banmai

Hội viên
  • Số nội dung

    74
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by banmai

  1. nguồn http://www.chuavanphat.org/ Kinh Lăng Nghiêm Là Kinh Ngụy Tạo Chăng? Kinh Lăng Nghiêm: Ðại Biểu Của Chánh Pháp Khai tuệ có Lăng Nghiêm Trung Thiên Trúc Sa Môn Bát Lặc Mật Ðế dịch Thấm Nhuần Nghĩa Lý Kinh Ðiển Kinh Lăng Nghiêm Tuyệt Ðối Là Bộ Chơn Kinh Trì Chú Trước Tiên Phải Chánh Tâm Thành Ý Quy Mạng Chú Lăng Nghiêm Trên Ðảnh Phật Nâng Cao Tiêu Chuẩn Hàng Tăng Sĩ, Tích Cực Xiển Dương Kinh Lăng Nghiêm Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh Chân Thật, Bất Hư Năm Mươi Thứ Ấm Ma Trong Kinh Lăng Nghiêm Lăng Nghiêm Ðại Ðịnh Chúng Sanh Biệt Nghiệp Vọng Kiến Và Ðồng Phận Vọng Kiến Chương Ðại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông
  2. QUY MẠNG CHÚ LĂNG NGHIÊM QUANG MINH TRÊN ÐẢNH PHẬT "Ngã kim quy mạng Ðại Phật Ðảnh, Vô tận Pháp tạng trí huệ quang. Nguyện ngã minh liễu diệu Tổng Trì, Phụng hành Như Lai sở thuyết " "Ngã kim quy mạng Ðại Phật Ðảnh": Ðó là lời của các vị Hộ Pháp, rằng các vị ấy quy mệnh Ðại Phật Ðảnh Thủ Lăng Nghiêm Thần Chú. "Vô tận Pháp tạng trí huệ quang": Ðại Phật Ðảnh là đảnh đầu của Phật và là kho Pháp tạng vô tận. Nếu đuợc kho Pháp tạng ấy thì dùng không bao giờ hết cả. Pháp tạng vô tận này tại nơi tự tánh của mình mà xuất hiện chứ không phải từ bên ngoài vào. Nhưng tại sao ngay bây giờ không xuất hiện? Pháp tạng cũng giống như những con trùng ngủ vùi trong mùa đông, chờ khi xuân tới nắng ấm thì chúng bắt đầu hoạt động trở lại. Khi nào thân của người tu hành phát nhiệt thì con trùng tự tánh sẽ hồi sinh, đồng thời tất cả những loại vi khuẩn khác đều chết (vi khuẩn đây tức là phiền não). Như vậy không phải là sát sanh sao? Nếu các vị cho rằng đây là sát sanh, thì có thể không cần tu hành! Không ai bắt buộc các vị cả; các vị có thể hoàn tục, có thể làm như người tại gia với đầy dẫy phiền não, chướng ngại, tranh giành, vô minh, ganh tị. Nhưng nếu muốn tu thì phải cải biến những thứ vi khuẩn đó và khôi phục lại Phật tánh của mình. Khi chưa thành Phật thì trong thân mình có đến 84.000 loại trùng ăn thịt của mình, uống máu của mình, trú ngụ nơi thân của mình. Chúng xúi giục mình đừng giữ giới luật, bắt mình làm chuyện điên đảo. Bởi bị chúng chi phối nên mình mới làm đủ chuyện xấu xa. Nếu mình nói rằng: "Ôi! Ðó là tại chúng nó làm, không phải tôi làm." Như vậy thử hỏi tại sao mình lại giúp cho chúng? Nghĩa là đói một chút thì chịu không nổi, khát một chút thì cũng không xong, ngủ không đủ thì cũng không đành; tại sao mình phải trợ giúp những thứ vi trùng đó? Trợ giúp chúng thì tự tánh chẳng thể hiển lộ được! Vậy những thứ vi trùng đó rốt ráo là gì? Tức là trùng ngu si, làm cho thân mình chỗ này không dễ chịu, chỗ kia không yên ổn; toàn thân thật phiền hà! Có lúc thì chúng làm cho mình bịnh này, lúc thì làm mình bịnh khác. Những thứ vi trùng ngu si này khiến mình không đủ áo mặc thì không được, cơm không đủ ăn cũng không xong, rốt cuộc cứ phải vật lộn với chính mình. Vô tận Pháp tạng thì ở nơi Ðại Phật Ðảnh mà phát sinh. Trí huệ quang này không giống như những thứ hào quang khác mà là hào quang của Phật. Tại sao Phật lại có hào quang? Bởi vì Phật không muốn có vi trùng ngu si tăm tối, cho nên mới dùng trí huệ để chiếu sáng mọi vật, quét tan vô minh. Khi vô minh bị quét sạch thì Pháp tánh tự nhiên hiển hiện, do đó Trí huệ quang tức là Phật quang vậy! "Nguyện ngã minh liễu diệu Tổng Trì" : Tại sao cung kính Ðại Phật Ðảnh Trí Huệ Quang? Tại sao phải cung phụng Ðại Phật Ðảnh Trí Huệ Quang? Bởi vì mình muốn hiểu rõ Chú Ðại Tổng Trì, cũng là Ðà La Ni Lăng Nghiêm. Chú Ðại Bi còn gọi là Ðại Bi Ðà La Ni. Ðà La Ni là tiếng Phạn Dharani, dịch là Tổng Trì. "Tổng" nghĩa là bao nhiếp tất cả các pháp, "trì" nghĩa là giữ gìn vô lượng ý nghĩa. Tất cả các pháp đều được tổng nhiếp vào chú này, tất cả các pháp đều khởi nguyên từ chú này. Các vị hãy nhìn lá cờ của Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, mỗi một màu hồng trên lá cờ là biểu hiện cho Trí huệ quang. Ánh sáng này từ nơi "một" mà phát xuất ra, cho nên nói rằng: "Nhất bổn tán vi vạn thù, Vạn thù hoàn quy nhất bổn." Nghiã là: Từ "một" mà phân thành vạn thứ, Từ vạn thứ lại trở về "một." Hào quang từ một điểm mà phóng ra vạn phương rồi từ vạn phương mà thâu về một điểm. Vì vậy, tại Vạn Phật Thành không phải chỉ có "một" mà là tất cả hào quang của chư Phật đều từ đây phóng xuất quang minh, rồi quang minh đó trở về làm "một" mà chẳng xâm phạm hay chướng ngại những hào quang khác. "Phụng hành Như Lai sở thuyết nghĩa": là khi đã hiểu ý nghĩa của thần chú này thì phải theo đạo lý của chú đó mà cung kính thực hành.
  3. TRÌ CHÚ TRƯỚC TIÊN PHẢI CHÁNH TÂM THÀNH Ý (Vạn Phật Thành ngày 25 tháng 1 năm 1981) "Tụng trì, mặc niệm, thiểu ý ngôn, Thị giáo lợi hỷ hóa đại thiên. Sở tác chư pháp tất cứu cánh, Bất tăng bất giảm đáo Niết Bàn." Dịch là: "Tụng trì, thầm niệm, ít nói năng, Dạy dỗ, lợi vui, khắp nơi nơi. Mọi việc làm ra đều cứu cánh, Không tăng, không giảm, tới Niết Bàn." Học Chú thì trước tiên cần phải chánh tâm, thành ý; tâm không chánh thì học chú gì cũng thành tà. Tâm chánh, học Chú mới có cảm ứng. Chánh tâm cũng chưa đủ, cần phải thành ý. "Thành" tức là lúc nào mình cũng hết sức chuyên chú, chuyên tâm, không xao lãng, không làm những chuyện cẩu thả, tắc trách. Ðược vậy thì mới có cảm ứng. Nếu không "chánh tâm, thành ý," nếu trong lòng đầy dẫy tư tưởng sai lầm, làm hại kẻ khác, tức là mình làm chuyện của ma. Pháp của ma vương là hại người, không lợi ích cho ai cả. Nếu thật sự muốn tu hành thì trong bất cứ trường hợp nào cũng không được làm hại kẻ khác. Phải nuôi tâm làm lợi chúng sinh; không được học Chú để hàng phục ma quỷ hoặc đi đấu với người khác. Người theo Phật Giáo không có kẻ thù, không tìm người để trả thù. Ðối với kẻ cố ý hại mình, mình phải nhẫn nại, tu hạnh Nhẫn Nhục Ba-la-mật; không sinh tâm báo thù. Ðó là chỗ cao siêu, là ưu điểm của Phật Giáo mà các tôn giáo khác thiếu sót. Tuy Cơ Ðốc Giáo có nói rằng "ái địch" (thương kẻ địch), nhưng đó chỉ là trên phương diện ngôn ngữ, thực sự họ có thể hiện được trong hành động không? Họ luôn luôn xem người Phật Giáo như kẻ địch, họ có thương yêu những người Phật Giáo không? Chắc chắn là không, vì họ gọi người Phật Giáo là nghịch đồ, là ma quỷ! Tôn chỉ hết sức trọng yếu của Phật Giáo là: Nếu bạn là ma quỷ thì tôi tuyệt đối không làm tổn hại bạn, không sinh lòng đối kháng, mà ngược lại, sẽ tìm cách để nhiếp thọ bạn. Ðây là giáo nghĩa đặc biệt nhất của đạo Phật. Ðối với chúng sinh luôn phát tâm từ bi, không làm hại kẻ khác. Chú Lăng Nghiêm là chú kinh thiên động địa, khiến quỷ thần phải run sợ, là linh văn hết sức hiệu nghiệm. Học Chú Lăng Nghiêm rồi thì phải luôn luôn phát tâm từ bi, cử tâm động niệm không được làm hại người khác. Nếu ai đối với mình không tốt cũng đừng khó chịu, đừng oán ghét. Tâm mình cần phải rộng lớn như ba ngàn thế giới vậy, vạn vật đều có thể chứa gọn trong tâm mình; đó chính là bản sắc của người Phật tử vậy! "Tụng trì, mặc niệm, thiểu ý ngôn." Câu chú "Yin two na" (Nhân đa la) dịch nghĩa là tụng trì, hoặc là mặc niệm, hoặc thiểu ý ngôn; tức là mình không cần nói nhiều, cũng không vọng tưởng nhiều, chuyên tâm thì linh, tán loạn thì không cảm ứng. Thế nào là chuyên nhất? Tức là luôn luôn đừng sinh tâm làm hại chúng sinh. Nếu có tâm làm hại kẻ khác thì tương lai sẽ gặp chuyện hết sức nguy hiểm; bởi vì: "Ða hành bất nghĩa tất tự tệ." (Nếu luôn làm chuyện bất nghĩa, thì mình sẽ tự tiêu diệt mình.) Mình hại kẻ khác tức là mình đã hại chính mình. Mình giết cha người, thì có kẻ chắc chắc sẽ giết cha mình; mình giết anh người thì sẽ có kẻ giết anh mình; đó là luật nhân quả. Là Phật tử thì cần phải làm lành lánh dữ. Nếu không tạo nhân ác, thì sẽ tránh được quả ác trong tương lai. "Thị giáo lợi hỷ hóa đại thiên." Câu này nói rằng lấy Phật Pháp chỉ dẫn, giáo hóa chúng sinh, làm cho tất cả mọi người đạt được chỗ lợi ích, hoan hỷ. Khi thấy có chuyện gì lợi ích cho người khác thì mình làm ngay: "Tài bồi tâm thượng địa, Trưởng dưỡng tánh trung thiên." Dịch là: "Vun bồi miếng đất tâm linh, Nuôi lớn bầu trời bản tánh." Thường giúp kẻ khác thì lâu ngày tự nhiên sẽ có đức hạnh. Không phải chỉ kêu gọi người khác làm lợi ích cho mình, mà tự mình không làm lợi ích kẻ khác. Kẻ nuôi dưỡng tánh ỷ lại và chỉ muốn tận hưởng tiện nghi là kẻ không có khí phách. Hãy xem trên đời này, những kẻ chuyên đi tìm tiện nghi cho mình kết quả đều thất bại; nếu các vị không tin thì hãy nghiên cứu cho kỹ lưỡng. Bất luận là ai, với lòng tham không đáy, chuyên đi tìm tiện nghi cho chính mình thì kết quả đều không tốt. Nếu mình đem lại lợi ích cho người khác, làm cho mọi người hoan hỷ, thì đi tới đâu ai ai cũng kính phục mình. Khổng Tử nói rằng: "Ngôn tất trung tín, Hành tất đốc kính, Tuy man mạch chi bang, hành hỹ." (Lời nói chân thật, Hành động chắc thật, cung kính, thì dù ở nơi nguy hiểm cũng vẫn được an toàn.) Một lời nói ra thì phải thành thật, không được gian trá, lừa dối kẻ khác. Hành vi thì phải hết sức thành thực, trung hậu, khiêm nhường, cung cẩn. Bất cứ làm việc gì cũng có lòng "khiêm cung hòa kiết"; không được cống cao ngã mạn, coi mình như ông trời, không ai sánh bằng. Như vậy thì không thể chấp nhận được!
