Văn Lang

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    465
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by Văn Lang

  1. Buổi sinh nhật tổ chức ngày 20/5 tức ngày 18 Lịch Việt (ngày tam nương).
  2. Các ông ấy cứ cho rằng mình là "khoa học" nhưng riêng việc không dám tổ chức một buổi hội thảo công khai với những người liên quan bàn về lịch sử văn hóa Việt 5000 năm văn hiến mà chỉ coi "phát hiện" (qua sách và khảo cổ học) mình là chân lý thì tự nó đã phơi bày đó là thứ phản khoa học rồi. Chưa cần so sánh với những người chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến mà so sánh ngay với giới làm sử chính thống của Trung quốc (những người cùng ở vai trò tương đương) thì thấy rằng giới sử học chính thống ở Việt nam dốt. Trong khi bên Việt nam thì ra sức phủ nhận hoặc nghi ngờ cao độ trước mỗi giá trị lịch sử văn hóa dân tộc thì giới làm sử bên Trung quốc không những nhận vơ, nhân tất mà thậm chí còn ngụy tạo lịch sử nhằm cho ra một cái gọi là 5000 năm văn hiến Trung quốc. Vừa rồi Trung quốc còn mới tạo ra một cái là người Trung quốc phát minh ra bóng đá đầu tiên trên thế giới, hoặc người Trung quốc là người đầu tiên tìm ra Châu Mỹ chứ không phải Christophe Colong, người Trung quốc là tổ tiên của người Nhật,... Hoặc như Tây Tạng gần đây mới bị Trung quốc chiếm đóng từ thế kỷ 20 nhưng đã kịp cho ra những "bằng chứng" thuộc Trung quốc từ thế kỷ thứ 13, hay Đài Loan mới liên quan tới Trung quốc thời nhà Thanh nhưng đã có tài liệu "chứng minh" Đài Loan thuộc lãnh thổ Trung quốc thời nhà Đường, Hoàng Sa Trường Sa thuộc Trung quốc từ thời nhà Hán ...v.v... (nhiều quá kể không hết)
  3. Thật là cảm phục những người như thầy Thiên Sứ, bác Đỗ Văn Xuyền đã dành những công sức lớn lao cho việc khôi phục lại những giá trị của Tổ tiên. Mà chữ Việt cổ đã có như thế mà GS Phan Huy Lê trong bài trả lời phỏng vấn về Thiền Sư Lê Mạnh Thát còn nói "chắc gì đã có". Nó có sờ sờ trước mặt sao GS Phan Huy Lê, Dương Trung Quốc, Lê Văn Lan,... không bắt tay vào nghiên cứu mà vẫn bảo "chắc gì đã có" nhỉ?
  4. Có những sai lầm lớn về mặt phương pháp luận và tự mâu thuẫn đến lủng củng của "hầu hết những nhà khoa học trong nước" này. VL (và chắc hẳn nhiều người khác) cũng nhận thấy điều đó. Họ kết luận xanh rờn rằng lãnh thổ của nước Văn Lang xưa chỉ giới hạn ở đồng bằng Bắc Bộ (trong khi 3/4 diện tích cần đào bới thì lại ở bên kia biên giới). Thật là buồn cười. Nếu như họ tự nhận là "nhà khoa học" thì nên tổ chức một cuộc hội thảo công khai về Việt sử với sự tham gia của SP Thiên Sứ. VL tin rằng mọi chuyện sẽ tỏ tường. VL cho rằng lịch sử văn hóa Việt 5000 năm văn hiến rồi sẽ được công nhận nhưng còn mất thời gian để đạt được điều này (Đỗ Lưu Niên).
  5. Theo mình biết thì bạn không nên dùng thuốc trợ sinh nhanh, cái này nguy hiểm. Tôi đọc về nó cũng cách đây 1,2 năm, nói chung là có một số tác dụng phụ có thể nằm ngoài kiểm soát gây nguy hiểm cho thai nhi (bạn có thể google sẽ thấy). Còn về phía bs tại sao họ hay khuyến khích dùng thuốc kích thích chuyển dạ, theo như một số ý kiến của các bị bs trong ngành thì dùng vậy bác sĩ ca trực đó mới có tiền do bạn sinh luôn, còn nếu bạn chưa sinh hoặc chuyển chỗ khác thì bác sĩ đó không có tiền kíp đó. Quẻ (nên coi là một cái tham khảo thêm): Thương Tốc Hỷ - Đỗ Xích Khẩu Ban đầu sẽ khó khăn, tâm trạng lo lắng nhưng sẽ có tin vui. Sẽ sinh trong thời gian nhanh sắp tới. Tuy vậy có thể cần có quan điểm riêng vì bác sĩ với gia đình có thể không đồng nhất. Việc sinh của bạn cũng đem lại niềm vui và là được nhiều người quan tâm.
  6. Hình ảnh hai người phụ nữ trên chiếc kiếm hoàn toàn có thể gắn với tính tả thực về hiện tượng khởi nghĩa Hai Bà Trưng chấn động Đông Á. Tiến sĩ Nguyễn Việt. Mỹ thuật Đông Sơn xưa nay được nhiều nhà nghiên cứu cho là chủ yếu diễn đạt nội dung trên bề mặt phẳng hai chiều (2D) bằng thủ pháp khắc vạch trên phôi sáp ong hay trong lòng khuôn đất mịn. Tuy nhiên, hệ thống các tượng trên cán dao găm đồng Đông Sơn được coi như một đặc sản tiêu biểu của bộ di vật văn hóa Đông Sơn lại cho thấy khả năng thể hiện nội dung mỹ thuật thông qua nghệ thuật làm tượng khối. Hơn thế nữa, nghệ nhân Đông Sơn còn đạt đến mức có thể diễn tả đặc trưng những nhân vật lịch sử cụ thể thông qua các khối tượng cán dao găm đó. Một trong số đó là tượng hai nữ quý tộc Đông Sơn như hai chị em sinh đôi ngồi trên bành voi khiến ta không khỏi liên tưởng đến hình ảnh của hai Bà Trưng ở thế kỷ 1 sau Công nguyên. Tượng đơn và tượng đôi trên cán dao găm Đông Sơn Tượng Hai Bà Trưng nêu trên thuộc loại tượng đôi trong nghệ thuật làm cán tượng hình người cho dao găm Đông Sơn. Trong khai quật khảo cổ học chính thức, chúng ta từng phát hiện nhiều tượng cán dao găm Đông Sơn thể hiện một người đàn ông, một người đàn bà nhưng chưa từng phát hiện được những tượng đôi thể hiện hai người trên một cán dao găm. Tuy nhiên, trong một số trưng bày và công bố gần đây ở trong và ngoài nước, xuất hiện một số tượng đôi thể hiện trên cán dao găm Đông Sơn. Tôi đã có may mắn được nghiên cứu trực tiếp ba tượng đôi thuộc sưu tập này. Trong đó theo tôi, chiếc dao găm có tượng hai người ngồi trên vai nhau là đáng được chú ý nhất. Chiếc dao găm này được người sưu tầm đầu tiên cho biết có nguồn gốc Nghệ An (Làng Vạc?). Cụm tượng này thể hiện hai người công kênh nhau. Người ngồi trên mang rõ nét những đặc trưng quý tộc nữ. Kiểu đầu tóc bồng chải ngược như phần đầu không chỏm của tượng Núi Nưa hay tượng trên dao găm 2505-77 của Bảo tàng Barbier-Mueller (Geneva, Thụy Sĩ). Trang trí trên toàn thân (tay và váy) phản ánh chiếc áo váy thêu in hoa văn. Trên cổ người ngồi trên đeo hai lần vòng chuỗi. Hai tai đeo hai vòng khuyên lớn. Thắt lưng quấn cao trên eo với dải thả búi thõng phía đằng sau. Tượng bên dưới đứng nhìn thẳng, phần đầu bị kẹp giữa đùi người ngồi trên nên không rõ kiểu đeo vòng và trang trí đầu. Hai tay giữ chặt chân người ngồi trên. Thắt lưng và váy được thể hiện rất rõ nét theo những đặc trưng phục trang nữ. Chân đi đất để lộ ngón. Chiếc dao găm mang hình 2 phụ nữ cưỡi voi. Đáng nói nhất ở đây là cụm tượng người, thú mang đậm phong cách Làng Vạc với sự thể hiện tập trung cặp tượng nữ sinh đôi ngồi xổm song song trên lưng voi được đỡ bởi hai con thú. Cụm tượng này được tạo thành cán cầm của một lưỡi kiếm ngắn thanh mảnh như một quyền trượng hơn là một vũ khí thực thụ. Chủ nhân lưỡi kiếm này cũng là bà Phạm Lan Hương. Báu vật này đang trưng bày tại Galerie HIOCO, Paris. Một chiếc dao găm đồng Đông Sơn có hình hai nữ quý tộc sinh đôi ngồi xổm trên bành voi trong tư thế tương tự cũng được trưng bày tại Bảo tàng Hà Nội (sưu tập Nguyễn Đình Sử). Một nguồn tin cho biết, con dao găm này phát hiện được ở Thanh Hóa. Hai chiếc dao găm nói trên không chỉ độc đáo ở chỗ khắc họa hình tượng hai nữ quý tộc rất gần gụi với hình ảnh Hai Bà Trưng cưỡi voi mà còn độc đáo ở tư duy nghệ thuật làm phần cán đồng thể hiện hình hai con thú lạ nghênh đỡ chân voi. Đó đáng được coi là một tác phẩm nghệ thuật phức tạp chứa đựng nhiều tư duy của nghệ sĩ. Tư duy này phác thảo trên nền một phong cách nổi tiếng của nghệ thuật trang trí cán dao đồng Làng Vạc: Đôi hổ đỡ voi mang bành. Cuộc khai quật Làng Vạc của Viện Khảo cổ học trong những năm chiến tranh (1972-1973) đã phát hiện trong hố khai quật con dao găm đầu tiên như vậy. Bảo tàng Barbier-Mueller cũng sở hữu một chiếc tương tự. Ở các cán dao hổ đỡ voi Làng Vạc khác, phần bành voi thể hiện một bành ngồi có chân đỡ trông như một ngôi nhà sàn mái cong của Indonsia. Trên thanh kiếm tôi đang nói tới, thay vào vị trí bành voi là tượng hai nữ quý tộc ngồi xổm ở tư thế hai tay ôm gối chắp trước ngực. Đầu gối hở ra và đôi chân để trần lộ ngón. Hai tượng giống nhau như hai chị em sinh đôi. Hiện vật này đã được nghiên cứu trong các phòng thí nghiệm của công ty giám định cổ vật Ciram (Paris). Tôi may mắn có được 2 ngày trong cuối tháng 6/2010 nghiên cứu trực tiếp hiện vật và hiện có trong tay toàn bộ kết quả nghiên cứu thành phần hóa học, X-ray của báu vật này. Từ lâu, tôi đã theo đuổi một ý nghĩ về tính biểu trưng (Symbolism) hay tính tả thực (Realism) của các nhân vật trên cán dao găm. Phân tích 30 cán dao găm hình người, thú Đông Sơn mà tôi hiện có tiêu bản studio có thể nhận thấy các nghệ nhân Đông Sơn đã có những ràng buộc mang tính quy chuẩn kỹ thuật, nghệ thuật khi chế tạo tượng cán dao găm: dáng đứng, kiểu đầu tóc, váy, khố, vòng trang sức, cách thể hiện hoa văn... và ở giai đoạn đầu, cán dao găm Đông Sơn mang tính biểu trưng quyền lực chung của thủ lĩnh nhiều hơn. Tượng người được tạo ra mang tính đại diện chứ không nhằm mô tả một nhân vật cụ thể. Tuy nhiên, vào khoảng cuối Đông Sơn (thế kỷ 1 tr.Cn - thế kỷ 3 sau Cn) xuất hiện những pho tượng chứa đựng cá tính - mang rìu chiến, dao găm, đầu lâu người. Phần chắn lưỡi cũng được trang trí thêm bởi những móc câu xoắn tròn và đặc biệt xuất hiện tượng quý tộc nữ được công kênh và tượng hai chị em sinh đôi nói trên. Theo tôi, các tượng đôi nữ công kênh nhau và ngồi song hành với nhau trên lưng voi được đúc làm cán dao găm giới thiệu bên trên có độ tin cậy cao mặc dù nó không nằm trong các cuộc khai quật khảo cổ học chuyên nghiệp. Chúng đều tôn vinh những quý tộc nữ khiến tôi liên tưởng đến sự thực lịch sử gắn liền với những nhân vật nữ anh hùng cụ thể xuất hiện trong khoảng cuối văn hóa Đông Sơn: Hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị đầu Công nguyên (thời kỳ người Việt chưa mang họ như ngày nay) và sau đó là Bà Triệu (thế kỷ 2-3 sau Công nguyên, khi người Việt quý tộc bắt đầu mượn họ phương bắc - họ Triệu – vua Nam Việt). Truyền thuyết đều gắn họ với voi chiến (ngựa chiến vào Việt Nam rất muộn và không thuộc truyền thống quân sự Việt). Hình ảnh hai chị em quý tộc sinh đôi ngồi trên lưng voi hai đầu của chiếc kiếm của HIOCO cũng như của sưu tập Nguyễn Đình Sử nói trên hoàn toàn có thể gắn với tính tả thực về hiện tượng khởi nghĩa Hai Bà Trưng gây chấn động cả khu vực Đông Á đương thời. Tiến sĩ Nguyễn Việt (Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á) Nguồn
