Duy Tuấn

Thành viên diễn đàn
  • Số nội dung

    9
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    1

Duy Tuấn last won the day on Tháng 11 21 2017

Duy Tuấn had the most liked content!

Danh tiếng Cộng đồng

19 Good

About Duy Tuấn

  • Rank
    Mới gia nhập
  • Birthday 25/11/1988

Thông tin cá nhân

  • Đến từ
    Đê La Thành, Hà Nội

Xem hồ sơ gần đây

824 lượt xem hồ sơ
  1. Mối liên hệ tương tác giữa con người với thiên nhiên là một quy trình vô cùng kì diệu, con người sử dụng, tương tác các dạng vật chất kim, mộc, thủy, hỏa, thổ để phục vụ các mục đích sinh tồn và phát triển của mình. Tôi vẫn chỉ có niềm yêu thích lớn nhất đối với nguyên tố "Thổ" (do học địa chất hơi bị lâu) nên giới thiệu với mọi người cách sử dụng đá sao cho lành nhất, tạo hiệu quả cao nhất. Quy trình sử dụng đá trong phong thủy. Gồm có 3 bước cơ bản: Bước 1: Tẩy rửa năng lượng cho đá Sử dụng các loại khoáng vật, cây cỏ có tính dương như muối, gừng thái lát pha với nước để tẩy rửa đá trước khi sử dụng. Nếu có thể, nên phơi nắng trong khoảng 7 ngày đêm là dùng được. Mục đích: để loại bỏ đi các năng lượng tạp nhiễm vào các dòng đá có trước đó, đôi khi ta không thể biết nó là loại năng lượng tích cực hay tiêu cực nên tốt nhất là tẩy rửa lại từ đầu để viên đá ở trạng thái năng lượng tự nhiên, lành nhất. Bước 2: Lập trình hóa (programming) năng lượng cho đá Đây là bước cao cấp hơn, có 2 lối suy nghĩ chính: 1 là nên nhờ những người cao tay hoặc nhà sư nạp năng lượng cho đá, lối này thường ở các nước phương Đông là nhiều; lối thứ 2 hay gặp ở các nước Châu Âu là tự mình nạp năng lượng cho đá, lúc đầu có thể yếu nhưng nó hợp với mình hơn và đi theo mình mãi mãi, quy chế giống như bình ắc quy- nạp năng lượng tích cực lúc mình đang khỏe mạnh, vui tươi, thành công và sử dụng dần lúc mình mệt mỏi, buồn rầu hoặc ko thành công lắm. Lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy sẽ tạo ra một mối liên kết giữa người chủ và viên đá của mình. Một số kinh nghiệm về cách thức nạp năng lượng cho đá của tôi như sau: 2 tay để trên viên đá đã được rửa sạch, tư thế lưng thẳng, lưỡi đóng vào huyệt ngân giao, hậu môn hơi nhíu để nối mạch nhâm- đốc; hít khí vào và nén lại tích tại huyệt thần đạo và xuất ra theo cả 2 tay đi vào huyệt đại lăng (nguyên huyệt, hành thổ kinh thủ quyết âm tâm bào) và xuất ra huyệt lao cung (huỳnh huyệt hành hỏa kinh thủ quyết âm tâm bào); lưu ý là phần huyệt lao cung của 2 tay phải áp thật sát viên đá, cảm giác có luồng khí liên tục đổ từ huyệt thần đạo (luân xa 4, chủ về tim) đổ vào lao cung 2 tay vào viên đá sao cho đến khi có cảm giác tay giống như có 1 lực từ viên đá đẩy ra là được. Bước 3: Tạo mối liên kết với đá Khi đã nạp năng lượng cho đá, cần hiểu hơn về hành vi năng lượng của từng loại. Có thể phân là 3 loại chính: 1. Loại có tính phát tán khí cao: dành cho người mới biết về đá- hoặc là người có khả năng điều khiển năng lượng cho mục đích riêng. Điển hình của loại này là thạch anh hồng, mã não, mắt hổ… những loại này dễ điều khiển, bảo gì nghe nấy, không có khả năng không nghe lời bởi chúng vốn lành, không cương mãnh quá. Với người mới biết về đá thì có thể sử dụng những loại như trên. Ở phương Tây, các dòng này thường được xếp vào họ “enhance” tức tăng cường, bồi bổ… Những người hay phong thủy, nếu trong điều kiện muốn sử dụng khí lực của chính mình để cải thiện trường khí năng lượng cho ngôi nhà, bệnh nhân thì dùng loại này rất phù hợp bởi khả năng dễ điều khiển theo ý mình của nó. 2. Loại có tính chặn tà khí cao: dành cho người biết sâu hơn về đá. Loại này nó có mức level năng lượng cao hơn một bậc. Thường được xếp vào họ “ground” hay “protect”tức chặn tà. Điển hình là tourmaline đen. Bản thân loại này nó có sẵn khả năng chặn tà tự nhiên rất mạnh, nên đôi khi nó không thích bị điều khiển bởi một lực nào khác. Do đó với người làm phong thủy sẽ sử dụng tùy từng mục đích, lúc xác định các tình huống làm mạnh phong thủy chỉ bằng lực tự nhiên từ đá thì dùng loại này rất phù hợp, còn nếu sử dụng trong các mục đích cần thêm khí lực của mình mới đủ mạnh thì sẽ không sử dụng loại này. 3. Loại có linh tính : loại này xin phép không nói tên ra. Nó có tính liên kết rất chặt với người sử dụng, người khác thường khó cảm nhận khí của nó lúc đầu (nên đánh lừa cảm giác của rất nhiều người có chuyên môn phong thủy) nhưng khi có liên kết theo thời gian nhiều hơn thì độ cảm nhận năng lượng của nó bắt đầu mạnh lên và trở lên rất mạnh. Loại này tương tác với con người theo 2 cách: trực tiếp là chạm trực tiếp vào nó thì tôi gọi là tương tác đá- người: sử dụng để cân bằng khí thì như cách nạp khí tuy nhiên 1 tay là hút vào theo lao cung bên tay phải, tay trái phát khí vào viên đá tạo thành hình vòng tròn. Cách gián tiếp còn mạnh hơn cách trực tiếp, là lập tức đặt viên đá xuống dưới đất, với người nhạy lập tức có cảm giác rất đặc biệt là dòng khí từ đất đổ lên như được làm sạch, trở nên mạnh mẽ và dương khí, vượng khí hơn rất nhiều và con người gián tiếp được hưởng dòng khí này khi đứng trong phạm vi bán kinh ảnh hưởng của viên đá. Lưu ý là việc đặt trực tiếp xuống đất mạnh gấp 4,5 lần các bạn đặt viên đá trên bàn gỗ, hay là vị trí có vải. Điều này là do hệ nối đất giữa viên đá với đất tạo ra năng lượng cộng hưởng rất mạnh, nếu bị cách đi thì là cách gia giảm năng lượng sao cho phù hợp với người mình- nếu yếu thì đặt lên vật bằng gỗ hoặc vải- nếu muốn mạnh nhanh thì đặt luôn xuống đất hoặc chôn. Ngoài ra ở trình độ cao hơn có thể xoay hướng của viên đá sao cho trục Bắc- Nam trong viên đá trung với trục Bắc - Nam của từ trường Trái Đất, kỹ thuật này có thể làm năng lượng phong thủy của nhà tăng lên rất rất nhiều. Khi đã hiểu bản chất của các dòng đá mình đang sở hữu, thì chúng ta cần thời gian, cần mối quan tâm, cần sự tin tưởng vào sự trao đổi năng lượng giữa tự nhiên với con người thì những lực của tự nhiên mới tương tác trở lại và bồi bổ năng lượng cho con người. Những điều tôi viết ra chỉ mang giá trị tham khảo bởi đó chỉ là những trải nghiệm nghiên cứu của 1 cá nhân, và mỗi cá nhân thì đều có những trải nghiệm với thiên nhiên theo một cách khác nhau. Nếu các bạn có thể áp dụng được sau khi đọc bài viết này thì tôi rất vui còn nếu cảm thấy có gì thắc mắc đều có thể hỏi inbox cho tôi.
