Vị tiến sĩ này lấy dẫn chứng: Có những bà mẹ nếu như biết được con về mới yên tâm nhắm mắt. Với liệt sĩ khi người ta còn sống họ nhường cả cái thân, hy sinh cho người bạn còn sống thì xương người ta tiếc gì đâu. Khi liệt sĩ còn sống cơm ông cũng nhường, nếu 2 anh phải chết, ông xung phong chết là ông nhường cả mạng sống thì chút xương ấy làm gì nặng nề với ông liệt sĩ được. Cái đó là nguyện vọng của ông liệt sĩ. - Nhưng chúng ta phải tôn trọng gia đình họ chứ, như vậy là đã lừa dối gia đình họ rồi thưa tiến sĩ? - Không phải ta lừa dối mà là ông liệt sĩ ông làm thế. - Chúng ta là người đưa di cốt về mà? - Cậu buồn cười nhỉ, làm thế trái ý ông liệt sĩ… ông liệt sĩ quan trọng hay chúng ta quan trọng, hơn nữa, ông liệt sỹ có ý nguyện như vậy. Đừng nói ông liệt sĩ coi xương là quan trọng đâu nhá, nếu xương không còn thì làm sao? Ông tan xác trên bầu trời ông không có xương...v.v.. - Nói gì thì nói nhưng vẫn phải tôn trọng sự thật, thân nhân liệt sĩ cần sự thật, dư luận cần sự thật, thưa ông? (Tiến sĩ Khanh không trả lời thẳng câu hỏi mà tiếp tục lấy ví dụ chống chế) - Tại sao tôi làm gián điệp, tôi nói sự thật ra đi… cái sự thật ấy có lợi cho dân cho nước tôi làm. Bây giờ tôi hỏi nhé, tại sao ông làm tình báo ông lại nói là việt gian? Vì việc của ông làm là lợi cho người khác và đấy là sự hy sinh của người ta. Dù gia đình có mất cái xương hay không không, đối với tâm linh không còn quan trọng nữa. Ví dụ bây giờ hỏa tang thì sao, người ta rắc ra sông thì sao? Có ai biết mộ ông Thánh Gióng ở đâu không? Ông Thánh Gióng là 1 đại liệt sĩ tượng trưng cho tất cả các liệt sĩ trong các triều đại và không cần xương nữa, thịt xương ông thành lá, thành cây cho non sông, chỉ linh hồn ông bay về trời thôi. Đấy là cái tư tưởng của người Việt Nam ta, vậy thì cái hài cốt không quan trọng. Bây giờ mộ ông Thánh Gióng ở đâu nào? Vậy giờ người ta thờ ông ấy hay thờ tư tưởng của ông ấy. - Những trường hợp đi tìm mộ liêt sĩ mà không tìm được hài cốt nhưng lấy xương của liệt sĩ khác mang về như trường hợp trên có nhiều không? - Nhiều, nhiều chứ, vô cùng nhiều… Nhưng mà đó là trường hợp 4 liệt sĩ đó thôi. Bốn gia đình đó đã cảm động, người ta khóc vì cái sự hy sinh đó. Vậy thì đừng nghĩ gia đình liệt sĩ ấy người ta buồn, người ta tự hào vì những cái việc đó. Và người ta cũng không muốn biết ai vào với ai nữa, và người ta cùng đưa 4 ông ý như nhau. Thuận Phong Nguồn http://www.nguoiduat...an-a113132.html
  8. Là quả ô-liu đen , ô liu muối ngoại nhập có ở các siêu thị , tôi rất thích ăn
  9. Thưa bác Thiên Sứ & các bạn quan tâm , đã ,đang và sẽ còn có những kẻ luôn tìm cách kích động hận thù dân tộc vì những mục đích độc ác của chúng . Mời mọi người tham khảo bài viết sau Nhận Diện Bọn Sát Nhân Và Những Kẻ Giấu Mặt 1 Nguyễn Đoàn Bảo Tuyền Lời nói đầu: Đầu tuần qua, tại Tòa án xử tội diệt chủng của các cựu lãnh đạo Khmer Đỏ, Nuon Chea, nhân vật số 2 của chế độ Polpot đã đổ trách nhiệm cho Đảng Cộng sản Việt Nam là thủ phạm của chính sách diệt chủng người Khmer. Thông tin trên mạng ngày 9/12/2011 của Đài Phát Thanh ABC Australia trích dẫn phát biểu của Nuon Chea như sau:”Mọi việc đều do Việt Nam kiểm soát, với tổng hành dinh từ Hà Nội. Vì thế những tội ác như, tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại và diệt chủng là do người Việt giết người Khmer.” Còn theo báo mạng Phnom Penh Post ngày 7/12/2011 viết rằng: ”Trong ngày hỏi cung thứ hai, Người Anh Hai vẫn giữ nguyên lập trường của ông ta, tức là, không phải Khmer Đỏ mà chính Việt Nam, một quốc gia đã nuốt chửng Cam Bốt và có ý định diệt chủng người Khmer”. Vậy sự thật lịch sử như thế nào? Chúng tôi xin giới thiệu một phần nội dung của Luận văn tốt nghiệp ngành Đông Nam Á học, Trường Đại học Mở TP.HCM liên quan đến tội án diệt chủng của chế độ Khmer Đỏ. Người thực hiện: Nguyễn Đoàn Bảo Tuyền (Khóa 1995-1999) Người hướng dẫn: Đinh Kim Phúc 1. NHỮNG KẺ CẦM ĐẦU KHMER ĐỎ – CHÚNG LÀ AI? Pol Pot có tên thật là Saloth Sar, dân tộc Khmer, sinh năm 1925 tại làng Prek Scov, tỉnh Kompong Thom, gia đình thuộc tầng lớp trung nông, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Campuchia, nguyên Thủ tướng Chính phủ Campuchia dân chủ (vợ là Khieu Ponnari). Lúc sáu tuổi, Saloth Sar được một người chị họ (con của bác) tên Khun Meak vốn là một cung nữ và là ngôi sao trong đội múa hoàng cung của vua Monivong đem vào cung chăm sóc và nuôi dưỡng. Về sau, chính bà đã vận động xin học bổng cho Saloth Sar sang Pháp du học. Theo học tại một trường Trung học tư ở Paris và tham gia đấu tranh chính trị bí mật, hắn đã lấy bí danh Pol Pot vào khoảng giữa những năm 1950 sau khi từ Pháp trở về Campuchia. Ieng Sary, dân tộc Khmer, sinh năm 1925 tại ấp Hòa Lạc, xã Lương Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh (Việt Nam), nguyên Ủy viên Thường vụ Đảng Cộng sản Campuchia, nguyên Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Campuchia dân chủ (vợ là Khieu Thirith)(1). Khieu Samphan, dân tộc Khmer, sinh ngày 27-7-1931 tại tỉnh Svai Rieng, là con của một hiệu trưởng trường tiểu học. Năm 1954, hắn được cử đi học ngành thương nghiệp tại Pháp. Hắn tham gia hoạt động chính trị, làm Thư ký Hội Sinh viên Khmer ở Pháp, hoàn thành văn bằng Tiến sĩ Kinh tế tại Pháp. Khmer đỏ chưa bao giờ là một tổ chức đồng nhất. Thực ra, từ “Khmer đỏ” là do Sihanuok đặt ra để chỉ cánh đối lập cực tả ở Campuchia. Như vậy, “Khmer đỏ” là một nhãn hiệu do người ngoài cuộc đặt tên cho phong trào. Ban đầu, nhãn hiệu này được dùng để chỉ những đảng viên kỳ cựu người Khmer của Đảng Cộng sản Đông Dương, và về sau để chỉ những sinh viên được gọi là “nhóm Paris”, cùng như những người đi theo cả hai nhóm. Song ngày nay, tất cả mọi người đều dùng từ Khmer đỏ để chỉ bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan, những tên cầm đầu của Chính phủ “Campuchia dân chủ” từ năm 1975 đến 1979 ở đất nước Campuchia, những kẻ đã gây nên thảm họa diệt chủng chống lại dân tộc mình, và tàn sát các dân tộc láng giềng. Bọn chúng đã thực hiện tội ác kinh tởm chống lại loài người, làm kinh hoàng nhân dân trên thế giới. Bối cảnh Campuchia từ những năm 1950 do những viễn cảnh và kinh nghiệm khác nhau giữa những người kỳ cựu và “nhóm Paris” đã dẫn đến những bất đồng liên tục và cơ bản về mục tiêu, sách lược của phong trào. Chính ngay trong nội bộ “nhóm Paris” tình hình cũng như vậy, nhưng bất đồng ít hơn và hầu hết là về sách lược. Cuộc đấu tranh càng phát triển, thì phe Pol Pot trong “nhóm Paris” càng đối phó với những bất đồng bằng cách thật đơn giản là sát hại những người chống lại chúng về lý luận cũng như về tổ chức. Trong những năm cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc được tiến hành mạnh mẽ nhất, hầu hết những người lãnh đạo sau này của Khmer đỏ vẫn còn là sinh viên ở Paris. Người đến Paris đầu tiên, năm 1946 là Keng Vansak(2), con của một viên quan lại làm việc cho thực dân Pháp, sau này trở thành người dìu dắt Pol Pot và Ieng Sary. Keng Vansak theo học tại trường Cao đẳng Sư phạm Saint Cloud nổi tiếng ở ngoại ô Paris, sau đó làm chuyên gia về tiếng Khmer cho Viện nghiên cứu về Châu Phi và phương Đông ở Luân Đôn. Trở lại Paris, Keng Vansak trở thành một trong ba người thuộc “Ủy ban chính trị” – nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Marx gồm các sinh viên lần lượt đến từ Campuchia vào năm 1949. Trong số họ có Hou Youn, Ieng Sary, Saloth Sar… nhưng tham gia “Ủy ban chính trị” với Keng Vansak là Ieng Sary và Saloth Sar. Nhiều người trong số sinh viên này, lúc đầu là những người yêu nước lý tưởng chủ nghĩa, nguyện cống hiến tài năng và tìm cách tiếp cận các lý thuyết cách mạng hiện đại để cải tạo xã hội Campuchia, nhằm phục vụ lợi ích cho những người nghèo khổ, nhất là nông dân. Trong quá trình học lấy bằng cử nhân và tiến sĩ, một số sinh viên cánh tả – nhất là Khieu Samphan, Hu Nim, Hou Youn – đã có những công trình nghiên cứu sâu sắc đầu tiên về hệ thống kinh tế – xã hội Campuchia và những triển vọng đổi thay. Những lời khẳng định trích trong luận án của Hou Youn đã báo hiệu trước chính sách của họ sau này: “ … Những cái mà chúng ta quen gọi là “thành phố” hoặc “thị trấn” là những máy bơm hút kiệt sức sống của nông thôn… Vùng nông thôn rộng lớn nuôi sống các thành phố và thị trấn. Các thành phố, các thị trấn với bề ngoài tươi mát và hiện đại, sống trên mồ hôi, nước mắt của nông thôn, cưỡi trên lưng nông thôn… … Những người lao động trên ruộng đất, với những bàn tay xương xẩu… chỉ nhận được 26%… trong khi những người khác, trong bóng mát, không dùng đến cái gì khác ngoài đồng tiền, nhận được có khi tới 74%… Nông thôn nghèo nàn, da bọc xương và khốn khổ, bởi vì hệ thống thương mại áp bức nó. Cây mọc ở nông thôn, nhưng quả lại đi ra thành phố… … Dân “đại bợm thành phố” là kẻ thù tự nhiên của chúng tôi…”(3). Các luận án tiến sĩ do Hou Youn và Khieu Samphan viết tại trường Đại học Sorbonne ở Paris đều nói nhiều đến sự bóc lột trực tiếp hoặc gián tiếp đối với nông dân Campuchia. Những lập luận về một sự phát triển kinh tế tự trị, thậm chí tự cấp, tự túc. Người ta có thể thấy mầm mống của những quan điểm đã khiến Khmer đỏ tự cô lập hầu như hoàn toàn với thế giới bên ngoài (trừ Trung Quốc) sau khi chúng nắm được chính quyền. Năm 1953, trong số những người đầu tiên từ Paris trở về Campuchia có Pol Pot. Sau khi tìm cách chui vào Đảng Dân chủ Campuchia(4) không thành, một thời gian sau Pol Pot bỏ vào rừng. Khi đó, trong tỉnh Kompong Cham có cơ quan lãnh đạo của Đảng Pracheachon (Nhân dân cách mạng). Đến Kompong Cham, Pol Pot và vài sinh viên khác vừa về nước tiết lộ rằng họ đã từng là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp nay muốn gia nhập Đảng Cộng sản của người Khmer (5), và Pol Pot được phân công vào Ban Dân vận. Nhiệm vụ trước mắt của Pol Pot là nghiên cứu cặn kẽ tình hình nông thôn để phân định rõ các hình thức bóc lột khác nhau; tình hình tư tưởng nông dân; và quan hệ giữa nông dân và công nhân, nhằm đề ra một đường lối đúng đắn trong cương lĩnh tương lai của Đảng. Pol Pot không đóng vai trò gì quan trọng trong cuộc kháng chiến, ngay sau khi hoàn thành việc nghiên cứu, Pol Pot được cử đi học tại một trường dành cho cán bộ Đảng. “Là một người trẻ tuổi, năng lực trung bình, nhưng có khát vọng rõ rệt về quyền lực và những phương kế ngang tắt để leo lên tột đỉnh… Về sau, y rõ ràng lấy làm khó chịu vì không có trong danh sách những người được cử vào Ban chấp hành Trung ương”(6). Sau hiệp định Génève 1954, là một trong những đảng viên được phân công ở lại Campuchia để tiếp tục công tác bí mật (không phải tập kết ra miền Bắc Việt Nam), Pol Pot được phân công đến vùng Phnom Penh với cương vị là thành ủy viên của Đảng Pracheachon để tổ chức cho sinh viên hoạt động cách mạng. Pol Pot đã dùng cương vị này để tập hợp một số sinh viên làm nòng cốt cho việc xây dựng phe cánh của mình trong đảng. Có thêm những người thuộc “nhóm Paris” trở về Campuchia, họ tuyên truyền cho việc thành lập một đảng không có mọi quan hệ với những đảng bộ Khmer và những đảng viên Khmer kỳ cựu trong Đảng Cộng sản Đông Dương trước đây. “Nhóm Paris” khinh thường các đảng viên Khmer kỳ cựu, coi họ là những “lão nhà quê” ít kiến thức lý luận. Những người kỳ cựu lại cho rằng “nhóm Paris” hoàn toàn chẳng biết gì về tình hình trong nước và chỉ được trang bị bằng những câu trích dẫn đúng chỗ của Marx và Lénine. Ngay từ những cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa hai nhóm này, đã nảy sinh chia rẽ. Một trong những bất đồng đầu tiên và quan trọng là việc những người kỳ cựu cho rằng đế quốc Mỹ là nguy cơ lớn nhất, trong khi “nhóm Paris” lập luận rằng đó chính là Sihanouk. Trong khi Pol Pot và Ieng Sary tăng cường số người theo chúng trong bộ phận bí mật của Đảng Pracheachon, thì Khieu Samphan, Hou Youn và Hu Nim hoàn thành việc học tập ở Paris, trở về Phnom Penh dạy học và làm việc với chính phủ. Ngay khi trở về, Khieu Samphan và Hou Youn được bổ dụng vào Khoa Kinh tế và Khoa Luật của Trường Đại học Phnom Penh. Từ năm 1958 đến 1963, Khieu Samphan (tiến sĩ kinh tế), Hou Youn và Hu Nim (cả hai là tiến sĩ luật) đều phục vụ trong chính phủ của Sihanouk. Hou Youn làm việc lần lượt tại Bộ Thương nghiệp và Công nghiệp, Cục Ngân sách, Bộ Kế hoạch, Bộ Y tế, Bộ Tài chính, và sau cùng trở về Bộ Kế hoạch(7). Khieu Samphan làm Quốc vụ khanh về thương nghiệp từ 1962 đến 1963. Còn Hu Nim trên cương vị đứng đầu một số vụ và bộ khác nhau(8). Đảng Pracheachon đổi tên thành Đảng Cộng sản Campuchia vào năm 1960, nhưng giữ bí mật không công bố. Ở Phnom Penh, Pol Pot leo lên cương vị lãnh đạo trong đảng, khi Tusamust bí thư bộ phận bí mật, đột ngột mất tích ngày 20-7-1962(9). Lợi dụng cơ hội này, Pol Pot cùng phe cánh triệu tập một “đại hội bất thường”, qua đó Pol Pot “được bầu” làm Bí thư Đảng, Ieng Sary nắm chức Ủy viên thường vụ Ban chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1963, các cuộc biểu tình của sinh viên do phe Pol Pot – Ieng Sary kích động rầm rộ diễn ra. Sihanouk phản ứng quá mức và thanh trừng khỏi chính quyền các phần tử cánh tả thân “Đảng Pracheachon”. Vì vậy Khieu Samphan bị cách chức Quốc vụ khanh. Pol Pot, Ieng Sary cùng một số trí thức khác bỏ vào rừng. Pol Pot sử dụng cương vị Bí thư Đảng hoạt động bí mật để đẩy mạnh chiến dịch đấu tranh vũ trang chống Sihanouk (trong khi phái cực hữu Lon Nol trong chính phủ và CIA cũng ra sức chống Sihanouk). Đường lối này tiếp tục gây nên sự chống đối đáng kể trong nội bộ đảng. “Nhãn quan dân tộc chủ nghĩa của Pol Pot cũng là một nhãn quan truyền thống, có thể so sánh với nhãn quan Lon Nol. Lon Nol nói toạc ra hy vọng “thống nhất” những người Khmer ở Campuchia, Thái Lan và Việt Nam; người Chàm ở Campuchia và Việt Nam; người Thượng ở Campuchia và miền Nam Việt Nam, và cả người Mon ở Thái Lan và Miến Điện. Cả Pol Pot và Lon Nol đều muốn khôi phục đế chế Angkor cổ đại, nhưng trong đế chế của Pol Pot, chỉ những người Khmer “trong sạch” về chủng tộc và những người về chính trị trong sạch theo tiêu chuẩn của y là sẽ sống sót”(10). Năm 1963, khi rời Phnom Penh, Pol Pot – Ieng Sary ra vùng dân tộc ít người ở Đông Bắc, và sống phần lớn ở đó trong năm năm tiếp theo. Vừa là Bí thư Trung ương Đảng, Pol Pot vừa kiêm Bí thư Khu Ủy khu Đông Bắc từ năm 1968 đến 1970. Năm 1970, Pol Pot ra nước ngoài (Trung Quốc), cả Ieng Sary và Son Sen cùng phụ trách khu Đông Bắc. Năm 1967, Khieu Samphan, Hou Youn và Hu Nim trốn vào rừng tham gia các lực lượng du kích chống Sihanouk. Năm 1970, cuộc đảo chính của Lon Nol lật đổ Sihanouk và sự can thiệp của Mỹ vào Campuchia đã làm thay đổi tất cả các cơ cấu xã hội và kinh tế của đất nước. Bao trùm lên toàn bộ tình hình đó là việc Khmer đỏ bị ám ảnh bởi cuộc Cách mạng văn hóa của Trung Quốc: để cho nông dân “cải huấn” trí thức; đặt nông dân – ít ra là về lý thuyết – lên bậc thang cao nhất của xã hội; săn lùng và tàn sát cán bộ kỳ cựu của đảng và cả tư sản dân tộc mà trước đây từng được dễ dãi chấp nhận”. Những người như Pol Pot và Son Sen, từng theo các khóa nghiên cứu ở Bắc Kinh trong thời kỳ cao điểm của cách mạng văn hóa, như nhận được một liều thuốc mạnh (trong đó có tuyên truyền chống Việt Nam) và đã truyền cho đồng bọn trong giới lãnh đạo. Khieu Samphan được mô tả là “ôn hòa”, nhưng chính là kẻ khát máu nhất khi đụng đến vấn đề quan hệ với Việt Nam hoặc với các chiến sĩ kỳ cựu đã bị “ô nhiễm”, do họ đã từng kề vai sát cánh với người Việt Nam chiến đấu chống Pháp. Khieu Samphan được coi là nhà tư tưởng tối cao của Khmer đỏ và là “kiến trúc sư“ của chế độ diệt chủng sau này. Trong thời gian tham gia chính phủ Sihanouk, hắn đã tìm cách giải quyết các vấn đề kinh tế bằng những giải pháp “cấp tiến” của mình, nhưng do thực tế tình hình nên đó chỉ là “ảo tưởng tả khuynh”. Trong lúc đang tìm kiếm những tư tưởng mới, giải pháp mới, hắn nhìn sang Trung Quốc. Trước đó, hắn đã tiếp thu đường lối Maoism (Mao-ít): cách mạng phải do giai cấp nông dân lãnh đạo. Thật đúng lúc, Trung Quốc cũng nhận thấy và đã lợi dụng tình trạng rất lúng túng về tư tưởng trong Ban lãnh đạo Khmer đỏ lúc bấy giờ để áp đặt đường lối của chính họ về phong trào cách mạng, bao gồm: phá hủy các kế hoạch của những nhà cách mạng kỳ cựu muốn đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đây là yếu tố bao trùm trong chính sách diệt chủng sau này: không tranh cải với những người đối lập; phải tiêu diệt họ tận gốc rễ! Khieu Samphan bắt đầu đưa những khái niệm mới vào triết lý của hắn. Từ tư tưởng cơ bản cho rằng con người vốn là tốt, nhưng đã bị nền văn minh làm cho hư hỏng; xã hội công nghiệp càng văn minh thì con người càng hư hỏng, hắn đã tiếp thu thêm một tư tưởng nguy hiểm hơn nhiều, đó là sự chuyên chính của một nhóm nhỏ trí thức ưu tú (giáo dục cũng bị hắn coi là một nguồn gốc làm hư hỏng quần chúng), chỉ cần một hệ thống xã hội thật đơn giản để duy trì sự “trong sạch và sự lành mạnh” của con người. Nhóm ưu tú sẽ làm công việc suy nghĩ thay cho tất cả, quần chúng sẽ làm công việc lao động – họ càng lao động thì càng ít có thì giờ để suy nghĩ vô ích. Năm 1970, Khieu Samphan, Hou Youn và Hu Nim đáp ứng lời kêu gọi của Sihanouk về việc gia nhập Mặt trận Thống nhất dân tộc Campuchia (FUNK) để chống Lon Nol do Sihanouk đứng đầu. Và khi Sihanouk thành lập Chính phủ kháng chiến (Chính phủ Vương quốc đoàn kết dân tộc Campuchia – GRUNK) ở Bắc Kinh, thì Khieu Samphan được cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang (thực ra, chính Pol Pot phụ trách các vấn đề quân sự ngay từ đầu nhưng chưa xuất hiện công khai, Khieu Samphan vẫn là nhà tư tưởng tối cao). Còn Ieng Sary vừa là người thực hiện tư tưởng, vừa là người liên lạc chủ yếu với Bắc Kinh và Hà Nội. Thời gian này, trong nội bộ Khmer đỏ có ba phái khác biệt: 1/ Nhóm sô-vanh (chauvinist), dân tộc cực đoan và phân biệt chủng tộc đứng đầu là Pol Pot, Ieng Sary, Son Sen, với vợ của chúng là Khieu Ponnari, Khieu Thirith, Yun Yat, Khieu Samphan, muốn hình thành một xã hội “cộng sản độc đáo” theo kiểu riêng của Campuchia chứ không phỏng theo Liên Xô, Việt Nam hay bất cứ một mô hình nào khác. Kể cả Trung Quốc cũng bị chúng đánh giá thấp (tuy chúng phụ thuộc nặng nề vào sự ủng hộ vật chất của những người cầm quyền ở Bắc Kinh). 2/ Một nhóm do Hu Nim, Hou Youn, Phok Chay va Tin Op đấu tranh đòi áp dụng mô hình cách mạng văn hóa của Trung Quốc vào điều kiện Campuchia. 3/ Một nhóm đứng đầu là So Phim, Keo Moni, Chou Chet và những người khác, tán thành xây dựng một nước Campuchia xã hội chủ nghĩa theo mô hình Việt Nam. Nhóm này chủ yếu là đảng viên kỳ cựu thuộc đảng bộ Khmer của Đảng Cộng sản Đông Dương trước đây và những người ủng hộ lập trường quốc tế chủ nghĩa. Mỗi nhóm có căn cứ riêng và trung tâm quyền lực riêng. Pol Pot lúc đầu ở Đông Bắc thuộc vùng dân tộc thiểu số; Hu Nim ở miền Nam và Tây Nam trong vùng dãy núi Con Voi và dãy núi Đậu Khấu(11); còn So Phim ở các tỉnh đông dân khu vực giữa sông Mekong và biên giới Việt Nam. Chỉ có nhóm của So Phim tôn trọng thỏa thuận với Sihanouk ở Bắc Kinh về việc đoàn kết trong cuộc đấu tranh vũ trang chung chống chế độ Lon Nol. Hai nhóm kia đều ra sức tiêu diệt các lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc của Sihanouk và kể cả các lực lượng của So Phim. Mặc dù vậy, nhóm của Pol Pot cũng không tha thứ cho nhóm của Hu Nim, Hou Youn trong cuộc chiến đấu giành ân huệ của Trung Quốc(12), bọn họ đều bị giết sau khi nhóm Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan lên cầm quyền năm 1975. Tương tự như vậy, gần như toàn bộ những người lãnh đạo nhóm khu miền Đông của So Phim cũng đều bị giết vào tháng 5-1978, sau những cuộc khởi nghĩa quân sự chống Pol Pot thất bại. Một số ít còn sống sót, trong đó có Heng Samrin, tuy không phải là đảng viên kỳ cựu từ thời chống Pháp, nhưng là một nhân vật tích cực chống Pol Pot trong hàng ngũ do So Phim lãnh đạo (Mâu thuẫn giữa hai nhóm là mâu thuẫn cơ bản giữa chủ nghĩa dân tộc cực đoan của nhóm Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan và chủ nghĩa quốc tế của nhóm So Phim. Về thực chất, chính sự khác biệt này về sau đã khiến Pol Pot đi theo con đường vị chủng và diệt chủng). Rõ ràng là trong đảng của những người cộng sản Campuchia đã có những căng thẳng đáng kể ngay từ giữa những năm 1960, và giữa những người lãnh đạo của đảng đã có những hố sâu ngăn cách sâu rộng về tư tưởng và sách lược. Một sự thật là, họ đã không hoạt động chung với nhau. Đảng thì nhỏ, nhiều đảng viên thì còn ở miền Bắc Việt Nam hoặc đang ở Trung Quốc, còn những người trong nước lại thuộc các nhóm du kích độc lập, phân tán khắp nông thôn. Trong quyển Lịch sử Đảng Cộng sản Khmer xuất bản ở khu miền Đông năm 1973, có một đoạn đáng buồn như sau: “…Năm 1973, năm mà những cuộc thanh trừng nội bộ của Pol Pot nổ ra gay gắt, chống lại xu hướng trong đó có các tác giả của văn kiện này… (tất cả những người này về sau đều bị hành quyết) … đáng lẽ tấn công kẻ thù bên ngoài, chúng ta lại đem máu thịt của chính mình làm mồi cho kẻ thù…”. 2. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CHẾ ĐỘ DIỆT CHỦNG CỦA BỌN POL POT – IENG SARY Một điều chắc chắn là mọi người trên thế giới, khi được biết về tội ác kinh tởm chống lại loài người của bọn diệt chủng Pol Pot – Ieng Sary gây ra, sẽ đặt câu hỏi là bằng cách nào mà những quái thai của nhân cách và đạo đức cách mạng như Pol Pot – Ieng Sary cùng một dúm nhân thân và bè lũ đã có thể leo lên tột đỉnh và thực hiện các chính sách diệt chủng của chúng(13). Đây là một chủ đề mà trong thời gian qua các nhà viết sử, các nhà khoa học chính trị – xã hội, các nhà tư tưởng, các nhà nghiên cứu về châu Á và nhiều người khác đã đưa ra những cách trả lời, những ý kiến khác nhau. Điều này cũng tương đối dễ hiểu, vì mỗi cá nhân đều có góc nhìn khác nhau, phụ thuộc vào vị trí, vào hoàn cảnh của họ khi nhìn nhận vấn đề. Riêng ở đề tài này, sau khi tìm hiểu, tổng hợp các nhận định và các phân tích, tác giả xin phép nêu ý kiến như sau về nguồn gốc chế độ diệt chủng của bọn Pol Pot – Ieng Sary. Có hai nguồn gốc: nguồn gốc bên trong và nguồn gốc bên ngoài: 2.1. Nguồn gốc bên trong Khái niệm “diệt chủng” đã được thế giới định nghĩa như sau: “diệt chủng” là những tội ác thực hiện với ý đồ nhằm tiêu diệt một nhóm người, một dân tộc, một tộc người, một chủng tộc hoặc một tôn giáo”(14). Nhưng với trường hợp ở Campuchia phải hiểu thêm một cách cụ thể là: những tội ác đó gây ra nhằm thực hiện mưu đồ bành trướng và xâm lược của giới lãnh đạo Bắc Kinh thông qua bàn tay đẫm máu của bọn tay sai Pol Pot – Ieng Sary. Chính vì vậy, đối tượng tiêu diệt cần phải hiểu rộng hơn, gồm cả những lực lượng tiến bộ, cách mạng ở trong nước và cả ngoài nước. Tùy vào tương quan lực lượng giữa cách mạng và phản động, mà hướng diệt chủng có thể được bắt đầu từ trong nước trước rồi sau đó là ngoài nước, hoặc tiến hành đồng thời. Trở lại lịch sử, chủ nghĩa phát xít Hitler được hình thành trong điều kiện giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ở Đức đều yếu. Giai cấp tư sản không thể thống trị nhân dân được như trước nữa, song giai cấp vô sản cũng không đủ khả năng giành chính quyền về tay mình. Tầng lớp trung gian dao động ngả về phía lực lượng phát xít (fascist). Do vậy, phát xít Đức chưa cần tập trung cao độ lực lượng vào việc chống lại các lực lượng trong nước. Hơn nữa, với chính sách của bọn tư bản phương Tây là muốn đẩy nước Đức vào một cuộc chiến tranh khốc liệt với Liên Xô để chúng đứng giữa hưởng lợi. Với tình hình trong và ngoài nước như vậy, phát xít Đức đã chĩa mũi nhọn tiêu diệt nhân dân châu Âu. Những cuộc tàn sát của chúng đã làm kinh hoàng khắp thế giới. Khác với Hitler, khi Pol Pot – Ieng Sary lên nắm quyền lãnh đạo và giành thắng lợi trong tình hình tương quan lực lượng rất bất lợi cho chúng. Chúng yếu cả về thế và lực, trong khi lực lượng quần chúng cách mạng trong và ngoài nước đang lên rất mạnh. Mặt khác, bằng thủ đoạn, trước tiên chúng tiếm quyền, rồi sau đó chúng giành chính quyền trong tình hình cách mạng ở Đông Dương đã và đang diễn ra hết sức mạnh mẽ (Cách mạng ở các nước Đông Dương đã toàn thắng vào mùa xuân 1975) và trong khi tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương – một trong những nhân tố để giành thắng lợi của nhân dân các nước Đông Dương – đã phát triển tới đỉnh điểm. Đồng thời, lúc này chính quyền Bắc Kinh lại tăng cường sử dụng bọn chúng để chống phá cách mạng Đông Dương, khoét sâu “khâu yếu” của cách mạng Đông Dương, biến Campuchia thành căn cứ phản cách mạng của chúng. Do vậy, Pol Pot – Ieng Sary phải tiến hành đồng thời cùng một lúc việc tiến công diệt chủng ở trong và ngoài nước(15). Pol Pot – Ieng Sary không chỉ diệt dân tộc Campuchia, mà còn tiến hành tiêu diệt tất cả các dân tộc thiểu số, dân tộc láng giềng. Đồng thời với việc diệt chủng trong nước, bao gồm giết người Khmer cùng huyết thống, tiêu diệt các dân tộc thiểu số: Việt kiều, Chăm và các dân tộc miền núi, Pol Pot đã tấn công xâm lược Việt Nam, tấn công biên giới Lào, Thái Lan(16). Năm 1973, đế quốc Mỹ buộc phải rút quân khỏi Việt Nam, do đó giới cầm quyền Bắc Kinh vội vã tăng cường sử dụng con bài Pol Pot – Ieng Sary để chống phá cách mạng Đông Dương nói chung và cách mạng Campuchia nói riêng. Về phía các lực lượng ở Campuchia, lúc này cũng đấu tranh với nhau gay gắt, các lực lượng Lon Nol thân Mỹ cũng chống lại cách mạng quyết liệt để bảo vệ “nền cộng hòa” của chúng. Trong nội bộ Đảng Cộng sản Campuchia, bọn Pol Pot – Ieng Sary, dưới tác động của Bắc Kinh, cũng đấu tranh quyết liệt với những người cộng sản chân chính. Năm 1973, Pol Pot đã nắm giữ hoàn toàn hai chức vụ quan trọng: Bí thư Đảng và Chủ tịch Ủy ban quân sự của Đảng. Và, như phần trên đã nêu(17), hắn cho tiến hành những cuộc thanh trừng, hành quyết các cán bộ đảng đối lập về tư tưởng và bắt đầu thanh lọc, tiêu diệt dân thiểu số tại các “vùng giải phóng”. Vào năm 1973, sau khi đã dồn ép để kiểm soát một phần lớn dân cư ở vùng giải phóng bằng các “hợp