nncuong

Hội viên
  • Số nội dung

    127
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by nncuong

  1. Thông tin bạn xem trên Google Earth là kinh độ và vĩ độ. Nhà của bạn đang ở 11:57:05 độ vĩ bắc, 108:27:46 độ kinh đông. Còn độ bạn đo trên la bàn là 135 độ so với hướng bắc (0 độ), và hướng đó đang thuộc đông nam Kinh độ, vĩ độ để xác định vị trí trên địa cầu còn la bàn để xác định hướng so với hướng bắc (nếu là la bàn phương tây) hoặc Nam (nếu là la bàn phương đông)
  2. Các hệ số đếm cổ đại không có số 0, hoặc định nghĩa không rõ ràng. Toán học được mọi người biết đến xuất phát từ Ai cập nhưng số 0 lại mượn của Ấn Độ. Người cổ đại coi số 0 là sự trống rỗng, hư vô. Các nhà làm lịch bỏ qua năm 0, tất cả các mốc lịch pháp đều coi năm đầu tiên là năm 1, năm trước đó là năm 1 trước (nếu công giáo là trước công nguyên). Về sau này, toán học phát triển, số 0 mới được đưa vào. Người Trung hoa cổ đại không hề có khái niệm số 0, họ chỉ có khái niệm lẻ (linh) . Khái niệm không = hư không của Trung Hoa cũng xuất phát từ đạo Phật Định nghĩa số 0 theo Wiki là Nhưng người Việt cổ lại có khái niệm số 0 rất sớm, các bạn đọc các bài giải thích về trống đồng và Kinh dịch của người Việt thì thấy rất rõ điều này. Trên trống đồng có rất nhiều khái niệm không như các vòng tròn có chấm và vòng tròn không chấm, ban đầu mọi người tưởng là do lỗi khuôn đúc nhưng khi thấy rõ là có quy luật thì mới thấy rằng Trống Đồng mang linh hồn của Dịch. "Không" với người Việt có biến âm là "khôn", đối nghịch với "Còn" biến âm thành "Càn". Theo quan điểm dịch học Việt, 0 tương đương với Khôn = mà các nhà Dịch học Trung Hoa nói là thuần âm.
  3. Nhờ bác xem giúp số điện thoại này có nên mua hay kg? vì có người đang chào bán mà ông anh em còn đang lưỡng lự chưa mua: 0976422535. Người sử dụng tuổi Nhâm dần. Cám ơn bác nhiều
  4. Chọn trung tâm thành phố chứ, hơn nữa khu Văn Miếu là nơi trao đổi học thuật rất tốt. Riêng lão Tuệ, cho ô-tô xuống đón :(. Mà họp đâu chả họp, cứ nhè vào Chủ nhật thế, chủ nhật còn cho mọi người ngủ bù chứ. Bà con phải thông cảm cho những ông có gia đình, CN còn dọn nhà cho vợ :D Khổ thân lão Tuệ, chủ nhật về quê với vợ, vừa đặt chân đến Hà thành, cho lão ấy còn có thời gian thở để mà đủ sức chăm sóc các Hồng Đào chứ
  5. Thì mình đã trả lời rồi còn gì, ngày Giáp Tý là ngày sinh của vị sư tổ nghĩ ra thuyết can chi :D. Nhưng đây chỉ là giả thuyết thôi :(
  6. Sao không đổi lên khu vực Văn Miếu như lần trước đã thống nhất nhỉ. Anh vừa chọn được 1 quán khá rộng rãi và yên tĩnh. Tầng 2, Số 5 Phố Văn Miếu. Chỗ này có thể ngồi 50 - 60 người, em yên tâm là không có thiêu thân và nhìn sang được vườn Quốc Tử Giám :(
  7. Việt Nam sở trường với các dự ớn, so với các dự ớn trước đây thì ăn thua gì. Có thể liệt kê ra vài cái dự ớn: - Bán phần mềm bộ gõ tiếng Việt cho nhà nước với giá chỉ 1.000 / dân, nhưng tính ra là hơn 70 tỉ (năm 2000) - Hoàn thành chính phủ điện tử vào năm 2010, nếu không dừng lại vào năm 2006 chắc còn nhiều vấn nạn - Xe máy biển chẵn đi ngày chẵn, biển lẻ đi ngày lẻ - Đường xuyên lòng Hồ Tây .....
  8. Mọi thứ chỉ là quy ước. Thời gian kéo dài vô tận về 2 phía. Lịch công giáo lấy năm Thiên chúa giáng sinh làm năm 1, Lịch Phật giáo lấy ngày Phật Đản, có lẽ ngày Giáp Tý là ngày sinh của vị vua mà dân tộc đó nghĩ ra hệ can chi.
  9. Về Lịch pháp bạn nói Lịch trong Tử Vi là Âm lịch thuần túy là hơi ngộ nhận. Từ rất lâu, con người đã nhận ra chu kỳ năm = chu kỳ trái đất quay quanh mặt trời, tại thời điểm sơ khai, người ta chỉ biết tới mặt trời quay quanh trái đất theo đường Hoàng đạo. Do chu kỳ mặt trời luôn dễ dàng nhận ra vì nó ảnh hưởng trực tiếp bởi thời tiết, cụ thể hơn là tứ thời bát tiết rồi phân ra 24 tiết khí trong năm. Khái niệm năm theo công giáo thì mãi tận đời Minh, do giáo sỹ phương Tây truyền sang. Nhưng người Á Đông đã biết khái niệm năm từ rất sớm. Như vậy, người Á Đông xưa đã có các khái niệm: - Năm = chu kỳ mặt trời trên vòng hoàng đạo = chu kỳ tiết khí. - Tháng = chu kỳ mặt trăng. - Ngày = 1 lần sáng tối. Trước khi các giáo sỹ phương Tây sang truyền giáo thì người phương Đông đã tính được năm nhuận với số Pi = 3.2. Trên thế giới hiện vẫn công nhận số pi cổ đại thuộc về Đông Phương. Còn bàn về tử vi, tử bình, cái nào hơn cái nào thì điều này không nên bàn luận. Mỗi phương pháp có những ưu điểm riêng của nó. Tuy nhiên mỗi phương pháp cũng có những nhược điểm, gọi là điểm tối. Áp dụng nhiều phương pháp để nhằm giảm thiểu điểm tối là điều nên làm.