  2. Cộng hưởng từ schumann là loại từ trường tự nhiên thứ 2 của trái đất và nó do sấm sét tạo ra. Sấm sét khi phóng điện ra sẽ phát sinh một bước sóng điện từ trường đập xuống bề mặt đất với điện thế=0; và sau đó phản ngược lại lên tầng điện ly với điện thế = 500.000volt. Do Trái Đất trong bất cứ khoảng khắc nào cũng có vài chục đến vài trăm cơn sét nên chúng tạo ra một màn từ trường riêng biệt và tất cả các sinh vật, vật thể vô cơ đều sẽ chịu lực tương tác từ trường này. Tần số của loại bước sóng này được tính bằng số lần chúng đi vòng quanh Trái Đất trong 1s nên nó là hàm của vận tốc ánh sáng/ chu vi trái đất = 7,83hz. Chúng có các bước sóng cộng hưởng harmonic với chúng và phổ cập là 7 tần số chính (có khả năng liên quan đến con số 7 của 7 luân xa trên cơ thể người). Do chúng là 1 loại loại từ trường nhỏ nhỏ hơn từ trường do nhân niken của Trái đất cỡ 10 triệu lần nên việc xác định ra loại từ trường này mới chỉ được vài chục năm trở lại đây. Tuy có cường độ yếu nhưng chúng lại có lực tương tác riêng tương tác rất mạnh đến các hoạt động của hệ thống tuần hoàn, và thần kinh của con người; biểu hiện qua lâm sàng rõ nét thì là hệ xương khớp. Xét trên thế giới sinh vật theo quan điểm của tôi có thể phân ra làm 2 loại; loại dương và âm. Ví dụ như con người và các động vật có vú trừ họ nhà mèo là dương- tượng trưng cho thích hợp sinh sống trong môi trường có schumann không bị biến đổi. Và loài âm như vi khuẩn, virus, rêu nấm mốc, mèo- tượng trưng cho các loài thích hợp sống ở nơi có trường schumann bị biến đổi, lệch đi theo xu hướng tăng tần số cao hơn. Tôi quan niệm thế giới tự nhiên luôn luôn ưu ái cho cả 2 loài này, có vùng đất ưu ái cho loài này và có vùng đất ưu ái cho loài kia; do đó với con người là loài dương thì cần phải sinh sống tại nơi có đất phù hợp là dương tức là nơi có từ trường schumann không bị biến đổi. Vậy nguyên nhân gì khiến cho có các vùng đất bị biến đổi và đang tốt trở thành xấu: Nó gồm rất nhiều nguyên nhân nhưng tôi sẽ phân tích 2 nguyên nhân chủ đạo đó là nước ngầm và đứt gãy. Trong bài này tôi nói về Đứt gãy, hoặc khe nứt Đứt gãy ở đâu cũng có, ngay bản thân chỗ đất đồng bằng ta đứng trên thực ra ở dưới có các hệ tầng cổ hơn có độ gắn kết chắt, mặt cắt gồ ghề và nó chính là các hệ thống núi non; chúng có các hệ thống đứt gãy tạo nên sự gồ ghề của địa hình đấy. Và bản thân các hệ thống này cũng tạo ra sự nhiễu loạn schumann khác nhau tùy từng thời điểm. Ví dụ như sau: Khi có 1 hệ thống đứt gãy trẻ hoạt động và tạo ra 1 vết nứt lớn và ảnh hưởng lên mặt đất- đất chỗ đó là địa khí kém. Tuy nhiên theo thời gian tôi nhận ra tự nhiên nó có khả năng tự làm lành vết thương- bằng cách là các hợp chất sét rất nhỏ, và do các mạch thạch anh nhiệt dịch thừa mứa bên dưới liên tục đùn lên qua các hệ thống khe nứt và trám nó lại- thì nó lại làm cho địa khí tốt dần lên. Cơ chế tự làm lành(tự trám bằng cách vật liệu siêu mịn và giàu thạch anh) và cũng tự làm xấu (động đất, đứt gãy) này là liên tục và tạo ra 1 vòng tuần hoàn giống như vòng tuần hoàn sinh- tử của đá vậy (phun trào lên từ miệng núi lửa là giai đoạn sinh ra đá; và bị vùi theo năm tháng hàng tỉ năm dưới lớp vỏ thạch quyển đến nơi có đủ nhiệt độ nung chảy nó thì là giai đoạn chết của đá). Vậy đứt gãy, khe nứt này nhìn trên thực địa có thể thấy như thế nào? Đầu tiên ta nhìn hình dạng một hòn núi, do cơ chế phong hóa là cơ chế bóc mòn tự nhiên làm cho đá bị vỡ vụn, vỡ nát ra thành các hạt nhỏ hơn thì tùy vào công thức hóa học mà mỗi loại đá nó có độ chống chịu với thiên nhiên khác nhau. Các dãy núi đá có hình thù lởm chởm, gai góc, dựng đứng thành vách thì ở nước ta chắc chắn là núi đá vôi. Bản thân loại đá này do hình thành từ trầm tích biển có xác động vật chết nhiều nên tôi quan niệm nó không mạnh về trường năng lượng cho lắm. Do hệ khe nứt của loại này chằng chịt nên địa khí cũng bị phân bố theo khe nứt thành các đường tuyến tính có bán kính tác động tương đối nhỏ và lặp đi lặp lại liên tục. Có thể xác định được hướng của khí mạch dựa vào giá trị đường phương của đứt gãy. Loại thứ hai điển hình khi nhìn là tạo ra các đồi thoai thoải, hình tròn hay bầu dục, không có góc cạnh, thành vách thì là granit hoặc bazan. Những loại đất ở núi thế này năng lượng cũng tốt hơn so với đất gần đá vôi. Lưu ý một số nơi có granit có phóng xạ cao thì mới phải tránh. Loại này địa khí nếu xấu thường to hơn loại đá vôi; thỉnh thoảng có những mạch rất mạnh vì có thạch anh cộng sinh với vàng, pyrite chui vào các khe nứt đứt gãy theo dạng nhiệt dịch. loại này xem hệ đứt gãy khó hơn vì đá phong hóa thành đất lấp hết đứt gãy ở dưới. Kết luận 1. Quy luật chung về địa khí liên quan đến đứt gãy: vì đứt gãy không thể đang chạy mà lại mất ngay được nên các mạch địa khí loại này có thể nói gọn trong từ "có đầu vào và có đầu ra"; xấu cũng theo mạch mà tốt cũng phải theo cái mạch đó. 2. Đứt gãy thường có tính tuyến tính cao, ví dụ như hệ đứt gãy Tây Bắc- Đông Nam thì cũng