  7. LỜI NÓI ĐẦU Kính gửi: Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người Việt Nam Từ những giấc mơ trở thành hiện thực. Không phải một lần mà được lặp đi lặp lại hàng trăm lần. Không phải một mình mà cả nhà đều chứng nghiệm. Đã 19 năm qua mà không sao tôi tự trả lời rốt ráo được. Sau đây, tôi chỉ lược ghi một số mẩu chuyện trong hàng trăm chuyện lạ có thật mà bản thân đã chiêm ngghiệm để gửi tới Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người Việt Nam tham khảo. Tên người, địa danh, sự kiện hãy còn nguyên tính thời sự. Tập ghi chép gồm 3 phần: 1. Những giấc mơ Tiên 2. Trăn trở 3. Tìm câu trả lời. Thưa các giáo sư, tiến sĩ, các nhà khoa học đang công tác tại Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người Việt Nam. Tôi viết tập “Lần theo giấc mơ Tiên” này trong lúc thành quả khoa học nhân loại đang đạt được những kết quả không ngừng. Nhìn vào sự tiến bộ của khoa học nhân loại, đã có lúc tôi có ý định không gửi tập ghi chép này, bởi lẽ tôi e ngại “liệu các nhà khoa học có cho tôi bị bệnh tâm thần hay không?”. Nhưng tôi lại nghĩ: biết đâu những sự thực hiển nhiên mà tôi đã kiểm chứng lại là cơ sở để các nhà khoa học tiến xa hơn trong thành quả nghiên cứu của mình. Hơn nữa, là sự thực dẫu có phủ phàng vẫn là sự thực; tôi tin sự minh triết của trí huệ vô lậu ở các nhà khoa học là nguồn động viên tôi tập hợp một số mẩu chuyện thành một tập ghi chép với tiêu đề “Lần theo giấc mơ Tiên” để gửi tới Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người Việt Nam. Tôi phấn khởi được giáo sư Ngô Đức Vượng đồng tình. Rất mong nhận được câu trả lời của Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người Việt Nam. Ngày 5 tháng 9 năm 2005 Phùng Long Biên Ghi chú: Đáng tiếc, tập tài liệu này mới có mặt tại Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người Việt Nam cuối tháng 1-2009 do tác giả ghi sai địa chỉ khi gửi. Nhóm NC tâm linh (Sưu tầm và giới thiệu) Theo KNTL Phần thứ nhất NHỮNG GIẤC MƠ TIÊN 1. Giấc mơ đầu tiên 2. Chứng nghiệm 3. Gia phả họ Phan 4. Hợp đồng vẽ quảng cáo 5. Chân dung lãnh tụ 6. Nguyên nhân dẫn tôi đi 7. Đi tìm thôn Đồng Bái 8. Tặng thơ - tặng quà 9. Cảm nghĩ đầu tiên 10. Hai ngày khảo sát 11. Phép thử 12. Xin thuốc... vào tù 13. Tại Công an huyện Lương Sơn 14. Hàn huyên sau 63 ngày tu - Tạ ơn 15. Trả lại tiếng nói 16. Vào tù lần hai 17. Điên Liên Thiên 18. Về xây chùa Đại Hùng 19. Trò chơi - Trời cho 20. Xơ gan cổ trướng 21. Lại bệnh cổ trướng 22. Vào tu lần ba 1. Giấc mơ đầu tiên Khác với mọi ngày, hôm nay tôi ăn cơm và đi ngủ sớm. Đêm đó tôi mơ thấy một vị Tiên Ông tay cầm cây gậy trúc, chân đi đôi guốc mộc, vận bồ quần áo đỏ thắm, râu tóc bạc phơ, tươi cười nói: - Thìn khắc ngày mai, con hãy tới “Cây đa cháo lòng”, trong hốc cây giữa thân Ta giành cho con một điều lý thú! Sáng ấy, tôi đi thành phố Vinh (tỉnh Nghệ An) để mua thêm một ít bột mầu, trên đường đi bỗng nhớ lại giấc mơ. Cần nói rõ, ở xã Hưng Chính - huyện Hưng Nguyên (nay thuộc thành phố Vinh), cạnh gốc cây đa cổ thụ có quán bán cháo lòng, nên người dân thường gọi là “Cây đa cháo lòng”. Đến nơi, tôi dựng xe và đi thẳng tới cây đa để tìm “hốc cây giữa thân”. Tôi thấy có một phong thư. Giở ra, thấy có sáu hàng chữ Nho viết bằng mực đỏ. Không đọc được, tôi định vứt bỏ, song lại nghĩ cứ bỏ vào túi. Trưa hôm đó, sau khi ăn cơm tôi ngồi uống nước tại vườn hoa Cửa Nam (thành phố Vinh). Đang nhấm nháp vị thơm ngon của chén trà Bắc Thái thì bất chợt có cụ già tới ngồi cạnh tôi và bảo: - Con đưa bức thư ta xem! Tôi ngơ ngác nhìn cụ, song vẫn ngoan ngoãn đặt chén trà xuống, rồi móc túi lấy bức thư. Cụ cầm luôn trên tay tôi, giở ra và cao giọng ngâm: “Giáng sinh chữ Ký là tên, Họ Phùng, danh tính Long Biên định rồi. Phải tin rằng có Phật Trời, Mai ngày con hiểu Thiên thời viên thông. Ta là Đại Đức Tiên Ông, Sẽ dạy con hiểu Sắc - Không là gì!”. Tôi tự vấn: sao cụ biết họ tên mình? Song, tôi vẫn chưa tin và nghĩ: Ông cụ biết tôi không hiểu chữ Hán mà đọc vậy... 2. Chứng nghiệm Buổi tối, Đại Đức Tiên Ông lại về. Ngài bảo: - Ngày mai có con cháu Cương Quốc Công Nguyễn Xí về nhờ con vẽ sơ đồ gia phả họ Nguyễn Đình, chi mười ba Thanh Hưng (huyện Thanh Chương - Nghệ An). Con cố thi công lập đức nghe! Sáng dậy, tôi ra quán nhà mình trước ngõ thì đã thấy ba người khách lạ. Một người đứng dậy vui vẻ nói: - Chào chú Phùng Long Biên! Anh em tôi có việc đến nhờ chú đây. Tôi hỏi: Các bác là người họ Nguyễn Đình ở Thanh Hưng - Thanh Chương phải không? - Vâng! - Các bác nhờ tôi vẽ sơ đồ gia phả chi mười ba chứ gì? - Đúng quá! Cả ba người tỏ vẻ ngạc nhiên: - Sao chú biết vậy? - Có gì đâu, ông cụ Đại Đức Tiên Ông đã nói cho em biết tối hôm qua. Họ ngơ ngác nhìn nhau... Lần đầu tiên tôi đã chứng nghiệm giấc mơ. 3. Gia phả họ Phan Đêm ấy, Đại Đức Tiên Ông bảo: - Ngày mai, ông Phan Văn Tự ─ chủ tịch xã Hưng Đạo (huyện Hưng Nguyên - Nghệ An) ─ sẽ đến nhờ con viết cho họ Phan ba quyển gia phả. Con gắng thi công lập đức nghe! Tôi vốn quen thân anh Tự đã lâu. Song, không hề biết anh ấy có ý định viết, vẽ gia phả. Sáng dậy, anh Phan Văn Tự đến thật. Anh vui vẻ nói: - Họa sĩ giúp tôi một việc! Tôi hoan hỷ “đoán”: - Anh nhờ em làm cho họ Phan ba quyển gia phả chứ gì? Anh Tự trố mắt nhìn tôi, hỏi lại: - Họa sĩ học chiêm tinh từ bao giờ? - Anh quá khen. Thú thực cùng anh, tối qua Đại Đức Tiên Ông đã cho em biết. Thôi, kế hoạch ra làm sao thì anh nói rõ yêu cầu cho em nghe. - Chú Biên này, vừa rồi tôi đi Huế và Sài Gòn. Sau khi tập hợp gia phả ba vùng, hai chi họ Phan ở Huế và Sài Gòn giao cho tôi lập hoàn chỉnh gia phả, viết thành ba quyển. Tôi giữ lại một quyển, hai quyển nữa gửi đi Huế và Sài Gòn. Việc này nhờ họa sĩ mới xong. Lần này, tôi tin hơn về giấc mơ. 4. Hợp đồng vẽ quảng cáo Đêm đến, Đại Đức Tiên Ông lại bảo: - Ngày mai có Nguyễn Văn Phúc, phụ trách thi đua của Liên đoàn địa chất 4 đến nhờ con vẽ quảng cáo. Liên đoàn mừng công Chính phủ tặng Huân chương Lao động hạng Ba. Thìn khắc, con ở nhà tiếp khách. Gắng làm tốt nghe con! Đúng 8 giờ, có chiếc xe con đậu trước nhà. Hai người cao lớn đi vào, một người nói: - Nhìn quảng cáo là biết chữ anh Biên ngay! Vào nhà, qua trao đổi thì đúng là hai anh đến để hợp đồng vẽ tranh cổ động cho lễ đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba do Chính phủ tặng thưởng Liên đoàn địa chất bốn. Sau khi thảo xong hợp đồng, cả ba cùng ký. Nhìn hợp đồng tôi thấy họ tên của hai người đó là: 1. Nguyễn Văn Phúc, phụ trách thi đua của Liên đoàn. 2. Phan Văn Cơ, trưởng phòng hành chính của Liên đoàn. Tới lúc này, tôi tin là không có việc gì mà Đại Đức Tiên Ông lại không tường. Thật là vi diệu! 5. Chân dung lãnh tụ Đêm ấy, Đại Đức Tiên Ông bảo: - Con đóng 3 khung 80x120 cm để vẽ chân dung ba vị lãnh tụ là Các Mác, Ăng Ghen, Lê Nin bằng sơn dầu. Ba hôm nữa sẽ có ông Lộc, hiệu trưởng trường Đảng huyện Nam Đàn đến đặt hàng. Có thêm nữa đấy! Ngủ dậy, tôi đi mua gỗ, vải, đinh để đóng khung và căng vải ngay. Buổi chiều, tôi dùng chì đã phác thảo xong ba chân dung. Hôm sau, tôi vẽ xong Lê Nin. Tiếp đến, tôi vẽ Ăng Ghen. Ngày thứ ba, tôi vẽ Các Mác. Từ các năm 1984-1990, nhà tôi ở sát mặt đường tỉnh lộ 49 Vinh-Nam Đàn. Phòng vẽ của tôi được xây trên mặt ao, thoáng mát. Khi đi qua đường, ai cũng nhìn được. Ngay trước nhà lại có quán giải khát. Đúng ba ngày sau, có một người khách ngồi giải khát nơi quán. Người đó nói vọng qua ao: - Đã có khách đặt hàng chưa hay họa sĩ sáng tác vậy thôi? Đang vẽ, tôi không quay lại, trả lời: - Có khách rồi bác ạ! - Khách nào vậy, họa sĩ? - Bác Lộc ở trưởng Đảng huyện Nam Đàn! Người khách đi thẳng vào phòng vẽ niềm nở: - Mời họa sĩ nghỉ tay, uống nước! Tôi dừng tay, ngâm bút vào lọ, đứng dậy: - Chào bác! Người khách dắt tay tôi ra quán, hai anh em hút thuốc và chuyện trò. Khách nói: - Tôi là Lộc, hiệu trưởng trường Đảng huyện Nam Đàn đây! Tôi nhìn bác Lộc chằm chằm. Thấy vậy, bác Lộc hỏi: - Họa sĩ thấy tôi lạ lắm sao? Tôi kể lại giấc mơ ba hôm trước đây cho bác Lộc nghe. Kể xong tôi hỏi: - Trường ta có định vẽ chân dung lãnh tụ không đấy? - Sáng nay, tôi đi ký hợp đồng vẽ đây! - Ngoài chân dung ba vị lãnh tụ ra, còn định làm một số trang trí gì khác nữa phải không? - Đúng! Làm câu khẩu hiệu “Chủ nghĩa Mác - Lê Nin vô địch muôn năm” để ngay dưới ba chân dung. Hai bên cánh gà là hai lời trích. Một bên là lời trích của Bác Hồ về đào tạo cán bộ Đảng, bên kia là lời trích Nghị quyết Ban bí thư về công tác tổ chức cán bộ. - Thảo nào ông cụ nói “có thêm nữa đấy”. Hàn huyên, tâm hợp ý đầu. Hôm đó, chúng tôi chính thức ký hợp đồng. Đến đây thì tôi không hoài nghi một chút nào về những giấc mơ Tiên nữa rồi. Từ đó, khi ngủ dậy tôi kể giấc mơ cho cả nhà nghe trước. Cứ ngày này đến ngày khác, hết tháng này sang tháng khác, hai năm 1986-1988 cả nhà tôi chiêm nghiệm chẳng hề sai. Rồi một hôm, Đại Đức Tiên Ông lại lái tôi đi theo một dạng mơ khác. 6. Nguyên nhân dẫn tôi đi Tối ngày 13-2-1988, Đại Đức Tiên Ông lại bảo: - Biên! Con nghe Ta truyền: Con phải đến thôn Đồng Bái, xã Hùng Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình. Bề Trên sẽ dạy bảo. Con nghe rõ lệnh Ta chứ? Nói xong, ông cụ chống gây ra đi. Như thường lệ, ngủ dậy ăn uống xong, tôi lại cầm bút vẽ. Sự say mê làm tôi quên lãng giấc mơ tối qua. Tối ngày 14-2, ông cụ lại về báo mộng cho tôi. Nội dung y nguyên như tối đầu. Ngủ dậy, tôi lại bắt tay vào việc (vì có quá nhiều bản hợp đồng còn đọng lại chưa vẽ xong), nên tôi quên giấc mơ. Tối rằm tháng 2 làm tôi nhớ mãi. Ông cụ lại về báo mộng. Nhìn vẻ mặt, ông cụ có vẻ giận tôi lắm. Ngài đứng đầu giường gọi tôi ngồi dậy và bảo: - Đã hai lần Ta báo mộng, sao con cưỡng lệnh? Ta nhắc lại: Con phải đến thôn Đồng Bái, xã Hùng Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình. Bề Trên sẽ dạy bảo! Nói xong, ông cụ đi khoảng ba bốn bước, rồi ngoái đầu hỏi lại: - Con nghe rõ lệnh Ta chứ? - Dạ! Tôi đáp “dạ” một tiếng thật to. Cả nhà nghe rõ và thức giấc. Nhà tôi thấy tôi đang ngồi chắp tay, hỏi: - Ba chưa ngủ à? Sao dạ to vậy? Tôi kể lại giấc mơ cho nhà tôi nghe. Dạng chuyện này cả nhà tôi không xa lạ gì và thực tiễn đã làm cho cả nhà chỉ biết tin. Nghe xong câu chuyện, vợ tôi nói: - Ba phải đi rồi! Hoà Bình ở tận đâu? Sáng dậy, tôi chuẩn bị hành trang ra Bắc. 7. Đi tìm thôn Đồng Bái Đang chuẩn bị hành trang, vừa lúc chú Đặng Trung Ngọc, kiến trúc sư, trên đường về công sở ghé vào quán uống nước. Ngọc thấy tôi chuẩn bị ba lô thì hỏi: - Anh đi đâu mà hành trang sẵn sàng như ra trận vậy? - Mình đi Hoà Bình, Ngọc ạ! Chú chở bác xuống Vinh luôn nhé! Tôi cùng Ngọc đi Vinh. Đến ga Vinh, tàu chuyển bánh, tôi không kịp mua vé, lên tàu luôn. Từ Vinh đi Thanh Hoá, tổ nhà tàu không hề soát vé tôi. Đến Thanh Hoá, khi tôi xuống ăn trưa thì gặp hoạ sĩ Lê Hàn, giám đốc xí nghiệp mỹ thuật Thanh Hoá. Hàn reo lên: - Cơn gió nào đưa