-
Số nội dung
31 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Danh tiếng Cộng đồng
0 NeutralAbout Doremon360
-
Rank
Mới gia nhập
- Birthday
Contact Methods
-
Website URL
http://doremon360.blogspot.com/
-
Cám ơn bác Thiên Sứ đã post bài này. Hổm rày cháu bận bịu quên ghé thăm diễn đàn, bi giờ đã có rất nhiều bài viết hay của đông đảo thành viên :rolleyes: . Xin góp thêm vài hình sưu tầm được về kiểu nhà của văn hóa nước (ghe thuyền) tại Đông Nam Á xưa (còn lưu lại đến ngày nay) trước khi phát triển lên thành kiểu nhà mái cong có nóc cao và hoa văn trên nóc như chúng ta thấy sau này. Tongkonan (Indonesia):
-
:( Ha ha, chổ này chứng tỏ tác giả hiểu các truyền thuyết và huyền thoại theo nghĩa đen chứ không thấy được thông điệp quá khứ của người xưa. Xin nhắc lại là số 18 kia là số Chi của họ Hùng Vương, mỗi Chi gồm nhiều Đời vua. Thời đại Hùng Vương bắt đầu từ năm 2879.BC khi Kinh Dương Vương (Hùng Vương 1) lên ngôi. Tên nước lúc đó là Xích Quỷ chứ không phải Văn Lang sau này. Thời đại Hùng Vương kết thúc ở chi thứ 18 vào năm 258.BC với 3 đời vua trong chi cuối cùng này. Xin xem đoạn trích sau về chi tiết các đời vua của 18 họ Hùng Vương :
-
Về chầu thì khác đấy, vì cùng là trường sinh học cả :rolleyes: :rolleyes: :lol: Không phải thế lực siêu nhiên không tồn tại, mà là hiện tại con người chưa hiểu hết cách thức liên kết với những trường vật chất cấu trúc phức tạp (chúng ta hằng ngày vẫn "tương tác" với trường điện từ đấy thôi, ánh sáng mặt trời, sóng dtdd, sóng tv, sóng radio,... tuy nhiên trường sinh học phúc tạp hơn những trường điện từ này, nên cần thời gian và nỗ lực để hiểu và tương tác hiệu quả).
-
Cơm no áo ấm hay không là do bản thân ta, chứ trông chờ vào thế lực siêu nhiên thì làm sao chủ động được :rolleyes: Mà con người đã hiểu hết cách thức liên kết với trường sinh học của người quá cố đâu, chỉ mới dừng lại ở trình độ liên kết hình ảnh để tìm mộ liệt sĩ và sử dụng trường sinh học để giúp trị bệnh thôi, những khả năng liên kết khác vẫn đang tìm tòi nghiên cứu, nên chủ động nắm bắt kết quả cuộc sống của mình hơn là trông chờ vào người khác, ngay cả hệ thống giáo dục :rolleyes:
-
Thanks bác Thiên Sứ, bác check mail nhé. Có nhiều tư liệu viết bằng chữ Việt cổ, tìm được không chỉ ở Việt Nam mà còn ở từ điển phương Tây thời kỳ họ truyền giáo vào nước ta. Như vậy người dân vùng biên viễn vẫn còn lưu lại hệ thống chữ cổ cho đến khi chuyển dần sang chữ Quốc ngữ thì họ không còn dùng nữa và chìm vào quên lãng. May mắn là còn những tư liệu ghi chép, có cả những văn bản ghi chữ Việt cổ và có chú thích nên có thể dịch và tìm hiểu cách dùng hệ thống chữ cái cổ xưa. Trong bảng so sánh sau có một loạt chữ Việt cổ với chú thích Hán tự, bên cạnh các hệ chữ của các nước khác : Các văn bản có chú thích nhiều hệ chữ khác nhau giống như phiến đá dưới đây có cả 3 hệ chữ cổ : chữ Ai Cập, chữ Arap, chữ Hy Lạp cổ, nhờ vậy mà có thể tìm hiểu những hệ thống ký tự cổ :
-
