-
Số nội dung
465 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Văn Lang
-
Xin tiễn biệt Đại tướng với lòng thành kính cao nhất. Mà sao như điềm báo hay sao ấy nhỉ? Trận cuồng phong lớn chưa từng có đổ bộ vào Quảng Bình quê hương Đại tướng thì sau 1,2 ngày Đại tướng ra đi. Mấy hôm nay trời SG mưa cũng lạ, trời đen âm u, mưa rất dữ. Hôm nay thì trời mưa gần như cả ngày kiểu như mưa phùn nhẹ ngoài Bắc. Cứ như trời đất cũng tiếc thương người con vĩ đại của dân tộc.
-
Giải cứu bất động sản dưới góc nhìn toán học SGTT 03/04/2013 Bất cứ vấn đề nào cũng có hai mặt. Lý luận kiểu gì cũng có mặt tích cực và tiêu cực. Vấn đề càng phức tạp ý kiến càng trái chiều. Quyết định nào cũng có mặt được, mặt mất. Đó là điều hiển nhiên. Bởi vậy người lãnh đạo giỏi, trong các vấn đề phức tạp, họ không nhìn vào tiểu tiết, không nghe các phân tích tỷ mỷ cục bộ - vì như thế sẽ lạc vào rừng và không lần được đường ra, họ chỉ nhìn vấn đề từ phương diện bộ khung xương sống chính. Điều sáng suốt của họ nằm ở chỗ, chọn những cột xương sống chính của vấn đề như là những tiên đề để đặt các câu hỏi, những điều vi phạm tiên đề sẽ bị loại bỏ ngay tức khắc mà không cần nghe các lý giải hay phản biện chi tiết tiếp theo. Bác Hồ đã từng có cách tiếp cận dạng tiên đề để đi đến quyết định Toàn quốc kháng chiến năm 1946. Nhiều người sẽ còn nhớ mãi đoạn phim tài liệu ghi lại hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về Bác Hồ. Đại tướng nói: “Bác Hồ là con người của những quyết định lịch sử’’ và Ông kể lại 3 câu hỏi ngắn gọn của Bác để rút ra quyết định Toàn quốc kháng chiến. “Hà Nội giữ được bao lâu. Thưa Bác, một tháng (sau này là hai tháng). Thế các thành phố khác. Thưa Bác, được lâu hơn. Còn vùng nông thôn. Dạ, vùng nông thôn thì dĩ nhiên là ta giữ được. Thôi ta trở lại Tân trào”. Bác không hỏi so sánh chi tiết binh lực ta địch bao nhiêu. Bác chưa quan tâm đến địch đánh đâu trước và đánh như thế nào. Trong bối cảnh vô cùng phức tạp của muôn vàn các mối quan hệ, Bác đã sáng suốt tinh chọn ra 3 câu hỏi cực kỳ đơn giản nhưng rất then chốt. Từ những câu hỏi của Bác và câu trả lời của Đại tướng, chúng ta không chỉ thấy ngay được quyết định mà còn thấy được cả quá trình tiếp diễn trong tương lai của cuộc kháng chiến: Tạm thời phải lùi bỏ thành phố; Về rừng núi và nông thôn xây dựng căn cứ và lực lượng; Tạo dựng thời, cơ tái chiếm thành thị. Hiện nay vấn đề giải cứu bất động sản đang được đề cập ráo riết và gây tranh luận gay gắt trái chiều trong xã hội. Ai nói cũng cảm thấy có lý cả. Đích thân Bộ trưởng bộ xây dựng đã phải giải trình nhiều lần về phương án giải cứu bất động sản. Chính phủ chỉ đạo Ngân hàng nhà nước dành từ 20 - 40 ngàn tỉ̉ đồng để giải cứu bất động sản. Rõ ràng với cách tiếp cận như vậy, ngân hàng Nhà nước và bộ trưởng bộ Xây dựng xem vấn đề giải cứu bất động sản là vấn đề bắt buộc và hệ trọng, ảnh hưởng đến tăng trưởng tiềm lực kinh tế quốc gia. Thực ra, nếu học tập cách tiếp cận tiên đề của Bác Hồ thì vấn đề giải cứu bất động sản không phức tạp và không hệ trọng như nhiều người lầm tưởng. Chúng ta sẽ đưa những câu hỏi mang tính xương sống của vấn đề, và từ những câu trả lời đó sẽ suy ra lời giải cho bài toán giải cứu bất động sản. Chúng tôi sẽ không lý giải chi tiết về câu trả lời mà nhường phần phán xét đó cho bạn đọc. 1. Cứu bất động sản có nghĩa cứu ai là chính? Trả lời: Ngân hàng và các nhà đầu tư bất động sản lớn. 2. Cứu bất động sản ai được lợi nhiều nhất? Ngân hàng và các nhà đầu tư bất động sản lớn. 3. Tính đến thời điểm hiện nay ngân hàng và các nhà đầu tư bất động sản lớn lời hay lỗ trong đầu tư bất động sản? Đang lời nhiều, do thời gian trước họ đã lời quá nhiều. 4. Nếu không cứu bất động sản, giá bất động sản tiếp tục xuống thấp nữa, ai được lợi nhiều nhất? Đa số người dân thu nhập trung bình có lợi nhất vì có cơ hội mua được nhà. 5. Dùng 20 - 40 ngàn tỉ đồng để cứu bất động sản và dùng 20 - 40 ngàn tỉ đồng để thúc đẩy sản xuất xuất khẩu, bên nào sẽ giúp tăng tiềm lực kinh tế quốc gia hơn và có lợi hơn? Dùng 20 - 40 ngàn tỉ đồng để thúc đẩy sản xuất xuất khẩu sẽ tăng tiềm lực kinh tế quốc gia hơn và có lợi hơn. Thiết nghĩ với 4 câu hỏi và 4 câu trả lời trên, bạn đã có lời giải cho bài toán giải cứu bất động sản: Không dùng tiền quốc gia để giải cứu bất động sản. Để thị trường bất động sản tự do điều tiết theo quy luật thị trường. Dùng tiền quốc gia để thúc đẩy sản xuất xuất khẩu. Vi phạm tiên đề Nếu những người cầm cân nảy mực bất chấp những điều rõ như ban ngày, bơm tiền giải cứu bất động sản thì chỉ có một lý giải duy nhất: Quyền lợi cá nhân và lợi ích nhóm. Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chu - Hội toán học Việt Nam (Nguồn: SGTT - http://sgtt.vn/Kinh-...t-dong-san.html)
-
Vâng. VL thấy một số bạn bè đang quan tâm và muốn quảng bá clip này bằng Tiếng Anh cho bạn bè quốc tế. Ngoài ra những người ít hiểu biết nhiều về lịch sử văn hóa dân tộc cũng đều chia sẻ trên trang cá nhân. Điều đó chứng tỏ clip này được quan tâm rộng rãi và được thích thú. Nhưng cho rằng thời vua Hùng Văn Lang chỉ từ năm 260 trước CN của clip này là hạt sạn quá lớn. Nhân đây học trò cũng thấy rằng nhóm sinh viên này họ làm theo những tư liệu chính thống kiểu sách giáo khoa được công bố rộng rãi cũng không phải là không có lý do bởi vì ngoài chuyện các em cho rằng nguồn chính thống là nguồn đáng tin cậy nhất thì tư liệu để họ tiếp cận được Việt sử 5000 năm như trên đây cũng đòi hỏi thời gian lắm ạ. Nên chăng Trung tâm nên làm những file PDF dạng Hỏi & Đáp vừa dễ phổ cập qua email vừa dễ truy tìm thông tin khi cần thiết vì đã có trong máy. Ví dụ câu hỏi như Thời Hùng Vương gần 5000 năm lịch sử, anh (chị) hãy chứng minh? hoặc Hãy chứng minh phong thủy là của người Lạc Việt? v.v... Những điều này đã được bàn thảo sâu và có rất nhiều trên đây nhưng ngay các thành viên thân quen tìm lại và tập hợp để trả lời những câu hỏi ví dụ trên cũng không dễ. Điều này nôm na giống như chúng ta đã tạo ra sản phẩm đầy đủ nhưng cần có kênh phân phối ra thị trường dễ tiếp cận hơn vậy... Kính thầy và các bạn.