  4. CHÚNG SINH BIỆT NGHIỆP VỌNG KIẾN, VÀ ÐỒNG PHẬN VỌNG KIẾN Trong Kinh Lăng Nghiêm có một đoạn thảo luận về hai thứ điên đảo vọng kiến. Thế nào là hai thứ điên đảo vọng kiến? Thứ nhất gọi là Chúng Sinh Biệt Nghiệp Vọng Kiến, tức là do mình đơn độc tạo nghiệp không giống với tất cả những người khác, tự mình kiến giải hành vi không giống kẻ khác, trong mọi trường hợp thì mình hoàn toàn đều khác.Thí dụ cho mình là người giỏi nhất, hại người lợi mình, thích những điều xa vời hão huyền hoặc làm những việc mà không có người nào dám làm. Ðó là tạo nghiệp, mà tự mình tạo thì mình thọ, so với người khác không giống nhau. Loại thứ hai gọi là Chúng Sinh Ðồng Phận Vọng Kiến, tức là do chúng sinh cộng nghiệp tạo thành, mình cùng với tất cả những người khác thì đều giống nhau; cũng như thiên tai làm chết hàng ngàn vạn người thì đó gọi là cộng nghiệp, là một số người cùng chịu chung. Những người đó cùng tạo điều ác nên cùng thọ quả báo giống nhau. Chữ "kiến" ở đây có nghĩa là kiến giải, bởi vì lấy si mê của chúng sinh làm của mình, nhận tên trộm làm con mình, cho nên sinh ra đủ thứ chấp trước vọng tưởng. Do vọng tưởng mà sinh ra mê hoặc, do mê hoặc mà tạo ra vô số ác nghiệp, bởi vậy cho nên cùng nhau thọ quả ác. Bây giờ tôi xin kể một chuyện thật về Cộng nghiệp như sau: Năm Dân Quốc thứ 33 (1944), ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, hoàn toàn không có mưa cả một năm trời, đất đai khô cằn mà còn bị thêm nạn châu chấu. Những con châu chấu này mỗi lần bay tới thì đầy cả bầu trời. Tất cả nông sản đều bị chúng ăn hết, thậm chí một ngọn cỏ một chiếc lá cũng không mọc lên nổi. Lúc bấy giờ có một đứa trẻ nhìn thấy trên trời có một ông già đeo cái túi, từ sáng đến chiều luôn tay vứt xuống những con châu chấu từ trong túi ấy bay khắp bầu trời.Dân ở đó vì quá đói nên giăng lưới bắt châu chấu về ăn cho đỡ đói. Họ nghĩ rằng châu chấu cũng là một nông sản nên không có chất độc. Ngờ đâu khi những con châu chấu này bị nấu chín rồi thì biến thành phân, thành đất bùn, ăn không được, không ai dám ăn cả. Vì đói quá nên dân chúng chỉ còn có cách là dời đến nơi khác. Từ tỉnh Hà Nam đến Trường An cách xa tám trăm dặm, trong khoảng đường có người chết không biết bao nhiêu mà kể; những người này chết một cách khủng khiếp, ai nấy nhìn thấy cũng khiếp sợ. Ðây có thể nói là một ví dụ do "cộng nghiệp" mà chiêu cảm lấy quả báo. Bây giờ nói tới Biệt Nghiệp Vọng Kiến và Ðồng Phận Vọng Kiến. Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật có giải thích rất rõ ràng.Thế nào là Biệt Nghiệp Vọng Kiến? Cũng như trong thế giới này, có những người mắt bị nhặm thì thấy trước mắt toàn một màu đỏ, ban đêm khi nhìn ánh đèn lại thấy xung quanh đèn có những vòng ánh sáng đủ màu. Bởi mắt có bịnh nên mới thấy những huyễn ảnh như vậy, thấy đủ năm màu tạp sắc trùng trùng điệp điệp. Con mắt bịnh này tượng trưng cho vô minh, ban đêm tượng trưng cho si mê, ánh đèn tượng trưng cho tạng tánh, tức là bổn tánh của mình, năm màu sắc tượng trưng cho Ngũ Uẩn hay Ngũ Ấm, là những trần cảnh giả tạo. Vì do chúng sinh có vọng kiến nên mới có huyễn ảnh ở ngoại cảnh; nếu vọng kiến mà trừ rồi thì bịnh không còn nữa, ánh sáng huyễn ảnh đó làm sao mà có được? Con mắt tốt tượng trưng cho trí huệ chân thật, còn bóng đèn tượng trưng cho chân lý. Dùng trí huệ chân thật mà thấy được chân lý, thì Nhất Chân Pháp Giới hoàn toàn không có Ngũ ấm, Ngũ Trần gì cả. Cũng như có người mắt mình vốn không có bịnh nhưng tự mình lại làm cho có bịnh. Giống như một anh chàng hút thuốc phiện vậy, có lần anh ta cười lớn trong khi anh ta đang đứng trước một bức tường. -Tôi hỏi: "Tại sao anh cười?" -Anh ta trả lời: "Thật là kỳ quái! Bức tường này thật đẹp, nó có đủ năm màu ánh sáng chiếu rọi bốn phía." Ðó chỉ là do huyễn ảnh mà ra, không có bịnh mà hút thuốc phiện thì tâm thần trở nên điên đảo. Những huyễn ảnh đó vốn là giả lại cho là thật, nên thân ở trong mê mà chẳng biết mình mê! Trên đây đã lược giải Biệt Nghiệp Vọng Kiến. Tiếp theo, trong Kinh lại giải thích thế nào là Ðồng Phận Vọng Kiến. Thí dụ như trong Diêm Phù Ðề có một châu nhỏ, chỉ có hai nước mà quả báo chiêu cảm không giống nhau. Dân chúng của một nước thì thọ cảm ác duyên, toàn gặp những tai nạn bất tường; còn dân ở nước lân cận thì chẳng bị gì cả. Ðó là do vọng hoặc, vọng nghiệp, vọng kiến mà tạo thành. Như hiện tại ở Mỹ, miền Ðông thường có tai họa bão lụt làm chết nhiều người, nhưng miền Tây Nam thì hoàn toàn vô sự. Ðó là vì nghiệp cảm chỉ tại miền Ðông mà thôi, không có tại miền Tây Nam vậy.Hoặc có kẻ thấy hai mặt trời hay hai mặt trăng thì đều là những điềm bất tường; người xưa nói: "Thiên vô nhị nhật, Dân vô nhị quân." (Trên, không có hai mặt trời; Nước, không có hai vua.) Ở Trung Hoa, về đời nhà Hạ, vua Kiệt là người bạo ngược, trên không trung bỗng nhiên hiện ra hai mặt trời, nhà Hạ nhân đó mà diệt vong. Ðó là điềm hung dữ được báo trước.Ngoài ra còn có những điềm gọi là Vựng, Thích, Bội, Quyết. Những ác khí bao quanh mặt trăng làm mờ mặt trăng thì gọi là Vựng; khí đen che lấp mặt trăng gọi là Thích; khí trắng ở bên cạnh mặt trăng gọi là Bội, mà che đi một nửa thì gọi là Quyết. Ðó là những điềm xấu thuộc về mặt trăng. Lịch sử Trung Hoa có chép rằng khi mặt trăng bị che lấp bảy lần thì Hán Cao Tổ ở Bành Thành bị giặc Hung Nô vây khốn.Ngôi sao có ánh sáng dài sau đuôi gọi là Tuệ, tức là sao chổi; hào quang ngắn hơn quét đi bốn phía thì gọi là Bột Tinh; ở trên không trung xẹt xuống gọi là Phi Tinh; ở dưới mà vọt lên gọi là Lưu Tinh; đó đều là những điềm xấu thuộc về các ngôi sao. Sách Xuân Thu có chép rằng vua Tống Nhượng Công không có nhân nghĩa nên sao xẹt xuống như mưa, vua Tần Thủy Hoàng hết sức bạo ngược thì sao chổi xuất hiện; đó cũng là những điềm không lành.Ác khí ở phía trên mặt trời gọi là Phụ, ở bên cạnh mặt trời gọi là Nhĩ. Sau khi trời mưa mà xuất hiện cầu vồng thì gọi là Hồng Nghê, buổi sáng gọi là Hồng, buổi chiều gọi là Nghê; đó đều là những điềm xấu của mặt trời. Tóm lại, bên cạnh mặt trời, mặt trăng có hiện ra những khí đó đều là những điềm báo trước sự bất tường. Ở nước Trung Hoa, mỗi khi một triều đại thay đổi thì đều có những điềm bất tường xảy ra. Có lần, một vị Hoàng Ðế thấy điềm bất tường nơi một ngôi sao, liền triệu quan Thiên Văn đến để hỏi sẽ xảy ra điềm tốt hay xấu. -Vị Khâm Thiên Giám tâu rằng: "Ðây là điềm hết sức bất tường, Bệ Hạ có thể sẽ tử vong, nhưng thần có cách làm cho vị Tể Tướng chịu điều hung dữ ấy thay cho Bệ Hạ, Bệ Hạ có bằng lòng không?" -Nhà vua trả lời: "Tể Tướng lo liệu quốc gia đại sự thì làm sao có thể chết thay cho ta được." -Viên quan lại hỏi: "Có thể chuyển tai họa đến nhân dân chăng?" -"Dân là gốc của nước, ta vì dân mà làm, có thể nào để dân chết thay cho ta được." -"Nếu vậy thì chuyển tai họa này đến mùa màng được chăng?" -"Mùa màng mà mất thì dân sẽ chết đói, đó là chuyện ta không thể làm được!" Quan Khâm Thiên Giám nghe xong liền sụp lạy mà tâu rằng: "Hoàng Thượng đúng là bậc minh quân có lòng nhân từ, thì nhất định sẽ chuyển được điều hung dữ thành điều kiết tường; Hoàng Thượng nhất định không thể chết được!" Quả nhiên, ngày hôm sau điềm xấu trên trời biến mất, không còn thấy nữa. Việc đó chứng minh rằng không có chuyện gì là cố định, chỉ do tâm mình mà chuyển biến thôi. Nếu tâm thiện thì có thể chuyển điều xấu thành điều tốt; cho nên Lão Tử nói rằng: "Hồi tâm thú thiện, Thiện tuy vị vi nhi Thiện Thần tùy chi. Hồi tâm hướng ác, Ác tuy vị vi nhi Ác Thần tùy chi." Dịch là: "Quay tâm hướng thiện, Ðiều thiện tuy chưa làm mà Thiện Thần đã theo sát. Chuyển tâm về ác, Ðiều ác tuy chưa làm mà Ác thần đã kề bên." Thần thì có thiện có ác; Thiện thần thì bảo hộ thiện nhân, Ác thần thì trừng phạt kẻ ác, cho nên nói rằng: "Họa, phước vô môn, Duy nhân tự chiêu." (Họa, phước không cửa vào, Chỉ do mình tự chuốc lấy.)Nếu trong tâm mình không làm điều ác thì điều bất tường (không lành) không thể phát sinh.