  10. Chào anh Lão Nông, dạo này anh rảnh không. Hôm nào anh em mình uống cafe nhé. :unsure: Về phần góp ý của anh thì đây là góp ý mang tính phát triển chung cho diễn đàn nên chuyển về đây là hợp lý. Trong thời gian tới, ban kỹ thuật sẽ cố gắng phân luồng tự động. Ví dụ: chuyên mục nghiên cứu học thuật phải có một lượng bài nhất định mới có thể viết bài mới được.
  11. Cháu đồng ý với chú, nhưng cháu chỉ thắc mắc ở 2 điểm: 1. Đúng là trước khi trồng (thuần dưỡng ) được lúa gạo thì người Việt có thể ăn các loại củ, quả mọc tự nhiên. Nhưng cách chế biến sơ khai nhất phải nói là cơm vì chỉ cần dụng cụ thô sơ để chà lớp vỏ, sau đó đến bánh, chỉ cần giã nhỏ gạo rồi gói với lá. Nếu so với thủ thuật làm miến thì cần phải nghiền nhỏ thành bột mịn, sau đó phải có dụng cụ tinh xảo để chế thành sợi mảnh. Do vậy, cơm gạo phải có trước bún miến. 2. Chính truyền thuyết bánh chưng bánh dầy đã minh chứng cho việc Lang Liêu là người đầu tiên sáng tạo ra cách biết chế biến thức ăn từ gạo khác với cơm. Do vậy, bánh chưng bánh dầy phải có sớm hơn bún miến mỳ. Bánh chưng, bánh dầy đúng là sự sáng tạo, vì sao sự sáng tạo của miến (để được lâu hơn) và có muộn hơn lại không có 1 câu chuyện nào về nó.
  12. Việc phản biện miến của VN hay TQ không hề ảnh hưởng đến việc cháu ủng hộ quan điểm văn minh Lạc Việt là kế tiếp từ văn minh Thần Nông và Lịch sử của nên văn minh ấy tối thiểu cũng phải trên 4000 năm. Tuy nhiên, nếu muốn có chứng minh thì phải có bằng chứng và logic để khẳng định. Vì thế nếu cho rằng miến là do hoàng tử Lý Long Tường mang sang HQ thì hơi gán ghép. Nếu nói rằng nó xuất phát từ thời điểm xa hơn khi 1 nhánh của bộ tộc Bách Việt di cư đến đó thì còn có thể tin được. Vì Lịch sử các nước châu Á 1000 năm trở lại đây được ghi chép khá đầy đủ và đã phân định rõ ràng. Mặt khác, miến không phải là thức ăn phổ biến của người Việt. Như trên đã nói, thức ăn phổ biến của người Việt được làm chủ yếu từ lúa gạo. Cư dân vùng lúa nước không thể lấy thức ăn làm từ củ giềng tinh (loại mọc ở trên cao, vùng khô lạnh) để làm thức ăn chính được. Không hề có truyền thuyết hay câu chuyện dân gian nào liên quan đến miến cả trong khi đó các loại bánh khác đều có một câu chuyện dân gian về sự xuất thân của nó. Cho dù sử Việt cổ bị đốt phá thì câu chuyện dân gian về nó vẫn còn. Các lĩnh vực khác thì không nói, nhưng riêng về ăn uống thì là thứ gắn liền với sinh mạng, không thể không có một dấu tích gì về nó được. Việc TQ thôn tính các bộ tộc Bách Việt, không có nghĩa là cái gì hiện nay của TQ cũng thuộc về Bách Việt, chúng ta chỉ cần đòi lại phần văn hóa đã bị lấy cắp và đồng hóa. Việc đòi lại này phải có bằng chứng và luận chứng khoa học, không thể gán ghép theo cảm tính.
  13. Miên và miến đều là phát âm từ tiếng Hán [緬] cả mà. Nó được làm bằng bột của củ giềng tinh (màu trắng) được trồng ở vùng trung du. Chính vì thế, thật là khó thuyết phục khi nói nó là sản phẩm của người Việt. Sản phẩm của người Việt xưa thường được chế biến từ gạo (lúa nước), như cơm, bánh chưng, bánh dày, bánh đa, bánh đúc, bánh nếp, bánh tro (gio), mỳ (bánh đa thái nhỏ thành sợi khi chưa khô hẳn rồi phơi tiếp đến khi khô), bánh cuốn, bánh hấp, bún, .... Đa số các đồ ăn của người Việt đều được gọi bằng từ thuần Việt, có một vài từ đồng âm với từ Hán Việt nên nhiều người hiểu nhầm. Thức ăn là thứ gắn với con người từ khi chưa có cả ngôn ngữ nên nó mang tính đặc thù ngôn ngữ khá cao.