-
Tóm tắt nội dung & bình luận của VL: Khác hẳn với SGK thường tuyên truyền quân đội Đại Việt "áo vải cờ đào", "đội quân chân đất" hay "vũ khí thô sơ"... thực tế thì quân đội Việt đã có công nghệ vũ khí tiên tiến đặc biệt thời Trần, Hồ trở đi. Đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh và Tây Sơn, vũ khí chủ yếu của lính Việt là súng, pháo các loại. Về thủy quân thì hoàng đế Lê Thánh Tông - vị vua mở mang bờ cõi lớn nhất trong lịch sử Đại Nam đã từng thống lĩnh 25 vạn quân và 5000 chiến thuyền vào chinh phạt Chiêm Thành. Thời Tây Sơn thủy quân Tây Sơn ngang ngửa thậm chí còn mạnh hơn quân Pháp với thuyền chiến đủ loại, súng trường, súng hỏa mai, mìn, thần công...chưa kể các quân binh chủng khác (VL: Xin quý vị nếu có điều kiện về thăm khu bảo tàng Quang Trung - Bình Định sẽ tận mắt chứng kiến những vũ khí thời Tây Sơn khai quật được). Còn so với quân Thanh, Xiêm thì vũ khí nhà Tây Sơn mạnh hơn hẳn. Đây cũng là lý do then chốt khiến quân Tây Sơn mạnh như chẻ tre, đánh đâu thắng đó ngoài tài năng quân sự kiệt xuất của hoàng đế Quang Trung. Fie download: http://www.mediafire.com/view/?6vy9jfeylgodqyn (Tác giả: zDragonFlyz và các cộng sự, nguồn HoangSa.org & gamevn.com)
-
Phản hồi chính thức của tác giả cuốn sách về giặc của Hai Bà đây ạ. May quá ! == Tác giả sách giải thích: Hai Bà Trưng đánh giặc nào Sau khi bài viết 'Hai Bà Trưng đánh giặc nào' được đăng tải, GS.TS Nguyễn Minh Thuyết, Chủ biên Sách Giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 đã gửi tới VietNamNet bài viết: "Về bài tập đọc "Hai Bà Trưng": Đừng suy diễn, nặng lời". Dưới đây là nội dung bài viết. VietNamNet ngày 4/9/2012 có đăng bài của một bạn đọc ký tên Trần Cao Duyên chỉ trích nặng nề SGK “Tiếng Việt 3, tập hai” trong bài tập đọc Hai Bà Trưng “không hề dám nửa lời chỉ đích danh bọn xâm lược là giặc Hán (Trung Quốc)”. Vậy, sự thật như thế nào? Chỉ cần giở thêm vài trang quyển “Tiếng Việt 3, tập hai” đã có thể thấy nhận xét của bạn Trần Cao Duyên có thật khách quan không và có đúng là tác giả SGK không dám gọi tên các loại giặc từ nước láng giềng phương Bắc ra không (thời phong kiến nước này chưa có tên gọi là Trung Quốc). Sau bài “Hai Bà Trưng” đúng 6 trang, bài chính tả "Trần Bình Trọng" ở trang 11 mở đầu: "Năm 1285, giặc Nguyên sang cướp nước ta". Đến trang 17, bài tập "Lê Lai cứu chúa" lại viết: "Giặc Minh xâm chiếm nước ta". Cũng ở trang 17 còn có một bài tập yêu cầu học sinh nói về một vị anh hùng có công lao to lớn trong sự nghiệp bảo vệ đất nước mà các em biết, trong đó có nêu tên các danh nhân Trưng Trắc, Trưng Nhị, Triệu Thị Trinh, Lý Bí (Lý Nam Đế), Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương), Phùng Hưng, Ngô Quyền, Lê Hoàn (Lê Đại Hành), Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo), Lê Lợi, Nguyễn Huệ (Quang Trung), Hồ Chí Minh. Mười hai trong mười ba vị được nhắc tên là những anh hùng trong các cuộc chiến tranh chống quân xâm lược phương Bắc. Như vậy, đâu có phải tác giả sợ, không dám hé răng gọi đến tên bọn xâm lược! Còn bài “Hai Bà Trưng” trong SGK “Tiếng Việt 3, tập hai” chỉ là một truyện kể. Nó có tên các nhân vật lịch sử: bên ta là hai Bà Trưng Trắc, Trưng Nhị, bên địch là Tô Định - không phải một kẻ vô danh tiểu tốt mà là một viên thái thú có tên trong sử sách Việt Nam, Trung Hoa. Nhưng môn Tiếng Việt không phải môn Lịch sử. Không nhất thiết lúc nào truyện kể hay thơ cũng phải kể thật đủ tên giặc nọ giặc kia, nhất là đối với học sinh lớp 3 (mới 8, 9 tuổi). Thời các con tôi học tiểu học vào những năm 80 của thế kỷ trước, SGK của các cháu vẫn trích 10 dòng thơ “Đại Nam quốc sử diễn ca” về Hai Bà Trưng làm bài tập đọc: “Bà Trưng quê ở Châu Phong Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên Chị em nặng một lời nguyền Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân Ngàn tây nổi áng phong trần Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên Hồng quần nhẹ bước chinh yên Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.” Ai cũng biết sau 10 dòng này còn 10 dòng nữa, trong đó có những dòng chỉ đích danh nhà Hán: “Uy danh động tới Bắc phương/Hán sai Mã Viện lên đường tấn công” nhưng SGK không dạy, có lẽ vì bài đã dài mà ý cũng đã đủ. Lúc các con tôi học tiểu học, cuộc chiến tranh chống quân Trung Quốc xâm lược ở biên giới phía Bắc vừa kết thúc, nhân dân ta vừa phải khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa phải chống chọi với bao khó khăn của thời cấm vận. Nhưng không hề có ai vì căm thù quân xâm lược mà cực đoan đến mức lên án SGK chỉ dạy cho các cháu bé có 10 dòng thơ đầu. Các cháu còn nhỏ, đường học còn dài. Những bài học đầu tiên chỉ gieo những hạt đầu tiên. Điều chưa biết ở môn này, lớp này, đến môn khác, lớp khác sẽ được học. Ví dụ, về Hai Bà Trưng, chỉ sau 1 năm, SGK “Lịch sử và Địa lý lớp 4” sẽ dạy các cháu đầy đủ hơn: “Đầu thế kỉ I, nước ta bị nhà Hán đô hộ. Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định nổi tiếng tham lam, tàn bạo.” Còn đối với những cháu sớm hiểu biết, không đợi đến lớp 4 được thì thầy cô, cha mẹ, ông bà hoàn toàn có thể giải thích cho các cháu, thậm chí các cháu cũng có thể chủ động tìm kiếm thông tin trên mạng hay trong sách vở về thời kỳ này. Việc bài tập đọc Hai Bà Trưng trong sách “Tiếng Việt lớp 3” nêu hay không nêu tên nhà Hán là chuyện nhỏ. Không nên vội thêu dệt thành những chuyện sai lạc với bản chất của sự việc. GS.TS Nguyễn Minh Thuyết (Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/87255/tac-gia-sach-giai-thich--hai-ba-trung-danh-giac-nao.html)
-
Đây ạ, chuyện đục bỏ tấm bia vì "dám" nhắc tới Trung quốc đây ạ.
-
Trong một số những giáng văn hay tản thơ mà bậc bề trên hoặc cõi tâm linh chuyển tải qua người cõi trần chúng ta mà VL có dịp được đọc và đánh giá thì thấy rằng các bậc tiên hiền cõi trên cũng nói về lịch sử văn hóa dân tộc trong đó có nội dung về Việt sử 5000 năm văn hiến và 18 đời vua Hùng. Nghĩa là trùng khớp với những nghiên cứu của SP và những người có cùng quan điểm. Ngoài ra VL cũng tin chắc rằng Việt sử 5000 năm văn hiến của dân tộc Việt sẽ được công nhận và tôn vinh nhưng chỉ có điều đòi hỏi thời gian.
-
Cảm ơn anh TheTrung đã dịch giúp mọi người. Nhưng đầu nguồn (từ một số nhà sử học VN) đã không thực sự chuẩn (nhất là thời Hùng Vương "liên minh bộ lạc") thì người làm luận văn này cũng theo đó mà đánh giá không đúng về sử Việt. Hơn nữa luận văn này cũng chỉ là ý kiến của một người nghiên cứu dựa trên những dữ liệu thu thập được nên cũng có thể coi là "một góc nhìn khác" trong nhiều ý kiến khác nhau.
-
Vâng, cảm ơn anh QTV10. Người quen của VL ở VN đã ghé Trung tâm nhận tài liệu sau đó rồi.
-
Văn Lang hiện tại không ở Việt nam nhưng cũng sẽ đăng ký mua một bộ sách ủng hộ bác Xuyền và công trình nghiên cứu của bác qua người quen trong tuần tới.