  5. KINH LĂNG NGHIÊM TUYỆT ÐỐI LÀ BỘ CHƠN KINH Hôm nay là ngày 17 tháng 12 năm 1976 (ngày vía Ðức A Di Ðà), tôi đối trước mười phương chư Phật phát nguyện như sau. Nguyện gì? Nguyện này có liên hệ đến vấn đề Kinh Lăng Nghiêm là thật hay giả. Gần đây có rất nhiều học giả phê bình Kinh Lăng Nghiêm, cho rằng bộ Kinh này không phải do chính Ðức Phật Thích Ca nói ra, mà là do người đời sau ngụy tạo. Ðó là lối tuyên truyền phá hoại, làm cho rất nhiều tín đồ không muốn thâm giải Phật Pháp, sinh lòng phỉ báng hoài nghi. Nhiều người nghe nói thì nói theo, nhưng lại không biết chân giả thế nào, đó là điều rất đáng thương! Hôm nay, tôi đối trước mọi người mà bảo chứng rằng Kinh Lăng Nghiêm là bộ kinh chân thật; không những Kinh Lăng Nghiêm mà Chú Lăng Nghiêm cũng chân thật! Kinh Lăng Nghiêm là chân thân của Phật, là xá lợi của Phật, không ai có thể phá hoại được! Có Kinh Lăng Nghiêm thì có Chánh Pháp, không có Kinh Lăng Nghiêm thì không có Chánh Pháp! Nếu như Kinh Lăng Nghiêm là giả thì tôi nguyện sẽ bị cắt lưỡi, và đọa Vô Gián địa ngục. Tôi hy vọng các vị từ đây về sau phải có Trạch Pháp Nhãn, đừng nghe theo lời của các vị tiến sĩ hay học giả nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm mà cho rằng bộ Kinh này là ngụy tạo! Các vị đừng để bị dao động, mà trái lại, cần phải có Ðịnh lực để chuyển hóa sự sai lầm đó!Vì sao những kẻ đó lại cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo? Là vì họ đã mê lầm đến cực điểm, không muốn cho Chánh Pháp trụ thế, không muốn người khác tu hành, cho nên cố ý phá hoại! Trong Kinh Lăng Nghiêm có dạy rằng: "Dâm tâm bất trừ, Trần bất khả xuất." Nghiã là: "Lòng dâm không dứt, Trần gian chẳng thoát." Chỉ hai câu này thôi cũng đủ chứng minh bộ Kinh này hàm chứa diệu lý chơn thật, xác quyết của chư Phật nói ra: "Nếu không trừ được lòng dâm dục, thì không thể ra khỏi được Tam Giới. "(2) Cũng có thể nói rằng: Nếu không đoạn dục, khứ ái, thì căn bản không thể nào chứng quả được! Trong Kinh Lăng Nghiêm còn dạy rằng: "Nhược bất đoạn dâm, Tu Thiền Ðịnh giả, Như chưng sa thạch, Dục kỳ thành phạn, Vô hữu thị xứ." Nghiã là: "Không dứt lòng dâm, Mà tu Thiền Ðịnh, Cũng như nấu cát, Rồi mong thành cơm, Thật chẳng thể được." Do đó, quán chiếu thì biết rằng Chánh Pháp Nhãn Tạng là ở đây! Phàm là người Phật tử chân chính thì nhất định phải ủng hộ, nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm và tụng trì Chú Lăng Nghiêm, bởi vì Chú này có năng lực không thể nghĩ bàn; đó là kinh nghiệm của chính bản thân tôi. Tôi lại phát nguyện đặc biệt nhấn mạnh rằng bộ Kinh Lăng Nghiêm là thật chứ không phải giả. Nếu tôi có sai lầm thì nguyện sẽ đọa địa ngục và bị cắt lưỡi! Hy vọng các vị nhận thức rõ ràng vấn đề này, tự mình phải có chánh kiến, đừng cô phụ lòng tôi.
  6. Thấm Nhuần Nghĩa Lý Kinh Ðiển Muốn nghiên cứu Phật Pháp thì cần phải hiểu rõ nghĩa lý trong kinh. Mỗi bộ kinh do Ðức Phật thuyết giảng đều bao hàm một nghĩa lý chân chánh riêng biệt; tuy nhiên, tất cả kinh điển đều có quan hệ liên đới với nhau và nghĩa lý cũng có tính cách liên đới. Ðức Phật viện dẫn Tiểu Thừa, Ðại Thừa, rồi cuối cùng quy nạp về một thừa duy nhất là Phật Thừa. Bất luận là Ðại Thừa, Tiểu Thừa, hay Phật Thừa, thừa nào cũng dạy mọi người sửa đổi thói hư tật xấu, dẹp bỏ vô minh, quét sạch phiền não và dứt trừ tham, sân, si. Nếu các bạn dứt bỏ được mọi thói xấu thì đối với nghĩa lý kinh điển tự nhiên sẽ có sự tương hợp; nếu không dứt bỏ thói xấu thì các bạn sẽ không thể nào thấu triệt được nghĩa lý trong kinh. Chúng ta đang nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm, và hiện đã nghiên cứu xong Ngũ Thập Ấm Ma (Năm Mươi Thứ Ấm Ma) cùng Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối (Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh). Vậy, nghĩa lý chân chánh của bộ kinh này là gì? Tại sao Ðức Phật thuyết bộ kinh này? Các bạn tìm ra đặng thì mới được xem là thật sự hiểu rõ giáo pháp hàm chứa trong kinh; nếu không tìm ra chân-nghĩa thì coi như các bạn vẫn chưa thật sự thông suốt kinh pháp! Chẳng hạn bạn gặp một người nào đó, mặc dù đã biết tên của người ấy nhưng bạn vẫn cần phải "tiến thêm một bước nữa", nhận rõ tướng mạo, tư tưởng, hành vi, v.v... của người ấy; như thế mới là nhận biết người ấy. Nếu bạn chỉ biết danh tánh mà không biết gì về tướng mạo, tư tưởng... của người ta, thì đó vẫn chưa phải là nhận biết. Chúng ta nghiên cứu kinh Phật thì cũng tương tự như vậy! Tướng của Kinh Lăng Nghiêm là "đại nhi vô ngoại, tiểu nhi vô nội." (lớn đến độ không gì có thể vượt ra ngoài nó, nhỏ đến độ không gì nhỏ hơn nó). Nghĩa lý của Kinh Lăng Nghiêm ví như bộ xương người vậy, nếu con người không có xương, chỉ có da, thịt, gân, máu... mà thôi, thì chẳng ra hình dáng con người cũng chẳng thể nào đứng vững được. Cho nên, Kinh Lăng Nghiêm là cốt tủy của các bộ kinh. Kinh Lăng Nghiêm có công dụng "phá tà hiển chánh", phá hủy tất cả tà vạy để hiển lộ Tam-muội chân chánh. Nếu không có Kinh Lăng Nghiêm, thì không có Phật Pháp; có Kinh Lăng Nghiêm, tất có Phật Pháp! Vậy, muốn hộ trì Phật Pháp thì trước hết chúng ta hoằng dương, phổ biến Kinh Lăng Nghiêm, phải học cho thuộc, giảng giải cho được, rồi dựa theo đó mà tu hành. Vạn Phật Thánh Thành chính là "Lăng Nghiêm Ðàn Tràng" đạo tràng của Kinh Lăng Nghiêm. Chúng ta nhất định phải ngời sáng "Lăng Nghiêm Ðại Quang," tu tập "Lăng Nghiêm Ðại Ðịnh," thành tựu "Lăng Nghiêm Ðại Trí" và viên mãn "Lăng Nghiêm Ðại Từ!" (Giảng ngày 01 tháng 5 năm 1983)
  7. Trung Thiên Trúc Sa Môn Bát Lặc Mật Ðế dịch "Trung Thiên Trúc" là một quốc gia tại Ấn Ðộ. Ấn Ðộ phân ra: Ðông, Tây, Nam, Bắc và Trung Ấn. Trong mỗi khu lại có rất nhiều quốc gia. Sa Môn Bát Lặc Mật Ðế là người xứ Trung Thiên Trúc. "Sa Môn," Phạn ngữ dịch ra tiếng Trung Hoa là "Cần Tức," nghĩa là chuyên cần tu giới, định, huệ, dập tắt tham, sân, si. "Cần tu" là không giải đãi, không thối chuyển, thời thời khắc khắc luôn tinh tấn dõng mãnh, cứ hướng về phía trước bước tới, chẳng thối chuyển, không lười biếng. Không lười biếng ở đây chẳng phải là chỉ một ngày không lười biếng mà là bất cứ ngày nào cũng không lười biếng; chẳng phải hôm nay tinh tấn, hôm sau giải đãi. Tinh tấn một ngày, giải đãi mười ngày thì không kể là tinh tấn, phải tinh tấn trọn đời, chuyên cần trì giới trọn đời. Giới là: Không làm điều ác Làm mọi điều thiện Không làm điều ác tức là làm mọi điều lành; nếu có thể làm tất cả mọi điều lành tức là chẳng làm các điều ác. Cho nên trì giới cần tinh nghiêm, "nghiêm tịnh tỳ ni, hoằng phạm tam giới," phải lấy chính mình làm mẩu mực, tự mình nêu gương tốt. Ðó mới là trì giới. Lại nữa phải tu định. Ðịnh là một thứ công phu của thiền định. Thiền định cần tu luyện thường xuyên thì mới sanh định. Do giới mà sanh định. Nếu quý vị muốn có định thì việc trước tiên là phải trì giới. Nếu thiếu trì giới tâm sẽ tán loạn, không thể nào có định được. Không có định, cố nhiên sẽ không sanh tuệ. Cho nên do định mà phát tuệ. Ðó gọi là Tam vô lậu học. Nếu mình cần mẫn tu giới định tuệ thì sẽ siêu xuất tam