bạn từ xứ Nghệ ra quê bà Triệu đấy? Vào chỗ mình chơi. Chị và các cháu nhắc cậu hoài... - Cảm ơn anh! Để khi khác, hôm nay tôi đi Hoà Bình có tý việc. - Thôi thì... chẳng mấy khi “Rồng đến nhà Tôm”, vào đây! Anh dắt tay tôi vào quán. Chúng tôi ăn trưa xong cũng vừa lúc nhà tàu thay xong đầu máy. Chúng tôi chia tay mà còn bao điều bịn rịn. Từ Thanh Hoá đi Hà Nội, tổ nhà tàu khác lên thay tổ cũ. Cũng như tổ trước, chẳng ai hỏi vé tàu của tôi. Đến ga Hàng Cỏ ở Hà Nội, tôi xuống tàu ra cổng, người soát vé cũng bỏ qua tôi. Ra sân ga Hàng Cỏ, tôi gặp Nhuỹ và Từ Thành (sau này anh là hiệu trưởng trường Mỹ thuật Hà Nội). Hai người reo lên: - Biên! Nghệ Tĩnh cử mày ra làm triển lãm phải không? Quà xứ Nghệ đâu? Chúng tôi kéo nhau vào quán uống nước. Tôi nói cho Nhuỹ và Thành biết là đi Hoà Bình. Chúng tôi chia tay. Tôi tới bến xe Hà Đông. Khi đến nơi, chuyến xe sáng cuối cùng đi Lương Sơn vừa chạy. Tôi quay ra đường 6. Có chiếc ca-mát chạy rất nhanh đi Hoà Bình, tôi vẫy tay xin đi. Xe dừng lại cho tôi lên. Đến một chỗ thuộc địa phận Hoà Bình thì xe chết máy. Người phụ lái nhảy xuống hý hoáy sửa, nhưng xe vẫn không nổ máy được. Dường như sự bực dọc ấy đổ lên đầu tôi. Người phụ lái bảo tôi: “Anh xuống đi”. Rồi anh ta bế xốc tôi xuống. Tôi cảm ơn và xin gửi tiền đi xe, nhưng họ không lấy mà bảo: - Biếu anh đấy! Tôi thực sự lạc hướng trên đoạn đường. Đi tới chỗ đông người (sau này mới biết đó là chợ Lương Sơn), tôi hỏi bà bán trầu cau: - Huyện Lương Sơn ở đâu, thưa cụ? Người bán hàng trả lời: - Ở đây! - Xã Hồng Sơn ở đâu ạ? - Cũng ở đây! - Thôn Đồng Bái cách bao xa? - Chính đây luôn! Chú hỏi ai ở thôn Đồng Bái? Tôi ngơ ngác khi nghe bà cụ hỏi lại. Tôi kể giấc mơ cho bà cụ nghe. Bà bảo tôi: - Chú đi theo cô này! Bà chỉ tay về phía cô gái cầm hương và trầu cau, gạn hỏi: - Cô đi vào nhà bà Vân Tiên phải không? Cô gái trả lời “Vâng!”. - Cho chú đây theo vào với! Tôi chưa hiểu ý, hỏi lại: - Bà Vân như thế nào mà cháu phải vào? - Hay chưa? Chú đến thôn Đồng Bái mà không biết đến ai, chẳng nhẽ về không sao? Có người bảo là bà Vân điên, có người bảo là bà Vân Tiên. Biết đâu chú nhận được lệnh Bề Trên từ đấy cũng nên! Tôi vẫn phân vân, hỏi tiếp: Sao lại bảo Vân điên? - Bà chửi khắp lượt loại cán bộ tham nhũng. Trải chiếu hoa ra giữa chợ ngồi, bà chửi mà lại chửi bằng thơ mới hay chứ! Bởi vậy, nên người ta gọi là bà điên. - Thế còn Vân Tiên là ý làm sao? - Bà chữa bệnh bằng hoa, bằng cỏ cây, nước lã mà được bệnh. Thôi, chú đi theo cô đây để tôi còn bán hàng! - Tôi ngoan ngoãn chấp hành “lệnh” bà cụ bán trầu cau, theo người bạn đường không quen biết đến nhà bà Vân Tiên ở thôn Đồng Bái. 8. Tặng thơ - tặng quà Tôi tới nhà lúc chủ, thợ dùng cơm trưa. Tôi chần chừ ngoài cổng nhìn đôi câu đối: “Tổ tiên công đức muôn đời thịnh, Con cháu thảo hiền vạn tết xuân” và chữ “đo may”. Từ trong nhà, một người phụ nữ dong dỏng cao, lanh lẽ đi ra ngoài cổng. Chị vận bộ quần áo màu mỡ gà đồng phục, hoa màu cánh sen. Búp sen đẫy đà chuẩn bị phô nhũy. Nước da trắng hồng làm đôi mày ngài nổi lên đen sắc. Chị cười vồn vã: - Ta biết mà! Đức Tiên Ông, Người dẫn con Rồng Đen đến với Ta! Tôi không dối lòng mình, thật tình phút gặp ban đầu ấy làm cho tôi không tài nào chấp nhận các từ ngữ “con” và “Ta” được. Tôi không biết môn tử vi, song tôi sinh năm 1947, năm Đinh Hợi - tức cầm tinh Con Lợn. Vậy sao lại bảo con Rồng Đen? Chị vồn vã mời tôi vào. Tới nhà, chị lại nói: - Con ngồi xuống ăn cơm với Ta! Nhìn qua bữa ăn của chị, tôi thấy đạm bạc vô cùng. Một bát Hải Dương canh rau ngót, ba lát đậu phụ, một thìa vừng lạc và vài lưng bát cơm. Các mâm cơm có bảy, tám người ngồi ăn. Già, trẻ, nam, nữ đều có. Mỗi mâm hai rá cơm to, một thau canh rau ngót, một bát vừng lạc. Họ vui vẻ mời tôi cùng ăn. Tôi từ chối: - Cảm ơn chị! Tôi đã ăn rồi. Mời chị và bà con cứ tự nhiên! Khi tôi nói đến từ “chị”, mọi đôi mắt đều đổ dồn về tôi. Gần như tất cả các đôi mắt ấy đều cùng một ý nghĩ: lo lắng, thương hại cho tôi! Nhìn vào các đôi mắt, tôi bất giác ngó lại mình xem có gì ăn mặc lôi thôi không? Nói năng có điều gì sàm sỡ không? Nghiêm túc mà nói là không có gì như vậy. Sao các đôi mắt lại lo lắng, thương hại cho tôi đến vậy? Là hoạ sĩ, bao giờ chúng tôi cũng phát hiện được nhiều điều trong đôi mắt. Ở đây không phải một, mà là trên sáu mươi đôi mắt, tôi đều đọc được trong đó sự lo lắng và thương hại. Tôi không nhầm. Chính do tự tin vào sự nhạy cảm nghề nghiệp mà tôi khẳng định như vậy. Thấy tôi từ chối dùng cơm trưa, chị đưa ấm trà và cái chén về phía tôi, giọng hồ hởi: - Con không ăn cơm thì ngồi uống nước! - Vâng! Cảm ơn chị. Tôi lại đọc được lần nữa tình cảm từ các ánh mắt lúc nãy. Đó là sự lo lắng và thương hại. Tôi phát hiện ra: nguyên do là ngôn từ “chị” đây! Mọi người cơm nước xong, họ tuỳ nghi di tản. Người ra gốc mít, tốp tụm gốc dừa, tốp đi tắm, tốp đánh bài tú lơ khơ, tốp trải chiếu đầu hè nghỉ ngơi ít phút. Riêng tôi như con chim lạc bầy. Lúc này tôi thấy lẻ loi thực sự. Chiều đến, họ vào việc. Người nào việc nấy. Tôi thấy mình thừa trong nhịp độ lao động khẩn trương, vô tư và tự giác này. Tôi có dịp đi tham quan một vòng quanh nhà để giải khuây. Bụng nghĩ: thôi đành chịu phận chim lạc bầy, rán trú ngủ tối nay, ngày mai cáo lui sớm. Đó là kế thượng sách... Tôi dừng chân nơi anh thợ cả tên Hùng. Anh dùng bay to, bay bé trổ xuyên hoa xi măng trang trí. Tôi dừng lại ngắm nhìn. Thấy anh thợ khéo tay, song bố cục các hoạ tiết chưa đạt. Tôi bèn vẽ lại cho anh. Nhưng anh thực lòng góp ý: Đường nét anh vẽ thì sắc đẹp, song kết cấu như vậy không đủ khả năng chịu lực. Tôi nghĩ: ý kiến của anh thợ thật chân tình. Tôi vẽ lại và anh đồng ý. Chúng tôi trở thành đôi bạn học nghề nhau. Có bạn, anh lấy một ấm trà, hai cái chén và bó thuốc lá cuộn Lạng Sơn. Chúng tôi vừa làm vừa trà thuốc tâm đồng ý hợp. Tôi quý anh thực sự vì con người anh cởi mở, thật thà, và năng nổ làm việc. Lại nữa, anh chịu khó học nên biết nhiều nghề, tuổi đời tuy ít mà trường đời từng trải. Thấy chúng tôi thân nhau, chị Vân cũng lại ngồi xem. Anh thợ Hùng đi lấy thêm cái chén và rót nước mời chị Vân uống. Chị nói chuyện với Hùng. Tôi im lặng lắng nghe. Khoảng bốn giờ chiều, có hai chú bộ đội đi vào hỏi: - Chị cho tôi hỏi đây có phải là nhà bà Vân không ạ? - Ta là Vân đây! Con định hỏi gì? Chị đang cầm chén nước uống giở trên tay. Hai chú bộ đội thấy chị còn trẻ đổi cách xưng hô: Báo cáo chị! Đời lính, chị chẳng lạ gì. Em bị bệnh kiết lỵ, muốn đến nhờ chị ít thuốc. - Con quê ở đâu? Họ gì? - Ở huyện Như Xuân, Thanh Hoá, họ Lê ạ! - Con có biết ông Tứ đại không? - Dạ, không! - Tam đại là ông Lê Văn Hành phải không? - Đúng ạ! - Con uống nước với Ta! Nói rồi, chị trao chén nước đang uống giở trên tay mời chú bộ đội. Chú từ chối (ý chừng như thấy chị đã uống một ít rồi): - Cảm ơn chị, em không khát! - Ta mời mà, con uống đi! Thế không thể lui, chú bộ đội cầm chén nước nhấp một ngụm, đổ cặn, rồi trao chén lại. Chị cầm chén, rót nước, vừa uống vừa nói chuyện với anh thợ Hùng. Hai chú bộ đội chờ gần một giờ, ý chừng sốt ruột, vội nói: - Xin chị làm ơn cho ít thuốc, đơn vị ở xa, sợ tối. - Ta cho thuốc rồi đấy! Con về đi, ít hôm là khỏi. Con mua thẻ hương, đĩa trầu đến đây để Ta có lời với đức Tổ họ Lê cho! Hai chú bộ đội nhìn nhau, vẻ ngạc nhiên. Tôi cũng ngạc nhiên thực sự khi nghe chị nói “Ta cho thuốc rồi đấy”. Chị đọc được hoài nghi của chúng tôi, nên giải thích: - Chén trà con uống là thuốc đó. Khỏi đấy. Con về kẻo tối, đi đường vất vả! Thực tình, tôi không khỏi phân vân... Tối đến, tôi ăn cơm chung với thợ. Thật vui. Chúng tôi ăn một cách ngon lành. Tối hôm ấy, chị tập trung tất cả già trẻ lại để kiểm điểm công việc trong ngày, bố trí kế hoạch cho ngày hôm sau và phát lộc. Chị trình bày mọi thứ bằng thơ. Tôi có cảm tưởng hình như chị không biết nói văn xuôi. Chị giống như một người từ thiên thể khác lạc vào Trái đất. Hành tinh mà chị ở chỉ quen nói với nhau bằng thơ? Đến lượt phát lộc cho tôi, chị cầm hai quả nhãn trong tay và hát: “Sơ sinh, chữ Ký là tên Sáu tuổi, con đã thấy Tiên hiện hình Lên chín, Rồng Đen gặp mình Đừng tưởng Đinh Hợi giáng sinh, con ngờ Long Biên - việc của Thiên Cơ Long nhãn Mẹ tặng, từ giờ sổ ghi”. 9. Cảm nghĩ đầu tiên Vì ba giấc mơ liên tục giục giã mà tôi đã đến thôn Đồng Bái. Là người làm công tác nghệ thuật chuyên nghiệp, tôi rất thận trọng trong nghi lễ ngoại giao. Chính vì vậy, tôi đã có mặc cảm phút đầu với người con gái nhìn qua trẻ tuổi hơn tôi nhiều, vậy mà lúc nào cũng gọi mọi người xung quanh bằng “con” và xưng “ta” như người dân tộc miền núi. Qua tối phát quà, bằng hai quả nhãn và sáu câu thơ chị ứng khẩu đã làm cho tôi sờ sợ. Tháng 2 năm Mậu Thìn (1988), tôi tròn 41 tuổi. Đúng 35 năm qua, hình ảnh cô Tiên mặc áo xanh bay trên không trung phía Tây nhà tôi, ngang ngọn cây bời lời đầu ngõ, vẫn đọng lại trong trí nhớ của mình. Lại nữa, năm lên chín tuổi tôi học lớp ba, một hôm theo chị đi cắt cỏ. Tôi đã gặp một trường hợp lạ: nghe tiếng lục lạc trong ruộng lúa, tôi ngờ có con chó con của ai đó chạy lạc (ở vùng quê tôi người ta hay đeo lục lạc vào cổ chó). Tôi chạy về phía có tiếng động, thì ra một con rắn đen to dài, trên đầu có mào như mào gà song to, sắc nhọn, dài và đen. Con rắn đi chầm chậm, đầu lắc lư phát ra tiếng như lục lạc. Tôi ngó nghiêng xem tiếng lục lạc phát ra từ điểm nào trên mình rắn. Tôi vẫn tưởng ai đó đã buộc cái lục lạc dưới cổ con rắn nên cố nhìn cho ra. Con rắn hiền đến lạ. Tôi đón đằng đầu, nó rẽ sang ngang. Đến đoạn có nước, nó chạy nhanh hơn và mất hút. Mãi hơn chục năm sau, khi ngồi trong trường đại học, bản vẽ đầu tiên của tôi là ký họa về hai ký ức này. Càng ngày càng có kiến thức, tri thức học viện, tôi càng thắc thỏm day dứt trong bản thân mình. Tôi sinh năm 1947, năm Đinh Hợi. Bố tôi đã đặt cho cái tên là Ký. Bạn đồng lứa hay đùa tôi là “Ký chợ Sơn” (số là ở chợ Sơn quê tôi có người tâm thần tên là Ký hay lật lá bánh mà người ta vứt bỏ để nhặt phần bánh còn dính lá). Những kỷ niệm sâu kín trên đây chỉ mình tôi biết thôi. Tôi chưa bao giờ ghi thành văn vào nhật ký và cũng chưa bao giờ kể ra bằng lời. Vậy sao chị Vân lại đọc vanh vách cả ba điều sâu kín đó chính xác đến cả thời gian? Ở tôi đã hình thành cảm tưởng ban đầu sau khi tiếp xúc với chị: con người này ở thiên thể khác lạc xuống trái đất vậy. Hành tinh mà chị ở chắc đẹp lắm? Mọi người khi tiếp xúc nhau có lẽ chỉ dùng thơ? Tôi thấy chị dễ dàng bày tỏ suy nghĩ của mình bằng thơ suôn chảy, thuyết