tuấn dương

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    717
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    1

Everything posted by tuấn dương

  1. quẻ kinh xích khẩu khai tiểu cát hưu vô vong sinh đại an thương lưu niên đỗ tốc hỷ cảnh xích khẩu tử tiểu cát kinh vô vong hà nội những ngày này nóng đến mức não cũng muốn nhảy ra ngoài :ph34r: ,ngồi đợi trời mưa chi bằng lập đàn cầu mưa cho nó nhanh hạ hỏa :lol: .ae nào cùng chung chí hướng thì vào góp vui :P ngày 17-21-25 /6 dương lịch sẽ có mưa xa hơn 1 chút là ngày 15-7 dương lịch( sẽ có mưa lớn) ***để tăng thêm tính chi tiết của dự báo _td chỉ giới hạn phạm vi trong 7 quận nội thành hà nội *** td thông báo kq ở đây để mọi người tiện theo dõi nhé : _23h 40 ngày 17-6 trời đã đổ mưa , trận mưa kéo dài đến những giờ đầu tiên của ngày hôm sau @ nơi kiểm chứng : lò đúc -hà nội ...các khu vực khác thì ko rõ ...vì muộn rồi nên td ko ra ngoài đường :P _ngày 21-6 trời ko mưa ...hix quẻ này ko ứng rồi _ngày 25-6 trời ko mưa ...đến 2h sáng ngày 27-6 mới có những trận mưa lớn ..èo trình độ chưa đạt mức lô hỏa thuần thanh nên nó mới lệch vậy :D _ngày 15-7 trời chỉ mưa nhỏ vào khoảng 3h sáng, vì hình tướng quẻ là trận mưa lớn nên cảm thấy thất vọng vô cùng :( , hix..đúng là người tính ko bằng trời tính :D . được cái ngày 16-7 lúc 19h trời mưa rất lớn , vớt vát được chút thể diện :P .dù sao cũng là dự báo cách 1 tháng , nên sư phụ cùng ace vào like để động viên nào .. :P
  2. Ngũ vận Lục khí là gì? 1. Khoa dự báo có giá trị nhất: Lâu nay, khi nói đến khoa lý số, phương thuật, dự trắc cổ đại, người ta thường chỉ hay nhắc tới "Tử vi", "Bát tự", "Tử bình", "Kỳ môn độn giáp", "Thái ất thần số", ... Thực ra, còn có một bộ môn hết sức quan trọng nằm trong Hệ thống lý luận cơ bản của Đông y, đó là "Ngũ vận Lục khí", thường hay gọi tắt là "Vận Khí học". Trong các phương pháp dự trắc cổ đại, "Vận Khí học" được giới học thuật xưa và nay công nhận là phương pháp dự báo có độ chính xác và giá trị thực tiễn cao nhất. Ngũ vận Lục khí học lấy "Thiên nhân hợp nhất" làm tư tưởng chủ đạo. Nghĩa là công nhận: "Có một số phép tắc chung, có tính phổ quát, chi phối tất cả các biến động trong vũ trụ, từ sự vận hành của thiên thể, biến động của thời tiết khí hậu, cho đến những biến đổi của sinh vật và phi sinh vật". Ngay từ khi bắt đầu hình thành, Đông y học đã được xây dựng theo mô thức "Tự nhiên ­ Sinh học ­ Xã hội". Đó không phải là mô thức "Y học sinh học" thuần túy của Tây y trong thuở sơ khai, cũng không phải là mô thức "Sinh học ­ Tâm lý ­ Xã hội" của Y học hiện đại ngày nay. Do được xây dựng trên cơ sở "Thiên nhân hợp nhất", nên trong mô thức y học của Đông y còn có thêm nhân tố sinh thái. Đông y luôn nhìn nhận cơ thể con người như một "Hệ thống mở". Con người là một thành phần trong giới tự nhiên. Con người và thiên nhiên là một thể thống nhất. Mọi hoạt động sinh mệnh của con người đều gắn liền với những biến đổi của môi trường, sinh thái chung quanh. Sức khỏe là một trạng thái cân bằng động: Cân bằng giữa nhân thể với môi trường bên ngoài và cân bằng giữa các bộ phận bên trong nhân thể. Sự vận động và biến đổi của Ngũ vận và Lục khí có ảnh hưởng rất lớn đối với các hoạt động sinh mệnh và sự hình thành, diễn biến của bệnh tật. Do đó, trong dưỡng sinh phòng bệnh cũng như trong chữa trị bệnh tật, Đông y luôn tuân theo nguyên tắc tổng quát: "Nhân thời, nhân địa, nhân nhân chế nghi" ­ căn cứ vào điều kiện thời tiết khí hậu trong từng thời điểm (nhân thời), hoàn cảnh địa lý (nhân địa) và đặc điểm cụ thể của từng người (nhân nhân) để lập ra phương án phòng trị thích hợp. Chính vì Đông y là một khoa "Y học sinh thái", do đó muốn thành thầy thuốc theo đúng nghĩa thì cần phải "Thượng tri thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự". 2. Vận khí học với Đông y học: Vận Khí" là tên gọi tắt của "Ngũ vận" và "Lục khí". Theo nghĩa rộng, đó là lý thuyết về mối quan hệ vĩ mô giữa những biến động của vũ trụ với những biến động của vạn vật. "Vạn vật" nói theo ngôn ngữ ngày nay, đó là "hệ sinh thái", bao gồm toàn bộ sinh vật (thực vật, đông vật, vi sinh vật) và phi sinh vật trong môi trường (ánh sáng mặt trời, ôn độ, nước, không khí, thổ nhưỡng). Theo nghĩa hẹp, Vận Khí là một bộ môn trong Đông y học chuyên tính toán, dự báo về sự biến đổi của thời tiết khí hậu hàng năm và tác động của những biến đổi đó đối với tổ chức kết cấu, chức năng sinh lý và bệnh lý của con người, để chỉ đạo dưỡng sinh, phòng bệnh và chữa bệnh có hiệu quả nhất Vận Khí học là bộ phận không tách rời của Đông y học và từ xưa đến nay luôn được y gia các thời đại coi trọng. Chính như Hải Thượng Lãn Ông đã nhận định: "Không thông Ngũ vận Lục khí thì đọc hết các sách cũng chẳng làm được việc gì". Còn sách Nội Kinh thì có câu: "Không hiểu Lục khí gia lâm hàng năm, sự thịnh suy của tiết khí, bệnh khí hư thực, không thể coi là lương y". Giáo sư Dương Lực ở Viện nghiên cứu Trung y Bắc Kinh (Trung Quốc) đã so sánh: "Nếu nói "Hoàng Đế Nội Kinh" là chiếc vương niệm của Đông y, thì Vận Khí học là viên ngọc sáng đính trên vương niệm đó. Có điều, viên ngọc đó chỉ dành cho những người không sợ khó khăn và nguy hiểm, dám dũng cảm vươn tới những đỉnh cao của khoa học. Nói cách khác, Vận Khí học là bộ phận tinh túy, uyên thâm nhất trong Đông y học, song cũng là một lý luận rất bí áo, hết sức khó hiểu". Ngay bậc kiệt xuất như Lãn Ông khi nghiên cứu Vận Khí học cũng phải than rằng: "... khi đọc đến quyển Vận Khí, cảm thấy mờ mịt như người đi đêm, chẳng khác nào trăng dưới nước, hoa trong gương, chỉ trông thấy mà không cầm lấy được, ... khiến người trong cuộc phải thèm rỏ dãi". Sau nhiều năm khổ công nghiên cứu và vài lần "toan cất làm của riêng", cuối cùng Lãn Ông đã quyết định "tiết lộ thiên cơ" và viết cuốn Vận Khí bí điển để cho môn Vận Khí học "trở thành vật báu chung của trăm họ" 3. Ứng dụng lâm sàng: Trong quá trình chẩn đoán và điều trị trên lâm sàng, ngoài việc sử dụng tư liệu thu được qua chẩn đoán ở từng người bệnh để tiến hành biện chứng luận trị theo "Bát cương" ­ "Âm Dương, Biểu Lý, Hàn Nhiệt, Hư Thực", người thầy thuốc Đông y còn chú ý đến thời gian và hoàn cảnh phát bệnh, nghĩa là còn luôn luôn tính đến mối quan hệ thống nhất giữa cơ thể con người với hoàn cảnh, môi trường sinh thái chung quanh. Thí dụ, ngay cả khi chữa trị cảm mạo một chứng bệnh rất thường gặp, Đông y cũng luôn luôn căn cứ vào tình hình cụ thể mà áp dụng những biện pháp, vị thuốc chữa trị khác nhau: Mùa đông bị cảm lạnh thì sử dụng những vị thuốc cay nóng để "phát tán phong hàn" như ma hoàng, quế chi, tế tân, kinh giới, tử tô, ... Mùa hè bị cảm nóng thì sử dụng những vị thuốc cay mát để "phát tán phong nhiệt" như trúc diệp (lá tre), cát căn (rễ sắn dây), bạc hà, tang diệp (lá dâu tằm), cúc hoa, ... Một ví dụ khác: Năm 1955 khi ở Thạch Gia Trang (Trung Quốc) bùng phát dịch viêm não B, các thầy thuốc đã sử dụng bài thuốc "Thạch cao thang" chữa trị đạt kết quả tốt. Tới năm 1956 ở Bắc Kinh cũng phát sinh dịch viêm não B, người ta cũng dùng "Thạch cao thang" nhưng không kết quả. Về sau phải cải tiến, dùng các bài thuốc giải trừ thấp nhiệt và phương hương hóa thấp thì mới có kết quả tốt. Lý do: Cùng là một bệnh viêm não B nhưng bệnh dịch phát tác trong các mùa khác nhau (thời gian hoàn cảnh khác nhau). Tại Thạch Gia Trang bệnh dịch phát sinh vào giữa mùa hè, khí hậu viêm nhiệt, tính chất của bệnh thiên về "nhiệt". Còn ở Bắc Kinh phát sinh trong mùa trưởng hạ, trời mưa liên miên, tính chất của bệnh thiên về "thấp", nên phương pháp chữa trị và vị thuốc cũng phải khác đi. Đây cũng là một thí dụ hết sức tiêu biểu thể hiện tính ưu việt của phương pháp chữa bệnh theo quan điểm sinh thái "Thiên nhân hợp nhất" của Đông y học. Lương y HƯ ĐAN Xin vui lòng ghi rõ nguồn "Thuốc vườn nhà ­ http://www.thuocvuonnha.com" khi phát hành lại thông tin Thông tin trên thuocvuonnha.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức; không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Quý bạn đọc.
  3. Nhạc Niệm Phật Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát https://www.youtube.com/watch?v=zPW1Z8Bfr2c đoạn nhạc này td hay dùng trong quá trình quán tưởng , ace thử xem nhé ^_^
  4. Huyền thoại và sự thật về sừng tê giác (Kỳ cuối) SINH HỌC SỪNG TÊ GIÁC Tê giác dùng sừng của mình để tự vệ và tấn công đối thủ, tương tự như các loài động vật có sừng khác. Nhưng sừng của động vật có móng, nói chung được sinh ra từ phần hộp sọ, với cấu trúc là một lõi xương lớn ở bên trong và một lớp vỏ mỏng keratin rắn bao bọc bên ngoài. Sừng tê giác không mọc ra từ xương hộp sọ như sừng của các loài động vật có móng khác, mà sinh ra bởi các lớp da đầu. Sừng tê giác cũng là loại sừng động vật duy nhất không có lõi xương. Do sự kết tủa của muối can­xi và hắc tố, phần lõi của sừng tê giác trở nên cứng và có thể chống lại sự bào mòn vật lý. Phần bên ngoài của sừng mềm hơn, dễ bị bào mòn do tiếp xúc với ánh sáng mặt trời và tác động vật lý. Sừng tê giác phát triển theo từng lớp. Các lớp này bao gồm những tế bào chuyên biệt bị xâm nhập bởi keratin (trong quá trình keratin hóa), khiến chúng trở nên cứng hơn. Sừng tê giác mọc lại định kỳ, từ các tế bào biểu bì biệt hóa. Quan sát tê giác Châu Phi, các nhà khoa học nhận thấy mỗi năm sừng dài thêm khoảng 5-­6cm. Nhìn qua kính hiển vi: Sừng tê giác có cấu trúc sợi, cấu thành bởi những ống sừng dài, đường kính trung bình 100 nanomet. Cấu trúc sợi của sừng tế giác có thể sử dụng như dấu hiệu đặc thù, để phân biệt với sừng những loại động vật khác. Sừng tê giác có hầu hết các acid amin thông thường, tìm thấy trong xương động vật với số lượng tương tự như nhau. Trong cơ thể người, các protein được phân hủy để hấp thụ bởi các men (enzim) ở dạ dày (men pepsin) và ruột non (men trypsin). Chất sừng cứng trong sừng tê giác không thể phân giải bởi các men kể trên, nhưng có thể phân hủy trong môi trường kiềm ở ruột già (trái ngược với môi trường acid trong dạ dày) Từ cuối 1880 đến 1930, keratin vẫn được sử dụng để làm lớp vỏ bọc ngoài của thuốc uống, với mục đích bảo đảm cho viên thuốc nguyên vẹn không bị ảnh hưởng khi đi qua dạ dày và sẽ được hấp thụ chậm hơn trong ruột. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng thuốc thử mạnh có tính kiềm (thường là urê) để phân lập các protein có trong sừng tê giác. Một số nhà nghiên cứu nhận định: Rất có thể là, tập quán mài sừng tê giác thành dạng bột để uống trong Đông y có thể giúp chất này được hấp thụ trong cơ thể người. SỪNG TÊ GIÁC TRONG ĐÔNG Y XƯA VÀ NAY Thói quen sử dụng sừng tê giác để chữa bệnh ở Việt Nam đã có một lịch sử lâu đời. Thói quen đó, một phần do liên quan với nền Y học cổ truyền của nước láng giềng phía Bắc là Trung Quốc và phần còn lại hình thành từ tập quán lâu đời của người Việt Nam Từ hàng ngàn năm trước, Trung Quốc đã bắt đầu sử dụng sừng tê giác như một vị thuốc; sau đó lan truyền sang Nhật Bản, Triều Tiên và Viêt Nam. Trong Y học cổ truyền Trung Quốc (Trung y), sừng tê giác đã được đề cập trong "Thần Nông Bản thảo Kinh" ­ bộ sách thuốc đầu tiên của Trung y; sách này chia tất cả các vị thuốc thành ba loại là thượng phẩm, trung phẩm và hạ phẩm; sừng tê giác được xếp vào "trung phẩm". Trong sách thuốc Trung y các thời đại sau, sừng tê giác dược xếp vào loại thuốc "thanh nhiệt lương huyết" cùng với những vị thuốc quen thuộc như "sinh địa hoàng", "huyền sâm", "xích thược", "mẫu đơn bì", ... Từ năm 1993, khi Chính phủ Trung Quốc ra lệnh cấm sử dụng sừng tê giác làm thuốc chữa bệnh, trong các đơn thuốc sừng tê giác đã được thay thế bằng sừng trâu; "Thuốc vườn nhà" đã đề cập trong bài viết "Sừng trâu có thể thay thế sừng tê giác?" về vấn đề này. Theo chiều dài lịch sử, việc sử dụng sừng tê giác ở Việt Nam cũng gắn liền với tác dụng "thanh nhiệt lương huyết". Các bệnh có thể được chữa trị bằng sừng tê giác bao gồm sốt cao, mê sảng, co giật, đau đầu, sởi, động kinh, ... Cho đến nay, một số sách về Đông y dược tiếng Việt, nói chung vẫn thường giới thiệu về những tác dụng chữa bệnh của sừng tê giác. Tuy nhiên, hiện tại sừng tê giác đã không còn có mặt trong "Dược điển Việt Nam". Một vấn đề cần đặc biệt lưu ý là: Có một sự khác biệt lớn giữa quan niệm của Đông y truyền thống về tính năng và tác dụng của sừng tê giác, so với những tác dụng và tính năng mà hiện nay một số người, đặc biệt là một số "đại gia", đang tán dương, quảng cáo, ... cho nó. Thí dụ điển hình là tác dụng chữa trị ung thư: Trong Đông y truyền thống, danh sách các chứng bệnh có thể sử dụng sừng tê giác để chữa trị không bao gồm căn bệnh ung thư. Chứng bệnh tương ứng với ung thư ác tính trong Y học hiện đại, trong Đông y truyền thống gọi là "chứng nham". Trong các tài liệu cổ truyền có đề cập đến vấn đề chữa trị "chứng nham", nhưng trong số các vị thuốc người xưa sử dụng để chữa trị "chứng nham" không thấy đề cập đến tê giác Mặc dù vậy, những lời đồn đại về việc sừng tê giác có thể chữa khỏi được ung thư vẫn lan truyền nhanh chóng; sừng tê giác vẫn đang được tiếp thị như một vị thuốc có khả năng chữa trị ung thư; quảng cáo sừng tê giác như một "biệt dược" điều trị ung thư vẫn đang được đăng tải trên một số trang web của một số doanh nghiệp và cá nhân. Một căn bệnh khác là đột quỵ: Trong Đông y học cổ truyền, có mô tả việc sử dụng một số bài thuốc, trong thành phần có sừng tê giác, để điều trị một số chứng bệnh tương đương với một số thể bệnh thuộc thuộc phạm vi của bệnh đột quỵ trong Y học hiện đại. Điển hình là bài thuốc "An cung ngưu hoàng hoàn" mà "Thuốc vườn nhà" đã có lần đề cập. Tuy nhiên, thông tin về tác dụng chữa khỏi được đột quỵ của "An cung ngưu hoàng hoàn" chỉ là một số trường hợp lẻ tẻ, chưa được kiểm chứng thật đầy đủ. Trong khi đó, trong kho tàng các tài liệu chuyên ngành, không tìm thấy những báo cáo về kết quả sử dụng sừng tê giác để điều trị đột quỵ trên lâm sàng. Ngoài ung thư và đột quỵ, hiện tại còn lan truyền tin đồn cho rằng, sừng tê giác là loại thuốc cường dương mạnh, có tác dụng tăng cường chức năng sinh lý cho các quý ông, ... Xét theo quan điểm của Đông y, đó là điều hoàn toàn vô lý. Nhìn chung, quan niệm về tác dụng chữa bệnh của sừng tê giác giữa Đông y và Tây y (Y học hiện đại) rất khác nhau. Giới thầy thuốc phương Tây nói chung cho rằng sừng tê giác thực chất không khác gì móng chân móng tay của con người hoặc của một số loài động vật; sừng tê giác hoàn toàn không có tác dụng chữa bệnh. Trong khi đó, nhiều thầy thuốc Y học cổ truyền vẫn cho rằng, sừng tê giác là một vị thuốc. Không thể đồng nhất sừng tê giác với móng chân, móng tay. Sừng tê giác là vị thuốc đã có hàng ngàn năm lịch sử và được ghi chép trong "Thần Nông bản thảo kinh" ­ bộ sách thuốc cổ nhất của Đông y học và rất nhiều các y thư khác; tác dụng của sừng tê giác cũng đã được khẳng định trên lâm sàng từ xưa. Nói rằng "sừng tê giác không phải là thuốc" là không thể chấp nhận. Sừng tê giác là một vị thuốc tốt, nhưng tê giác đang trên đà bị tiêu diệt, cần được bảo vệ. Để bảo vệ loài tê giác, cần tìm những vị thuốc khác, có khả năng thay thế cho nó. Hiện tại, giới thầy thuốc Đông y nói chung cho rằng, trong phần lớn các trường hợp, có thể thay thế sừng tê giác trong các đơn thuốc Đông y bằng sừng trâu (thủy ngưu giác). Ngoài ra, tùy tình hình cụ thể, còn có thể thay thế sừng tê giác bằng những dược liệu khác, cũng có tính năng lương huyết, thanh nhiệt, giải độc, cầm máu, ... như sừng tê giác; ví dụ như sinh địa hoàng, huyền sâm, địa cốt bì, trắc bách diệp, ... Lương y HUYÊN THẢO Xin vui lòng ghi rõ nguồn "Thuốc vườn nhà ­ http://www.thuocvuonnha.com" khi phát hành lại thông tin. Thông tin trên thuocvuonnha.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức; không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Quý bạn đọc.