  14. Đọc bài viết trên Vietnam nét lý luận rằng nên lấy tên Thăng Long theo Phong Thủy. Tôi ủng hộ lấy tên Thăng Long cho xứng với tầm và tâm của dân tộc. Nhưng cách lý giải của Phạm Gia Minh này về phong thủy có vẻ khiên cưỡng. Sau đây là nguyên văn bài viết: Thăng Long ngàn xưa và tên gọi Thủ đô mới hôm nay.03:05' 03/10/2008 (GMT+7) -…Trên thế giới không có đất nước nào mà hình dáng, truyền thuyết về cội nguồn và địa danh lại có nhiều liên hệ tới Rồng như nước Việt Nam ta…Phải chăng đây cũng là khát vọng ngàn đời, là sứ mệnh thiêng liêng cha ông đã đặt lên vai con cháu- hãy kiên cường vượt qua phong ba bão táp để hóa Rồng… Có lẽ do một sự sắp đặt của Trời - Đất mà Tổ quốc Việt Nam của chúng ta mang hình dáng của một con Rồng đang vươn ra biển Đông. Phần đầu của Rồng là miền bắc với chiều rộng lớn hơn, đủ để thể hiện những chi tiết uy nghi như sừng, bờm và râu. Miền trung thon, hẹp là thân Rồng đang bay lượn uyển chuyển và miền nam thể hiện những khúc cuộn của Rồng nên có hình thái phình ra to hơn và kết thúc tại mũi Cà Mau có dáng dấp như mỏm đuôi Rồng đang vẫy vùng. Hoàng Sa, Trường Sa là nơi móng Rồng vươn ra làm điểm tựa giữa đại dương cuộn sóng . Bằng trí tuệ anh minh và qua những trải nghiệm lịch sử, các triều vua trị vì đất nước đã sớm nhận ra vị trí trung tâm đầu não của quốc gia phải chính là nơi ngự trị của mắt Rồng. Vào buổi bình minh của đất nước, năm 544 sau công nguyên, Lý Bí xưng Đế dựng nước Vạn Xuân và đã đóng đô ở khu vực Thăng Long – Hà Nội ngày nay. Ông đã cho xây dựng chùa Khai Quốc (Chùa Mở nước, sau đổi tên thành chùa Trấn Quốc ở khu vực Hồ Tây- Hà Nội). Vào mùa xuân năm Canh Tuất (1010) khi vua Lý Công Uẩn viết chiếu dời đô ông đã khẳng định giá trị phong thủy (ngày nay gọi là môn Địa lý - Môi trường) có một không hai của vùng đất này và sau đó là người đầu tiên đặt tên Thăng Long cho kinh đô nước Việt. Bản đồ Việt Nam hình Rồng - Ảnh: Phạm Đức Quý Trên bản đồ Việt Nam vùng đất Thăng Long – Hà Nội nằm đúng vị trí mắt Rồng với miệng của nó mở ra nơi cửa sông Thái Bình, mũi Rồng là vùng Quảng Ninh- Hải Phòng và hàm dưới chính là vùng Thanh Hoá ngày nay. Với một góc nhìn như vậy thì cái tên Thăng Long – Rồng bay lên được đặt cho Thủ đô một nước có hình dáng đặc biệt của một con Rồng đang vươn ra biển Đông thật là phù hợp với ước nguyện xây dựng tương lai hưng thịnh và đi lên của các bậc tổ tiên và hài hòa trong mối quan hệ thiên – địa – nhân. Lại nói thêm về chữ nhân hay yếu tố nhân hòa, trong cuộc sống thường ngày đó là lòng tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước, đoàn kết một lòng chống ngoại xâm và xây dựng đất nước an bình, giàu mạnh.Trong dân gian từ thuở xa xưa đã có niềm tin rằng tên hay đem lại điều tốt nên vua Lý Công Uẩn lấy tên Thăng Long để thể hiện khát vọng và ý chí vươn lên mạnh mẽ của dân tộc, chứa đựng ý niệm thiêng liêng về nguồn gốc con Rồng cháu Tiên. Chính vì vậy sau nhiều lần đổi tên như Đông Đô (1397-1407, 1428-1430), Đông Quan (1407- 1427), Đông Kinh (1430- 1789), Bắc Thành (1789- 1831) thì cái tên Thăng Long vẫn lắng đọng lại một cách thân thương và đầy tự hào trong sâu thẳm tình cảm của mỗi người dân Việt Nam. Còn Hà Nội đối với chúng ta cũng rất thân thuộc và trìu mến, nó có nghĩa là thành phố trong sông (chỉ con sông Hồng ngày nay), là chốn kinh kỳ trên bến dưới thuyền mà vua Minh Mạng năm 1831 khi thực hiện cải cách hành chính chia lại các tỉnh thuộc vùng Đàng Ngoài cũ đã đặt cho. Theo đó, từ Quảng Bình trở ra được chia làm 18 tỉnh, trong đó có tỉnh Hà Nội, còn Thủ đô của Việt Nam lúc đó đã chuyển vào Phú Xuân – Huế. Rõ ràng là vào thời điểm năm 1831 việc đặt tên cho Hà Nội chỉ đơn thuần là đặt tên cho một tỉnh lẻ ở Đàng Ngoài, dựa trên vị trí của nó so với một dòng sông mà không mang cái khí thế long trọng và ý nghĩa thiêng liêng như khi vua Lý Công Uẩn dời đô [1]. Nhân đây tôi xin cung cấp cho các độc giả thêm một chi tiết lịch sử lý thú là bên Trung Quốc từ thời Đông Hán đã có địa danh Hà Nội. Nếu đọc lại Tam Quốc hẳn chúng ta sẽ thấy đoạn chiến lược gia Tuân Úc khuyên Tào Tháo như sau : “Xưa Cao Tổ giữ Quan Trung, Quang Vũ chiếm Hà Nội mà tạo ra cái thế rễ sâu, gốc vững mà chế ngự thiên hạ…”(Tinh hoa mưu trí trong Tam Quốc, tác giả Hoắc Vũ Giai, người dịch Nguyễn Bá Thính, các trang 61, 353, NXB Lao