tác xã” theo mô hình của Mao, đồng thời tăng cường nhận viện trợ quân sự của Trung Quốc, Pol Pot – Ieng Sary đã bộc lộ bộ mặt chống Việt Nam. Cưỡng bức dân Campuchia không được giúp đỡ, buôn bán với bộ đội Việt Nam. Ngày càng gia tăng những cuộc tấn công vào bộ đội Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế, ngay giữa lúc đang tiến hành chiến tranh chống Mỹ và Lon Nol. Từ cuối năm 1972, chúng đã yêu cầu bộ đội Việt Nam rút về biên giới, nhưng khi chúng bị quân Mỹ và quân Lon Nol tấn công, thì chúng lại yêu cầu bộ đội Việt Nam giúp đỡ. Chúng muốn giành thắng lợi mà không tốn xương máu, đồng thời muốn dùng bàn tay của Mỹ và Lon Nol tiêu diệt bộ đội Việt Nam. Cho nên, sau khi bộ đội Việt Nam tiến vào bẻ gãy các cuộc tấn công của quân Mỹ và Lon Nol, lúc họ rút quân ra thì bọn Pol Pot lại tìm cách phục kích tiêu diệt. Chưa kể đến các cuộc tập kích, tấn công bộ đội Việt Nam, cướp vũ khí, lương thực bất ngờ của quân Pol Pot. Năm 1973 cũng là năm mà bọn Pol Pot đuổi sạch và “thanh toán” nốt số Việt kiều còn lại sau thảm họa diệt “Duôn” do bọn Lon Nol phát động và tiến hành từ năm 1970(18). Mốc diệt chủng của bọn Pol Pot – Ieng Sary như vậy khởi đầu từ năm 1973, với mức độ và quy mô diệt chủng ngày càng ác liệt, khủng khiếp; bởi bàn tay của bọn bành trướng bá quyền Bắc Kinh ngày càng thọc sâu vào Campuchia; bởi bọn Pol Pot – Ieng Sary ngày càng giành được chính quyền trong cả nước; bởi cuộc đấu tranh của nhân dân Campuchia ngày càng lên cao và cách mạng Đông Dương ngày càng giành được thắng lợi to lớn hoàn toàn. Có ba nguyên nhân bên trong, hình thành nên thảm họa diệt chủng của chế độ Pol Pot – Ieng Sary(19): 2.1.1. Sự tồn tại của chủ nghĩa vị chủng dân tộc cực đoan ở Campuchia Từ khi chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, nhất là từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa đế quốc đã đi vào con đường tổng khủng hoảng, giai cấp tư sản ngày càng trở nên cực kỳ phản động, thì chủ nghĩa “dân tộc cực đoan” đã xuất hiện và “thắng thế” ở nhiều nơi(20). - Ở châu Au, chủ nghĩa dân tộc cực đoan xuất hiện ở nhiều trung tâm, nhưng tiêu biểu nhất là việc đề cao “dân tộc German” của phát xít Hitler. - Ở châu Á, chủ nghĩa “Đại Đông Á” của Nhật Bản cũng bị kích động mạnh với sự ra đời chủ nghĩa phát xít quân phiệt Nhật Bản. - Ở Trung Quốc, chủ nghĩa Đại Hán, cái nôi của chủ nghĩa bá quyền, bành trướng, sô-vanh, vị chủng, lúc này cũng phát triển mạnh mẽ. Như vậy là vào giai đoạn này, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, sô-vanh, vị chủng trở thành luồng “gió độc” lan tràn khắp nơi trên thế giới. Trong khi đó, ở một số nước nông nghiệp lạc hậu lại có những điều kiện “thuận lợi” để tiếp thu luồng “gió độc” đó. Vấn đề này, Lénine đã chỉ rõ: “Một nước lạc hậu, thì với nền sản xuất tiểu nông nghiệp, tính chất gia trưởng và lạc hậu ở đó lại càng mạnh mẽ, tình trạng đó không thể không làm cho những thành kiến tiểu tư sản thâm căn cố đế nhất như: tính ích kỷ dân tộc, hẹp hòi dân tộc có một sức mạnh đặc biệt và tính dai dẳng”(21). Ở Campuchia từ lâu đã tồn tại một thiết chế xã hội, tôn giáo hết sức chặt chẽ từ trung ương xuống đến tận nông thôn. Quyền hành tập trung tất cả vào tay nhà vua, vào giới tăng lữ tôn giáo và giới quý tộc. Giới tăng lữ vừa có vai trò điều hành công việc đất nước, vừa có chức năng truyền bá hệ tư tưởng chính thống,… Chỗ dựa tinh thần của nhà nước trung ương tập quyền Angkor (cũng như các quốc gia phong kiến ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ khác) là thờ “vua thần” – quyền lực nhà vua được xem như quyền lực của thần Shiva tạo nên thế giới. Ngoài ra Campuchia đã từng trải qua một thời kỳ “huy hoàng” của đế chế Angkor, với lãnh thổ rộng lớn, sự thịnh vượng và sức mạnh của nó đã đưa đến một ý niệm chính xác về sự quang vinh và phồn vinh của thời Khmer xa xưa. Khi đế chế Angkor sụp đổ, đất nước lại bước vào thời kỳ phân liệt và lãnh thổ bị thu hẹp. Dân chúng bị bắt làm nô lệ cho người Thái, rồi sau này là sự can thiệp của nhà Nguyễn,… Sức ly tâm ngày càng lớn. Trong hoàn cảnh ấy, nhiều người yêu nước Campuchia muốn đấu tranh cho độc lập, thống nhất dân tộc, nhưng do những điều kiện lịch sử nhất định, đều không thành công. Do vậy, họ chỉ còn biết trở lại với “lịch sử huy hoàng” của thời Angkor làm nguồn động viên tinh thần. Cho nên, Campuchia dễ trở thành miếng đất thuận lợi cho tư tưởng phục hưng dân tộc cực đoan nảy mầm, phát triển. Hơn thế nữa, từ khi thực dân Pháp xâm lược và thống trị Campuchia, chúng đã thực hiện chính sách chia để trị, dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương. Chúng kích động chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, xuyên tạc lịch sử, chia rẽ các dân tộc Đông Dương, đề cao công lao “cứu tinh” của người Pháp đối với Campuchia. Chúng luôn đề cao đế chế Angkor, hướng tới dĩ vãng vàng son của một “đế chế đã mất”. Khẩu hiệu của chúng là: “Hãy xứng đáng với tổ tiên Angkor chúng ta”. Chủ nghĩa dân tộc vị chủng cực đoan càng phát triển mạnh và được bọn đế quốc sử dụng làm công cụ tinh thần lợi hại để chống phá cách mạng Đông Dương, chĩa mũi nhọn vào cách mạng Việt Nam. Từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhất là sau năm 1954, do âm mưu của bọn đế quốc và bọn bành trướng Bắc Kinh, Campuchia – khâu yếu nhất của cách mạng Đông Dương – càng bị khoét sâu (Campuchia không có vùng tập kết như của Lào và không được giải phóng một nửa nước như Việt Nam), Campuchia từng bước trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ. Ở đó chính quyền quan liêu, quân phiệt, phong kiến, tư sản mại bản thống trị. Với một xã hội như vậy, đã lần lượt xuất hiện hàng loạt thứ chủ nghĩa vị chủng: “Chủ nghĩa xã hội Phật giáo Khmer” của Sihanouk đưa ra từ năm 1961, Sihanouk là một trong những đại diện chủ nghĩa dân tộc vị chủng Khmer, từng coi Việt Nam và những quốc gia láng giềng là kẻ thù truyền kiếp. Nhưng trong tình hình cách mạng Đông Dương những năm 1960, do tương quan lực lượng trong và ngoài nước, do đường lối “len lỏi giữa các thế lực để tồn tại” của mình, nên Sihanouk chỉ đưa ra thứ chủ nghĩa vị chủng ôn hòa, ít độc hại hơn. Trong bài “Chủ nghĩa xã hội Phật giáo”, Sihanouk đã viết: “Chúng ta hướng vận mệnh đất nước của chúng ta vào với chủ nghĩa xã hội, vì con đường lâu dài này mà các vị quốc vương của chúng ta đã theo đuổi hơn một nghìn năm nay,… Nhưng chủ nghĩa xã hội của chúng ta không phải là thứ chủ nghĩa xã hội kiểu của Marx…”. Sihanouk đưa ra thứ chủ nghĩa xã hội riêng của mình nhằm đề cao dân tộc Khmer: cái mà nhiều dân tộc trên thế giới hiện nay đang mơ ước – chủ nghĩa xã hội – thì đã “từng tồn tại hàng ngàn năm nay ở Campuchia”. Qua đó, Sihanouk còn muốn khẳng định sự ưu việt của chủng tộc Khmer nhằm đánh giá thấp chủ nghĩa Marx – Lénine và chống lại trào lưu chung của thời đại là cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tình hình cách mạng Đông Dương ngày càng phát triển mạnh khiến đế quốc Mỹ buộc phải tiến hành đảo chính lật đổ Sihanouk, đưa Lon Nol lên lập nước “Cộng hòa Campuchia”, Lon Nol biến Campuchia thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Lon Nol đã đẩy chủ nghĩa “vị chủng Cao Miên” phát triển lên một bước cao hơn nữa. Đi đôi với việc tuyên truyền, kích động tâm lý chống kẻ thù truyền kiếp Việt Nam là tàn sát Việt kiều,… Đó là “Chủ nghĩa Khmer mới”. Trong đó, Lon Nol quả quyết rằng: “Lịch sử nhân loại không có gì khác hơn là lịch sử của cuộc đấu tranh giữa các dân tộc. Trong lịch sử, người ta thường nhắc lại một sự thật lịch sử là kẻ mạnh bắt kẻ yếu phải phục tùng,… Tuy nhiên dân tộc văn minh và hùng mạnh thì không thể bị chinh phục, dân tộc đó tìm kiếm độc lập, dân tộc đó tìm cách giữ vững chủ quyền của riêng mình,…”, và Lon Nol đã kích động: “Và hy vọng quý báu nhất của chúng ta là chính nhờ vào sự hy sinh của dân tộc chúng ta, nhờ vào ý chí không chịu khuất phục trước kẻ thù của chúng ta mà sẽ làm cho thế giới có thể tránh được cuộc chiến tranh thế giới lần thứ ba. Đó là sứ mệnh lịch sử thiêng liêng mà mỗi người Khmer phải đảm nhận với lòng quả cảm và quyết tâm”(22). Kế thừa thứ chủ nghĩa “vị chủng Cao Miên” ấy, Pol Pot – Ieng Sary, bọn khoát áo cộng sản, càng có điều kiện đẩy chủ nghĩa “vị chủng Cao Miên” phát triển đến đỉnh điểm. Việc tô màu sắc cộng sản cho những phong trào đấu tranh ở các nước chậm tiến, khiến cho lòng “tự hào dân tộc” bồng bột ở đó phát triển một cách nguy hại. Ngay từ khi còn ở Paris, chúng đã bộc lộ lập trường biệt lập, chống lại sự đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù chung của phong trào cách mạng Đông Dương. Đặc biệt, từ khi gặp chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán, chủ nghĩa “vị chủng Cao Miên” đã được giới lãnh đạo Bắc Kinh tâng bốc, sử dụng làm một thứ vũ khí độc hại để chống phá phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia ngay từ trong lòng ba nước Đông Dương. Chúng ra sức tô đậm màu sắc cộng sản cho bọn Pol Pot – Ieng Sary với ý đồ nhằm đánh lừa nhân dân Campuchia, đánh lừa các lực lượng cách mạng và phong trào cộng sản quốc tế. Ngay từ năm 1965, Mao Trạch Đông đã ca ngợi Pol Pot là “người có tinh thần Khmer nhất”. Năm 1975, lại chính Mao đã khen ngợi: “Các đồng chí đã giành được một thắng lợi kỳ diệu, chỉ một đòn là quét sạch sành sanh giai cấp. Các công xã nông thôn với bần nông và trung nông lớp dưới sẽ là tương lai của chúng ta(23). Trong chuyến đi thăm Trung Quốc ngày 28-9-1977, Pol Pot được Hoa Quốc Phong khen ngợi: “Các đồng chí không chỉ giỏi phá hủy chế độ cũ mà còn giỏi xây dựng chế độ mới”. Pol Pot khẳng định: “Chúng tôi đã vận dụng một cách sáng tạo và thành công tư tưởng Mao Trạch Đông vào thực tiễn Campuchia,… Đối với Campuchia, sự giúp đỡ quý báu nhất của Trung Quốc là tư tưởng Mao Trạch Đông”. Pol Pot – Ieng Sary còn câu kết với Bắc Kinh trong các hoạt động ở Đông Nam Á: “Chớp lấy thời cơ này nếu cách mạng Đông Nam Á tiến công mạnh, tình hình sẽ tốt hơn và chúng tôi sẽ giải quyết được vấn đề của chúng tôi. Chúng tôi đã trao đổi và thống nhất với các bạn Miến Điện, Malaysia, Indonesia, Thái Lan. Đây là một thắng lợi chính trị rất lớn. Dù đi vào cụ thể còn nhiều phức tạp, phía bắc có bạn Trung Quốc là chỗ dựa, phía Đông Nam Á đã thống nhất, đây là ánh sáng chiến lược động viên chúng tôi. Trước đây chúng tôi đã an tâm thì nay càng an tâm hơn nữa với các bạn Trung Quốc”(24). Được hỗ trợ về tinh thần và từng bước được viện trợ về quân sự, kinh tế của giới lãnh đạo Bắc Kinh, bọn Pol Pot – Ieng Sary đã từng bước bộc lộ bộ mặt chống Việt Nam. Ngay từ năm 1967, sau những hoạt động vũ trang bị Sihanouk đàn áp đẫm máu, Pol Pot – Ieng Sary đã gởi thư đến Bắc Kinh tỏ rõ lập trường “đi theo con đường mà Chủ tịch Mao Trạch Đông đã vạch ra”. Như vậy là chủ nghĩa “vị chủng Cao Miên” ở giai đoạn này đã được maoism hóa và đã được chủ nghĩa bá quyền, bành trướng Đại Hán nhân lên gấp bội. Chính vì vậy, bọn vị chủng cực đoan dân tộc Pol Pot – Ieng Sary đã coi Việt Nam là kẻ thù số một. Chúng dự tính đánh chiếm vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cao hơn nữa, Pol Pot tuyên bố “giải phóng Sài Gòn”!. Chúng ra “Sách đen” tuyên truyền kích động cái gọi là “hận thù dân tộc”, bôi nhọ sự thật lịch sử, bội nhọ truyền thống tốt đẹp của nhân dân hai nước Việt Nam – Campuchia. Điên cuồng hơn nữa, chúng kêu gào: “Toàn thể giống nòi Việt Nam phải được coi là kẻ thù”. Trên đài phát thanh Phnom Penh, Pol Pot tính toán và kêu gọi hy sinh hai triệu người Campuchia để tiêu diệt toàn bộ 60 triệu người Việt Nam. Ngày 02-10-1978, Pol Pot lại thúc giục hò hét: “Đánh người Việt Nam là nghĩa vụ của mỗi người chúng ta,… Dứt khoát không có người Campuchia nào trong thế hệ hiện nay cũng như sau này bỏ vũ khí thôi không đánh người Việt Nam”. Tóm lại, chủ nghĩa vị chủng dân tộc cực đoan đã có những nguồn gốc từ bên trong với những cơ sở xã hội và giai cấp của Campuchia. Bọn đế quốc thực dân và bọn phản động quốc tế đã sử dụng chủ nghĩa vị chủng đó để chia rẽ các dân tộc Đông Dương, chống phá cách mạng Đông Dương, chĩa mũi nhọn chống phá cách mạng Việt Nam(25). Và, chủ nghĩa “vị chủng Cao Miên” đó đã trở thành cực đoan nhất, phản động nhất, tàn bạo nhất kể từ khi nó bắt gặp chủ nghĩa bá quyền bành trướng Đại Hán. Chính vì vậy nó đã trở thành một trong những nguyên nhân dẫn đến thảm họa diệt chủng. 