phục hơn cả các nhà hùng biện. Từ ba điều bí mật của tôi bị phơi bày, cộng với ý nghĩ ban đầu về cái trí huệ, sở trường thi ca, tính tự tại phong độ, tôi linh cảm như chị có cái chìa khóa bí mật thần kỳ nào đó, nên đã mở toang các cánh cửa kín đáo tựa như “tôi đã biết rõ từ lâu rồi”, cho nên chị mới tự chủ tự tại đến như vậy. Vì thế, tôi không thể suy nghĩ tiếp được. Tối hôm đó, tôi thức trắng. Tôi nhớ lại quãng đường đi từ nhà đến thôn Đồng Bái dài khoảng 400 kim ấy. Tôi linh cảm như có một bàn tay vô hình đã bố trí các tình tiết chuyến đi của tôi một cách tinh tế, từ bi và lặng lẽ. Chính vì thế, tôi quyết định ở lại thêm vài ngày nữa để khảo sát thực hư: khẳng định hơn, có chứng cứ vững vàng hơn để chứng mình luận điểm hình thành ban đầu của mình; hoặc là chứng cứ nghịch hẳn với luận điểm đã có để bản thân khỏi phân vân về ba giấc mơ từ Đức Tiên Ông. Tôi quyết định: nằm vùng khảo sát. 10. Hai ngày khảo sát Tôi hiểu “khảo” là khảo cứu, còn “sát” - thị thực. Tôi nghiêm túc và thầm lặng thực hiện mục đích đã định. Trong hai ngày đó tôi chỉ im lặng lắng nghe, nhìn và suy nghĩ. Ngày 17 tháng 2 năm 1988 Sáng dậy, đang ăn cơm sáng thì ông già - thợ cả tổ mộc tâu: - Thưa bà! Gỗ ta thừa mà hoá thiếu. Còn ba chiếc kẻ nữa, cần gỗ to hơn, xin bà cho mua để thợ kịp làm! - Được rồi! Để Ta liệu. Chị Vân trả lời vậy và tiếp tục ăn sáng. Tôi tuyệt nhiên không nghe bố trí ai đi mua gỗ. Tất cả mọi người đều vào việc. Tổ thợ nề xây, trát, đầm nền để chuẩn bị láng. Tổ mộc thì người sàm, người đục, người khắc, người bào, người rọc gỗ. Tổ cấp dưỡng cho người đi hái rau ở vườn, người giã lạc làm vừng, người nấu cơm, đun nước. Số còn lại là phụ nề, trộn hồ, xách nước, chuyển gạch v.v... Riêng tôi ngồi hút thuốc lá, uống nước, quan sát. Lúc chín giờ, có người đàn ông chừng 60 tuổi, ăn mặc giản dị, đi vào hỏi: - Ai là chủ nhà? Tôi có ít gỗ, ta có cần dùng không, tôi bán! - Gỗ để ở đâu? Gỗ gì hở bác? - Chị Vân hỏi. - Ngay trước cửa. Tôi chẳng biết gỗ gì. Thợ xem chắc biết có làm được hay không! Chị Vân gọi bác thợ cả: Bác ra xem số gỗ bác đây bán. Nếu làm được thì lấy tiền giả hộ. Bác thợ cả xem xong, quyết định lấy. Anh em thợ đổ xô ra chuyển gỗ vào nhà. Trước khi ông bán gỗ ra về, chị Vân còn lấy nải chuối biếu làm lộc cho các cháu. Công việc tiếp tục. Đến giờ cơm trưa, anh chủ thợ nề tên Hùng tâu: - Thưa bà! Thép phi sáu làm cầu thang còn thiếu ạ. - Thiếu nhiều không? - Khoảng 10 kilôgam ạ. - Được! Để Ta lo. Nói rồi, mọi người lại tiếp tục ăn cơm. Lúc này tôi cũng ngồi chung mâm với cánh thợ. Chúng tôi ăn như ngày hội. Vì có sáu, bảy chục người nên lúc nào cũng vui, nhộn. Bỗng có chú bộ đội đi thẳng vào, trên lưng mang chiếc balô cóc khá nặng. Chú đặt balô xuống, hỏi: - Tôi có ít sắt phi sáu, ta làm nhà có thiếu, tôi để lại! - Khoảng bao nhiêu? - Anh Hùng nhanh nhảu hỏi. - Tuỳ các anh! Thấy thế, chị Vân hỏi lại: - Chú có bao nhiêu kilôgam sắt? - Khoảng hơn 10 kí. - Bao nhiêu tiền một cân? - Tuỳ chị. - Chúng tôi mua sắt bốn tám - Anh Hùng trả lời. - Vâng! Sau đó anh Hùng cân được 11,8 kilôgam, kể cả balô. Chị Vân mời chú bộ đội ở lại ăn cơm, nhưng chú từ chối. Chị lấy nải chuối bỏ vào balô, bảo: - Lộc Phật đó, chú không dùng cơm thì dùng quả vậy! Chú bộ đội nhận tiền, rồi đi ra. Buổi chiều và tối hôm đó không có gì đặc biệt xảy ra. Ngày 18 tháng 2 năm 1988 Sáng dậy, có bà cụ dìu một cô gái mặt tái xanh, tóc xoã rũ rượi như người điên, đi vào. Bà cụ thấy nhà đông người đi lại, ngần ngại hỏi trống không như tự vấn mình: - Người ta chỉ nhà bà Vân Tiên ở đây cơ mà? Chị Vân trong nhà đi ra, vui vẻ: - Vâng, Vân Tiên đây! Bác có chuyện gì đó? - Thưa!... (bà cụ ấp úng không biết xưng hô ra sao) Con tôi nó bị đau cả tuần nay, nổi u nổi cục lên giữa bụng. Rồi cục chạy lung tung. Người nhà khiêng nó xuống bệnh viện thì họ bảo u xơ, cần phải mổ. Nó sợ, đòi về. Các bà ngoài chợ Lương Sơn mách bảo tôi đưa cháu vào đây nhờ bà Vân chữa giúp. - Dìu cô ấy vào ngồi tử tế, rồi bệnh gì hẵng hay! Mấy cô gái giúp bà cụ dìu người bệnh vào nhà, đặt ngồi ghế sa lông. Tôi thấy chị Vân ngáp liên hồi, ngáp đến chục cái liên tục, nước mắt chị chảy ràn rụa. Rồi chị Vân bảo người nhà: - Đi hái nạm ngải cứu và lấy ít muối! Sau đó chị lấy tay nhồi ngải cứu với muối, miệng đọc như hát một bài gì đó (sau này tôi mới biết đó là bài chú Đà la ni). Tiếp đến, chị lấy bát nước lã trên tủ thờ trộn với ngải cứu, gạn lấy nửa bát nước xanh lè, trao cho cô bệnh nhân và nói: - Uống đi là khỏi! Sau khi người bệnh uống xong, chị Vân bảo người nhà dìu cô gái vào giường. Cô gái nằm rên la một lúc, rồi im lặng ngủ. Đến giờ cơm trưa, chị Vân cho gọi người bệnh dậy, hai mẹ con bà cụ cùng ăn cơm ngon lành với chúng tôi. Cơm nước xong, chị Vân bảo bà cụ đưa cô gái về: - Thế là khỏi bệnh rồi đấy! Âm phần nặng lắm, nên làm siêu độ cho các hương linh nhà ta! Chúng tôi nghỉ trưa. Tôi tham gia đánh cờ tướng trên nền giếng trước cổng. Chiều đến, công việc xây dựng vẫn tiến hành bình thường. Khoảng ba giờ chiều, có hai chú bộ đội đi vào, tay xách túi: - Chào chị ạ! - Chú họ Lê đến tạ lễ phải không? - Dạ! Khi hai chú bộ đội thú nhận, tôi mới kịp nhớ ra họ chính là những người đã tới hôm 16 tháng 2. Chú bị bệnh kiết lỵ thưa: - Em sắm lễ theo lời chị dặn đến nhờ... - Đã khỏi chưa? Dạ! Từ hôm ở đây về không đau nữa. Em theo dõi thì thấy bình thường rồi ạ. Chị Vân bày trầu cau, hương, quả của hai chú bộ đội lên tủ lệch để bát hương, rồi chị dâng hương và hát một bài thật hay. Chờ một lát, chị hạ lễ, lấy nửa nải chuối đưa cho hai chú bộ đội và nói: - Đây là lộc Phật, con về ăn cho khoẻ! Hai chú bộ đội vui vẻ chào mọi người, ra về. Như vậy, sau hai ngày tôi đã chứng kiến bốn sự việc: thiếu gỗ và sắt - cầu được ước thấy; có hai bệnh nhân đến chữa bệnh - tuy hai cách chữa khác nhau, nhưng kết quả đều rõ rệt. Xuất phát từ đó, tôi nảy sinh ý định xin phép chị Vân đưa vợ mình đến đây chữa bệnh bướu cổ. Tôi quyết định trở về nhà. Từ trong sâu thẳm lòng tôi, một nỗi niềm kính tín nơi đây đã được hình thành. 11. Phép thử Sáng ngày 19 tháng 2 năm Mậu Thìn (1988), tôi quyết định về nhà. Tối 18, tôi trăn trở, suy nghĩ qua một đêm. Việc tôi ra đi từ nhà xuống ga Vinh có người giúp. Từ Vinh đến Thanh Hóa có anh bạn Lê Hàn đón. Từ Thanh Hóa ra Hà Nội lại gặp hai bạn là Nhũy và Từ Thành. Từ Hà Đông về Lương Sơn đã được hai chú lái xe vui vẻ dẫn đến tận nơi. Suốt chặng đường dài ngót 400 kilômét ấy chưa phải dùng đến đồng tiền nào. Bởi vậy, tôi quyết định cúng dàng tất cả số tiền hiện có trong túi. Thực tế, các bạn tôi ở rải rác khắp cả nước, nếu gặp rắc rối tôi có thể nhờ họ đến cứu giúp. Tôi tự nhủ: “Đức Phật đại từ, đại bi tha thứ cho con! Thực tình, lúc đó con đã thử xem chị Vân là người thường hay là Tiên mượn thân Trần”. Tôi nói với chị Vân: - Báo cáo chị, tôi ra đi quá đột ngột. Đến đây mới biết chị làm nhà, của ít lòng nhiều, xin chị cầm cho số tiền này để tôi yên dạ. Nói rồi, tôi trao cả 16 nghìn đồng gửi chị (đây là số tiền đáng kể vào thời bấy giờ). Chị nhất định không lấy. Tôi cố trình bày mãi chị mới chịu cầm. Chị nói: - Vậy là đồng tiền cuối cùng trong người con đã giao Ta. Ta biết con định làm gì. Thôi được, phải vậy thì Ta nhận. Được lời như cởi tấm lòng. Trao được 16 nghìn đồng vào tay chị Vân, tôi vội vã xách balô ra đi. Nhưng chị vội bảo “Khoan đã”. Rồi chị hỏi mấy cô cấp dưỡng: - Lễ khao binh buổi sáng đâu? - Dạ, có đây ạ! Một cô gái bê lên mâm cháo hoa, trên mâm còn có bát nước lã, đĩa gạo và đĩa muối. Chị Vân thắp nguyên một búp hương, cắm ngay cạnh vườn cam, mâm cháo cũng để tại đó. Rồi chị hát một bài hay tuyệt, giọng lâm ly, trầm bỗng đến lạ kỳ. Nội dung bài hát thì dài, song tôi có nghe nói đến chư tướng, chư binh hộ trì cho tôi về quê an toàn. Hát xong, chị lấy nắm gạo, nắm muối vứt lung tung ra đất. Gạo, muối tung lên cả người tôi. Xong rồi, chị quả quyết: - Con đi được rồi đấy! Con phải đến đây nữa mà! Tôi đi ra đến đường 6 là có xe đi Hà Đông ngay. Xuống xe, họ chẳng lấy tiền. Tôi lên xe buýt về Hà Nội, họ cũng không lấy tiền. Đến ga Hàng Cỏ (Hà Nội), nhà ga thông báo: Chuyến tàu Hà Nội - Vinh được lệnh xuất phát. Tôi đi thẳng vào cổng ga mở ngỏ. Mấy nhân viên sợ tôi chậm tàu nên chẳng đón hỏi vé gì cả. Vừa lên bậc vào toa, tàu bắt đầu chuyển bánh. Tôi kiếm ghế ngồi ngủ một thôi. Đến ga Thường Tín, nhà tàu đi kiểm tra, họ vẫn để yên cho tôi ngủ. Đến Thanh Hóa, một đoàn 9-10 thương binh đi buôn thuốc lá mời tôi ăn cơm. Từ Thanh Hóa về Vinh, dù trên chuyến tàu mà tựa hồ như ở nhà mình vậy. Đến Vinh, khi xuống tàu ra cổng thì gặp cậu Minh đang ngồi trên xe máy, nó đưa tôi vào tiệm ăn dùng bữa, rồi chở tôi về tận nhà. Tám giờ sáng ngày 20 tháng 2 năm Mậu Thìn (1988), tôi có mặt tại nhà riêng ở Thái Lão (huyện Hưng Nguyên, Nghệ An). Sau chuyến đi này, tôi suy nghĩ nhiều lắm. Khi đi, tôi không sử dụng đến tiền là do tình cờ gặp may. Nhưng khi về, tôi đã chủ động thử: dù không có đồng tiền nào dính túi cũng chẳng hề gì! Rõ ràng là Đức Phật từ bi đến im lặng. Ai tin cũng im lặng. Ai báng bổ cũng im lặng. Chuyến đi này là nhân duyên tạo tác cho các chuyến đi sau này của tôi. (còn tiếp) 12. Xin thuốc... vào tù Mãi đến bây giờ, tôi mới thấm thía và hiểu hết ý nghĩa sâu sắc sáu câu thơ mà bà Bạch Ngọc Hoa tặng: “Gà què ăn quẩn cối xay, Có đi mới hiểu cái hay ở tù. Bỏ huyền còn có chữ tu Cũng như xua đám mây mù chưa tan. Bao giờ Trời rọi nắng vàng, Sẽ nhìn thấy cảnh Đông tàn, sang Xuân”. Cũng xin nói thêm: kể từ ngày 20 tháng 2 năm Mậu Thìn (1988), tôi bắt đầu gọi chị Vân bằng bà Bạch Ngọc Hoa như mọi người thường tôn kính. Từ đó về sau, bao giờ tôi cũng để tâm suy nghĩ những điều mắt thấy tai nghe. Tôi nhất tâm tin tưởng rằng, bà Bạch Ngọc Hoa sẽ chữa khỏi bệnh bướu cổ của vợ tôi. Song trong mình lại canh cánh nỗi âu lo: “Liệu việc đưa vợ ra nhờ chữa bệnh như vậy mình có lạm dụng lòng từ ái của Đức Phật hay không? Mình đã làm được điều gì đâu mà nương nhờ?” Tuy nghĩ vậy, song bệnh tình của vợ tôi ngày một nặng hơn. Tôi quyết định đi Bạch Long Thiên để xin ý kiến của bà Bạch Ngọc Hoa. Tôi ra đến nơi, thấy một chiếc xe ca đậu ngay trước cửa chùa. Mọi người đang chuẩn bị đi hội chùa Phù Đổng. Bà Bạch Ngọc Hoa cho phép tôi cùng đi với đoàn. Tôi mang theo chiếc máy ảnh trong chuyến đi này nhằm mục đích ghi lại những điều kỳ diệu để khẳng định niềm tin cho vợ. Đó là chuyến đi vào ngày 8 tháng 4 năm Mậu Thìn. Tôi được bà Bạch Ngọc Hoa đồng ý chữa bệnh cho vợ. Tôi lại quay về để đưa vợ ra Hòa