  5. Huyền thoại và sự thật về sừng tê giác (Kỳ 1) Tê giác đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Chấm dứt sử dụng sừng tê giác như một vị thuốc là một việc cấp bách. Tuy nhiên điều đó không đồng nghĩa với việc phản ánh sai thực tế những tác dụng của sừng tê giác. Mà trước hết cần tìm hiểu một cách toàn diện những thông tin liên quan đến nó. Vì trên cơ sở đó, mới có thể tìm ra những vị thuốc khác, có khả năng thay thế cho sừng tê giác. NHỮNG HUYỀN THOẠI VỀ SỪNG TÊ GIÁC Thời xưa, ở phương Đông, người ta cho rằng, sừng tê giác là một thứ linh thiêng kỳ dị. Đào Hoằng Cảnh (456­-536) ­ nhà bác học và y học nổi tiếng, tác giả sách "Dưỡng sinh diên thọ lục" và "Danh y biệt lục" đã viết: "Dùng chén làm bằng sừng tê giác đựng gạo cho gà ăn, thì gà sợ mà không dám mổ. Đem chén gạo đặt lên nóc nhà, thì chim sẽ cũng không dám ăn Sách "Hoài nam tử" cũng nhận định tương tự: "Đặt sừng tê giác vào hang, cáo không dám trở về" Trong "Bản thảo Cương mục", Lý Thời Trân (1518­-1593) cũng nói tới một loại sừng tê giác thượng phẩm gọi là "dạ minh tê". Loại sừng này ban ngày và ban đêm đều phát sáng, có khả năng thông với thần linh, có thể xẻ nước, chim bay qua hay thú chạy qua, nhìn thấy đều kinh sợ (năng thông thần linh, phách thủy, phi cầm tẩu thú kiến liễu đô vi chi kinh hãi) Trong "Bản thảo Cương mục" Lý Thời Trân còn trích dẫn một số điều nói về tính năng kỳ dị của sừng tê giác, mà các thư tịch cổ đã ghi chép lại, như sau: ­ Sách "Khai nguyên di sự" có nói về loại sừng tê giác có tính năng chống lạnh, gọi là "tịch hàn tê"; loại sừng này màu vàng, xuất xứ từ Giao Chỉ; mùa Đông loại sừng này tỏa ra hơi ấm, làm khí lạnh không nhiễm được vào người. ­ Sách "Bạch khổng lục thiếp" nói về loại sừng tê giác có tính năng chống nắng nóng, gọi là "tịch thử tê”; Đường Văn Tông nhờ có được loại sừng này, mà mùa Hè nóng bức vẫn thấy mát mẻ. ­ Sách "Lĩnh biểu lục dị" nói về loại sừng tê giác có tính năng chống bụi bẩn gọi là "tịch trần tê"; dùng loại sừng này chế ra lược hay châm cài đầu, ... thì người luôn sạch sẽ, không sợ bị bụi bẩn bám vào ­ Sách "Đỗ Dương biên" nói về loại sừng tê giác có tính năng giúp kiềm chế sự cáu giận, gọi là "quyên phẫn tê"; dùng sừng loại này làm ngọc bội đeo ở đai áo, sẽ giúp người ta kiềm chế được những cơn tức giận Tê giác không chỉ là một vật linh thiêng, với những tác dụng rất kỳ lạ, mà còn có tác dụng giải độc cực mạnh. Như "Thần Nông bản thảo kinh” ­ bộ sách thuốc cổ nhất của Đông y đã viết: "Tê giác có thể giải tất cả các loại chất độc, như chất độc của sâu bọ, nọc rắn, lông chim độc, thậm chí giải được cả độc của lá ngón" Trong sách "Bão Phác Tử", danh y Cát Hồng viết: "Tê giác có thể ăn tất cả các loại cỏ độc và các loại cây bụi có gai, do đó nó có thể giải được các chất độc (Tê thực bách thảo chi độc cập chúng mộc chi cức, sở dĩ năng giải độc)". Người xưa tin rằng, chén làm từ sừng tê giác có tác dụng phát hiện được chất độc. Nếu rót rượu độc vào chén, thì sẽ thấy sủi lên bọt trắng. Thậm chí người xưa còn cho rằng, bị tên độc bắn trúng, lấy sừng tê giác đâm vào vết thương, lập tức khỏi. Cho đến những năm cuối thế kỷ 19, trong giới Đông y còn lưu truyền quan niệm cho rằng, dùng chén làm bằng sừng tê giác đựng thức ăn, thì ngay trong mùa Hè, 3-­4 ngày sau thức ăn trong đó vẫn không bị biến chất. Chén tê giác có tác dụng như một chiếc "tủ lạnh" như vậy, vì sừng tê giác là thứ có tính "cực hàn". Thực ra, những tính năng kỳ dị của sừng tê giác nói ở trên, cho đến nay vẫn chưa được kiểm chứng một cách khoa học, do đó hiện tại chúng ta vẫn chỉ có thể coi chúng là truyền thuyết. NHỮNG LOÀI TÊ GIÁC CÒN TỒN TẠI Trên thế giới từng tồn tại 5 loài tê giác. Theo tài liệu của CITES (viết tắt của cụm từ trong tiếng Anh Convention on International Trade in Endangered Species of Wild Fauna and Flora ­ Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp): Hiện nay trên thế giới vẫn tồn tại 5 loài tê giác, nhưng số lượng đã giảm đi rất nhiều. Tại châu Á chỉ còn khoảng 4000 cá thể; còn ở Châu Phi chỉ còn khoảng 25000 cá thể. Một số loài đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng. Nhìn tổng quát, theo sự phân bố: ­ Tại Châu Á có 3 loài: Tê giác Ấn Độ, Tê giác Java và Tê giác Sumatra. ­ Tại Châu Phi có 2 loài: Tê giác đen và Tê giác trắng. Trong số 5 loài trên, Tê giác Ấn Độ và Tê giác Java, là loài tê giác chỉ có 1 sừng; còn Tê giác Sumatra, Tê giác đen và Tê giác trắng là loài tê giác có 2 sừng. Tìm hiểu chi tiết hơn: 1. Tê giác Ấn Độ (Indian rhinoceros): Tên khác: "Đại độc giác tê" (tê giác một sừng lớn), "độc giác tê" (tê giác một sừng); tên khoa học là Rhinoceros unicornis L.; thuộc họ Tê giác Rhinocerotidae. Đặc điểm: Tê giác Ấn Độ là loại tê giác lớn, thân dài khoảng từ 3,2­-3,5 m; chiều cao ngang vai lên tới 1,8m, cân nặng chỉ kém voi và hà mã; đầu to, cổ ngắn, tai dài, mắt nhỏ, lỗ mũi to. Mũi và tai rất thính, nhưng thị giác kém phát triển. Chân ngắn, to, mỗi chân có 3 ngón có móng, ngón có dạng gần hình bán nguyệt. Da dày và cứng. Mặt da có nhiều u lồi lên; da màu đen xám, hơi tim tím. Ngoài tai và đuôi ra, hoàn toàn không có lông. Da có nhiều nếp gấp sâu, chia bề mặt da thành những mảng giống như áo giáp Theo "Từ điển động vật và khoáng vật làm thuốc ở Việt Nam" của T.S Võ Văn Chi: "Tai là bộ phận duy nhất của cơ thể tê giác có cảm giác đau". Số lượng sừng: Cả con đực và con cái đều có 1 sừng. Sừng mọc ở đầu mũi, màu đen, hình dạng như cái chùy, to nhưng không dài, thông thường chỉ dài khoảng 30­-40 cm Tập tính: Loài tê giác này sinh sống ở những nơi ẩm thấp, vùng Á nhiệt đới, trên thảo nguyên có nhiều cây bụi rậm. Hoạt động chủ yếu vào ban đêm. Thức ăn là cành cây, chồi non, các loại tre trúc và trái cây Tình trạng bảo tồn: Theo báo cáo của CITES loài này hiện tại chỉ còn khoảng 2500 cá thể, phân bố ở Ấn Độ, Nepal, Butan, Pakistan. 2. Tê giác Java (Javan rhinoceros): Tên khác: Tê giác nhỏ một sừng", "tiểu độc tê giác"; tên khoa học là Rhinoceros sondaicus Desmarest; thuộc họ Tê giác Rhinocerotidae. Đặc điểm: Loài này có hình dạng tương tự như tê giác Ấn Độ, nhưng kích thước nhỏ hơn. Da cũng có nếp nhăn. Số lượng sừng: Chỉ con đực mới có sừng. Sừng mọc ngay trên mũi. Sừng nhỏ, chỉ khoảng 25cm. Tập tính: Sinh sống ở các khu rừng rậm nhiệt đới, thích bơi trong nước, không ưa ánh sáng mặt trời. Thường đi một mình hoặc từng đôi đực cái. Thức ăn là cành cây, chồi non, lá cây, tre trúc, trái cây. Tình trạng bảo tồn: Trước kia phân bố ở Miến Điện, Thái Lan, Maylaysia, các nước Đông Dương. Hiện chỉ còn lại không quá 50 cá thể, phân bố chủ yếu ở Java Indonesia. Con tê giác Java cuối cùng ở Việt Nam đã bị giết 2010. 3. Tê giác Sumatra (Sumatran rhinoceros): Tên khác: "Tê giác 2 sừng Indonesia", "song giác tê" (tê giác hai sừng); tên khoa học là Rhinoceros sumatrensis Cuvier; thuộc họ Tê giác Rhinocerotidae. Đặc điểm: Là loại tê giác nhỏ nhất, thân dài chỉ khoảng 2,4-­2,5m, nặng khoảng 500­-800kg. Da thô dày. Thân có nhiều lông, màu xám hoặc màu nâu Số lượng sừng: Cả con đực và con cái đều có 2 sừng. Sừng trước mọc ngay ở trên mũi, sừng sau mọc ở đỉnh đầu. Sừng trước dài, sừng sau ngắn. Sừng của con cái nhỏ và ngắn hơn Tập tính: Tương tự tê giác Java. Tình trạng bảo tồn: Trước kia phân bố rộng từ Ấn Độ đến Maylaysia và Indonesia. Hiện chỉ còn khoảng 300 cá thể ở Indonesia. 4. Tê giác đen châu Phi (Black rhinoceros): Tên khác: "Tê giác mõm nhọn", "tư giác", "trụ giác", "thiên mã giác"; tên khoa học là Rhicoceros bicornis L; thuộc họ Tê giác Rhinocerotidae. Đặc điểm: Là loại tê giác lớn, chiều cao ngang vai tới 150­-175cm. Nặng trên dưới 1 tấn. Con đực nặng 850-­1600kg, cá biệt có thể nặng đến 1800kg; con cái nhẹ hơn con đực. Tuổi thọ tối đa 30­-45 năm. Con cái thường bắt đầu sinh sản từ 7 tuổi, con đực từ 8 tuổi. Tê giác con được sinh ra sau 15 tháng con mẹ mang thai. Thời gian giữa các lần sinh là 22-­24 tháng, đó cũng là thời gian con non sinh ra trước đó bắt đầu tự lập. Số lượng sừng: Cả con đực và con cái đều có 2 sừng. Sừng trước thường dài khoảng 50cm, cá biệt có thể tới 1m. Sừng trước dài, cong về phía sau, sừng sau ngắn mọc thẳng Tập tính: Sống ở các khu rừng nguyên sơ. Ăn lá, môi trên có thể dùng để vặt lá và cành non Tình trạng bảo tồn: Hiện còn khoảng 3500 cá thể, phân bố ở miền Đông Châu Phi. Tình trạng bảo tồn cực kỳ nguy cấp 5. Tê giác trắng châu Phi (White rhinoceros): Tên khác: "Bạch tê", tên khoa học là Rhinoceros simus Cottoni; thuộc họ Tê giác Rhinocerotidae. Chia ra 2 phân loài là Tê giác trắng miền Bắc (C.s. contoni) và Tê giác trắng miền Nam (C.s. simum). Đặc điểm: Là loài tê giác lớn, thân có thể dài tới 4,1-­4,4m. Con đực có chiều ngang vai tới 200cm, con cái tới 177cm. Con đực nặng 2000-­2300kg, cá biệt có thể nặng tới 4000kg; con cái nhẹ hơn con đực, trung bình nặng khoảng 1600kg. Tuổi thọ tối đa 40­-45 năm. Con cái có thể bắt đầu sinh sản từ 4 tuổi. Tê giác con được sinh ra sau 16 tháng mang thai; dừng bú sau 1 năm và tự lập sau 2­-3 năm. Kích thước sừng: Cả con đực và con cái đều có 2 sừng. Sừng con đực to và dài hơn, sừng con cái nhỏ và ngắn hơn. Sừng trước dài hơn sừng sau. Sừng trước thường dài khoảng 90cm, các biệt có thể trên 1,5m. Sừng sau dài 33-­46cm Tập tính: Ăn cỏ, thích ăn loại cỏ ngắn và rậm rạp. Tình trạng bảo tồn: Là loại tê giác có số cá thể lớn nhất. Hiện có khoảng 20 000 cá thể. Tuy nhiên quần thể tê giác trắng ở Nam Phi và Swaziland được phép săn bắt theo hình thức Trophy Hunting (săn bắn giải trí và được giữ như chiến lợi phẩm sau khi săn bắn) Lương y HUYÊN THẢO Xin vui lòng ghi rõ nguồn "Thuốc vườn nhà ­ http://www.thuocvuonnha.com" khi phát hành lại thông tin. Thông tin trên thuocvuonnha.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức; không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Quý bạn đọc.
  6. Dùng Tam thất chữa trị u mỡ Hỏi: Cách đây khoảng 1 năm, tôi thấy xuất hiện nhiều cục nhỏ nằm rải rác khắp cơ thể. Xuống bệnh viện K, khám & xét nghiệm được chẩn đoán là u mỡ. Về nhà tôi được một bác sĩ khuyên ăn bột củ tam thất để hạn chế khối u phát triển. Tôi đã sử dụng được 6 tháng; mỗi ngày 2 thìa cà phê bột củ tam thất xanh, chứ không phải đen; độ to của khối u đã giảm được 60%, những u bằng đầu ngón tay, nay chỉ còn bằng hạt ngô. Nhưng tôi không biết tính năng cụ thể của tam thất và uống kéo dài có ảnh hưởng gì không? Rất mong "Thuốc vườn nhà" chỉ dẫn cho biết. Trần Thị Mai, Cao Phong, Hòa Bình Đáp: Tam thất còn có tên là "sâm tam thất", "kim bất hoán", ... tên khoa học là Panax pseudo­ginseng Wall. (Panax repens Maxim.), thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae). Vị thuốc "Tam thất" (Radix psendo­ginseng) là rễ phơi khô của cây tam thất. Tên kim bất hoán (vàng không đổi được) có nghĩa là vị thuốc rất quý, vàng không thể đổi. Tên "tam thất" có nhiều cách giải thích: Trong sách "Bản thảo cương mục" ghi vì cây có 3 lá ở bên trái, 4 lá ở bên phải do đó có tên tam thất. Nhưng có người lại nói tam = ba, có ý nói: Từ lúc gieo đến lúc ra hoa phải 3 năm. Thất = bảy, ý nói từ lúc gieo đến khi thu hoạch rễ bán được phải mất 7 năm. Có người lại nói vì lá tam thất có từ 3 đến 7 lá chét. Còn gọi là "sâm tam thất" vì tam thất cùng một họ thực vật với vị nhân sâm. Tam thất là một loại Đông dược quý hiếm, lại có tên là "sâm tam thất" nên nhiều người thường tưởng rằng đó là thuốc bổ. Thực ra trong Đông y truyền thống, tam thất được xếp vào loại thuốc "chỉ huyết" (thuốc cầm máu). Thuốc chỉ huyết của Đông y chia ra 4 nhóm: "Lương huyết chỉ huyết" (làm mát máu để cầm máu), "Hóa ứ chỉ huyết", "Thu liễm chỉ huyết" (thu nhỏ, làm se, để cầm máu) và "Ôn kinh chỉ huyết" (làm ấm kinh mạch để cầm máu). Tam thất được xếp trong nhóm "Hóa ứ chỉ huyết" ­ nghĩa là tiêu trừ ứ trệ để cầm máu; chủ trị các chứng xuất huyết do khí huyết bị ứ trệ gây nên. Theo Đông y truyền thống: Tam thất có vị ngọt, hơi đắng, tính ấm, vào 2 kinh Can và Vị. Có tác dụng hành ứ, cầm máu, tiêu thũng, ... Chủ trị thổ huyết, chảy máu cam, lỵ ra máu, đẻ xong máu hôi không sạch, ung thũng, đòn ngã tổn thương, ... Sách "Bản thảo tân biên" viết: Tam thất là vị thuốc cầm máu thần kỳ; đối với tất cả các chứng xuất huyết chỉ cần dùng một vị tam thất là đã kiến hiệu, ... Trên lâm sàng, hiện nay tam thất thường được sử dụng để chữa bệnh thiếu máu, các chứng xuất huyết, như ho ra máu, xuất huyết đáy mắt, xuất huyết não, các bệnh huyết mạch như bệnh mạch vành tim, tăng lipid máu, cao huyết áp, thiên đầu thống (đau nửa đầu), ... Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại cho thấy, tam thất có nhiều tác dụng: (1) Cầm máu, rút ngắn thời gian đông máu; (2) Xúc tiến quá trình tạo máu; (3) Hạ huyết áp; (4) Điều hòa nhịp tim; (5) Chống xơ mỡ động mạch; (6) Tăng lưu lượng máu trong não, chống thiếu máu não; (7) Tăng cường chức năng miễn dịch, chống viêm; (8) Bảo vệ gan; (9) Tiêu trừ khối u và ức chế sự phát triển của tế bào ung thư; nên được sử dụng để phòng trị ung thư; (10) Chống lão suy; (11) Điều hòa đường huyết, nhờ tác dụng điều chỉnh hai chiều đối với đường huyết; (12) Ngoài ra còn có tác dụng xúc tiến hấp thụ chất mỡ, thúc đẩy sự hợp thành protein đạm và acid amin trong cơ thể, ... Trở lại vấn đề sử dụng tam thất chữa u mỡ. Như trên đã nói, tam thất có tác dụng "hóa ứ", tức tiêu trừ trạng thái ứ trệ, nên hiện tại thường được sử dụng để chữa trị các loại u bướu. Vì theo Đông y, các khối u đều là do khí huyết bị ứ trệ gây nên. Hiện tại trên lâm sàng, tam thất thường được sử dụng để chữa trị nhiều loại u bướu, cả u lành và u ác tính (ung thư). Bạn sử dụng tam thất có kết quả tốt, nhưng băn khoăn dùng dài ngày có tác hại gì không. Điều này tùy thuộc vào phản ứng cụ thể của cơ thể bạn. Nếu không thấy biểu hiện dị thường thì có thể tiếp tục sử dụng cho đến khi khỏi bệnh. Tuy nhiên, tốt nhất nên định kỳ đến bệnh viện khám và làm những xét nghiệm cần thiết theo sự hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa. Còn có một vấn đề nữa cần làm sáng tỏ. Bạn viết dùng bột "củ tam thất xanh, chứ không phải đen", cũng không nói rõ "xanh lam" hay "xanh lục", ... khiến chúng tôi rất thắc mắc. Vì trên thực tế không có củ tam thất màu xanh. Củ tam thất sau khi đào về, người ta rửa sạch bùn đất, cắt bỏ rễ con, đem phơi nắng cho hơi héo, đem lăn, vò cho mềm, lại phơi nắng và vò hoặc lăn; làm như vậy 3­5 lần thì củ khô hẳn, lúc này vỏ ngoài có màu be còn lõi có màu vàng nhạt. Nếu cho vào túi gai lắc đi lặc lại nhiều lần, thì củ sẽ có màu đen và nhẵn bóng. Hay bạn đã sử dụng một loại củ khác? Trên thực tế, ngoài vị "tam thất chính hiệu" kể trên, dân gian còn thường dùng rễ củ của một số cây khác với tên "tam thất". Thông dụng nhất là 2 loại sau: ­ Thứ nhất là cây có tên khoa học là Gynura segetum (Lour.) Merr. hoặc Gynura pinnatifida, thuộc họ Cúc Asteraceae (Composirae), trồng ở đồng bằng cũng được. Đó là một loại cỏ sống lâu năm, cao chừng 6­90cm. Rễ và lá đều mềm, có nhiều đám đốm tím. Lá to có những thùy to cắt sâu; thùy hình mác, mép có răng cưa. Mùa thu ra cụm hoa hình đầu. Hoa hình ống màu vàng. Lá và rễ, cũng dùng làm thuốc cầm máu như vị tam thất. Có khi dùng chữa rắn cắn. ­ Thứ hai là một cây họ Gừng (Zingiberaceae), loài Stablianthus thorelli Gagnep., có thân rễ nhỏ, cũng được bán với tên tam thất Vậy trên thực tế bạn đã sử dụng loại "tam thất" nào? Mong bạn hồi âm và nói rõ, để chúng tôi tìm hiểu và phổ biến cho các bạn đọc khác cùng tham khảo. Nhân tiện xin đề nghị: Bạn đọc muốn hỏi về tác dụng của một vị thuốc nào đó, thì nên mô tả tỉ mỉ những đặc điểm, cũng như ghi thêm những tên gọi khác, của vị thuốc đó. Lương y HƯ ĐAN Xin vui lòng ghi rõ nguồn "Thuốc vườn nhà ­ http://www.thuocvuonnha.com" khi phát hành lại thông tin. Thông tin trên thuocvuonnha.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức; không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Quý bạn đọc.