động, 1996). Hiện nay được biết tại tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc (dưới thời Tam Quốc vùng này thuộc nước Thục) có thị tứ Hà Nội. Nằm về phía đông của Ôsaka Nhật Bản, trên đường đi Kyôtô cũng có một khu vực mang tên Kawachi có nghĩa là Hà Nội (trong sông) với cách biểu đạt bằng chữ tượng hình theo Hán tự giống như Hà Nội của Việt Nam ta. Địa danh này ra đời từ thế kỷ 7 sau công nguyên, tức là lâu đời hơn Hà Nội của chúng ta tới 1200 năm. Sự trùng hợp này được giải thích là do Nhật Bản trước kia cũng chịu ảnh hưởng cách định danh của người Trung Hoa, định vị tọa độ theo hình thế núi sông (2). Suy rộng ra thì có thể còn có nhiều địa danh Hà Nội nữa ở những vùng sông nước trong khu vực Đông Á ngày nay. Để khơi dậy lòng tự hào dân tộc mà một đất nước láng giềng ASEAN của chúng ta đã lấy tên Singapura (tiếng địa phương là con sư tử) để đặt cho quốc gia non trẻ của mình. Trên thực tế đất nước nhỏ bé này không có sư tử sinh sống như ở châu Phi nhưng những kỳ tích trong phát triển kinh tế- xã hội của nó đã đưa đảo quốc này lên hàng sư tử hay rồng trong số các quốc gia mới trỗi dậy ở Á Châu. Phố cổ Hà Nội cuối thế kỷ 19 - Nguồn ảnh: i38.photobucket.com Có thể nói trên thế giới không có đất nước nào mà hình dáng, truyền thuyết về cội nguồn và địa danh lại có nhiều liên hệ tới Rồng như nước Việt Nam. Nào là thành Thăng Long, Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, sông Cửu Long, Hoàng Long, núi Hàm Rồng, đảo Bạch Long Vĩ, sự tích con Rồng cháu Tiên v.v…Phải chăng đây cũng là khát vọng ngàn đời, là sứ mệnh thiêng liêng mà cha ông đã đặt lên vai con cháu – hãy kiên cường vượt qua phong ba bão táp để hóa Rồng ? Hôm nay đây sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước Việt Nam đã đạt được những đổi thay thần kỳ. Thế và lực của chúng ta không ngừng được nâng cao, nhiều người đã bắt đầu nói đến Việt Nam như một con Rồng mới của Châu Á đang vươn ra đại dương hội nhập quốc tế. Tuy nhiên trong cuộc cạnh tranh quốc tế diễn ra rất khốc liệt hiện nay, muốn con Rồng Việt Nam có thể bơi xa, bay cao nhất thiết phải có được một cú hích, một sự đột phá quyết liệt trong nhận thức và hành động của toàn xã hội. Nếu khiêm tốn mà nhìn nhận bản thân thì chúng ta tuy gần đây có đạt được sự tăng trưởng nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi sự tụt hậu so với các nước trong khu vực đang chạy đua tăng tốc, và bản thân sự tăng trưởng của chúng ta vẫn chưa bền vững. Những di sản nặng nề trong nếp nghĩ của quá khứ quan liêu bao cấp, sự thiếu hiểu biết về quản lý kinh tế - xã hội trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế cùng với gánh nặng mới của tệ tham nhũng đang níu kéo con Rồng muốn bay lên và thực chất là – dù vô tình hay hữu ý đang hà hơi tiếp sức cho những thế lực đen tối luôn âm mưu kéo tụt con Rồng Việt Nam xuống. Gần đây trên một số phương tiện thông tin đại chúng ở nước ngoài đã xuất hiện những giọng điệu hiếu chiến lỗi thời, hằn học gọi Việt Nam ta là một con “rắn nước có hình thù kỳ quái” và đe dọa sẽ dạy cho chúng ta một bài học nữa bằng cách đánh gãy đầu rắn ở đốt sống thứ 7 tức là vào vị trí Thanh Hoá. Đã đến lúc phải gióng lên một hồi trống để đánh thức lòng tự tôn dân tộc vốn sẵn có trong huyết quản mỗi người Việt Nam, đánh thức con Rồng Việt đã nhiều năm nay gối đầu trong dòng sông Hồng mang nặng phù sa để nó vươn mình bay cao trên biển cả như thời Lý, Trần mấy trăm năm lịch sử oanh liệt và rạng rỡ. Hãy lấy lại cái khí thế hào sảng trong “Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư…” của Lý Thường Kiệt, “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi và “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh để động viên triệu triệu con tim người Việt yêu nước trong công cuộc chấn hưng và bảo vệ Tổ quốc, quyết không để kẻ nào thấy Rồng Việt Nam vùi đầu trong sông bấy lâu nay mà dám cao giọng miệt thị chúng ta là rắn nước. Khu đô thị Mỹ Đình - Ảnh: images.vietnamnet.vn Nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội chúng ta hãy khơi dậy lòng yêu nước và chí khí quật cường vùng vẫy một phương trời của con Rồng Việt Nam bằng việc chính thức lấy lại tên Thăng Long cho Thủ đô đất Việt. Hãy nhắc nhở cho con cháu trong các sách giáo khoa rằng giang sơn gấm vóc này từ thuở̉ lập nước đã có cái