-
Nhân hội thảo này, VL xin trích gửi một comment trên blog lsvh có liên quan tới chữ Việt cổ. Nội dung của nó có lẽ cũng là thắc mắc của nhiều người hiện nay và để giải đáp nó thì không phải là chuyện dễ dàng. (Nguồn: http://lsvh.wordpress.com/2011/02/23/82/)
-
A. Phong Thủy? Phong là GIÓ, Thủy là NƯỚC, nghiên cứu Phong Thủy thực chất là nghiên cứu nguồn gió và dòng nước. Muốn làm được việc đó, cần có những cứ liệu chính xác về địa lý cảnh quan, để rồi hoặc tận dụng những điều kiện ưu việt của nó, giúp con người sống ngày một tốt hơn, hoặc khắc chế những yếu tố bất lợi của nó, để giảm bớt tai họa cho cuộc sống của mỗi người. Ở tầm “vi mô”, các thầy phong thủy hành nghề theo yêu cầu của các gia chủ, họ chỉ xem xét phạm vi chật hẹp của ngôi nhà, thửa đất nho nhỏ của một gia đình, họ chỉ được quan sát môi trường hẹp xung quanh mảnh đất, đường đi lại, dòng sông chẩy qua, mái đình, ngôi chùa ở gần đó, cái cột điện, cây đa truyền sinh khí hay lưu âm khí … rồi ông thầy đưa ra các giải pháp chế ngự hung khí, khai thác sinh khí bằng cách trổ cổng ngõ, đào ao, trồng cây, hoặc có khi chỉ treo trước nhà một tấm gương hay một lá bùa… Ông thầy có thể hiểu, nhưng không thay đổi được vận khí của một vùng đất, của cả làng, cả huyện, cả tỉnh hoặc cả một quốc gia. Thực tế, đã có nhiều thầy giỏi, hành nghề có uy tín, được nhiều người hâm mộ. Nhưng, ta hãy thử nghĩ xem, nếu cả huyện, cả tỉnh hay cả quốc gia của ta bị lụn bại, thì việc bám vào tấm gương hay lá bùa trước cổng, điều hanh thông có đến được với gia đình ta và con cháu ta không? Ở tầm “vĩ mô”, các nhà nghiên cứu phong thủy địa mạch có tầm nhìn bao quát hơn, rộng hơn và cơ bản hơn. Từ hình dạng đất nước, từ cấu trúc địa hình, dẫy núi, dòng sông… con người phải tận dụng, nhưng phải tôn trọng, làm những việc hợp với nguyên lý khoa học, hợp với thời đại và mang lại lợi ích trường tồn cho đất nước ta, tức là cho mỗi chúng ta. B - Chiến tranh Phong Thủy Theo những tài liệu đã tung lên mạng của nhóm Lê Văn Xương từ hàng chục năm trước, thì từ đỉnh Everest cao 8.800m trên dẫy Hymalaya có một đường gân núi cổ sinh uốn lượn, theo biên giới Ấn Độ và Tây Tạng, qua cao nguyên Vân Nam của Trung Quốc, đến đỉnh Fanxipan của dẫy Hoàng Liên Sơn trên nước ta cao 3.341m, mạch núi cổ đi đến vùng Lâm Thao Phú Thọ thì “lặn xuống” và qua con sông Đà uốn lượn, gân núi cổ sinh lại “mọc lên” đỉnh Ba Vì cao 1.226m. Gân núi này uốn lượn theo hình một con Rồng khổng lồ, đuôi xòe ra ở đồng bằng Bắc Bộ. Nếu ta gọi Everest là Tổ Sơn, nóc nhà của thế giới, nơi tiếp nhận linh khí của Trời, đến đỉnh Fanxipan của dẫy Hoàng Liên Sơn là Thái Sơn, nơi thụ Linh khí truyền vào đất nước ta, thì Ba Vì là Trấn Sơn, hòn núi đứng gác non sông. Quanh Trấn Sơn Ba Vì còn có các dẫy núi khác quây lại (gọi là núi chầu Thiếu Sơn) như Đông Triều, Bắc Sơn, Ngân Sơn, Hoàng Liên Sơn, Sông Đà, Tam Đảo và Trường Sơn. Chạy theo các dẫy Núi chầu này là các dòng Sông Tụ: đó là Sông Hồng, sông Chẩy, sông Lô, sông Đà, sông Thao…. gặp nhau ở Việt Trì rồi tỏa xuống, đưa nước vào nuôi sống cả đồng bằng Bắc Bộ. Quả vậy, Ba Vì là Trấn Sơn, hòn núi đứng gác non sông, gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, với bao truyền thuyết đáng ghi nhớ. Không phải vô cớ mà cách đây 1200 năm, thầy phong thủy Cao Biền, quan Thái thú của vua Đường Y Tôn đã phát hiện ra các huyệt đạo quan trọng và đã cố công trấn yểm để diệt hiền tài của nước ta, nhưng vẫn bị bó tay với Ba Vì. Trước mặt Ba Vì ở khoảng cách 26 km là Hồ Tây mênh mông, nơi tụ linh khí tỏa ra từ đỉnh Ba Vì, là Minh đường lớn và chính Cao Biền đã gọi Hồ Tây là Não thủy (xưa kia còn có tên là hồ Dâm Đàm, hồ Xác Cáo, hồ Kim Ngưu…) ở đó có những mạch nước thông với sông Hồng, nên những lúc nước sông Hồng dâng cao vẫn có bọt sủi và xung quanh Hồ Tây, đặc biệt khu vực Tây Hồ Tây thuộc phường Xuân La ngày nay, vẫn còn những địa danh cổ rất lạ như sông Thiên Phù (Trời giúp) Đình Bái Ân, Chùa Bái Ân (tạ ơn Trời), ở hồ Tây đã từng nhiều lần xẩy ra hiện tượng Long quyển thủy (rồng cuốn nước). Năm 1010 Vua Lý Thái Tổ dời đô về và đặt tên Thăng Long chính vì lẽ đó. Chưa hết, từ Ba Vì ra đến cảng Vân Đồn thì đuôi rồng lặn xuống nước, nên nơi đó có tên là vịnh Hạ Long, rồi đường gân đi xa mãi, xa mãi đến vịnh Mindanao ở Philipin sâu gần 11.000m. Ta cũng biết rằng nhiều ngàn năm qua người Hán từ Tây Bắc Trung Hoa tràn xuống xâm chiếm và đồng hóa các dân tộc Bách Việt ở phía Nam sông Trường Giang, nhưng đến đồng bằng Bắc Bộ có cấu trúc núi chầu sông tụ và có trấn Sơn Ba Vì thì họ bó tay. Một ngàn năm Bắc thuộc mà họ không đồng hóa nổi chúng ta cũng vì đặc điểm cấu trúc phong thủy này. Người Hán có nguồn gốc ở Tây Bắc nước Trung Hoa tràn xuống Phương Nam, họ có tham vọng vô cùng lớn. Họp đã thôn tính được các dân tộc Bách Việt ở Nam Trường Giang. Năm 1914, nhà Thanh thôn tính được quốc gia Tây Tạng và hôm nay họ biết họ không đồng hóa được Tạng Tộc thì họ tàn sát cho đến người Tạng cuối cùng và hôm nay họ xâm lấn các tỉnh biên giới, họ khai thác Bauxite để phá Tây Nguyên và từ năm 1974 đến nay họ không ngừng gây sự với ta để chiếm Hoàng Sa Trường Sa, đồng thời uy hiếp Philipin cũng vì kho của cải vô giá ở Biển Đông. Các sự kiện trên Biển Đông hôm nay. Những phản ứng mới nhất của Philippin và cộng đồng Đông Nam Á gần đây đang phản ánh cuộc chiến đấu nghiêm trọng, mà Việt Nam đang là yết hầu của cuộc chiến này, nếu TQ “thắt cổ” được Việt Nam là Trung Quốc nuốt gọn Đông Nam Á. Nếu ta coi Trái đất là một cơ thể sống hoàn chỉnh, thì “đường gân” từ đỉnh Everest nóc nhà thế giới đến đáy vịnh Mindanao là bộ xương sống giữ cho hình dạng trái đất không bị biến dạng, không bị bóp méo và bởi vậy, con người mới có cuộc sống yên ổn, không phải nơm nớp lo sợ động đất, sóng thần, lở núi...cùng nhiều tai họa khác. Cũng trên nguyên lý đó, nếu ta coi vùng núi cổ sinh Ba Vì là hòn núi đứng gác non sông có trên 250 triệu năm với lịch sử giữ nước của dân tộc ta cũng như thảm thực vật đa dạng và quý hiếm của nơi đây, thì ta ý thức được đồng bằng Bắc Bộ “non trẻ” có thể tồn tại được, có thể duy trì cuộc sống cho con người mãi mãi cũng nhờ vùng đá cổ sinh này. Bởi vậy, đào núi Ba Vì lên để đào vàng hay làm bất cứ chuyện gì đều động chạm thô bạo đến “cái lõi” giữ cho đất nước ổn định, là là phá hoại an ninh đất nước. C- Những Kiến nghị Khái niệm về Công viên địa chất Geopark đã được thế giới định nghĩa, đầu tiên phải là một vùng có những di sản địa chất có giá trị khoa học, là một vùng có cảnh quan thiên nhiên kỳ thú và có thảm thực vật đa dạng sinh học. Việt Nam chúng ta đã có Công viên địa chất cao nguyên Đồng Văn được UNESCO công nhận là công viên địa chất toàn cầu. Nếu trong Hội nghị quốc tế về Công viên địa chất tổ chức từ ngày 16 đến 24/7 -2011 tại Hà Nội, ta được UNESCO công nhận Ba Vì là Công viên địa chất thứ hai, thì Hà Nội sẽ vinh dự được đầu tư Ba Vì thành một đô thị du lịch. Để có thể có được một công viên địa chất toàn cầu, có giá trị về bảo tồn di sản văn hóa, lại có sức hấp dẫn khách du lịch, phải có một nghiên cứu tổng thể, phân loại, đánh