chỉ cần nắm quy luật đó đo 1 đường vuông góc là ra hệ mạch tốt- xấu xen kẽ nhau tạo ra hình sin của biểu đồ năng lượng địa khí. 3. Theo kinh nghiệm của tôi, các đứt gãy sâu thường thì được trám lại hết rồi, nhưng các khe nứt nhỏ hơn, lan toản khó lường hơn và nông chỉ vài chục m mới được hình thành vài ngàn đến vài trăm ngàn năm thì lại là đối tượng chính gây ra vùng có địa khí xấu. 4. Đặc tính tuyến tính có thể bị sai lệch nếu vùng đó có các loại khoáng sản đặc biệt như đá quý corindon, ruby,saphia, thạch anh nhiệt dịch và tinh thể, vàng v.v. Lúc này địa khí tốt theo dạng vùng, kết hợp với tuyến tính. 5. Việc luyện tập đo địa khí có thể dễ dàng hơn rất nhiều cho người mới tập nếu đo trong vùng có đá vôi do có thể nhìn được bằng mắt hệ thống đứt gãy lộ ra; tương đối khó với môi trường đồng bằng vì không nhìn thấy gì và không biết cảm giác nào là đúng sai.
  3. Trên Trái đất có rất nhiều nguồn phát từ trường khác nhau, từ trường Bắc- Nam được áp dụng trong la kinh là loại từ trường được tạo ra từ nhân niken của Trái Đất. Một loại từ trường khác được quan tâm ít hơn do mới được tìm ra và bắt đầu phát triển vài chục năm nay và áp dụng trong địa khí nhiều hơn là từ trường do sấm sét tạo ra, hay còn gọi là cộng hưởng từ trường Schumann, tần số của nó có dải tần điển hình là 7,83hz và các bội số harmonic của nó. Xét hiện nay một số người sử dụng máy đo từ trường Trái Đất để xét địa khí đất tốt hay xấu, hay tìm vong v.v. như trong quảng cáo thì tôi khẳng định là sai lầm bởi lẽ nó đo từ trường tự nhiên do nhân của Trái Đất. Và hệ phương pháp của cách đo từ trường tự nhiên này đã được xây dựng có hệ thống và rất chặt chẽ với độ nhạy gấp từ 1000 đến 10000 lần các máy đo cầm tay mà một số người sử dụng.Các loại máy trên thông thường được xếp vào dòng đo các bước sóng điện từ trường tần số siêu thấp (Extreme low frequency) hay viết tắt là EMF, đơn vị là nT. các loại trên hiện nay được sử dụng trong thị trườngxác định trường sóng điện từ có hại do các thiết bị điện chứ không phải trường sóng EMF tự nhiên do như đã đề cập ở trên cần nhạy hơn 1000 đến 10000 lần và có thuật toán ngừng đọc số liệu khi bị nhiễu do ở gần vật liệu là sắt từ. Hệ phương pháp khoa học cơ bản của nó có thể được miêu tả ngắn gọn như sau: Phương pháp từ Mục tiêu Mục tiêu của phương pháp từ là thành lập bản đồ trường từ tổng T và dị thường từ DTa nhằm : - Xác định đặc điểm trường từ T và trường dị thường từ DTa. - Phát hiện và phân chia các thành tạo địa chất cổ, các đới cấu tạo và magma ở độ sâu lớn hơn độ sâu nghiên cứu của phương pháp địa chấn. - Phát hiện và theo dõi hệ thống đứt gãy kiến tạo. I. Thiết bị 1. Thiết bị đã sử dụng trong quá trình đo từ trên các tuyến là từ kế Proton vô hướng. Thiết bị có các đặc trưng kỹ thuật chính : - Giải đo từ 33000 nT đến 56000 nT. - Độ phân giải : 1 nT. - Chu kỳ đo : 5 giây. 2. Máy đo biến thiên từ tại trạm quan sát cố định(cách mặt đất vài chục cm nơi có từ trường ổn định, không bị ảnh hưởng bởi sắt và các thiết bị điện, các dây dẫn điện 60hz). Máy đo biến thiên từ được sử dụng là máy từ PM2 HT do công ty điện tử kỹ thuật cao sản xuất, là loại máy từ Proton. Máy thu thập dữ liệu từ trường ngày đêm Trái đất. Máy có các đặc trưng kỹ thuật chính sau: - Độ phân giải : 0,1 nT - Giải đo : 30000 đến 70000 nT. Tự động điều hưởng hoặc đặt cộng hưởng bằng tay. - Chu kỳ đo : 5s đến 180s. Các thiết bị đo từ biển và đo biến thiên từ trên đã được kiểm định trước khi sử dụng đo đạc, thu thập số liệu ngoài thực địa. II. Phương pháp xử lý số liệu từ Gồm các dạng công việc: - Tính giá trị hiệu chỉnh biến thiên, giá trị hiệu chỉnh Đeviaxia. - Tính trường từ tổng T theo công thức: T = Tđo – (dTbt + dTđe) Trong đó : dTbt: Giá trị hiệu chỉnh biến thiên từ. dTđe: Giá trị hiệu chỉnh Đeviaxia. Giá trị trường từ tổng T được tính cho các điểm dọc theo tuyến đo cách nhau 2 phút. -Thu thập số liệu trường từ bình thường To theo IGRF do Viện vật lý địa cầu cung cấp. - Tính giá trị ΔTa theo công thức: ΔTa = T – To. Trong đó : T : giá trị trường từ tổng. To : giá trị trường từ bình thường. - Sử dụng mạng lưới liên kết nội gồm các tuyến ngang và 2 tuyến dọc, tiến hành cân bằng mạng lưới theo phương pháp Virg. - Thành lập bản đồ và luận giải tài liệu từ: Các bản đồ từ gồm: + Bản đồ trường từ tổng T. + Bản đồ dị thường từ ΔTa. Trên cơ sở hai bản đồ trên, luận giải để góp phần xác định các đới cấu tạo, các hệ thống đứt gãy kiến tạo, các thể magma xâm nhập ẩn. Phân tích định lượng một số dị thường đặc trưng nhằm xác định vị trí không gian và bản chất của vật thể gây từ. Số liệu từ sau khi xử lý được sử dụng để thành lập bản đồ trường từ tổng T và bản đồ dị thường từ ∆Ta. Từ các bản đồ này tiến hành việc luận giải tài liệu từ dựa vào đặc điểm của trường từ như mức độ phức tạp của trường từ, giá trị trường từ, đặc điểm dị thường từ… nhằm xác định bản chất các dị thường từ, xác định các khối cấu trúc, xác định các hệ thống đứt gãy . Các dữ liệu từ gốc