thế uy nghi của một con Rồng vươn ra biển Đông chứ không chỉ giản đơn là hình chữ S trong bảng chữ cái Latinh như sau này phương Tây vẫn quen gọi một cách vô thức. Trong quá khứ, người Việt ta chưa có truyền thống chinh phục biển như nhiều dân tộc khác cho nên chiến lược biển của Đảng đã đề ra gần đây phải được đưa vào cuộc sống từ việc xây dựng “tâm thức” về biển cho mỗi công dân từ thuở niên thiếu rằng kinh tế biển là không gian sinh tồn bền vững của đất nước mang hình dáng con Rồng vươn ra đại dương. Đây sẽ là một cú hích cần thiết trong nội tâm mỗi chúng ta góp phần tạo nên một khí thế vươn lên trong toàn thể trẻ già, trai gái. Đối với thế giới, khi nhắc đến Việt Nam mọi người sẽ liên tưởng ngay tới một đất nước có thủ đô mang tên Rồng bay đầy hào khí đi lên và rất ấn tượng, mang một nét văn hóa đặc thù. Đặc điểm này sẽ có một ý nghĩa tích cực trong việc xây dựng thương hiệu quốc gia cho Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Qua nhiều đổi thay của lịch sử và trong quá trình hoàn thiện tổ chức, cải cách quản lý chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm về việc thay đổi địa danh các đơn vị hành chính. Thiết nghĩ, nếu có lấy tên Thăng Long làm tên giao dịch chính thức cho Thủ đô thì cũng sẽ không gây ra một sự xáo trộn bất lợi và chi phí hành chính quá cao nào. Nếu so sánh với chi phí khi chia tách hai tỉnh thì việc chỉ đổi tên một thành phố bên cạnh những chi phí bắt buộc liên quan tới việc ra thông báo với trong nước và quốc tế, làm lại con dấu, biểu mẫu giấy tờ của các cơ quan hành chính thì sẽ không đòi hỏi tới những chi phí cho việc xây dựng thêm một trung tâm hành chính với đủ các ban ngành cho một tỉnh mới được thành lập. Ngoài ra chúng ta vẫn có thể áp dụng nhiều biện pháp quá độ uyển chuyển để việc thay đổi tên gọi không gây trở ngại và tốn kém trong các quan hệ dân sự, giao dịch hành chính và ngoại giao. Cái tên Hà Nội (3) vẫn sẽ được dùng trong cuộc sống đời thường, thơ ca, nghệ thuật cũng như chúng ta dùng tên Sài Gòn, còn tên Thăng Long sẽ là tên gọi chính thức mang địa vị, tính chất pháp lý và hành chính như đối với cái tên gọi thành phố Hồ Chí Minh. Vả chăng nay Thủ đô đã được mở rộng nhiều ra phía Hà Tây, Hòa Bình . . . cho nên ý nghĩa thực tế của cái tên Hà Nội “Thành phố trong sông” đã trở nên không còn phù hợp chí ít là về mặt không gian địa lý (4). Trong khi đó nếu lấy tên Thăng Long cho Thủ đô trên đà phát triển, tương lai bao gồm nhiều địa phương sáp nhập lại, sẽ tạo nên khí thế của sự hợp nhất, đi lên, đồng lòng và đoàn kết anh em một nhà. Chưa bao giờ đất nước ta lại đứng trước những vận hội to lớn như hiện nay, đó là thiên thời. Đất nước Việt Nam giờ đây thống nhất, con Rồng Việt nằm trải dài suốt một dải bên bờ biển Đông, vóc dáng của nó đã lớn hơn nhiều so với cái buổi ban đầu tổ tiên ta dựng nước, đó là địa lợi. Và một khi hơn 80 triệu trái tim và khối óc được thôi thúc vươn lên bởi hào khí Thăng Long thì yếu tố nhân hòa sẽ được cộng hưởng, tạo nên một sức bật mãnh liệt. Không còn nghi ngờ gì nữa trong thời đại Hồ Chí Minh, Rồng Việt sẽ lại vươn cao và bay xa. Phạm Gia Minh ______________ (1) Lịch sử của Thăng Long cho tới hôm nay là 998 năm với năm lần đổi tên, chỉ có 388 năm Thủ đô của đất Việt mang tên Thăng Long thôi. Đó là vào thời Lý (217 năm), Trần (171 năm) được đánh giá là một giai đoạn lịch sử phát triển thịnh vượng và bền vững nhất về kinh tế, hùng mạnh về quân sự (ba lần đánh thắng quân Nguyên-Mông) đồng thời mang đậm sắc thái riêng của Việt Nam trong phát triển Phật giáo, văn hóa nghệ thuật và y học. 12 năm mang tên Đông Đô đánh dấu sự sụp đổ của triều đại Hồ Quý Ly, 20 năm mang tên Đông Quan chỉ gợi lại nỗi ô nhục khi bị giặc Minh đô hộ tàn bạo, hủy diệt tận gốc truyền thống văn hóa của dân tộc. Giai đoạn khá dài 354 năm mang tên Đông Kinh là một thời kỳ xen lẫn giữa vinh quang (Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh) và ô nhục (Lê Chiêu Thống dâng đất nước cho nhà Thanh). Đó cũng là thời kỳ đất nước rối ren, mất đoàn kết và bị phân chia (các cuộc tranh giành Lê-Mạc, vua Lê- chúa Trịnh, Trịnh –Nguyễn phân tranh dẫn đến tình trạng Đàng Trong, Đàng Ngoài ). Trong giai đoạn này các triều đại thường tồn tại không quá 100 năm và không đạt được sự cường thịnh như thời Lý, Trần. 42 năm mang cái