Bình chữa bệnh. Nhưng vợ chồng tôi suy đi tính lại: nếu cả hai người cùng đi thì bốn cháu nhỏ không có ai trông. Cuối cùng quyết định, chỉ mình tôi trở ra xin thuốc. Tôi lại lên đường. Khi đi, tôi cầm theo bộ bút vẽ. Đến nơi, chùa Bạch Long Thiên đã hoàn thành. Tôi bắt tay vào trang trí. Ngày thứ ba có người về, tôi xin bà Bạch Ngọc Hoa thuốc gửi về cho vợ. Bà lấy tờ giấy trắng học trò, cắt ra thành tám phần bằng nhau. Rồi bà lấy ra ba miếng đánh số 1, 2, 3 và lấy từng tờ một, áp vào trong lòng bàn tay mình chín lần, miệng niệm chín lượt: “Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Linh cảm Bạch y Quan thế âm Bồ tát”. Sau khi làm như vậy cho cả ba tờ, bà đưa cho tôi và dặn: - Mỗi lần mỗi thang theo thứ tự. Đốt cháy vào chén nước lã trên bàn thờ, rồi uống. Tôi viết thư dặn vợ tỷ mỷ, nhất nhất y lời mà làm theo. Tôi ở lại trang trí Bạch Long Thiên xong thì bị Công an huyện Lương Sơn (tỉnh Hòa Bình) bắt giữ hai tháng ba ngày. Sau 63 ngày ở tù, tôi về nhà thấy vợ đã khỏi bệnh. Tôi lý thú nghe vợ kể lại diễn biến khi uống ba thang thuốc Thần bạch y. Nghĩ lại sáu câu thơ mà bà Ngọc Hoa tặng tôi trước lúc vào tù càng thấy thấm thía nhường nào! 13. Tại Công an huyện Lương Sơn Hôm đó, Công an huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình đến Bạch Long Thiên bắt ba người gồm bà Bạch Ngọc Hoa, bác Lê Thiệu Bảo và tôi. Tôi đã khai đi khai lại về những giấc mơ Tiên đến chục lần, và có lẽ hiện nay vẫn còn lưu tại Công an huyện Lương Sơn - Hòa Bình. Từ đó đến nay và mãi sau này, tôi không những không có chút bực dọc về những gì đã xảy ra ở đó, trái lại tôi thầm cảm ơn họ. Thứ nhất, tôi sẵn sàng đón nhận tù đày kiểu này như một món quà: “Gà què ăn quẫn cối xay, Có đi mới hiểu cái hay ở tù. Bỏ huyền còn có chữ tu...” Là người đã được chứng nghiệm các giấc mơ Tiên, tôi tin tưởng tuyệt đối và đi tìm điều bí ẩn của hư vô trong lúc có chủ trương bài trừ mê tín dị đoan. Thứ nữa, Cũng nhờ hơn hai tháng tù này mà tôi càng tin lời Đại Đức Tiên Ông hơn. Số là, do thương binh nên Công an huyện Lương Sơn không giam tôi như đối với bà Ngọc Hoa và bác Bảo. Họ nhốt tôi vào ba gian thênh thang của hội trường. Đêm xuống, tôi được xem hình ảnh các chư vị tâm linh hiện trên tường vôi trắng như xem màn ảnh rộng. Tôi nhận được rành rõ chân dung, hình tướng từng vị: Đức Phật A Di Đà, Đức Phật Thích Ca, Ngài Quán Thế Âm, Đức Dược Sư Lưu Ly, Đại Đức Tiên Ông, Vua Cha Ngọc Hoàng, Đức Nam Tào Bắc Đẩu, Bà Hoàng Lan, Bà Ngụ Phương, Đức Bát Hải Long Vương... Tôi nhìn thấy dung nhan và trang phục của các vị đó, tôi biết được thông tin các Ngài ở cõi nào và làm gì, cần việc gì thì vời ai và mời ra sao... Nếu không được tĩnh tâm hơn sáu mươi ngày ở tù lần thứ nhất thì tôi không có duyên lành trải qua đợt “tập huấn” đó. Vào đêm cuối cùng ở hội trường, Đức Tiên Ông lại về tâm sự: - Con có giận Ta không? - Thưa! Không ạ! - Vậy thì hãy còn 9 ngày tù nữa nhé! - Tại sao lại còn 9 ngày nữa ạ? - Cho đủ 72 ngày, chứ con! - Sao lại 72 ngày mà không phải là 80 hay 90 ngày ạ? - Con có nhớ chuyện Tôn Ngộ Không không? - Dạ! Con nhớ ạ! - Đó! Bảy hai phép thần thông biến hóa mà con. Sau này con sẽ hiểu trận đồ bát quái... Chín ngày còn lại sẽ được chia thành hai đợt đấy! Tôi nghe vậy và tin chuyện sẽ xảy ra. Tôi không lo và cũng chẳng cầu mong. Thử hỏi, sự vi diệu ấy ở chốn trần gian này mấy ai có được? Làm sao mà tôi không tin? 14. Hàn huyên sau 63 ngày Về đến nhà, vợ con tôi tỏ ra hân hoan. Điều vui mừng nhất là vợ tôi, Nguyễn Thị Quang khỏi bệnh ─ cục bướu ở cổ đã tiêu tan. Nhà tôi kể lại những điều kỳ diệu liên quan đến ba thang thuốc đó. Qua lời kể tôi cảm nhận được rằng, vợ tôi biết ơn Đức Phật lắm. Nhà tôi nói: - Ba bảo ta nên tạ ơn Đức Phật thế nào cho xứng? - Thiếu gì lúc, cái tâm mới là điều chính! Vào năm 1990, bà Bạch Ngọc Hoa giao cho tôi xây chùa Tiên Cảnh ở Cửa Hội. Lần đầu tiên tôi gặp việc này. Tôi hỏi bà: - Tiền đâu, thưa bà? Chỉ tay về dãy núi Hồng Lĩnh, bà Ngọc Hoa nói: - Tiền trên núi ấy! Ta sẽ cho người chở thuốc về, con sẽ chữa bệnh để lấy tiền mà xây chùa! Thực tình, tôi không biết gì về chữa bệnh. Song, tôi tin các chư vị sẽ giúp. Bà Ngọc Hoa đưa cho tôi 180.000 đồng và dặn: - Ta thi cùng con 70 ngày: Con xây chùa Tiên Cảnh, còn Ta xây bể nước Chùa Hương, xem ai nhanh hơn? Bà Ngọc Hoa còn dặn thêm: - Khi thiếu tiền, thiếu gạo thì xin bà Hoàng Lan, bà Ngụ Phương điều cho; nếu thiếu cá cho thợ ăn thì viết sớ xin Bát Hải Long Vương, con nhé! Tôi sực nhớ đến 63 ngày tại Công an huyện Lương Sơn - Hòa Bình. Tại đó, tôi đã được các chư vị chỉ dạy điều này. Tại sao bà Ngọc Hoa biết hết cả vậy? Tôi y lời và sau đúng 68 ngày, tôi đã xây xong chùa Tiên Cảnh ─ ngôi chùa hai tầng, tám mái, diện tích sử dụng gần 120 mét vuông, chỉ thiếu 2 triệu đồng tiền công thợ. Biết vậy, vợ tôi bán ngôi nhà đang ở tại thị trấn Thái Lão (huyện Hưng Nguyên - Nghệ An) để cúng dường 2 triệu đồng tạ ơn Thánh Thần đã giúp chữa bệnh bướu cổ. Từ đó, vợ tôi thanh thản trong lòng vì đã có dịp báo ân cứu mạng. Trong 68 ngày xây chùa Tiên Cảnh, biết bao những chuyện diệu kỳ đã xảy ra. Riêng tôi, điều đáng chú ý hơn cả rút ra cho riêng mình là: Không điều gì mà Phật Thánh không làm được. Điều quan trọng hơn cả là ta làm sao để được các chư vị hộ trì. 15. Trả lại tiếng nói Bác Nguyễn Hữu Miên quê ở xóm Bố Đức (xã Nam Hùng - Nam Đàn - Nghệ An) là cán bộ cao cấp trong quân đội. Vợ và con ở tại tỉnh Quảng Ninh. Bác Miên bị tai biến não liệt nửa người, không nói được, đã điều trị tại bệnh viện mà không khỏi. Vợ bác đến đền Cửa Ông thì nhận được tin từ Thánh Thần truyền dạy: - Chồng con có lỗi với Tổ Cô, đưa về quê sám hối sẽ có người chữa khỏi! Tại Đà Nẵng, em ruột bác Miên là trung tá Nguyễn Hữu Chuyên cũng nhận được lời truyền bảo như chị dâu. Bởi vậy, bác Chuyên từ Đà Nẵng ra Quảng Ninh để bàn đưa anh về quê chữa bệnh. Hôm đó, bác Nguyễn Hữu Nhuận ở xã Nam Hùng (là em con chú) dẫn vợ bác Miên về nhà bác Đức tại thị trấn Nam Đàn. Đang chào hỏi thì tôi ngáp liên tục (biểu hiện khi có hồn ngoài tác động vào người). Tôi chỉ vợ bác Miên, nói: - Chồng bác là tộc trưởng, nhà thờ thì cho người ngoài vào ở, long ngai bị bẻ gãy cổ. Bà Tổ Cô giận lắm! Vợ bác Miên không tin là nhà thờ cho người ngoài vào ở và long ngai bị gãy cổ. Nhưng khi tới nhà thì tôi thấy tường sau của ngôi nhà thấp, bàn thờ đặt ngay trên sập đựng lúa, long ngai vì quá cao nên đã bị bẻ gập cổ để xuôi theo mái ngói. Hỏi ra mới biết bác Miên cho vợ chồng người em gái nhà và giúp hương khói thay anh (có lẽ gia đình em gái là “người ngoài” vì khác dòng họ). Như vậy, đã xác minh lời của Tổ Cô là đúng. Để giải quyết vấn đề, tôi có ý định mời Tổ Cô về trao đổi. Chọn nhà bác Nhuận lên hương đèn, rồi chúng tôi ngồi uống nước. Nhìn lên bàn thờ, tôi nói lớn: - Thưa Tổ Cô họ Nguyễn Hữu! Con cháu Ngài là Nguyễn Hữu Miên đang bị bạo bệnh. Tổ Cô thương tình cho Nguyễn Hữu Miên khỏi bệnh. Tôi sẽ hướng dẫn con cháu Ngài thiết lập bàn thờ chu đáo và siêu độ cho các hương linh. Quay sang vợ chồng bác Nhuận và vợ bác Miên tôi hỏi: - Tôi nguyện như vậy, các bác có đồng ý không? (Mục đích là chuyển ý của tôi thành quyết tâm của họ.) Cả ba người đều đồng thanh nói “Đồng ý”. Tôi quay về phía bàn thờ, nói tiếp: - Con cháu Ngài đã hứa. Ngài đồng ý chữa bệnh cho Nguyễn Hữu Miên thì xin hãy hoá bát hương. Tôi vừa dứt lời thì bát hương bùng cháy. Đến lúc này, con cháu Nguyễn Hữu mới cảm nhận được sự linh thiêng của Bà Tổ Cô. Bằng đôi tay mình và bảy thang thuốc lá, tôi đã chữa cho bác Miên. Ba ngày sau, bác nói lại được câu đầu sau thời gian dài bị mất tiếng. Một tuần sau, bác đi được bảy bước sau thời gian bại liệt. Thực tế đã nói lên sự kỳ diệu. 16. Vào tu lần hai (Giờ Thìn, ngày 23 tháng 3 năm 1991) Nhà bác Phan Công Tính (còn gọi là bác Đức) ở gần cửa bệnh viện huyện Nam Đàn, Nghệ An. Người đến nhà bác Đức đông không kém đến bệnh viện. Tối hôm ấy, Đại Đức Tiên Ông lại về. Ngài bảo tôi: - Ngày mai con vào tu lần hai. Đợt này sáu ngày, con nhé. Tu xong con sẽ về núi Hồng Lĩnh. Ngủ dậy, tôi dặn hai vợ chồng bác Đức: - Sáng nay, Công an huyện Nam Đàn sẽ đến bắt cháu đấy. Hai bác cứ để yên cho họ đưa đi và cũng đừng nói gì. Sáu hôm sau cháu lại về. Tám giờ sáng ngày hôm đó, đúng là Công an huyện Nam Đàn đến bắt tôi. Tôi xin phép đi tắm trước khi đi, vì tôi biết chắc chắn sáu ngày sau mới được tắm. Họ đồng ý. Thấy Công an huyện dẫn tôi về đồn, tin lan khá nhanh. Tối hôm đó, Đài PT-TH Nam Đàn đưa tin trên sóng truyền hình nên khắp huyện đều biết. Ngày hôm sau, có nhiều người đến Công an Nam Đàn. Người thì đến xem “thầy lang lừa đảo”, người thì đến do quen biết, thương cảm; có người đến do tò mò và cũng có đông phật tử hay tin đến để động viên, an ủi tôi. Đặc biệt, những người đã được tôi cứu chữa cũng đến đấu tranh đòi thả tôi. Một số như người nhà bác Miên, vợ chồng Hằng Hợi thì đòi gặp bằng được Trưởng công an huyện để trình bày sự thực... Công an huyện Nam Đàn giải thích: - Bà con yên tâm! Mọi thứ đã có pháp luật. Nếu không có gì sai phạm thì chúng tôi sẽ cho ra. Có người chân tình đã hỏi tôi: - Đại Đức Tiên Ông đã báo cho biết trước 4-5 giờ, sao anh không bảo ai chở về nhà trước? Tôi nói rõ sự thể: - Đại Đức Tiên Ông báo trước cho là nhằm mục đích khỏi cảm thấy đột ngột. Chuyện gì đến, nó phải đến. Nếu không cần thiết vào tu thì Đức Ngài đã không bày ra việc này. Mọi người đành phải ngậm ngùi im lặng. Ba ngày sau, Công an huyện Nam Đàn chuyển tôi về Công an huyện Nghi Lộc là nơi quê tôi. Theo KNTL