được hiệu chỉnh Deviaxia, biến thiên từ ngày đêm và được lọc dữ liệu 2 phút 1 lần ghi và lưu dưới dạng Excel. Các File Excel được đưa vào trong Surfer để Grid và tạo ra bản đồ trường từ tổng. Đường đẳng trị được vẽ với tiết diện 20 nT Từ dữ liệu trường từ tổng và dữ liệu trường từ bình thường thành lập ra bản độ dị thường từ ∆Ta bằng phương pháp trừ giá trị của 2 tập dữ liệu. Nhập dữ liệu Grid của 2 bản đồ trường từ tổng và bản đồ dị thường từ ∆Ta vào trong phần mềm Global Mapper để tạo đường đẳng trị có tiết diện 20 nT, làm trơn và xuất ra file Map Info. III. Đặc điểm trường từ tổng T - Trường từ tổng T có giá trị thay đổi từ 43220 đến 44140 nT, giá trị cao ở Bắc và yếu hơn ở Nam (nơi gần xích đạo hơn). - Phần diện tích phía Bắc trường từ tương đối bình ổn, mang dáng dấp của trường từ bình thường. - Phần diện tích còn lại trường từ bị nhiếu loạn hơn, các đường đẳng trị có sự thay đổi về phương so với phương của đường đẳng trị trường từ bình thường, đồng thời cũng xuất hiện nhiều dị thương với qui mô và giá tri nhỏ. Mức độ phức tạp nhất của trường từ nằm ở trung tâm diện tích nghiên cứu). Sự nhiễu loạn của trường từ và sự xuất hiện các dị thường từ có lẽ là do có các hoạt động của các hệ thống đứt gãy kiến tạo và hoạt động magma gây lên IV. Đặc điểm trường dị thường từ ∆Ta Trường dị thường từ ∆Ta có một số đặc điểm sau : - Giá trị dị thường từ ∆Ta đều mang giá trị âm, từ - 100 nT đến – 300 nT. - Phần diện tích trung tâm nghiên cứu trường dị thương từ có giá trị âm lớn nhất từ -160 đến -300 nT. Về phía Bắc và phía Nam trường dị thường từ mang giá trị âm nhỏ hơn, giá trị thay đổi từ -140 nT đến -100 nT. Với đặc điểm trường từ như trên có thể nhận thầy diện tích nghiên cứu nằm trọn trong trũng trung tâm bể sông Hồng. Tuy nhiên phần trung tâm diện tích nghiên cứu móng cenozoi nổi cao hơn và hạ thấp dần về hai phía. Ngoài ra tại vị trí trên tuyến “A” mặt cắt địa chấn nông phân giải cao phát hiện được khối nhô là thành tạo gắn kết cổ trước Đệ tứ thì trường dị thường từ cũng xuất hiện một dị thường yếu dạng đẳng thước, giá trị dị thường từ -80 đến -140 nT. Kết hợp hai loại tài liệu có thể cho rằng dị thường từ nay phản ánh thành tạo gắn kết thấy được trên mặt cắt địa chấn và thành tạo này có thể là một khối magma xâm nhập bị chôn vùi bởi các thành tạo bở rời Đệ tứ. Dựa vào tài liệu từ, theo nguyên tắc xác định đứt gãy đã trình bày ở phần trên, trên diện tích nghiên cứu đã xác định được 6 đứt gãy phương Đông Bắc -Tây Nam, 2 đứt gãy phương Tây Bắc – Đông Nam, 2 đứt gãy này có thể là phần kéo dài của đứt gãy trên đất liền. Theo phương á kinh tuyến xác định được 2 đứt gãy, phương á vĩ tuyến xác định được 1 đứt gãy. Qua tài liệu trên, có thể kết luận như sau: 1. Từ trường Trái Đất có xu hướng yếu đi khi vào đường xích đạo, và mạnh hơn ở 2 cực của Trái Đất- theo trục Bắc- Nam. 2. Từ trường tạo ra bởi sự xoay theo hiệu ứng Devaxia có giá trị hơn nhiều so với việc di chuyển trong không gian(liên hệ với các môn phái khí công, nó tạo ra những phép tập luyện như xoay liên tục vài chục cái của yoga Tây tạng hay vài trăm- một mức tương đối cực đoan hóa, quá thừa của các môn phái hồi giáo). 3. Từ trường này sử dụng trong xác định dị thường từ trường do đứt gãy sâu, các thể dị thường địa chất bên dưới với điều kiện độ nhạy cao, giá trị thay đổi trong ngưỡng vài chục nT thôi. Các máy hiện nay dùng trong thị trường hoàn toàn không có đủ độ nhạy để làm công việc trên, không có thuật toán chặn tín hiệu nếu có nhiễu do sắt, không có cách để xử lý các hiệu ứng từ ngày đêm và devaxia thì không bao giờ đo được dị thường trái đất bên dưới và càng không thể xác định được địa khí đất. Những thiết bị đó chỉ đo được những loại từ trường có cường độ mạnh hơn rất nhiều là từ trường do thiết bị điện gây ra thì sử dụng được. 4. Các pháp phong thủy liên quan đến trục từ trường Bắc- Nam chính là một dạng của mượn lực từ trường tự nhiên này mà làm địa khí, làm tăng địa khí của đất lên. Dù gì tuy khác nguồn so với từ trường do sấm sét nhưng chúng cũng liên quan đến nhau. Việc tăng năng lượng theo từ trường nhân niken của trái đất cũng làm tăng năng lượng theo từ trường do sấm sét schumann resonance. 5. Một vấn đề quan trọng nữa đó là tính "lưỡng cực từ" tạo ra dị thường dương hay âm; trong 1 số tài liệu cổ của phương tây viết về nghệ thuật làm tăng địa khí đất... thì với các trường hợp đặc biệt cần làm những nơi thờ tự tâm linh lớn, tìm đất tốt thì không nói tuy nhiên có những trường hợp ở 1 vùng mà thường là tìm đất xấu rất nặng thì dễ hơn tìm đất rất tốt ở đẳng cấp tương đương, thì họ tìm những vùng đất càng nặng càng tốt, càng nhiều dạng mạch,đứt gãy, nước ngầm cắt ngang qua càng tốt sau đó họ lợi dụng tính chất lưỡng cực từ trên... đảo ngược cực từ, biến cái chí âm chí tà thành cái chí dương. Kỹ thuật này không rõ có liên quan tới pháp nào trong nền văn minh đông phương không? nhưng tôi coi là một kỹ thuật đỉnh cao trong mảng phong thủy địa khí.