  7. đây là kết quả dbtt của td trong tháng vừa qua ^_^(ghi ở bài viết đầu tiên) đến kì tới nếu td đưa dự báo sẽ up luôn những dự báo của các đài khí tượng để thêm phần sinh động :lol: cám ơn mọi người đã chú ý theo dõi ^_^
  8. Dân gian vẫn thường cho rằng ma quỷ thật đáng sợ, có thể quấy phá ở dương gian, mang đến tai họa cho con người. Bên cạnh đó, người ta cũng cho rằng có một số thứ lại khiến ma quỷ phải sợ. Quỷ sợ ánh sáng Mặt trời Trong dân gian có cách nói “hai cõi âm dương”, chính là quan niệm rằng con người sống ở “dương gian” , ma quỷ sống ở “âm gian”. Con người chết đi sẽ thành ma quỷ, tức là đi về cõi âm, ma quỷ vẫn có thể chuyển sinh thành người (hoặc là những động vật khác) tức là quay trở lại dương gian. Giữa người và quỷ, có thể có sự qua lại với nhau, ví như khi người ta nằm mộng hoặc khi linh hồn rời khỏi thân xác, có thể du ngoạn “âm tào địa phủ”, đến âm gian một chuyến. Còn ma quỷ vào lúc đêm tối hoặc những lúc âm u cũng lén lút mà chạy đến dương gian quậy phá tác quái một phen. Tuy nhiên, thông thường thì người và quỷ không thể qua lại giao du với nhau được. Ở đây, ranh giới và chướng ngại lớn nhất chính là “ánh sáng Mặt trời”. Con người hoạt động vào ban ngày, hoạt động dưới ánh sáng Mặt trời, và Mặt trời lại là thứ mà quỷ hồn khiếp sợ nhất. Giữa thanh thiên bạch nhật, hết thảy ma quỷ đều không có nơi ẩn núp. Vậy nên khi Mặt trời sắp ló rạng, ma quỷ đã vội vàng bỏ chạy mất rồi. Quỷ sợ lửa Ánh lửa từ ngọn lửa đang cháy, loại ánh sáng này rất giống với ánh sáng Mặt trời, chỉ là không có cường độ ánh sáng mạnh mẽ như của Mặt trời, nhưng đối với ma quỷ cũng có sức uy hiếp rất lớn. Dân gian tương truyền rằng, buổi tối khi người ta đi đường, nếu như gặp phải ma quỷ chỉ cần đốt một cây đuốc sẽ dọa cho ma quỷ sợ hãi mà bỏ chạy đi mất. Khi không có mồi lửa, thì hãy dùng tay vò vò đầu tóc, bởi đốm sáng phát ra từ tóc cũng có khả năng đuổi quỷ tránh tà. Có thể thấy phần lớn ma quỷ đều sợ ánh lửa. Bởi vậy, dân gian thường dùng cách đốt lửa để trừng trị ác quỷ. Quỷ sợ tiếng nổ Khi thanh gỗ, tre trúc dập tắt, sẽ phát ra tiếng vang “Bộp! Bộp! Bộp! Bộp!”. Người ta nói rằng, loại tiếng nổ này cũng là khiến cho ma quỷ phải kinh sợ. Trong dân gian khi xua đuổi tà ma thường hay đốt pháo, chính là dựa theo loại phong tục này. Quỷ sợ màu đỏ Dân gian cho rằng ma quỷ không dám chạm vào vật có màu đỏ. Vậy nên dân gian thường dùng lấy vải đỏ, máu động vật để xua đuổi tà ma. Ma quỷ sợ đèn Đèn phát ra ánh sáng, tác dụng của nó có phần tương tự như Mặt trời. Những ngọn đèn thời xưa, thường là loại đèn dầu, là dùng ánh lửa để chiếu sáng. Vì vậy, nó là thứ khiến cho ma quỷ phải khiếp sợ. Ma quỷ sợ đồ đồng Có người cho rằng ma quỷ có khả năng né tránh viên đạn, nhưng trong súng lắp cái chốt bằng đồng, thì ma quỷ không thể tránh được. Trong phong tục cưới hỏi của dân tộc Hán thời xưa, tân nương trước khi bước lên kiệu, sẽ đeo một chiếc gương đồng cổ trước ngực, tục gọi là “kính chiếu yêu”. Người ta cho rằng, có tấm gương này rồi, một số yêu ma quỷ quái sẽ không dám đến quấy nhiễu cô dâu nữa. Ma quỷ sợ tiếng gà gáy Tục gọi là quỷ sợ gà, kỵ tiếng gà gáy. Nghe nói, ma quỷ mà nghe thấy tiếng gà gáy thì người co rút, hoảng loạn, trong tâm vô cùng khiếp sợ. Cách nói này rất có thể là bắt nguồn từ câu “gà gáy trời sẽ sáng”. Quỷ âm sợ Mặt trời, gà thuộc dương, gà gáy tức là Mặt trời sẽ ló rạng. Mặt trời ló rạng thì ma quỷ không còn chỗ ẩn náu nữa. Vậy nên nói, gà là thứ mà ma quỷ kiêng kỵ. Ma quỷ sợ hình con hổ Dân gian thường hay vẽ hổ ngay trước cửa nhà, hoặc là làm đồ trang sức có hình con hổ cho trẻ em (mang giày đầu hổ, đội mũ đầu hổ) thì có thể đuổi tà tránh quỷ. Có thể thấy trong tương truyền của dân gian, quỷ cũng sợ hổ, tránh hổ như tránh người vậy. Ma quỷ sợ gỗ đào Cây gì trừ ma quỷ? Theo tục lệ, vào ngày cuối năm mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là “lên nêu” có thể đuổi được ma quỷ. Ngoài ra, dân gian cũng có thói quen lấy gỗ đào làm cung tên, đao, gậy, cũng là để đuổi tà trừ quỷ. Ma quỷ sợ gạo Dân gian cho rằng gạo có tác dụng xua quỷ tránh tà. Ở nhiều vùng có tục rằng, sản phụ đầy tháng trên đường về nhà mẹ đẻ, mỗi lần đi qua một giao lộ đều cần phải rải một nắm gạo. Nếu không làm vậy, người ta cho rằng sẽ bị ma quỷ tác quái làm hại. Ở Đài Loan, khi tân nương xuống kiệu cần người nhà giơ cái sàng gạo bát quái đội lên đầu mới có thể đi vào phòng lớn, đây cũng là phong tục dùng vật dụng có liên quan với gạo để xua đuổi tà ma, chiêu mời phúc lành. Khi trẻ em té ngã, dân gian quen dùng muối và gạo rải xuống nơi trẻ té ngã, tin rằng như vậy liền có thể xua đuổi ta ma làm hại trẻ nhỏ. Khi chôn cất, sau khi rải muối gạo, quỷ hồn của người đã chết sẽ không làm hại những người khiêng quan tài được nữa. Trong phong tục “gọi hồn” ở vùng Giang Tô cũng thường dùng gạo thóc làm “đạo cụ” chủ yếu trong việc đuổi tà dẫn hồn. Có thể thấy, gạo thóc là vật khiến cho ma quỷ khiếp sợ. Trên đây là những điều vẫn tương truyền trong dân gian, là những phong tục thường thấy ở nhiều vùng đất khác nhau. Tuy nhiên, lại nói thêm rằng, ma quỷ chỉ có thể quấy nhiễu khi con người có tâm bất chính chiêu mời chúng đến mà thôi. Còn đối với một người sống cuộc sống lành mạnh, tâm gieo điều thiện, một lòng kính ngưỡng đối với Thần Phật, đặc biệt là những người tu luyện chân chính … thì sẽ không ma quỷ nào dám quấy nhiễu. Bởi ma quỷ sợ nhất chính là những người này. Tiểu Thiện, dịch từ hege8.com những cách làm trên phần lớn để tránh âm khí tích tụ , gây ra bệnh tật , điềm xui rủi
  9. Thắp “ba nén hương” và vái “ba vái” đã thành tục lệ quen thuộc của người dân từ xưa đến nay khi đi lễ chùa. Tuy nhiên, con người ngày nay không phải ai cũng có thể hiểu hàm nghĩa thâm sâu đằng sau kính lễ này. Vào ngày lễ, tết, … rất nhiều người thường có tâm niệm muốn đi lễ chùa bái Phật. Họ thắp hương, vái lạy trước tượng Phật cầu xin được khỏe mạnh, tiêu tai, thăng quan phát đạt, tình duyên tốt đẹp hay thi cử đỗ đạt… Đối với nhiều người, việc đưa tay lấy ba nén hương và vái ba vái trước tượng Phật tựa như hành động “tập mãi thành quen” mà không hiểu ý nghĩa đằng sau của hành động này. Kỳ thực “ba nén hương” và “ba vái” là có nội hàm ý nghĩa sâu xa ở đằng sau. Nếu như có thể hiểu rõ hàm ý này, rất có thể “trời xanh có mắt” chứng kiến cho tấm lòng thành kính của chúng ta mà có thể phù hộ! Chúng ta thắp “ba nén hương” trước tượng Phật là có ý nghĩa tương ứng với “Giới, định, huệ”. Nén hương thứ nhất được gọi là “giới hương”, tức là trước mặt tượng Phật biểu đạt lòng quyết tâm của mình, từ bỏ thói quen xấu và ý nghĩ xằng bậy của mình. Nén hương thứ hai được gọi là “định hương” là có ý hy vọng đối với bất kỳ sự việc nào xảy ra thì bản thân cũng có thể tĩnh được, bình tĩnh mà xử sự. Nén hương thứ ba được gọi là “huệ hương” (hay “tuệ hương”) là có ý khẩn cầu bản thân có được trí tuệ, khai ngộ mà gặp được Phật tâm. Theo kinh Phật thì “Giới, định, huệ” là phương pháp “phá mê khai ngộ” và cũng là một loại quan hệ nhân quả. Chỉ có thể từ bỏ thói quen xấu và ý nghĩ xằng bậy của bản thân thì tâm mới có thể định xuống được. Khi tâm đã định được rồi mới sinh ra kết quả “định sinh huệ”. Vậy vì sao phải vái ba vái? Vái thứ nhất thể hiện cho tâm lễ kính Phật. Vái thứ hai là thể hiện nguyện vọng mong muốn được giác ngộ, nguyện lòng hướng Phật. Vái thứ ba là trang nghiêm sám hối lỗi lầm của mình trước Phật. Như vậy, có thể thấy rằng, thắp hương và bái Phật không chỉ là hành động “theo thói quen” hay hành động “bề ngoài” mà chính là thể hiện tâm niệm của con người đối với Thần Phật. Vậy nên, người xưa có câu “không thắp hương không bái lạy mà vẫn được phúc báo” chính là có ý nói rằng, cái tâm của con người mới là yếu tố quan trọng nhất và được chư phật thần linh nhìn thấy rõ. Theo Daikynguyenvn
  10. Có nhiều gia đình có con nhỏ ban ngày thì rất ngoan nhưng ban đêm thì lại hay khóc và có những đứa bé khóc như có người đánh. Sau khi xử lý bằng các mẹo và bằng phong thủy thì gia đình thấy trẻ không khóc đêm nữa và ngủ rất tốt. Có những đứa bé rất ngoan, ngày ăn uống tốt, nhưng cứ đêm xuống là cháu bé khóc to và không ngủ, cũng có những bé cả ngày hay khóc và rất khó nuôi. Hiện tượng trẻ khóc đêm xẩy ra ở những bé mới sinh cho đến tận 2 tuổi. Và khi trẻ khóc đêm nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến sức khỏe của bé cũng như mọi người trong gia đình. Nguyên nhân của hiện tượng trẻ khóc đêm? - Hiện tượng trẻ khóc đêm có 2 nguyên nhân chính sau: 1. Giờ sinh của trẻ phạm vào giờ Dạ Đề - Trẻ mà sinh vào giờ Dạ Đề thì hay khóc đêm, người hay mệt mỏi, hay co giật. - Giờ Dạ Đề tính như sau: + Mùa Đông sinh vào giờ Mão ( từ 5h – 7h sáng) + Mùa Xuân sinh vào giờ Ngọ (từ 11h – 13h trưa) + Mùa Hạ sinh vào giờ Dậu ( từ 17h -19h tối) + Mùa Thu sinh vào giờ Tí (từ 23h – 1h đêm) - Cách hóa giải: có 3 cách + Cách 1: Lấy xác con ve sầu chấm vào miệng và chân (trai thì 7 lần, gái thì 9 lần) sau đó sao chín ròn rồi pha nước cho bé uống + Cách 2: Lấy cỏ mọc qua thành giếng đào mang về dấu người mẹ đặt xuống bên dưới giường. + Cách 3: Lấy 2 tờ giấy màu hồng có tẩm hương thơm để vào áo của bé ( 2 ngày) sau đó mang ra phun ít nước và chờ cho khô thì viết 2 chữ to kín giấy ” Điệp An” và tẩm tiếp hương thơm. Xé làm 4 mành/ 1 tờ, mỗi mẹ con 1 nửa để vào người (1 ngày) sau đó đốt lấy tro bôi vào má, vào gót chân và ngực của bé. Kết quả: Vài ngày sau thì bé sẽ hết khóc ( Đây là bài thuốc mẹo trong dân gian rất hiệu quả mà lại có tác dụng nhanh) 2. “Địa khí phong thủy” trong ngôi nhà rất yếu, có nhiều ác xạ và âm khí ( có vong ) - Có nhiều trường hợp khi xem giờ sinh của bé thấy không phạm giờ Dạ Đề nhưng đêm bé hay khóc và con thét lên. Chính vì thế sau khi kiểm tra đại khí của đất tại căn nhà thì thấy địa khí rất âm khí (nhiều tia ác xạ bắn lên trên nhà, nhà có quá nhiều tà khí, có nhà còn có vong hồn vảng vất bên ngoài vào). Chính do địa khí và nhà có nhiều tà khí nên trẻ hay khóc đêm mặc dù sinh không phạm giờ Dạ Đề. - Cách hóa giải: + Dùng Cách thứ 3 như bên trên. + Trấn trạch lại ngôi nhà + Tẩy uế trừ tà + Nâng khí bằng đá phong thủy. Kết quả: Sau khi xử lý thì hai ngày sau trẻ hết khóc đêm và ăn uống rất tốt Theo mangphongthuy
  11. “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, ông bà xưa khuyên nhủ con cháu phải kiêng kỵ những điều cấm phạm phải trong tâm linh để tránh gặp những điều bất trắc. Dưới đây là danh sách những vật dụng không nên đem đốt vì nó có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, vận may của bản thân theo kinh nghiệm của người xưa… 1. Hình chụp không nên đốt Nhiều người sau khi ly hôn thì những hình ảnh kết hôn trước đây không biết xử lý thế nào, cách mà nhiều người thường hay làm là dùng lửa đốt đi cho sạch sẽ không để lại dấu vết. Nhưng việc đốt hình thường sẽ gây những hệ quả không tốt như: tranh cãi, bệnh tật, tinh thần không còn phấn chấn… Vì thế phải thận trọng. 2. Quần áo không nên đốt Theo kinh nghiệm dân gian, quần áo rất không nên đốt, nếu quá cũ thì có thể mang cho hoặc bỏ đi chứ đừng đốt. Vận rủi của việc đốt quần áo là có thể bị đại nạn bất ngờ. Hãy lưu ý! 3. Sách không nên đốt Không quý trọng sách lại mang vứt bỏ hoặc đốt là việc đại bất kính, sẽ chịu hậu quả. Ví như có nhiều người con cái học hành không tốt hoặc đần độn… thường có quan hệ đến việc này. Nếu sách không đọc đến hay không thích thì có thể biếu tặng hoặc tích trữ lại, điều này nhất định bạn phải ghi nhớ. 4. Vật phẩm theo sát bên mình Những vật phẩm gần gũi với mình, hoặc dùng lâu chắc hẳn cũng mang lại cảm xúc, có phần linh tính trong đó, vì thế tốt nhất không nên đốt. Ví như có người đốt ví tiền, vận rủi của việc này thường là không giữ được tiền bạc, dễ xui xẻo về đường của cải. 5. Tóc không nên đốt Tóc là phần dư của máu, vì thế tóc rất quan trọng. Vận rủi của việc đốt tóc thường là hay bị đau đầu, bị lừa gạt, nghiêm trọng hơn có thể ảnh hưởng đến vận mạng về tình cảm. Cần nhấn mạnh đặc biệt là vào tháng Giêng âm lịch, tuyệt đối kỵ đốt những thứ này. Trong cuộc sống có những phong tục hoặc kinh nghiệm chú ý một chút vẫn hơn, chỉ có lợi cho công việc cũng như cuộc sống. Theo daikynguyenvn.com @ khi có người chết đuối chưa tìm thấy xác , người ta thường dùng các vật như quần áo , đồ dùng của người đó ném xuống sông .để sau 1 thời gian xác sẽ dc tìm thấy hoặc nổi lên tại khu vực đó đây là hiện tượng đồng thanh tương ứng , đồng khí tương cầu trong phong thủy ^_^
  12. Sau Thế chiến I, một nước nọ muốn dùng phương pháp khoa học để tuyên truyền người dân không tin vào Thần Phật, họ mong muốn cả dân tộc thoát ly khỏi tín ngưỡng. Vậy là trong một buổi hội thảo, chính quyền mời ba vị Tiến sĩ lên thuyết giảng… Vị thứ nhất là Tiến sĩ về Thiên văn, sau khi ông bước lên sân khấu lý giải vô số lý do về thuyết vô thần, cuối cùng ông hô to: :ph34r: Tôi đã dùng kính viễn vọng quan sát vũ trụ hơn 20 năm nhưng chưa bao giờ trông thấy Thần, vì thế chắc chắn không có thần thánh :unsure: “ ”. Sau câu nói ông nhận được tràng pháo tay của số đông công chúng. Vị thứ hai là Tiến sĩ Y học, sau khi nói rất nhiều đạo lý cho rằng con người tuyệt nhiên không có linh hồn, ông kết luận: :angry: “ Tôi từng giải phẫu hàng trăm thi thể, quan sát tỉ mỉ các bộ phận, thế nhưng không phát hiện có nơi nào để linh hồn gửi gắm. Trong tim à? Trong đầu à? Trong máu à? Tôi đều giải phẫu nhiều lần rồi nhưng không thấy gì, vì thế chắc chắn không có linh hồn” :angry: . Nói xong lại nhận được tràng pháo tay vang dội. Vị thứ ba là một nữ Tiến sĩ, một nhà luận lý học. Cô từ từ bước lên sân khấu rồi phát biểu: “ Người chết giống như cái đèn bị tắt. Chết là hết, tuyệt đối không có cái gọi là Thiên đàng hay Địa ngục để phán xét. Tôi từng đọc qua các sách cổ kim đông tây nhưng không thấy ghi chép gì về chuyện này”. :wacko: Sau khi ba vị tiến sĩ thuyết giảng xong, người chủ trì hướng về phía công chúng nói: “Nếu trong tất cả mọi người có ai không thỏa mãn, hoặc muốn tranh luận, đều có quyền lên thảo luận công khai”. Sau một lúc lâu nhưng không có ai lên tiếng phản bác, buổi tuyên truyền chuẩn bị kết thúc trong sự đắc thắng. Bỗng một bà cụ bước lên sân khấu, nói với người chủ trì: “Tôi có thể hỏi thêm vài câu hỏi được không?” Vị chủ trì nói: “Rất hoan ngênh cụ!” Thế rồi bà cụ nhìn vị tiến sĩ đầu tiên, hỏi: “Anh dùng kính viễn vọng nhìn được hơn 20 năm, thế anh có nhìn thấy gió không? Nó có hình dạng thế nào?”. Vị tiến sĩ trả lời: “Kính viễn vọng sao có thể trông thấy gió được thưa cụ?” Bà cụ nói: Trên thế giới có gió không? Anh dùng kín viễn vọng nhìn không thấy gió, lẽ nào anh có thể dùng kính viễn vọng nhìn thấy Thần? Anh dùng kính viễn vọng nhìn không thấy Thần thì có nghĩa là không có Thần sao?”. :D “ Vị Tiến sĩ chỉ biết im lặng không thể nói lại được. Thế rồi bà cụ lại nhìn sang vị Tiến sĩ thứ hai, hỏi: “Anh có yêu vợ anh không?” Vị Tiến sĩ kia thưa: “Dạ, có yêu thưa cụ”. Bà cụ tiếp lời: “Vậy anh đưa con dao giải phẫu cho tôi, tôi thử mổ bụng anh xem thử cái gọi là ‘yêu’ đó nằm ở bộ phận nào? Trong gan? Trong dạ dày? Hay trong ruột?”. Bên dưới mọi người cười vang dội. :lol: Tiếp tục, bà cụ lại nhìn sang nữ Tiến sĩ hỏi: “Cô đã đọc quyển sách này chưa? Nó gọi là «Kinh thánh». Chẳng phải rõ ràng quyển sách này có nói mọi người sau khi chết đều chịu phán quyết sao? Cô đừng tưởng chết là hết, phải biết rằng việc sau khi chết còn nhiều và dài hơn lúc còn sống rất nhiều! Khi cô còn trong bụng mẹ, nếu có người nói với cô rằng ‘không lâu nữa cô sẽ có mặt trên trái đất, có trời trăng sơn thủy, phải ăn cơm mặc quần áo’, cô có tin không? Thế nhưng hôm nay cô không chỉ tin mà còn thực sự đã đang sống trong thế giới này. Thế giới vĩnh hằng cũng là như thế!” …..(khoảng lặng dài)…… Theo daikynguyenvn.com @cô tiến sĩ thứ 3 : chết là hết sao? với tư tưởng như vậy sẽ làm người ta sống ích kỉ ,và tiêu cực hơn .chẳng hiểu cô này định tuyên truyền cái gì ;)