  8. Một trong những yếu tố dẫn tới sự hình thành Nhà nước đầu tiên là do nhu cầu tự vệ chống ngoại xâm, do đó quân sự thời Hùng Vương là mặt được quan tâm phát triển hơn các lĩnh vực khác. Điều này có thể thấy rõ hơn trên phương diện khảo cổ. Trong các di chỉ khảo cổ thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên số lượng vũ khí tìm thấy trong các di chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với toàn bộ hiện vật. Nhưng đến giai đoạn văn hóa Đông Sơn, tỷ lệ vũ khí tăng cao, trong di chỉ Vinh Quang vũ khí chiếm tỷ lệ 50,6 %, Thiều Dương là 59,8 %, Đông Sơn (Thanh Hoá) là 63,29 %... Ở các khu mộ táng, số mộ có vũ khí chôn theo cũng chiếm tỷ lệ khá cao như ngôi mộ ở Việt Khê (Hải Phòng) số vũ khí chiếm tỷ lệ 53,7 % so với toàn bộ hiện vật bằng đồng, tại khu mộ táng ở Làng Cả (Phú Thọ) tỷ lệ đó là 56,9 %... Xét trên phương diện tổng quát, ở chính quyền trung ương có một lực lượng quân đội thường trực, tương đối có tổ chức. Vua Hùng, Lạc hầu đều có lực lượng thân binh để hộ vệ và làm chủ lực trong các cuộc chiến tranh; dưới các bộ, Lạc tướng cũng có đội quân riêng của mình. Tuy nhiên, quân đội thường trực thời đó chưa nhiều, vì vậy khi có chiến tranh, mọi lực lượng chiến đấu và hậu cần đều được huy động trong thành viên các công xã. Thành viên công xã khi bình thường thì sản xuất, khi có chiến tranh sẽ sẵn sàng chiến đấu theo lệnh của thủ lĩnh quân sự địa phương. Đây là lực lượng quân sự quan trọng của nhà nước thời Hùng Vương, là nền móng của chiến tranh nhân dân và chính sách “ngụ binh ư nông” sau này. Thánh Gióng trong tranh dân gian Đông Hồ. Điều đó phản ánh qua những hình tượng của truyền thuyết Thánh Gióng. Khi Gióng dẫn đầu đoàn quân ra trận đánh giặc thì người đang làm lụng ngoài đồng cũng chạy theo giúp sức, người cầm dao, người thì vác cuốc, vác vồ đập đất; đoàn quân còn có cả người đi săn, trẻ chăn trâu, người câu cá…Ngành luyện kim phát triển đã tác động lớn đến việc đa dạng hóa các loại vũ khí. Vũ khí dùng để trang bị cho quân đội gồm nhiều loại, nhiều kiểu khác nhau. Vũ khí đánh gần có: rìu chiến, giáo, qua, dao găm, kiếm ngắn…; vũ khí đánh xa có: lao, cung, nỏ… Ngoài ra, có phương tiện hỗ trợ chiến đấu, phòng hộ như bao tay, bao chân, khiên, mộc, tấm đồng che ngực (hộ tâm phiên)…Trong số đó nổi bật là trống đồng, sách Văn hiến thông khảo của phương Bắc có đoạn viết: “Khi muốn đánh nhau thì đánh trống đồng lên. Nghe tiếng trống, người đến ùn ùn như mây”. Các sách khác của Trung Quốc cũng cho biết trong các trận đánh, người phương nam thường đánh trống đồng thị oai, tiếng trống vang dội uy hiếp tinh thần đối phương. Để cho hiện vật đúc có độ mềm cứng khác nhau tùy theo mục đích, người Việt cổ đã thay đổi tỷ lệ đồng, chì, thiếc tức là đã luyện được các loại hợp kim khác nhau. Đó là hợp kim đồng-thiếc, hợp kim đồng-chì, đồng-chì-thiếc. Việc thay đổi này phù hợp với tính năng sử dụng của từng loại sản phẩm, như vũ khí và công cụ lao động cần cứng, sắc thì tỉ lệ chì thấp, thiếc cao; còn các loại đồ dùng như thạp, thố cần độ dẻo cao thì tỉ lệ chì nhiều, thiếc ít. Bên cạnh đó, nhà nước còn mở những xưởng rèn đúc chuyên nghiệp để sản xuất ra các loại vũ khí, đồng thời cũng rất quan tâm đến việc huấn luyện binh sĩ. Lực lượng thủy quân cũng được phát triển gắn liền với tài bơi lặn của người Việt cổ, trên các trống đồng có hình khắc của nhiều loại thuyền, với cả những thuyền chiến lớn có vọng lâu ở đằng trước lái… Ngoài vũ khí tự sản xuất, trong một số di chỉ thuộc giai đoạn Đông Sơn còn phát hiện qua đồng, một loại vũ khí thời Chiến Quốc, điều đó có thể thấy hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa xuất hiện không chỉ giữa các vùng miền trong nước mà đã mở rộng ra nước ngoài. Hình thức trao đổi chủ yếu lúc bấy giờ là vật đổi vật hoặc thông qua một vật ngang giá. Những cơ sở nói trên cho thấy quân đội thời Hùng Vương trở thành nhân tố quan trọng trong bảo vệ đất nước trước các thế lực ngoại xâm mà truyền thuyết dân gian đã phản ánh cuộc chiến đấu chống, “giặc Ân”, “giặc Hồ Tôn”, “giặc Mũi Đỏ”, “giặc Thục”… Điều này được ghi chép trong rất nhiều bản thần tích của các làng xã, dường như nó phản ánh một hiện thực nào đó chứ không phải hoàn toàn là chuyện huyền thoại. Trong số những loại giặc, có thể xác định được một số, như giặc Hồ Tôn tức người Lâm Ấp, giặc Ai Lao tức người Bộc ở vùng đất Dạ Lang (nay thuộc Trung Quốc). Nhu cầu tăng cường và tổ chức quân đội nhằm bảo vệ đất nước và chống ngoại xâm còn thúc đẩy sự hình thành nền võ thuật cổ truyền Việt Nam. Manh nha từ những động tác đơn giản của hoạt động săn bắn thời công xã nguyên thủy và tự vệ đã hình thành ý thức luyện tập từ bản năng đến có ý thức và nâng cao dần thành kỹ năng lao động, chiến đấu. Từ chỗ dùng cơ bắp thuần túy đến chỗ sáng tạo và cải tiến sao cho ngày càng có hiệu quả hơn. Chính những động tác săn bắn thú rừng, đánh bắt hải sản được lặp đi lặp lại nhiều lần đã tạo nên những thế võ sơ khai. Dấu tích về các địa danh như Cẩm Đội, Đồng Cẩm, Gò Tro ở Việt Trì (địa bàn xưa là kinh đô nước Văn Lang) với sự truyền tụng bao đời nay rằng đó là nơi quân lính thời Hùng Vương huấn luyện, tập võ, tập trận… cho thấy sự phát triển của võ thuật và ý thức rèn luyện quân sự của Nhà nước Việt Nam thời cổ đại. Thái Dũng (sưu tầm) Nguồn
  9. Hồi nhỏ VL được dẫn đi những phiên chợ quê cũng thỉng thoảng gặp bác thợ lặn tò he. Có điều tò he bằng bột, xanh đỏ tím vàng. Chơi chán mà đang đói ăn luôn. Vật sumo và vật cổ truyền ở Việt nam có nhiều nét giống nhau. Tại sao trong các nước ĐNA và ĐBA ít thấy nước nào như Việt nam có môn võ vật cổ truyền, cởi trần quấn khố (nếu đọc tùy bút Thương nhớ mười hai của nhà văn Vũ Bằng thì môn vật tại các làng quê miền Bắc trước 1954 không khác gì mấy môn sumo. Đó là những lễ hội lớn, là niềm tự hào, là tinh thần thượng võ của một cộn đồng). Tại các kỳ Sea Games, vật cổ truyền luôn là một trong những môn đem lại nhiều huy chương nhất cho đoàn thể thao Việt nam. Có thể nước khác có môn vật nhưng nó chưa đến mức phổ biến hoặc trở thành một nét văn hóa như vật cổ truyền Việt nam hay vật sumo Nhật bản. Hàn quốc cạnh Nật Bản cũng không hề phổ biến môn võ này trong khi các môn võ các các nước đều có chỉ khác nhau ở những thế võ hay tên gọi như Taekondo, Karate, Vovinam, Pencak Siclat, Muong Thai.
  10. Thưa sp, trận động đất lớn có tính hủy diệt một miền đất đó có phải xảy ra ở khu vực mũi tên ko ạ? Trung cận Đông
  11. Gốc tích tục thờ Hùng Vương 12/04/2011 23:30 Các nhà nghiên cứu đã tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu, khảo cổ, sưu tầm thần tích, thần phả, văn hóa dân gian để “giải ảo” Hùng Vương và thời đại các vua Hùng. Hàng vạn người hành hương về Lễ hội đền Hùng sáng qua (12.4) - ảnh: L.Q.P Ngay trước ngày giỗ Tổ Hùng Vương và Lễ hội đền Hùng năm nay, VN đã chính thức gửi hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận tín ngưỡng Hùng Vương là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đây chính là dịp để mọi người VN bồi đắp cho cội rễ văn hóa của mình, và tìm thấy trong đó sức mạnh đi vào tương lai. Muốn vậy, phải nhận thức đúng giá trị của truyền thống này, cũng như tìm ra phương thức duy trì và phát huy nó trong điều kiện một quốc gia đa dân tộc đang trên con đường hội nhập toàn cầu. Theo GS Trần Quốc Vượng, vua Hùng là trưởng bộ tộc (còn được gọi là pò khun) trên núi Hy Cương ở vùng Phong Châu (khu vực đền Hùng hiện nay). Núi Hy Cương được cho là ngọn núi thiêng vì nằm ở chóp tam giác của châu thổ sông Hồng, quy tụ núi sông. Bộ tộc đó được coi là khởi hình của nhà nước phong kiến ngày xưa. TS Nguyễn Xuân Diện (Viện Hán Nôm) cũng cho rằng, từ thời xa xưa, tín ngưỡng thờ vua Hùng là tín ngưỡng thờ các vị sơn thần (thần núi). Các bài vị cổ xưa của Hùng Vương là bột ngột cao sơn, những vị được ghi tên là các tên núi. Sử sách trước thời Lê ít nhắc đến Hùng Vương và thời đại các vua Hùng. Theo GS Trần Quốc Vượng trong Văn hóa cổ truyền VN (lịch, tết, tử vi và phong thủy) (Từ điển Bách khoa và Viện Văn hóa, 2009): trong Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái được biên soạn trong các triều đại Lý - Trần (và cả đầu Hậu Lê), tập hợp lại các câu truyện truyền thuyết dựa vào những chất liệu đền miếu, huyền thoại, huyền tích còn đọng lại trong tâm thức dân tộc và trong dân gian từ trước thời Bắc thuộc, qua thời Bắc thuộc và chống thời Bắc thuộc, có “những ký ức rất lờ mờ về Hùng Vương”. Trong Đại Việt sử lược được biên soạn vào thời Trần, “thời Hùng chỉ được nhắc đến qua quít”. Đến năm 1435, khi biên soạn Dư địa chí, Nguyễn Trãi mới đưa Kinh Dương Vương, Lạc Long, Hùng Vương vào tòa đền chính sử VN, coi Kinh Dương Vương là Tổ Bách Việt và Hùng Vương tiếp nối ngôi vua, dựng nước, gọi là Văn Lang. Cách nhìn nhận đó được tiếp nối và phát triển bởi Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, đồng tác giả của Đại Việt sử ký toàn thư (1475) - văn phẩm lịch sử chín muồi thời Hồng Đức. GS Trần Quốc Vượng kết luận: hiện thực lịch sử thời Hùng, việc coi vua Hùng là vua Tổ dựng nước là một sự tự ý thức của triều Lê. Đến giai đoạn hình thành quốc gia phong kiến từ thế kỷ X trở đi, đặc biệt là từ thời Lê, ông cha ta đã sáng tạo nên hình tượng, biểu tượng quốc tổ Hùng Vương (vốn mang yếu tố truyền thuyết đậm đặc). Vì sao lại đặc biệt từ thời Lê? Giải thích điều này, GS Ngô Đức Thịnh (Ủy viên Hội đồng Di sản quốc gia) cho rằng, đây là thời kỳ ông cha đã giành được độc lập và xây dựng nhà nước Đại Việt, nhu cầu củng cố nhà nước là rất mạnh mẽ, nhất là khi đất nước luôn đứng trước nguy cơ bị xâm lược. Quốc tổ Hùng Vương là biểu tượng quy tụ cội nguồn dân tộc, tăng cường sức mạnh đoàn kết dân tộc. Tín ngưỡng thờ cúng quốc tổ là sự phóng chiếu từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, gia tộc của người VN, nhà có tổ tiên, nước có quốc tổ. GS Ngô Đức Thịnh cho rằng, biểu tượng Hùng Vương là biểu tượng siêu giai cấp, mọi chế độ xã hội đều nhìn thấy ở đó mẫu hình quy tụ cội nguồn dân tộc, đây là sức mạnh đã giúp chúng ta vượt qua nhiều biến cố trong lịch sử như những lần mất nước hay chống giặc ngoại xâm. Tại đền Hùng năm 1954 (thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược), Bác Hồ đã nói: “Các vua Hùng đã có công dựng nước/ Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được đánh giá là sự sáng tạo độc đáo của dân tộc VN. Hiếm có quốc gia nào trên thế giới xây dựng biểu tượng quốc tổ, thực sự quy tụ dân tộc như chúng ta. Thờ cúng Hùng Vương khẳng định dân ta có chung một cội nguồn, từ đó tạo thành động lực để yêu thương, gắn kết cộng đồng. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã trở thành tâm thức của người VN từ thế hệ này sang thế hệ khác. (http://www.thanhnien...Hung-Vuong.aspx)
  12. Bạn ko đạt được kết quả như mong đợi Thương Tiểu Cát - Đỗ Vô Vong. (đọc để biết thêm nhé, cứ cố gắng. Chúc bạn thành công)
  13. Vụ thiền sư Lê Mạnh Thát sau khi nghiên cứu cho rằng nước Việt có 5000 năm văn hiến, hội lịch sử lên tiếng sẽ tổ chức hội thảo nhưng rồi họ lại không tổ chức khiến người ta đặt ra những lý do: - Họ không đủ khả năng phản biện lại. - Họ sợ thu - Thiếu kinh phí tổ chức: Hàng năm có nhiều cuộc hội thảo nên đây ko phải là lý do. - Họ không quan tâm tới những ai có luận điểm khác họ. Điều này nếu có thì không phù hợp với người làm khoa học. - Coi luận điểm khác là "nhảm nhí", không "thèm chấp": Chủ quan, duy ý chí, tự mãn. ...