2.1.2 Campuchia, một khâu yếu trong phong trào cách mạng Đông Dương Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập. Từ đây, cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Đông Dương do chính đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo. Nhưng ở Campuchia, do quy luật phát triển không đồng đều của cách mạng, lúc này bộ phận tiên phong của giai cấp vô sản Campuchia chưa được hình thành. Mãi tới năm 1934, Ban Cán sự Cao Miên mới ra đời, thành viên của tổ chức phần lớn lại là các Acha(26), trình độ giác ngộ lý luận cách mạng non yếu. Do còn non yếu, chưa có kinh nghiệm chỉ đạo phong trào đấu tranh của quần chúng nên vào năm 1937, nhất là năm 1938, cơ sở Đảng nhiều nơi bị vỡ. Cũng chính vì vậy, mặc dù thời cơ đã đến vào những ngày tháng Tám năm 1945, nhưng ở Cam puchia quần chúng không sử dụng được thời cơ để vùng dậy giành chính quyền. Năm 1951, Đảng Pracheachon Campuchia ra đời. Từ đây, nhân dân Campuchia dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và sự giúp đỡ tận tình của cách mạng Việt Nam, nhân dân Campuchia đã từng bước giành được thắng lợi ngày càng lớn hơn trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, ngoại giao,…(27) Nhưng bọn bành trướng bá quyền Bắc Kinh đã tìm mọi cách kiềm chế thắng lợi của nhân dân Đông Dương, biến Campuchia thành địa bàn có lợi cho chúng để từng bước chèn ép, tấn công thôn tính ba nước Đông Dương, bành trướng xuống vùng Đông Nam Á, vì vậy chúng đã thỏa hiệp với thực dân, đế quốc tại hội nghị Génève 1954 về Đông Dương. Sách trắng của Bộ Ngoại giao Việt Nam có ghi: “Nhưng giải pháp Génève đã ngăn cản nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đạt được thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Pháp, một khả năng rõ ràng và hiện thực như so sánh lực lượng trên chiến trường bấy giờ đã chỉ rõ. Đó là điều mà những người lãnh đạo Trung Quốc hiểu hơn ai hết. Đây là sự phản bội lần thứ nhất của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam cũng như của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia”(28). Thế là, với sự phản bội lần thứ nhất của những người lãnh đạo Trung Quốc, thành quả cách mạng của nhân dân Campuchia bị thủ tiêu hoàn toàn: không có vùng tập kết, bộ đội bị giải giáp, tạo điều kiện thuận lợi cho chính quyền Sihanouk ngay sau đó tấn công tiêu diệt những cơ sở cách mạng còn lại,… Chính do vậy, Campuchia là một khâu yếu nhất trong phong trào cách mạng Đông Dương, vẫn tiếp tục bị kiềm chế ở tình trạng yếu kém nhất. Giai đoạn sau đó, tính thống nhất trong Đảng không mạnh(29). Điều đó biểu hiện rất rõ trong nguồn gốc hình thành, cơ cấu thành phần và các nhóm phái khác nhau của tổ chức Đảng. Trong khi phong trào cách mạng không có sự chỉ đạo thống nhất, ở Campuchia lúc đó lại không có lãnh tụ có vai trò và khả năng tập hợp, thống nhất các lực lượng. Việc này có nhiều nguyên nhân, trước hết phải kể đến sự phá hoại của giới cầm quyền Bắc Kinh. Người có khả năng đảm nhận sứ mệnh lịch sử đó là đồng chí Sơn Ngọc Minh (vì nhiều chiến sĩ xuất sắc khác đã bị ám hại), nhưng đồng chí cũng bị chúng giết hại bằng cách đầu độc tại Bắc Kinh vào năm 1972. Trong tình hình không có người có khả năng thống nhất các tổ chức, thì nhóm của Pol Pot – Ieng Sary và nhóm của Hu Nim, Hou Youn từng bước kết hợp nhau, tiếm quyền lãnh đạo trong Đảng, đẩy Đảng vào con đường sô-vanh, vị chủng, chống lại tình đoàn kết chiến đấu Việt Nam – Campuchia, làm Đảng Cộng sản Campuchia hoàn toàn biến chất, trở thành công cụ của giới lãnh đạo Bắc Kinh. Phong trào cách mạng Campuchia tuy yếu kém, bọn Pol Pot – Ieng Sary ra sức phá nát cách mạng và tổ chức, nhưng Campuchia lại luôn chịu tác động có hiệu quả to lớn của cách mạng Đông Dương, luôn luôn được sự giúp đỡ hết sức to lớn của Việt Nam, cho nên Campuchia mới thực hiện được những bước nhảy vọt to lớn trong những năm 1970 và giành thắng lợi, đánh thắng đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai vào ngày 17-4-1975. Chính Sihanouk cũng đã phải thừa nhận trong quyển Biên niên sử chiến tranh và hy vọng: “Ta phải nói thẳng ra rằng trong cái “chiến thắng của Khmer đỏ” vào những năm 1971,1972 váng xuống đầu các lực lượng Mỹ, Sài Gòn và Lon Nol, ở biên giới Việt Nam – Khmer cũng như trong nội địa nước ta: các trận Kirirom, Pichnin (trên đường số 4), Kompong Saom, Kampot (trên đường số 5), Kompong Chnang, Kompong Cham, Kompong Thom (Chenla I, Chenla II), các đơn vị pháo và xe tăng Việt Nam, chưa kể nhiều đơn vị bộ binh khác của họ, đã đóng góp một phần rất quan trọng nếu không nói là quyết định”. ”…Cho tới tận cuối cuộc chiến hồi tháng 4 năm 1975, các lực lượng vũ trang Khmer đỏ cũng vẫn chưa có khả năng thành lập bất kỳ đơn vị thiết giáp hoặc pháo binh nào cho ra hồn cả”(30). Hơn thế nữa, trong suốt quá trình “đấu tranh cách mạng”, Pol Pot đã không lấy đấu tranh chống đế quốc Mỹ, bọn Lon Nol và đoàn kết với các lực lượng cách mạng Đông Dương làm lý do để tồn tại, để phát triển thế và lực của mình, mà trái lại, trong suốt thời kỳ đó, Pol Pot chỉ lợi dụng xương máu của các chiến sĩ cách mạng Việt Nam, lợi dụng thành quả cách mạng Đông Dương, để giành thắng lợi cho riêng mình và chỉ nhằm chống lại Việt Nam, nghĩa là chống lại nguồn gốc tạo nên sức mạnh cho mình. Cũng trong tác phẩm trên, Khieu Samphan đã nói với Sihanouk: “Ngay giữa khi đang tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ (1970 – 1975), Đảng Cộng sản và quân đội cách mạng Campuchia đã không ngừng coi Bắc Việt Nam và quân đội của nước này là kẻ thù số một, còn đế quốc Mỹ chỉ là kẻ thù thứ yếu của Campuchia”. Cho nên, Campuchia vốn là khâu yếu trong phong trào cách mạng Đông Dương. Mặc dù có cách mạng Việt Nam giúp đỡ toàn diện và triệt để nhằm tạo điều kiện để cách mạng Campuchia ngày một trưởng thành, tự đảm nhận lấy sứ mệnh lịch sử của mình. Nhưng bọn tay sai Bắc Kinh, Pol Pot – Ieng Sary đã thực thi âm mưu, thủ đoạn khiến cho cách mạng Campuchia luôn bị non yếu, không phát triển lên được, tạo điều kiện để chúng phá nát đất nước Campuchia, biến Campuchia thành địa bàn chiến lược cho giới cầm quyền Bắc Kinh thực hiện giấc mộng bá quyền, bành trướng. Mặc khác, vì cũng tự thấy thế và lực của lực lượng mình còn yếu trong khi sức mạnh của cách mạng Đông Dương ngày càng phát triển như vũ bão, nên bọn Pol Pot – Ieng Sary càng điên cuồng thực hiện chủ nghĩa “vị chủng Cao Miên” đã được maoism hóa ở quy mô và mức độ cực đoan nhất, phản động nhất, tàn bạo nhất(31). Còn một kỳ tiếp (1) Khieu Thirith là chị ruột của Khieu Ponnari. Cả hai đều được đào tạo tại Paris. Riêng Khieu Thirith có bằng về văn học Anh. Lúc học tiểu học và trung học tại Campuchia, Khieu Thirith học chung trường với Sihanouk và Thirith luôn đứng đầu lớp . (2) Khi Keng Vansak về nước, ông giữ chức Chủ nhiệm Khoa Văn chương Trường Đại học Phnom Penh thời Sihanouk. Ông trở lại Pháp giảng dạy, sau được phong hàm giáo sư. Chính ông cũng hết sức kinh hoàng đối với chính sách diệt chủng của tập đoàn phản động Pol Pot – Ieng Sary trong những năm chúng cầm quyền – Xem thêm các tác phẩm của ông: tiểu luận Niềm say mê tìm kiếm sự trả thù và tác phẩm Khái quát về cuộc cách mạng của Khmer đỏ – Montmorency – France, 1977. (3) Uyn-phrết Bớc-sét – Tam giác Trung Quốc-Campuchia-Việt Nam – NXB Thông tin Lý luận, Hà Nội, 1986, sách đã dẫn, tr. 64. (4) Một đảng tư sản gồm các đảng viên thuộc tầng lớp trí thức và công chức cao cấp, ra đời năm 1946 – TGĐT. (5) Sau khi xác minh, Đảng Cộng sản Pháp thông báo thêm rằng toàn bộ “nhóm Paris” đều hết sức “Stalenist” (Xta-lin-nít), đặc biệt là tư tưởng thép của Stalin về việc nắm lấy quyền lực hầu như tuyệt đối bằng cách kiểm soát các bộ máy Đảng và quân sự ở các cấp cao nhất, đồng thời nhóm này còn chịu ảnh hưởng của các lý thuyết cực tả khác. (6) Nhận xét của đồng chí Phạm Văn Ba, người được Đảng Cộng sản Việt Nam cử sang giúp cho Campuchia thành lập đảng của họ từ năm 1951, về sau là đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại nước Campuchia của Khmer đỏ cho đến khi Khmer đỏ cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1977 – Trích từ Uyn-phrết Bớc-sét – Tam giác Trung Quốc-Campuchia-Việt Nam, sđd, tr. 68. (7) Sau này, khi bị Pol Pot bắt giam vào nhà tù nổi tiếng Tuol Sleng (trung tâm tra tấn và thủ tiêu), Hou Youn đã cắt mạch máu tự sát vào tháng 8-1975. (8) Sau này, cũng bị Pol Pot bắt giam và bị tra tấn chết ở nhà tù Tuol Sleng vào tháng 3-1977. (9) Theo Sihanouk thì Tusamust bị phe cánh Pol Pot – Ieng Sary sát hại, nhằm bảo đảm cho Pol Pot leo lên cương vị lãnh đạo. (10) “Chủ nghĩa Khmer mới” của Lon Nol được Pol Pot kể thừa với mức độ cao hơn. Nhận xét của hai Nhà nghiên cứu, chuyên gia về vấn đề Campuchia: Ben Kirnan, người Australia và vợ là Chanthu Bua, người Khmer. Trích từ Uyn-phrết Bớc-sét – Tam giác Trung Quốc-Campuchia-Việt Nam, sđd, tr. 74. (11) Dãy Elephant và dãy Cardamomes – TGĐT. (12) Vận may của hai nhóm đầu theo sát những thăng trầm của Đặng Tiểu Bình trong cuộc vật lộn với “bè lũ bốn tên”. Việc Đặng sa cơ, tất yếu sẽ dẫn đến việc hành quyết Hu Nim, Hou Youn và các cộng sự về sau này. (13) Sau khi nắm chính quyền vào năm 1975, những cuộc thanh trừng trong nội bộ Ban lãnh đạo Khmer đỏ tiếp tục tăng lên. Chính phủ đầu tiên được thành lập sau cuộc “tuyển cử” 30-3-1976, gồm: - Khieu Samphan thay Norodom Sihanouk làm Quốc trưởng. - Pol Pot trở thành Thủ tướng, ngoài ra còn giữ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Khmer và Chủ tịch Quân ủy. - Ieng Sary trở thành Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. - Khieu Thirith (vợ Ieng Sary) nắm chức Bộ trưởng Bộ Xã hội, về sau thay Hu Nim (bị tra tấn chết ở Tung Sleng). - Khieu Ponnari (vợ Pol Pot, em gái Khieu Thirith) nắm chức Chủ tịch Hội Phụ nữ Campuchia. - Son Sen trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. - Yun Yat (vợ Son Sen) nắm chức Bộ trưởng Giáo dục và Văn hóa. (14) Xem Công ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng – Phần Phụ lục 6, trang 110. (15) Về lịch sử – văn hóa ba nước Đông Dương – Viện Đông Nam Á – Hà Nội, 1983, tr. 72. (16) Đối với Lào, từ năm 1977 trở đi, Khmer đỏ tấn công chiếm các đảo trên sông Mékong, thường xuyên bắn vào các ngư dân và bộ đội Lào trên lãnh thổ Lào. Đối với Thái Lan, sau những cuộc quấy rối liên tiếp trên biên giới, đánh chìm tàu đánh cá Thái Lan… từ năm 1975. Ngày 28-01-1977 quân Pol Pot tràn qua biên giới tàn sát dã man thường dân, giết chết 30 người ở ba làng Ban Noong Do, Ban Kloong Ko và Ban Noiparai thuộc tỉnh Prachinburi (cũng bằng những cách giết người đặc trưng của bọn chúng), Chính phủ Thái Lan đã cho công bố Sách trắng về sự kiện trên và tố cáo tại Liên Hiệp Quốc. Trong công hàm trả lời vào ngày 11-02-1977, bọn Khmer đỏ không phủ nhận những tội ác này mà còn ngang ngược tuyên bố ba làng đó nằm trên lãnh thổ Campuchia, rằng Thái Lan đã can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia và Campuchia có “toàn quyền sắp đặt lại công việc nội bộ của mình”. Sau đó, Thái Lan tố cáo từ tháng 1 đến tháng 8-1977 có khoảng 400 cuộc xâm nhập từ phía Campuchia. (17) Đã trình bày ở mục 1, chương IV – TGĐT. (18) Xem thêm Lê Hương – Việt kiều ở Kampuchéa – Trí Đăng – Sài Gòn, 1971. (19) Về lịch sử – văn hóa ba nước Đông Dương – sđd, tr. 76. (20) Xem thêm Thông tấn xã Việt Nam (Oa-sinh-tơn 27-1) – Thế kỷ 20: Những điểm đặc trưng – Tài liệu tham khảo đặc biệt (ra hàng ngày), số 032, năm 1999. (21) Về lịch sử – văn hóa ba nước Đông Dương – sđd, tr. 78. (22) Về lịch sử – văn hóa ba nước Đông Dương – sđd, tr. 83. (23) Biên bản cuộc họp Mao Trạch Đông và Pol Pot tại Bắc Kinh, tháng 6-1975 – Về lịch sử – văn hóa ba nước Đông Dương – sđd tr. 86. (24) Tội ác diệt chủng của bọn Pôn Pốt – Iêng Xa-ry – NXB Sự thật – Hà Nội,1980, từ tr. 42-44. (25) Về lịch sử – văn hóa ba nước Đông Dương – sđd, tr. 88. (26) Các nhà sư Khmer theo Phật giáo Tiểu thừa – TGĐT. (27) Đảng Pracheachon thành lập năm 1951, tách ra từ Đảng Cộng sản Đông Dương, ban đầu chỉ có 300 đảng viên. (28) Sách trắng Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam – Sự Thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua – NXB Sự Thật, Hà Nội, 1979, tr.33. (29) Đã trình bày ở mục 1, chương 4 – TGĐT. (30) Xem thêm Norodom Sihanouk – Người tù của Khmer đỏ – NXB Thông tin lý luận – Hà Nội, 1988. (31) Về lịch sử – văn hóa ba nước Đông Dương – sđd, tr. 94. Nhận Diện Bọn Sát Nhân Và Những Kẻ Giấu Mặt 2 Nguyễn Đoàn Bảo Tuyền 2.1.3. Tâm lý bi quan, thất vọng, bất mãn đến cùng cực, mất phương hướng đấu tranh của quần chúng nhân dân Campuchia Nhân dân Campuchia do từ bao đời sống trong một thiết chế xã hội mà ở đó vương quyền và tôn giáo thống trị một cách chặt chẽ. Hậu quả tai hại là đã mang lại cho người dân một bản tính thụ động, phục tùng khi mà họ chưa được giác ngộ cách mạng và họ luôn bị các giai cấp thống trị bóc lột, đàn áp. Bọn Pol Pot – Ieng Sary đã lợi dụng tâm trạng đó của người dân, lừa gạt họ, lôi kéo, cưỡng bức họ đi theo mình, để rồi bắt họ chết, giết hại lẫn nhau và sử dụng họ tấn công lại người bạn chiến đấu Việt Nam, thậm chí hô hào họ tiến hành diệt chủng đối với người Việt Nam. Mặc khác, như nhiều nhà nghiên cứu đã từng viết: lịch sử Campuchia đã trải qua quá nhiều thăng trầm và biến động, nhân dân Campuchia đã đổ biết bao mồ hôi, xương máu để xây dựng và bảo vệ đất nước, để giành quyền sống cho mình nhưng chưa một lần giành được thắng lợi. Vì vậy, đã tạo nên tâm lý bi quan, thất vọng triền miên trước vận mệnh của đất nước. Bọn Pol Pot đã biết khai thác tâm lý này, kích động sự hận thù của những con người bị