giới. Diệt được tham sân si thì chẳng bị đọa tam ác đạo. Vì sao từ vô lượng kiếp đến nay mà chúng ta vẫn không thành Phật? Vẫn là chúng sanh? Vẫn đi ra vào mãi trong lục đạo luân hồi? Chỉ vì tham sân si tam độc làm cho chúng ta say đến mức mất hết giác ngộ. Chúng ta bị tham sân si tam độc làm cho mê mê hồ hồ, điên điên đảo đảo khiến cho chúng ta chẳng thể lội ngược dòng sanh tử, chỉ có cách thuận theo dòng lục trần phàm phu. Từ vô lượng kiếp đến nay, chỉ vì tham sân si nó che lấp cái ánh sáng tự tánh của chính mình. Tham, tức là chẳng biết chán. Sân, là do tham mà chẳng được nên nổi sân; chỉ vì tham chẳng biết chán nên khi chẳng được gì cả bèn sanh sân hận. Sanh sân hận rồi, sau đó mới tiến đến cảnh giới ngu si, đi vào con đường ngu si. Sân là ngọn lửa vô minh, vô minh tức là có nóng giận. Một khi lửa vô minh bùng cháy thì theo đó cơn sân bốc lên. Vì sao có vô minh? Chỉ vì tiền kiếp mình tạo tội quá nặng. Do đó, tục ngữ có câu: "Lửa vô minh chẳng khác gì thần hổ, đó là do nghiệp căn từ tiền kiếp." Lửa vô minh là gốc rễ của nghiệp từ tiền kiếp. Thế nào gọi là ngu si? Người ngu si toàn khởi những vọng tưởng ngông cuồng. Thí dụ con ếch muốn ăn thịt con ngỗng, đó là ngu si bởi vì con ếch làm sao mà ăn ngỗng được? Lại nữa, không đi học mà muốn có mảnh bằng tiến sĩ, mạo nhận ta là học giả với phong độ của một tri thức, sống có vẻ như ta là một tiến sĩ. Chẳng đi học gì cả mà muốn có bằng tiến sĩ. Ðó mới là ngu si. Lại có người chẳng hề mua vé số mà muốn trúng độc đắc, không vốn muốn sinh lời, thì đó cũng là hạng người ngu si vậy. Không làm ruộng, nhưng vào mùa thu trông thấy người ta gặt lúa thì cũng muốn có thu hoạch hoa lợi như họ, đó là việc tuyệt đối chẳng thể có được. Cho nên Ông Hồ Ðại Xuyên có làm bài thơ Huyễn Tưởng Thi diễn tả ý nghĩ của người ngu si như sau: Háo hoa thường linh triều triều diễm, Minh nguyệt hà phương dạ dạ viên, Ðại địa hữu tuyền giai hóa tửu, Trường lâm vô thọ bất dao tiền. "Háo hoa thường linh triều triều diễm." Người tham sắc muốn hoa ngày ngày tươi đẹp, chẳng bao giờ tàn. Cho nên họ ao ước hoa luôn tươi thắm, thậm chí muốn vợ mình chẳng bao giờ già, cứ trẻ đẹp mãi. Ðó là ý nghĩ của người tham sắc. Còn người thích du ngoạn thì nghĩ gì? "Minh nguyệt hà phương dạ dạ viên." Vào ngày rằm trăng tròn và sáng, qua rằm thì trăng khuyết một ít và càng ngày càng khuyết nhiều hơn. Người thích thưởng trăng bèn nghĩ rằng: "Nếu đêm nào trăng cũng tròn như thế này thì hay biết mấy!" Người thích uống rượu, vì hiện nay rượu quá đắt, tốn kém nhiều, bèn nghĩ rằng: "Ngày ngày mình uống rượu, phải chi tất cả dòng suối trên mặt đất biến thành rượu, đến nơi nào cũng có rượu uống, chẳng tốn tiền mua rượu mà vẫn có thể say sưa. Như vậy thì hay biết mấy!" Khởi vọng tưởng như thế thì thật là ngu muội. Còn người bị đồng tiền mê hoặc thì sao? Người này cũng khởi vọng tưởng chẳng kém. Hắn nghĩ bụng: "Tiền! Hiện nay mình phải làm lụng vất vả mới kiếm được tiền. Ước gì tất cả cây trong rừng đều biến thành tiền, chỉ đến lắc nhẹ là tiền rơi xuống tha hồ tiêu xài. Cây ở hai bên lề đường cũng thế. Quả là tốt lắm ư!" Quý Phật tử nghĩ xem, trên đây là những thí dụ về vọng tưởng ngu si, làm không được mà cũng cố nặn óc nghĩ ra. Như vậy người sa môn thì sao? Người sa môn chẳng có tâm si mê vọng tưởng, nhất tâm tu đạo. Sa Môn có bốn hạng: 1. Thắng Ðạo Sa Môn - Bậc Sa Môn tu đạo chứng quả, gia nhập hàng ngũ Thánh nhân, được gọi là "thắng đạo sa môn." 2. Thuyết Ðạo Sa Môn - Bậc Sa Môn giảng kinh thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh, được gọi là "thuyết đạo sa môn. 3. Hoạt Ðạo Sa Môn - Bậc Sa Môn lấy pháp làm lẽ sống, lấy đạo làm lẽ sống. Trong Phật giáo hàng sa môn này có thể tu đạo lại vừa phát bồ đề tâm. 4. Ô Ðạo Sa Môn - Ô là dơ bẩn. Ðây là hạng Sa Môn chẳng giữ giới luật, chẳng tu giới định huệ, Chẳng đoạn trừ thâm sân si. Tuy cũng được gọi là sa môn, nhưng hàng sa môn này nên sanh tâm hổ thẹn, cần tự vấn lương tâm. "Bát Lặc Mật Ðế," là tên vị dịch giả bằng Phạn ngữ, dịch ra Hán Văn là "Cực Lượng," nghĩa là lượng của Ngài rất lớn, có thể nói: Kiến thức của Ngài bao trùm cả trời đất, tâm của Ngài trong sáng như mặt trời mặt trăng. Lại có thể nói tâm Ngài bao trùm hư không, lượng của Ngài trải khắp thế giới nhiều như cát sông Hằng, cho nên gọi là cực lượng. Vị Sa môn này rất thông minh, có trí tuệ. Ngài mang "Kinh Lăng Nghiêm" truyền sang Trung Quốc. "Kinh Lăng Nghiêm" vốn chẳng dễ gì truyền ra nước ngoài. Lần đầu tiên Ngài có ý định mang bộ Kinh này sang Trung Quốc, nhưng đến cửa ải thì bị tra xét, và chẳng những nhà cầm quyền cấm mang bộ Kinh ra khỏi nước mà chính ngay cả Ngài cũng bị cấm xuất dương. Lần thứ hai, Ngài bèn chép bộ Kinh trên lụa rất mỏng với nét chữ cực nhỏ. Rồi Ngài tự rạch bắp tay đặt kinh vào rồi kéo da phủ kín vết thương, thoa thuốc cao lên, và bằng cách này Ngài đã thành công mang bộ Kinh Lăng Nghiêm ra khỏi nước. Ðối với người Trung Hoa Kinh Lăng Nghiêm rất lợi ích. Ngày xưa có nhiều vị tổ sư xuất gia cũng như cư sĩ, nhờ đọc tụng Kinh Lăng Nghiêm mà khai ngộ. Trong quá khứ, Kinh Lăng Nghiêm đã mang nhiều lợi ích đến cho rất nhiều người. Do đó công tác dịch Kinh Lăng Nghiêm của Ngài đối với chúng ta hiện tại và tương lai sẽ giúp ích rất nhiều. Cho nên những người nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm đều nên biết đến vị Sa-môn dịch giả này. Vị Sa môn này thuộc ba hạng sa môn nói trên và không thuộc vào hạng thứ tư. Ngài đến Trung Quốc vào đời nhà Ðường, Sau khi Võ Tắc Thiên thoái vị. Ngài khởi sự dịch bộ Kinh này vào ngày 23 tháng 5 khi Ngài tới Quảng Châu. Ðối với Phật-pháp và Phật giáo, Kinh Lăng Nghiêm có tác dụng và uy lực rất lớn. Cho nên người nghiên cứu Phật-pháp trước tiên cần hiểu rõ đạo lý trong Kinh Lăng Nghiêm. Ngày nay, chúng ta phải hộ trì bộ Kinh này, đừng để kinh bị mai một. Nếu chúng ta không sinh vào thời điểm này thì chúng ta chẳng có trách nhiệm gì cả. Chúng ta hiện ở trong đời này, vậy bổn phận chúng ta là phải dùng toàn lực và mọi khả năng để hộ trì bộ kinh này. Khảo xét quá trình lịch sử Phật giáo, bộ Kinh Lăng Nghiêm vốn xuất xứ từ Long Cung. Ngài Long Thọ Bồ Tát đã đọc bộ Long Tạng tại Long Cung. Lúc xem đến bộ Kinh này, Ngài dùng trí nhớ của Ngài ghi lại toàn bộ Kinh, do đó trên thế gian mới có bộ Kinh Lăng Nghiêm này. Nước Thiên Trúc xem bộ Kinh Lăng Nghiêm là quốc bảo, cấm truyền ra nước ngoài. Vì người Trung Hoa có nhân duyên lớn với Phật giáo, nên mới được một vị Thắng Ðạo Sa Môn chẳng tiếc thân mạng mang bộ kinh này sang Trung Quốc. Hiện nay ai có thiện duyên xem được bộ Kinh Lăng Nghiêm đều nên đảnh lễ vị Sa môn này. Trí Giả Ðại Sư lúc chưa thấy bộ Kinh Lăng Nghiêm đã từng hướng về nước Ấn Ðộ ở phương tây rập đầu lạy tên bộ Kinh này. Ngài lạy như vậy trong mười tám năm, nhưng rất tiếc Ngài vẫn chưa được trông thấy tận mặt bộ Kinh. Như vậy chúng ta may mắn có thiện duyên hơn Trí Giả Ðại Sư, chẳng cần lễ bái nhiều năm mà đã gặp được Kinh Lăng Nghiêm. Quý vị nghĩ xem, có phải nhân duyên của chúng ta hơn Trí Giả Ðại Sư chăng?