  14. Kinh Đại An Cũng không lâu lắm nhưng cũng chưa kiếm ngay được, chừng 2 - 3 tháng nữa. (Đọc tham khảo thêm thôi bạn nhé, khi nào kiếm được post lên đây nhé)
  15. LỜI MẪU ÂU CƠ - 3 Bước sang đầu năm mới - Mẹ gửi tới các con - Thơ từ Quả Đất tròn - Phát kim quang phát tuệ - Vua Hùng nay trị thế - Mẹ Âu Cơ cùng về - Nhất nhất một lời thề - Làm Đại Đồng Thế Giới - Đây là Sắc Lệnh Mới - Mẹ gửi tới Thơ Vàng - Mười tám đời Hồng Bàng - Nhất trung Thiên nhất Đạo - Có Ngọc Hoàng lãnh đạo - Có Di Lặc chỉ huy - Trời bảo đi là đi - Trời bảo thắng là thắng Nay Mẹ về viết tặng - Ngồi ở trước Gương Thần Mẹ chỉ đạo đích thân - Cho Vương Linh khai bút Có khi mưa như trút - Lũ lụt khắp mọi miền Để đổi đời thay thế - Lệnh này là Đế Chế Của Thiên Đình trao ban - Để con Hồng cháu Lạc Biết lối mà quy tâm - Mẹ chứng nhận Gương Thần Phục vụ quân liệt sĩ - Bao nhiêu người đánh Mỹ Còn trẻ lắm con ơi - Thế mà phải hiến đời Cho tự do độc lập - Mười cô gái Đồng Lộc Chết trẻ vẫn chưa chồng - Nay tụ đoàn vui đông Ở đất Rồng tưới mát - Bút Tiên đâu có nhạt Ca hát Thơ cùng Thơ - Hầu Đức Mẹ Âu Cơ Trước bàn thờ Tổ Quốc - Hùng Vương đốt ánh đuốc Trong văn học lưu truyền - sang thế kỷ vạn niên Nước nhà yên tiếng súng - Những vần Thơ xuất chúng Từ Tiên Tổ sinh ra - Nạn nghiện hút si đa Ai có nhà phải chống - Chống xì ke ma túy Chống ăn cắp, tham quan - Đất Trời đã trao ban Mở màn Xuân hai mốt - Việc Thánh Hiền làm nốt Cuộc Cách Mạng Đại Đồng - Gọi con cháu Tiên Rồng Gắng sức sống nhân thiện - Năm nay có nhiều chuyện Trái Đất lở, chuyển rung - Sắc Lệnh của Vua Hùng Lọc sàng nhân cho sạch - Đức Mẹ về bảo mách Cho con cháu thảo hiền - Có tâm tu Tổ Tiên Mới được yên gia quyến - Mẹ lại ngồi lại đếm Không có một phần người - Ăn cơm, ơn Đất Trời Quả Địa Cầu Đất Mẹ - Mà cứ lễ những kẻ Tà đạo phép Di Đà - Chẳng ai biết đến Ta Địa Cầu mà Mẹ cực - Mưa tràn bờ, lũ cuốn Sông cuồn cuộn chảy trôi - Ông Sao Chổi, Thiên Lôi Quét những loài điêu bạc - Tổ Tiên thì nó bác Không nghe theo lời Ta - Ương bướng tính quỷ tà Không nghe ra Nguồn Cội - Nơi thì rung gió thổi Nơi nước cuốn gió quần - Để dẹp bớt muôn dân Trời xử phân cho rõ - Nơi nào còn gõ mõ Nguyện cầu xin Di Đà - Buông trôi xuống hải hà Lại không nhà không cửa - Mẹ Địa Cầu chan chứa Sầu năm tháng ai đong - Bọc trứng kia trong lòng Mà vô ân bạc nghĩa - Gươm đao vây tứ phía Chiến tranh nổ toàn cầu - Khắp bốn bể năm châu Bởi đều cầu bồ tát - Ai sinh ra gió mát Ai sinh ra hạt cơm - Mà con cháu vô ơn Để Mẹ hờn buồn tẻ - Nỗi buồn ai chia sẻ Cho Mẹ hả ruột này - Mãi đến ngày hôm nay Giãi bày cho Trần biết - Mẹ trao Thơ cho hết Viết trước cửa Gương Thần - Để con cháu thấm nhuần Đường lối Thiên Cơ thật - Lễ chẳng biết phân biệt Ai là chính là tà - Ai là quỷ là ma Ai sinh ra nguồn nước - Để con được uống ăn Lại sinh ra Kinh Văn - Để dũa răn con cháu Mẹ để cho kho báu - Thơ rung chuyển Đất Trời Sao khổ thế con ơi? - Chẳng biết Trời đâu cả! Đây giao phả Mẹ cho - Kỷ Nguyên bước sang đò Phải lo thân con nhé - Bao nhiêu sự kiện lạ Thơ đã báo cho Trần - Chim lợn bay xa gần Mà cõi Trần còn chống - Trên Trời cao Đất rộng Bao trùm gió thiên nhiên - Ai tín thì thành Tiên Ai sống hiền được hưởng - Mẹ nay cho sung sướng Tiền của, đầy lụa tơ - Song phải biết phụng thờ Thuyền mới đón sang bờ - Thơ mới nghe Mẹ nói Đất Thiên Vương soi rọi - Mẹ gọi các con về Hoa lá lộc sum xuê - Họ Hồng rung bút lạ Con ơi đừng cãi dả - Mẹ chẳng ưng tý nào Thơ của các Vì Sao - Trao về cho cõi Thế Ánh kim quang phát tuệ - Xây Đế Chế Đất Hùng Vũ Trụ đã chuyển rung - Vua Hùng ra trị thế Cả năm châu bốn bể - Trong lòng Mẹ sinh ra Địa Cầu rộng bao la - Cả các châu các cực Kẻ sống lại áp bức - Gây thảm họa chiến tranh Cho nên Mẹ cam đành - Dẹp tà cho yên nước Ai phụng thờ Tổ Quốc - Mới được hưởng cơ may Không thì lại gió bay - Hết bụi trần chẳng tụ Mẹ đã trao nhiệm vụ - Cho nhà thơ tâm linh Nối cầu từ Thiên Đình - Để hồi sinh Hồn Quốc (LC Việt Nam, 2-2005) Nguồn LỜI MẪU ÂU CƠ - 4 Đã qua giông tố bão bùng - Hiên ngang thế đứng anh hùng Đạo Tâm - Các con của Mẹ thảo hiền - Dù là nghèo khó chẳng yên ở nhà - Toàn là nhi nữ đàn bà - Giang tay ra giúp Sơn Hà một phen - Cảnh tình hoa lá đua chen - Mười đèo chín suối đã quen quân hành Trải qua những cuộc chiến tranh Chỉ vì đế quốc, tan tành máu rơi Bây giờ Vận Kỷ lòng Trời Nghe lời Mẹ gọi Đất Trời bao la Con đi tìm Mẹ tìm Cha Tìm về cho đến Đầm Đa nhớ Nguồn Thiên nhiên dịu mát tâm hồn Có Cha có Mẹ đã ôm cảnh tình Gọi là thế giới tâm linh Thiên Vương đã định, Thiên Đình đã trao Tiếng Thơ của Mẹ ngọt ngào Như dòng nước mát chảy vào con tim Dù cho giông tố nổi chìm Vì Cha vì Mẹ con tìm dấu chân Các con sống ở cõi Trần Tựa nương vào Mẹ hương trầm bay bay Thơ Thần Mẹ lại trao tay Cho con được đọc Xuân này càng xuân Mẹ nhìn nhiều chốn đặt chân Rừng xanh núi thẳm giành phần suối reo Trải qua sông núi ngang đèo Lại vì Non Nước mà trèo đỉnh non Thơ Trời Mẹ gọi đàn con Tại gia thờ phụng cho tròn phận ai Bây giờ phát lộc phát tài Tô son Đất Mẹ đường dài đã qua Thơ Trời mở Hội Long Hoa Đời đời no ấm nước ta anh hùng Thơ Trời là tiếng gọi chung Rồng Tiên bay bổng cho rung Sơn Hà Môi son tóp tép tuổi già Miếng trầu môi đỏ, quê nhà nhớ thương Dậu về Mẹ thả văn chương Cho con nhớ Mẹ chung đường con đi Bây giờ Mẹ chẳng giấu chi Thơ Thiên Mẹ trải vân vi đêm ngày Dậu về Thơ Mẹ trao tay Ấm tình Non Nước bao ngày sầu riêng Ác tàn đâu nó để yên Vẫn còn rình bắt con Tiên cháu Rồng Nghĩ rằng con Mẹ dày công Bỏ công bỏ của mà không tiếc gì Đã qua cửa ải tiên tri Một lòng vì nghĩa tiếc chi cuộc đời Đã qua oan trái ngậm ngùi Đã quả thử thách một thời luyện gan Bây giờ con được khang trang Càng đi càng thấy mênh mang cuộc đời Thương người, lòng Mẹ âu sầu Nước mắt Mẹ chảy sông sâu suối nguồn Có Thơ Mẹ là hồn Quả Đất Năm ngàn năm Thơ cất trong lòng Bây giờ Thơ chảy ròng ròng Từ trong lòng đất con mong từng giờ Con mong tình Mẹ vô bờ Con mong Mẹ khóc bây giờ phải không? Mẹ không khóc, sông không có nước Các con tâm thì ước Mẹ về Xuân này Mẹ viết Thơ đề Dòng Thơ cốt nhục gửi về Trần gian Mùa đông có tiếng sấm vang Đó là Thiên Tướng hai hàng Quân Vương Để đi trừ hết bất lương Để cho Quả Đất mát đường đất thiêng Mẹ về thả áng Thơ Tiên Từ trong lòng đất giao duyên với đời Con ơi Vận Kỷ lòng Trời Toả vang Thơ vọng những lời Thần Tiên Để cho lòng Mẹ được yên Thì con đón lấy Thơ Tiên về nhà Nhớ nguồn con thắp hương hoa Nhớ thương Mẹ gửi chút quà Nước Non Thơ này là máu hồng son Thơ này từ bóng Trăng tròn phát tâm Thơ này bao nỗi gian truân Xây nên Đất Nước Vạn Xuân tươi hồng Biết các con khổ chất chồng Trèo núi leo dốc qua sông vượt đèo Chùa Đồng vách đá cheo leo Tiếng thơm muôn thuở cờ treo Trăng thề Suối dài con nước Giang Khê Núi cao phượng hót chớ chê Thơ tình Thơ của Vũ Trụ tâm linh Nay kết thành những dòng Kinh dạy đời Mẹ về vui sướng con ơi Vì con vì Mẹ để thời gặp nhau Con Hồng cháu Lạc Mẹ đâu Chân quê áo vải rừng sâu quân hành Hoa Tiên đã nở đầy cành Trách quân vô đạo báng danh Phật Trời Để con phải khổ chơi vơi Để Mẹ thả lời Xuân đến trăm hoa Con gần cho chí con xa Nhớ thương Mẹ gửi là quà hành tinh Một trăm quả trứng thu linh Mỗi con mỗi việc công trình biết bao Xuân này Mẹ gửi lời chào Chào Xuân thế kỷ Mẹ trao lời thề Đêm nay con đón Thơ về Những đồ thiếu đức vô ân Làm sao mà có Thơ Thần được nghe Có tâm Mẹ sẽ chở che Lúc đau lúc ốm lúc về thiên tai Con chăm đọc sách các Ngài Kinh Trời, Kinh Đất, Kinh nay Nam Tào Mỗi khi thổi gió ào ào Thần thông Mẹ mặc Long bào hoán phong Cội nguồn có giọt nước trong Con tâm hôm sớm Mẹ mong đáp đền Lời cầu tiếng khấn kêu lên Để con cung thỉnh từng tên dưới Trần Mẹ cho Sấm Sét Kỳ Lân Bảo vệ hạnh phúc dương trần cho con Vì con tu trọn đức tròn Mấy mươi năm ấy đường mòn đã qua Đọc Kinh để đánh giặc tà Điện Biên cắm chốt đường ra quân hành Hôm nay ngày tháng tốt lành Đón Xuân Ất Dậu trời xanh nắng vàng Suốt mùa đông nắng chói chang Để Mẹ lọc sàng những kẻ bất nhân Mẹ thu ngũ cốc dương trần Biết mùi cay đắng cho thân dập vùi Bởi vì chẳng biết đến Trời Chẳng biết Quả Đất Mẹ thời sinh con Núi kia ai kết nên hòn Sông kia nước chảy đá mòn chẳng phai Lời thề xuất Tướng xuất Tài Xuất Thơ cứu thế văn bài Kỷ Nguyên Long Hoa mười tám cùng Thuyền Đò đầy Mẹ chở Rồng Tiên ra đời Ra đây Mẹ mở Hội Trời Long Hoa mười tám khắp nơi một nhà Để nghe Thơ Mẹ Thơ Cha Thơ Non Thơ Nước là quà Mẹ cho Mẹ nay đưa đến bến đò Sông sâu nước chảy Mẹ lo Thuyền Rồng Ban cho con cháu có công Tết này Xuân đến Thơ Rồng tung bay Về Trần để diệt tà nay Âm Trần nó bác, Mẹ đây chẳng cần! Phúc tội Thiên Tướng đã cân Từng cân từng lạng toàn phần đã xong Thơ Tiên Mẹ chảy ròng ròng Dài như sông bể từ trong Địa Cầu Dù cho mưa nắng dãi dầu Các con của Mẹ đã hầu bao năm Hàng ngày sớm tối chỉ chăm Sáng ra tối đến Mẹ ăn hoa cười Mẹ ăn hương khói nhà người Mẹ uống chén nước của Trời, con dâng Tay con thì lại nâng nâng Những lời con nói Mẹ không phụ lòng Mùa đông mà lại sáng Trăng Mẹ ngồi Mẹ viết, Cô Hằng lửng lơ Mẹ chào nhà thơ Tâm Linh Đất Tổ Con đi đâu có Ngũ Hổ theo chân Có Ông Sấm Sét xuất thần Có người bảo vệ những vần Thơ Sen Đường về Thiên Địa còn quen Líu lô chim hót, rẽ rèm vén mây Thơ xuân Mẹ xuất tâm đầy Để con đón Tết Dậu này vui tươi Có Thơ Mẹ tưới cho đời Mát từng thớ thịt con người tu Tiên Chúc con đón Tết bình yên Cứ như lời dạy con Tiên cháu Rồng Để cuộc cách mạng Đại Đồng Cha Ông khởi xướng cho Rồng Tiên bay Các con đoàn kết trăm tay Long Hoa mười tám trọn ngày phúc vinh Cùng nghe Lệnh của Thiên Đình Cùng nghe chim hót cảnh tình ước mơ Cùng về nghe Mẹ vần Thơ Cõi dương Trần thế đợi chờ đền non Mẹ chúc tất cả các con Vui tươi phấn khởi ăn ngon Tết này Thơ về Mẹ lại trao tay Để cho thế kỷ vần xoay Đạo Mầu Nghĩa nhân Mẹ chúc càng giàu Tâm son Mẹ để con cầu bình an Để con cứu giúp giang san Chữ Rồng bay khắp Việt Nam Thánh Hiền Mẹ chúc con Lạc Rồng Tiên Xuân về đón Tết bình yên cửa nhà. (LC Việt Nam, trước Tết Ất Dậu 2005) Nguồn
  16. Cám ơn BabaWolf rất nhiều. Thời gian gần đây Van Lang có thử thống kê vài chục vụ tai nạn được đăng tải trên các báo như Tuổi trẻ, Thanh niên, Vietnamnet, VnExpress,... cũng như một số câu chuyện tai nạn nghiêm trọng được kể lại mà vô tình đọc được. Thống kê một cách ngẫu nhiên nghĩa là khi đọc được thì xem lại ngày theo lịch Việt (lịch âm). Kết quả khá bất ngờ, đó là 70% số vụ tai nạn rơi vào 2 ngày Tam nương hoặc Nguyệt kỵ mà lý học Phương Đông tránh. Ví dụ vụ tai nạn đua xe kinh hoàng tại Vũng Tàu cách đây hơn mười năm làm 13 tay đua chết tại chỗ vì đâm trực diện xe tải chắn ngang đường, chỉ có một người duy nhất thoát chết (chuyện đã từng được đăng trên diễn đàn này), sau khi chuyển đổi ngày tại trang xemngay.com thì đó là ngày Nguyệt kỵ 14. Gần đây nhất vụ xe điên ở Hà nội húc hàng loạt xe máy, một phụ nữ tử nạn vào ngày 9/4 vừa qua cũng là ngày 7 Tam nương.
  17. Bạn thử tham khảo lại topic này xem sao http://diendan.lyhoc...-nhan-tai-nhat/ Sắp tới: Động đất: Sinh Lưu Niên Có xảy ra lẻ tẻ nhưng thời gian tới chưa có động đất lớn kiểu như vừa rồi. Hạt nhân: Thương Tốc Hỷ Sự cố an toàn hạt nhân vừa rồi khiến nước Nhật chao đảo nhưng sẽ khắc phục được dần dần. Không có tình trạng tồi tệ thêm, mặc dù vậy vẫn chưa hết trong thời gian ngắn. Trên thực tế vừa rồi chính phủ Nhật nâng cấp nguy hiểm hạt nhân lên cấp 7. Bây giờ toàn dân Nhật ý thức đề phòng thì rủi ro lại ít đi. Sắp tới có thể có một giải pháp an toàn hạt nhân nào đó được Nhật bản tìm ra và khống chế hiệu quả.
  18. Bài trên không có hình ảnh cụ Liêm Trinh ạ. --------------------- (Dân trí) - Sáng nay (12/4, tức 10/3 Âm lịch), Lễ dâng hương các Vua Hùng đã diễn ra trang nghiêm, thành kính tại khu di tích lịch sử Đền Hùng với sự tham dự của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương và hàng vạn người dân cả nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước thắp hương tưởng nhớ các vua Hùng Đúng 7h sáng nay, tại khu di tích đền Hùng, tỉnh Phú Thọ, Lễ dâng hương các vua Hùng bắt đầu. Tham dự buổi Lễ dâng hương có Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cùng lãnh đạo các Bộ, ngành Trung ương, địa phương và hàng vạn người dân cả nước. Thay mặt lãnh đạo tỉnh, ông Nguyễn Doãn Khánh, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư tỉnh ủy Phú Thọ đã báo cáo với lãnh đạo Đảng và Nhà nước công tác chuẩn bị và tổ chức lễ hội Đền Hùng năm nay. Theo đó, lễ hội Đền Hùng năm nay mở đầu bằng Lễ dâng hương Giỗ quốc Tổ Lạc Long Quân và dâng hương tưởng niệm Mẫu Âu Cơ với các nghi lễ trang trọng, thành kính tưởng nhớ công lao to lớn của tiền nhân. Cũng trong sáng nay, du khách thập phương tiếp tục đổ về Đền Hùng dự Quốc giỗ. Con đường dẫn lên đỉnh Nghĩa Lĩnh đông nghịt với hàng nghìn du khách. Không khí vui tươi, hồ hởi hiện rõ trên từng gương mặt thành kính hướng về Đền Hùng... Các hoạt động văn hoá, thể thao được tổ chức có quy mô, mang đậm nét văn hoá đất Tổ như: triển lãm sách tư liệu “Về miền lễ hội cội nguồn dân tộc Việt Nam”, liên hoan tiếng hát làng Xoan… 30 đoàn với gần 1.000 nghệ nhân, diễn viên, nhạc công chuyên nghiệp, không chuyên của Phú Thọ và một số tỉnh thành đã tham dự lễ hội. Các tỉnh Tuyên Quang, Hòa Bình, Nam Định, Quảng Ngãi và Đồng Tháp, đại diện cho Bắc - Trung - Nam tham gia góp giỗ Tổ năm nay. ... hay biểu diễn đánh trống đồng cũng thu hút sự quan tâm của nhiều người dân.------------------------ Không biết có phải do ý kiến của Trung tâm không mà năm nay không thấy các trai đinh cởi trần đóng khố như mọi năm. Cờ ngũ sắc thiếu màu trắng hành kim, chỉ thấy hành Hỏa, Mộc, Thổ, Thủy.