  13. Khi các nhà khoa học gặp gỡ Matthew Manning với những năng lực kì lạ được chứng thực bằng các bài kiểm tra tổng quát suốt nhiều năm trời, người ta đã không thể phủ nhận sự tồn tại của những năng lực siêu nhiên. Những con yêu tinh và khả năng tự động viết Matthew Manning sinh ngày 17/8/1955, tại làng Shelford, thành phố Cambridge, Anh quốc. Ban đầu cuộc sống của ông rất bình thường, mãi cho đến năm ông 11 tuổi những điều kỳ lạ bắt đầu diễn ra xung quanh. Sự kiện kỳ lạ đầu tiên xảy ra khi một vật nhỏ bắt đầu dịch chuyển từ nơi này sang nơi khác trong nhà ông. Lúc đầu, gia đình ông nghĩ rằng ai đó đã đùa vui, và không chú ý cho lắm. Nhưng trong những tuần sau đó, những việc kỳ lạ diễn ra thường xuyên hơn. Tiếng gõ cửa khắp nơi trong nhà, và khi gia đình ông bắt đầu tìm hiểu xem việc gì đang xảy ra, họ không tìm thấy bất cứ thứ gì gây nên tiếng động đó. Những việc kỳ lạ đó ngừng lại trong một thời gian, nhưng sau một năm, nó trở lại với cường độ lớn. Những cái bàn và ghế tự di chuyển mà không có bất kỳ ai ở gần, chữ viết ngệch ngoạc của trẻ con trên tường, và thậm chí cả trên trần nhà nơi không ai có thể với tới. Bố của Matthews tin rằng có yêu tinh trong nhà, và ông đã từng tới đồn công an trình báo. Nhưng may mắn là một viên cảnh sát tin và giúp ông liên lạc với Giáo sư di truyền học George Owen. Ông này cũng rất quan tâm tới những việc kỳ lạ, và đã cho Matthew lời khuyên làm thế nào để giải quyết vấn đề đó. Trong video bên dưới, Matthew đã đến học tại trường nội trú, và những rắc rối thực sự bắt đầu. Cậu chưa từng có mặt tại đây trước đó, nhưng hoạt động của những con yêu tinh lại thực sự bắt đầu. Những cái giường dịch chuyển, những cái ghế bay xung quanh phòng, rồi dao, đinh và bóng đèn bay lơ lửng trong không khí. Điều kỳ lạ nhất là những vũng nước hiện lên sàn nhà trong khi không có ai trong phòng. Chưa dừng lại ở đó, còn những điều tồi tệ hơn như mưa sỏi đá rơi xuống từ trần nhà, như thể là chúng được tạo ra từ không khí. Matthew cũng bối rối như những người khác. Cuối cùng, thầy hiệu trưởng quyết định đuổi cậu khỏi trường vì phá rối lớp học. Những học sinh và giáo viên biết rằng cậu ta không phải là người thực sự gây ra những rắc rối trên, vì có rất nhiều người làm chứng, nhưng họ không biết phải giải quyết thế nào. Khi Matthew chuẩn bị rời đi, thầy hiệu trưởng đã gọi cậu lại và nói rằng cậu có thể ở lại. Thầy hiệu trưởng lo lắng, nếu Matthew quay về nhà, những tờ báo sẽ bắt được tin này, và trường của ông sẽ gặp phiền toái vì những soi mói. Vì vậy, mọi người nghĩ, tốt nhất là có thể trông chừng cậu, và cố hết sức hạn chế mọi rắc rối. Ngày nọ, Matthew đang viết một bài tiểu luận, và đột nhiên cậu cảm thấy tay mình tự viết bài. Sau một lúc viết vội trên giấy, cậu đột nhiên nhận ra là cậu đang tự động viết. Và đặc biệt hơn, những hiện tượng kỳ lạ đã giảm xuống. Cậu nghĩ có lẽ đó là con đường khai mở kênh năng lượng của mình. Từ đó, hành trình của cuộc đời cậu bắt đầu. Từ nghệ thuật tâm linh cho đến ngoại ngữ Tranh tâm linh của Matthew Ông có khả năng tự động viết không chỉ bằng tiếng Anh, mà còn nhiều ngoại ngữ khác, từ tiếng Ý, Đức, Hy Lạp và La-tinh, cũng có tiếng Nga và tiếng A-rập. Matthew cũng sáng tác nghệ thuật tâm linh gần giống như Henri Matisse, Picasso, và Thomas Bewick. Những tác phẩm mà Matthew có thể vẽ giống đến kỳ lạ với một vài nghệ sĩ. Tranh tâm linh của Matthew Đến khả năng chữa bệnh Matthew người đàn ông thực sự có khả năng siêu thường. Năm 1974, ông bắt đầu nổi tiếng sau khi viết cuốn sách “The Link” của mình. Cuốn sách đã được dịch sang 16 ngôn ngữ, và khiến ông ngày càng ông nổi tiếng. Trong cùng năm đó, ông tham gia một loạt các bài kiểm tra của Tổ chức nghiên cứu Tầm nhìn mới ở Toronto, Canada, với sự tham gia của nhiều nhà khoa khọc hàng đầu. Trong đó, có cả nhà vật lý học người Anh đạt giải Nobel là Giáo sư Brian Josephson. Bác sĩ tâm thần học là Joel Whitton xác nhận Matthew có mô hình sóng não khác với bất kỳ ai mà ông kiểm tra từ trước đến nay. Những kiểm tra sau đó cho thấy, nó đến từ một vùng não mà tất cả chúng ta đều có nhưng cho mãi đến bây giờ, vẫn được cho là không hoạt động. Nó là vùng trung tâm và là phần nguyên thủy nhất của bộ não. Thực tế, nó là phần cổ xưa nhất của bộ não, chưa từng được dùng trước đó, hay ít nhất là trong hàng nghìn năm qua. Các nhà khoa học tin rằng đó là nơi diễn ra những hoạt động tâm linh. Hiện tượng kỳ lạ Sau khi xuất hiện trên chương trình TV Anh quốc, nơi ông đã khiến người dẫn chương trình David Frost rùng mình hoảng sợ sau khi trình bày sống động về khả năng của ông. Tiếp đến, ông thu hút sự chú ý của những Cục An Ninh của Anh, nơi ông được ‘phỏng vấn’ rất kỹ lưỡng. Như thể điều đó không đủ để chứng minh năng lực của mình, ông đã đi du lịch khắp thế giới để tiếp tục gây ngạc nhiên, làm hoảng sợ và tạo rắc rối trong một số trường hợp, cuốn sách ghi lại những chuyến du lịch và những buổi diễn về khả năng của ông. Từ làm tắt đèn các cửa hiệu chỉ đơn giản bằng cách đi qua chúng, đến làm xuất hiện những thứ kỳ quái mọi nơi ông xuất hiện, ông cũng được gặp hai Tổng giám mục Thiên chúa giáo. Và còn rất nhiều điều để nói về người đàn ông với năng lực kì là này, tuy nhiên bấy nhiêu cũng đã đủ để chứng minh. Điều đáng chú ý nhất Ở Texas, ông được kiểm tra bởi Dr John Kmetz là một nhà khoa học hàng đầu. Và đó là khi ông trình diễn thứ rất kinh ngạc. Ông có thể tác động đến tế bào ung thư. Không chỉ có thể tác động đến chúng, ông có thể giết chết những tế bào này. Ông đã đạt đến trình độ cao trong khả năng của mình. Ông đã tiêu diệt 60 phần trăm những tế bào của khối u. Không ai có thể làm điều đó. Vào năm 1977, ông không còn quan tâm đến những lời mời, và quyết định nghỉ ngơi. Ông đến dãy núi Himalayan. Ở đây, ông đã trải nghiệm sức mạnh kỳ lạ, cho tới nay ông hề không biết liệu Thiên Chúa, hay sức mạnh bên trong đã truyền thông điệp cho mình. Khi ông quay lại ông hứa sẽ sử dụng năng lực của mình cho những việc tốt vì con người. Với hy vọng tạo ảnh thưởng tốt lên mọi người và sức khỏe của họ. Ông tham gia vào những thí nghiệm toàn diện trong 5 năm tại những Đại học ở California và Luân Đôn. Những thí nghiệm đã cung cấp một số lượng lớn các báo cáo khoa học về sức khỏe chưa từng có trước đây. Bằng chứng không thể chối cãi Trong năm năm, Matthew đã trải qua những kiểm tra toàn diện ở những đại học California và Luân Đôn. Những bài kiểm tra đã cung cấp rất lớn những chứng cứ khoa học hơn bất kỳ tài liệu nào. Từ khả năng tác động làm giảm tế bào máu và enzyme, làm tăng trưởng tỷ lệ nấm mốc và khả năng giết chết tế bào ung thư. Không những thế, ông còn có thể làm ảnh hưởng đến sóng não của người khác. Dưới đây là tuyên bố của Giáo sư Josephson: “Tôi nghĩ chúng ta đang ở ngưỡng của những khám phá có tầm quan trọng rất lớn đối với ngành vật lý. Chúng ta đang xoay xở với một dạng năng lượng mới. Nỗ lực này phải tuân thủ luật pháp. Tôi tin rằng nghiên cứu khoa học sẽ cho chúng ta biết rất nhiều về hiện tượng tâm linh. Chúng luôn bí ẩn, nhưng không bí ẩn hơn những hiện tượng tồn tại trong ngành vật lý. Thời gian trước đây, những nhà vật lý đã không làm gì với điều này. Nhiều trong số họ vẫn chưa muốn đụng tới. Tôi nghĩ những nhà vật lý tầm cỡ nên thấy rằng họ đã bỏ lỡ một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng“. Kết luận Rất nhiều người hành nghề chữa bệnh trên thế giới. Ngoài bác sĩ và nhà phẫu thuật, một số là chữa bệnh tâm linh. Một số sử dụng pha lê, một số sử dụng chữa bệnh từ xa hay đưa ra lời gợi ý. Tất cả đều có một điểm chung, đó là họ tin mình nhận được năng lượng từ Chúa, hay từ một hình thức ma thuật nào đó được áp dụng lên họ. Họ thường tự tin vào năng lực của mình, thậm chí kiêu ngạo, cố gắng khiến mọi người tin vào năng lực này, bất kể đó thật hay giả. Matthew thì khác biệt. Ông không cố gắng để chứng minh là năng lượng này đến từ đâu khác, mà không phải từ chính bản thân ông. Thay vì kiêu ngạo, ông không chắc chắn về khả năng của mình. Sau 5 năm kiểm tra tổng quát, ông thừa nhận rằng bản thân mình không có gì đặc biệt. Ông thừa nhận mình đã sai. Và điều quan trọng nhất là ông ở đây, yên tĩnh và không giống như hầu hết thầy thuốc khác, ông từ chối lấy tiền chữa bệnh. Ông nói khi ông đang chữa bệnh cho một người, thì cơ thể người bệnh cũng đang làm điều đó, thông qua gợi ý và tự thôi miên, đó chính là nhân tố quan trọng của việc chữa lành. Bất kể bạn có tin vào tri giác ngoại cảm, cận tâm lý học, yêu tinh hay tự động vẽ, sau khi đọc và xem những video, tôi không nghĩ ai có thể nghi ngờ sự chân thành của ông. Mỗi video dài khoảng 10 phút, nhưng rất giá trị. Thông tin về ông cũng rất ít trên mạng. Điều đó nói lên tất cả, ông không phải là người nổi tiếng. Ông chỉ là một thầy thuốc với mong ước giúp đỡ mọi người. Thanh Phong – Dịch từ Hubpages
  14. Chúng ta vẫn tiếp nhận một cách vô ý những gì còn sót lại của tín ngưỡng Ai Cập phức tạp. Ví như đôi khuyên nơi lỗ tai hay hình xăm và bình xịt thơm họng đều đến từ nền văn hóa đã mê hoặc và ám ảnh chúng ta nghìn năm nay. Ảnh minh họa phép thuật trừ tà thuật, thần linh và ác quỷ thời Ai Cập cổ. Người Ai Cập tin rằng tai là cơ quan đặc biệt nhạy cảm, cho phép ác quỷ dễ dàng tiếp cận và đánh cắp linh hồn. Ít ai biết đôi hoa tai óng ánh của thiếu nữ được người Ai Cập phát minh để đánh lạc hướng ma quỷ ngăn chúng xâm nhập vào bên trong cơ thể. Người ta phải tham vấn những pháp sư quyền năng để tìm ra thiết kế phù hợp nhất nhằm đảm bảo ngăn chặn các thế lực đáng sợ. Mùi hương ngọt ngào có thể thu hút những linh hồn thánh thiện trái ngược với công dụng xua đuổi tà ác của tỏi. Con người hiện đại thấy thích thú khi ngắm nhìn bầy chim, nhưng người Ai Cập cổ thì không. Lý do là vì đối với họ loài chim mang vẻ huyền bí và siêu nhiên. Họ nhìn nhận sự chuyển động đồng bộ của đàn sáo đá là bằng chứng cho sự tồn tại của năng lực vô hình, ác độc đang điều khiển chúng. Sống trong nỗi lo sợ tột cùng, người Ai Cập cổ chỉ có thể xoa dịu bởi ma thuật và lễ nghi. Họ dùng đến những cây gậy ném ma thuật để giải tán đàn chim; những vũ khí tượng trưng cho trật tự vượt lên trên sự hỗn loạn. Người Ai Cập tin rằng những thế lực tà ác vô hình có thể hủy hoại hòa bình đột ngột và tàn nhẫn, cũng như cá sấu trong đầm lầy yên tĩnh có thể bất chợt vồ lấy con mồi đang vô tư vùng vẫy trên mặt nước. Với niềm tin này, người Ai Cập cổ luôn sống trong nỗi lo sợ vốn chỉ có thể xoa dịu bởi ma thuật và lễ nghi. Những ảo ảnh kì lạ trong tác phẩm kinh điển của Alfred Hitchcock, the Birds, có thể sẽ khuấy động tâm hồn người Ai Cập. Hình ảnh của hàng nghìn chú chim của một lực lương thần bí vô hình trực tiếp khơi gợi nỗi sợ hãi kinh hoàng nhất đối với họ, nỗi sợ về sự hỗn loạn có thể chôn vùi cả vũ trụ mong manh này bất cứ lúc nào nếu không kịp đẩy lùi nó nhờ vào quyền năng ma thuật. Hình ảnh người Ai Cập săn bắt chim với một mũi nhọn, xung quanh là hình khắc như các vị Pháp sư cùng các loại động vật và chim cá. Người Ai Cập cổ đại có lẽ sẽ kinh hoàng nếu chứng kiến sự hỗn loạn được trình chiếu trong các chương trình điện ảnh hiện đại. Ác quỷ hoành hành trong phim Xác ướp và Vua bọ cạp có lẽ sẽ khiến họ bàng hoàng. Hiểu theo lẽ giản đơn, dù là thiện hay ác, thông qua lời nói, điệu vũ, âm nhạc, kịch nghệ đều được nhìn nhận là cách thức biến các ý tưởng thành hiện thực. Mục đích căn bản của nghệ thuật không phải là giải trí. Theo một quy trình sáng tạo, tất cả các dạng thức biểu hiện của nó đều được tôn trọng vì nghệ thuật được xem là một phần khăng khít của điều kì diệu được định hình để sáng tạo nên thế giới. Những ý tưởng vô tình chiêu mời ác quỷ hiện diện vào màn ảnh nhỏ có thể nói là sự thiếu thận trọng, ít nhất là như thế. Đại biểu cho cái ác dù là trong nghệ thuật cũng có thể khuyến khích bạo lực Theo đó, giảm tối thiểu mô tả về ác thần là điều hoàn toàn cần thiết. Họ không bao giờ được cấp thêm hơn quyền lực mà họ có thông qua những hình ảnh thuyết phục rằng họ mạnh hơn sự sống. Dòng phim ma cà rồng phổ biến hiện nay sẽ dễ dàng được chấp nhận. Chiến đấu chống ma quỷ bằng các nghi lễ và bùa ngải được xem là hành động bản năng. Thực vậy, phục trang với cái vòng đeo cổ bằng tỏi để xua đuổi tà ma bắt nguồn từ Ai Cập. Hình dạng của tép tỏi gợi hình tượng về chiếc răng nanh của quỷ. Ma thuật Ai Cập dùng độc trị độc. Pháp sư và linh mục Một cảnh Pháp Sư cùng những cô gái đang nhảy múa trong một buổi thờ cúng của người Ai Cập cổ đại. Vào đầu thế kỉ 20, phép thuật, khoa học, tôn giáo và thần thoại không thể tách riêng. Mỗi thứ mang một nét đặc trưng. Mỗi ngành có “chuyên gia” của ngành và học viên, những người canh chừng một cách đố kị cánh cổng dẫn đến những bí ẩn riêng của họ. Các nhà ảo thuật hiện đại là người biểu diễn hơn là người kể chuyện. Những câu chuyện của họ có phần đơn điệu so với các bậc tiền bối. Trái lại, vào thời Ai Cập cổ đại, những linh mục và pháp sư cùng tiếp nhận một nền giáo dục tri thức. Họ nghiên cứu những câu chuyện thần thoại giống nhau, kêu gọi cùng những vị nam thần và nữ thần trong pháp lực của mình. Thực tế, linh mục và pháp sư là cùng một người. Khi họ thực hiện các nghi lễ và đọc thần chú thì là cùng lúc thực hiện hai vai trò. Người Ai Cập nghiên cứu những câu truyện thần thoại để thực hiện các nghi lễ cúng tế vào những thời điểm đặc biệt trong năm. Các vai trò này thay đổi tùy thuộc vào đối tượng họ phục vụ. Khi họ tham dự vào hoàng tộc, đặc biệt là Pharaoh, họ được trọng vọng như là linh mục và nhận ủy thác thực hiện những nghi lễ quan trọng cần thiết cho sự tồn vong của Vương quốc. Những nhiệm vụ này nhấn mạnh điều được gọi là “phép thuật các vị thánh”; phép thuật này được thực hiện vào những thời điểm đặc biệt trong ngày hoặc trong năm. Cũng là vị linh mục này nhưng khi phục vụ cộng đồng, họ trở về vai trò là một pháp sư. Nhưng cũng cùng những vị thần được gọi đến và cũng một nghi lễ đã diễn ra tại ngôi đền hoàng gia. Pháp sư cổ đại là một phần không thể thiếu trong tôn giáo chính thống; đọc thần chú để bảo vệ hoàng tộc khi họ thực hiện công việc của mình. Dù thừa nhận sự tồn tại của thế lực tà ác nhưng họ cũng biết rằng thực hiện các nghi lễ cẩn trọng, buổi cầu nguyện thiêng liêng, kín đáo sẽ xuôi đuổi hết thảy cái ác và quỷ dữ. Một nghi lễ thần thánh như thế không được phép xảy ra sai sót hay gián đoạn. Một pháp sư hay linh mục tài ba không được đánh giá qua những phô trương bên ngoài mà thể hiện qua cách thức phục vụ tận tụy cho điều thiện và Pharaoh của họ cũng như cách họ mang lại sự thịnh vượng cho vùng đất đang sinh sống. Hình xăm cũng được ghi nhận là có nguồn gốc từ Ai Cập theo như Geraldine Pinch viết trong cuốn Pháp thuật tại Ai Cập Cổ đại, “Kẻ thù ban đầu của người Ki tô giáo cáo buộc Chúa Giê-su được huấn luyện bởi một pháp sư Ai Cập và triển khai phép thuật của mình thông qua các hình xăm ma thuật theo cách thức tại đó”. Tàn tích của ma thuật Ai Cập vẫn hiện diện cho đến ngày nay khi các ảo thuật gia hiện đại dùng đến mặt nạ, đũa phép hay đôi khi là rắn, sư tử và “vong” khi họ trình diễn. Mọt cảnh trong cuốn sách “Sát hại Mose” (KILLING MOSES), tác giả là pháp sư Reuel. Người tình nghi chủ yếu trong cuốn sách “Sát hại Mose” (KILLING MOSES) là pháp sư bậc thầy Reuel. Khi còn trẻ, ông đã làm chuyến hành trình về Ai Cập để tìm hiểu nền nghệ thuật giúp ông thăng hoa trong nghề nghiệp. Reuel được phép thực hành phép thuật bên trong thánh địa hoàng gia bất khả xâm phạm, và được tôn trọng như một pháp sư và linh mục. Dù là người ngoại quốc, nhưng ông được tin cậy và chấp nhận làm môn đệ của những pháp sư bậc thầy khiến ông trở thành độc nhất trong lĩnh vực bí ẩn và cạnh tranh cao. Nhưng Reuel có đoạn thời gian không rõ khi ở cùng người giám hộ tôn kính của ông trong Ngôi nhà Sự sống. Kỹ năng và thế giới quan mà ông nhận được trong suốt thời gian đắm mình trong nền văn minh cổ đại bí ẩn và nổi trội nhất đã hình thành nên nền tảng cho những kế hoạch chính xác để trả thù tàn bạo do cuộc đời cay đắng. Reuel nắm giữ kỹ năng tưởng tượng, diễn kịch và khủng bố được mài dũa tinh xảo với trí tưởng tượng và táo bạo. Nỗi ám ảnh này khiến ông thực hiện cam kết tội lỗi thay đổi hoàn toàn lịch sử, sát hại Mô-sê trên Đỉnh núi của Thần. Chúng ta không để bị lừa nếu nắm được bí mật của các pháp sư. Bằng cách vén màn bí mật đằng sau hậu trường, chúng ta có thể nhìn thấy các bậc thầy pháp thuật khi họ đang đọc những câu thần chú chết người. Thiên Hà, Hàn Mai – Theo Ancient-origions