tên Bắc Thành là một giai đoạn mà các vua nhà Nguyễn muốn làm lu mờ dần đi cái tên Thăng Long trong tâm thức của tầng lớp sĩ phu và nhân dân Bắc Hà vốn ủng hộ nhà Tây Sơn. Với tên Hà Nội được đặt vào năm 1831 thì cho tới nay mới có 177 năm chúng ta đã bị thực dân Pháp đô hộ hơn 80 năm, Mỹ xâm lược gần 30 năm và 10 năm chiến tranh biên giới, tổng cộng là gần 2/3 thời gian đầy khó khăn, ,đất nước chưa có được bao nhiêu thời gian để phát triển. Riêng với cái tên Hà Nội một số học giả dựa vào triết lý âm – dương ngũ hành của phương Đông còn phân tích rằng tên Thủ đô (trung tâm đầu não) là Hà Nội thuộc thủy mà tên đất nước (yếu tố bao trùm) là Việt Nam thuộc hỏa, thủy- hỏa tương khắc trong cùng một hệ thống giữa những thành phần trọng yếu nhất thì sự phát triển ắt phải gian nan, khó ổn định dài lâu và rất hao tổn sức lực mới đạt được mục đích. (2) Xem bài: “Hãy thả cho Rồng bay lên của nhà sử học Dương Trung Quốc đăng trên Lao Động cuối tuần số 15, ngày 11/4/2008 (3) Xung quanh sự kiện vua Minh Mạng đặt tên Hà Nội có nhiều ý kiến cho rằng trước đó, từ thời vua Gia Long –Nguyễn Ánh (năm 1805) đã ra lệnh triệt phá Hoàng Thành Thăng Long, hạ độ cao tường thành cho thấp hơn kinh đô Phú Xuân và bắt dân đọc chệch chữ Long trong Thăng Long thành Lung (trong từ lao lung ). Để sĩ phu và nhân dân Bắc Hà quên hẳn hào khí Thăng Long nên năm 1831 Minh Mạng đã đặt tên Hà Nội. Nếu ghép cái tên khai sinh là Thăng Long với tên Hà Nội (sẽ là Rồng bay trong sông) thì dễ dàng thấy hình ảnh một con Rồng đang bị giam hãm trong một dòng sông chật hẹp chứ không phải đang được bay giữa trời, biển bao la. Điều này có khác chi hổ chạy trong cũi, cá bơi trong chậu hoặc chim bay trong lồng? Đó là một hành động có tính toán rất thâm thúy để đáp lại việc trước kia sĩ phu và nhân dân Bắc Hà đã nhiệt thành ủng hộ nhà Tây Sơn (hẳn chúng ta còn nhớ quan đại thần của Gia Long là Đặng Trần Thường đã cho đánh chết Ngô Thì Nhậm ngay trong sân Văn Miếu Quốc Tử Giám vì tư thù và tội đã đắc lực phò nhà Tây Sơn. Ngay đến hài cốt của vua Quang Trung cũng bị đày đọa thê thảm như thế nào thì mới thấy được sự hằn học của nhà Nguyễn đối với di sản của Tây Sơn). Sau này triều đình nhà Nguyễn đã dễ dàng thỏa thuận với thực dân để Hà Nội trở thành nhượng địa của Pháp. (4) Riêng Hà Tây với núi Ba Vì và đền Thượng có một vị trí phong thủy (địa lý- môi trường) vô cùng quan trọng đối với long mạch ( và vận mệnh) của đất nước Việt Nam. Xưa kia Cao Biền sang đô hộ nước ta đã trấn yểm ở đây mà không thành. Nay, nếu vùng núi Ba Vì với những huyệt đạo linh thiêng lại bị ghép vào cái thế “ở trong sông” của địa danh Hà Nội thì e rằng câu truyện Sơn Tinh chiến thắng Thủy Tinh trước kia sẽ có hồi kết ngược lại và kéo theo những hậu quả khôn lường do âm thịnh mà dương suy. Nhưng nếu Ba Vì thuộc Thăng Long thì lại là một sự phối hợp tuyệt hảo, tạo nên cái thế thăng tiến vững bền mà không phải thủ đô của quốc gia nào trên thế giới cũng có được.
  15. Tôi ủng hộ quan điểm lấy tên Thăng Long cho thủ đô mới của Việt Nam để xứng với tầm và tâm của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên tôi không ủng hộ cách lý giải gán ghép của tác giả. 1. Hình tượng Thăng Long - Rồng bay không đúng với hình ảnh mà tác giả đưa. Luận thuyết ban đầu Lý Thái Tổ chọn là Thăng Long vì hình dáng của con sông Cái (sông Hồng) giống con rồng đang cất cánh bay lên từ Bạch Hạc (Phong Châu) ra biển lớn. Lý Công Uẩn đã lấy sông Cái làm long mạch của Quốc gia và chọn 2 con sông Đà, sông Đuống là nơi đặt 2 vị thần (thánh) hộ quốc là Thánh Tản Viên và Thánh Gióng. Một vị ở tả ngạn, một vị ở hữu ngạn sông Hồng. Một vị ở miền núi tượng trưng cho 50 người con theo mẹ Âu Cơ, một vị ở miền xuôi tượng trưng cho 50 người con theo bố Lạc Long. Một vị chiến thắng thiên nhiên, một vị chiến thắng giặc ngoại xâm, hai mối lo lớn nhất của người Việt thời đó. Chính vì vậy nếu chọn hình ảnh chữ S của đất nước Việt Nam là hình con rồng để chứng minh cho tên Thăng Long là khiên cưỡng. Cũng vì lý do này mới bị một số thế lực phản động xuyên tạc. 2. Nói tên Hà Nội thuộc Thủy, Việt Nam thuộc Hỏa rồi nói thủy hỏa xung khắc là vô trách nhiệm và phản khoa học. Tôi có thể chứng minh hàng loạt tên thủ đô các nước và tên nước trên thế giới không hề tương sinh theo ngũ hành nhưng họ đều phát triển. Hơn nữa, nếu thế thì tên các thành phố khác trong nước thì sao. Đây chỉ là một kiểu chiết tự thường được dùng cho tên người trong bói toán. 3. Dẫn chứng dân Hà Nội và Việt Nam nói chung đã bị 2/3 thời gian khó khăn chỉ vì cái tên thì thực là gán ghép quá đáng. Ai có thể đảm bảo rằng nếu vẫn cứ để tên Hà Nội thì 1000 năm nữa thì dân tộc Việt Nam không phát triển thuận lợi. Nếu nói chỉ vì cái tên thì bao nhiêu tiềm thức của người dân Hà Nội với những niềm vui và nỗi buồn sẽ đi về đâu. Hà Nội mãi mãi vẫn là Hà Nội, nó là một nấc thang trong lịch sử, góp phần cho sự phát triển chung của đất nước