  4. Các định luật về khí áp dụng trong nhà (P2) Góc nhìn về các loại sát khí do "phong"- ví dụ trường hợp Thiên trảm sát. Xét 2 tòa nhà chung cư nằm cạnh nhau có khoảng cách rất gần tạo ra 1 khe hẹp kéo dài. Các khối khí khi dồn từ bên ngoài vào ở trạng thái vận tốc tuyến tính khi bị ép vào khe trên sẽ tạo ra vận tốc lớn vượt quá lực ma sát k gây ra hiện tượng "dòng chảy rối". Lúc này mật độ khí tăng lên và lúc này "Thiên trảm sát" sẽ tác động đến 2 trường hợp: trực xung đối diện với nó và nằm trên đường đi của nó. Trường hợp mà ai cũng biết đó là những căn nhà đối diện trực xung với khe hẹp trên chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Tuy nhiên theo nhận định của tôi trường hợp thứ 2 cũng bị ảnh hưởng nhưng nhẹ hơn là các nhà thuộc 2 tòa chung cư có mặt giáp với khe hẹp đó. Phân tích trường hợp 2 (nhẹ hơn): Các yếu tố phong thường theo cơn, theo đợt. Và có thể phân ra làm 2 pha, pha 1 khi bắt đầu cơn gió, mật độ khí tăng =>áp suất tăng lên và tràn vào các ngôi nhà (mở cửa ban công nhưng đóng cửa chính- trường hợp phổ biến) khiến mật độ khí trong nhà tăng lên. Pha 2: khi hết đợt gió đó để lại khoảng trống về mật độ phía sau- khí trong các ngôi nhà này bị rút ra rất nhanh và theo quán tính- lượng khí rút ra này còn nhiều hơn khí vào ban đầu khiến mật độ khí trong nhà giảm- tôi gọi là thoát khí. Nó tạo ra tính bất ổn định một cách bất thường về mật độ khí trong nhà- do đó cũng ảnh hưởng đến con người trong ngôi nhà đó. Chưa kể đến việc vận tốc khí cao thường mang theo tạp khí có khối lượng riêng nặng như khí sulfua lưu huỳnh, radon như bài trước đã phân tích. Phân tích trường hợp 1: Khí xộc thẳng vào nhà với mật độ vật chất khí lớn, nếu không có đường thoát thì liên tục tạo ra áp lực ép rất mạnh vào nhà; tất cả khí nặng dồn vào mà không có chỗ thoát tích đọng lại thì trường hợp này nặng hơn trường hợp 2 kia nhiều.
  5. Các định luật về khí áp dụng trong nhà Khi nói đến khí, chúng ta thường liên tưởng đến những ngôi nhà thông thoáng, mát mẻ. Tuy nhiên, để đạt được đúng theo tiêu chí một ngôi nhà và các căn phòng trong ngôi nhà đó thông thoáng thì lại không phải là dễ. Việc phân tích yếu tố “khí”- theo nghĩa không khí, gió, phong v.v. đều dựa trên các định luật vật lý cơ bản, kinh điển nhất là định luật Bernuolli. Một ngôi nhà hay một căn phòng trước tiên cần phải có hệ thống đường vào (cửa chính) và đường ra của khí (các hệ thống cửa sổ), trong đó để không khí trong phòng chuyển động đối lưu một cách liên tục thì các hệ thống đường ra của khí phải liên tục được mở. Tôi gọi là phải có “ra” thì mới có “vào”. Liên tưởng đến một căn phòng chỉ có 1 cửa chính: khi có luồng khí đi vào, các phân tử khí tràn vào phòng và làm mật độ khí trong phòng tăng lên không ngừng. Đến một ngưỡng nào đó mật độ lớn của khí cung cấp vào làm tăng áp suất thì khí trong phòng muốn đi ra theo đường cửa chính (do chỉ có 1 cửa) nhưng vấp phải lực áp do khối khí đang đi vào… do đó 2 lực này đối chọi nhau, khối khí ngoài muốn vào thì không vào được mà khối khí muốn ra thì không ra được, trong phòng lúc này không có sự đối lưu lưu chuyển khí sinh ra bế khí, dẫn đến tình trạng thiếu lượng oxy cần thiết để cơ thể khỏe mạnh. Ví dụ điển hình cho việc này là ở các ngôi nhà hình ống, diện tích nhỏ trong đô thị thường có ít cửa sổ và cũng thường có thói quen đóng cửa sổ cả ngày và cả việc thiết kế phòng sử dụng điều hòa quá nhiều như hiện nay cũng là một nguyên nhân khiến cho lượng oxy được cung cấp vào thường không đạt đủ tiêu chuẩn (1 người trường thành trung bình hít 11000 lít không khí- 550 lít khí oxy tinh khiết mỗi ngày). Ngoài ra, phân tích chi tiết hơn, tuân theo định luật bernoulli chúng ta có thể phân chia một căn phòng thành 2 đới: đới thoáng khí và đới bí khí trong đó đới thoáng khí là đới nối liền giữa cửa chính với cửa sổ của căn phòng, đới này là nơi mà các dòng khí đối lưu, trao đổi vào ra nhiều nhất dựa trên sự chênh lệch áp suất ở trong và ngoài phòng. Các hoạt động liên quan đến công việc hàng ngày sử dụng nhiều năng lượng, sử dụng nhiều oxy như hoạt động trí não, học hành thì cần bố trí đặt tại những đới trên sẽ tốt hơn đới bí khí trong căn phòng. Ngoài ra, việc sắp đặt bố trí nội ngoại thất trong nhà cũng ảnh hưởng đến quỹ đạo đường đi của khí trong ngôi nhà. Không khí trong trạng thái chuyển động là một thành phần hỗn hợp các loại khí oxy, ni tơ, hydro, cacbonic, các hợp chất khí có lưu huỳnh và kim loại nặng khác v.v. Chúng lơ lửng trong không khí và do có khối lượng riêng khác nhau, khi gặp vật cản khiến vận tốc của khối