giá, không chấp nhận kiểu tự phát, xô bồ, mạnh ai người đó làm như hiện nay. 1 - Khu vực Rừng Quốc gia Ba Vì là khu vực bảo tồn cấp nhà nước, không chấp nhận cho bất cứ một nhóm tư nhân nào chiếm làm của riêng. Phải ngừng ngay và cấm hẳn việc cho xe ủi đất đào bới khu vực Rừng Quốc Gia đồng thời, cần phải dừng ngay việc xây dựng tháp báo thiên ở trên đỉnh núi, việc đó sẽ dẫn tới sự thất thoát linh khí. 2 - Thành phố Hà Nội cần tận dụng những kết quả đã dầy công nghiên cứu khoa học của PGS.TS Tạ Hòa Phương và các cộng sự chuyên ngành địa chất, để cùng đề xuất trong Hội nghị Quốc tế vào tháng 7 tới, tổ chức tham quan, khảo sát… quyết giành được sự chấp thuận của UNESCO cho xây dựng Ba Vì thành một công viên địa chất cấp quốc tế để phục vụ nghiên cứu khoa học và kinh tế du lịch. 4- Về mặt Quy hoạch & Kiến trúc, rất nhiều nhà nghiên cứu đặt câu hỏi rằng Đà Lạt cách xa TP Hồ Chí Minh những 300 km, mà có thể trở thành một thành phố nghỉ dưỡng đẹp, mang phong cách Châu Âu, thu hút khách du lịch khắp nước, thì tại sao Hà Nội có Sóc Sơn, Ba Vì mà tại sao không thể tạo thành một “Thành phố xanh” hay gọi là “Đà Lạt sát bên Thủ đô” với các loại hình du lịch sinh thái (của người Mường) và du lịch nghỉ dưỡng chữa bệnh (của người Dao với 300 loài cây thuốc quý và nghề chữa bệnh truyền thống mà không nơi nào có thể tìm thấy được). 5 - Đã đến lúc, người hưởng thụ ý thức được niềm hạnh phúc được sống hòa mình trong thiên nhiên với những ngôi nhà xinh xắn, vật liệu rẻ tiền, dễ kiếm, với những thảm thực vật đa dạng và cây cỏ phong phú. Để có giá trị văn hóa sâu sắc và để thực sự thu hút được sự hâm mộ của đại đa số khách du lịch tham quan trong nước và bạn bè quốc tế, việc xây dựng, hình mẫu kiến trúc… không thể tùy tiện, mạnh ai người đó làm như đang xẩy ra. Vừa qua, Hội KTS Việt Nam đã thành lập Hội đồng KIẾN TRÚC XANH, rất hy vọng Hội sẽ phát động các cuộc thi làm quy hoạch và sẽ lựa chọn hình mẫu kiến trúc, xây dựng thử một khu vực hoàn chỉnh… Tóm lại, để chung sức đóng góp bảo vệ toàn bộ Khu vực và Vườn Quốc gia Ba Vì, khu đất linh thiêng quan trọng nhất của đất nước, nơi còn có tên là TRẤN SƠN – hòn núi đứng gác non sông. Nơi ấy là địa điểm quan trọng, liên quan đến vận mệnh của đất nước, nên quy hoạch và xây dựng Ba Vì phải được nghiên cứu thận trọng và phải được các cơ quan chuyên môn nghiên cứu và Chính phủ ra quyết định. (Nguồn)
-
Bí ẩn thành phố tiền sử 9.000 năm tuổi tại Saudi Arabia ( 9:53 AM | 26/10/2011 ) Bằng chứng khảo cổ học mới tại Al-Maqar, miền trung Ả Rập Xê Út này cho thấy “thời tiền sử” 9.000 năm trước người ta đã biết xe sợi và dệt vải, biết thuần dưỡng nhiều loài động vật, biết chăn nuôi cả ngựa, biết ướp xác bằng những phương pháp kỳ lạ, vv…. Điều này đã đảo lộn mọi hiểu biết trước đây về thời tiền sử của loài người. >> Văn minh nhân loại: Những vết xe hóa thạch bí ẩn >> Pin điện 4.500 năm trước >> Chiếc cầu Rama 17.000 năm tuổi >> Bí ẩn các kim tự tháp Giza, Ai Cập (Phần 5) Những tàn tích này được khám phá trong một thung lũng mà xưa kia là đáy của một con sông, phía tây nam tỉnh Asir, gần biên giới với Yemen. Địa điểm của khu tàn tích này cũng chứng tỏ nó cực cổ xưa, vào thời mà khu vực này ẩm ướt và phì nhiêu hơn nhiều. Khu vực này từng bị chìm ngập hoàn toàn trong nước biển khoảng gần 9.000 năm trước Hiện trường khảo cổ Nền văn minh thượng cổ này được đặt tên là văn minh Al-Maqar, đến năm 2010 người ta đã thu thập được khoảng 80 hiện vật tại tàn tích này. Trong đó có những chiếc bình bằng đá hoạt thạch được sơn màu và trang trí hoa văn, những dụng cụ để xe sợi và dệt vải, những đầu mũi tên, những cái nạo, những cái cối xay hạt, nhiều bức tượng động vật như cá, đà điều, chó săn, chim ưng, tượng bán thân cao tới 1m của ngựa, các công cụ để xử lý da động vật, … tất cả chứng tỏ họ có trình độ phát triển cao. Có các bằng chứng khác nữa cho thấy những người bí ẩn thượng cổ này còn cưỡi ngựa đi săn, có sử dụng cả chim ưng và chó săn để trợ giúp. Gần tàn tích này còn có các tàn tích khác thậm chí còn cổ xưa hơn. Có nhiều hình vẽ trên đá tại khu vực lân cận Al Magar. Các hình khắc này có nét khắc sâu, trên bề mặt đá tối màu. Chúng khắc họa hình ảnh dê rừng, đà điểu, các động vật khác và cả con người. Một hình khắc mô tả chi tiết và cẩn thận cảnh người kỵ sỹ đang cưỡi ngựa. Một hình vẽ khác cho thấy cảnh săn bắn dê rừng, theo sau là đám chó săn, 5 con chó săn xúm quanh một con dê. Ali al-Ghabban, phó chủ tịch Ban Cổ vật và Bảo tàng thuộc Hội đồng Du lịch & Cổ vật Ả Rập Xê Út (SCTA), cho biết những khám phá này đã đảo lộn quan niệm cũ về thời tiền sử. Ghabban cho biết các xét nghiệm ADN và C14 đã xác nhận tuổi của các hiện vật khai quật được là khoảng 9.000 năm tuổi. 4 mẫu hữu cơ bị cháy lấy được từ đây đã được đưa tới Phòng thí nghiệm chuyên môn hóa Hoa Kỳ (USA specialized Laboratory) làm ước định niên đại C14, và các kết quả cho thấy niên đại khoảng 9.000 năm trước. Kết quả ước định C14 cho thấy các hiện vật đều có niên đại khoảng 9.000 năm chứng tỏ dân cư thời đó đã định cư ở đây cho đến khoảng 9.000 năm trước, rồi sau đó khu này trở thành hoang phế Sau khi nghe dân chúng báo cáo về một khu tàn tích kỳ lạ ở khu vực xa xôi hẻo lánh này, vào tháng 3/2010 SCTA bắt đầu tiến hành khảo sát và nghiên cứu. Cũng trong năm 2010, SCTA đã tổ chức một cuộc triển lãm tại bảo tàng CaixaForum tại Barcelona và bảo tàng Louvre tại Paris về phát hiện khảo cổ học hệ trọng này. Ngày 24/8/2011, trong một cuộc triển lãm, nhà vua Abdullah của Ả Rập Xê Út lắng nghe hoàng tử Bin Salman Bin Abdul Aziz – chủ tịch Ban Du lịch và Cổ vật Ả Rập Xê Út (SCTA) cùng với các khoa học gia giải thích về phát hiện khảo cổ học quan trọng này Một số hiện vật khai quật được tại Al-Maqar Cuộn sợi dệt may Con ngựa buộc dây cương, có vẻ còn được đóng yên cương Chiếc chậu đá được chạm khắc và sơn màu Loại dao đá này có hình dạng và đặc điểm rất giống với loại dao đặc thù ở vùng Ả rập mà hiện nay vẫn được dùng Một số hiện vật khác Chúng ta giờ đây đã biết rõ rằng nhân loại xưa kia chẳng hề giống chút nào với những hình vẽ tưởng tượng về “người nguyên thủy” hoang dã xuất hiện đều đều trên đủ phương tiện truyền thông đại chúng và sách vở của thế giới. Đó thực ra chỉ là quan niệm bị phổ biến quá mức của một số ít học giả từ hồi thế kỷ 19 – 20, nặng về lý luận nhưng thiếu thốn kiến thức thực tế do điều kiện nghiên cứu còn sơ khai. Đến nay thứ quan niệm này đã quá lỗi thời và bị thực tế chứng minh là sai, nhưng vẫn chưa được cải chính trong các sách giáo khoa hiện đại. Tham khảo: http://www.scta.gov.sa/en/ http://www.reuters.c...E77N5TL20110824 (Nguồn) Tại Anh, di tích đàn đá StoneHenge cũng rất nổi tiếng, được người Anh công nhận có cách đây 5000 là một trong những địa điểm tham quan du lịch nổi tiếng của Anh. Ở Việt nam bãi đá cổ Sapa cũng chứa nhiều mật ngữ và giá trị không kém. Có thể nói cách đây khoảng 5000 - 6000 năm trên thế giới cùng với nền văn minh toàn cầu đã hình thành và phát triển thì nền văn minh Lạc Việt cũng xuất hiện và khẳng định những giá trị của mình vào thời Hùng Vương.