Xin bổ sung thêm 2 bản đồ sau để thấy rõ quá trình phát triển liên lục và nội sinh của văn minh Lạc Việt : Từ thời đại đồ đá, điển hình là văn hóa Hòa Bình (10.000 BC) Đến thời đại đồ đồng (3000.BC) và sơ kỳ đồ sắc (Đông Sơn - 1000.BC) :
-
Điểm này đã được giải thích rồi, 18 đời vua thực ra là 18 chi trong dòng họ vua Hùng, mỗi chi gồm nhiều đời vua, tổng cộng có hơn 47 đời vua trị vì hơn 2600 năm (từ 2879.BC đến 258.BC). Xin xem thêm đoạn trích dẫn sau để biết chi tiết các chi và số vì vua cai trị trong từng chi : Lạnh thổ xưa của Bách Việt đúng như những gì ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư : Nhiều người nhầm lẫn nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương (Hùng Vương 1, lên ngôi năm 2879.BC) và nước Văn Lang của các đời vua Hùng sau này. Nước Xích Quỷ thực chất là một đế chế cổ xưa, Bách Việt là cư dân của đế chế này, đây là một "hợp chủng quốc" (bách) cổ đại được người Lạc Việt thống nhất, biên giới của đế chế này chính là lãnh thổ của Bách Việt xưa (nam sông Dương Tử đến miền trung Việt Nam). Sau này, khi đế chế tan rã, các tộc lớn trong đại tộc Bách Việt đã tách ra thành các nước riêng, như Mân Việt, Điền Việt. Lạc Việt ta đóng đô ở Văn Lang tức là Bắc Bộ Việt Nam ngày nay. Còn lãnh thổ của Nam Việt của Triệu Đà nhỏ hơn biên giới nước Xích Quỷ : Nghĩa là không bao gồm toàn cõi Bách Việt, mà phần lớn là Lạc Việt và Tây Âu (có cô bác nào giải thích vì sao tộc Tây Âu nằm ở phía đông xứ Lạc Việt lại có tên là Tây Âu không, hi hi, trả lời được thì sẽ hiểu một vấn đề còn lớn hơn nữa đó). Còn về bằng chứng khoa học thì test DNA của cư dân phương Nam và phương Bắc TQ thấy khác nhau. Phương Nam có di truyền gần gũi với Việt Nam và dân Đông Nam Á, phương Bắc có di truyền gần gũi với Mông Cổ. Xem một vài kết quả từ Genographic project đê dễ hình dung : M175 ~ 35.000 years ago Xin xem đoạn đối thoại sau để thấy vẩn đề này không chỉ chúng ta tìm hiểu mà TG cũng nghiên cứu nhiều : Người Nhật cũng hiểu rõ vấn đề :rolleyes:
-
Cám ơn wildlavender :rolleyes:
-
Cám ơn bác TS đã post một số văn bản có chữ Việt cổ, thật tuyệt. Đây không phải chữ Thái cổ mà là chữ Khoa Đẩu của người Lạc Việt xưa, xin xem bản so sánh sau :
-
Nhận định này thì sai lầm quá, vì văn hóa Đông Sơn mà ta quen gọi ngày nay là giai đoạn phát triển tiếp theo của các thời kỳ trước đó, chứ không phải đến thời đại Đông Sơn người Việt mới biết đúc đồng. Cụ thể các giai đoạn phát triển liên tục qua các thời kỳ : 1/Sơ kỳ đồ đồng - giai đoạn Phùng Nguyên, cách ngày nay khoảng 4000 năm. 2/Trung kỳ đồ đồng: giai đoạn Ðồng Ðậu, cách ngày nay khoảng 3300 năm đến 3500 năm. 3/Hậu kỳ đồ đồng: giai đoạn Gò Mun, cách ngày nay khoảng trên dưới 3000 năm. 4/Cuối cùng là giai đoạn Ðông Sơn thuộc sơ kỳ đồ sắt, cách ngày nay khoảng từ 2000 năm đến 2800 năm. Và cũng đừng quên giai đoạn phát triển văn minh vào cuối kỷ băng hà trên thềm lục địa Đông Nam Á Sundaland và Namhailand (8000 năm TCN) mà dấu tích còn lại đến ngày nay là các cấu trúc chìm dưới vùng biển này (như Yonaguni).