không khí giảm sẽ xảy ra hiện tượng “phân dị trọng lực” các loại khí nặng trọc hơn có xu hướng đi xuống dưới trong khi đó các loại nhẹ hơn sẽ có xu hướng lướt lên trên. Vậy tại sao khi gặp vật cản thì khí lại “tán” sang hai bên thì chúng ta giải thích như sau: áp dụng định luật Bernoulli, khi gặp vật cản, mật độ khí tại chỗ tiếp giáp với vật cản tăng lên khiến áp suất tăng so với các khối khí xung quanh vật cản có áp suất thấp hơn => kéo theo các khối khí này bắt đầu có động lực, gia tốc lực từ vị trí có áp suất cao đổ sang nơi có áp suất thấp , kết hợp với đặc thù về trọng lực như nói ở trên thì khí nặng sẽ đi xuống dưới và khí nhẹ hơn sẽ đi lên trên. Người xưa đã rất hiểu rõ được quy luật trên mà đề ra các phương pháp bố trí đồ đạc, bình phong, cây cối mà trở thành một phần của bộ môn phong thủy áp dụng đến ngày nay. Trường hợp dễ thấy nhất là cách thiết kế các cửa ra vào không được thông nhau tạo thành đường thẳng hun hút mà phải so le, chếch nhau làm sao để không khí trong căn nhà chuyển động theo hình chữ “S”. Hay cách đục lỗ 1 góc nhỏ tại vị trí mộ khí trong trường phái phong thủy lạc việt. Nói thêm về cách đục lỗ góc này, ta có thể xét thêm yếu tố trọng lực do nhiệt độ, khí nóng thì bốc lên trên mà khí có nhiệt độ lạnh hơn thì đi xuống dưới; nó tạo thành đối lưu theo nhiệt độ chứ không phụ thuộc gì vào mật độ, áp suất hay vận tốc cả. Các khí lạnh với thiết kế ở sát chân tường sẽ bị đẩy ra ngoài còn đâu giữ lại các khí ấm hơn ở trong phòng. Đây cũng là một cách đẩy tà khí đi mà giữ sinh khí lại. Nói đến khí, chúng ta còn cần phải quan tâm đến khí phóng xạ Radon (đơn vị pCi/L). Radon là căn nguyên chính dẫn đến ung thư phổi ở người không hút thuốc lá. Radon là một loại khí phóng xạ tự nhiên, không màu, không mùi và không vị, do sự phân rã tự nhiên của chất uranium trong đất sinh ra. Khí Radon bay vào các tòa nhà bằng cách xông lên từ mặt đất, thông qua các vết nứt trong nền móng, kẻ hở quanh các ống dẫn và luồng vào khu vực sinh sống. Ở đồng bằng nước ta, khí Radon đa phần đều nằm trong ngưỡng cho phép (<4pCi/L) tuy nhiên có những căn nhà có nồng độ khí cao bất thường thường liên quan đến chính thói quen của người dân cư ngụ là không bao giờ mở cửa sổ thoát khí; có thiết kế phòng ốc kém thông thoáng khiến khí Radon vào và khó bị bay đi; hệ thống điều hòa không có chức năng lấy khí từ ngoài vào và hút khí từ trong phòng đi khiến khí Radon lẩn quẩn và tích đọng ngày càng nhiều trong phòng. Liên hệ đến trường hơp này không thể bỏ qua những tinh hoa của người xưa trong việc thiết kế ra nhà sàn ở vùng núi ngày nay. Xét trên quan điểm địa chất, những khu vực vùng núi là nơi chịu các tác động lớn của các hoạt động kiến tạo, có mật độ đứt gãy và vết nứt lớn là đường dẫn cho khí phóng xạ radon từ dưới lòng đất đi lên và thoát ra khỏi bề mặt đất nhiều hơn so với khu vực đồng bằng. Do đó, ngoài chức năng đã được biết đến của nhà sàn là ngăn chặn thú dữ, bảo vệ gia súc thì cách thiết kế trên tạo ra một khe hút gió mạnh dưới nền nhà sàn và làm khí radon nếu có đi lên từ bề mặt đất cũng sẽ bị phát tán đi nhanh hơn nhiều. Radon cũng được xếp là loại khí tương đối nặng do đó cách đục lỗ sát chân tường của trường phái phong thủy lạc việt cũng là cách làm thoát khí này. Một yếu tố nữa cần xét đến đó là mật độ ion âm/ dương trong không khí. Trong phòng có mật độ ion âm ít hơn 50/cm3 như phòng hút thuốc, phòng làm việc có nhiều máy tính chúng ta có cảm giác ngột ngạt và đây cũng là môi trường dễ phát sinh vi khuẩn. Khi ở trong khu vực có mật độ ion âm ít hơn 1,000/cm3, cơ thể có cảm giác cần được thông gió. Khu vực với mật độ ion âm 2,000 ~ 20,000/cm3 như ở trong vườn cây, thác nước… cho ta một cảm giác không khí trong lành, tươi sạch. Nghệ thuật sử dụng nước… lợi dụng tính bốc hơi của hơi nước tạo ion âm; tạo các góc cây xanh; sử dụng các loại đá có tính áp điện, hỏa điện cũng tạo ra ion âm áp dụng được trong phong thủy. Cái dễ liên tưởng nhất đến mật độ ion âm tác động đến tâm trạng của con người ra sao thì có thể phân tích qua hiện tượng mưa bão. Khi cơn bão sắp xuất hiện, chúng hoạt động như cỗ máy khổng lồ hút ion âm từ môi trường xung quanh, phản ứng của chúng ta là thấy trời quang, oi bức, khó chịu và rất khó thở. Còn khi cơn bão về, chúng lại là cỗ máy phát ion âm khổng lồ phát ngược lại vào môi trường; mật độ ion âm tăng lên cực cao, và chúng ta lại có cảm nhận vô cùng dễ chịu, thoải mái, mát mẻ. Cơ chế này của tự nhiên tạo ra dòng tuần hoàn của ion, của các loại hình năng lượng như vòng tuần hoàn của nước trong tự nhiên vậy.