-
Trên bài gốc trên Blog NXD có nhiều comment đồng tình với Trung tâm chiếm hơn 50%. Hiện nay càng ngày nhiều người nhận ra thời Hùng Vương 2700 năm trong SGK của các vị GSTS sử phổ thông là sai sót. Càng ngày càng nhiều người cũng thấy là họ không theo tinh thần khoa học khi không đối thoại với các nhà nghiên cứu trong đó có sư phụ. Vì vậy việc làm của họ có thể dẫn người đọc tới cách hiểu họ không đủ tự tin sẽ thuyết phục được trong cuộc hội thảo vì lý lẽ yếu hơn trên cơ sở chủ yếu là "đoán định" hoặc họ. Nhưng dù là lý do gì thì cách làm việc của họ không khoa học, từ đó làm sao mà có kết quả gọi là khoa học được? Một cái khuôn hỏng thì sao đúc được nồi chất lượng nhỉ? Vậy mà những người đúc tự cho rằng nồi của họ là "hàng xịn"? Một yếu tố trong lịch sử văn hóa Việt là sử truyền miệng hay là truyền thuyết. Đó là một dạng thông tin mã hóa truyền miệng. Và "truyền thuyết mà đòi sự thật" là những sự kết luận vội vã, thiếu khoa học vì mặc nhiên coi truyền thuyết là giả dối và bị cuốn vào mặt chữ mà không để ý nội hàm thông tin trong đó. Chúng ta đều biết rằng truyền thuyết phần lớn không phải để chơi, nghĩ ra cho vui như trong một tác phẩm văn học. Nếu thực sự là những truyền thuyết của những trí giả tưởng tượng thì không cần 5000 năm mà chỉ cần mấy chục năm, trăm năm là rơi vào quên lãng vì nhân dân đều hiểu rằng đó là những sản phẩm tưởng tượng. Tại sao những câu chuyện lịch sử truyền miệng (truyền thuyết) này lại xuyên thời gian như vậy? Trước hết phải khẳng định đó là những con thuyền chứa những tư liệu về thủa hồng hoang, về lịch sử dân tộc, về cuộc đấu tranh trị thủy, lịch sử khai sinh dân tộc (xem lại bản thân những truyền thuyết). Nhân dân và Tổ tiên không phải nghĩ ra những câu chuyện này cho vui vì nó không có tính chất giải trí hay để tham dự một giải thưởng văn học. Cũng không phải cách đây vài trăm năm mới nghĩ ra mà đã có từ hơn cách đây hơn 4000 năm dựa trên những yếu tố thời gian, tính kế thừa và nội dung của truyền thuyết. Có thể nói truyền thuyết là một đặc điểm quan trọng trong văn hóa Việt. Đó là văn hóa phi vật thể. Đây cũng là cách khôn ngoan của dân tộc đã tìm cách đối phó, lưu trữ kho sử dân tộc trong bối cảnh bị đốt sạch, cướp sạch và nạn ngoại xâm liên miên. Trong bối cảnh ấy mà lại cứ đi đòi sách đâu thì khác gì nhầm lẫn về phương pháp luận. Thế nên những vị làm sử mà chỉ căn cứ vào khảo cổ học rồi sách rồi đem ra kết luận thời Văn Lang có 700 năm trước công nguyên thì không tránh khỏi hàm hồ và thiển cận. Ngày nay chúng ta biết rằng 5000 năm lịch sử cũng không hẳn là một điều gì ghê gớm. Văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà toàn 6000 năm. Mới đây một thành phố ở Arab Saudi có 9000 năm tuổi. Một số nền văn minh khác ở Châu Âu cũng có 6000 năm, 7000 năm. Nền văn minh toàn cầu có sự tương hỗ và cùng biến đổi. Khi những nền văn hóa khác cùng hoặc sớm hơn về mặt thời gian đang phát triển, không lẽ văn minh Lạc Việt đứng im chờ đến 700 năm trước công nguyên rồi mới phát triển? Nhìn ra thế giới để thấy một góc độ khác và để mà thấy văn hiến Lạc Việt có 5000 năm là chuyện thường tình. Sách sử Tàu và sử Ta cũng đều ghi rõ năm 2789 trước Công nguyên với khởi thủy của dân tộc là Lạc Long và Âu Cơ. Vậy sao tưởng tượng ra 700 năm? Kinh Dịch cũng rõ ràng của Việt nam. Đó là điều không thể chỗi cãi. Đương nhiên Kinh Dịch không thể có 700 năm trước công nguyên mà đã có 4000, 5000 năm hình thành và phát triển. Cũng hoàn toàn khớp với tiến trình thời gian của dân tộc. Ở di chỉ xóm Rền, thuộc nền Văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ đã đào được một chiếc nồi bằng đất nung trên có trang trí bốn băng hoa văn, mỗi băng nầy tương đương với một hào trong quẻ Dịch, theo phép đọc Hổ thể thì đây chính là hình khắc của quẻ Lôi Thuỷ Giải. Đây có thể xem là chứng tích xưa nhất trên toàn thế giới hiện chúng ta đang có được về Kinh Dịch. Những chiếc nồi bằng đất nung thể hiện các quẻ Kinh Dịch đào được qua so sánh đồng vị carbon có cách đây gần 5000 năm thì sao lại bảo có 700 năm? Chưa kể những nghiên cứu về các thuyết Âm dương Ngũ hành (ra đời cách đây 6000 năm với cuốn Hoàng đế nội kinh tố vấn) cũng thể hiện đó chí ít không phải của Trung quốc và là của người Việt. Trở lại chuyện truyền thuyết, một trong các ví dụ là truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy tinh. Thực ra đó là công cuộc trị thủy và phản ánh sự biến đổi địa chất của Trái đất cách đây 4000 năm - 5000 năm. Đó là sự việc có thật. Ngày nay các hàu đá còn tìm thấy cả ở Yên Tử, rồi xương cá heo còn tìm thấy ở trong lòng đất các tỉnh đồng bằng Sông Hồng. Vì đó ngày trước sau quá trình biển dâng và rút đi để lại. Rõ ràng truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy tinh phản ánh cuộc sinh tồn của dân tộc. (chúng ta có thể tìm đọc lại loạt bài này trên báo Thanh Niên).
-
http-~~-//www.youtube.com/watch?v=lJ_aXt-bfRg Khác với hầu hết các nước trong khu vực và trên thế giới đặc biệt là nhóm nước Âu Mỹ, ẩm thực Việt nam có sự khác biệt rõ nét là sự cân bằng Âm Dương. Có nóng (thịt) sẽ có mát (món luộc), có nhạt sẽ có mặn, có tanh (cá) sẽ có cay khắc chế, món dễ ngán (bánh chưng, thịt mỡ) sẽ kèm món hết ngán (dưa, hành)...Trong khi hầu hết các nước trong khu vực Châu Á ăn nhiều mỡ, cay, nóng như Hàn quốc, Thái Lan, Trung quốc, Đài Loan. v.v... hay các nước Âu Mỹ ăn nhiều đồ chiên rán, nướng thì cân bằng Âm Dương chính là một nét đặc trưng của ẩm thực Việt. Nó cũng giúp cho người dùng đồ ăn, thức uống Việt nam nêu ăn uống đúng cách sẽ có cơ thể khỏe mạnh và ngon miệng. Cùng với những gia vị cực kỳ phong phú và rau, cây cỏ, rau thơm, rau sống...với những hương vị sắc, nồng mà ít nơi nào có được (các nước cũng có nhưng thường kém về độ sắc của rau và hương vị) thì thức ăn Việt nam thực sự là những món ăn ngon và nhiều hương vị. Trong video từ thực tế trên các tác giả cũng đã cho thấy thuyết Âm Dương Ngũ hành trong ẩm thực Việt là một nét đặc trưng trong hầu hết các bữa ăn, món ăn. Điều đó thêm một góc nhìn thể hiện thuyết Âm Dương Ngũ hành là của Việt nam. Nếu Trung quốc là tác giả của thuyết Âm Dương Ngũ hành thì trong ẩm thực của họ không thể không có dấu ấn dù nhỏ của hệ thống này. Chính người Việt là tác giả của Âm Dương Ngũ hành nên trong ý thức, trong sinh hoạt, trong ăn uống, điều đó đã được vận dụng tinh tế vào nhiều mặt của đời sống và trong ăn uống hàng ngày.
-
NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA NGÀY TẾT CỔ TRUYỀN DÂN TỘC Tết của Việt Nam (hay còn gọi đầy đủ là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, năm mới hay chỉ đơn giản Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt Nam được hình thành từ nền văn minh lúa nước và đời sống nông nghiệp của dân tộc Việt. Chữ "Tết" do chữ "Tiết" (節) mà thành.[1] Tết cổ truyền cũng được gọi là "Tết Nguyên đán". Hai chữ "Nguyên đán" (元旦) có gốc chữ Hán; "nguyên" có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và "đán" là buổi sáng sớm, cho nên đọc đúng phiên âm phải là "Tiết Nguyên Đán". Tết cổ truyền của Việt Nam được người Trung Quốc hiện nay gọi là Xuân tiết (春節) hoặc Nông lịch tân niên (農曆新年), còn tết của Trung Quốc ngày nay lại là Tết dương lịch tức ngày 1 tháng 1 hằng năm.[2]. Nhưng với cộng đồng người Hoa ở Đài Loan, Hồng Kông hay nhiều nước khác, Tết Nguyên Đán vẫn là tết cổ truyền của họ. Điều này cũng phản ánh Tết không phải của người Hoa Bắc và vùng Hoa Nam (Đài Loan, Hồng Kông, Quảng Châu...) vốn là đất Việt xưa. Vì Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng). Do cách tính của âm lịch Việt Nam có khác với Trung Quốc cho nên Tết Nguyên đán của người Việt Nam đôi khi không hoàn toàn trùng với Xuân tiết của người Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa khác. Nguồn gốc ra đời Tết cổ truyền Việt Nam là một lễ hội truyền thống có liên quan đến việc trồng cấy cây nông nghiệp trong tập tục của người Việt cổ. Cụ thể hơn Tết cổ truyền (Tết Cả) có từ thời Hồng Bàng, trước cả thời Hùng Vương, trong đó nổi bật là câu chuyện Lang Liêu gói bánh chưng bánh dày mừng Tết vua Hùng. Điều đó thể hiện Tết cổ truyền Việt Nam đã có gần 5000 năm. Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ "tạo thiên lập địa" như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày tết khác nhau. Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa. Nói thêm về ảnh hưởng của Tết cổ truyền Việt nam lên Trung quốc, Khổng Tử là bậc tổ sư cho lễ nhạc của Trung Hoa viết trong sách Kinh Lễ như sau: “:”Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man, họ nhảy múa như điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó, họ gọi tên cho ngày đó là “TẾ SẠ” (Tế Sạ là Khổng Tử phát âm chữ Thêts, là lễ hội năm mới của người Thái đất Phong Châu- TN) Sách Giao Chỉ Chí cũng có đoạn viết “Bọn người Giao Quận thường tập trung lại từng phường hội nhảy múa hát ca, ăn uống chơi bời trong nhiều ngày để vui mừng một mùa cấy trồng mới, chúng gọi ngày đó là Nèn- Thêts, không những chỉ có dân làm nông mà tất cả người nhà của Quan lang, Chúa động cũng đều tham gia lễ hội này. Chỉ có bọn man di mới có ngày hội mà người trên kẻ dưới cùng nhau nhảy múa như cuồng vậy, bên ta không có sự Quân thần điên đảo như thế.” Hai đoạn trích từ hai cuốn Kinh sử nổi tiếng của Văn hóa Trung Hoa đều khẳng định Tết của Việt có trước ngày “Tân Niên” Chinese new Year “, Thrếts Chìn” của người Tần Trung Hoa rất xa và Tết nguyên đán Trung quốc thay đổi rất nhiều so với Tết gốc của dân tộc Việt. Trong khi đó ngày Tết cổ truyền của dân tộc Việt vốn không thay đổi từ thời thượng cổ cho đến nay. Quan niệm ngày Tết Người Việt tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ ngoại vật cho đến lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước Tết họ thường sơn, quét vôi nhà cửa lại. Họ cũng tất bật đi sắm sửa quần áo mới để mặc trong dịp này. Trong những ngày Tết họ kiêng cữ không nóng giận, cãi cọ. Tết là dịp để mọi người hàn gắn những hiềm khích đã qua và là dịp để chuộc lỗi. Mọi người đi thăm viếng nhau và chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em sau khi chúc Tết người lớn còn được lì xì bằng một phong bì đỏ thắm có đựng ít tiền dành cho chúng tiêu xài ngày Tết. Tết ở 3 miền Bắc, Trung, Nam ở Việt Nam cũng có những điều khác nhau. Sắm tết Chợ Tết là những phiên chợ có phiên họp chợ vào trước tết từ 25 tháng Chạp cho đến 30 tháng Chạp, bán nhiều mặt hàng, nhưng nhiều nhất là các mặt hàng phục vụ cho tết Nguyên đán, như lá dong để gói bánh chưng, gạo nếp để gói bánh chưng hoặc nấu xôi, gà trống, các loại trái cây dùng thờ cúng (ngũ quả) để cúng tổ tiên,...Vì tất cả những người buôn bán hầu như sẽ nghỉ bán hàng trong những ngày Tết, những ngày đầu năm mới không họp chợ, nên phải mua để dùng cho đến khi họp chợ trở lại đưa đến mức cầu rất cao. Người Việt có câu mồng bốn chợ ma, mồng ba chợ người nên chợ được họp phiên đầu năm là mồng ba tết (ngày 3 tháng 1 âm lịch). Hơn nữa, chợ Tết cũng để thỏa mãn một số nhu cầu mua sắm để thưởng ngoạn, để lễ bái như hoa tết, những loại trái cây, đặc biệt là dưa hấu và những loại trái có tên đem lại may mắn như mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài,... Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt vào trước giờ Ngọ giao thừa. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm, và đi chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt. Kèm theo các chợ mua bán ngày giáp tết đông đúc, nhiều nơi còn tổ chức các chợ hoa nhằm vui xuân. Hiện nay, nhiều chợ Gốm đã được mở vào ngày giáp Tết để phục vụ người dân. Mâm ngũ quả Mâm ngũ quả là một mâm trái cây có chừng năm thứ trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết Nguyên Đán của người Việt. Các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng. Mâm ngũ quả của người miền Bắc gồm: chuối, ớt, bưởi, quất, lê. Có thể thay thế bằng cam, quýt, lê-ki-ma, hồng xiêm, hồng đỏ. Chuối xanh cong lên ôm lấy bưởi mang ý nghĩa đùm bọc. Chọn 5 thứ quả theo quan niệm người xưa là ngũ hành ứng với mệnh của con người. Chọn số lẻ tượng trưng cho sự phát triển, sinh sôi. Mâm ngũ quả người miền Nam gồm dừa, đu đủ, mãng cầu, sung, xoài với ngụ ý cầu sung vừa đủ xài. Cây nêu Cây nêu ngày Tết ở nông thôn Việt Nam, xuân Mậu Tý 2008. Cây nêu là một cây tre cao khoảng 5–6 mét. Ở ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng điạ phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (để táo quân dùng làm phương tiện về trời), giải cờ vải tây, điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm nhau tại thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai... Ở Gia Định xưa, sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Tập Hạ chép rằng: "bữa trừ tịch (tức ngày cuối năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là "lên nêu"... có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ". Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu... Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không maỵ. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Ngày 7 tháng Giêng triệt hạ, gọi là "hạ nêu" phàm những khoản vay mượn thiếu thốn trong tiết ấy không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi hỏi". Tranh tết Tranh Đông Hồ trang trí ngày Tết Nguyên Đán (Xem thêm: Tranh dân gian Việt Nam, Tranh Đông Hồ, Tranh Hàng Trống, và Tranh Kim Hoàng) Phía trên bàn thờ thường treo một tranh dân gian vẽ ngũ quả, chiếc cuốn thư... có khi là một chữ Nho (chữ Tâm, Phúc, Đức...). Tranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán, một thú chơi của người dân Việt Nam và không chỉ người có tiền mới chơi tranh mà người ít tiền cũng có thể chơi tranh. Nó là một phần không thể thiếu trong không gian của ngày Tết cổ truyền xưa kia. Những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt. Câu đối Tết Câu đối treo hai bên tủ thờ, chụp năm Bính Tuất 2006. Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân "tồn cổ" vẫn còn trọng tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ. Bản thân chữ "câu đối đỏ" cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau: Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối (對) ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung Quốc và Việt Nam. Hoa tết Ngoài hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng có thêm những loại hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như hoa vạn thọ, cúc, lay ơn, hoa huệ...; hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hoa hồng, hoa thủy tiên, hoa lan, hoa thược dược, hoa violet, hoa đồng tiền... Ngoài ra, hoa hồng, cẩm chướng, loa kèn, huệ tây, lá măng, thạch thảo... cắm kèm sẽ tạo sự phong phú và mang ý nghĩa sum họp cho bình hoa ngày tết. Màu sắc tươi vui chủ đạo của bình hoa cũng ngụ ý cầu mong một năm mới làm ăn phát đạt, gia đình an khang và sung túc. Hoa đào Hoa đào Nhật Tân trước đây Miền Bắc thường chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí trong nhà, theo quan niệm người Trung Quốc, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu xuân. Sự tích hoa đào ngày Tết: Ngày xưa, ở phía Đông núi Sóc Sơn, có một cây hoa đào mọc đã lâu đời. Cành lá đào sum suê, to lớn khác thường, bóng rậm che phủ cả một vùng rộng. Có hai vị thần tên là Trà và Uất Lũy trú ngụ ở trên cây hoa đào khổng lồ này, tỏa rộng uy quyền che chở cho dân chúng khắp vùng. Quỷ dữ hay ma quái nào bén mảng lui đến ắt khó mà tránh khỏi sự trừng phạt của 2 vị thần linh. Ma quỷ rất khiếp sợ uy vũ sấm sét của hai vị thần, đến nỗi sợ luôn cả cây đào. Chỉ cần trông thấy cành hoa đào là bỏ chạy xa bay. Đến ngày cuối năm, cũng như các thần khác, hai thần Trà và Uất Lũy phải lên thiên đình chầu Ngọc Hoàng. Trong mấy ngày Tết, 2 thần vắng mặt ở trần gian, ma quỷ hoành hành, tác oai tác quái. Để ma quỷ khỏi quấy phá, dân chúng đã đi bẻ cành hoa đào về cắm trong lọ, nhỡ ai không bẻ được cành đào thì lấy giấy hồng điều vẽ hình 2 vị thần linh dán ở cột trước nhà, để xua đuổi ma quỷ. Từ đó, hàng năm cứ mỗi dịp Tết đến, mọi nhà đều cố gắng đi bẻ cành hoa đào về cắm trong nhà trừ ma quỷ. Hoa mai Hoa mai ngày Tết Hoa Mai, với miền Nam nước Việt, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới rất thích hợp môi trường cho hoa Mai đơm bông nẩy lộc mỗi dịp Xuân về Tết đến. Miền Trung và miền Nam lại hay dùng cành mai vàng hơn miền Bắc, màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, màu vàng còn tượng trưng cho vua (thời phong kiến). Màu vàng thuộc hành Thổ trong Ngũ hành, theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển nòi giống. Đối với người miền Nam, nếu hoa Mai nở đúng vào lúc đón giao thừa hay nở vào sáng sớm ngày mùng một Tết thì điều đó có nghĩa là sự may mắn, thịnh vượng, và hạnh phúc sẽ đến với cả gia đình trong năm đó. Cây quất Niềm vui của người dân khi đã mua được một cây quất. Tết đến, cây quất thường được trang trí tại phòng khách. Cây quất Tết ngày càng có nhiều kiểu dáng cầu kỳ nhưng vẫn phải bảo đảm sự xum xuê, lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự trù phú, hứa hẹn năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống. (Sưu tầm và tổng hợp)
-