  19. (DVT.vn) - Lillian Too cho rằng nuôi thú cưng như chó, mèo, thỏ hoặc đặt 8 đồng tiền xu dưới thảm chùi chân sẽ giúp gia chủ may mắn hơn trong xuân này. Ngoài thú chơi các vật khí phong thủy mang lại tài lộc cho công việc kinh doanh và ổn định về văn phòng như chơi pha lê, mua thuyền buồm, đá quý hay bày tỳ hưu, không ít doanh nhân cũng đặt niềm tin vào tâm linh và phong thủy để có được cuộc sống “xuôi chèo mát mái” và nhiều may mắn. Trong tiết đầu xuân của năm Tân Mão này, chuyên gia phong thủy Lillian Too đưa ra vài lời khuyên về cuộc sống “thuận phong thủy”: Đặt vàng dưới chân Phong thủy một căn nhà tốt hay xấu do nhiều yếu tố cấu thành, trong đó có yếu tố cửa chính. Trong trường hợp cửa chính không nằm ở hướng tốt lành, người ta thường dùng thảm có màu sắc khác nhau để hóa giải sát khí. Ngược lại, nếu muốn thu hút tài vận và may mắn đến cửa nhà mình, thầy phong thủy Lillian Too khuyên gia chủ nên đặt một chiếc túi màu đỏ có chứa 8 đồng xu dưới thảm chùi chân đặt ngay ở trước cửa nhà. Những đồng xu là biểu tượng của nguồn tài lộc và của cải; nếu 9 đồng xu đi với nhau hình thành cát khí do số 9 vốn là biểu tượng của “Thái” (thịnh vượng tối đa, sự bắt đầu chu kì mới) thì chiếc túi đựng 8 đồng xu với ý nghĩa “Phát” sẽ thu hút may mắn bước vào cửa nhà gia chủ. Gia chủ cần chú ý trải thảm ở phía trong cửa chính. Nuôi thú cưng Những tháng mùa xuân là thời điểm tuyệt vời nhất để nhận nuôi một chú chó, mèo hoặc một chú thỏ cưng. Theo phong thủy, những chú chó (đặc biệt là những chú chó có bộ lông vàng) mang nguồn năng lượng dương dồi dào vào ngôi nhà, bởi chúng không chỉ mang ý nghĩa “giàu có thịnh vượng” mà những sinh vật này sẽ bầu bạn và mang niềm vui tới cho gia đình đó. Trong khi đó, những chú mèo đại diện cho sự bảo vệ, đặc biệt là những chú mèo có bộ lông trắng (theo phong thủy, chúng tượng trưng cho những chú hổ trắng - Bạch Hổ trong phong thủy). Với những cặp vợ chồng mới cưới hoặc các đôi tình nhân, những chú thỏ được xem như loại thú cưng hợp nhất bởi chúng mang tới không khí lãng mạn cho cả ngôi nhà. Thay bể cá Thay bể cá là một cách để đón những cơ hội mới tốt đẹp đến với gia đình bạn. Ai cũng biết rằng đặt bể cá trong nhà không chỉ làm cho không gian của ngôi nhà hòa hợp với thiên nhiên hơn mà chúng còn có tác dụng mang tới nhiều tài lộc cho nhà gia chủ nếu được đặt hợp với phong thủy, khi nước - yếu tố quan trọng trong ngũ hành có tác dụng điều hòa âm dương. Với những người chơi cá, nên chú ý giữ gìn bể cá sạch sẽ và thay bể vài ngày một lần trong mùa xuân này. Điều này có tác dụng thu hút nhiều vận hội mới tới cuộc sống của gia đình bạn. Nếu bộ phận bơm nước của bể cá không hoạt động, gia chủ nên sửa chữa hoặc thay mới. Ngoài ra, khi những chú cá trông có vẻ ốm yếu thì gia chủ phải bỏ đi những cây thủy sinh mọc quá tốt. Thu dọn bể cá có nghĩa là vứt bỏ đi tất cả những chông gai khó khăn, bể cá trở nên đục ngầu sẽ thu hút nhiều luồng khí âm. Chụp ảnh chân dung gia đình Đầu xuân là thời điểm đẹp nhất của năm để có được một biểu tượng đoàn tụ của cả gia đình, và không gì diễn tả được điều đó tốt hơn một bức tranh chân dung chụp tất cả các thành viên gia đình với khuôn mặt hạnh phúc và thư thái. Bức chân dung gia đình nên được treo ở phòng sinh hoạt chung. Lillian Too cho biết, tranh chân dung gia đình như một tấm bùa hộ mạng, bảo vệ tất cả các thành viên gia đình khỏi tai ương và bất hạnh. Tăng cường năng lượng từ cây xanh Xưa nay, việc trồng cây xanh luôn được xem là một trong những giải pháp quan trọng nhằm tăng cường sinh khí cho nhà ở. Cây xanh nói chung mang nguồn năng lượng dương mạnh mẽ của gỗ, có tác dụng chống tử khí, gió độc, tiếng xe cộ ồn ào và ô nhiễm. Rất nhiều gia đình quan trọng chuyện trồng hàng rào cây xanh bởi chúng được xem như khiên chắn những mũi tên độc nhắm thẳng vào nhà. Trong những trường hợp thiếu hụt sinh khí như bất mãn với công việc, nhà ở, hoặc bị căng thẳng về tinh thần, dạo bước dưới một hàng cây là cách bạn giao hòa với nguồn năng lượng dương và có thêm sinh khí. Thường thì những cây đại thụ lớn, tán lá sum xuê sẽ có nguồn năng lượng mạnh mẽ hơn. Xu hướng ngày nay ngày càng nhiều người muốn được trở về gần gũi với thiên nhiên,muốn tìm cho mình sự nhẹ nhõm,thanh thoát theo những áp lực của cuộc sống thường nhật. Đều này tạo nên phong trào tạo dựng sân vườn trong khuôn viên nhà mình - những khu vườn ngày càng ưa chuộng trong các ngôi nhà hiện đại. Trang trí góc văn phòng Tranh Rồng tượng trưng cho vượng khí đến từ hướng Đông. Bài trí góc văn phòng hợp phong thủy cũng nhằm giúp góc làm việc của bạn thêm hoàn hảo và giàu sinh khí trong mùa xuân này. Treo một bức tranh Rồng trùng hưng vượng khí ở hướng Đông là một trong những gợi ý khả dụng nhất nếu bạn muốn thu hút nguồn khí thịnh vượng. Mùa xuân ứng với hướng Đông, tượng trưng cho rồng, một bức tranh hình rồng treo ở phía Đông văn phòng sẽ giúp hóa giải những khí xấu và trợ lực cho nguồn khí tốt thịnh vượng. Trong khi đó, đặt thác nước phong thủy cho sự phát triển đâm chồi ở hướng Tây, hướng chủ cho vận khí, tài bạch. Kim và Thủy tương sinh, đặt vật chứa nước ở phía Tây sẽ có lợi chủ cho tiền bạc và thịnh vượng. Với mùa xuân, lộc có thêm nước lưu hành từ thác nước phong thủy đặt sát tường phía Tây, sẽ gia chủ hạnh thông, tiền bạc dồi dào. (Doanh nhân Việt nam toàn cầu)
  20. 10-04-2011 16:38 Cụ Loa, cụ Biện - một những người ăn đất cuối cùng ở Việt Nam "Đây là một trong những phong tục lạ nhất Việt Nam, một số người dân ở Lập Thạch (Vĩnh Phúc) thường gọi ăn đất là ăn ngói”. Đã được nghe kể nhiều về tục ăn đất của người dân ở đây, nhưng thật khó tin. Tuy nhiên, khi tận mắt chứng kiến cảnh người ta bày bán đất, rồi cầm miếng đất nhai ngon lành như trẻ con ăn kẹo thì không còn gì để nghi ngờ về điều này... Ăn là nghiện Anh Nguyễn Công Tuấn, Phó chủ tịch UBND Thị trấn Lập Thạch cho biết: Cách đây khoảng vài năm, một số chuyên gia về thổ nhưỡng và quản lý đất đai có về tìm hiểu và kết luận rằng: Ngói mà người dân ở đây ăn chứa nhiều khoáng chất. Có lẽ vì thế mà xưa kia nhiều phụ nữ trong thời kỳ thai nghén nghiền ăn ngói để bổ sung chất dinh dưỡng, đến lúc đẻ xong thì cũng nghiện luôn. Cái món này lạ lắm, ai đã không ăn thì thôi, chứ ăn vào là nghiện đất như đàn ông nghiện rượu, nghiện thuốc lá. Anh Tuấn nói: Đó chỉ là chuyện của hơn chục năm về trước. Giờ đây, tục này không còn phổ biến nữa. Trẻ con ở đây nghe nói đến việc ăn đất còn mắt tròn mắt dẹt ngạc nhiên. Thậm chí, chính anh cũng thừa nhận là chưa từng nếm cái vị bùi bùi, thơm thơm của món ngói nổi tiếng quê mình". "Ngày nhỏ tôi cũng chống cằm nuốt nước miếng nhìn mấy bà hàng xóm nhai ngói ngon lành nhưng cũng không dám thử. Bây giờ tìm người còn ăn ngói ở Lập Thạch khó hơn lên giời. May ra chỉ còn vài cụ già". Những người ăn đất cuối cùng Ông Đỗ Văn Bình, tổ trưởng tổ dân phố Thống Nhất tiết lộ: "Cụ Lạc, cụ Huệ những người nghiện ngói nhất thì đã mất rồi. Cụ Hoạch, cụ Sao răng đã móm mém nên không còn ăn nữa". Tuy nhiên, ông Bình tiết lộ thêm: "Còn vợ chồng cụ Loa, cụ Biện, hai cụ vẫn ăn mà hơn thế còn bán cho những người muốn mua ăn chơi nữa". Một nhà nghiên cứu thì cho rằng tục ăn đất có từ phong tục việc hôn nhân lấy gói đất làm đầu từ thuở Hùng Vương dựng nước Chia sẻ với Người đưa tin, cụ Loa, cụ Biện bảo: Ở cả làng này, không chỗ nào nhiều ngói như đồi Gò Vàng nhà cụ. Hiện trên đồi vẫn còn dăm bảy cái hố sâu do vết tích của các hố đào ngói từ xưa để lại. Không những thế, ngay ở vỉa ao nhà cụ cũng dễ dàng đào được ngói ăn. Theo lời cụ Khổng Văn Loa (78 tuổi), để lấy ngói, người ta sẽ đào những hố sâu 3-5m, đường kính 6 -70 cm là có thể gặp lớp ngói. Lớp ngói khi đào lên có màu vàng sậm, cứng hơn đất thường và có hình dáng tựa như phiến đá nhỏ. Sau đó, tảng đá mới đào lên được đem phơi ngoài nắng hoặc đem để góc nhà chờ khô. Tảng ngói khô được chẻ nhỏ, bổ dọc theo thớ đất, thành những miếng mỏng. Miếng ngói sau khi chẻ, cạo sạch lớp ken đất bên ngoài chỉ còn màu trắng tinh tựa như viên phấn, được để vào chiếc xảo thưa, dùng lá sim tươi hun để khói bắt màu vào đất. Khoảng 30 phút sau, ngói sẽ có màu vàng tươi, thơm lừng, thế là ăn được! Cụ Biện kể: "Khói lá sim quyện vào ngói tạo thành mùi rất đặc biệt. Ngửi thấy mùi ngói hun thèm lắm! Miếng ngói lúc bấy giờ có mùi thơm, vị bùi bùi, càng nhai càng ngon." Cụ Nguyễn Thị Biện "nhai" đất ngon lành Cụ Biện tiết lộ: "Cách đây chục năm, ngói được bày bán ngoài chợ như mớ rau, cái kẹo. Nhiều người ăn thành nghiện cả, nhất là phụ nữ. Bà nào đi chợ cũng sà vào hàng ngói đầu tiên. Cầm miếng ngói trên tay, vừa đi vừa bỏm bẻm nhai, xong mới đi đâu thì đi”. Cụ kể, nhà cụ mấy đời được nuôi sống cũng nhờ món ngói. Mẹ cụ, cụ rồi đến con dâu cụ cũng làm nghề buôn ngói. Trước, mỗi ngày cụ cũng bán được 300 nghìn (so theo giá trị hiện nay), nhờ đó cả gia đình đủ ăn đủ tiêu. Tuy nhiên, vài năm gần đây, người ăn ngói ít dần, nghề buôn ngói vì thế mà cũng mất dần đi. Con dâu cụ cũng phải đổi nghề bán hoa quả đầu làng. Cụ nói thêm: "Chẳng còn mấy người ăn ngói nữa, chắc chúng tôi chết đi rồi thì cái tục này cũng mất đi luôn”. Tục ăn đất đã được coi là một nét văn hóa độc đáo, được xem như một di sản văn hóa đang dần mất đi. Chả mấy năm nữa người ta sẽ không còn bắt gặp hình ảnh: Hai ông bà cụ, bẻ chia nhau một miếng đất cuối cùng. (Vietinfo.eu)
  21. Mời các bạn dự báo thị trường sau mấy ngày nghỉ Giỗ Tổ nhỉ?
  22. Sinh Vô Vong Cũng bắt tay vào tìm nhưng không tìm thấy đâu. Thôi bỏ đi. Về người lấy cắp: Có thể là người ngồi một chỗ, ít di chuyển, mặc áo màu xanh. Dù sao chia buồn với bạn. Chịu khó lên công an phường làm đơn cớ mất đi rồi đi làm lại giấy tờ.
  23. BĐS Miền Bắc từ nay tới cuối năm sẽ tốt dần lên cho người mua. Giá sẽ không cao hơn thời điểm này. Bạn sẽ có cơ hội mua nhà với giá tốt hơn bây giờ.
  24. Về việc sinh cháu bé: Thương Đại An Bé sinh ra bị ảnh hưởng xấu của bệnh sởi nhưng vẫn giữ được. Chú ý nuôi nấng, chăm sóc thì sẽ dần qua khỏi. Bạn nên coi ý kiến của mình là một ý kiến tham khảo thôi nhé. Chúc lành. (Edit: Để tăng tính khách quan VL không nhìn bài của Rin. Post xong nhìn lên cũng cơ bản trùng ý. Vậy là cơ hội tăng cao rồi chủ topic ạ.)
  25. BĐS từ đó đến nay hầu như đóng băng. Có tăng tí nào đâu bạn. Bây giờ còn ngắc ngoải hơn nên cổ phiếu BĐS năm nay cần dè chừng. Còn ở SG thì thế này.