  15. Trong cuộc sống, chúng ta ai cũng từng có những trải nghiệm rất chân thực trong các giấc mơ. Những giấc mơ ấy có lúc đưa chúng ta đến một thế giới khác, có thể là quá khứ, hiện tại hoặc tương lai. Nhưng cho đến nay chưa có nhà khoa học nào giải thích rõ ràng về hiện tượng kỳ lạ này. 1. Những giấc mơ ‘xuất hồn’ (Lucidity) đầu tiên được ghi nhận bởi người Ai Cập cổ đại … Nền văn minh tiên tiến của người Ai Cập ra đời từ khoảng 3.150 trước Công nguyên – hơn 5.000 năm trước đây. Theo Jeremy Naydler, tác giả cuốn “Thánh đường của vũ trụ: Trải nghiệm thần thánh của người Ai Cập cổ đại” (Temple of the Cosmos: The Ancient Egyptian Experience of the Sacred), họ tin rằng con người sở hữu ba phần: thân xác (Shat), cơ thể vật chất sống (Ka) và linh hồn (ba). Linh hồn thường được đại diện trong chữ tượng hình như một con chim đầu người bay phía trên cơ thể đang ngủ hoặc xác chết. Naydler cho rằng “… Linh hồn là người nhưng dưới hình thức khác. Nó có thể được định nghĩa là một cá nhân dưới dạng thức tồn tại bên ngoài cơ thể”. Liệu những điều xảy ra trong giấc mơ rất chân thực và có thể ý thức được có phải chính là phần linh hồn của chúng ta trải qua? Robert Waggoner, biên tập viên của Lucid Dreaming Experience (Trải nghiệm giấc mơ xuất hồn), tin rằng: “…Tôi bị ấn tượng bởi khái niệm về phần linh hồn của con người bay đi trong khi ngủ, trạng thái hôn mê và sau khi chết… Nhiều người trong số chúng ta đã trải qua nó, dù chúng ta gọi đó là một trải nghiệm linh hồn rời khỏi thể xác (OOBE- out of body experience) hay một giấc mơ rất rõ ràng thấy mình bay đi khi cơ thể đang ngủ. “Đối với người có những giấc mộnng rõ ràng, những người trải qua hôn mê và trạng thái hồn rời khỏi thể xác, linh hồn có thể là tái hiện điều xảy ra trong quá khứ, mô tả đầu tiên của một ‘nhận thức di động tách ra từ cơ thể hữu hình. Điều thú vị là, nhận thức di động hay là linh hồn này, có vẻ kết nối với bay một cách rất tự nhiên – một phần phổ biến và phổ quát của giấc mơ chân thực. Mặc dù thời Ai Cập cổ đại tồn tại cách xa chúng ta hàng ngàn năm, có lẽ một số kiến thức cổ xưa của họ vẫn còn lưu lại trong tiềm ý thức của chúng ta … “ 2. Cứ 1 trong 5 người sẽ có ít nhất một giấc mơ ‘xuất hồn’ trong mỗi tháng Năm 1988, Snyder & Gackenback tiến hành một cuộc khảo sát khoa học đã phát hiện ra rằng 20% số người tuyên bố rằng họ có giấc mơ ‘xuất hồn’ thường xuyên (hàng tháng), trong khi 50% số người đã trải qua nó ít nhất một lần trong cuộc đời. Vì vậy, giấc mơ loại này không phải là quá hiếm, ngay cả khi hầu hết mọi người không biết tên chuyên môn của nó hay gặp phải những giấc mơ như vậy cố tình. Nó thực sự có vẻ khá bình thường để có giấc mơ tự nhiên kiểm soát được – đặc biệt là với trẻ em. Một lý do giải thích cho điều này là trẻ em dễ gặp phải những cơn ác mộng có thể rất sống động và căng thẳng về tinh thần. Điều này đánh thức một phần của não chịu trách nhiệm về sự tự nhận thức, và đem tới cho những đứa trẻ này một khoảnh khắc rất rõ ràng để nhận ra “Hêy – Chắc chắn là tôi đang mơ!” Một số trẻ em sử dụng cách ​​thức này để đánh thức mình dậy, trong khi một số người khác biến cơn ác mộng thành giấc mơ dễ chịu có chủ ý. Khi Rebecca Turner lần đầu tiên phát hiện ra giấc mơ xuất hồn ở tuổi thiếu niên của mình, bà đã vui mừng nói với người bạn thân nhất của Michelle về nó. Michelle đã nói với Rebecca: “Ồ, mình thường xuyên có những giấc mơ như vậy trong nhiều năm qua”. Theo trí nhớ của Michelle kể rằng cô sẽ sử dụng trí tưởng tượng khi bà đi ngủ và hình dung về bất cứ điều gì mà bà ấy muốn mơ tới. Sau đó, Michelle chỉ cần đi vào nó và có thể kiểm soát giấc mơ của mình một cách hết sức tự nhiên và hoàn hảo. Nó có thể khiến bạn ngạc nhiên khi biết số người trải qua giấc mơ xuất hồn – chỉ là bạn chưa bao giờ hỏi họ về nó mà thôi. Kể từ khi bà Rebecca đăng tải các trải nghiệm và nghiên cứu lên website của mình, rất nhiều bạn bè đã nói với bà rằng thỉnh thoảng họ có giấc mơ mà họ kiểm soát được theo ý muốn. Bạn của bà, Pete đã có thể kiểm soát giấc mơ của mình kể từ khi ông là một đứa trẻ – một thí dụ của người có giấc mơ xuất hồn một cách tự nhiên. Một mặt khác, một số người đã viết thư cho bà nói rằng họ luôn luôn gặp những giấc mơ như thế này hàng đêm từ khi còn nhỏ, họ thấy giấc ngủ của mình không chất lượng và cảm giác như não của họ liên tục hoạt động. Khi đó, bà thực sự chưa hiểu được vấn đề này; bởi đối với bà, giấc mơ chân thực luôn luôn là một sự lựa chọn có ý thức hay một tình huống được hoan nghênh, chứ không phải là một gánh nặng. Nhưng khi bất cứ hành vi nào gây rối loạn cuộc sống hàng ngày của bạn, thì đó là một vấn đề cần giải quyết – và bà mong bất cứ ai ở tình huống này nên tới gặp bác sỹ để được giúp đỡ. 3. Bạn có thể thức dậy khỏi giấc mơ xuất hồn bằng cách nhắm mắt lại Khi Rebecca còn nhỏ, trong các ác mộng bà luôn nhắm mắt để thoát khỏi chúng. Khi bà bị tê cứng lại vì sợ hãi, bà chợt nhận ra rằng điều đó không phải là thực, và trong một khoảnh khắc bà nhắm mắt chặt lại và hét lên “TỈNH DẬY!” Hiện giờ bà Rebecca không thể kết thúc giấc mơ xuất hồn như trước. Và những giấc mơ ấy là có tồn tại tuy không phải tất cả mọi người, nhưng chắc chắn là đúng đối với một số. May mắn thay, nếu chẳng may bạn tỉnh dậy, có một cách để tiếp tục giấc mơ còn dở dang của bạn. Miễn là bạn giữ nguyên vị trí cơ thể bất động (để không làm phiền các cơ chế tê liệt khi ngủ) và nhắm mắt lại ngay lập tức, bạn sẽ thấy mình trở lại trong giấc mơ hoàn toàn rõ ràng. Nó giống như việc đổi kênh trên TV. Trong một vài giây, thực tại trong mơ và lúc bạn tỉnh dậy đều tồn tại rất rõ và bạn có thể tự do chuyển đổi giữa chúng. 4. Những người gặp giấc mơ xuất hồn có thể “nói chuyện” với thế giới bên ngoài Năm 1975, nhà tâm lý học người Anh Keith Hearne đạt được một kết quả khá ấn tượng: Ông ghi lại những chuyển động mắt của Alan Worsley khi anh ngủ và rơi vào một giấc mơ trong trạng thái tỉnh táo tại phòng thí nghiệm. Trước khi tiến hành thí nghiệm hai người đã thoả thuận một số dấu hiệu qua các chuyển động mắt. Thông qua cử động mắt trong khi đi vào giấc mơ xuất hồn, Worsley đã có thể giao tiếp với Hearne ở thế giới bên ngoài. Thí nghiệm đáng chú ý này đã chứng minh rằng việc việc con người có thể ý thức trong giấc mơ là có thật. Sau đó, máy đọc EEG đã có thể ghi lại một tần số cao GAMMA sóng não khi mơ trong trạng thái tỉnh táo, trong đó cung cấp thêm bằng chứng về khả năng ý thức khi trong trạng thái giấc mơ. Tuy nhiên, đó là thí nghiệm của Hearne, sau đó thí nghiệm được mở rộng bởi Tiến sĩ Stephen Laberge tại Đại học Stanford, cho chúng ta thấy đây là điều hoàn toàn có thể khi một người nằm mơ “nói chuyện” với một người đang thức ở thế giới bên ngoài. Vậy có mối liên hệ ngược lại không? Chúng ta có thể gửi tin nhắn cho một người mơ mộng trong khi họ ngủ? Một cuộc trò chuyện hai chiều có thể đạt được? Trên thực tế, ở một mức độ nào đó, khi chúng ta ngủ, phần lớn não của chúng ta không biết hầu hết những gì đang xảy ra ở thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó, chúng ta có khả năng nhận thức một số loại kích thích bên ngoài khi đang mơ. Vì dụ, nếu một người nào đó nhẹ nhàng thúc vào xương sườn trong khi ngủ, bạn sẽ có thể cảm thấy chúng rõ ràng trong giấc mơ. Mặc dù trong giấc mơ nó sẽ được diễn đạt theo một cách khác (có lẽ bạn sẽ mơ thấy một cái gì đó ví dụ như một con chuột đang cắn bạn ở bên cạnh). Một ví dụ khác là khi trời mưa ầm ĩ ở bên ngoài, tôi mơ thấy gặp mưa lớn trong giấc mơ của mình. Rất dễ dàng để xác nhận điều này bằng các giấc mơ tương tự của mỗi chúng ta. 5. Những giấc mơ ‘xuất hồn’ phát sinh từ một phần đặc biệt của não Nhà thần kinh học, J Allan Hobson, đã đưa ra giả thuyết về những gì xảy ra trong não khi một người trong mơ rất tỉnh táo. Đầu tiên, chúng tôi nhận ra rằng chúng ta đang mơ, và điều này kích thích vỏ não một bên trán, bộ phận của não chịu trách nhiệm cho sự nhận thức và trí nhớ. Khu vực này thường bị vô hiệu hoá trong giai đoạn REM – điều này giải thích lý do tại sao chúng ta không nhận ra rằng chúng ta đang mơ hay có thể nhớ các chi tiết trong giấc mơ. Một khi bộ phận này được kích hoạt, người mơ từng bước bước vào một ranh giới giữa việc duy trì giấc ngủ, nhưng còn đủ tỉnh táo để nhớ rằng họ đang mơ … 6. Thiền được liên kết chặt chẽ với sự tự nhận thức trong những giấc mơ Một người phụ nữ đang thực hành bài thiền định trong tiếng nhạc du dương giúp người tập định tâm và thanh tỉnh. (Ảnh: The Epoch Times) Có một liên kết giữa khoa học đã được chứng minh thiền định với những giấc mơ xuất hồn. Bà Rebecca nói rằng “Tôi thấy rằng khi tôi thiền thường xuyên hơn, tôi càng nhận thức rõ ràng khi đang mơ. Nhờ tất cả sự đơn giản và tinh tế của thiền (loại bỏ các suy nghĩ phiền muộn có ý thức) – thiền giúp tôi đạt được sự hạnh phúc qua việc thư giãn và đạt được nội tâm sâu sắc. Có một đề tài mà bà Rebecca rất quan tâm liên quan tới lĩnh vực này chính là sự kích thích sóng não. Đây chính là vấn đề then chốt trong cách bài học thiền. Kích thích sóng não là một chứng minh rất khoa học cho việc tạo tần số sóng não của bạn để hình thành trạng thái thay đổi ý thức theo yêu cầu. Ban đầu sử dụng các hình thức của âm thanh nổi qua hai tai (binaural beats- mỗi tai sẽ tiếp nhận một giai điệu có tần số khác nhau và kích thích não nhận ra và đồng hóa sự khác biệt tần số này), và sau đó là các hình thức mạnh mẽ hơn của giai điệu Isochronic (isochronic tones- nhịp đập thường xuyên của một giai điệu duy nhất được cho rằng có tác động mạnh mẽ tới não thông qua sự tương phản lớn của âm thanh thông qua sự tĩnh lặng). Các âm thanh kích thích sóng não được sử dụng rất phổ biến trong thiền định – điều này đưa chúng ta tới rất gần với trạng thái mơ tỉnh táo. Rebecca khuyên những người mới bắt đầu tập thiền nên đầu tư một bản MP3 hay đĩa CD với giai điệu kích thích sóng não để bắt đầu hành trình đi vào thiền định. Bản Mp3 ưa thích của bà là “Dreaming Lucid” với giai điệu Isochronic Meditation Power (Sức mạnh của Thiền định). Các bạn có thể lắng nghe giai điệu này qua video bên dưới: Ngọc Hồng @TinhHoa.net (Theo Awaken)
  16. Câu chuyện Ngưu Lang – Chức Nữ và lễ hội Trùng Thất Hầu như ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng chuyện tình Ngưu Lang – Chúc Nữ này. Tuy nhiên, còn rất nhiều điều thú vị khi nó thực sự trở thành một Lễ hội – một “Ngày lễ tình nhân” mang màu sắc đặc trưng của Trung Quốc.“Về rồi tháng bảy mưa ngâu. Người đi, kẻ ở nhớ nhau quặn lòng Ngân Hà có một bến sông Ngưu Lang, Chức Nữ ngóng trông qua ngày” (ST) Lễ hội Thất Tịch, được biết đến như là một lễ hội lãng mạn nhất Trung Hoa cổ xưa. Nó diễn ra hàng năm vào ngày 07 tháng 07 theo âm lịch, cho nên nó còn có tên là Lễ hội Trùng Thất, nhằm ngày 2 tháng 8 Dương lịch năm nay. Tương truyền rằng, lễ hội này bắt nguồn từ một tình yêu mang đậm màu sắc thần thoại. Chức Nữ – một nàng tiên – đã phải lòng chàng trai dưới hạ giới tên Ngưu Lang và họ cưới nhau. Tất nhiên, tình yêu của họ không được sự chấp thuận của Ngọc Hoàng và Vương Mẫu Nương Nương. Thế nên, họ buộc phải chia lìa. Chức Nữ về lại Thiên Đình còn Ngưu Lang tiếp tục sống tại trần gian với công việc đồng áng của mình, ngày qua ngày không nguôi nhớ thương Chức Nữ. Cảm thương cho chuyện tình sâu sắc ấy, các vị Tiên giúp đỡ cho họ gặp nhau trên cầu Ô Thước vào ngày Bảy tháng Bảy Âm lịch hàng năm. Và chỉ duy nhất một ngày mỗi năm! Đáng tiếc là lễ hội này đã mai một dần theo thời gian, và ngày càng có nhiều người trẻ tuổi quan tâm đến Lễ Tình nhân theo văn hóa phương Tây. Tuy nhiên, một số người Trung Quốc vẫn còn tổ chức nó như là một hình thức tín ngưỡng. Lễ Trùng Thất xuất xứ vào thời nhà Hán (206 TCN – 220 SCN). Vào ngày lễ, các thiếu nữ chuẩn bị trái cây và nhang trầm để cúng thờ Chúc Nữ, cầu xin đôi tay khéo léo và tìm được tấm chồng như ý. Nhiều hoạt động đã diễn ra vào ngày này để tôn vinh sự khéo tay của người phụ nữ như là xâu kim, may vá và khắc trái cây. Ở một vài nơi khác, các bạn gái sẽ cùng nhau làm một loại bánh hấp đặc biệt. Họ bỏ vào bên trong bánh những vật đặc trưng cho ngày lễ như: một cây kim, một đồng xu bằng đồng và một quả chà là (bánh được bẻ ra trước khi ăn). Nếu như trong bánh là cây kim thì sẽ nhận được kỹ năng may vá khéo léo, nếu là đồng xu thì người ăn sẽ nhận được sự giàu có và nếu là quả chà là thì người nhận được sẽ mau chóng thành gia lập thất. Lễ hội không chỉ dành cho các cô gái mà tất cả mọi người từ già trẻ lớn bé đều có thể tham gia, mục đích là bày tỏ lòng thành của mình qua những lễ vật đem dâng lên Chức Nữ. Theo truyền thống, nếu người tham dự lễ thành tâm khấn nguyện trong ba năm liên tiếp thì điều mong ước sẽ trở thành sự thật. Lễ Trùng Thất xuất xứ vào thời nhà Hán (206 TCN – 220 SCN). Vào ngày lễ, các thiếu nữ chuẩn bị trái cây và nhang trầm để cúng thờ Chúc Nữ, cầu xin đôi tay khéo léo và tìm được tấm chồng như ý. An nhiên@bocau.net Theo Visiontimes
  17. Thông tin về những “nhà phẫu thuật không dao mổ thần bí” (thường được gọi là các healer – theo tiếng Anh là người chữa bệnh) tại Philippines đã gây xôn xao từ cả vài chục năm nay và cho đến nay vẫn chưa có ai đưa ra được lời giải thích chính xác về mặt khoa học. Một dạng thôi miên? Vấn đề của những tranh luận này xuất phát ở chỗ, các healer ở Philippines có khả năng tiến hành những ca phẫu thuật phức tạp nhất mà không hề dùng đến bất kỳ một thứ gì khác ngoài… đôi tay. Khi trong một trạng thái xuất thần (tương tự như một dạng thiền), họ chỉ cần dùng những ngón tay có thể dễ dàng rạch da thịt người bệnh, đưa tay sâu vào trong cơ thể, kéo ra cơ quan bị bệnh hay một khối u nào đó (một cuộc phẫu thuật như vậy chỉ khoảng từ 1 đến 10 phút), trong khi máu của bệnh nhân chảy ra rất nhiều. Tuy nhiên, khi healer kết thúc phẫu thuật, rút tay ra khỏi vết thương, trên cơ thể bệnh nhân lại hầu như không phát hiện một chút dấu vết nào, thậm chí ngay cả một vết sẹo nhỏ. Bản thân người được phẫu thuật không hề cảm thấy đau, ngoại trừ những “cảm giác nhức buốt kỳ lạ” ở vùng da đang tiến hành phẫu thuật. Các healer (hiện ước tính có tới vài trăm người) sinh sống chủ yếu ở phía Bắc Philippines, xung quanh thành phố Bagio. Những chuyện kỳ lạ xung quanh thành phố này cũng có khá nhiều: Mỗi khi có con tàu nào cập bến tại đây, các thiết bị lắp đặt trên đó đều rung lên bần bật. Điều tương tự này cũng xảy ra đối với các máy bay trực thăng, dẫn đến quy định cấm chúng bay xung quanh thành phố. Có một giả thuyết cho rằng, trong khu vực hòn đảo này tồn tại một trường năng lượng rất mạnh nào đó. Điều đó giải thích vì sao các healer rất hiếm khi có khả năng phẫu thuật tại một nơi nào đó ngoài khu vực phía Bắc Luson và họ hầu như không có chút khả năng đặc biệt nào khi đi ra nước ngoài. Tổng thư ký Melvin Salvior của “Hiệp hội các healer Philippines” giải thích: “Trong thời gian phẫu thuật, healer sẽ rơi vào trạng thái thôi miên rất sâu, tương tự một dạng thiền định của các nhà yoga Ấn Độ”. Những lý giải Mối nghi ngờ chính của nhiều người là ở chỗ làm sao các healer có thể phẫu thuật mà không cần dao? Có một lời giải thích tương tự hình ảnh con người thò tay xuống nước và rút lên, mặt nước liền lại mà không để lại dấu vết. Khi phẫu thuật trong trạng thái thiền định, healer có thể đã rơi vào một chiều không gian khác, một phần cơ thể của bệnh nhân đang được chữa trị cũng tương tự như vậy. Thật ra, việc đó từ lâu không còn là chuyện quá lạ lẫm – các nhà sư, các nhà yoga Ấn Độ hay các phù thủy châu Phi cũng làm được như vậy. Một giả thuyết cho rằng, khả năng thôi miên sâu của healer giúp tạo ra một trường sinh học đặc biệt, tập trung tại các đầu ngón tay và hoạt động tương tự nguyên lý của tia laser chia cắt các lớp mô. Còn theo một giáo sư y khoa Thụy Sĩ, healer mang một năng lượng đặc biệt, có thể truyền nó vào cơ thể người bệnh. Năng lượng này như một sóng vô tuyến tới được các khối u, “mở” chúng ra và đưa chúng ra ngoài lên lòng bàn tay của healer. Người được phẫu thuật không cảm thấy đau vì vết cắt do các ngón tay không chạm tới phần đầu dây thần kinh, còn bản thân việc phát xạ năng lượng sẽ giúp “khử trùng” cho đôi tay của healer. Ngay khi phẫu thuật kết thúc và trường sinh học biến mất, các tế bào mô sẽ trở lại trạng thái trước đây và ngay lập tức khép lại. Không chữa bệnh cho kẻ xấu Healer nổi tiếng đầu tiên của Philippines chính là Eleuterio Terte (sau khi chữa khỏi cho một viên sĩ quan Mỹ đang hấp hối). Một lần khác, ngay trước mắt một hội đồng chẩn bệnh của Thụy Sĩ, healer này ấn tay thẳng vào mắt một bệnh nhân trong khi anh ta không hề cảm thấy đau đớn. Ông ta nhanh chóng làm lành các vết loét và lấy ra phần thủy tinh thể bị đục. Tiến sĩ Steller, chuyên gia vật lý của Trường Đại học tổng hợp Dortmund, đã viết cả một tác phẩm về Terte, trong đó ghi nhận đã tiến hành hàng trăm phép phân tích và nghiên cứu về “những ca phẫu thuật không dao mổ”. Cũng theo giáo sư này, các healer của Philippines có thể phẫu thuật bằng tay trần mà không cần thôi miên bệnh nhân, không cần gây mê hay gây tê, không bị đau và không hề bị nhiễm trùng. Đây cũng là luận điểm của bác sĩ người Nhật Isamu Kumura, người đã trực tiếp nghiên cứu máu lấy từ một loạt cuộc phẫu thuật của Terte và xác định đó chính là máu của bệnh nhân. Terte chết vào năm 1979 khi đã 80 tuổi trong một hoàn cảnh khá nghèo túng. Cố Tổng thống Mỹ Ronald Reagan.Cựu Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos (bị lật đổ vào năm 1986) cũng thường xuyên phải nhờ đến sự giúp đỡ của một healer riêng là Emilio Lemes. Sau khi chạy ra nước ngoài, ông ta từng nhiều lần yêu cầu chính quyền mới cho phép Lemes tới chỗ mình nhưng bị từ chối. Chỉ 3 năm sau, Marcos chết ở tuổi 72. Còn nhiều nhân vật nổi tiếng khác như cố Tổng thống Mỹ Ronald Reagan và cựu Thủ tướng Anh Margaret Thatcher (77 tuổi) đã từng được chữa trị bởi những healer tốt nhất qua lời giới thiệu của Marcos. Một healer nổi tiếng khác là Fiorentino Rino cho biết, nhiều healer đã từng khước từ việc chữa bệnh cho viên tướng Mỹ Geremy Stenson, một kẻ “nổi danh” vì những vụ sát hại các nông dân vô tội trong chiến tranh Việt Nam. “Họ đã nói thẳng ông là một người xấu xa. Thượng đế không muốn cho ông sống nữa. Stenson đã phàn nàn về điều này lên cả chính phủ, cảnh sát và đại sứ quán nhưng không ai có thể giúp được ông ta. Kết quả là một năm sau, ông ta chết” – Rino đã kể lại như vậy. SGGP