TTO - Trên phố Chu Văn An, đoạn trước cổng làng lụa Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Nội) có treo một băngrôn, toàn văn như sau: “Toàn thể nhân dân Hà Đông tích cực hưởng ứng, tham gia phong trào thu hồi VK, VLN, CCTH, đồ chơi nhuy hiểm bị cấm…”. Băngrôn kiểu… đánh đố (ảnh chụp sáng 14-9) Chụp xong hình ảnh trên, người chụp đã mang đố một số người bạn của mình dịch được những cụm từ viết tắt “VK, VLN, CCTH”. Sau một hồi suy nghĩ, cố lắm những người bạn tôi mới dịch được các cụm từ “VK” là vũ khí, “VLN” là vật liệu nổ, nhưng đó mới chỉ là những lời “giải đố” của chúng tôi, không biết đã đúng với thông điệp của băngrôn chưa. Còn cụm từ “CCTH” thì mọi người đều ngả mũ chào thua, chưa kể chữ "nhuy hiểm" chắc không có trong từ điển. Băngrôn là thứ dễ đọc, dễ nhớ. Nhưng đây đọc còn khó thì nghĩ gì đến dễ nhớ và làm theo. http://tuoitre.vn/Ba...A6-danh-do.html
-
Mong sao những tấm lòng hảo tâm mọi nơi cũng như của Trung tâm đến được với chị và cháu bé này. Cầu chúc cho họ bình an. ----------- (Dân trí) - Người mẹ có gương mặt khắc khổ chỉ biết nắm chặt lấy đôi bàn tay của đứa con trai rồi cả hai cùng khóc. Mẹ khóc vì thấy con đau đớn mà bất lực, con lại khóc vì mẹ đã khổ đau cả một cuộc đời. Hoàn cảnh đáng thương mà tôi nhắc đến đó là hai mẹ con cô Hà Thị Minh (khu 7, thôn Nam Tiến, xã Phú Lạc, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ) có con trai là Mai Văn Thắng hiện đang được điều trị tại tầng 5 Viện bỏng Quốc gia. Vào thăm hai mẹ con khi trời đã bắt đầu nhá nhem tối nhưng mãi tôi vẫn không thấy cô đứng lên mua gì đó cho con ăn. Đôi mắt đỏ hoe ngân ngấn nước, người mẹ nghèo cứ nhìn tới nhìn lui như chờ ai đó rồi lại quay sang đứa con đang nhăn mặt vì đói. Một lúc sau có bác giường bên cạnh mang về cho một cặp lồng cháo giục cô mau cho con ăn, tôi mới biết đây là cháo từ thiện của bệnh viện phát. Thấy có người lạ trong phòng bác nhìn tôi lắc đầu ái ngại “Cô ấy chẳng có đồng tiền nào cả, không có tô cháo được phát từ thiện kia thì không chừng cả mẹ, cả con đều…”. Bỏ lửng câu nói nhưng tôi hiểu được hết, quay ra nhìn thấy cảnh hai mẹ con nhường nhịn nhau từng thía cháo chợt thấy khóe mắt cay cay. Gương mặt đau khổ, già nua của người đàn bà hơn 40 tuổi đã mất chồng, mất con Người mẹ khốn khổ ấy dường như đã quá sức với những đau đớn trong cuộc đời của mình nên nhìn già hơn rất nhiều so với tuổi mới ngoài 40. Đôi bàn tay lam lũ giờ chỉ còn rặt những đốt xương, đôi chân cũng không có lấy một đôi dép để đi, để lộ đầy dấu vết của những bươn trải nhọc nhằn.25 năm qua kể từ khi có một mái ấm gia đình, người vợ, người mẹ ấy còn chưa kịp nguôi ngoai nỗi đau mất chồng và đứa con trai thứ hai, giờ lại tiếp tục phải đối mặt với ranh giới giữa cái chết và sự sống mong manh của đứa con trai cả. Chung sống với nhau vẻn vẹn được 4 năm thì chồng cô mất vì bị u não. Đau đớn tưởng như có thể chết đi được nhưng người mẹ phải gạt nước mắt vào trong bởi hai nách còn 2 đứa con thơ nheo nhóc. Thằng anh mới 4 tuổi còn chưa biết gì nên không thể trông thằng em lên 2, vì thế mà trong những buổi đi cấy, gặt thuê cả 3 mẹ con lại phải bồng bế nhau đi cùng. Có nhiều hôm ở quê hết việc mà lại không thể mang con đi xa, cô chỉ còn biết ngồi ở nhà ôm hai đứa trẻ đói đến dặt dẹo mà khóc lặng đi chẳng thành lời. Nghĩ phận mình khổ quá, nhiều lúc cô cắn răng chịu đựng muốn gửi hai đứa đi cho người ta nuôi để còn có cái mà ăn nhưng lại không đành lòng. Vất vả, nghèo túng trong căn nhà nát cheo leo giữa đỉnh đồi của vùng quê nghèo, cô Minh cứ cố gắng oằn mình ra làm đủ mọi việc để kiếm từng bát gạo nuôi con. Bệnh nhân Mai Văn Thắng do bị liệt hai chân, nằm một chỗ dẫn đến hoại tử vùng lưng và suy kiệt cơ thể Nào ngờ sóng gió lại bất ngờ ập đến khi năm 2003, đứa con trai thứ hai của cô cũng ra đi mãi mãi vì mang bệnh giống bố. Mẹ mất con, anh mất em, cô Minh một lần nữa lại phải lau nước mắt gượng dậy để làm chỗ dựa tinh thần cho đứa con trai còn lại Mai Văn Thắng tiếp tục sống.Bấy nhiêu những khổ đau nước mắt đã là quá đủ cho một người phụ nữ. Vậy mà nào ngờ một lần nữa ông trời lại bất công với cô khi bắt Thắng phải liệt hai chân chỉ ngay sau 4 năm em trai mất. Người mẹ từ lâu chỉ còn sống như một cái xác không hồn giờ lại như bị đâm thêm một nhát dao đến ngơ ngần cả người. Nhưng bản năng của tình mẫu tử thương con hơn chính bản thân mình nên hàng ngày cô bòn mót từng mớ rau, con cá hay đến vụ thì gánh gạch thuê cho người ta lấy tiền lo bữa cơm, bữa cháo cho con. Nhưng cũng vì liệt phải nằm một chỗ lâu ngày nên vùng da của Thắng bị hoại tử nặng khiến ăn sâu vào bên trong. Không đành lòng nhìn đứa con còn lại duy nhất phải ra đi giống như bố và em, cô Minh đánh liều mang Thắng xuống Viện bỏng quốc gia mà trong người chỉ vẻn vẹn một vài đồng vay được vội vàng của bà con lối xóm. Mẹ chỉ còn mỗi con, con mà không sống được thì đời mẹ xem như hết" Biết được hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhà cô phía bệnh viện cũng đã trợ cấp tối đa hết mức có thể về thuốc cũng như viện phí, tuy nhiên bác sĩ Nguyễn Thị Bích Phượng, Khoa bỏng người lớn, Viện bỏng quốc gia cho biết: “Hiện tại bệnh nhân Thắng đang trong trạng thái suy mòn vì cơ thể quá suy kiệt vì không có chất dinh dưỡng. Vết loét thì ngày một sâu và lan rộng nên hôm nào cũng phải hút dịch mủ ra. Nếu như không được bồi dưỡng tích cực và sử dụng nhiều loại thuốc tốt thì bệnh nhân có thể tử vong trong trạng thái cơ thể đã kiệt quệ”.Chào ra về cô Minh cứ nắm chặt lấy tay tôi mà nước mắt giàn giụa “ Cô ơi, cứu lấy con tôi với. Nó mà chết thì tôi còn sống làm gì nữa!?”. Đúng lúc ấy Thắng cũng gắng nghiêng mình về phía tôi với ánh mắt khẩn khoản “Cầu xin mọi người cứu em để cho em được sống, em không dám mơ đôi chân có thể đi lại được, chỉ cần ngồi được xe lăn thôi là em có thể làm việc để đỡ đần mẹ”. Tôi quay lại nhìn anh, bỗng dưng cũng bật khóc không muốn tin vào những điều đang diễn ra trước mắt “Lời khẩn cầu của chàng thanh niên 26 tuổi và người mẹ khốn cùng bất hạnh có ai nghe thấu không?” (Dantri)
-
Với những nét vẽ điêu luyện trên tông màu tối kỳ ảo, những tác phẩm này được cộng đồng mạng đánh giá là không hề thua kém những tác phẩm đồ họa của các nghệ sĩ nước ngoài nổi tiếng… Từ lâu nay, trên các diễn đàn về game và đồ họa trong nước đã lưu truyền những tác phẩm đồ họa tuyệt đẹp tái hiện hình ảnh các vị anh hùng trong lịch sử, truyền thuyết của Việt Nam như Thánh Gióng, Sơn Tinh - Thủy Tinh, Thạch Sanh… Với những nét vẽ điêu luyện trên tông màu tối kỳ ảo, những tác phẩm này được cộng đồng mạng đánh giá là không hề thua kém những tác phẩm đồ họa nổi tiếng của các nghệ sĩ nước ngoài nổi tiếng. Tác giả của chúng là thành viên có nick Marooned, một nhân vật “đình đám” trên nhiều diễn đàn như Gamedev.vn, Zidean.com… Ngoài đời, Marooned có tên thật là Phan Vũ Linh, một chàng trai sinh năm 1975 tại Hà Nội. Là một họa sĩ, anh từng tốt nghiệp ĐH Mỹ Thuật TP HCM và Học viện nghệ thuật (Academy of Art University) ở San Francisco, Mỹ. Thạch Sanh trong cuộc chiến với Trăn Tinh,một tác phẩm của họa sĩ Phan Vũ Linh. Theo Phan Vũ Linh, trường phái vẽ của anh khá ít người theo và cũng không có đào tạo chính quy trong nhà trường, chỉ vì yêu thích mà anh theo đuổi, tự rèn luyện đi theo con đường này. Các tác phẩm của anh được thực hiện bằng các phần mềm đồ họa thông dụng như Photoshop, Corel Painter. Những bức vẽ công phu phải mất trên 10 giờ mới hoàn thành, trong khi những bức đơn giản ở dạng phác thảo thì 2-3 giờ là xong. Trong công việc cũng hiếm khi anh có dịp vẽ kiểu này, bởi chỉ cần vẽ đơn giản bằng 30% là cũng đủ đáp ứng yêu cầu khách hàng. Dù thể loại nghệ thuật mình đam mê vẫn chưa phổ biến ở Việt Nam, nhưng chàng họa sĩ tin rằng tương lai của thể loại này sẽ rất phát triển, đi theo xu hướng phát triển của đồ họa game, hoạt hình, điện ảnh… Phan Vũ Linh chia sẻ, từ lâu anh đã nung nấu ý tưởng hình thành một bộ sách thần thoại và cổ tích Việt Nam, qua đó mô tả lại những câu chuyện quen thuộc của dân tộc một cách sống động và công phu qua nét vẽ của mình. Điều này không chỉ bắt nguồn từ sở thích, đam mê mà còn còn là ý muốn khơi lại niềm tự hào dân tộc của giới trẻ. Lạc Long Quân với chiến công tiêu diệt quái vật Hồ Ly và Ngư Tinh. Cuộc chiến long trời lở đất giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh để giành nàng Mỵ Nương. Hình ảnh cận cảnh của Sơn Tinh. Thủy Tinh. Những loài vật đại diện cho hai lực lượng đối lập của đất và nước. Cưỡi ngựa sắt và dùng thân tre làm vũ khí, Thánh Gióng chôn vùi giặc Ân xâm lược. Thạch Sanh tiêu diệt yêu tinh đại bàng để cứu công chúa Quỳnh Nga. Những chiến công của Thạch Sanh được tái hiện trong một bức vẽ đầy chất sử thi. Hình ảnh cận cảnh. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và những chiến công lẫy lừng trên sông Bạch Đằng. Tùy tướng Yết Kiêu trước cuộc chiến với thủy quân Nguyên Mông. Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với bàn tay bóp nát quả cam và là cờ thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân”. (hoangsa.org)
-
Chúc mừng hạnh phúc Thiên Luân. Chúc hai em trăm năm hạnh phúc.