  8. Khai tuệ có Lăng Nghiêm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát Nam Mô Kim Cang Tạng Bồ Tát Nam Mô Ðại Thế Chí Bồ Tát Ðại Phật Ðảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh, bảy chữ này là tựa đề của kinh. Ðại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương là tựa đề của một chương trong bộ kinh ấy. Hôm nay vì thời gian có hạn cho nên tôi không giải thích tựa Kinh Lăng Nghiêm. Chỉ đơn thuần giải thích tựa kinh cũng đòi hỏi rất nhiều thời giờ, vì vậy tôi chỉ giảng sơ lược mà thôi. Bộ Kinh Lăng Nghiêm này gồm có Chú Lăng Nghiêm. Hai chữ "Lăng Nghiêm" có nghĩa là "Cứu cánh kiên cố." Tại Trung Quốc bộ kinh này có tầm quan trọng đặc biệt, nên có câu: Thành Phật có Pháp Hoa Khai tuệ có Lăng Nghiêm Tôi rất hoan hỷ giảng Kinh Lăng Nghiêm và Kinh Pháp Hoa, vì hai bộ kinh này giúp khai mở trí tuệ và giúp thành Phật. Chẳng những tôi hoan hỷ mà còn mong muốn mỗi Phật tử đều nghiên cứu để am tường đạo lý trong Kinh, đặc biệt là Kinh Lăng Nghiêm. Nói đến Kinh Lăng Nghiêm, tôi nhớ tại Trung Qưốc có một vị Trí Giả Ðại Sư bình sanh chỉ nghe tên bộ Kinh này là liền ao ước được trì tụng. Hằng ngày, Ngài hướng về Ấn Ðộ rập đầu lễ bái, hy vọng có thể thấy tận mắt bộ kinh này. Ngài lễ bái suốt mười tám năm mà vẫn chưa thấy được bộ kinh. Trí tuệ của Trí Giả Ðại Sư rất vượt bực, và biện tài của Ngài rất là vô ngại, nhưng Ngài vẫn hết sức thành kính lễ bái bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Như vậy đủ chứng tỏ tầm quan trọng của bộ Kinh này. Kinh Lăng Nghiêm còn lưu hành trên thế gian, thì thiên ma ngoại đạo đều không dám xuất hiện. Bất hạnh thay, vào thời Mạt-pháp Kinh Lăng Nghiêm sẽ là bộ kinh bị mất trước tiên. Một khi bộ Kinh Lăng Nghiêm này không còn trên thế gian nữa, thiên ma ngoại đạo sẽ mặc sức lộng hành. Thậm chí hiện nay có một số người tự xưng là chuyên gia về Phật học mạo nhận là học giả từng nghiên cứu Phật-pháp, hoặc là giáo sư khoa học Phật học của một trường đại học nào đó, và công nhiên đề xướng rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả, do người Trung Quốc ngụy tạo. Quý vị hãy nghĩ xem tuy rằng có rất nhiều thánh nhơn xuất hiện ở Trung Quốc nhưng tôi tin chắc rằng sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được vị thánh nhân đã tạo ra Kinh Lăng Nghiêm đó. Cho nên tôi tuyệt đối tin rằng bộ Kinh Lăng Nghiêm này là thật, là chính xác, và là một bộ kinh khả dĩ hàng phục thiên ma, chế ngự ngoại đạo. Vì trong Chú Lăng Nghiêm toàn là những câu thần chú dùng để hàng phục thiên ma, chế ngự ngoại đạo. Từ câu chú đầu tiên đến câu chú cuối cùng, mỗi câu đều có một sự diệu dụng và uy lực bất khả tư nghì của nó. Cho nên, Phật vì Chú Lăng Nghiêm mà thuyết Kinh Lăng Nghiêm. Trước kia, tại Hương Cảng, có người đã phiên dịch Kinh Lăng Nghiêm ra Anh văn, nhưng lại xén bỏ đoạn Kinh văn về nghi quy thiết lập "Lăng Nghiêm Ðàn," ngay cả Chú Lăng Nghiêm cũng bị loại bỏ. Vị dịch giả ấy nói rằng người Tây phương chẳng ai tin Chú Lăng Nghiêm và cũng chẳng ai tụng Chú này, bởi họ cho rằng Chú là những gì mê tín và không tin ở công dụng của Chú. Cho nên trong bản dịch Anh ngữ ấy không có đoạn nói về cách "thiết đàn" và cách tu trì "Lăng Nghiêm Ðại Pháp." Từ khi tôi đến các quốc gia Tây phương, nhất là qua kinh nghiệm bản thân ở Mỹ, tôi nhận thấy rất nhiều người Tây phương thích trì tụng Chú Lăng Nghiêm, và chẳng những hoan hỷ trì tụng mà còn học thuộc lòng nữa. Tại Kim Sơn Thánh Tự tôi có một đệ tử vào hai thời công phu sáng tối đều cùng chúng tôi trì tụng Chú Lăng Nghiêm và chỉ tụng mỗi ngày hai thời như thế mà trong hai mươi sáu ngày là y đã thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm! Tại Mỹ Quốc môn học tôi đưa ra khảo hạch trước tiên là khi học thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm; ai trả bài thông suốt thì đậu; ai không thuộc thì tạm thời bị đánh rớt. Ðó là quy định của khóa tu mùa hè năm 1968. Bấy giờ, có một người học thuộc trong hai mươi sáu ngày, và có một người trong hai mươi tám ngày. Cho nên hiện nay có rất nhiều Phật giáo đồ Tây phương biết đến Chú Lăng Nghiêm. Quý Phật tử hãy nghĩ xem, vì sao những kẻ mạo nhận là chuyên gia Phật học, những kẻ tự xưng là học giả, hoặc khoe khoang mình là giáo sư của trường đại học nào đó, lại chủ trương Kinh Lăng Nghiêm là giả? Chỉ vì những gì nói trong Kinh Lăng Nghiêm đều có đề cập đến khuyết điểm cùng những sai lầm của họ. Như trong Kinh có dạy rõ rằng: "Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối" (bốn điều răn dạy về tánh thanh tịnh), là không được phỉ báng. Những kẻ này chẳng muốn dứt bỏ khuyết điểm của họ nên mới chủ trương Kinh Lăng Nghiêm là do người Trung Quốc tạo ra. Vậy, ban đầu do ai chủ trương như thế? Là do người Nhật. Thế người Nhật nói là ai nói với họ? Truy nguyên ra là một vị Pháp-sư Trung Quốc đã mách họ, bảo rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả. Tôi chẳng rõ vị Pháp-sư này có hiểu Kinh Lăng Nghiêm chăng? Tôi không cần phải nêu danh tánh vị Pháp-sư này ra vì chuyện đã xưa rồi. Như vậy, do "cái sai loan truyền cái sai" mà nói rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả. Việc này đủ chứng minh rằng Phật-pháp đang suy tàn, là do người trong hàng ngũ Phật giáo tạo ra tin đồn này, từng bước từng bước khiến cho người ta sinh ra hoài nghi, rồi dần dần không tin nữa. Vì hồ nghi không tin nên bộ Kinh này được xếp cất trên gác cao. Xếp lên xó gác thì chẳng khác gì hủy diệt. Vì chẳng còn ai nghiên cứu hoặc quan tâm đến nữa, thì lâu dần Kinh tất bị hủy diệt. Chẳng phải vì Kinh không có chữ, hoặc vì khan hiếm giấy, mà là vì dần dà người ta quên hẳn nó đi. Vì sao có người đề xướng Kinh Lăng Nghiêm là giả? Chỉ vì họ không muốn tuân theo quy củ. Trong Kinh nói rằng 50 ấm ma có vô số phép thần thông song đều không đáng kể. Bởi vậy khi họ có đôi chút thần thông, thì họ cho là nếu có thần thông thì cũng bị xem là giả thôi. Cho nên những kẻ mưu cầu thần thông đều không thích kinh này. Tôi nghe nói hiện nay tại Nhật Bản có một vị có thần thông, dùng tay chỉ ngọn nến thì ngọn nến bốc cháy, không hiểu có đúng như vậy hay không? Ngày 14 sắp tới tôi sẽ đi Nhật Bản và có thể sẽ viếng thăm vị này. Từ lâu ông ta hy vọng được gặp tôi. Lần này gặp mặt chúng tôi có thể cùng nhau trao đổi ý kiến. Tầm quan trọng của Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm không thể nào nói cho hết được, và tương lai cũng không nói hết được sự diệu dụng, cho nên nói rằng bất khả tư nghì. Hôm nay tôi thành thật trình bày với quý vị tầm mức diệu dụng của Chú Lăng Nghiêm này. Khi xưa lúc tôi ở tại Ðông Bắc, mỗi khi gặp người có bệnh tôi nhất định làm cho họ lành bịnh. Tôi lấy oai lực gì làm cho họ khỏi bịnh. Ðó là oai lực của Chú Lăng Nghiêm. Trong Chú Lăng Nghiêm có tất cả năm bộ: Ðông Phương có: A Súc Phật - Kim Cang Bộ Nam Phương có: Bảo Sinh Phật - Bảo Sanh Bộ Trung Ương có: Tỳ Lô Giá Na Phật - Phật Bộ Tây Phương có: A Di Ðà Phật - Liên Hoa Bộ Bắc Phương có: Thành Tựu Phật - Yết Ma Bộ Phương Ðông có A Súc Phật, A Súc Phật tức là Kim Cang Bộ; Phương Nam có Bảo Sanh Phật, tức là Bảo Sanh Bộ; Trung Ương là Phật Bộ; Phương Bắc là Yết Ma Bộ; tất cả gồm năm bộ. Năm bộ này cai quản năm đại ma quân ở năm phương trên thế giới, cho nên khi trì tụng Chú Lăng Nghiêm thì năm đại ma quân có năm phương đều cúi đầu phủ phục, không dám cưỡng lại oai lực của Chú Lăng Nghiêm. Công năng của Chú Lăng Nghiêm gồm có: 1. Tức tai Pháp 2. Hàng phục