thất bại liên tục trong lịch sử. Pol Pot xuyên tạc sự thật lịch sử, giải thích cho những người bi quan thất vọng ấy cái nguyên nhân của sự thất bại liên tục trong lịch sử là do “kẻ thù truyền kiếp Việt Nam” gây nên. Cuốn “Sách đen” của bọn Pol Pot ra đời năm 1977 chính là muốn lôi kéo những con người bi quan, thất vọng đó vào cuộc chém giết tàn khốc đối với nhân dân Việt Nam. Về mặt kinh tế – xã hội, nông dân Campuchia từ bao đời bị áp bức bóc lột, nhất là từ khi bọn thực dân Pháp xâm lược, thống trị. Nhưng để lừa bịp những con người thụ động và phục tùng nhằm duy trì ách thống trị của mình, chống lại cuộc đấu tranh giai cấp đang diễn ra gay gắt trên thế giới, Sihanouk đã từng dỗ ngọt: “…chúng ta không có vấn đề ruộng đất để phải tiến hành một cuộc cải cách,…. quần chúng nông dân đều là tiểu chủ”. Sự thật thì hoàn toàn không phải như vậy. Chính ba bản luận án tiến sĩ của Hou Youn, Hu Nim và của Khieu Samphan ở Paris, đã vạch rõ thực trạng kinh tế, trì trệ, lạc hậu của Campuchia và chỉ rõ người nông dân bị áp bức, bóc lột như thế nào, đời sống của họ cơ cực ra sao. “Thời kỳ vàng son” mà Sihanouk thường ca ngợi, thật ra là thời kỳ thống trị của bọn phong kiến, quan liêu quân phiệt, mại bản thối nát, tham nhũng. Đây cũng là thời kỳ thực dân mới từng bước thống trị xã hội Campuchia. Chiến tranh liên miên đã tạo ra quá trình đô thị hóa cưỡng bức và tàn phá ghê gớm(32). Sự phân hóa giai cấp trong xã hội ngày một sâu sắc. Với 89% dân số sống ở nông thôn, giai cấp nông dân bị phân hóa hơn bao giờ hết, tình trạng nghèo khổ do mất ruộng đất ngày càng gia tăng. Từ thực trạng đời sống khốn cùng đó. Họ chỉ còn biết căm thù tất cả những gì đã gây ra đau khổ, đói khát, chết chóc. Họ căm thù sự phồn vinh của đô thị, căm thù chiến tranh, khinh thị thế giới, coi khinh cái chết,… Đây chính là điều kiện thuận lợi để Pol Pot sử dụng những con người đầy lòng căm thù này lao vào một cuộc chém giết mà họ lại đang coi thường cái chết. Từ thực trạng như vậy, chỉ còn một con đường duy nhất mà họ mong chờ là sự đổi đời, mong chờ cách mạng. Pol Pot đã lừa bịp họ, đưa họ vào cuộc chiến tranh phá nát đất nước Campuchia và tấn công tiêu diệt Việt Nam. Trong tình thế đó, người nông dân không có phương hướng đấu tranh. Họ bị đẩy vào cuộc chém giết tàn ác, dã man mà không hề biết mục đích. Tầng lớp trí thức, sinh viên, học sinh cũng vậy, họ bị kích động, bị lôi kéo, sẵn sàng tiếp nhận tính “bạo loạn” của Pol Pot. Hàng loạt đã bỏ chế độ Sihanouk, Lon Nol, vào rừng đi theo Pol Pot làm “cách mạng”,… Hơn thế nữa, với thủ đoạn tuyên truyền, kích động, cưỡng bức của bọn Pol Pot – Ieng Sary càng làm cho những con người vốn thụ động, phục tùng hoàn toàn, mất phương hướng đấu tranh, họ đã cầm vũ khí tiêu diệt người bạn chiến đấu của mình là nhân dân Việt Nam. Một khía cạnh khác cũng cần lưu ý. Khi chế độ quân chủ sụp đổ năm 1970, xã hội Campuchia tan rã từ trên xuống. Nhưng với tầng lớp nông dân vẫn còn lệ cổ sâu sắc, và chế độ quân chủ bị lật đổ vì những mưu đồ của giới thượng lưu, tư sản chứ không phải vì một cuộc nổi dậy của quần chúng. Rồi bọn Pol Pot – Ieng Sary lên cầm quyền năm 1975, với một nhóm những trí thức cấp tiến của giai cấp trung gian, đứng đầu một đội quân nông dân. Bọn chúng lên cầm quyền từ một địa vị bị cô lập hầu như hoàn toàn trong hơn năm năm với bối cảnh của một sự sụp đổ to lớn về cơ cấu xã hội và chính trị cổ xưa bởi cơn lốc chiến tranh, chứ không phải do một phong trào vững chắc của sự phản đối xã hội và sự thay đổi chính trị. Bọn chúng đã giành được sự kiểm soát nhân dân trước khi giành được tính hợp pháp đại chúng và thậm chí bọn chúng không có được sự thống nhất cả từ bên trong nội bộ. Khác với Việt Nam, bọn cầm đầu Khmer đỏ không thể tập hợp cho chúng những cán bộ cách mạng giỏi, có trình độ học vấn từ giới trí thức, từ những tầng lớp trung gian, cũng như từ tầng lớp nông dân. Bởi vì, giới trí thức và tầng lớp trung gian ở Campuchia còn nhỏ và phần lớn đi theo chế độ Lon Nol. Tuy nhiên, điều “đáng tiếc” là số ít giới trí thức và tầng lớp trung gian đi theo chúng cũng bị thanh trừng, tiêu diệt gần như hoàn toàn vì không thống nhất về tư tưởng cũng như về sách lược. Đội ngũ bên dưới của chúng là những binh lính nông dân được giáo dục rất ít. Đại đa số là những thanh thiếu niên thiếu phương hướng ở các thôn xóm bị đẩy từ một xã hội cổ truyền nông thôn vào một cuộc chiến tranh hiện đại tàn ác chỉ mới vài tháng, hoặc thậm chí mới vài tuần trước đó. Trong các cuộc cách mạng khác cũng vậy, những “cán bộ” với một quá trình như vậy thường phạm phải những hành động thô bạo tàn ác, trừ phi được những nhà lãnh đạo tinh thông hơn hướng dẫn và kiềm chế. Ở Campuchia, những “nhà lãnh đạo” như vậy còn rất hiếm! Hơn nữa, bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan lại chủ tâm muốn lợi dụng khả năng tàn ác tiềm tàng đó để phục vụ cho mục đích của chúng. Kết quả là trong cuộc “cách mạng Campuchia” những người nông dân hiếu chiến đã trở thành một công cụ đắc lực cho chính sách diệt chủng của bọn Pol Pot – Ieng Sary. Dưới cái vỏ bọc của những lời lẽ có vẻ “cách mạng”, bè lũ Pol Pot – Ieng Sary đã áp đặt lên nhân dân Campuchia một hệ thống biến họ thành nô lệ và chúng thi hành quyền lực đối với họ trên cơ sở sự khủng bố, sự tàn bạo, và sự diệt chủng. Nét độc đáo của xã hội Khmer đỏ là Pol Pot đã nô dịch chính dân tộc của chính hắn, chúng biến nhân dân chúng thành những nô lệ, thực hiện cho chúng chính sách tự diệt chủng đối với nhân dân mình và diệt chủng đối với những dân tộc láng giềng với mức độ tàn ác dã man, mà nếu có thể đem so sánh thì bọn phát xít Hitler còn phải chào thua. 2.2. Nguồn gốc bên ngoài Mục tiêu cơ bản và lâu dài của tập đoàn phản động Bắc Kinh là thiết lập quyền bá chủ thế giới. Tham vọng này xuất phát từ tư tưởng bành trướng Đại Hán tộc của các hoàng đế Trung Hoa xưa, coi Trung Quốc là trung tâm thiên hạ, bắt các nước khác phải biến thành chư hầu phụ thuộc vào Trung Quốc. Đối với các dân tộc chung quanh, người Hán luôn khinh thường, coi họ thấp kém, nên gọi là “Tứ di”. Di 夷là bọn “rợ mọi” ở phương Đông; Nhung 戎 là bọn “hiếu chiến” ở phương Tây; Man 蠻Z (trong chữ tượng hình có bộ trùng 虫 tức sâu bọ) là bọn “dã man” ở phương Nam; Địch 狄 (trong chữ tương hình có bộ khuyển犭tức chó) là giống “rợ ở phương Bắc. Ngay từ năm 1939, trong tài liệu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, có tên Cách mạng Trung Quốc và Đảng Cộng sản Trung Quốc, thì Mao Trạch Đông, kẻ kế tục truyền thống bành trướng của phong kiến Trung Quốc đã ngang nhiên nói rằng: “Các nước đế quốc, sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Bhutan, Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam,…(33) Nhiệm vụ trư?c tiên của Trung Quốc là hoàn lại tất cả các đất đai của chúng ta chứ không phải chỉ là bảo vệ các quyền của chúng ta từ dãy Vạn lý trường thành”. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ra đởi, tạo điều kiện cho Trung Quốc giải phóng đất nước vào năm 1949. Trong bối cảnh đó, Mao Trạch Đông lại đởa ra lý thuyết “vùng trung gian” hòng nắm trọn vùng này. Theo Mao, giữa Liên Xô và Mỹ tất yếu phải xảy ra chiến tranh. Hai bên sẽ tìm cách chinh phục “vùng trung gian” bao gồm phong trào giải phóng dân tộc ở ba lục đởa Á – Phi – Mỹ la tinh và các nước tư bản phương Tây. Ý đồ của Mao là trong khi đẩy Liên Xô và Mỹ đối đầu nhau, Trung Quốc tìm cách nắm trọn vùng này. Mao cho rằng đã đến lúc có thể thực hiện được mộng tưởng thống trị toàn thiên hạ, lấy chủ nghĩa Mao thay cho chủ nghĩa Marx – Lénine, làm cho Đảng Cộng sản Trung Quốc trở thành Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân thế giới, làm cho Trung Quốc trở thành trung tâm của thế giới, nắm quyền bá chủ toàn cầu. Chính Mao đã tuyên bố tại hội nghị quân sự mở rộng năm 1959: “Chúng ta phải chinh phục toàn thế giới. Mục tiêu của chúng ta là toàn trái đất, nhất địnhchúng ta phải thấm nhuần và thực hiện đến nơi đến chốn quyết tâm đó”. Trong mưu đồ giành giật “vùng trung gian”, thì châu Á là nơi Bắc Kinh cho rằng có nhiều “ảnh hưởng” và “uy tín” hơn cả, dễ thực hiện âm mưu bá quyền bành trướng của chúng hơn cả. Một số nước châu Á có biên giới chung với Trung Quốc và đều nằm trong tay của Bắc Kinh. Nhưng phía Bắc và Tây Bắc của Trung Quốc là Liên Xô, một nhà nước xã hội chủ nghĩa hùng cường, không cho phép Bắc Kinh thực hiện chủ nghĩa bành trưởng của chúng một cách trực tiếp. Ở phía Đông Bắc có Nhật, một cường quốc kinh tế thế giới, một căn cứ quân sự của Mỹ ở Thái Bình Dương, không thể là đối tượng bành trướng trực tiếp được. Ở phía Tây Nam có Ấn Độ, với số dân 700 triệu, có nền kinh tế độc lập, đang thực hiện chính sách hòa bình trung lập tích cực và không liên kết, một đối tượng cứng rắn đối với chính sách bá quyền và bành trướngcủa Trung Quốc. Do vậy, Bắc Kinh đã chọn Đông Nam Á là nơi có những nước loại vừa và loại nhỏ làm hưởng bành trướngchủ yếu của mình. Thôn tính Đông Nam Á, không phải vì đây là hưởng tối ưu nhất, cũng không chỉ vì vùng này giàu có về tài nguyên khoáng sản, mà điều quan trọng hơn là vì vùng này chiếm một vị trí chiến lượchết sức quan trọng. Đông Nam Á nằm trên đườnghàng hải quốc tế từ Đông Bắc Á, Thái Bình Dương sang Trung Đông, châu Âu và châu Phi. Giành đượcĐông Nam Á sẽ giành đượchơn 400 triệu dân. Lúc đó Trung Quốc sẽ có 1,4 tỷ người, và như vậy sẽ cô lập đượcẤn Độ, buộc Ấn Độ phải ngả vào vòng tay của đế quốc thiên triều; Trung Quốc sẽ có số dân chịu sự khống chế của mình tới trên 2 tỷ người. Và lúc đó chắc chắn bàn cờ thế giới không cần phải tính toán nhiều, mộng bá chủ thế giới sẽ đượcthực hiện! Chính vì vậy, tháng 8-1965, Mao đã khẳng định trong một cuộc họp Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc: “Chúng ta sẽ giành cho đượcĐông Nam Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore,… Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản,… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy,… Sau khi giành được Đông Nam Á, chúng ta có thể tăng cườngđượcsức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đởơng đầu với khối Liên Xô – Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây”(34). Ngay trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963, Mao cũng nói: “Tôi sẽ làm chủ tịch 500 triệu bần nông đởa quân xuống Đông Nam Á”(35). Bành trướngxuống Đông Nam Á, Bắc Kinh còn có nhiều thuận lợi. Nơi đây không chỉ là khu vực bành trướngcổ truyền của Trung quốc, mà khu vực này có nhiều tổ chức Đảng Maoism(36), và chính nơi đây Bắc Kinh còn có lực lượng Hoa kiều, “Đội quân thứ năm sẵn sàng làm theo mệnh lệnh Trung Quốc”. Bành trướng xuống Đông Nam Á, Bắc Kinh còn có một “thuận lợi” rất lớn là dễ dàng liên kết đượcvới đế quốc Mỹ (từ 1972 Mỹ và Trung Quốc câu kết với nhau, sau khi Mỹ buộc phải rút khỏi vùng này, Mỹ sử dụng con bài Trung Quốc nhằm ngăn chận ảnh hưởng của Liên Xô trong khu vực). Nhưng muốn bành trướngxuống Đông Nam Á, tập đoàn Bắc Kinh phải chiếm cho đượccái cầu Đông Dương. Đông Dương vừa là láng giềng trực tiếp, vừa là chiếc cầu nối liền từ Trung Quốc với các nước Đông Nam Á. Cho nên muốn thôn tính Đông Dương, phải phá vỡ đượckhối đoàn kết chiến đấu của ba nước Đông Dương. Và muốn phá vỡ tình đoàn kết chiến đấu keo sơn đó, thì phải tập trung mũi nhọn vào chống Việt Nam, đánh gãy ngọn cờ cách mạng và trục đoàn kết ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Về Việt Nam, thì từ lâu Bắc Kinh đã thực hiện mọi thủ đoạn thâm độc nhất, hòng làm Việt Nam không thắng, không bại, bị chia cắt lâu dài, làm nước đệm giữa Trung Quốc và chủ nghĩa đế quốc, không bao giờ mạnh lên được, và luôn luôn lệ thuộc vào chúng. Nhưng tất cả những mưu mô, thủ đoạn của Trung Quốc trong 30 năm qua đối với Việt Nam đều bị thất bại hoàn toàn(37). Chính vì bị thất bại trong chính sách khuất phục Việt Nam, giới cầm quyền Bắc Kinh cố tìm mọi cách bám lấy Lào và Campuchia, dùng hai nước này khống chế, phá vỡ khối đoàn kết Đông Dương, tiến lên thôn tính toàn bộ bán đảo Đông Dương, bành trướng xuống Đông Nam Á. Nhưng ở Lào, nhân dân Lào có một truyền thống đấu tranh kiên cườngbất khuất, và nhất là lại có một Đảng Nhân dân cách mạng Lào thực sự là một Đảng Marxism chân chính, kiên cườngcách mạng, kề vai sát cánh với nhân dân Việt Nam cùng chiến đấu, cùng chiến thắng, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Còn ở Campuchia, do những hoàn cảnh lịch sử, nhất là do âm mưu của bọn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh, thủ tiêu hoàn toàn thành quả cách mạng của nhân dân Campuchia qua hiệp địnhGénève, khiến cho Campuchia biến thành khâu yếu nhất trong phong trào giải phóng dân tộc trên toàn bán đảo Đông Dương(38). Tình hình Campuchia từ sau năm 1954 trở nên vô cùng phức tạp. Chính trong bối cảnh Campuchia như vậy, Bắc Kinh đã từng bướcnhảy vào, quyết duy trì tình trạng Campuchia là khâu yếu nhất, nhằm gạt dần ảnh hưởng tích cực của cách mạng Đông Dương ra khỏi Campuchia, tạo một chỗ đởng thuận lợi cho việc