  18. Lời nguyền “giếng độc” trấn yểm trong “cuộc chiến” hai dòng họ xứ Mường Lời nguyền “giếng độc” chỉ là một “hủ tục” mang tính chất dị đoan ở xứ Mường thời xưa nhưng nó đã gây ra “cuộc chiến” dai dẳng giữa hai dòng họ xứ Mường. Ở xứ Mường Rụng thuộc xã Bảo Hiệu (Yên Thủy – Hòa Bình) đã từng diễn ra những cuộc tranh chấp địa vị lang Mường cách đây bảy thế kỷ. Từ ngàn xưa, người ta tương truyền rằng, dòng Quách Ngọc đã phá thế “rồng bay lên” của dòng Quách Công bằng bùa chú. Họ tìm cách nhấn chìm con mương Khèn, giết trâu trắng thả xuống giếng độc. Họ đã chặn ngang “yết hầu” của dòng nước đầu nguồn dẫn về bản nơi họ Quách Công là lang Mường. “Giếng độc” bị trấn yểm bằng lời nguyền sẽ không cho dòng Quách Công làm quan. Hình ảnh “giếng độc” mà người dân Mương vẫn bàn tán Mục sở thị vùng đất của các lang Mường Một lần đến đất Yên Thủy để tìm hiểu lịch sử Lang Mường, chúng tôi nghe các cụ cao niên kể về việc tranh giành quyền lực của hai dòng họ Quách đã kéo dài suốt mấy thế kỷ. Tìm hiểu kỹ hơn về dòng dõi lang Mường, chúng tôi biết được, nơi đó hiện nay nằm ở xứ Mường Rụng. Đến xã Bảo Hiệu (Yên Thủy – Hòa Bình), chúng tôi tìm gặp ông Quách Công Tiễn (sau cách mạng thì đặt tên là Quách Văn Tiễn). Được biết, người đàn ông này là hậu duệ đời thứ sáu của dòng họ Quách Công. Mặc dù đã 71 tuổi nhưng ông vẫn nhớ như in những câu chuyện cách đây gần chục thế kỷ. Đó là truyền thuyết từ các tiền nhân kể lại. Bên bếp lửa bập bùng mang đậm chất sử thi, ông Tiễn kể những câu chuyện chất chứa vẻ huyền bí về những trang sử của lang Mường. Từ chuyện trấn yểm thâm độc đến chuyện bùa chú rùng rợn. Sau này, kết hợp lịch sử về các lang Mường, qua lời kể của các cụ già, chúng tôi đã tìm ra được sự thực của việc tranh chấp giữa hai dòng họ Quách Ngọc và Quách Công. Được biết, năm 1225, Trần Cảnh lên ngôi. Sau đó, ông đã ra lệnh cho mỗi một vùng Mường phải có một lang cai trị. Lang là một người đứng đầu một xứ, thay mặt vua cai quản một vùng. Mỗi lang Mường có chức vụ như một địa chủ. Tuy nhiên, cùng là người Mường nhưng về mặt địa lý và phong tục tập quán khác nhau nên các lang Mương cũng có những điểm riêng. Tất cả các hoạt động của người dân xứ Mường Rụng này đều là sở hữu của nhà lang. Người dân sản xuất trên đất của lang và có nghĩa vụ trả thuế bằng một phần thóc lúa. Thậm chí, khi săn bắn được con thú, họ phải cống nạp lên nhà lang những phân ngon nhất. Hầu hết các hoạt động văn hóa, xã hội, ma chay, cưới xin cũng phải qua sự đồng ý của nhà lang mới được tiến hành. Khác với sự cai quản “độc trị”, quan liêu của các lang khác, dòng Quách Công lại rất quan tâm lo lắng cho người dân. Nhà lang chia ruộng nương cho dân cày cấy. Nhà nào thiếu ăn, lang lấy của nhà giàu phân phát. Thời đó, tính cộng đồng ở đây cũng thể hiện rất rõ. Mỗi khi có đám cưới, ma chay, làm nhà… họ đều giúp đỡ nhau rất nhiệt tình. Bất kể chuyện gì của dân bản, nhà lang dòng Quách Công đều ra tay giúp đỡ. Dưới sự cai trị của dòng lang này, cuộc sống người dân rất no đủ. Người dân xứ Mường Rụng vẫn thường ca: “Khát nước xuống suối, đói lòng thì đến nhà lang”. Thấy dòng họ Quách Công có quyền lực thịnh trị, no ấm, dòng họ Quách Ngọc ở Lạc Sơn ghen tị. Họ âm thầm tìm hiểu về sự thịnh trị của dòng họ Quách Công để bày cách hãm hại. Vào thế kỷ thứ 17, dòng họ Quách Ngọc cho một người là bậc thầy về phong thủy, am hiểu về lịch sử, tinh thông địa lý đến ở rể ở họ Quách Công làm nội gián. Sau một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, hắn đã biết được ở khu vực Đống Thả – địa điểm đặt mộ tổ của dòng họ Quách Công là nơi hội tụ sinh khí của đất trời. Địa thế như cái “đầu rồng” uy nghi lộng lẫy. Còn bản làng nằm gọn trên thân hình thế đất “rồng bay”. Chỉ cần trấn yểm được vùng đất này thì dòng họ Quách Công sẽ lụi bại. Dùng trâu trắng yểm bùa (Ảnh minh họa) Dùng trâu trắng, gỗ thần để yểm bùa Những âm mưu “trấn yểm đầu rồng” mà ông Tiễn nhắc đến khiến chúng tôi càng muốn khám phá thực hư câu chuyện. Được biết, ở một số dân tộc thiểu số, muốn yểm “bùa ma tà chú” phải biết được điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ để khống chế. Vì vậy, người này đã nắm bắt được điểm cốt yếu của dòng Quách Công là nguồn nước. Ở đây ai cũng phải dùng chung con mương chảy dưới từ Đồi Thả. Nước như là sinh khí truyền lại đến đời sau, chỉ cần trấn yểm được nguồn nước coi như đã hạ được “đối thủ”. Ngày trước cả mấy trăm hộ ở xứ Mường Rụng vẫn dùng nguồn nước chảy từ chân núi Đống Thả. Người ta gọi đó là con mương Khèn. Con mương này đã được dẫn đi khắp các cánh đồng. Mặc dù những năm hạn hán, khắp các vùng xung quanh đều không có nước dùng nhưng ở thu lũng này vẫn còn nước tưới cho khắp các khóm lúa. Biết được điều đó, dòng họ Quách Ngọc tiến hành âm mưu bá nghiệp xứ Mường Rụng với nhiều thủ đoạn hiểm ác. Họ tìm cách chơi xấu cực thịnh của dòng họ Quách Công bằng cách phá thế “hình nhân rồng”. Kẻ nội gián đã thuyết phục nhà lang Quách Công cần đào một cái mương để đưa nước đến cánh đồng đang khô cạn. Vì thương dân tình, lại không am hiểu về phong thủy, nhà lang đã không nghe lời khuyên can của các cụ già làng. Lang Mường huy động dân làng đào con mương dẫn nước về bản. Âm mưu phá “hình chân rồng” đã thành công. Hai con mương khác nhau chumå đầu lại và đuôi tỏa chi chít. Từ thế rồng bay biến thành hình cái chân gà. Khi đã phá xong thế hình đất hình rồng, dòng Quách Ngọc lại tìm cách trấn yểm. Họ thấy ở giữa con mương có một ngụn nước quanh năm trong vắt. Nguồn nước này mát rượi, mùi thơm là lạ. Dân làng uống nước này ít khi bị ốm vặt. Nước dồi dào đến nỗi tỏa đi tưới cho các cánh đồng lúa quanh năm mà không cạn. Dòng Quách Công quyết yểm bùa trấn con Mương Khè. Họ Quách Ngọc dùng con trâu trắng làm bùa. Trong văn hóa Mường, con trâu trắng là biểu tượng cho sự huyền bí, của những điều không may mắn. Mỗi khi người dân gặp chuyện quái gở họ thịt trâu trắng để trừ tà. Khi dòng họ có những chuyện không hay như có nhiều người chửa hoang, hay dòng họ có nhiều người chết trẻ, hay điều gở, bất thường là cả họ lại phải thịt trâu trắng để giải hạn. Ngày ấy, ở Lang Rụng có một cái giếng bên cạnh tảng đá to phẳng đã bạc màu bên miệng. Tại chiếc giếng này, ai cũng thấy có khắc hình con phượng. Trước đây, đó chỉ là ngụn nước nhưng khi được yểm bùa thì nó mang cái tên là “giếng độc”. Dòng họ Quách Ngọc đã bí mật mời thầy cúng giỏi đến để làm lễ yểm bùa vào giếng bằng việc thịt con trâu trắng. Họ thả hết toàn bộ số thịt đó vào giếng nước với mưu đồ làm cho linh khí của nguồn nước tinh khiết biến mất. Ngày ấy, người ta quan niệm rằng, thịt con trâu trắng sẽ làm cho giếng nước mất thiêng. Nửa năm trời đi kiếm bùa hại người Để cho dòng họ Quách Công không có cơ hội trả thù, dòng Quách Ngọc đã tìm cách trấn yểm bằng “khúc gỗ nhiều ma”. Họ đã cử một đoàn người vào trong Thanh Hóa để chặt ba cây gỗ to mà các thầy mo của dòng họ này đã tìm được trước đó. Họ nghĩ, ba cây đại thụ đó lấy linh khí của xứ Mường Thanh Hóa để át dòng họ Quách Công. Đoàn người đi lấy gỗ yểm đã làm lễ khấn thần cây, rồi đốn mấy tuần mới hạ được. Sau đó, họ dùng ba con voi kéo cả nửa năm trời mới chuyển được cây từ Thanh Hóa về. Sau khi lấy được ba khúc gỗ về, một nghi lễ bí mật được yểm lời thề nguyền vào khúc gỗ. Bao giờ khúc gỗ nổi lên thì dòng họ Quách Công mới ngóc đầu lên được. Sau đó dấn chìm xuống đáy con mương Khèn. Sưu Tầm @Bocau.net
  19. Hoa Ưu Đàm gần đây tiếp tục khai nở khắp Việt Nam. Loài hoa này đã xuất hiện ở Việt Nam từ lâu, nhưng lần đầu tiên được báo chí nhắc đến khi khai nở ở đền Tràng Kênh, Hải Phòng vào ngày 3/5/2012. Loài hoa lạ này có thể mọc trên thép, sắt, đá, gỗ, xi măng, thủy tinh…, trong những điều kiện khắc nghiệt nhất như không có đất, ánh sáng hay nước. Những bông hoa tuy nhỏ bé, mong manh nhưng lại có thời gian tồn tại rất lâu, vài tháng đến một năm cũng không tàn. Tuy báo chí đăng rất nhiều bài và hình ảnh về loài hoa này, nhưng có nhiều người không tin lắm, cho rằng đó chỉ là trứng côn trùng, vậy thực hư ra sao? Dưới đây là một vài cách để có thể xác định là trứng côn trùng hay hoa Ưu Đàm: Quan sát bằng kính hiển vi Việc quan sát hoa Ưu Đàm rất khó, vì hoa nhỏ li ti, để quan sát rõ phải nhìn qua kính hiển vi. Hoa Ưu Đàm khi được quan sát dưới kính hiển vi có thể thấy cánh và nhị hoa, còn trứng côn trùng thì không có. Dưới kính hiển vi, cánh và nhị của loài hoa Ưu đàm có thể được trông thấy rõ ràng. (Ảnh: chanhkien) Dưới kính hiển vi, trứng côn trùng hình bầu dục không có cánh hay cấu trúc nhị hoa (Ảnh: chanhkien) Quan sát kỹ Nếu không có kính hiển vi, việc quan sát sẽ khó khăn hơn do hoa Ưu Đàm rất nhỏ, nhưng nếu kiên nhẫn hơn một chút cũng có thể nhận biết được. Trứng của họ côn trùng màu xanh lá cây sáng, hình elip nguyên vẹn, vững chắc và khép kín; đôi khi chúng có màu hồng, trắng. Trên thế giới, có đến 2000 loài này, trứng thường được đẻ trên lá, thân cây. Tùy thuộc vào nhiệt độ, trứng sẽ nở sau từ 3 – 15 ngày. Khi khi côn trùng nở ra, trứng hiện lên một màu trắng, có mùi tanh. Sau 3 – 15 ngày phần đầu của trứng sẽ nứt và khô héo dần khi côn trùng chui ra Sau khi trứng nở 1 thời gian: Khác với trứng côn trùng, hoa Ưu Đàm có thể nở ở bất kỳ nơi nào như trên kim cương, sắt, thép, bê tông, đá, gỗ, nhựa, vải, lá cây… Hoa có màu trắng tinh khiết, thân trong suốt, một số người có thể nhìn thấy vòng hào quang quanh hoa. Khi hoa nở có hình dạng chuông và tỏa hương thơm. Hoa có thể tồn tại trong 1 thời gian rất lâu, nhiều nơi một đế vài năm mà vẫn giữ được vẻ đẹp thuần tịnh. Hoa Ưu Đàm mọc trên mặt tượng Phật trong thiền viện Tu Di Sơn ở Suncheon, Hàn Quốc vào tháng 2/2005. (Ảnh: Đại Kỷ Nguyên) Hoa Ưu Đàm nở nhiều ở Việt Nam, nhưng được nhiều người biết đến nhất tại nhà ông Lê Văn Mậu ở khu phố Ninh Tịnh 2, phường 9, TP Tuy Hòa – Phú Yên. Điều đặc biệt ông Mậu là một Thạc sỹ sinh học, vì vậy ông đã nghiên cứu rất kỹ loài hoa này và khẳng định đây là loài hoa chứ không phải trứng côn trùng. (Ảnh: nld.com.vn) Hoa ưu đàm 24 bông nở ở nhà ông Mậu. (Ảnh: nld.com.vn) Nhìn vào hình có thể thấy màu trắng muốt tinh khiết đặc trưng của hoa, nhìn kỹ có thấy thấy các cánh hoa, như vậy đây chắc chắn không thể là trứng côn trùng được. Theo Chanhkien.org Trong ‘Pháp Hoa Văn Cú – Quyển Bốn Thượng’ có ghi: “Ưu Đàm Bà La Hoa, báo hiệu điềm lành, 3000 năm mới nở một lần, cũng là lúc Kim Luân Thánh Vương xuất hiện”. Trong ‘Huệ Lâm Âm Nghĩa – quyển tám’ của nhà Phật viết: “Hoa Ưu Đàm do điềm lành linh dị sinh ra; đây là một loại hoa của Trời, thế gian không có. Nếu một đấng Như Lai hoặc Đức Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện nơi thế giới con người, loài hoa này sẽ xuất hiện nhờ đại đức và đại ân của Ngài”. Trong cuốn ‘Kinh Kim Cương’ được bảo tồn trong miếu tự tại Hàn Quốc cũng dự ngôn ghi lại: “Khi Hoa Ưu Đàm Bà La khai nở, cũng là lúc Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện… Loài hoa này xuất hiện báo hiệu Chuyển Luân Thánh Vương đã hạ thế xuống nhân gian truyền Pháp độ nhân”. Kinh Phật cũng ghi lại rằng Đức Chuyển Luân Thánh Vương là vị vua lý tưởng, người sẽ cai trị thế giới không phải bằng vũ lực mà bằng công lý. Những ai dùng thiện để đối đãi với người khác sẽ có cơ hội được gặp Đức Chuyển Luân Thánh Vương, bất kể người đó thuộc tôn giáo nào – Phật giáo, Cơ Đốc giáo, Khổng giáo…
  20. Hiếm có câu chuyện nào nổi tiếng như chuyện Đại Hồng Thủy và con tàu Noah trong quyển sách Bible. Suốt nhiều thời kỳ lâu dài nó đã từng được xem là một phần của lịch sử. Điều đáng quan tâm hơn nữa, là sự kiện Đại Hồng Thủy hiện diện trong rất nhiều sách cổ của vô số dân tộc và các nền văn minh tiên tiến cổ đại, như Olmecs tiền châu Mỹ, Sumer Lưỡng Hà, cổ Ai Cập, cổ Hy Lạp, thung lũng Indus-Sarawati Ấn Độ, vv… Tất cả các “huyền thoại” ấy đều giống nhau một cách đáng kinh ngạc ở nhiều chi tiết, cho thấy chúng phải có nguồn gốc chung dựa trên một sự kiện thực tế ở quy mô toàn cầu. Câu chuyện trong sách Bible đại ý kể rằng: Có một thời loài người đã từng phát triển văn minh rực rỡ, nhưng đạo đức của họ suy đồi, trái tim họ trở nên ích kỷ và độc ác. Họ thường xuyên có những ý nghĩ gian ác và mưu tính xấu xa. Thần đã kiên nhẫn chờ đợi loài người thay đổi tốt hơn lên, nhưng vô vọng, vì vậy Thần quyết định hủy diệt loài người đã tha hóa biến chất bằng cơn Hồng Thủy, đồng thời tẩy sạch địa cầu. Thần lựa chọn Noah vì ông còn đạo đức tốt đẹp và cho ông biết trước Đại thảm họa sắp xảy ra. Thần dạy ông đóng một con tàu để cứu bản thân, gia đình, những người khác và các cặp đôi động vật, đồng thời tích trữ nhiều thức ăn trên tàu. Rồi cơn Hồng Thủy thình lình xuất hiện, mưa liên tục suốt 40 ngày đêm, nước ngập tràn trái đất ngập cả những đỉnh núi cao. Tất cả mọi sinh vật trên trái đất đều bị hủy diệt.Rồi Noah thả chim bồ câu ra để thử xem nước rút chưa, lần đầu tiên chim quay về vì không có gì ngoài mặt nước mênh mông. Lần thứ 2 chim ngậm cành ôliu bay về nghĩa là nước đang rút dần. Lần thứ 3 bồ câu không bay về nữa vì nước đã rút và nó đã tìm thấy đất liền. Sau cơn Hồng Thủy, Noah và những người sống sót khác đã sinh sôi lại loài người. Những câu chuyện Đại Hồng Thủy của các dân tộc và các nền văn minh thượng cổ đều rất tương đồng với “huyền thoại” trên. Ví dụ: Sự cảnh báo về Trận Lụt sắp tới, một số người được mách bảo đóng một con tàu trước khi sự việc xảy ra, tồn trữ chuẩn bị trước nhiều cặp đôi của các loài động vật, và đặc biệt là Dùng cách thả chim để xác định xem liệu mực nước đã rút xuống hay chưa. Trong một sự kiện kiểu như Đại Hồng Thủy khi tất cả các thiết bị phương tiện cao cấp đều đã bị hủy, thả chim có lẽ là cách đặc thù duy nhất để xác định xem đất liền đã xuất hiện hay chưa. Nếu không trải qua thực tế, người ta không thể tưởng tượng ra được phương pháp này. Bản phân tích sơ bộ 35/~600 câu chuyện Đại Hồng Thủy khắp thế giới Một vài câu chuyện trong kho tư liệu Đại Hồng Thủy toàn cầu Châu Phi Tây nam Tanzania Xưa kia các con sông bắt đầu trận lụt. Thần bảo 2 con người hãy lên một con tàu. Ông bảo họ hãy mang theo nhiều hạt giống và nhiều loài động vật. Nước lụt thậm chí bao phủ cả những ngọn núi. Cuối cùng nước đã ngừng. Sau đó, một trong 2 người ấy, muốn biết xem liệu nước đã rút khô chưa, bèn thả 1 con chim bồ câu ra. Chim bồ câu bay trở lại. Rồi, ông ta thả 1 con quạ ra, nhưng nó đã không trở về. Sau đó 2 người ấy rời tàu, mang theo các loài động vật và hạt giống. Châu Á Babylon Gilgamesh đã gặp một ông già tên là Utnapishtim. Ông già kể Gilgamesh nghe câu chuyện sau đây: Các vị Thần đã cảnh báo Utnapishtim về một trận lụt khủng khiếp sắp sửa xảy ra để hủy diệt toàn nhân loại, bởi loài người đã vô cùng thối nát và vô đạo. Họ hướng dẫn Utnapishtim tháo dỡ căn nhà của mình để đóng một con tàu lớn. Con tàu 8 tầng hình lập phương, mỗi cạnh khoảng 60m. Utnapishtim phủ con tàu bằng hắc ín. Nghe theo lời các Thần, ông đã đưa vợ và gia đình, các đôi động vật thuộc nhiều loài, thực phẩm dự trữ, vv… lên tàu. Khi con tàu đã chuẩn bị xong xuôi, mưa bắt đầu tuôn xối xả xuống. Mưa suốt trong sáu ngày đêm liền.Cuối cùng mọi thứ đã yên ắng, và con tàu neo đậu trên đỉnh núi Nisir. Sau khi con tàu nghỉ lại đó được bảy ngày, Utnapishtim đã thả một chú chim bồ câu ra. Bởi vì mặt đất còn chưa khô ráo, chim bồ câu đã trở về. Tiếp theo, ông đã thả một con chim nhạn, và nó cũng bay trở lại. Sau đó, ông lại thả một con quạ, và con quạ không bao giờ trở về bởi vì mặt đất đã khô ráo.Thế là Utnapishtim rời tàu. Người Chaldea Có một người đàn ông tên là Xisuthrus. Thần Chronos cảnh báo Xisuthrus về một trận lũ sắp xảy đến và bảo ông đóng một con tàu. Con tàu dài 5 stadium rộng 2 stadium (1 stadium = 185m). Trong con tàu, Xisuthrus mang theo cả gia đình, bạn bè và các cặp đôi của nhiều loài động vật. Lũ đến. Khi nước bắt đầu rút, ông thả vài chú chim ra. Chúng đã trở lại và ông nhìn thấy bùn trên đôi chân của chúng. Ông lại thả chim một lần nữa, và kết quả vẫn như vậy.Khi ông cố gắng thả chim lần thứ ba, chúng không trở về nữa. Biết rằng nước đã rút khô, mọi người ra khỏi tàu. Người Chaldea là dân tộc thời thượng cổ, ở Lưỡng Hà, nay thuộc miền Nam Iraq. Ấn Độ Từ thuở xa xưa có một người tên là Manu. Manu, trong khi đang tắm sông, đã cứu được một con cá nhỏ thoát khỏi hàm răng của một con cá lớn. Cá nói với Manu, “Nếu anh chăm sóc cho tôi cho đến khi tôi đủ lớn, tôi sẽ cứu anh thoát khỏi những điều khủng khiếp sắp xảy ra”. Manu hỏi điều khủng khiếp ấy là gì. Cá nói với Manu rằng một trận lũ lớn sẽ sớm đến và hủy diệt mọi thứ trên Trái đất. Cá bảo Manu hãy bỏ nó vào trong một cái bình bằng đất nung. Cá lớn dần lên và mỗi khi nó lớn quá, Manu lại dành cho nó một cái bình mới lớn hơn. Cuối cùng con cá đã trở thành một ghasha, một trong những loài cá lớn nhất thế giới. Con cá hướng dẫn Manu đóng một con tàu lớn bởi vì trận lụt sẽ xảy ra rất sớm. Khi những cơn mưa bắt đầu, Manu dùng dây thừng buộc tàu với con cá ghasha. Con cá đã hướng dẫn con tàu đi khi nước biển dâng tràn. Toàn bộ trái đất ngập tràn bởi nước. Khi nước bắt đầu rút dần, cá ghasha dẫn tàu của Manu đến một đỉnh núi. Trung Quốc Phục Hy được xem là ông tổ của dân tộc Trung Hoa. Truyền thuyết kể rằng, xưa kia đã từng có một Trận Lụt lớn, toàn bộ Trái Đất chìm ngập trong biển nước, kể cả những ngọn núi cao. Tất cả mọi thứ đều bị quét sạch, không ai và không thứ gì sống sót. Tuy nhiên có một gia đình đã thoát được Đại hồng thủy nhờ một chiếc thuyền. Đó là Phục Hy cùng vợ, ba người con trai, và ba người con gái. Sau đó, ông và gia đình – những người duy nhất trong thiên hạ còn sống sót, đã sản sinh ra dân tộc Trung Hoa. Châu Âu Hy Lạp cổ đại Xưa kia, trước khi thời đại hoàng kim kết thúc, con người đã rất suy đồi và ngạo mạn. Thần Zeus rất phiền muộn khi thấy họ càng ngày càng trở nên xấu xa hơn. Cuối cùng, Zeus quyết định rằng ông sẽ tiêu diệt tất cả