  16. Cháu đọc bài Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại tại chương I có bàn về Bánh chưng, bánh dầy có liên quan đến thuyết Âm Dương và Ngũ Hành. Riêng về phần bánh chưng, biểu hiện của Đất có hình tượng của Ngũ hành với sự tương sinh từ trong ra ngoài. Nhưng theo sự giải thích trước đây của ông nội cháu thì phần Thủy - màu xám chính là phần gạo chín nhừ (nhục) ở bên ngoài tạo thành. Phần này là phần gạo chín ở bên ngoài do tiếp xúc với nước nhiều hơn trong quá trình đun nên có màu xám hơi trong. Phần bên trong là gạo chín nhưng màu trắng hơn do được tiếp xúc với nước ít hơn. Khi phần bên ngoài chín, lớp gạo chín này tạo thành một lớp quánh ngăn nước tiếp tục vào bên trong. Bánh chưng để được lâu cũng chính là nhờ phần gạo chín nhừ này, nó như 1 lớp hồ keo ngăn phần đỗ và thịt tiếp xúc với không khí, tránh bị thiu. Phần Mộc - xanh ở bên ngoài là lá dong và lớp xanh vẫn tồn tại trên bánh chưng khi bóc lớp lá. Lớp lá dong sau khi luộc, màu xanh chuyển màu, nhưng phần xanh trên bánh vẫn giữ màu xanh lá cây (lục). Ông nội cháu còn dặn: muốn cho bánh chưng có được phần nhừ bên ngoài để có thể để được lâu hơn mà bên trong vẫn chín, không bị "hấy" (sượng) thì phải ngâm trong nước lạnh trước khi luộc vài giờ đồng hồ. Đồng thời muốn màu xanh trên bánh đậm và màu xám trên phần gạo bên ngoài thì phải luộc bằng nồi đồng, không được luộc bằng nồi đất hoặc nồi nhôm hay sắt, (thời bao cấp có loại nồi nhôm Liên Xô rất to, hay được bà con ở quê luộc bánh, sau đó có nhà còn luộc bằng thùng phuya), trước khi luộc cho thêm các cọng lá dong ở đáy. Chính vì thế mà nhà cháu giữ lại cái nồi đồng rất lâu, nó là loại nồi đáy rộng, thuôn dần về phía trên như hình nón cụt, phía trên là miệng lại là 1 đoạn hình trụ. Sau này cái nồi bị hỏng, nhà cháu dùng nồi nhôm để luộc, nhưng rất tiếc màu xanh bị nhạt đi rất nhiều. Không biết sự ký giải đó có đúng không ?
  17. Cháu đăng ký sớm nhưng lại ghi danh muộn. Cập nhật danh sách cho cháu nhé.
  18. Tôi cũng xin phản bác lại luận thuyết của vị PGS trên. 1. Xã hội Lạc việt có sự hợp nhất, nhưng sự hợp nhất ở thời điểm xưa hơn: đó là Âu Cơ và Lạc Long Quân. Về bản chất là sự hợp nhất giữa chi Âu: tộc Việt ở miền núi cao (tiên) và chi Lạc: tộc Việt ở miền biển (rồng). Sự hợp nhất này theo tôi phải hơn 4600 năm, mà chú Thiên Sứ thường nói là 5000 năm. Theo sử thi của người Mường cũng tương đồng với thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân, một phần sử Tàu cũng ghi thì: đại tộc của U Cơ (Âu Cơ) hay Mẹ Cơ đánh nhau với Tàu và bị đẩy lùi xuống phía Nam, sau đó gặp đại tộc của bua (vua) = bố Yịt Yàng (đọc theo tiếng hiện đại là Việt Vàng, theo sử ta phiên âm Hán Việt là Lạc Long). Do khá tương đồng về văn hóa (2 chi Việt tuy địa bàn sống khác nhau do quá trình di cư nhưng chung 1 chủng tộc nên khá tương đồng) nên 2 đại tộc này hợp nhất thành một nước và có 1 vua (bua = bố) thống nhất đầu tiên đó chính là thời Hùng Vương thứ I. Nếu nói rằng Thủy tinh là tộc Nam đảo xâm chiếm đất đai Hùng Vương thì hóa ra loại bỏ hoàn toàn truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân sao. 2. Xã hội Lạc Việt (cổ) là một tập hợp rộng lớn (có thể chưa thành một đế chế) sống giữa 2 đế chế mạnh: Bắc là Trung Hoa, Nam là đế chế Champa cổ, tương ứng với vùng đất từ miền trung Vn trở lên tới Nam sông Dương Tử. Việc đánh chiếm đất Hùng Vương của Thủy Tinh, chỉ có thể nói lên sự xâm chiếm của một lực lượng thuộc đế chế Champa cổ hoặc 1 tộc nào đó ở phía Nam đi lên theo miền biển sau khi Liên minh Âu - Lạc đã hình thành (do cuộc đấu tranh với đế chế Trung Hoa (cổ) phía bắc và di chuyển tới Bắc bộ hiện nay). Điều này thể hiện rất rõ: thời (tôi thống nhất