Pháp 3. Tăng ích Pháp 4. Thành tựu Pháp 5. Câu triệu Pháp. 1. Tức tai Pháp (Pháp giải trừ tai ương). Một khi chúng ta trì Chú lăng Nghiêm thì hết thảy tai ương đều được giải trừ. 2. Hàng phục Pháp (Pháp làm cho hàng phục). Bất luận đối phương là thứ thiên ma ngoại đạo gì chăng nữa, một khi chúng ta trì Chú Lăng Nghiêm thì pháp lực của chúng ma liền bị phá vỡ, chúng sẽ bị hàng phục dễ dàng. 3. Tăng ích Pháp (Pháp giúp tăng trưởng lợi ích). Thí dụ chúng ta tu đạo, Chú Lăng Nghiêm sẽ giúp chúng ta tăng trưởng trí tuệ, tăng trưởng bồ đề tâm, tăng trưởng nguyện lựcỦmọi thứ đều tăng trưởng. Ðó là pháp làm gia tăng sự lợi ích. 4. Thành tựu Pháp (Pháp giúp cho được thành tựu). Chúng ta trì Chú Lăng Nghiêm, thì bất luận chúng ta tu pháp môn gì, chú này cũng sẽ giúp chúng ta được thành tựu. 5. Lại còn một loại nữa là Câu triệu Pháp (Pháp thâu tóm về). Pháp này có thể dùng khi chúng ta gặp thiên ma ngoại đạo và muốn bắt chúng, cũng như trên thế gian cảnh sát bắt kẻ phạm tội vậy. Bất luận là thiên ma hay ngoại đạo, nếu chúng ta muốn bắt giữ chúng thì hết thảy Hộ Pháp Thiện Thần, Thiên Long Bát Bộ, và tám muôn bốn ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát tức khắc bắt giữ chúng. Ðó là Câu Triệu Pháp. Chú Lăng Nghiêm gồm năm hội, và được phân ra trên ba mươi bộ pháp. Lúc tôi ở Ðông Bắc tôi nhờ vào công lực của Chú Lăng Nghiêm để trị bịnh. Nhưng chẳng phải ai ai cũng tùy tiện sử dụng Chú Lăng Nghiêm được, nếu có dùng chú này chăng nữa thì cũng không sử dụng được toàn bộ, vì chú này bao gồm trên ba mươi bộ pháp. Khi nghe tôi nói như vậy thì có một số giáo sư đại học ở Mỹ không hiểu Phật-pháp nói rằng "A! Hóa ra Chú Lăng Nghiêm là do nhiều bài chú nhỏ chắp nối lại mà thành!" Qúy Phật tử nghĩ xem, đúng là làm trò cười cho thiên hạ! Chính họ cũng chẳng hiểu ất giáp gì cả, nên mới lấy bộ óc chứa đầy kiến thức khoa học của một giáo sư đại học mà suy đoán tầm mức bất khả tư nghị của Chú Lăng Nghiêm. Vì sao tôi lại nhắc đến Chú Lăng Nghiêm? Vì Phật do Chú Lăng Nghiêm mà thuyết Kinh Lăng Nghiêm. Nếu chẳng có Chú Lăng Nghiêm thì căn bản chẳng có Kinh Lăng Nghiêm. Do đó vị phiên dịch Kinh Lăng Nghiêm sang Anh ngữ nói trên đã bỏ Chú Lăng Nghiêm và cũng không dịch phần nghi quy kết đàn. Như vậy, có thể nói rằng bản dịch Anh ngữ ấy chẳng khác gì người mất đầu. Một người không có đầu thì còn chi hữu dụng nữa? Cho nên người phiên dịch Kinh điển không được tự mình phán đoán, không được dùng cái trí tuệ hoặc cái tri kiến nông cạn, hạn hẹp của mình mà cắt câu lấy nghĩa, tự tiện thêm bớt, làm sai lệch ý văn. Người có thái độ như vậy đối với Kinh điển thì không thể chấp nhận được. Hiện nay tại Kim Sơn Thánh Tự chúng ta đang thực hiện công tác phiên dịch Kinh điển. Phàm những lời trong Kinh phải tuyệt đối lưu giữ, không được "bỏ đầu xén chân." Lại cũng không thể như vị giáo sư nào đó đã phiên dịch "lưỡng túc tôn" đấng đầy đủ cả hai, nghĩa là phước huệ là "đấng hai chân." Ông đã dịch: "Quy y Phật, đấng hai chân." Dịch như vậy không thể nói là chẳng đúng, tuy nhiên ít nhiều cũng có lệch lạc không tương hợp với ý chính của Kinh. Bởi vậy, tại Kim Sơn Thánh Tự chúng ta phải hết sức cẩn thận trong công tác phiên dịch Kinh điển, không được tùy tiện "thủ tiêu" bất cứ một đoạn nào trong Kinh. Hôm nay giảng Kinh Lăng Nghiêm tôi nhân tiện trình bày cho quý Phật tử rõ.
  9. Kinh Lăng Nghiêm: Ðại Biểu Của Chánh Pháp Tất cả kinh điển trong Phật Giáo đều rất quan trọng, nhất là Kinh Lăng Nghiêm. Ở đâu có Kinh Lăng Nghiêm, ở đó có Chánh Pháp trụ thế. Kinh Lăng Nghiêm không còn, thời Mạt Pháp liền hiện tiền. Kinh Lăng Nghiêm là chân thân Phật, Kinh Lăng Nghiêm là xá lợi Phật, Kinh Lăng Nghiêm là tháp thờ Phật; do đó, tất cả tín đồ Phật Giáo cần phải đem hết sức lực, khả năng của mình để ủng hộ, giữ gìn bộ Kinh Lăng Nghiêm này. Kinh Pháp Diệt Tận nói: "Thời Mạt Pháp, Kinh Lăng Nghiêm diệt trước, các kinh điển khác dần dần diệt sau." Nếu Kinh Lăng Nghiêm không bị diệt, thì Chánh Pháp sẽ hiện tiền. Vì thế, chúng ta là Phật tử, cần phải dùng sanh mạng của chính mình để hộ trì Kinh Lăng Nghiêm, đem hết sức lực và khả năng của mình ra để hộ trì Kinh Lăng Nghiêm, lập hạnh nguyện hộ trì Kinh Lăng Nghiêm, khiến cho Kinh Lăng Nghiêm vĩnh viễn trụ thế, phát dương rộng lớn, lưu thông trong từng mỗi hạt vi trần, lưu thông cho đến mọi nơi trên thế giới, tận hư không biến Pháp Giới. Ðược như vậy, hào quang của Chánh Pháp sẽ soi sáng khắp nơi. Tại sao Kinh Lăng Nghiêm bị diệt trước? Vì kinh này giảng đạo lý rất chân thực, thiên ma ngoại đạo không chịu nổi, cho nên chúng dùng đủ cách để phá hoại, tiêu diệt. Ðầu tiên, chúng tạo ra lời đồn xuyên tạc, nói rằng Kinh Lăng Nghiêm không phải từ kim khẩu Phật thuyết ra, mà là do người đời sau ngụy tạo. Ðó là cách nói hàm hồ xuyên tạc của ngoại đạo, dùng những thủ đoạn xấu xa, cố ý phá hoại "chân kinh." Nội dung của Kinh Lăng Nghiêm là thuyết minh Bốn điều thanh tịnh minh hối, Năm mươi cảnh giới ấm ma, và lời thuật lại của hai mươi lăm bậc Thánh về sự tu hành viên thông của mình. Toàn thể bộ kinh có thể ví như tấm "kính chiếu yêu," khiến cho yêu ma quỷ quái, bàng môn ngoại đạo, đều phải hiện nguyên hình, không chỗ ẩn núp. Cho nên, chúng ta không nên tin tưởng vào những lời xuyên tạc, đồn đãi rằng Kinh Lăng Nghiêm là "ngụy kinh." Mấy năm gần đây, có một số học giả vô trí và giáo đồ ngu xuẩn, không nhận thức được Phật Giáo, không hiểu rõ Phật Học, mà dám đặt điều nói càn, ngông cuồng chỉ trích lời dạy của bậc Thánh nhân. Những người vô trí vô thức này vì không có trí huệ để phân biệt được chân ngụy, nghe người ta nói sao thì nói hùa theo như vậy, chỉ biết "vẽ đường cho giặc chạy," cổ võ người khác làm điều xấu, nên mới lộng ngôn nói rằng Kinh Lăng Nghiêm không phải là lời Phật thuyết! Người học Phật Pháp không những cần phải hiểu rõ sâu sắc các đạo lý hàm chứa trong Kinh Lăng Nghiêm để làm cho Chánh Pháp được trụ thế lâu dài và tà pháp phải vĩnh viễn biệt tăm, mà còn phải đề xướng Kinh Lăng Nghiêm—khắp chốn đều xiển dương Kinh Lăng Nghiêm, khắp nơi đều giảng thuyết Kinh Lăng Nghiêm, và khắp mọi chỗ đều hộ trì Kinh Lăng Nghiêm. Người tín đồ Phật Giáo cần phải tận tâm tận lực đối với trách nhiệm này. Hôm nay tôi bảo đảm với quý vị một điều: bảo đảm rằng Kinh Lăng Nghiêm đích thật là "chân kinh"! Nếu Kinh Lăng Nghiêm là "ngụy kinh," thì tôi nguyện đọa địa ngục vì mình đã không nhận thức được Phật Giáo, "lấy giả làm chân," cho nên cam tâm tình nguyện nhận chịu quả báo. Chính vì Kinh Lăng Nghiêm là "chân kinh" cho nên tôi mới phát nguyện đời đời kiếp kiếp hoằng dương Ðại Pháp Lăng Nghiêm, tuyên giảng chân lý Lăng Nghiêm. Quý vị hãy thử nghĩ: Kinh Lăng Nghiêm nếu không phải do Phật tuyên thuyết, thì ai mà có thể thuyết ra diệu pháp chân chánh như vậy? Tôi cầu mong những người phê bình Kinh Lăng Nghiêm là ngụy kinh sẽ mau mau sám hối, sửa đổi lỗi lầm, nếu không, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục cắt lưỡi! Tôi cầu nguyện cho những người tụng niệm Kinh Lăng Nghiêm, người giảng Kinh Lăng Nghiêm, người tuyên dương Kinh Lăng Nghiêm, người lưu thông Kinh Lăng Nghiêm, tất cả đều được sớm thành Phật Ðạo. Nguyên nhân quan trọng là đạo lý mà Kinh Lăng Nghiêm thuyết giảng thì vừa chính xác lại vừa hợp lý, có thể khiến cho yêu ma quỷ quái và bàng môn tả đạo không chỗ ẩn mình; đồng thời có thể làm cho người Phật tử có được lòng tin chân chánh, giữ gìn chánh niệm, kiên trì ủng hộ Chánh Pháp.