-
-
Như đã trình bày ở trên về sự khác biệt giữa chữ tượng hình và chữ ghi lại âm tiết. Bổ sung thêm một bằng chứng khảo cổ, đó là năm 1930 một hiện vật gốm quý hiếm được M-CoLan phát hiện dưới chân vách đá Lan Gan ở Hoà Bình. Ban đầu người ta chỉ coi chúng là vật trang sức, “không có công dụng thực tế, không rõ để làm gì ...” Hai chiếc đĩa cổ bằng đất nung có chữ Việt cổ (chữ O và chữ S) ở Lan Gan (Hòa Bình) Đây là những chữ cổ có tuổi khảo cổ học một vạn năm (tức là 8000 năm TCN), thuộc nền văn hoá đồ đá giữa Hòa Bình và trong đó có chữ thứ 2 giống chữ Sĩ của Hán tự ngày nay (thật ra là chữ cái S trong hệ thống chữ cái Khoa Đẩu, tuy giống về hình thức nhưng không phải là Hán tự), phát hiện này trong thời gian dài đã làm đau đầu nhiều nhà nghiên cứu, vì nó có trước Chữ Giáp cốt Ân - Thương (1392 - 1122 - Tr. CN) khoảng 6000 năm. Xem lại bài "Hệ thống giáo dục thời Hùng Vương" để thấy ở phương Nam hệ thống học thuật đã phát triển trong triều đại Hùng Vương (2879.BC - 258.BC). Chữ viết thì đã nói ở trên. Còn lý luận về số lượng người nghiên cứu thì phạm phải một sai lầm cơ bản của nghiên cứu khoa học : Số lượng người nghiên cứu không quan trọng bằng chất lượng của từng người nghiên cứu và môi trường làm việc của họ. VD : Thuyết tương đối hẹp của Einstein là công sức nghiên cứu của ông và vợ, chỉ có 2 người mà cuộc cách mạng về nhận thức của con người đã ra đời.
-
.Trống đồng là cuốn lịch dùng trong văn minh nông nghiệp lúa nước, cho nên nó hiện diện trong các nền văn hóa lúa nước là đúng rồi. Nhưng gốc rễ của nó đến từ một nền văn hóa phát triển liên tục từ sơ khai đến rực rỡ, chứ không phải từ nơi rực rỡ nhất ! Hơn nữa những hiện vật còn tồn tại đến ngày nay là do chưa bị thời gian làm mất mác đi cho nên không đủ để so sánh nơi nào phát triển hơn hay rực rỡ hơn. . Đông Sơn là một nền văn hóa bản địa của người Lạc Việt, là kết quả phát triển từ thời đồ đá (văn hoá Hòa Bình - Hoabinhian) đến sơ kỳ đồ đồng, rồi đồng thau, và tiếp là sơ kỳ đồ sắc. Một nền văn minh phát triển liên tục qua nhiều giai đoạn là gốc rễ của những khu vực chịu ảnh hưởng của nó và kế thừa nó nên vẻ bề ngoài rực rỡ hơn do tiếp nối các thành tựu có từ trước đó. Đừng nói là Thượng Hải ngày nay là cội nguồn của văn minh khoa học kỹ thuật vì nó rực rỡ và hoành tráng hơn những thành phố phương Tây già cổi ít nhà cao tầng. . .Bác LTK cần phân biệt hệ thống chữ tượng hình và hệ thống chữ ghi âm tiếng nói . . Chữ tượng hình thì miêu tả sự vật hiện tượng theo quan niệm của nền văn hóa tạo ra nó, cho nên cần rất nhiều chữ để tạo nên hệ thống. Còn chữ ghi âm tiếng nói thì chỉ cần một bộ các chữ cái để ghi lại các phát âm là đủ để "lắp ghép" chúng và tạo ra vô vàng con chữ miêu tả sự vật hiện tượng. . Xin xem thêm bài Hệ thống giáo dục thời Hùng Vương và bài Chữ Việt cổ để tìm hiểu thêm về hệ thống chữ Khoa Đẩu trong thời đại Hùng Vương. . Dưới đây là một bài thơ được viết bằng chữ Quốc Ngữ và chuyển thể sang chữ Việt cổ. Không cần quá nhiều chữ cái để thể hiện nghĩa của các từ, vì các từ được lắp ghép từ các chữ cái ghi lại âm tiết của tiếng nói : .