  6. Hiện nay, con người thường không quan tâm đến sự liên kết tự nhiên giữa họ và mặt đất như thế nào, nên các bệnh vốn ngày xưa vô cùng ít, thì nay lại xuất hiện phổ biến hơn, đặc biệt là các bệnh mãn tính như viêm khớp, mệt mỏi, đau đầu. Trong ngành địa y học, các chuyên gia quan tâm đến sự tương tác giữa con người và mặt đất, nhằm tìm ra các đặc điểm về điện từ trường, các hợp chất trong đất nó có hại hay có lợi cho con người như thế nào. Một trong số các cơ chế các chuyên gia trong ngành rất quan tâm đó là “tiếp đất”. Tiếp đất là một trạng thái tự nhiên khi con người tiếp xúc với mặt đất qua da hoặc qua một vật liệu có độ dẫn điện tốt. Cơ chế này rất phổ biến trong các kỹ thuật điện, tuy nhiên để nó trở thành một cơ chế áp dụng thành một liệu pháp tăng cường sức khỏe và chữa một số bệnh, thì ở nước ta nói chung chưa phổ biến. Do ngày này, các thiết bị điện ngày càng nhiều, mật độ các thiết bị và tần suất sử dụng chúng trong sinh hoạt của người dân ngày càng tăng nhanh, kết hợp với sự phát triển phổ biến các vật liệu cách điện tốt như cao su, nhựa, các sản phẩm làm từ dầu mỏ… sử dụng trong sinh hoạt, khiến con người càng tiếp đất ít đi. Hình ảnh thể hiện nhiệt độ tại đầu gối của một bệnh nhân viêm khớp trước (hình bên trái) và sau (hình bên phải) khi tiếp đất trong 30 phút Có thể nêu một ví dụ khá phổ biến về quá trình sinh hoạt của một người như sau: Mọi người ngày nay ngủ trên giường gỗ, khi bước xuống thì đi trên thảm trong phòng hoặc đi giày, dép chế tạo từ cao su, sau đó di chuyển trên các phương tiện giao thông là xe máy, xe ô tô cũng tiếp đất là 2 bánh và 4 bánh cao su; khi làm việc thì ngồi trên ghế nhựa; khi ra ngoài đường cũng tiếp tục đi giày có đế bằng cao su… Như vậy, hiện nay chúng ta hầu hết không tiếp xúc trực tiếp được với đất thường xuyên như trước và nó khiến các bệnh hiện đại như đau xương khớp mãn tính, huyết áp không ổn định… xuất hiện nhiều hơn so với ngày xưa. Vậy khi tiếp đất thì có ý nghĩa gì? Khi tiếp đất, cơ thể của con người được cung cấp các dòng electron tự do tích điện âm từ lòng đất, giúp cân bằng, trung hòa lại các hạt điện tích dương có nguồn gốc từ các thiết bị điện tử, các kim loại nặng qua đường do ăn uống và qua đường thở do xăng dầu tạo ra. Các cảm giác ban đầu có thể nhận thấy được sau khoảng 20-30 phút tiếp đất là ấm áp, dễ chịu, nhẹ nhõm… Ngoài ra, trong y tế, nó làm giảm viêm nhức, giảm đau, tăng khả năng ngủ ngon trong đa số trường hợp, giảm strees, làm lưu thông máu, giảm đau đầu, tăng tốc độ hồi phục sức khỏe và bảo vệ cơ thể khỏi các sóng điện trường tần số siêu thấp (EMF). Các thí nghiệm khoa học của bác sỹ Maurice Ghaly (Mỹ) đã phân tích hàm lượng hormone cortisol – được biết đến là hormone stress. Khi con người lo lắng, sợ hãi, hoảng loạn, quá căng thẳng, thì nồng độ hormone cortisol tăng lên và có thể gây ra chứng mất ngủ, hệ miễn dịch suy yếu, lượng đường trong máu không ổn định… Qua việc sử dụng các liệu pháp tiếp đất khi ngủ trong khoảng thời gian 8 tuần, những người bị stress đã có hàm lượng cortisol gần tương đương với người bình thường. Ngoài ra, còn rất nhiều thí nghiệm khác như đo nhiệt độ của các chỗ bị viêm khớp trước và sau nối đất trong thời gian nhất định, đều cho thấy các cải thiện về nhiệt độ ở chỗ bị viêm khớp. Ngoài ứng dụng trong y học, các chuyên gia của Trung tâm Ứng dụng Địa y học quan tâm đến khả năng ứng dụng các đặc tính vật lý trên của đất để áp dụng vào phong thủy hiện đại, như tạo ra các màn chắn bức xạ EMF do các thiết bị điện tạo nên để đảm bảo yếu tố điện từ trường không gây ra những tác hại lâu dài. Chẳng hạn, việc bố trí cây cối thế nào để có màn chắn bức xạ điện từ trường tốt là một nhiệm vụ rất quan trọng và chúng rất có ý nghĩa với những ngôi nhà có mạng lưới đường dây điện chằng chịt quanh nhà. Tác giả đã làm một thí nghiệm về tính chất chặn bức xạ điện từ trường liên quan đến việc các dạng vật chất như cây cối, mạng lưới dây dẫn điện, các bình gốm sứ, bình phong v.v. thì hầu hết chúng đều có khả năng cản bức xạ điện từ trường và căn nguyên chủ yếu là chính từ cơ chế tiếp đất này. Ngoài việc sử dụng các liệu pháp chữa trị bệnh vài cải thiện phong thủy dựa trên phương pháp tiếp đất, bản thân mỗi người cần hiểu hơn về sự cần thiết của việc tiếp xúc trực tiếp bàn chân với đất, bởi qua hàng triệu năm tiến hóa, cấu tạo bàn chân của con người đặc biệt là huyệt Dũng Tuyền nằm dưới lòng bàn chân được tiến hóa để có thể nhận nguồn electron tự do từ lòng đất, giúp con người khỏe mạnh hơn. Mỗi ngày, chỉ cần đi bộ chân trần khoảng 20-40 phút cũng là cách giúp nâng cao sức khỏe hữu hiệu, đơn giản và không tốn kém. Hotline :01677442597 Theo Thạc sỹ Địa chất Nguyễn Duy Tuấn