  10. Kinh Lăng Nghiêm Là Kinh Ngụy Tạo Chăng? Ðại sư Hám Sơn từng nói hai câu như sau: "Chẳng đọc Pháp Hoa thì chẳng hiểu khổ tâm cứu đời của Như Lai; chẳng đọc Lăng Nghiêm thì không nắm được then chốt về mê hay ngộ của tu tâm". Ðích xác là như vậy, bởi Kinh Lăng Nghiêm bao gồm hết thảy các pháp, nhiếp thọ hết mọi căn cơ, là pháp môn tinh tủy của các đời, là ấn chứng chính đề thành Phật và làm Tổ. Vì lẽ đó, người tu thiền bắt buộc phải nghiên cứu kỹ lưỡng bộ Kinh này, và hiểu thấu cảnh giới "năm mươi loại ấm ma" đặng tránh khỏi sa vào vòng của Ma vương. Nếu không vậy, không có sự nhận thức cho rõ ràng, thì bạ cảnh giới nào gặp phải cũng sanh tâm chấp trước, hành giả sẽ dễ nhập vào ma cảnh, thành kẻ quyến thuộc của ma vương. Ðó là một điều cực kỳ nguy hiểm! Chẳng riêng Chú Lăng Nghiêm phải thuộc lòng, mà Kinh Lăng Nghiêm thiền giả cũng phải thuộc nữa. Người ta nói "thuộc sẽ nẩy cái hay", thời cơ tới sẽ có nhiều lợi ích, sẽ có sự cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn. Hễ người nào nghiên cứu văn học Trung quốc, tất phải đọc Kinh Lăng Nghiêm, văn từ thì ưu mỹ, nghĩa lý phong phú, tóm lại là một bộ Kinh lý tưởng. Có một số tự cho mình là học giả có hạng, chưa hề nghiên cứu sâu rộng về Ðạo Phật, đã tự nhận mình là chuyên gia Phật học, tự nhận mình có đủ uy tín mà sự thực không hiểu Phật giáo cho đến ngành ngọn, khinh xuất cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là một kinh ngụy tạo. Từ đó lại có một số, có dụng ý khác, ùa theo phụ họa. Ðúng là kẻ mù dắt kẻ mù, thật đáng thương xót! Tại sao người ta bảo Kinh Lăng Nghiêm chẳng phải do đức Phật Thích Ca thuyết giảng? Chẳng qua vì nghĩa lý trong bộ Kinh rất ư chân thật. Kinh đã nêu ra cho kỳ hết các căn bệnh của thế gian, bởi đó mà các loài yêu ma quỷ quái, các loài quỷ trâu, quỷ rắn, không còn cách nào hoành hành, phải hiện rõ nguyên hình của chúng. Từ đó chúng tìm mọi cách để phá, chúng phải tuyên truyền Kinh Lăng Nghiêm là kinh ngụy, thì chúng mới có cơ để sinh tồn. Nếu như thừa nhận đây là lời Phật thuyết pháp thì đối với chúng là không xong. Trước hết chúng không giữ được "Lời dạy về bốn loại thanh tịnh", thứ hai chúng không tu tập được các "Pháp viên thông của hai mươi lăm bậc thánh", thứ ba chúng không dám đối diện với các cảnh giới của "Năm chục loại ấm ma". Nếu như ai ai cũng đọc Kinh Lăng Nghiêm, cũng hiểu rõ Kinh Lăng Nghiêm, thần thông của hàng ngoại đạo sẽ hết linh ứng, thành ra vô dụng khiến cho không ai còn tin vào thần thông của họ nữa. Ðó là lý do bọn thiên ma ngoại đạo chỉ còn tìm cách dèm pha, tuyên truyền, bảo Kinh Lăng Nghiêm là kinh ngụy. Chẳng cứ chỉ những người tại gia phỉ báng Lăng Nghiêm là Kinh giả, ngay cả những kẻ xuất gia cũng bắt chước nói theo. Tại sao vậy? Bởi vì có một số xuất gia ít học, có khi không thông chữ nghĩa, không xem được Kinh điển, trong khi đó văn Kinh Lăng Nghiêm lại thâm thúy, ý nghĩa huyền diệu, khiến họ không hiểu được nên không làm sao phân biệt được chân giả. Ðến khi nghe người ta bảo Kinh này là giả, Kinh kia là ngụy, thì họ đâu có suy xét gì, người ta nói sao thì nhắc lại y hệt. Tự nhiên Kinh Lăng Nghiêm bị lãnh tiếng oan là vì lẽ đó. Lúc xưa tại Ấn Ðộ, Kinh Lăng Nghiêm được liệt vào hàng quốc bảo và có lệnh cấm không cho mang những thứ quý ra ngoại quốc. Những ai xuất cảnh đều bị khám xét gắt gao và, để phòng Kinh lọt ra ngoài, các nhân viên hải quan thường đặc biệt chú ý đối với các Tăng xuất cảnh. Hồi đó tại Ấn độ - bên Trung quốc lúc đó là đời Ðường - một vị cao tăng pháp danh là Ban Thích Mật Ðế (Paramiti) đã khổ công tìm mọi cách để mang Kinh Lăng Nghiêm qua Trung quốc. Sợ bị phát hiện tại trạm kiểm soát, ông phải nghĩ ra cách giấu giếm, nhét Kinh vào sâu trong cánh tay và sau cùng ông đã đổ lên bộ tại địa phận Quảng Châu. Lúc đó là thời gian Tể tướng Phòng Dung bị Võ Tắc Thiên giáng chức xuống làm Thái Thú Quảng Châu. Ban Thích Mật Ðế được Phòng Dung mời tới để phiên dịch bộ Kinh này và chính Phòng Dung là người nhuận sắc cho bản dịch. Bởi vậy Kinh Lăng Nghiêm biến thành một tác phẩm văn học có giá trị, rồi sau đó trình lên cho Võ Tắc Thiên. Thời bấy giờ đương có tin đồn Kinh Ðại Vân là kinh ngụy tạo nên Hoàng Ðế Võ Tắc Thiên không cho Kinh này được lưu hành. Ðến khi Thiền sư Thần Tú được phong làm Quốc sư rồi được cúng dường ở trong hoàng cung, một hôm Thiền sư thấy được bộ Kinh này, thấy Kinh rất có lợi cho những hành giả tu thiền, mới cho Kinh này được phổ biến. Từ đó Kinh Lăng Nghiêm mới được lưu hành ở Trung quốc. Căn cứ theo truyền thuyết, Kinh Lăng Nghiêm là Kinh tối hậu truyền đến Trung quốc, nhưng cũng là Kinh bị hủy diệt đầu tiên vào thời Mạt Pháp, sau mới đến các Kinh khác, sau rốt còn lại một Kinh A-Di Ðà. Ghi chú: Thượng nhân Tuyên công chủ trương dứt khoát rằng Kinh Lăng Nghiệm chính là tâm ấn của chư Phật, điều này ngàn vạn lần đích xác. Bởi vậy ngay sau khi đặt chân tới Mỹ, Tuyên công liền giảng Kinh Lăng Nghiêm. Tại sao vậy? Phật Pháp truyền bá tới đất Mỹ, thì Mạt Pháp sẽ biến thành Chánh Pháp, và đó là tâm cơ của Thượng nhân trong sứ mạng nối tiếp huệ mạng Phật. Bài "Lăng Nghiêm Kinh Thiển Giảng" sẽ được đưa đăng từng kỳ trong tạp chí Vạn Phật Thành Kim Cương Bồ Ðề Hải, bằng tiếng Hoa và tiếng Anh. Nay xin thông báo cùng quý bạn độc giả.
  11. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói đếng ngũ tân: Tỏi, hành, hẹ, nén, hưng cừ Ban Mai không biết nén và hưng cừ là cái gì ? mong được các bác chỉ bảo về các cây này . Ban Mai xin cám ơn .
  12. sao lại có người ác đến vậy :D Theo Phật pháp , cách duy nhất để hết binh đao diết chóc như này chỉ có cách vận động thật nhiều người ăn chay và phóng sinh , niệm Phật. hic hic
  13. Gia đình Ban Mai thờ điện nên mọi việc cúng lễ đều tiến hành ở trong gia đình chứ không lên chùa . Hôm 14 mẹ đi mua hai con chim để làm lễ phóng sinh , cầu phúc cho hai chị em du học nơi đất khách quê người . Lồng chim không hiểu sơ hở thế nào mà hai chú chim bay đi đâu không biết . Sáng sớm hôm sau bố đi xuống chợ mua lại hai con chim khác . B) Ban Mai thấy hai chú chim bay đi rồi thì nói làm lễ phóng sinh chỉ cần mình có cái tâm chim bay rồi thì coi như mình đã cứu được hai sinh linh rồi :P Mẹ mắng là cần phải dâng sớ lên nhà Phật có người chứng dám thì mới được ;) Hi hi Ban Mai cũng chẳng hiểu nên im nghe theo mẹ . Còn bên cửa Mẫu và Thánh thì dâng lễ ngựa và vàng mã , làm lễ như bình thường. :D Nghe mẹ nói lại , ngày lễ xá tội vong nhân , có rất nhiều cô hồn về , họ tranh cướp thức ăn của nhau rất tội nghiệp :rolleyes: . Ban Mai thì không nhìn thấy gì, chỉ có ông nội nhìn thấy họ thôi.