-
Văn minh du mục hay văn minh nông nghiệp phát triển trên một vùng đất một phần lớn do điều kiện tự nhiên của khu vực đó quyết định. Con người hiện đại ra đi từ châu Phi và chinh phục các vùng đất khác nhau trên Trái Đất, tùy theo điều kiện tự nhiên của khu vực mà hình thành nên văn hóa và văn minh của mình : Bản đồ mô phỏng quá trình di cư của con người hiện đại từ Genographic project . M175 (35.000 years ago) . Khu vực bắc Á vào cuối kỷ băng hà rất lạnh, có vùng bị đóng băng (Glacial maximum), vì thế chỉ thích hợp với cuộc sống du mục, săn bắt, vốn có lợi thế về sự di chuyển và linh hoạt ứng phó với những biến động của tự nhiên. . Khu vực đông Nam Á vào cuối kỷ băng hà có khí hậu và hệ thống sông ngòi rất phù hợp cho phát triển cuộc sống định canh định cư, hình thành văn minh nông nghiệp (khu vực này không thể sống du mục vì hệ thống sông ngòi chằn chịt) . Một trong những bằng chứng cho điều này đó là cấu trúc nhà ở. *Nhà của người du mục là nhà tròn, mái tròn, dựng lên rất nhanh và thu dọn để di chuyển cũng rất "cơ động". . *Nhà của dân nông nghiệp thì cố định, vững chắc, vì thế mà khi bán đảo Đông Nam Á bị nhận chìm một phần vào cuối kỹ băng hà, quá trình hẵn diển ra từ từ đến nổi người dân phát minh ra cấu trúc nhà sàn để "sống chung" cới con nước dâng lên cho đến khi không thể sống được trong vùng bị ngập lụt quá thường xuyên thì phải di tản lên các vùng cao, nhưng vẫn theo thói quen mà cất nhà sàn, rồi tận dụng khoảng trống bên dưới để trữ đồ đạc và chăn nuôi. . Chính từ cuộc sống du mục hay định cư nông nghiệp mà qua bao đời đã hình thành nên văn hóa và văn minh của từng dân tộc. Rồi từ đấy khi mở rộng lãnh thổ hoặc quá trình di cư sẽ truyền bá văn hóa tư tưởng của mình vào xã hội khác, tạo nên một sự đan xen mà chúng ta thấy ngày nay và cả các biến cố lịch sử xưa kia. . Đừng cho rằng du mục thì văn minh kém hơn định cư nông nghiệp, hay nông nghiệp thì kỹ thuật chiến tranh kém hơn du mục. Người du mục và người nông nghiệp đều có những nét văn minh mà xã hội kia không có hoặc không phát triển bằng. VD : * Tính "cộng đồng tự nhiên" thì người du mục rất cao, người Mông Cổ luôn tâm niệm là bạn phải sống trong cộng đồng, vì nếu ở một mình, bạn sẽ bị diệt vong trên thảo nguyên . Còn người nông nghiệp tuy có văn hóa làng xã cho từng khu vực sinh sống nhưng khi họ di cư đến một xã hội khác, họ dễ bị hòa nhập và xã hội mới và mất đi bản sắc vì không tụ cư thành một cồng đồng lớn, trừ khi có một cú sốc xã hội hoặc tự nhiên dẫn đến một nhóm lớn con người di cư đến nơi khác và sống chung. * Phát minh và xây dựng thì dân nông nghiệp rất phát triển, vì sự định cư khuyến khích họ cải tiến cuộc sống. Người du mục vì cuộc sống thường xuyên di chuyển nên cái họ cần là sự linh hoạt và cơ động, còn người nông nghiệp do cuộc sống cố định và có chu kỳ nên lịch số, kiến trúc, triết học, khoa học và nhận thức tự nhiên có điều kiện phát triển tốt hơn, ghi chép và hệ thống hóa tri thức. * Trong chiến tranh thì người du mục thường dùng mưu mẹo, còn dân nông nghiệp thường dùng quy luật tự nhiên (thời tiết, con nước) và vũ khí cấp tiến. Tuy nhiên cục diện chiến tranh do nhiều yếu tố quyết định và mức độ phát triển của vũ khí cũng như tài dụng binh, tổ chứ quân đội thì phụ thuộc rất nhiều vào "nhu cầu" mở rộng lãnh thổ hay phòng thủ.