triển khai kế hoạch bành trướnglâu dài của chúng. Để nhanh chóng xâm nhập vào Campuchia, trong tình hình Campuchia có nhiều thế lực đối lập nhau. Ngay từ đầu, chính sách của nhóm phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh là cùng một lúc nắm nhiều lực lượng, biến các lực lượng này thành những con bài trong tay chúng, và tùy theo tình hình diễn biến của cách mạng Đông Dương mà sử dụng con bài một cách thích hợp. Trước hết chúng tán thành chủ trướng hòa bình trung lập của Sihanouk, muốn dùng chính quyền Sihanouk để khống chế và nắm các lực lượng khác ở Campuchia, không để Mỹ nhảy vào Campuchia, biến Campuchia lệ thuộc hoàn toàn vào mình. Từ những năm 1956-1957, Sihanouk đã đồng ý nhận viện trợ kinh tế, quân sự, kỹ thuật của Trung Quốc. Ý đồ của Trung Quốc là muốn tạo nên tình hình hết sức căng thẳng ở Đông Dương, từng bước can thiệp sâu vào vùng này, biến Đông Dương thành món hàng “Vể mặc cả với Mỹ?. Ngày 17-8-1967, Chu Ân Lai tuyên bố với Ngoại trướng N.Phurissara(39) của chính phủ Sihanouk: “Chúng tôi sẵn sàng trong bất cứ lúc nào để tiến hành cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Cần phải tăng cường công việc chuẩn bị cho cuộc chiến tranh của chúng tôi”(40). Đồng thời với viện trợ kinh tế, quân sự, Bắc Kinh đã sử dụng cộng đồng người Hoa ở Campuchia làm sức ép với chính quyền Sihanouk. Chúng biến sứ quán Trung Quốc tại Phnom Penh thành trung tâm chỉ đạo mọi hoạt động của Hoa kiều trên toàn cõi Đông Dương(41). Trung Quốc chơi con bài Sihanouk không chỉ để nắm Campuchia, mà còn dùng Sihanouk làm loa tuyên truyền để nói xấu Liên Xô, đề cao công lao to lớn của Trung Quốc đối với Việt Nam. Đồng thời với việc sử dụng con bài Sihanouk, Bắc Kinh đã chơi con bài Lon Nol. Lon Nol và phe cánh là lực lượng cực hữu thân Mỹ. Bắc Kinh đã tìm thấy ở tên tư sản mại bản gốc Hoa này sức mạnh của Mỹ và đường lối chống Việt Nam, bành trướng lãnh thổ. Điều đó rất phù hợp với Trung Quốc, nên Bắc Kinh đã tìm mọi cách nắm lấy Lon Nol, sử dụng Lon Nol tạo nên sự khống chế gián tiếp của Trung Quốc đối với Sihanouk. Cùng lúc với việc sử dụng hai con bài chính Sihanouk và Lon Nol để chống cách mạng Đông Dương, Trung Quốc đã chơi con bài thứ ba, bọn lưu manh chính trị Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan. Đây là nước cờ hết sức thâm hiểm mà Bắc Kinh cố công thực hiện, hòng xoay chuyển lại tình thế cách mạng đang tiến triển tốt đẹp ở Đông Dương. Dưới con mắt của Bắc Kinh, các con bài của chúng ở Campuchia đều chống Việt Nam, nhưng kết quả chống Việt Nam của bọn Pol Pot – Ieng Sary sẽ vô cùng hiệu nghiệm, bởi vì khác những tên tay sai khác, Pol Pot – Ieng Sary có cái vỏ bọc “cộng sản”, có điều kiện thuận lợi để thi hành chính sách hai mặt: dựa vào Việt Nam, tranh thủ sự giúp đở của Việt Nam và ngấm ngầm chống Việt Nam – sự phá hoại nguy hiểm nhất chính là của “người bạn cùng chiến hào”. Vì vậy Bắc Kinh đã nắm chặt bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan. Từ khi trở về nước, cho đến khi thành công trong việc tiếm quyền lãnh đạo trong Đảng Cộng sản Campuchia năm 1963, bọn chúng vẫn che giấu đượcý đồ đen tối: chống phá cách mạng Campuchia, chống Việt Nam. Ý đồ biệt lập, gạt ảnh hưởng cuộc cách mạng Việt Nam, từng bước thủ tiêu những người cộng sản chân chính, tiến lên thao túng toàn Đảng đã lộ rõ nét nhất từ khi chúng bắt gặp đượcchủ nghĩa Mao – chủ nghĩa bá quyền bành trướng Trung Quốc vào năm 1965. Bắc Kinh đã tìm được ở bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan những nét tưởng đồng với mình, như thủ đoạn giả hiệu cách mạng để chống lại cách mạng, tính cực đoan, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đậm màu sắc vị chủng. Đây là quan hệ sâu xa nhất tạo nên mối quan hệ thầy – tớ giữa Bắc Kinh và bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan. Đượctiếp xúc với không khí cuộc “cách mạng văn hóa” của Trung Quốc khiến cho Pol Pot nhanh chóng tiếp thu những mặt phản động nhất của chủ nghĩa Mao đã và đang áp dụng ở Trung Quốc. “Nhưng tính chất sát nhân của Hồng vệ ninh Mao chỉ là trò chơi trẻ con nếu đem ra so sánh với những đội xử tử do Pol Pot đưa ra”. Từ 1967 chúng bắt đầu phê phán, chỉ trích Việt Nam. Chính trong cuốn “Sách đen” xuất bản năm 1977, Pol Pot đã công khai nói rằng ngay từ năm 1965, giữa Campuchia và Việt Nam có mâu thuẫn cơ bản về đườnglối! Ngày 18-3-1970, Lon Nol tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Sihanouk. Trong sự nghiệp chung chống đế quốc Mỹ và tay sai, cùng với các lực lượng yêu nước và cách mạng Campuchia, bộ đội Việt Nam đã giúp cách mạng Campuchia giải phóng nhiều tỉnh, thành. Vùng giải phóng đã lan dần tới 3/4 diện tích toàn quốc. Tháng 8-1970, Pol Pot từ Bắc Kinh về nước, với tư cách Tổng Bí thư, Pol Pot triệu tập Đại hội Đảng lần thứ III vào tháng 10-1970 nhằm chính thức hóa việc tiêu diệt các lực lượng cách mạng ở trong nước. Mục tiêu thanh toán hàng đầu của chúng là lực lượng “51”(43), tức những cán bộ cách mạng Campuchia từ Việt Nam trở về, và những người có quan hệ với cách mạng Việt Nam. Pol Pot đặt ra khẩu hiệu “vừa đánh, vừa xây”. “?ánh” là để tiêu diệt các lực lượng cách mạng, “xây” là tập trung quyền lực vào tay Pol Pot, thay đổi lại bộ mặt vùng giải phóng bằng hệ thống kìm kẹp tàn bạo của mình. Cuối năm 1971, Trung Quốc đã chỉ đạo cho Pol Pot ra sức phản đối Hội nghị cấp cao Nhân dân Đông Dương. Mặt khác, bọn Pol Pot đẩy mạnh hơn nữa việc thi hành chính sách hai mặt đối với Việt Nam. Chúng vừa đuổi lực lượng Việt Nam về nước, rồi yêu cầu giúp đở khi bị tấn công; vừa tiến hành tập kích, tiêu diệt lực lượng Việt Nam, cướp vũ khí, lượng thực, kho tàng, rồi đổ lỗi cho nhầm lẫn, binh lính vô kỷ luật hoặc bảo rằng do quân Lon Nol giả dạng,… gây rất nhiều khó khăn cho cách mạng Việt Nam. Trong tình thế cách mạng Đông Dương ngày càng giành được nhiều thắng lợi to lớn, đế quốc Mỹ thua to, bế tắc ở Đông Dương. Trung Quốc đã đẩy mạnh âm mưu chuẩn bị thế chân Mỹ khi Mỹ thất bại hoàn toàn ở vùng này. Bắc Kinh đã thi hành hàng loạt thủ đoạn đê hèn không cho cách mạng Việt Nam, Lào giành thắng lợi cuối cùng(44). Ở Campuchia, Bắc Kinh tăng cường sử dụng bọn Pol Pot – Ieng Sary hơn nữa, nhằm biến Campuchia thành một căn cứ phản cách mạng do Trung quốc điều khiển, nằm ngay trong lòng các nước Đông Dương, trư?c hết tập trung chĩa mũi nhọn vào sườn phía Tây Nam của Việt Nam. Để thực hiện ý đồ đen tối trên, Bắc Kinh đã cho Pol Pot – Ieng Sary tiến hành làm “trong sạch cách mạng”, tập trung nhân dân các vùng giải phóng vào các “hợp tác xã” theo mô hình của Mao, biến vùng chúng kiểm soát thành một trại tập trung trá hình, tiến hành các biện pháp tàn bạo nhất, bắt đầu diệt chủng ở vùng giải phóng. Song song, chúng khuyến khích bọn Pol Pot đẩy mạnh chiến tranh du kích, tạo ra một sức ép thưởng xuyên đối với các vùng đô thị do Lon Nol kiểm soát, đẩy nhân dân vào cơn lốc khủng bố và tàn sát. Lợi dụng thắng lợi quyết định của cách mạng ở Việt Nam và Lào vào đầu năm 1975, chúng huy động tối đa lực lượng, mở những đợt tấn công cuối cùng vào Phnom Penh với ý đồ giành thắng lợi trư?c cách mạng Việt Nam và Lào, để chủ động chuẩn bị những hành động chống lại Việt Nam và Lào(45). Thắng lợi vẻ vang của nhân dân trên bán đảo Đông Dương không chỉ làm cho đế quốc Mỹ bị thất bại thảm hại, mà đó còn là thất bại đau đớn cho chủ nghĩa bành trướng, bá quyền Bắc Kinh. Không cam chịu thất bại trong mưu đồ chiến lược thôn tính các nước Đông Dương, chúng đã điên cuồng chống lại cách mạng Đông Dương. Một “thuận lợi to lớn” cho chúng là bọn tay sai Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan đã giành được toàn bộ thành quả cách mạng của nhân dân Campuchia. Từ đởa bàn chiến lượcnày Bắc Kinh mưu tính những âm mưu và thủ đoạn nhất để biến Đông Dương thành chư hầu của chúng. Theo chỉ thị của Bắc Kinh, bọn Khmer đỏ – Campuchia dân chủ của Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan đã tập trung toàn bộ sức lực để tấn công Việt Nam, khẩu hiệu của chúng là “Tất cả vì tiền tuyến, vì đánh Duôn!”. Muốn làm được như vậy, chúng đã tiến hành phá nát đất nước Campuchia, biến Camphia thành một nhà tù, một trại lính khổng lồ, với cuộc diệt chủng tàn bạo có một không hai trong lịch sử Campuchia(46). Đồng chí Trường Chinh đã nhận xét: “Chúng còn mưu đồ biến Campuchia thành một vị trí xuất phát cho cuộc chiến tranh xâm lược của Bắc Kinh chống Việt Nam với hai mũi tiến công: từ phía Bắc đánh xuống bằng đại quân Trung Quốc và từ Tây Nam đánh lên bằng quân đội của bọn tay sai Pol Pot – Ieng Sary. Mũi đánh vòng chiến lược ở phía Tây Nam này là một ngọn đòn ác hiểm giáng vào sườn nhân dân ta”(47). Quá trình tấn công Việt Nam của bọn tay sai Pol Pot – Ieng Sary(48) được thực hiện từng bước, phụ thuộc vào kế hoạch chống Việt Nam của giới cầm quyền Bắc Kinh. Trung Quốc quyết đánh Việt Nam tới người Campuchia cuối cùng, cũng như đã từng đánh Mỹ tới người Việt Nam cuối cùng. Năm 1975, bọn Pol Pot chưa dám gây ra những cuộc tấn công quy mô lớn vào lãnh thổ Việt Nam, bởi lẽ: Chúng còn gặp khó khăn trong việc thanh trừng nội bộ: Ngay sau khi giải phóng Phnom Penh, trong tháng 4-1975, do bất đồng ý kiến nên Hou Youn bị cách chức Bộ trướngBộ Nội vụ, Chou Chet bị cách chức Bí thư Khu Tây Nam. Hou Youn bị bắt tra tấn, phải tự sát trong trung tâm tra tấn Tuol Sleng vào tháng 8-1975. Còn Chou Chet bị bắt rồi giết vào 26-3-1978. Cuối năm 1976, khi cuộc thanh trừng diễn ra rầm rộ, hai trong những đối thủ hàng đầu của Pol Pot là Keo Moni và Nong Suol bị bắt. Năm 1977, thủ tiêu Hu Nim Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền; Tok Phuol Bộ trưởng Bộ Công Chính. Coi Thuon Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thương mại, và Duol Tư lệnh Quân khu Tây Bắc. Sau này do những hành động chống đối vào tháng 5-1978 của So Phim, Bí thư Khu Đông, Phó Chủ tịch Quốc hội. Pol Pot cử Son Sen(49) và Ta Mok(50) đem quân tấn công quy mô lớn vào Khu Đông tàn sát tất cả các cán bộ, binh lính và cả dân thưởng ở khu này để tiêu diệt tận gốc. Bị đánh bại, So Phim tự sát không để bị bắt. Trợ lý đắc lực cho Pol Pot – Ieng Sary trong những đởt thanh trừng, thanh lọc là Son Sen (Bộ trướngBộ Quốc phòng), Nuon Chea (Chủ tịch Quốc hội), Ta Mok (Bí thư Khu Tây Nam) và Kaing Khek Iev(51) (còn gọi là anh Deuch - Phụ trách Cảnh sát mật kiêm Giám đốc Nhà tù – trung tâm tra tấn Tuol Sleng). Trong một danh sách tìm được, thấy ghi tên 242 cán bộ cao cấp bị chúng giết hại từ năm 1976 đến ngày 09-4-1978. Trong số này có hai Ủy viên Trung ư?ng Đảng, bốn Bí thư khu, 24 Bí thư và Ủy viên vùng, bốn Bộ trưởng, năm Thứ trưởng, chín Ủy viên bộ, tám Chính ủy và Phó Chính ủy sư đoàn và một số đại sứ được gọi về nước,… Trừ phái Pol Pot và sau này có thêm Nuon Chea, Ta Mok ra, toàn bộ giới lãnh đạo của cuộc cách mạng những năm 1970-1975 đã bị quét sạch: trong số 17 người cộng sản giữ chức vụ trong chính phủ trung ư?ng năm 1975-1976, chỉ năm người đượcbiết còn sống sót vào cuối năm 1978; và trừ Pol Pot, Ta Mok, không có Bí thư Khu vực nào của Đảng còn sống sót. Mặt khác thời gian này, Bắc Kinh còn thực hiện chính sách hai mặt đối với Việt Nam: vừa giấu mặt chống Việt Nam, vừa cố ép Việt Nam đi vào quỹ đạo của chúng. Chính vì vậy, trong thời gian này, Pol Pot cũng đã thi hành chính sách hai mặt đối với Việt Nam. Trong khi tổ chức nhiều cuộc tấn công vào biên giới Việt Nam, vẫn tỏ ra “biết ơn sự giúp đở quý báu của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho cách mạng Campuchia”(52). Nhưng từ cuối năm 1976 trở đi, Bắc Kinh đã nhận thấy chính sách “hai mặt” của chúng khó có hiệu quả và ở Campuchia, Pol Pot đã siết chặt đượcnền thống trị của chúng, thì Bắc Kinh đã đồng ý để Pol Pot đẩy mạnh hơn nữa các cuộc tấn công vào Việt Nam. Tháng 4-1977, chúng đã tấn công toàn tuyến biên giới và có nơi sâu vào lãnh thổ Việt Nam 30 km, gây nên những tội ác vô cùng dã man đối với nhân dân ở các tỉnh biên giới. Với những cuộc tấn công này, đụng độ biên giới đã trở thành cuộc chiến tranh biên giới thật sự. Để cho bọn tay sai của mình có đủ “sức mạnh” tấn công xâm lược Việt Nam, Trung Quốc đã tăng cườngviện trợ cho “Campuchia dân chủ? và rêu rao rằng đó là biện pháp tất yếu để Campuchia chống lại “sự xâm lăng của các nước láng giềng”(53). Trung Quốc còn giúp cho Pol Pot – Ieng Sary tăng cường xây dựng quân đội, tăng quân số từ bảy sư đoàn ở năm 1975 lên 23 sư đoàn vào năm 1978 (từ 50.000 lên 130.000 quân). Đặc biệt chúng làm biến chất quân đội, chỉ có hai nhiệm vụ: tàn sát những người dân vô tội, những người chống đối trong nước và tiến hành tấn công, tiêu diệt người Việt Nam. Về tư tưởng, Pol Pot ra sức tuyên truyền kích động “hận thù dân tộc”, gọi Việt Nam là “kẻ thù số một”, “kẻ thù truyền kiếp”. Đỉnh cao là việc chúng cho xuất bản cuốn “Sách đen” vào tháng 9-1977, nhằm bôi nhọ sự thật lịch sử, kêu gào tiêu diệt toàn bộ giống nòi Việt Nam. Tháng 8-1978, nhằm mục đch giúp Pol Pot – Ieng Sary dốc toàn bộ lực lượng vào chiến tranh tiêu diệt Việt Nam, Trung Quốc đang ra hòa giải làm bình thường hóa cho mối quan hệ căng thẳng giữa Campuchia – Thái Lan. Đại bộ phận quân đội Pol Pot – Ieng Sary đóng trên vùng biên giới Campuchia – Thái Lan được tập trung về biên giới Campuchia – Việt Nam. Đượcsự chỉ đạo trực tiếp và ủng hộ mạnh mẽ của nhà cầm quyền Bắc Kinh từ phía sau, bọn Pol Pot đã đẩy mạnh cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam tới một mức độ ác liệt nhất((54) Khi Wilfred Burchett hỏi: “Làm thế nào để một nước Campuchia khi đó có 5-6 triệu dân dám nghênh chiến với một nước Việt Nam đã từng dày dạn chinh chiến có tới hơn 50 triệu dân?”. Đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, lúc đó là Thứ trưởng Ngoại giao Việt nam đặt lại câu hỏi: “Vì sao một nước Israel có 3 triệu dân lại dám xâm lăng một nước Ai Cập có tới 35 triệu dân? Bởi vì Khmer đỏ được bảo đảm rằng sau lưng chúng là cả 800 triệu người Trung Quốc, cũng như Israel có cả sức mạnh của Hoa kỳ làm chỗ dựa” – TGĐT.54). Bước vào năm 1978, Bắc Kinh công khai chống Việt Nam, bằng nhiều thủ đoạn cực kỳ hèn hạ,… Nhưng tất cả cái gọi là chiến dịch “nở hoa” tấn công vào Việt Nam một cách toàn diện trong cùng một thời gian trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự,…((55) Xem thêm Sự Thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, sđd.55) đều bị thất bại thảm hại, buộc tập đoàn maoist Bắc Kinh phải quyết định tấn công quân sự vào Việt Nam. Do những tính toán sai lầm của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh, cuộc tiến công đại quy mô của chúng vào biên giới Tây Nam Việt Nam phải trả giá bằng cuộc phản công tự vệ quyết liệt của các lực lượng vũ trang Việt Nam. Bằng những cuộc phản kích có hiệu quả, lực lượng vũ trang Việt Nam đã tiêu diệt các lực lượng tham chiến của Pol Pot ngay trên đất Việt Nam, sau đó kết hợp với lực lượng vũ trang của những người yêu nước Campuchia, nhanh chóng chuyển sang tiến công bọn chúng trên đất Campuchia, tiêu diệt quân đội Pol Pot – Ieng Sary ngay tại nơi xuất phát của chúng. Thắng lợi của quân đội Việt Nam, tạo điều kiện cho nhân dân Campuchia vùng dậy giành chính quyền về tay mình. Bắc Kinh ngạo mạn tuyên bố: “đánh sập huyền thoại bách chiến bách thắng của Việt Nam”, “dạy cho Việt Nam một bài học”. Nhưng chính thất bại thảm hại ở gọng kìm Tây Nam, đã làm cho gọng kìm chính diện phía Bắc trở nên trơ trọi, đơn độc và cuối cùng bị thất bại hoàn toàn((56) Trung Quốc xua quân xâm lược Việt Nam ngày 17-02-1979 – Và nhận xét của Wilfred Burchett: ”Trên mặt trận chính, cửa ải Lạng Sơn, các đơn vị chính quy Trung Quốc chỉ tiến được 16 km trong 16 ngày đánh nhau với bộ đội biên phòng và dân quân địa phương. Cho tới nay, đây là cuộc tiến quân chậm chạp nhất – dù cho đã có xe tăng và xe vận tải thay thế cho ngựa và lính bộ chân đất – trong toàn bộ 2.000 lịch sử Trung Quốc xâm lược Việt Nam”.56). Hơn 600.000 quân Trung Quốc với đầy đủ trang bị hiện đại đã phải rút về nước và ngày 05-3-1979, giới cầm quyền phản động Bắc Kinh buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với Việt Nam. Một thực tế lịch sử chứng minh rằng, dù giới cầm quyền Bắc Kinh có sử dụng bất kỳ thế lực phản động tay sai nào nhằm tấn công chống lại cách mạng Đông Dương cuối cùng cũng nhất định sẽ bị chính sức mạnh đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương đánh bại. Chính vì mộng tưởng làm bá chủ thiên hạ, giới cầm quyền phản động Bắc Kinh đã không từ bất kỳ một thủ đoạn thâm hiểm, độc ác nào để thực hiện cho bằng được mục đch ngông cuồng của mình, nhưng chúng đã hoàn toàn thất bại. Bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan đã bị nhân dân Campuchia vùng dậy lật đổ. Nhưng giới cầm quyền phản động Bắc Kinh đã đặc biệt độc ác khi chỉ đạo, ủng hộ bọn tay sai của mình tiến hành chính sách diệt chủng chống lại nhân dân Campuchia, tiêu diệt toàn giống nòi Việt Nam, tàn sát những dân tộc thiểu số trong nước và giết hại những dân tộc láng giềng. _3. TỘI ÁC CỦA TẬP ĐOÀN PHẢN ĐỘNG POL POT – IENG SARY CHỐNG NHÂN DÂN VIỆT NAM LÀ TỘI ÁC DIỆT CHỦNG Chủ nghĩa dân tộc cực đoan của bọn Pol Pot – Ieng Sary đã được chủ nghĩa bá quyền, bành trướng Đại Hán nhân lên gấp bội. Chính vì vậy, bọn Pol Pot – Ieng Sary đã coi “Việt Nam là kẻ thù số một, kẻ thù vĩnh cửu”, chúng ra “Sách đen“(57) tuyên truyền kích động “hận thù dân tộc”, điên cuồng hơn nữa chúng kêu gào: “Toàn thể giống nòi Việt Nam phải được coi là kẻ thù”, kêu gọi mỗi người Campuchia phải tiêu diệt được 30 người Việt Nam, để có thể tiêu diệt hoàn toàn dân tộc Việt Nam với 60 triệu người. Với ý tưởng điên rồ đó, bằng mọi cách bọn Pol Pot – Ieng Sary đã thực hiện cho bằng được mưu đồ tiêu diệt dân tộc, tiêu diệt đất nước Việt Nam. Ngay từ những năm đầu của thập niên 1970, chúng đã tiến hành những chiến dịch tàn sát hàng vạn Việt kiều tại Campuchia, tiêu diệt các đơn vị vũ trang Việt Nam đang giúp đỡ chúng. Và khi chiếm được quyền thống trị ở đất nước Campuchia, chúng từng bước xâm phạm biên giới Việt Nam, cuối cùng để “tiêu diệt Việt Nam ngay trên đất Việt Nam”, chúng ra sức tuyên truyền vu khống, tạo cớ phát động một cuộc chiến tranh toàn diện nhằm tiêu diệt toàn bộ giống nòi Việt Nam. Bọn chúng đã thực hiện tội ác với những cách thức giết người tàn bạo dã man nhất mà thời trung cổ và kể cả bọn phát xít Hitler còn chưa sánh kịp. Trong CÔNG ƯỚC VỀ NGĂN NGỪA VÀ TRỪNG TRỊ TỘI DIỆT CHỦNG được Liên hợp quốc thông qua và các nước trên thế giới ký kết ngày 09-12-1948, ở Điều 2 ghi rõ: “Trong công ước này, diệt chủng có nghĩa là bất kỳ những hành vi nào cố ý tiêu diệt toàn bộ hay một phần, một dân tộc, chủng tộc, sắc tộc hay một nhóm tôn giáo”. Và, ở Điều 3 quy định: “Những hành vi sau đây sẽ bị trừng trị: a) Diệt chủng; B) Âm mưu phạm tội diệt chủng; c) Kích động trực tiếp và công khai để phạm tội diệt chủng; d) Cố tình phạm tội diệt chủng; e) Đồng phạm tội diệt chủng”. Căn cứ vào các Điều quy định của Công ước, thì những âm mưu và hành vi tội ác của bọn chúng Pol Pot – Ieng Sary đã gây ra đối với nhân dân Việt Nam chính là TỘI ÁC DIỆT CHỦNG. Đồng thời, nhà cầm quyền Bắc Kinh cũng phải chịu trách nhiệm vì đã ủng hộ, giúp đỡ, xúi giục, che chở cho chế độ khát máu này chống lại nhân dân Việt Nam. Bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan cùng giới lãnh đạo Bắc Kinh đã phạm phải những tội ác tày trời chống lại loài người. PHẦN KẾT LUẬN Từ khi phải rút lui một cách bắt buộc khỏi Đông Dương, Mỹ đã tận dụng mọi khả năng để làm mất ổn định khu vực này, gia tăng mọi nhân tố có thể làm cho nước Việt Nam chiến thắng phải sụp đổ. Mỹ và Trung Quốc cuối cùng cũng đã tìm thấy cơ sở để hợp tác trong lĩnh vực đối ngoại. Mối quan tâm của Trung Quốc trong việc làm cho những người láng giềng phía Nam suy yếu để thực hiện mưu đồ bành trướng của mình, đã đưa Trung Quốc đến chỗ câu kết với kẻ thù không đội trời chung trước kia của họ là Mỹ. Kết quả là hai cường quốc to lớn này – một “đất nước anh hùng của xã hội chủ nghĩa” và một “con hổ giấy” (1) – đã chung sức ủng hộ và bảo vệ chế độ Pol Pot – Ieng Sary ở Campuchia, một bọn khủng bố, diệt chủng. Mọi tội ác của bọn Quốc xã Hitler đều được bọn Khmer đỏ lặp lại và lặp lại “có sáng tạo”, phát minh thêm nhiều cái mới. Hitler và những tên Quốc xã khác đều là những tên đồ tể, hiện thân của những gì được coi là tột cùng của cái ác trong thời đại chúng ta. Thế nhưng, tội ác của chúng vẫn chưa thấm tháp vào đâu nếu đem so với những tội ác của Khmer đỏ do bọn Pol Pot – Ieng Sary – Khieu Samphan cầm đầu: Hitler đã cố tiêu diệt người Do Thái, người Slave, người Zigal và những người “không thuộc giống Aryan” khác. Còn Pol Pot thì quyết tâm tiêu diệt không chỉ người Việt Nam, người Hoa, người Chăm theo đạo Hồi và các nhóm người theo thiểu số khác, mà cả những người thuộc giống Khmer của chính bản thân hắn. Hitler bắt người từ Pháp, Ba Lan và các nước khác làm nô lệ và buộc họ làm việc đến chết trong các trại lao động. Còn Ban lãnh đạo Khmer đỏ thì lại biến đất nước thành một trại tập trung khổng lồ. Hitler đốt cháy và làm ô uế các giáo đường Do Thái, ngược đãi các nhóm tôn giáo. Còn Khmer đỏ thì lại đàn áp mọi hình thức lễ bái tôn giáo. Bọn chúng biến nhà chùa đạo Phật, thánh đường đạo Hồi và nhà thờ đạo Thiên Chúa thành các trung tâm tra tấn, thành chuồng lợn, thành kho chứa, hoặc đơn giản hơn là phá tan tành. Hitler đốt sách của các nhà văn chống phát xít. Còn Pol Pot và bè lũ thì đốt tất cả các sách vở và thư viện, chà đạp lên mọi di tích truyền thống và nền văn hóa Campuchia. Hitler tìm cách dồn phụ nữ Đức trở lại vai trò “bếp núc, nhà thờ và con cái”. Còn Khmer đỏ thì tách vợ khỏi chồng, cha mẹ khỏi con cái, và thủ tiêu hoàn toàn cuộc sống gia đình. Hitler dùng phòng hơi ngạt để giết hàng loạt người và để che giấu tội ác này, chúng phải tiến hành tội ác bí mật trong các trại giam hẻo lánh, xa nơi dân cư. Bọn Pol Pot đã trắng trợn, công khai tiến hành tội ác ngay ban ngày ban mặt, tàn sát con người bằng những cách thức cực kỳ vô nhân đạo, mà không sợ mọi người nhìn thấy. Thực chất chế độ Pol Pot – Ieng Sary là “một nền độc tài phát xít đẫm máu kết hợp với một nền độc tài thời phong kiến trung cổ, đội lốt chủ nghĩa xã hội”. Như vậy bọn đao phủ Pol Pot – Ieng Sary, tay sai của Bắc Kinh, đã đồng thời phạm hai tội ác liên quan chặt chẽ với nhau: diệt chủng chống nhân dân Campuchia và gây chiến tranh xâm lược nhằm diệt chủng dân tộc Việt Nam. Pol Pot – Ieng Sary phải được xếp vào số những tội nhân lớn nhất trong lịch sử. Chế độ đáng kinh tởm của nó đã ghi vào lịch sử thế giới những dòng chữ khủng khiếp không bao giờ phai mờ. Thế giới ngày nay trong bối cảnh trật tự cũ đã tan vỡ, trật tự mới chưa hình thành rõ ràng. Các thế lực đế quốc, các nước lớn chẳng những không từ bỏ mà còn đeo đuổi những mục tiêu riêng nhằm giành quyền bá chủ toàn cầu, buộc các nước nhỏ hơn phải phục tùng ý chí của chúng. Xưa kia, chúng đi xâm chiếm thuộc địa và vơ vét tài nguyên của các nước khác, chúng viện cớ đi truyền bá đạo Thiên chúa và “khai hóa văn minh” cho những dân tộc “mọi rợ”. Những giá trị đó nay đã lỗi thời, giờ đây chúng đưa ra những giá trị mới để thế giới phải tuân theo, như giá trị: “dân chủ”, “nhân quyền”, “nhân đạo”, “kiến tạo hòa bình”, “tự do hóa thương mại”,… Chúng bất chấp luật pháp quốc tế, lợi dụng ưu thế về quân sự và thực lực kinh tế hùng mạnh để can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền. Vấn đề là ở chỗ, các thế lực đế quốc, nước lớn trên thế giới ngày nay, một khi vì lợi ích riêng của mình, họ không ngần ngại sử dụng, xúi giục, che chở, bảo vệ bọn phản động, bọn đao phủ trước dư luận thế giới, để bọn chúng thực hiện mọi tội ác, cho dù tội ác đó chống lại loài người. Việc vạch trần tội ác diệt chủng của bọn Pol Pot – Ieng Sary đối với nhân dân Việt Nam nhằm nhắc nhở tất cả các chiến sĩ đấu tranh cho sự nghiệp chính nghĩa vì sự tiến bộ xã hội, và lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới về những quá khứ khủng khiếp mà nhân dân Việt Nam đã chịu đựng, để những tội ác này không còn có cơ hội xảy ra ở bất cứ nơi đâu trên trái đất. Đồng thời nhắc nhở mọi người Việt Nam luôn cảnh giác đối với các lực lượng thù địch còn đang rình rập vẫn còn kêu gào chống lại dân tộc Việt Nam, giết hại người Việt Nam. Sao cho những điều khủng khiếp tương tự như đã xảy ra ở Ba Chúc vào năm 1978 sẽ không bao giờ được phép tái diễn, bất cứ nơi đâu đối với dân tộc Việt Nam. Quá khứ thì đã khép lại để chúng ta hướng về tương lai, nhưng những gì đã diễn ra ở Ba Chúc, Hà Tiên, Tây Ninh,… tất cả chúng ta không bao giờ được quên./. (32) Theo nhà nghiên cứu Ben Kirnan, trong năm 1973, một tiểu ban của Thượng nghị viện Mỹ đã thống kê, chiến tranh ở Campuchia đã tạo nên 3.368.000 người tị nạn trong tổng số 7 triệu người. (33) Sách trắng Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam – Sự Thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua – sđd, tr. 13. (34) (35) Sách trắng Bộ Ngoại giao nươc CHXHCN Việt Nam – Sự Thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua – sđd, tr. 14. (36) Các đảng cộng sản theo chủ nghĩa Mao, đ?