loài người. Trước khi thần Zeus làm điều đó, thì thần Prometheus, vị đã sáng tạo ra loài người, cảnh báo đứa con trai tên là Deucalion và vợ anh ta Pyrrha, biết về tai họa kinh khủng sắp giáng xuống thế giới loài người. Sau đó thần Prometheus bèn đặt đôi vợ chồng vào trong một cái rương bằng gỗ lớn. Những cơn mưa bắt đầu trút xuống và kéo dài 9 ngày đêm cho đến khi toàn thế giới bị chìm trong biển nước. Thứ duy nhất không bị ngập lụt là 2 đỉnh núi Parnassus và đỉnh Olympus. Cái rương bằng gỗ trôi tới và nằm lại gần đỉnh núi Parnassus. Deucalion và vợ Pyrrha bước ra và thấy rằng mọi thứ đã bị ngập lụt. Họ sống nhờ vào thực phẩm dự trữ có trong cái rương, cho đến khi nước rút xuống. Nhờ được thần Zeus hướng dẫn, họ lại sinh sôi nảy nở loài người trên trái đất. Châu Mỹ Người Aztec Ngày xưa có một người đàn ông tên là Tapi. Tapi là một người rất trọng đạo. Đấng Sáng Thế đã bảo Tapi đóng một con tàu làm nơi sinh sống bên trong. Đấng Sáng Thế còn bảo ông nên mang vợ, cùng với mọi loài động vật mỗi thứ một cặp đưa lên chiếc tàu này. Đương nhiên tất cả mọi người nghĩ rằng ông điên. Sau đó, cơn mưa bắt đầu và trận lũ đã đến. Con người và động vật đã cố gắng leo lên những ngọn núi, nhưng cả những ngọn núi ấy cũng bị ngập lụt. Cuối cùng mưa cũng tạnh. Tapi thả một con chim bồ câu, nhưng nó không trở về, cho nên ông biết là nước đã rút rồi. Hoa Kỳ Những người bản địa Ojibwe từng sinh sống ở Minnesota Hoa Kỳ cũng có một câu chuyện về sự Sáng Thế và Trận lụt, có nhiều nét hết sức giống với nội dung của cuốn Bible. “Từng có một thời kỳ, khi ấy cuộc sống đã không còn hòa hợp nữa. Đàn ông và phụ nữ không biết tôn trọng lẫn nhau, các gia đình cãi cọ nhau, và chẳng mấy chốc mọi người đều đấu đá với nhau. Điều đó làm Đấng Sáng Thế là Gitchie Manido rất phiền lòng, nhưng ông kiên nhẫn chờ đợi… Cuối cùng, khi tình hình tỏ ra không còn chút hy vọng nào nữa, Đấng Sáng Thế đã quyết định thanh tẩy Mẹ Trái đất bằng cách dùng nước. Nước lụt đã đến, làm ngập tràn trái đất, quét sạch tất cả mọi thứ. Chỉ còn một vài sinh vật của mỗi giống loài là còn sống sót”. Sau đó, câu chuyện kể rằng Waynaboozhoo đã sống sót bằng cách trôi nổi trên một “khối gỗ” lớn trong nước cùng với nhiều loài động vật khác nhau. Người Inca Trong suốt thời kỳ Pachachama con người đã trở nên rất xấu xa. Họ mải mê phát minh ra và làm nhiều điều tội lỗi, và bỏ quên các vị thần. Chỉ có những người trong dãy núi Andes cao kia là vẫn không biến chất. Hai anh em sống trên vùng cao nguyên ấy nhận thấy những con lạc đà không bướu của họ có nhiều hành vi lạ thường. Họ hỏi bầy lạc đà tại sao lại thế, và chúng nói là các ngôi sao đã bảo với chúng rằng, một Trận lụt lớn đang tới. Trận Lụt này sẽ tiêu diệt tất cả sự sống trên trái đất. 2 anh em đưa gia đình và các bầy vật nuôi của họ vào một hang động trên núi cao. Trời bắt đầu mưa và mưa mãi liên tục trong bốn tháng. Cuối cùng mưa đã ngừng lại và nước rút đi. Họ đã sinh sôi phục hồi dân cư trên trái đất. Đám lạc đà không bướu nhớ mãi Trận Lụt ấy, và đó là lý do tại sao chúng thích sống ở các vùng cao nguyên. Mexico Những thổ dân Toltec bản địa có một truyền thuyết nói rằng Trái đất đã từng bị hủy diệt bởi một trận lụt cực lớn và chỉ có một gia đình sống sót. Châu Úc Đơn cử câu chuyện của một bộ lạc thổ dân miền Tây nước Úc. Vào thời hết sức xa xưa, có một người đàn ông tên là Gajara sống cùng vợ và những người con trai, con dâu của ông. Một ngày nọ, có đám trẻ hành hạ và ngược đãi một con cú tên là Dumbi. Sau khi thoát được Dumbi báo việc đó với Ngadja, Đấng Tối Cao. Ngadja rất đau lòng. Ông chỉ thị cho Gajara, “Nếu ngươi muốn sống, hãy mang vợ, con trai và con dâu của ngươi theo và làm một cái bè thật lớn. Bởi vì vụ việc Dumbi, ta dự định sẽ làm cho cả loài người chết đuối. Ta sẽ làm mưa và lụt biển”, ông bảo họ. “Hãy đem lên bè những thứ đồ ăn giữ được lâu ngày, những thực phẩm như là gumi, banimba, và ngalindaja, tất cả những thực phẩm trên mặt đất ấy”. Thế là Gajara đã trữ tất cả những thực phẩm này. Ông cũng tập trung đủ giống chim trời như chim cu, chim ăn tầm gửi, chim cầu vồng, chim mào và chim sẻ. Ông đưa chúng lên bè, và cả một con kangaroo cái nữa. Gajara tập hợp các con trai làm người điều khiển bè, và cả vợ và con trai, con dâu nữa. Sau đó Ngadja giáng mây mưa xuống, những đám mây bao trùm khắp bầu trời. Trận lụt biển đến từ phía bắc-đông bắc, và con người đã bị chộp lấy trong cơn lũ lụt của biển cả. Ngadja làm nước lũ cuộn trào và lòng đất mở ra, san bằng tất cả và làm mọi sinh vật chết đuối. Trong khi đó, dòng nước đưa tất cả những người trên bè cùng với Gajara đi thật xa, tới nơi có tên là Dulugun. Cuối cùng, dòng nước cũng mang Gajara trở lại. Ông đã thả vài chú chim ra, trong đó có một con chim cúc cu. Con chim cúc cu đã tìm thấy đất liền và không quay trở lại nữa. Nước đang rút xuống dần dần.Sau đó, các loài chim khác trở lại với Gajara và ngày hôm sau ông lại thả chúng ra. Đất đã khô ráo và các sinh vật sống đã tìm thấy nhà và thực phẩm cho chúng. (nhận xét những chỗ in đậm nghiêng): Ở các phiên bản khác: do con người tha hóa suy đồi về đạo đức nên bị trừng phạt – hợp lý, còn ở phiên bản này con cú bị vài trẻ em ngược đãi dẫn đến cả loài người bị phạt – không hợp lý lắm. Có lẽ những người đời sau chỉ còn biết đến sự kiện Hồng Thủy qua lời truyền miệng, còn nguyên nhân căn bản là sự suy đồi đạo đức thì họ không hiểu nên chi tiết này dần bị lạc đi. Đoạn nói về việc thả chim: thứ tự thả chim và chi tiết con chim quay trở về bị đảo ngược. Đó là do những người thời sau không còn hiểu việc thả chim có mục đích là để dò xem nước đã rút hay chưa, cho nên chi tiết đó đã càng ngày càng bị lệch đi. Do truyền miệng quá lâu đời và sự thêm thắt của người kể chuyện nên phiên bản này tuy còn giữ được nhiều chi tiết nguyên thủy, nhưng độ chính xác của chi tiết đã kém đi so với các phiên bản Đại hồng thủy khác). Theo Minh Trí (tổng hợp) tin180.com @ ở vn cũng có 1 truyền thuyết gần giống như vậy ,nói về giai đoạn con người sống ích kỷ tham lam nên bị trừng phạt chỉ còn 1 gia đình tử tế được thần cho 1 hạt thóc , khi lũ lụt kéo đến liền bẻ đôi hạt thóc ..rồi lập tức hóa thành cái thuyền lớn ...và tránh được họa --đi giúp những người xung quanh . lâu quá nên td cũng quên mất tên câu truyện rồi
  21. Trong Thế Chiến I và II, những năm được coi là đen tối nhất của thế kỉ XX đầy biến động, một người đàn ông đã khai thác quyền năng bí ẩn của tinh thần mà trong lịch sử chưa có người nào có thể vượt qua ông trong công việc này. Ông là một nhà ngoại cảm với khả năng đọc suy nghĩ của người khác, khả năng tiên tri và đặc biệt hơn cả là khả năng thôi miên kì lạ. Với khả năng thôi miên của mình ông là người may mắn tránh được cái chết trong nhà tù của Đức Quốc xã, tránh được sự hà khắc của Joseph Stalin và làm nhiều điều kì lạ khác. Ông là Wolf Messing, nhà thôi miên nổi tiếng nhất thế kỉ XX. 11 tuổi – Thôi miên để trốn vé Wolf Messing sinh vào ngày 10 tháng 9 năm 1899 trong một gia đình Do Thái nghèo ở thị trấn nhỏ của Gora-Kavaleriya gần Warsaw, Ba Lan. Tại thời điểm đó, nơi này là một phần của của Đế chế Nga dưới quyền cai trị của ông Hoàng cuối cùng Nicholas II. Khi còn nhỏ ông bị mắc chứng mộng du, một chứng rối loạn mà người ta tin rằng có liên quan tới chu kì của mặt trăng. Nhưng cha mẹ ông đã chữa khỏi chứng bệnh này cho ông bằng cách đặt chậu nước lạnh dưới chân giường ông. Khi bước chân vào chậu nước lạnh, ông sẽ tỉnh lại. Lên sáu tuổi, ông được cha mẹ gửi tới trường dòng, nơi mà ông phát hiện mình có trí nhớ kì lạ, ông có khả năng nhớ rất nhanh các bài cầu nguyện, và đặc biệt hơn, đôi khi ông cảm thấy ánh mắt của mình có thể sai khiến người khác. Nhưng chỉ sau năm năm ông quyết định bỏ trốn tới Berlin. Ông lên chiếc tàu chở khách đầu tiên mà ông nhìn thấy, chui xuống dưới ghế và ngủ thiếp đi. Khi người soát vé tới đánh thức Messing dậy và yêu cầu kiểm tra vé, ông nhặt một mảnh giấy lộn dưới sàn nhà, nhìn vào mắt ông ta với niềm tin rằng người soát vé sẽ tin rằng mảnh giấy lộn đó là một vé xe lửa chính hãng. Ông đã thành công và việc đến Berlin không còn là vấn đề với một cậu bé 11 tuổi. Tới Berlin, cậu bé 11 tuổi phải làm thuê đủ việc kiếm sống. Messing chỉ được trả một ít tiền cho những câu việc hèn mọn, đầu đường xó chợ. Một lần do quá đói, ông bị ngất trên đường và bị người ta đưa vào nhà xác. Thật may, tại nơi đây ông được phát hiện rằng còn sống và được cứu thoát khỏi hôn mê nhờ các bác sĩ tâm thần và thần kinh học nổi tiếng của giáo sư Albel. Chính giáo sư cũng là người đầu tiên nhận ra Messinh có một năng lực tinh thần và khả năng kiểm soát, điều khiển bản thân đặc biệt. Giáo sư bắt đầu tiến hành các thí nghiệm tâm lý với Messing. Và ông vô cùng ngạc nhiên khi thấy Messing có khả năng đọc, điều khiển suy nghĩ của người khác. Messing có thể thực hiện các lệnh tinh thần (lệnh chỉ diễn ra trong suy nghĩ mà không thông qua lời nói) của giáo sư một cách chính xác. Giáo sư còn dạy Messing cách kiềm chế cảm xúc đau đớn của mình. 17 tuổi – Cuộc gặp gỡ định mệnh Cuộc đời của đầy sóng gió của Wolf Messing đã được dựng thành phim điện ảnh Sau khi bình phục, Messing trong vai một nghệ sĩ xiếc ảo thuật đường phố đi khắp nơi biểu diễn. Tiết mục của ông là để cho mọi người đâm, cào vào ngực, vào cổ mà không cảm thấy đau đớn. Nhờ thế ông có thể kiếm thêm thu nhập gửi về cho gia đình nghèo khó của mình. Năm 16 tuổi, ông bắt đầu tour diễn thực thụ đầu tiên của mình tới Vienna. Nhưng không phải biểu diễn xiếc như trước mà thực hiện các “thí nghiệm tâm lý” – ông gọi một cách khiêm tốn như thế. Trong các thí nghiệm này ông đã thể hiện khả năng thôi miên và khả năng đọc suy nghĩ của người khác một cách tài tình. Messing càng ngày càng nổi tiếng và thu hút được sự chú ý của Albert Einstein. Nhà vật lý vĩ đại đã mời anh bạn trẻ tài năng đến nhà ông chơi. Tại đây, Messing gặp Sigmund Freud – nhà phân tâm học nổi tiếng thế giới. Freud ngay lập tức thí nghiệm kiểm tra khả năng tinh thần của Messing – cậu thanh niên 17 tuổi mà ông từng được nghe tiếng. Ông đã đưa ra một lệnh tinh thần cho Messing với nội dung đi lấy chiếc nhíp trên bàn làm việc của Einstein và dùng nó nhổ ba sợi ria từ bộ ria mép tuyệt vời của nhà vật lý. Thật kì diệu, Messing đã đọc được suy nghĩ của nhà tâm lý, ông đi lấy nhíp tới gần nhà vật lý, bối rối xin lỗi và nhổ đúng ba sợi ria mép của Einstein trước sư ngỡ ngàng của quan khách và sự thán phục của Freud. Messing không bao giờ gặp Einstein thêm nữa, nhưng ông đã học được thêm từ Freud nghệ thuật tập trung và tự thôi miên, việc mà trước đó, ông chỉ thôi miên người khác. Sau đó, trong suốt cuộc đời của mình, Messing có nhiều cuộc gặp gỡ với những người nổi tiếng khác, trong đó có Gandhi vào năm 1927. Dùng thuật thôi miên trốn thoát khỏi nhà tù của Hitlle Adolf Hitler Năm 1917, ông bắt đầu một tour diễn vòng quanh thế giới và gặp gỡ những con người tuyệt vời. Năm 1921, ông trở về Ba Lan – giờ đã là một nước độc lập và phục vụ trong quân đội. Với khả năng thôi miên của mình, ông giúp cảnh sát rất nhiều trong việc điều tra tội phạm. Là một nhà thôi miên, nhà ngoại cảm, ông có khá nhiều kẻ thù. Nhưng đáng ngạc nhiên khi đó lại là những kẻ “cùng nghề” với ông. Với sự ngay thẳng, ông vạch mặt nhiều kẻ mang danh thầy tu, thầy cúng để lừa bịp người khác. Năm 1937, Wolf Messing đã gây ra một cơn thịnh nộ từ phía Adolf Hitle. Khi xuất hiện tại một chương trình của nhà hát Warsaw, ông báo trước sự sụp đổ của của Hitler nếu Đức tấn công Liên Xô. Hitler, vốn là một kẻ mê tín, thường rất tin vào những điều bí ẩn và các nhà ngoại cảm nhưng lại vô cùng ngạo man, hung hăng nên khi nghe điều này hắn vô cùng điên tiết. Hắn ra lệnh truy lùng Messing khắp nơi và treo giá 200.000 đồng mác cho kẻ nào bắt sống được Messing. Một số giả thuyết cho rằng chưa chắc Hitlle đã muốn truy bắt và giết Messing ngay mà muốn bắt Messing về để phục vụ cho hắn. Hắn muốn khai thác khả năng kì lạ của ông bởi Hanussen, một người cũng có khả năng tương tự như Messing, người rất được Hitlle tin dùng mới bị giết trong một cuộc tranh dành quyền lực của Đức Quốc xã. Messing đã phải ẩn náu trong một thời gian dài để trốn tránh sự săn lùng của quân Đức. Sau năm 1939, Đức Quốc xã chiếm đóng Ba Lan. Thấy vẫn chưa bắt được Messing, Hitlle đã cho dán đầy những tờ rơi cung cấp một phần thưởng lớn cho ai bắt được Messing ở Ba Lan. Một lần, khi đang lang thang vô định trên một con phố tấp nập, đông đúc, ông đột ngột bị một cú đấm trời giáng – một lính Đức nhận ra ông và đã ra tay. Tại đồn cảnh sát, ông tỉnh laị và nhận ra mình bị gẫy 6 cái răng. Cũng ở đây, ông đã thực hiện được một cuộc trốn thoát kì diệu. Ông tập trung tất cả sức mạnh tinh thần và ý chí của mình thôi miên cảnh sát. Bằng khả năng thôi miên ông điều khiển họ đi về phía cuối trại giam rồi nhanh chóng nhốt họ lại và chạy trốn. …Ông kể lại: “Đáp lại tôi, cảnh sát từ từ đi vào góc phòng, lúc đó tôi vẫn bất động. Rồi đột nhiên, tôi chạy ra ngoài hành lang trước khi họ có thể tỉnh lại…”. Chạy ra được ngoài hành lang, ông vội nhảy xuống đất qua cửa sổ tầng hai rồi trốn thoát qua cống thoát nước. Ông được đưa khỏi Warsaw bằng xe chở cỏ khô và vượt biên giới sang Nga vào tháng 10 năm 1939. Được Joseph Stalin thử tài thôi miên Sang Liên Xô, Messing có được sự bảo lãnh của Panteleymon Ponomarenko, nhà lãnh đạo cộng sản của nước Cộng hoà Belorussia. Ngay sau đó cơ quan tình báo NKVD, tiền thân của tình báo KGB bí mật đưa Messing tới Moscow để gặp nhà lãnh đạo Xô viết – Stalin. Wolf Messing Sau khi nghe chuyện về Messing, Stalin đã bị thuyết phục gần như hoàn toàn. Trợ lí của Messing , Valentina Ivanovskaya nhớ lai cuộc gặp gỡ giữa nhà thôi miên và các nhà lãnh đạo của Liên Xô như Stalin, Beria, Voroshilov, Kalinin… “Sau khi nói chuyện với Messing một lúc, Stalin nói: “Ông là một người khôn ngoan đấy, Messing”. Messing đáp lại thẳng thắn: “Người khôn ngoan là ngài mới đúng”. Kalinin lo lắng kéo tay áo nhà thôi miên nhưng rõ ràng Stalin đang trong một tâm trạng vui vẻ và không quan tâm lắm đến câu nói này. Có lẽ Messing đã đọc được suy nghĩ của Stalin”. Nhưng Stalin vẫn quyết định phải thử nhà thôi miên. Stalin yêu cầu Messing, dưới sự giám sát của hai cảnh sát (mặc thường phục) bước vào ngân hàng rút ra 10.000 rúp mà không có bất kì loại giấy tờ hành chính nào. Messing đồng ý. Ông bước vào ngân hàng, trình bày với nhân viên giao dịch rằng mình muốn rút tiền. Nhân viên yêu cầu ông đưa ra giấy tờ xác minh. Ông liền rút từ tổng cặp của mình ra một tờ giấy trắng rồi đặt trên mặt bàn, mắt vẫn không ngừng nhìn vào mắt nhân viên giao dịch. Người này đã giao tiền cho Messing, ông nhận tiền, đút vào cặp rồi rời khỏi ngân hàng. Sau đó, ông đã cùng hai người chứng kiến trả lại tiền cho ngân hàng. Viên giao dịch sau khi biết mình vừa làm gì đã rất hoảng sợ và lên cơn đau tim. May sao ông này không bị ảnh hưởng đến tính mạng. Stalin tiếp tục bắt nhà thôi miên tham gia một thử thách thứ hai. Ông yêu cầu Messing vào gặp được ông trong phòng làm việc mà không có giấy phép. Messing qua mắt hệ thống bảo vệ nghiêm ngặt của điện Kremli, tiến đến phòng làm việc của Stalin và vẫy tay chào vị lãnh tụ. Những người bảo vệ khi được hỏi đã quả quyết rằng, người đàn ông bước vào trong trí nhớ của họ không ai khác chính là Stalin. Messing, nói rằng lúc giáp mặt với nhân viên bảo vệ ông đã thôi miên họ, với sức mạnh tinh thần được bộc bộc lộ qua đôi mắt, ông khiến họ tin rằng người trước mặt mình chính là chủ nhân của điện Kremling.Tới lúc này thì Stalin tâm phục, khẩu phục hoàn toàn. Messing đã ở lại quân đội Nga và dưa vào khả năng của mình giúp Nga rất nhiều trong giai đoạn chiến tranh. Lúc gần cuối đời, ông vui vẻ nói rằng, “Nếu tôi có thể sống thêm một cuộc đời nữa, tôi rất sẵn lòng dành cho các nhà khoa học nghiên cứu”. Tuy nhiên, ông cũng nói bản thân ông không coi mình quá đặc biệt. Ông cho rằng ai cũng có những khả năng như ông ở một mức độ nào đó và nếu biết cách rèn luyện có thể phát triển chúng. Là người có khả năng đặc biệt nhưng Messing luôn dùng nó vào những việc chính nghĩa nên ông rất được tôn trọng. Với những cống hiến của ông, vào giữa những năm 60 của thế kỉ XX, ông được phong danh hiệu Nghệ sĩ Công huân của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Wolf Messing chết đột ngột và bí ẩn vào năm 1974. Theo Người Đưa Tin