  14. Cháu cám ơn bác ạ .Hi vọng là chuyện sẽ tiến triển tốt . Cháu không muốn lấy chồng nước ngoài đâu hic hic
  15. Cháu chào bác Thiên Sứ . Bác ơi hôm trước bác nói cuối năm nay chuyện tình cảm của cháu có hi vọng . Cháu muốn hỏi từ nay đến cuối năm liệu quan hệ của cháu và một anh Tuổi Canh Tuất sẽ đi đến đâu ạ ? Bọn cháu quen nhau từ năm 2004 nhưng có nhiều trục trặc lắm . Lúc này thì lại nói chuyện trở lại rồi bác ạ . Năm sau cháu tốt nghiệp , công việc thì cũng ổn định rồi không còn phải lo gì cả , bây giờ đúng là cháu chỉ lo về chuyện gia đình nữa thôi . Anh ấy là giảng viên của một trường đại học Y Khoa . Hiện tại làm nghiên cứu , có tham gia giảng dạy nữa . Anh qua bên này từ năm 2000 , tuy nhiên vẫn là cán bộ chính thức của bên VN ( bên quân đội ), thỉnh thoảng đi đi về VN thôi ạ . Đây là lá số của cháu bác có thể tham khảo ạ http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaS...reen&size=2 Anh ấy quê khác với cháu bác ạ . Khoảng giữa tháng 9 dương lịch cháu sẽ gặp anh ấy .hic hic không biết rồi quan hệ sẽ ra sao ? Bác tư vấn giúp cháu nhé . Câu hỏi lúc 22h28 bên Nhật , tức 20h28 bên Việt Nam Kính mến cháu Ban Mai
  16. chào anh Chí Phèohihi BM là con trưởng trong nhà, hichic papa chỉ có mình ma ma của BM thôi . Hi vọng sau này mình cũng là chính chuyên của phu quân chứ không như sách vở nói là ngừoi VCD dễ làm lẽ :( Hihi năm sau thì BM mới biết được . Thực là BM từng có tình cảm sâu sắc với cả ngừoi Việt và ngừoi ngoại tuy tình yêu chẳng đi đến đâu , nhưng họ được mọi người xung quanh đánh giá là ngừoi đàng hoàng, họ đều là người hơn BM hơn 10 tuổi , có học hành bằng cấp cao , thành đạt về con đường khoa bảng , đều làm về nghiên cứu khoa học( chắc vì cung Nô của BM có L. Niên Văn Tinh)hic . BM cũng nghĩ khả năng lấy người hơn mình nhiều tuổi .Vì có cách Tử VI Thiên Quý như bạn nói đấy. Nơi làm việc của BM năm sau thì có khi chỉ có mình BM là girl . hehe các anh khóa trên của BM thì làm cùng một chỗ có BM là làm ở bộ phận riêng thôi :( BM không hỉu sao hay có người lớn tuổi có địa vị quý mến và nâng đỡ cho BM nhiều . Có lẽ phu quân là nguời nước ngoài vì có cách quang quý quan phúc là vì ân tình mà lấy nhau :( Người hiện tại đã có người khác nhưng hai ngừoi thì vẫn thỉnh thoảng liên lạc , mà không khéo năm sau tuy làm ở hai chi nhánh khác nhau nhưng hai công ty rất gần nhau ,cách nhau chừng 5 phút đi bộ thôi .Hic hic không biết có phải tình cũ ...BM chỉ thích là ngừoi mới thôi... trước khi BM vào tập đoàn này BM có xin việc trong 2,3 công ty khác đều bị loại và có người nói với BM khi BM ngủ là ngừoi chồng thực của BM chính là anh chàng Từ Hải này đấy :P Hic hic BM không thích tẹo nào cả :( rõ là ngừoi ích kỷ , chỉ vì lo BM còn trẻ rồi BM sẽ về nứoc rồi iu ngừoi khác và cuối cùng bỏ rơi BM :P
  17. Bác Thiên Sứ kính mếnCháu xin cám ơn bác đã giúp đỡ. Cũng có thầy ở nước ngòai nói cháu năm sau lấy chồng :( Năm sau khoảng tháng 2 âm lịch cháu tốt nghiệp , tháng 3 cháu sẽ chính thức đi làm . Theo cách mệnh Xương Kỵ của cháu thì nói là cách học một ngành làm một nghề , nhưng thực tế cháu hiện đã có công việc làm về chuyên môn. Trừ khi có biến động liên quan đến cung Phu thì mới có việc lựa chọn ngành nghề khác . Hic hic năm 2009 nếu mà vẫn là ở nước ngoài thì cháu không thể lấy chồng vào đầu năm được ạ . Theo bác thì người cháu gặp năm tới là người mới gặp hay là người cũ ạ ? Và có hơn cháu nhiều tuổi hay không ? ( cái này khó đoán quá bác nhỉ )Nếu cuối năm nay cháu có chuyện về tình cảm thì cháu không nghĩ là ngừoi ngoại quốc . Quả thực năm trước cháu cũng có một mối tình với một người ngoại quốc nhưng hiện tại đã không có gì , nhưng vẫn giữ tình bạn chứ không cắt đứt hoàn toàn . Hiện tại thì ngừoi này có người khác ,và cháu cũng không có liên lạc nhiều, cháu cũng nói rõ là cháu đã quyết định về nước lấy chồng hihi :P Đúng là năm nay cháu nghĩ có nhiều chuyện quan trọng xảy ra để dẫn tới sự việc cho năm sau . Cháu không có biết coi nhiều về tử vi nhưng thấy cung quan có L. MÃ , L. Thái Tuế vào cung Thân thì chắc chắn có biến đổi rất lớn .
  18. vầng cháu cám ơn bác đây là lá số của cháu : sinh ngày 13 tháng 10 năm 1981 lúc 5h30 sáng dương lịch http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaS...reen&size=2
  19. Huynh Đào Hoa thì ra huynh sinh hoạt bên này , cái trang của huyn Vô Tri bỏ trống hoài :P Hi hi thế lần này về muội gặp được duyên nợ thiệt hả huynh ? Lần này muội về có gặp một người bạn ,còn chuyện ra sao thì khó mà biết được . Lần này về thăm gia đình đúng là muội cũng có chuyện muốn xem tình hình ở nhà ra sao . Vì dù sao muội sống ở nước ngòai cũng 8 năm từ khi mới 20 tuổi , e là quen với cuộc sống bên này khó có thể quen với cuộc sống ở nhà vì dù rằng tâm tư vẫn là con đường quay trở về . Vần đề do dự thì quả là có hai việc : muội đang phân vân nên lựa chọn con đừong nào bây giờ : một công ty lớn về chuyên ngành , một công ty khác nhưng lại đưa ra một ngã rẽ . Dù lựa chọn con đường nào thì cũng sẽ phải ở lại một vài năm . Một ngày còn có nhiều chuyện xảy ra huống chi là vài năm . Chỉ e là có nỡ nặng lòng với anh chàng Ngoại nào thì khó mà về . Ngừoi Việt thì cũng nhiều nhưng mà duyên số biết thế nào . Dù là ngừoi Việt nhưng mình không hợp thì sao mà chấp nhận , và hihi nếu lại có anh chàng Nhật hay Tây nào đấy kiểu như Từ Hải ra tay giúp đỡ thì hic hic lại phiền rồi e là khó mà quay về . Thế nên muội cũng không biết liệu có lựa chọn thứ 3 nào hay không ? tất nhiên khi trở về muội muốn có một công việc tốt tự lo cho chính mình đã , và hihi cũng muốn có lương cao cao chút :(
  20. chào anh/chị Phoenix ,câu hỏi trên của BM xin không được trả lời nữa . :(
  21. chị chích bông mến banmai cũng có cách mệnh VCD , là trưởng nữ . Gia đình thì khi BM mới sinh thường hay phải xa cha ,do hoàn cảnh công việc . Khi BM sinh ra, gia đình có cuộc sống khá giả . Nghe bố mẹ kể lại khi banmai sinh ra cuối năm trước , đến năm sau tự nhiên bố mẹ làm ăn rất tốt , gia đình có cuộc sống phú túc . Nhưng chỉ được một thời gian thì gia đình có sóng gió khi sinh em gái .Nhưng BM từ khi mới sinh sức khỏe không tốt , thuộc dạng khó nuôi , có nhiều lần tưởng không sống sót , hay bệnh tật .BM đi du học từ năm 20 tuổi cho đến nay . Hiện đang học cao học . Ở nhà BM hay phải dùng đến thuốc thang , hay ốm vặt , nhưng khi ra nước ngoài thì sức khỏe tốt , không ốm đau hay phải dùng nhiều thuốc như khi còn ở nhà . Bác Thiên Sứ , cháu thấy các sách đều nói với cách mệnh VCD thì nên sống xa quê hương thì sẽ tốt hơn . Còn bác nói cháu bé không nên sống xa gia đình là sao ạ ?
  22. chào anh phoenix ban mai nghe nói có cao nhân , liền chạy qua xin một quẻ : Cố hương cách trở đại dương lớn Con đường quay lại có hay không ? Thân gái dặm trường nơi đất khách Tri âm xin hỏi ở phương nao ? Năm nay em vừa tròn hai tám Xin hỏi tình quân tuổi thế nào? Tính tình ,hình dáng cao hay thấp Chí khí nam nhi đến chừng nào ? :P Anh nói về tính cách con ngừoi của BM và về con đường công danh sự nghiệp và tất nhiên chuyện quan trọng ai cũng mong mỏi là tìm tình lang cho mình , khi nào thì gặp được. :P Ban Mai xin cám ơn anh . Chúc anh vui vẻ .
  23. Ban Mai cám ơn bác ạ.
  24. Kính chào bác Thiên Sứ hôm nay Ban Mai mới biết trang này . Bác ơi , quẻ bác gieo cho BM đúng lắm . Ban Mai đã xin được việc làm đúng chuyên môn rồi ạ , nhưng mà BM bị vào bộ phận rất là vất vả . Là công ty lớn bác ạ . Kính chúc bác mạnh khỏe . Kính mến cháu Ban Mai