không dùng chữ đời) Hùng Vương Thứ 6, Lạc Viêt đã có trận đánh với kẻ thù phía Bắc, mãi đến tận thời Hùng Vương thứ 18 mới có chuyện đánh nhau (nếu có) với kẻ thù được cho là ở phía Nam. 3. Sự liên minh của Hùng Vương với Sơn tinh là không thể có và là lố bịch. Quốc gia Lạc Việt rộng lớn, cho dù đến thời 18 đã bị thu hẹp lại thì vẫn bao trùm cả vùng Tản Viên, Sơn tinh chỉ là 1 con dân của Lạc Việt cùng lắm cũng chỉ là tù trưởng hoặc lạc tướng, vua sao lại phải liên minh với con dân. Chỉ có thể giải thích rằng, Hùng Vương chiêu dụng hiền tài và nếu ai đánh thằng sẽ gả con gái cho, tương tự như các việc của các đời vua hay làm đối với các tướng giỏi hoặc 1 tù trưởng. 4. Sính vật thách cưới cũng rất kỳ lạ: Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao. Sính vật mang tính triết lý rất cao, nên không thể nói đây là sính vật trong lúc loạn lạc được. Mà buồn cười nhất là khi có chiến tranh, sao còn phải bày vẽ chuyện lễ vật cầu kỳ thế. Vậy việc chiến tranh là khó có thể xảy ra và nếu có xảy ra thì cũng không ở quy mô lớn và việc hợp nhất chi Âu và chi Lạc ở thời điểm sớm hơn rất nhiều
  19. Đúng là hươu, nai có khả năng định vị theo từ trường. Trước đây người ta cũng nghiên cứu và nhận ra rằng, các loài chim có tập tính di cư: cò, vạc, hạc, .bồ câu, .. đều có khả năng định vị chính xác lộ trình nhờ vào bộ phận cảm nhận từ trường ở đầu phía gần mỏ (mũi). Không phải vô tình mà hình ảnh trên trống đồng lại sử dụng những con vật có khả năng định vị và dự báo thời tiết. Điều này chỉ có thể giải thích là trống đồng là một công cụ mang tính dự báo và ghi thời gian của người Lạc Việt
  20. Mấy hôm mạng lỗi nên chưa báo lại cho sư phụ được. Xin đính chính, bức hình sư phụ chụp trong buổi dã ngoại tại quê đệ tử là ở Đền Gióng - thờ Thánh Gióng, trước thuộc Tiên Du - Bắc Ninh nay thuộc xã Phù Đổng huyện Gia Lâm, Hà Nội. Theo truyện cổ tích Việt Nam thì nơi đây trước thuộc bộ Vũ Ninh - nơi sinh ra Thánh Gióng. Bức phù điêu trên, được đặt ở chính điện thờ Thánh Gióng, theo như các cụ trong làng kể lại thì đã được giữ lại qua vài lần trùng tu, nên có thể có niên đại rất lâu.
  21. Phần mềm Lịch Phù Đổng được hình thành và phát triển cho thiết bị cầm tay, được khởi đầu phiên bản 1.0 từ năm 2003. Sau một thời gian hoàn chỉnh và nâng cấp, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu phiên bản 3.1 cho thiết bị cầm tay sử dụng Windows Mobile. Với phương châm là Kết nối kiến thức hiện đại với văn hóa truyền thống, phần mềm được thiết kế trên thiết bị hiện đại và chuyển tải về lĩnh vực lịch, lịch pháp và triết học Phương Đông. 1. Phần hiển thị trên màn hình Today Bao gồm Hiển thị Âm Dương Lịch (tính theo GMT + 7), Hiển thị Lịch Can chi Hiển thị Dự báo thời tiết Hiển thị nhịp sinh học Hiển thị thông tin cá nhân Hiển thị lịch tivi, tỷ giá, ...
  22. Lịch Phù Đổng đã được giới thiệu ở nhiều diễn đàn, nay mới được giới thiệu ở diễn đàn này. Có thể có nhiều thành viên trên diễn đàn đã sử dụng phần mềm này rồi. Phiên bản đầy đủ nhất hiện nay là 3.1 cho Windows mobile. Ngoài ra còn các phiên bản khác miễn phí (tuy nhiên chưa hoàn thiện) như: Lịch Phù Đổng 1.2 cho Java Phone Lịch Phù Đổng 1.1 cho iPhone Lịch Phù Đổng 1.0 cho Palm Lịch Phù Đổng 1.1 cho PC. Thông tin chi tiết xem thêm trên site của chúng tôi
  23. Hạn theo Cửu diệu: Cho phép xem hạn theo Cửu diệu, lời giải và cách khấn giải hạn sao Thước Lỗ Ban: Tra cứu từ thước Tây (mm) sang một số loại thước Lỗ Ban thông dụng. Ngoài ra, còn rất nhiều các tính năng hữu ích khác như: Bát Trạch, Gia Phả, Văn Tế, Niên biểu Lịch Sử 4000 năm, .... Phần mềm được sử dụng tốt trên tất cả các thiết bị cầm tay sử dụng Windows Mobile. Phần mềm được thiết kế bởi Công ty CP Phần mềm Phù Đổng.
  24. Tử bình - Tứ trụ: Cho phép lập lá số, hiển thị các sao theo trụ, đại vận, lưu niên, tiểu vận. Bảng tra can chi theo lục thập hoa giáp Bảng tra 64 quẻ Dịch: Cho phép tra cứu quẻ dịch theo tên quẻ, tượng quẻ. Chú giải tổng quan, theo sự việc, theo hào. Xem được quẻ Khai, quẻ Kết, quẻ Hỗ. Có thể gieo quẻ theo Mai Hoa Dịch (thời gian, số), Gieo quẻ theo cách gieo đồng xu...
  25. Lịch vạn sự: Tập hợp các sao theo Lịch vạn sự, chú giải và cho phép lựa chọn ngày tốt xấu theo từng lĩnh vực Tử vi - Đẩu số: Cho phép lập lá số, hiển thị các sao và xuất sang dạng HTML để in.