ợc Trung Quốc giúp đở ở Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines,… - TGĐT. (37) (38) Xem thêm Sự Thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, sđd. (39) Anh họ của Sihanouk, sau 1975 giữ chức Bộ trưởng Tư pháp bù nhìn cho Chính phủ Campuchia dân chủ, năm 1977 bị bọn Pol Pot thủ tiêu. – TGĐT. (40) Tìm hiểu lịch sử – văn hóa Campuchia (tập 1) – NXB Khoa học xã hội – Hà Nội, 1983, sđd, tr. 117. (41) Ở Campuchia, trư?c năm 1975 có 400.000 ngư?i Hoa, chiếm 5% dân số, nhưng nắm trong tay 98% các cơ sở công nghiệp - P.TS Trần Khánh – Vai trò ngư?i Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á – Viện Khoa học xã hội Việt Nam-Viện Đông Nam Á học – Hà Nội 1992. (43) Những cán bộ, đảng viên kỳ cựu của Đảng Pracheachon từ khi Đảng mới thành lập vào năm 1951 – TGĐT. (44) Xem thêm Sự Thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, sđd. (45) Thật sự chúng đã làm như vậy ngay sau 17-4-1975 đối với phần lãnh thổ của Việt Nam – TGĐT. (46) Xem thêm Tội ác diệt chủng của Pôn Pốt – Iêng Xary – sđd. (47) Trường Chinh – Về vấn đề Campuchia – NXB Sự Thật – Hà Nội, 1979, tr.13. (48) Đã được rrình bày ở Chư?ng II – TGĐT. (49) Son Sen đã học ngành Sư phạm tại Paris, từng giữ chức vị lãnh đạo tại Trường Đại học Sư phạm Phnom Penh thời Sihanouk. Chính vợ chồng tên đồ tể Son Sen – Yun Yat này cùng toàn bộ gia đnh gồm 11 người, lại bị Pol Pot ra lệnh tàn sát vào 10-6-1997 – TGĐT. (50) “Tên đồ tể? Ta Mok, sinh khoảng năm 1927, tại xã Tropeng Thom, huyện Tram Koh, tỉnh Takev. Tham gia chống Pháp trong phong trào Israk (tổ chức của ngững ngư?i cộng sản Khmer trong Đảng Cộng sản Đông Dư?ng). Ngày 20-3-1976, giữ chức Phó Chủ tịch Quốc hội Campuchia dân chủ. Từ tháng 11-1978, làm Phó Bí thư thứ hai Đảng Cộng sản Campuchia, phụ trách các vùng nông thôn. Ngoài ra còn giữ chức Tổng Tham mưu trưởng quân đội Campuchia dân chủ. Hắn bị quân đội Chính phủ Hoàng gia Campuchia bắt ngày 06-3-1999 ở gần Anlong Veng thuộc vùng biên giới giáp Thái Lan. (51) Kaing Khek Iev – anh Deuch, con một gia đnh nông dân nghèo tỉnh Kampong Thom, là một học sinh xuất sắc nên đ?ợc chọn vào học Trường Lycee Sisowath tại Phnom Penh. Năm 1959, Duech đ?ng thứ hai trong kỳ thi học sinh giỏi cấp III toàn quốc. Sau đỗ thủ khoa về ngành toán ở trưởng đại học. Trở về Kampong Thom làm Phó Hiệu trư?ng và dạy toán tại một trường phổ thông. Năm 1967, bị Sihanouk bỏ tù ba năm vì chống chính phủ. Sau khi ra tù, Deuch vào rừng theo Khmer đỏ. Dưới thời Pol Pot, hắn phụ trách nhà tù – trung tâm tra tấn Toul Sleng, nơi đây khoảng 20.000 ngư?i đã bị sát hại, sau khi chế độ diệt chủng Khmer đỏ sụp đổ, hắn thay tên đổi họ và chui vào làm việc cho một tổ chức cứu trợ của tôn giáo ở tỉnh Batdambang. Hắn bị Chính phủ Vư?ng quốc Campuchia bắt ngày 08-5-1999 – TGĐT. (52) Diễn văn của Pol Pot ngày 03-02-1976. (53) Trong đợt truy quét bọn tàn quân Khmer đỏ, bắt hụt Pol Pot và Ieng Sary ở Ta Sanh hồi tháng 3-1979, quân tình nguyện Việt Nam và quân đội cách mạng Campuchia thu được nguyên vẹn toàn bộ kho lưu trữ của Khmer đỏ. Có những tài liệu nói về việc cung cấp vũ khí, cố vấn,… của Trung Quốc cho Campuchia dân chủ. Ví dụ: Từ tháng 10-1975 sẽ chuyển giao 13.300 tấn vũ khí gồm súng ống, đạn dư?c, xăng dầu và xe cộ. Bản dự thảo chuyển giao vũ khí từ 1976 tới cuối năm 1978 gồm: pháo phòng không, radar, tàu hộ tống, tàu phóng ngư lôi, xe tăng, pháo binh, thiết bị thông tin, thiết bị công binh, máy bay chiến đấu, máy bay ném bom,… Phương thức vận chuyển bằng đường biển và giao tại cảng Kompong Saom. Việc cung cấp cố vấn để lắp ráp lại và hướng dẫn sử dụng vũ khí. Những chi tiết kỹ thuật và có nêu những khó khăn đối với Trung Quốc trong việc chuẩn bị văn bản bằng tiếng Campuchia, đặc biệt Trung Quốc phàn nàn việc thiếu người Campuchia làm phiên dịch tiếng Hoa,… - Xem thêm Uyn-phrết Bớc-sét – Tam giác Trung Quốc-Campuchia-Việt Nam, sđd, tr. 200-205. (57) Các tác giả của “Sách đen” thể hiện sự dốt nát của chúng đối với những gì đã toát ra từ cuộc kháng chiến chống Pháp. Chúng không trực tiếp chiến đấu cùng nhân dân. Với cách gọi “Việt Nam –kẻ thù số một”, chúng đã nhập chung lại với nhau: các thế lực cầm quyền phong kiến Việt Nam, Việt Minh và “Việt Cộng” (bạn chiến đấu của Campuchia chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ) cùng chế độ bù nhìn Sài Gòn (mà cả Việt Minh và “Việt Cộng” đã anh dũng chiến đấu chống lại). Phản ánh nhận thức chính trị thấp kém và định kiến chống Việt Nam tới mức cuồng dại của Ban lãnh đạo Pol Pot – Ieng Sary. Ben Kirnan và Chantha Bua nhận xét: “Sách đen là hoàn toàn nhảm nhí”. (1) Những từ ngữ mà giới lãnh đạo Bắc Kinh giành cho Trung Quốc và dành cho kẻ thù đế quốc Mỹ của họ trước đây – TGĐT. Nguyễn Đoàn Bảo Tuyền
  10. Chú bé trong bức tranh trên ôm trái Phật thủ , là trái cây trung tâm của mâm ngũ quả Tết ngày xưa Chú bé trong bức tranh dưới tay cầm trái đào, tay kia cầm hoa sen Có vẻ chúng thuộc dong tranh tứ thời Xuân -Hạ-Thu- Đông Trong " Thương nhớ mười hai " - Vũ Bằng có một bài về trái Phật thủ
  11. Rộng đường dư luận LX tôi mời mọi người tham khảo quan điểm dưới đây http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/?a=139319&z=271 Chiều 19 tháng 10, 2011 vừa rồi, Phó Thủ Tướng Chính Phủ Nguyễn Thiện Nhân đã chủ trì cuộc họp bàn phương án huy động tổng lực để bầu chọn vịnh Hạ Long trở thành 1 trong 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới mới. Theo dự kiến, tổ chức NewOpenWorld sẽ công bố kết quả cuộc bầu chọn này vào ngày 11 tháng 11, 2011. Ðúng là nhàn rỗi và vớ vẩn, vì việc bầu chọn này lại làm kinh động đến chóp bu - chắc cũng là chóp bu duy nhất trong các quốc gia có kỳ quan được bầu chọn lần này - đứng ra làm việc này. Cuộc họp rình rang này có sự tham dự của đại diện lãnh đạo Trung Ương MTTQ Việt Nam, Bộ Ngoại Giao, Bộ Giáo Dục và Ðào Tạo, Bộ Thông Tin và Truyền Thông, Bộ Văn Hóa-Thể Thao và Du Lịch, Bộ Quốc Phòng, Bộ Công An, Trung Ương Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh. Ðương nhiên cũng không thể thiếu Chủ Tịch UBND tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Văn Ðọc và lãnh đạo các sở, ngành của tỉnh Quảng Ninh. Nhiều báo đưa tin về buổi họp này như sau: “Phó Thủ Tướng Chính Phủ Nguyễn Thiện Nhân yêu cầu các cơ quan ngang bộ, các tổ chức chính trị xã hội cùng với địa phương động viên cán bộ, công nhân viên chức trong các cơ quan, đơn vị, lực lượng vũ trang, các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, THPT... trong cả nước tích cực tham gia bầu chọn cho kỳ quan Vịnh Hạ Long, đồng thời đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền cho kiều bào ở nước ngoài tham gia bầu chọn để tạo ra sức mạnh tổng lực mang lại kết quả cao nhất bầu chọn cho vịnh Hạ Long.” Ðây mới là bề nổi, còn bề chìm, từ tháng 8, 2007, Việt Nam đã có nhiều chiến dịch phát động rầm rộ và tốn kém. Thậm chí, họ còn dùng cả mạng Internet và điện thoại để làm kỹ thuật bầu chọn; có nhiều ý kiến nghi ngờ về khả năng dùng tin tặc để tăng chỉ số bầu chọn. Ðơn cử như tỉnh Tiền Giang từng khởi động chiến dịch 10 tháng bầu chọn, trong đó có việc hỗ trợ đường truyền Internet tốc độ cao miễn phí cho 35 trường trung học phổ thông trong tỉnh để giáo viên và học sinh tham gia bầu chọn nhiều lần. Cỡ phó thủ tướng mà đứng ra làm việc này, thì quả là nhàn rỗi và kệch cỡm; đúng là không còn giữ thể diện quốc gia gì cả, chẳng lẽ dân tộc Việt Nam lại hám danh như vậy sao? Chẳng lẽ cái tổ chức NewOpenWorld này lại đủ khả năng tạo sức ép lên chính phủ Việt Nam vậy sao? Chẳng lẽ phó thủ tướng không còn việc nào có ích để làm hay sao? Vậy mà truyền thông nội địa lại xiển dương như đây là việc làm của lòng yêu nước, là bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Ví dụ báo Tuổi Trẻ đã lập hẳn chuyên mục với khẩu hiệu: “Bầu chọn Việt Nam: Lá phiếu của lòng yêu nước.” Việc làm mông muội và gian dối này mà là yêu nước ư? Chẳng lẽ bản sắc Việt là vì hám danh mà làm bậy? Tại sao làm bậy? Bởi đáng lý đây là việc của những người làm du lịch, những chuyên gia lữ hành, khi mà họ có đủ trải nghiệm và thông tin về các kỳ quan, rồi bình chọn. Chứ người dân Việt Nam thì có mấy người biết đến các kỳ quan (trong 28 kỳ quan ứng viên) là như thế nào đâu mà bầu chọn? Thậm chí, phần đông cũng chưa biết Hạ Long là thế nào, vì chưa có dịp đến đó. Vậy là vì vô minh, vì háo danh mà bầu chọn bậy bạ. Ðiều này khiến ta liên tưởng đến việc bầu cử tại Việt Nam, người dân cũng bầu đại như vậy, chẳng mấy khi biết ai là ai. Việc bầu chọn bậy bạ này riết rồi trở thành thói quen cẩu thả, đánh mất tự trọng, vì xúi giục và tuyên truyền mà làm, chứ không làm vì hiểu biết, phân tích. Theo Wikipedia thì NewOpenWorld chỉ cần: “Mỗi địa danh tham gia phải có một ủy ban hỗ trợ chính thức, có đủ tư cách pháp lý, phải ký hợp đồng và được công ty NOW chấp thuận, và phải đóng lệ phí là 5,000 USD mỗi tháng.” Ðiều kiện đơn giản như thế này thì cần chi tới phó thủ tướng và các bộ ban ngành phải ra mặt? Bộ Trưởng Văn Hóa Farouq Hosni của Ai Cập phê phán cuộc bầu chọn này là “ngớ ngẩn”; phê phán Weber - nhà sáng lập NOWC - là “tự quảng cáo,” chỉ nhằm đánh vào sự háo danh để trục lợi. Xét về dân số, Việt Nam xếp thứ 14 trên thế giới, nếu người dân ai cũng vì cái danh hão và vì vô minh mà bầu một lần thôi, thì Hạ Long rất có thể là kỳ quan Top Ten của nhân loại - nếu nhân loại cũng chơi cách này giống như Việt Nam. Ðó là chưa nói, thử nhìn vào danh sách 27 kỳ quan vào chung khảo sau đây: Rừng Amazon (Nam Mỹ); đảo Bu Tinah (Ả Rập); đảo núi lửa Galapagos (Ecuador), thác Iguazu (Argentina-Brazil); công viên quốc gia Komodo (Indonesia); đảo Milford Sound (New Zealand); núi “chiếc bàn” (Nam Phi); thác Angel (Venezuela); vách đá Moher (Ai-len); hẻm núi Grand Canyon (Mỹ); hang động Jeita Grotto (Li-băng); dải san hô The Maldives; núi lửa bùn (Azerbaijan); núi đổi màu Uluru (Úc); vịnh Fundy (Canada); biển Chết (Israel-Jordan-Palestine); dải đá ngầm Great Barrier (Úc); đảo Jeju (Hàn Quốc); khu vực hồ Masurian (Ba Lan); sông ngầm Puerto Princesa (Philippines); núi lửa Vesuvius (Ý); rừng đen (Ðức); rừng quốc gia El Yunque (Puerto Rico, Mỹ); đỉnh núi Kilimanjaro (Tanzania); núi Matterhorn/Cervino (Thụy Sĩ-Ý); rừng Sundarbans (Bangladesh-Ấn Ðộ); núi Yushan (Ðài Loan)... Rõ ràng, về dân số thì Việt Nam chẳng thua mấy nước, chỉ xếp sau Ấn Ðộ, khu vực Nam Mỹ, Mỹ, Indonesia... nếu mỗi công dân được bỏ một lá phiếu cho kỳ quan nước mình, thì Việt Nam chắc chắn có mặt trong nhóm 7 nước, vì dân số áp đảo. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là bầu chọn tự do, ai thích thì bỏ, điều này mới làm lòi sự lố bịch của Việt Nam. Bởi Việt Nam thừa hiểu rằng, với lượng khách du lịch hàng năm đến Hạ Long như hiện nay, chuyện Hạ Long bị loại là có chắc, nên chính quyền mới vận động người dân “lấy thịt đè người” để thắng bằng mọi giá, ngay cả đánh mất thể diện quốc gia. Khi nhìn vào danh sách các kỳ quan vào chung khảo, sự u mê mang tính a dua cộng đồng của Việt Nam đã quá rõ. Bởi với kiến thức về du lịch hẹp hòi như Việt Nam thì làm sao có sự so sánh đẹp xấu, xứng đáng hoặc không... để mà bầu. Ðiều này dẫn tới tình trạng bầu về du lịch mà do những người không bao giờ đi du dịch hay chẳng biết gì về du lịch... đứng ra làm. Ðây không gọi là gian xảo và kệch cỡm thì còn gì. Hơn nữa, không biết những tổ chức NewOpenWorld có liêm minh hay không? Nếu quả thật họ liêm minh thì khi đặt chân đến những đất nước thể diện hão và bệnh thành tích như Việt Nam, sự công bằng và liêm minh này đã bị bóp méo kết quả. Nói như ngôn ngữ giang hồ, là bị hiếp dâm ngay trong trứng nước. Còn theo Wikipedia, thì “NewOpenWorld là một công ty tư nhân (đặt trụ sở tại Thụy Sĩ và do tỉ phú người Thụy Sĩ Bernard Weber điều hành), đứng ra tổ chức toàn cầu tiến hành ngay sau khi kết thúc cuộc bình chọn bảy kỳ quan thế giới mới. Tuy nhiên, cuộc bình chọn này không được tổ chức văn hóa, giáo dục Liên Hợp Quốc (UNESCO) ủng hộ và tất nhiên kết quả 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới mới cũng không được tổ chức này công nhận.” ”Tổ chức UNESCO cũng cho rằng nếu chỉ đánh giá trên góc độ cảm tính từng địa điểm thôi thì không đủ, mà phải có những đánh giá trên góc độ khoa học và được bảo vệ bằng những biện pháp chế tài đầy đủ. UNESCO đánh giá chương trình của Weber mới chỉ dựa vào ý kiến của những người tham gia mà thiếu các góc độ còn lại. Việc bỏ phiếu bị đánh giá là phần lớn mang tính cục bộ, dân tộc, thiếu các tiêu chí khách quan. Các nhà quan sát cho rằng các nhà tổ chức thiếu các biện pháp để tránh chuyện một người bỏ phiếu nhiều lần,” dẫn theo Wikipedia. Vậy có một mối dây liên hệ nào không giữa các chóp bu Việt Nam với một tỉ phú người Thụy Sĩ, nơi có nhiều ngân hàng bí mật, chuyên giữ tiền mà không cần biết đến nguồn gốc và nhân thân?
  12. HGL xem link sau http://oxforddictionaries.com/definition/classic?rskey=IeQba1&result=1 RGDS
  13. Kinh bác Hải thiên hà, các ý số 3 --12 là nghĩa của danh từ classic ạ
  14. Thưa bác hải thiên hà, Theo Oxford Dictionary tính từ classic có những ý nghĩa sau : - Judged over a period of time to be of highest quality and oustanding of ít kind - Very typical of its kind Theo em hiểu classic có ý nghĩa cổ mà không cũ trái lại vẫn còn là điển hình cho thực tại , Kính bác
  15. Theo ý hiểu của tôi thì từ Lý học phương đông hàm chứa một nội dung rất rộng lớn cho nê việc tìm một từ ( cụm từ ) tiếng Anh diễn đạt đầy đủ e rằng rất khó khăn trong khi đó một tên gọi cho trung tâm không thể quá dài . Do vậy có lẽ ta nên chọn giải pháp lựa một tên gọi tương trưng , phần diễn giải cho ctừ lý học phương đông ta thể hiện ở phần tự giới thiệu về trung tâm , hoặc thiết kế một slogan để diễn đạt . Tôi xin đề xuất tên gọi cho trung tâm là : Classic Orienttall Scientific Research Center Thân ái