  7. Theo số liệu của WHO, mỗi ngày có hơn 140 triệu người ở Nam và Đông Nam Á uống nước ngầm bị ô nhiễm asen. Hàng ngàn người dân ở Bangladesh, Campuchia, Ấn Độ, Myanmar và Việt Nam chết vì ung thư mỗi năm từ việc tiếp xúc với thạch tín mãn tính. Các nhà khoa học xác định chính xác nguồn gốc của ô nhiễm là ở dãy núi Himalaya, nơi các trầm tích có chứa asen tự nhiên được vận chuyển xuống các lưu vực sông ở hạ lưu đông dân cư bên dưới.Thạch tín thay vì bị giữ lại trong đất gần sông, lại ngấm vào trong các mạch nước ngầm có độ sâu 30m(phần lớn dân lấy nước ở tầng này) là do vi khuẩn (arsenic- bacteria). 1. Xét thạch tín xảy ra do sự tương tác sinh vật với môi trường: Thông thường, vi khuẩn sử dụng oxy để thở. Nhưng trong môi trường yếm khí, nó có thể sử dụng các hóa chất khác, bao gồm gỉ sắt và asen. Khi các vi khuẩn chuyển hóa sắt và asen, vi khuẩn chuyển đổi hợp chất đó thành một dạng dễ hòa tan trong nước. Như vậy, mức độ vi khuẩn chuyển hóa thạch tín nhiều hay ít là do môi trường sống của chúng ở điều kiện gì (thoáng khí hay kị khí) và các điều kiện này lại phụ thuộc vào đặc điểm lên xuống của mực nước ngầm và nước mặt. Do đó, việc con người xây đập chắn nước, khoan giếng, đào ao, hay sử dụng nước ngầm quá nhiều đều gây ra sự thay đổi môi trường oxy hóa- khử dưới đất và điều này làm ảnh hưởng đột biến đến hàm lượng thạch tín trong nước ngầm. Chính vì lý do trên, sau khi chế độ thủy văn bị thay đổi, khiến tập tính và mức độ tồn tại của vi khuẩn ăn asen thay đổi thì việc có một số ngôi làng, thị trấn có số dân bị ung thư tăng đột biến trong vài năm cũng là điều dễ hiểu (kết hợp với sử dụng hóa chất trong nông nghiệp, thức ănv.v.) và thuật ngữ dân gian có lẽ do quá hoảng sợ thì gọi là động long mạch chăng? 2. Xét trên quan điểm địa chất: Trong quá trình tìm tòi và nghiên cứu về địa chấn địa tầng, phân tích đặc điểm địa chất môi trường của khu vực đồng bằng Sông Hồng, tôi có một số kết luận như sau về tình hình hoạt động của các yếu tố kim loại nặng, phóng xạ ở Hà Nội và vùng phụ cận: Trong lịch sử địa chất của Hà Nội nói riêng và khu vực đồng bằng Sông Hồng nói chung đã trải qua nhiều giai đoạn biển tiến, biển thoái qua đó hình thành mặt cắt dọc thay đổi từ môi trường sông đến đầm lầy và cuối cùng là biển. Qua đó, có những chu kỳ hình thành các lớp đầm lầy nằm xen kẹp trong các lớp cát kết, sét kết nối chồng lên nhau. Trong môi trường đầm lầy, tập trung nhiều vật chất hữu cơ tồn tại trong môi trường khử, qua đó các nguồn vật chất trong đó có các kim loại nặng như thủy ngân, chì, thạch tín; các nguyên tố phóng xạ như uranium được các hệ thống sông, nước ngầm vận chuyển và được hấp phụ vào các tầng đất đầm lầy. Tại đó xảy ra quá trình phản ứng hóa học tạo phức chất bền vững trong môi trường khử và các tầng đầm lầy này được coi là tầng sinh ra các nguyên tố phóng xạ, kim loại nặng. Khi các kim loại nặng, các nguyên tố phóng xạ ở trạng thái phức được hình thành, nó sẽ chui vào các lỗ hổng của các tầng cát kết tạo ra tầng chứa của các nguyên tố phóng xạ và kim loại nặng. Qua hình ảnh trên cho ta cái nhìn tổng thể về hành vi di chuyển của các nguyên tố phóng xạ, chúng được lắng đọng tại các tầng cát kết, khi có sự hoạt động khai thác nước ngầm của con người hoặc bất cứ quá trình nào làm thay đổi trái tự nhiên mực nước ngầm cơ sở, môi trường khử bị phá vỡ, oxy được đưa vào. Qua đó, nó sản sinh ra các nguyên tố phóng xạ, kim loại nặng ở trạng thái độc hơn với cơ thể con người. Sự di chuyển của các nguyên tố phóng xạ theo dòng nước chỉ tạo ra bức xạ không đáng kể do có hàm lượng ít; chúng chỉ thật sự gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến con người phụ thuộc vào các yếu tố sau: + Các nguồn nước ngầm bị ô nhiễm, hàm lượng vật chất hữu cơ cao gây phản ứng kết tủa các nguyên tố phóng xạ với hàm lượng cao gấp nghìn lần so với khi chúng được di chuyển trong nước ngầm, tạo ra những ổ phát tia bức xạ mạnh mẽ gây ra cac hiện tượng người ở trong các ngôi nhà này thường ốm đau bệnh tật triền miên, sức khoẻ suy sụp v.v. + Sự giao lưu của các mạch nước ngầm gây ra sự chuyển động đối lưu làm lắng đọng các nguyên tố phóng xạ có tỉ trọng lớn xuống dưới. + Các lỗ khoan khoan sâu và rộng, cắt qua nhiều tầng cát kết chứa nguyên tố phóng xạ. + Sự thay đổi về độ sâu mực nước ngầm so với lỗ khoan hút nước tạo ra môi trường oxy hóa khác nhau theo chu kỳ mùa khô, mùa mưa. Qua đó cho chúng ta thấy rằng, môi trường hiện nay của chúng ta không phải là không có các chất phóng xạ và kim loại nặng có hại, mà chúng ở đầy rẫy xung quanh chúng ta, do chúng ta mà trở nên ngày càng được sản sinh ra ở các trạng thái độc hơn với con người và do đó gây tác hại vô cùng lớn. Ngay từ bây giờ, việc kiểm soát tài nguyên nước, tôn trọng hơn các quy luật vận hành của nước trong tự nhiên lại là cách giúp cho sức khỏe của giống nòi được cải thiện. Theo Thạc sĩ Địa chất Nguyễn Duy Tuấn- PGĐ Trung tâm Ứng dụng Công nghệ Địa Y Học- diayhoc.com