-
Bài viết trên của GS Lê Thành Khôi đăng trên Dongtac.net Em xin phản biện một số điểm mà bác LTK đưa ra : Kinh Dương Vương thống nhất Bách Việt và lập ra vương quốc Xích Quỷ vào năm Nhâm Tuất (2879.BC) và triều đại Hùng Vương kết thúc năm 258.BC với CHI thứ 18, chi cuối cùng của họ Hùng Vương. Mỗi chi gồm nhiều đời vua tống cộng có hơn 47 đời vua. Từ trước đến nay “chúng ta” thường nghĩ rằng “đời” vua Hùng là giai đoạn sinh sống của một vị vua thuộc họ Hồng Bàng, cho nên với 18 đời vua mà thời gian kéo dài đến 2622 năm thì có vẻ rất vô lý. Gần đây công trình nghiên cứu của Trần Huy Bá về Hùng Vương và sự tích “Hùng Triều Ngọc Phả” do Nguyễn Như Đỗ sống vào thời nhà Lê ghi rõ ràng như sau:”Thời đại Hùng Vương kéo dài 2622 năm gồm 47 đời vua”. Theo Hùng Vương Ngọc Phả thì chữ Đời Vua dùng trong 18 đời vua Hùng không phải là một đời người mà là “một dòng (chi) gồm nhiều đời”. Riêng dòng Hùng Vương thứ 18, chi cuối cùng của thời đại Hùng Vương đã gồm 3 đời vua trị vì. Hiện nay ở Đình Tây Đằng, huyện Ba Vì, tỉnh Vĩnh Phú, còn bài vị “Tam Vị Quốc Chúa”. thờ 3 vị vua cuối cùng thuộc dòng Hùng Vương thứ 18 này. Chi này chấm dứt vào năm 258TCN. Theo sự tích Ngọc Phả thì mỗi dòng vua được gọi là một “Chi”. Mỗi chi gồm nhiều đời vua và được xếp theo thứ tự bát quái và thập can như sau: Càn, Khảm, Chấn ,Cấn ,Khốn, Ly, Khôn, Đoài và Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỳ, Canh,Tân, Nhâm, Qúy. Cũng theo sự tích Ngọc Phả này thì thời Hùng Vương gồm cả thảy 47 đời vua theo thứ tự như sau: 1/ Chi Càn: Kinh Dương Vương. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên chép như sau:”Kinh Dương Vương là vị vua đầu tiên của nước Đại Việt ta, lên ngôi năm 2879.TCN”. Kinh Dương Vương húy là Lộc Tục, sinh năm Nhâm Ngọ (2919TCN), lên ngôi năm 41 tuổi, trị vì 86 năm từ năm Nhâm Tuất (2879TCN) đến năm Đinh Hợi (2794TCN). 2/ Chi Khảm: Lạc Long Quân. Lạc Long Quân húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825TCN), lên ngôi năm 33 tuổi. Chi này kéo dài 269 năm, từ năm Mậu Tý (2793TCN) đến năm Bính Thìn (2525TCN). Thời kỳ này được truyện cổ tích về họ Hồng Bàng gọi là huyền sử Rồng Tiên. Tài liệu không ghi rõ là có mấy đời vua của chi này. 3/ Chi Cấn: Hùng Quốc Vương. Hùng Quốc Vương húy Hùng Lân, thế này trị vì từ năm Đinh Tỵ (2524TCN) đến năm Bính Tuất (2253TCN), kéo dài 271 năm. Tài liệu không ghi rõ là có mấy vị vua trong chi này. 4/ Chi Chấn: Hùng Hoa Vương. Hùng Hoa Vương tức Hùng Bửu Lang. Lên ngôi năm Đinh Hợi (2254TCN) chi này trị vì suốt 342 năm, tức là đến năm 1712TCN, tài liệu cũng không ghi rõ gồm mấy vị vua. 5/ Chi Tốn: Hùng Huy Vương húy Bảo Lang sinh năm 2030TCN, lên ngôi năm 59 tuổi. Chi này kéo dài 200 năm tới năm 1771TCN. Không ghi rõ có mấy vị vua của chi này. 6/ Chi Ly: Hùng Hồn Vương. Hùng Hồn Vương húy Long Tiên Lang, sinh năm 1740TCN, chi này gồm 2 đời vua kéo dài 81 năm đến năm 1690TCN. 7/ Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương. Hùng Chiêu Vương húy Quốc Lang, sinh năm 1502TCN, lên ngôi năm 12 tuổi. Chi này gồm 5 đời vua kéo dài 200 năm từ năm 1690TCN đến năm 1490TCN. 8/ Chi Đoài: Hùng Vĩ Vương. Hùng Vĩ Vương húy Văn Lang, sinh năm 1466TCN, lên ngôi năm 31 tuổi. Chi này gồm 5 