-
Thưa sư phụ mọi người hiểu hết mà.
-
Bạn thử nhờ qua nhà văn Phạm Viết Đào xem sao. Biết đâu ông giúp bạn tìm tới được một Trung tâm tìm kiếm mộ liệt sĩ ví dụ như ở Nghệ An Trung tâm Nguyễn Cảnh Tuệ. Còn trên này cũng có một số người đã từng đi tìm hoặc quen biết với các nhà ngoại cảm, nếu bạn nhờ biết đâu có người giúp.
-
USS George Washington sẽ 'nghỉ hưu non'? Trước sức ép lớn yêu cầu cắt giảm lớn, Hải quân Mỹ đang cân nhắc khả năng cho “nghỉ hưu” tàu sân bay hạt nhân khi mới chỉ được phục vụ nửa thời gian quy định. (ĐVO) Trong số đó, tàu sân bay hạt nhân George Washington có thể sẽ là nạn nhân của kế hoạch cắt giảm. Cụ thể, Quá trình tiếp nhiên liệu và đại tu của tàu USS George Washington theo dự kiến diễn ra 3 năm một lần, bắt đầu vào năm 2016. Theo quan chức Mỹ, quá trình này có khả năng sẽ bị ngưng và cho “nghỉ hưu”. Nếu cho tàu George Washington nghỉ hưu, Hải quân Mỹ sẽ chỉ còn 10 hạm đội tàu sân bay. Quá trình này cần có sự thông qua của quốc hội Mỹ. Bởi theo luật định, Mỹ phải duy trì 11 hạm đội tàu sân bay. “Yêu cầu cắt giảm ngân sách đã được đệ trình lên quốc hội. Quốc hội sẽ đánh giá chi tiết kế hoạch cắt giảm”, Cortney Hillson – người phát ngôn của Hải quân Mỹ nói. Liệu tàu sân bay hạt nhân George Washington sẽ là nạn nhân của kế hoạch cắt giảm ngân sách lớn của Mỹ? Chính phủ Mỹ yêu cầu Bộ Quốc phòng cắt giảm trực tiếp ít nhất 464 tỷ USD trong vòng 10 năm tới. Và có thể những biện pháp mạnh tay hơn sẽ được ban hành khi Quốc hội Mỹ không thống nhất về kế hoạch cắt giảm ngân sách hiện tại. Trước đó, Hải quân Mỹ đã cân nhắc kế hoạch kéo dài chương trình chế tạo tàu sân bay Geral R.Ford từ 5 lên 7 năm và treo dự án tàu sân bay John F.Kennedy vài năm. Kế hoạch có vẻ không khả thi và Hải quân Mỹ phải quay sang tập trung vào quá trình đại tu và thay thế nhiên liệu hạt nhân. Tàu sân bay hạt nhân lớp Nimitz có tuổi thọ thiết kế là 50 năm và cần có một cuộc đại tu và tiếp nhiên liệu gọi là RCOH vào năm thứ 25 sau khi hoạt động. Tàu sân bay Theodore Roosevelt đang ở trong giai đoạn cuối của RCOH, trong khi tàu sân bay Abraham Lincoln sẽ bắt đầu quá trình RCOH tại cảng Newport News vào giữa năm 2012. Hải quân Mỹ đã trả tiền cho quá trình đại tu tàu Abraham Lincoln cho cảng Newport News với số tiền là 206 triệu USD chỉ riêng cho quá trình lên kế hoạch và chuẩn bị. Do vậy, Đô đốc Gary Roughead cho biết việc ngừng đại tu tàu Abraham Lincoln sẽ vô cùng tốn kém và không phải là một lựa chọn tốt. Đại tu và thay thế nhiên liệu hạt nhân cho tàu sân bay là một quá trình rất tốn kém. Khác với trường hợp trên, Hải quân Mỹ vẫn chưa kí kết hợp đồng đại tu cho tàu George Washington. Vì vậy khả năng “về hưu sớm” của tàu này là rất rõ ràng. Với kế hoạch cắt giảm ngân sách kéo dài tới 10 năm, thời gian ngưng hoạt động của tàu George Washington sẽ bắt đầu từ khoảng năm 2016 tới 2021. Nhật Bản đã đề nghị chia sẻ quyền sử dụng xưởng đóng tàu Yokosuka với Mỹ để làm “nhà dưỡng lão” cho tàu George Washington. Đây là một xưởng đóng tàu rất nổi tiếng về tay nghề bảo dưỡng tàu biển.
-
Không phải tác giả này mà rất nhiều tác giả Trung quốc khác đã có những cách nhìn khác về Khổng Minh và chuyện Tam quốc diễn nghĩa từ lâu. Tuy vậy VL cũng cảm thấy tác giả này có đôi chút làm tiền và tạo xì căng đan. Khổng Minh và Lưu Bị, Tào Tháo, Quan Vũ,...các nhân vật trong chuyện Tam quốc đã được ngòi bút điêu luyện của La Quán Trung đưa họ trở thành nổi tiếng. Đây là tác phẩm văn học dựa trên cốt truyện có thật đã được hư cấu. Tài năng văn học của La Quán Trung đạt tột đỉnh với tác phẩm để đời này và do đó góp phần làm cho các nhân vật trong chuyện như thần, như thánh. Ngay như Quan Công tới tận đời nhà Thanh vẫn chưa nổi tiếng. Tuy nhiên từ đời này trở đi có một vị vua Mãn Thanh (Khang Hy hoặc Ung Chính, VL ko nhớ chính xác tên vua) đã hết sức ái mộ Quan Vân Trường và tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa đã ra lệnh xây đền thờ Quan Vũ khắp cả nước. Không chỉ vậy ông ta còn phong Quan Vân Trường các chức tước như ...Đại đế, thượng đẳng thần...Chính nhờ việc này mà đền thờ Quan Vũ đã xuất hiện kể từ thời gian này. Cùng với đó là những chức tước và độ nổi tiếng của Tam quốc diễn nghĩa càng bay xa hơn bao giờ hết. Nhìn thêm vào bối cảnh xã hội của La Quán Trung lúc đó. Lúc đó Trung quốc có văn hóa hồng lầu trà. Các văn sĩ, trí thức dành thời gian tán chuyện ở các tửu lầu rất đông và đủ các loại chuyện to nhỏ, văn chương được đem ra bàn luận. Đây là môi trường để La Quán Trung cóp nhặt và phát triển hoàn thiện tác phẩm của mình. Hơn nữa chúng ta cũng biết rằng văn hóa Trung quốc có tư duy mà VL tạm gọi là tư duy điển cố. Tức là cùng một sự việc nhưng người Hàn Quốc hay người Việt chúng ta có thể coi đó là câu chuyện hay và có thể quên nhưng với Trung quốc thì sẽ đưa lên thành một tích truyện. Trong văn hóa Trung quốc chúng ta có thể tìm thấy vô số những điển tích, điển cố mẫu mực về văn chương, thi cơ, hội họa, những câu chuyện cảm động.v.v...(VD: Nhị thập tứ hiếu, Bảy lần bắt Mạch Hoạch, Ba lần vào ra Trung Nam Hải của Đặng Tiểu Bình, Ba lần đánh Bạch Cốt Tinh...)Thật ra các dân tộc khác họ cũng có rất nhiều nhưng ở Trung quốc thì chúng được đưa lên thành những hình mẫu. Vì vậy càng có điều kiện để lưu truyền đến mai sau. Điều này vô tình làm cho nhiều người cho rằng văn hóa Trung quốc rất đặc sắc bởi vì có nhiều cái để nói, để nhớ khi đề cập đến nó. Đây là sự khác biệt lớn giữa văn hóa Việt mà văn hóa Tàu khi trong văn hóa Việt những câu chuyện như vậy sẽ như mạch nước ngầm chảy trong dân gian không ồn ào, không khoa trương. Những đặc điểm trên của xã hội Trung quốc càng góp phần ra đời một Tam quốc diễn nghĩa nổi tiếng. Có thể Khổng Minh cũng là người kỳ tài nhưng dù sao thì đó cũng là trong một tác phẩm văn học. Thật vậy nhìn vào lịch sử Trung quốc không có mấy tướng tài và rất hiếm anh hùng giữ nước.
-
Ủa. Đơn giản mà anh. Các link đưa ra đều bị die hết, không thể download.. Anh thử kích vào các link xem. Cũng may là link ở Box.net của em vẫn hoạt động.