  22. Bạn tin không, phát minh "thần thánh" này sẽ giải quyết tình trạng thiếu nước của 1,1 tỉ người dân trên toàn thế giới. Bảo bối bay giống của Doremon sắp ra đời để giải quyết "đại nạn" nhiều nước mắc phải Thật khó tin nhưng đây là những gì được tạo ra từ chính cây bút chì bé tí xíu Hãy xem người Nhật và Đức đã tái phát minh hộp đựng giấy vệ sinh sáng tạo như thế nào Bạn biết không, trong khi chúng ta có thể dùng nước thoải mái, thì trên Trái đất vẫn còn có tới 1,1 tỉ người không thể tiếp cận với nguồn nước sạch và an toàn. Và họ chủ yếu nằm ở những quốc gia đang phát triển tại châu Phi. Tại đây, có những nơi người dân phải đi hàng cây số để đến được nơi có nước, và mỗi ngày họ phải đi đến hàng chục lần như vậy. Đối với họ, quan trọng là có nước, và nước uống vào không bệnh, không chết là đủ rồi. Thế nhưng, nhân loại cuối cùng lại nghĩ ra một phát minh phải nói là trên cả tuyệt vời, được đánh giá có ý nghĩa rất to lớn, có thể giải quyết triệt để vấn đề thiếu nước đang nổi cộm tại nhiều nơi trên thế giới. Phát minh đó có tên Wakar Water. Và muốn biết Wakar Water là gì, hãy theo dõi video dưới đây để có câu trả lời. 1,1 tỉ người trên Trái đất sẽ được cứu rỗi bằng phát minh trên cả tuyệt vời này Như đã thấy, Warka Water đúng là một phát minh dành riêng cho người nghèo. Nó được làm từ những nguyên liệu hoàn toàn tự nhiên và dễ kiếm: tre hoặc trúc, lại có cấu tạo cực kỳ dễ di chuyển nên có thể lắp đặt cả ở những nơi thiếu nguyên vật liệu sẵn có. Ý tưởng Warka water cũng xuất phát từ tự nhiên. Tác giả của ý tưởng - kiến trúc sư Arturo Vittory đã lấy cảm hứng từ cơ chế hút nước của cây xương rồng, sự ngưng tụ nước trên mạng nhện, và cơ chế gom nước của cánh hoa sen. Cuối cùng, Warka water ra đời, với khả năng gom nước từ sương mù, hơi ẩm trong không khí, đẩy quả một màng lọc xuống bể chứa nước. Và bạn biết không, Wakar Water có thể gom tới 1000 lit nước mỗi ngày. Thế nhưng, thứ phát minh này mang lại không chỉ là nước, mà còn tác động lớn hơn đến vấn đề bảo vệ môi trường. Vì nước ở đây sẽ được dùng để tưới tiêu, trồng rừng và xây dựng hệ sinh thái. Các chuyên gia đã hy vọng rằng với nó, người dân tại các nước nghèo có thể nhận thức được tầm quan trọng của môi trường, qua đó hạn chế những hành động tàn phá rừng vốn đang là vấn nạn tại những quốc gia này. Nước ngưng tụ sẽ được chuyển xuống một màng lọc rồi đi vào thùng chứa Hạn chế duy nhất của Warka water có lẽ là giá thành - khoảng 1000 USD, tương đương hơn 22 triệu VNĐ. Đây là một con số không lớn, nhưng cũng không nhỏ đối với những ngôi làng còn nghèo trên thế giới. Hơn nữa, Warka water vẫn đang dừng ở giai đoạn thử nghiệm. Những công trình đầu tiên đã được xây dựng vào giữa năm 2015 tại Ethiopia, một trong những quốc gia khan hiếm nước sạch trầm trọng trên thế giới, và cho kết quả rất khả quan. Dù vẫn chưa thể nói trước được điều gì, nhưng chúng ta có thể hy vọng vào một tương lai tươi sáng, khi Warka water cữu rỗi cả Trái đất, bao gồm cả Việt Nam của chúng ta. Dành cho những ai chưa biết, có tới hơn 20% dân cư nước ta chưa được tiếp cận nguồn nước sạch. Còn bạn, bạn có tin vào tương lai đó không? Hãy cùng thảo luận nhé! Nguồn: Business Insider
  23. Với mong muốn tiễn đưa linh hồn người quá cố sang thế giới bên kia một cách bình an, người xưa ở các vùng miền khác nhau lại có những phong tục khác nhau. Người xưa tin rằng tồn tại thế giới bên kia, và có các cách đưa linh hồn về nơi đó. (Ảnh: Internet) Người Maya Người Maya tin rằng, thế giới bên kia tồn tại và gọi là Xibalba. Đó là một nơi rùng rợn, có những vị thần cai quản và các kẻ săn mồi khát máu. Xibalba là nơi chỉ dành cho những linh hồn người chết nếu như vượt qua được một loạt thử thách. Trong văn hóa của người Maya, phong tục tang lễ đóng vai trò quan trọng. Theo đó, người ta thường đặt ngô vào bên trong miệng người chết. Ngô được coi như là một dưỡng chất dành cho linh hồn người quá cố trong chuyến hành trình gian khó để đến được nơi an nghỉ vĩnh hằng Xibalba. Ngô cũng được coi là biểu tượng tái sinh của linh hồn. Bên cạnh ngô, người ta còn đặt vào trong miệng người quá cố hạt ngọc. Một số người dân tin rằng, những viên ngọc đó được linh hồn người chết sử dụng như một loại tiền tệ trong chuyến hành trình đến Xibalba. Cũng có quan niệm cho rằng, viên ngọc duy nhất đặt trong miệng người chết tương đương với nguồn năng lượng vô tận của hạt ngô. Địa ngục Xibalba trong văn hóa Maya. (Ảnh: Internet) Bùa hộ mệnh Người Ai Cập cổ đại tin những lá bùa hộ mệnh có sức mạnh kỳ diệu trong việc bảo vệ khỏi những cái ác và mang lại may mắn cho chủ nhân. Do vậy, họ đeo những lá bùa ở cổ, cổ tay, các ngón tay và mắt cá chân từ khi còn trẻ. Không chỉ sử dụng bùa khi còn sống, người Ai Cập còn sử dụng chúng cho người quá cố khi sang thế giới bên kia. Hàng trăm bùa hộ mệnh được người Ai Cập sử dụng trong tang lễ. Tuy nhiên, việc sử dụng loại bùa nào tùy thuộc vào sự giàu có và sở thích của mỗi người. Theo đó, những bùa hộ mệnh được lựa chọn sẽ được đặt cẩn thận lên trên các bộ phận khác nhau của xác ướp trong quá trình chôn cất. Một số bùa hộ mệnh có thể được đặt ở bất cứ nơi nào nhưng cũng có loại bùa được đặt ở vị trí chính xác. Một điều quan trọng đó là các linh mục sẽ đọc lời cầu nguyện và thực hiện các nghi lễ để đặt những bùa hộ mệnh đó trong thời gian diễn ra tang lễ. Một trong những loại bùa phổ biến nhất của người Ai Cập sử dụng đó là lá bùa trái tim hình bọ hung. Loại bùa này sẽ được đặt vào vị trí trái tim của người quá cố để nó không tách rời khỏi linh hồn người chết khi sang thế giới bên kia. Những người sợ xảy ra điều không mong muốn đó có thể đọc câu thần chú ghi trên lá bùa đó để ngăn chặn việc trái tim đó phản bội lại chủ nhân. Một bùa hộ mệnh quan trọng khác đối với người chết là “bùa đường đi” giúp người đã khuất đi đường một cách an toàn sang thế giới bên kia. Những bùa thường được đề cập đến trong “Book of the Dead” (Cuốn sách của người chết). “Cuốn sách của người chết” chứa tất cả những thông tin cần thiết nhằm hướng dẫn người chết sang thế giới bên kia. Theo đó, những linh hồn người quá cố sẽ phải vượt qua các phiên tòa xét xử, các cuộc kiểm tra để có thể sang thế giới bên kia một cách bình an. (Ảnh: Internet) Giấy đặc biệt – Amatl Trong thời kỳ hoàng kim của nền văn minh Aztec, khi một người dân ở tầng lớp thấp hoặc trung bình qua đời, thầy tế sẽ thực hiện nghi lễ mai táng và chuẩn bị cho người chết sang thế giới bên kia. Theo đó, thầy tế sẽ chủ trì những nghi lễ bao gồm: đổ nước lên đầu của người quá cố cũng như mặc quần áo cho người quá cố tùy theo điều kiện, tài sản hoặc nguyên nhân tử vong. Cụ thể, nếu người quá cố chết vì uống quá nhiều rượu thì người đó sẽ mặc trang phục với những biểu tượng của Tezcatzoncatl – vị thần rượu và những người say rượu. Người ta cũng đặt 1 bình nước bên cạnh thi hài người quá cố để người chết không bị khát nước trong chuyến hành trình sang thế giới bên kia. Một trong những nghi lễ quan trọng nhất đối với người Aztec đó là là bọc cơ thể người quá cố trong giấy làm từ vỏ cây được gọi là amatl (hay còn gọi là amate). Việc sử dụng loại giấy đặc biệt này có những lý do riêng. Theo đó, người đã khuất sử dụng amatl lần đầu tiên để vượt qua 2 ngọn núi một cách an toàn. Thứ hai, người ta sử dụng amatl để giúp người chết không gặp bất cứ nguy hiểm nào khi đi qua con đường được con rắn khổng lồ bảo vệ. Thứ ba là giấy amatl giúp linh hồn người chết đi qua một ngã tư. Thứ 4, amatl giúp linh hồn người chết vượt qua 7 sa mạc và 8 ngọn đồi. Cuối cùng và cũng là quan trọng nhất, Amatl giúp bảo vệ người chết trước gió Bắc. Thêm vào đó, để vượt qua các thử thách, người Aztec còn đốt quần áo và cánh tay của người chết để hơi ấm từ cơ thể bị đốt cháy có thể bảo vệ linh hồn người đã khuất khỏi những trận gió Bắc lạnh giá. Giết chết một con chó Techichi cũng là một phần quan trọng của tang lễ bởi vì người ta tin rằng con vật sẽ trở thành bạn đồng hành của người chết trong hành trình sang thế giới khác. Theo kienthuc.net
  24. Tạp chí New Scientist đưa ra một danh sách những hiện tượng bí hiểm mà cho tới nay khoa học khó giải thích, đặc biệt những hiện tượng liên quan đến con người và bệnh tật. Xem bài hay về Xem tướng - Xem nốt ruồi - Xem chỉ tay Xem bài hay về Phong thủy Thông tin mới nhất về “Hồ sơ Panama” Hiệu ứng giả dược (placebo) Hiệu ứng giả dược (placebo) Hàng ngày trong suốt một tuần, bác sĩ áo choàng trắng, ống nghe đeo trước ngực đến khám bệnh và phát thuốc “chữa huyết áp” cho bệnh nhân, để huyết áp của ông ta tăng hay hạ tuỳ bệnh nhân này yêu cầu. Đến ngày thứ tám bác sĩ phát loại thuốc chỉ làm bằng bột và đường, mà không hề chứa một hoạt chất gì. Bệnh nhân vẫn uống và huyết áp diễn biến chẳng khác gì dùng thuốc thật. Hiệu ứng chữa được bệnh bằng “thuốc giả vờ” như vậy gọi là “hiệu ứng giả dược” hoặc “hiệu ứng placebo”. Nói cách khác, “giả dược” cũng có tác dụng chữa bệnh. Hiện tượng này phổ biến đến nỗi khi thử hiệu lực của một thứ thuốc mới nào người ta cũng so sánh thuốc chứa hoạt chất chữa bệnh và thuốc không chứa chất đó nhưng về hình thức bên ngoài thì giống hệt nhau. Với sự tín nhiệm của bệnh nhân đối với bác sĩ, chính bệnh nhân không biết bác sĩ cho mình thuốc gì và nhiều khi tự nhiên cũng khỏi bệnh. Rõ ràng là sau một thời gian thấy thuốc đã có công hiệu, về mặt tâm lý, bệnh nhân đã “thoả thuận” với cơ thể là cứ uống thuốc ấy (lúc này là giả dược) thì phản ứng lại như thế. Cơ chế của “sự thoả thuận tâm lý” này như thế nào thì khoa học chưa biết. Chúng đã “nói năng, khuyên bảo”gì với nhau? Biết được điều đó có lợi vô cùng. Sẽ “xui” được tâm lý “khuyên bảo”cơ thể khỏi bệnh mà không cần dùng thuốc. Vì thuốc nào bên cạnh việc chữa bệnh cũng kèm theo “hiệu ứng phụ”, đôi khi rất nguy hiểm. Cho tới nay khoa học vẫn chưa thể giải thích cặn kẽ về hiện tượng giả dược trong y học. Liệu pháp vi lượng đồng căn (Homeopathy) “Hiệu ứng giả dược” có thể giải thích được hiện tượng vi lượng đồng căn, vốn không thể giải thích được bằng những khái niệm “vật chất”. Bệnh nhân được chữa trị bằng các liều rất nhỏ loại thuốc mà chính nó gây ra các triệu chứng của loại bệnh này (theo quan niệm “dĩ độc trị độc”). Thực ra, các thầy thuốc vi lượng đồng căn chữa cho bệnh nhân bằng những dung dịch thuốc cực kỳ loãng, có thể coi như chẳng chứa một phân tử thuốc nào. Nhưng trong nhiều trường hợp, các thuốc vi lượng đồng căn tỏ ra rất có công hiệu chữa bệnh. Theo phương pháp vi lượng đồng căn, thậm chí chẳng cần đến 1 tuần cho bệnh nhân phải “chịu thầy” như trường hợp giả dược nói trên. Có người giải thích là các phân tử nước “xếp thành hàng” xung quanh phân tử thuốc theo một trật tự xác định và giữ nguyên dạng ấy sau khi thuốc đã tách ra. Thầy thuốc vi lượng đồng căn dùng các dạng cấu trúc này, gọi là “nước có trí nhớ” để “kéo bệnh” ra khỏi cơ thể. Nhưng lý thuyết đó không chống đỡ được những sự phê phán, ví dụ các phức chất của nước chỉ tồn tại được khoảng phần tỉ giây (điều này khoa học đã chứng minh) thì sao có thể chữa được bệnh! Vậy mà tại London có hẳn một cơ sở chữa bệnh gọi là Bệnh viện vi lượng đồng căn Hoàng gia, thành lập từ mấy thế kỷ trước đến nay vẫn đông bệnh nhân đến chữa. Theo Khoahoctv
  25. Lớp học chữa bệnh bằng Kim cang thiền "kỳ dị" bậc nhất Hà thành Ít ai biết được ở ngay giữa lòng thủ đô vẫn có một lớp học truyền dạy nhau những phương pháp chữa bệnh mang màu sắc dân gian vô cùng kỳ bí. Tại đây, người ta chữa những bệnh liên quan tới tim mạch, huyết áp,... thậm chí tiểu đường bằng phương pháp dùng kim băng châm vào da thịt. Trước khi châm kim, mọi người sẽ phải đọc "thần chú. Ai đọc đúng "thần chú" thì khi kim châm vào người sẽ không bị chảy máu (?). Nhưng điều quan trọng nhất là, ở lớp học này, các học viên phần đa là các giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ hoạt động trong ngành y. Đó là lớp học chữa bệnh của môn phái Kim Cang Thiền do danh sư Trần Kim Cang sáng lập. Theo lời chỉ dẫn của một vị cán bộ ở Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, tôi đã tới đăng ký học lớp học kỳ quặc này tại một căn nhà trên đường Đê La Thành. Học chung lớp với tôi là một loạt những giáo sư, tiến sĩ và nhiều cán bộ công tác trong nhiều ngành nghề khác nhau. Thành viên trong lớp, người trẻ nhất có lẽ chỉ đáng tuổi cháu chắt, người già nhất cũng tương đương tuổi ông Trần Kim Cang nhưng ai cũng tôn kính gọi ông là thầy. Ngay trong những buổi tiếp xúc đầu tiên với “Thầy”, chúng tôi được ông giảng giải cho nghe về nguồn gốc và quan điểm của môn phái Kim Cang Thiền. Theo đó, Kim Cang Thiền là một môn khí công-thiền. Có nghĩa là khí công kết hợp chặt chẽ với tư tưởng của Phật giáo. Khí công xưa nay vẫn được coi là một môn học giúp lưu thông khí huyết, nâng cao sức khỏe, sự dẻo dai và có tác dụng chữa bệnh. Còn Phật giáo là tôn giáo coi cái hướng Thiện là mục đích trọng tâm. Hai điều đó được kết hợp chặt chẽ trong một môn phái nhằm mục đích chữa bệnh và hướng thiện cho các học viên. Các học viên phải làm lễ trước buổi học Theo lời ông Trần Kim Cang, sở dĩ môn phái có sự kết hợp kỳ lạ này bắt nguồn từ câu chuyện cuộc đời nhiều màu sắc kỳ bí của ông. Chuyện rằng, ông Trần Kim Cang là hậu duệ đời thứ 7 của một gia đình người Hoa chuyên làm nghề bùa chú ở tỉnh Trà Vinh. Mặc dù biết con trai là hậu duệ duy nhất của dòng họ nhưng ông cụ thân sinh ra ông đã gửi con trai lên chùa Vạn Hòa Cổ Tự để tu đạo Phật, lấy hiệu là Thích Liên Nhã. 12 năm sau, ông được mời làm trụ trì chùa Phú Thọ (TP. Hồ Chí Minh). Và chính trong thời gian này, vào một đêm rằm tháng 10, năm Ất Tỵ (1965), trụ trì Thích Liên Nhã đã được một ông già râu tóc bạc phơ, mặc áo rộng có thêu nhiều hình bát quái (theo ông đây là Đức Thái Thượng Lão Quân) truyền cho 3 cuốn sách bí truyền của ngài. Khi truyền sách, ông già này đã ngâm một bài thơ: Ta mang một túi càn khôn Chưa truyền hậu thế vội chôn xuống mồ Ngày đêm ta phải trông chờ Tâm linh ngời sáng đến giờ trao tay Bằng không gặp cảnh duyên này Ta đầu thai lại làm thầy giảng du Mong người thấu hiểu hiền ngu Minh tâm kiến tánh cần tu tiên đài… Các học viên được phát 8 chiếc kim băng để chữa bệnh Tỉnh dậy, ông vội vàng cầm giấy bút ghi lại tất cả những điều còn nhớ trong giấc mơ ra 3 cuốn sách khác nhau. Đó là “Dịch quái linh phù”, “Khí công bí truyền” và “Bí tắc Kim Cang công phu”. Trong đó, “Bí tắc kim cang công phu” là cuốn sách được dùng để dạy cho những học viên mới như chúng tôi. Theo lời danh sư Thích Liên Nhã - Trần Kim Cang viết trong lời tựa của sách thì “Bí tắc Kim Cang công phu là loại khí công thượng thừa và chỉ được mật truyền, người có đủ cơ duyên mới được các chân sư dạy cho từng bước một. Công năng của nó là dùng để chữa thân bệnh và tâm bệnh….” Sau khi được học những giáo lý của môn phái về việc tôn sư trọng đạo và những điều cấm kỵ trong môn phái, chúng tôi bước vào những bài học chữa bệnh đầu tiên. Trước mỗi buổi học, mỗi người đều nhận được một bộ gồm 8 chiếc kim băng rồi tự tay thắp một cây nến và cầu nguyện dưới ban thờ Phật Tổ. Được biết, việc cầu nguyện và thắp nến giúp cho các học viên được thanh thản, tịnh tâm trước giờ học. Còn 8 chiếc kim băng được dùng để châm vào da thịt, nhằm giải phóng những độc tố trong cơ thể, đồng thời chữa bệnh cho bản thân. Và có lẽ điều kỳ lạ nhất mà tôi cảm nhận được ở phương pháp chữa bệnh độc nhất vô nhị này là hầu hết các học viên đều phải học thuộc lòng những bài thần chú dành cho bài tập. Bởi theo lời Thầy thì nếu không đọc thuộc thần chú, chắc chắn máu trong cơ thể sẽ chảy ra và tác dụng chữa bệnh sẽ không như mong muốn. Vì thế, trước mỗi buổi học, hầu hết mọi người đều dành thời gian khá nhiều cho việc học thuộc lòng. Trong mỗi buổi học, sau phần “nghi lễ”, màn xuyên kim luôn luôn sẽ là phần kịch tính nhất đối với học viên. Trước khi xuyên kim vào cơ thể, mọi người đều phải dùng tay uốn thẳng kim băng, xếp thành một hàng thẳng. Khi đã sẵn sàng, các học viên ngậm một chiếc vào miệng, đầu suy nghĩ về thần chú và tay xuyên kim. Và hầu hết mọi người đều chọn vị trí cánh tay, bắp chân để “biểu diễn”. Xuyên kim băng vào chân mà không hề chảy máu Nhiều người lo ngại việc kim được lấy từ hộp ra, không qua sát trùng bằng dung dịch sẽ có thể làm vi khuẩn đi vào cơ thể học viên. Nhưng theo lời một số học viên từng theo học lớp này từ nhiều năm trước thì đây là một cách “làm phép”, do đó, học viên sẽ không bị mắc bệnh, mắc vi khuẩn. Thậm chí có bác sĩ cẩn thận quá mang cồn 90 độ theo để sát khuẩn kim còn làm cho máu tươi bắn ra thành dòng và làm “phép” mất thiêng. Do đó, ở lớp học mà tôi chứng kiến, mặc dù phần đa học viên là các bác sĩ, nhưng tuyệt nhiên không ai nghĩ tới chuyện sát khuẩn kim băng. Dường như đặt sự tin tưởng tuyệt đối ở danh sư, học viên cầm kim tự xuyên qua bụng chân, bụng tay một cách không ngần ngại. Có những người xuyên kim vào chân nhanh thoăn thoắt như xuyên qua thân cây chuối, nhưng cũng có những người mướt mải mồ hôi hý hoáy, dùng lực rất nhiều mới xuyên được một kim. Nhưng rốt cục cũng không có ai bỏ cuộc. Và có lẽ khi chứng kiến những cảnh này, người hoảng sợ lại chính là những người không tham gia. Kết thúc buổi học, mọi người ai nấy đều vui vẻ, chụp lại hình kỷ niệm để khoe người thân. Khi những ngọn nến đã cháy hết, thầy giáo nhắc các môn sinh rút kim khỏi cơ thể, mà không quên nhắc tất cả phải chăm chỉ luyện tập lại bài vào mỗi sáng sớm. Có lẽ đây là lớp học chữa bệnh kỳ quặc nhất mà tôi được chứng kiến. Những tác dụng chữa bệnh mà "Thầy" Trần Kim Cang khẳng định, dù chưa được cơ quan y tế nào chứng minh nhưng việc thu hút được nhiều bác sĩ tham gia như vậy cũng đủ chứng minh sức hấp dẫn của môn học. Và có lẽ ít nhất qua đây điều đầu tiên mà con người ta học được chính là lòng dũng cảm. Theo T.Lăng - GDVN clb này họ dùng cái bát quái hóa khí làm biểu tượng họ có cuốn sách "kim cang dịch quái linh phù" ...td đang tìm hiểu , hy vọng có nhiều điều bổ ích ^_^