đời vua cả thảy là 100 năm, từ năm 1435TCN đến năm 1335TCN. 9/ Chi Giáp: Hùng Định Vương. Hùng Định Vương húy Chân Nhân Lang, sinh năm 1381TCN, lên ngôi năm 45 tuổi. Chi này gồm 3 đời vua kéo dài được 80 năm từ năm 1336TCN đến năm 1256TCN. 10/ Chi Ất: Hùng Uy Vương. Hùng Uy Vương húy Hoàng Long Lang, sinh năm 1294TCN, lên ngôi năm 37 tuổi, chi này gồm 3 đời vua kéo dài được 90 năm, từ năm 1257TCN đến năm 1167TCN. 11/ Chi Bính: Hùng Trinh Vương. Hùng Trinh Vương húy Hưng Đức Lang, sinh năm 1218TCN, lên ngôi năm 51 tuổi. Chi này gồm 4 đời vua kéo dài 107 năm, từ năm 1168TCN dến năm 1061TCN. 12/ Chi Đinh: Hùng Vũ Vương. Hùng Vũ Vương húy Đức Hiền Lang, sinh năm 1114TCN, lên ngôi năm 52 tuổi, chi này có 3 đời vua, kéo dài 96 năm từ năm 1062TCN đến năm 966TCN. 13/ Chi Mậu: Hùng Việt Vương. Hùng Việt Vương húy Tuấn Lang, sinh năm 990TCN, lên ngôi năm 23 tuổi, chi này có 5 đời vua kéo dài 105 năm từ năm 967TCN đến năm 862TCN. 14/ Chi Kỷ: Hùng Anh Vương. Hùng Anh Vương húy Viên Lang, sinh năm 905TCN, lên ngôi năm 42 tuổi, chi này có 4 đời vua kéo dài từ năm 863TCN đến năm 779TCN tức là 89 năm. 15/ Chi Canh: Hùng Triệu Vương. Hùng Triệu Vương húy Chiêu Lang, sinh năm 745TCN, lên ngôi năm 35 tuổi, chi này gồm 3 đời vua kéo dài từ năm 780TCN đến năm 686TCN tức là được 94 năm. 16/ Chi Tân: Hùng Tạo Vương. Hùng Tạo Vương húy Đúc Quân Lang, sinh năm 740TCN lên ngôi năm 53 tuổi, chi này có 3 đời vua kéo dài từ năm 687TCN đến năm 595TCN, tức là được 92 năm. 17/ Chi Nhâm: Hùng Nghi Vương. Hùng Nghi Vương húy Bảo Quang Lang, sinh năm 605TCN, lên ngôi năm 9 tuổi, chi này có 4 đời vua kéo dài từ năm 596TCN đến năm 336TCN tức là được 160 năm. 18/ Chi Qúy: Hùng Duệ Vương. Hùng Duệ Vương húy Huệ Vương, sinh năm 350TCN lên ngôi năm 14 tuổi, chi này có 3 đời vua kéo dài từ năm 337TCN đến năm 258TCN tức là được 79 năm. Quan niệm sai lầm nhất là cho rằng các huyền thoại là hoang đường. Vì huyền thoại là Thông Điệp mà người xưa gởi đến con cháu, hiểu huyền thoại theo nghĩa đen thì không bào giờ thấy được nội dung thộng điệp bên trong. Còn về bằng chứng lịch sử cho thời đại Hùng Vương thì bao gồm bằng chứng về các giai đoạn phát triển liên tục của văn hóa tiền Đông Sơn đến Đông Sơn và bằng chứng về hệ thống giáo dục cổ đại thời Hùng Vương. Hàng trăm địa điểm thuộc văn hóa Đông Sơn đã được khai quật nghiên cứu, qua đó giúp ta hiểu được một quá trình phát triển liên tục, nội sinh qua bốn giai đoạn phát triển: 1/Sơ kỳ đồ đồng - giai đoạn Phùng Nguyên, cách ngày nay khoảng 4000 năm. 2/Trung kỳ đồ đồng: giai đoạn Ðồng Ðậu, cách ngày nay khoảng 3300 năm đến 3500 năm. 3/Hậu kỳ đồ đồng: giai đoạn Gò Mun, cách ngày nay khoảng trên dưới 3000 năm. 4/Cuối cùng là giai đoạn Ðông Sơn thuộc sơ kỳ đồ sắt, cách ngày nay khoảng từ trên dưới 2000 năm đến 2800 năm. Xin xem thêm bài Đồ đồng cổ Đông Sơn và bài Tên đồng thành Cổ Loa để hiểu rõ hơn về khía cạnh vật chất của văn minh Đông Sơn thuộc thời đại Hùng Vương. Tiếp theo xin xem thêm bài Hệ thống giáo dục thời Hùng Vương để thấy thời đại Vua Hùng đã phát triển một nền học thuật giúp đào tạo hiều tài cho đất nước và cũng thể hiện một khía cạnh phi vật chất của quá trình phát triển liên tục, nội sinh của văn minh Đông Sơn.