xuquang

Hội viên
  • Số nội dung

    248
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Danh tiếng Cộng đồng

9 Neutral

About xuquang

  • Rank
    Hội viên mới
  • Birthday 19/10/1983

Contact Methods

  • Website URL
    http://

Thông tin cá nhân

  • Đến từ
    Dòng sông Thu Bồn thơ mộng

Xem hồ sơ gần đây

1.025 lượt xem hồ sơ
  1. Đền Hùng từng bị yểm bùa? Cập nhật: 14:01 GMT - thứ tư, 17 tháng 4, 2013 Đền Hùng là thánh tích của dân tộc Việt Nam từ bao đời nay Đền Hùng thờ Quốc Tổ, nơi linh thiêng bậc nhất của người dân Việt Nam, từng bị người phương Bắc đặt một ‘đạo bùa yểm’ chôn dưới nền đất, một quan chức coi giữ khu đền này khẳng định với báo chí trong nước. Thông tin này chỉ được tiết lộ sau khi có áp lực từ dư luận đòi giải thích về một phiến đá bí ẩn đặt một cách có chủ đích ngay tại điện thờ của đền Thượng, đền chính trong quần thể Đền Hùng tại huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Ông Nguyễn Tiến Khôi, người trước đây là quản lý cao nhất ở đền Hùng và là người nắm rõ nhất về phiến đá bí ẩn này, giải thích rằng đó thật ra là một đạo bùa để trấn lại bùa yểm của người phương Bắc. Bị yểm 600 năm Mở bằng chương trình nghe nhìn khác Từ đó ông Khôi đã nêu rõ các chi tiết về ‘đạo bùa yểm’ này mà lần đầu tiên được tiết lộ với công chúng. Nói trên trang mạng của tờ Tiền Phong và báo mạng Đất Việt, ông Khôi cho biết trong đợt tu sửa đền hồi năm 2009, các công nhân đã phát hiện ‘một viên gạch lạ có in chữ Hán’ lúc tháo dỡ toàn bộ bệ thờ trên đền Thượng. Viên gạch lạ này đã được ông Khôi gửi sang cho ông Nguyễn Minh Thông, vốn là đại tá quân đội và hiện là giám đốc Trung tâm nghiên cứu ứng dụng phương Đông, để nhờ nghiên cứu. Trong báo cáo giải trình của ông Thông cho lãnh đạo tỉnh Phú Thọ được báo Tiền Phong dẫn lại thì trung tâm của ông ‘đã hội thảo nhiều lần’ với ‘một số nhà khoa học, chuyên gia ngoại cảm’ và đi đến kết luận rằng viên gạch là ‘do đạo sỹ của quân Nguyên Mông đem đến đặt từ cuối thời Trần’, tức là tính cho đến nay là hơn 600 năm. "Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật, Nhà nước và nhân dân. Việc này (đặt đá trấn yểm) đã được các lãnh đạo trung ương, tỉnh đều chứng kiến và biết." Nguyễn Tiến Khôi, cựu giám đốc Ban quản lý đền Hùng Theo báo cáo này thì ‘Thời đó phía Nguyên Mông bị thua trận vì bị nhà Trần ta đánh tan ba lần, đã cử đạo sỹ được cải trang sang nước Nam ta, dùng thủ đoạn yểm bùa gạch này tại Đền Thượng’. Trên viên gạch có ghi dòng chữ Hán ‘Đánh đổ đức sáng Vua Hùng’ và hiện tại vẫn còn được lưu giữ tại Bảo tàng đền Hùng, Đất Việt dẫn lời ông Khôi cho biết. Do đó, để hóa giải, ông Thông đã đề xuất lên Ủy ban tỉnh Phú Thọ và Bộ Văn hóa tìm một đạo bùa khác để trấn yểm. Đề xuất này, theo ông Khôi, đã được những vị có chức trách đồng ý và ông Thông đã lên kế hoạch thực hiện. Đạo bùa trấn yểm đó chính là phiến đá đặt trên bệ bát quái trong đền Thượng vốn đã gây xôn xao dư luận trong nhiều ngày qua. Công chúng không hề biết nguyên do cũng như ý nghĩa của phiến đá này nên dẫn đến tâm lý e ngại. Ý nghĩa gì? Mặt trước của phiến đá bùa là trận đồ bát quái cùng với thần chú Mật tông Trong báo cáo của mình, ông Thông đã giải thích về nội dung bùa trấn này như sau: Phiến đá được chọn là do giám đốc một công ty đá quý ở Hà Nội có tên là Nguyễn Đình Khảm cung tiến. Đây là viên đá xanh ‘có nhiều năng lượng tốt lành, có khả năng hóa giải hung khí và tiếp nhận năng lượng của tinh tú trời đất’. Mặt trước vẽ trận đồ bát quái của danh tướng Trần Hưng Đạo dựa trên tác phẩm ‘Binh thư yếu lược’của ông và chòm sao Bắc Đẩu. Trên mặt trận đồ là câu thần chú Phật giáo Mật tông. Mặt sau của đạo bùa này là ấn vuông của Vua Hùng đóng ở trên và lá bùa giải bách họa vẽ ở phía dưới. Ông Thông giải thích rằng linh khí của Đức Phật kết hợp với linh khí của Đức Thánh Trần sẽ ‘hóa giải được’ đạo bùa yểm của người phương Bắc và sẽ giúp cho vận nước được hưng thịnh. Ông Nguyễn Tiến Khôi được Đất Việt dẫn lời nói ông cam đoan ‘viên đá đang rất linh ứng và hiệu nghiệm’. “Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật, Nhà nước và nhân dân,” ông nói và cho biết việc này đã được ‘các lãnh đạo trung ương, tỉnh đều chứng kiến và biết’. Ký ức dân gian "Đã có nhiều dấn ấn trong tâm lý dân gian qua các đời rằng người Tàu hay sang đây làm các thứ tệ hại như yểm bùa, triệt long mạch và đập phá những thứ có giá trị tâm linh của người Việt." Nhà sử học Lê Văn Lan Trao đổi với BBC từ Hà Nội, nhà sử học Lê Văn Lan cho biết chuyện người phương Bắc tìm cách yểm bùa nước Nam là ‘có thực’ mà ‘ý thức dân gian còn ghi lại’. Chính sử không hề đề cập đến việc này nhưng trong ngoại sử và sách địa lý thì có chép, ông Lan nói. “Đã có nhiều dấn ấn trong tâm lý dân gian qua các đời rằng người Tàu hay sang đây làm các thứ tệ hại như yểm bùa, triệt long mạch và đập phá những thứ có giá trị tâm linh của người Việt,” ông giải thích. “Tôi đã đi điền dã và sưu tầm nhặt nhạnh được nhiều lời kể dân gian không chỉ tập trung vào Cao Biền (quan đô hộ đời Đường) mà còn cả các đời khác rằng các thầy địa lý người Tàu đi vào đây (nước Nam) bán thuốc đeo quang gánh, đội nón lá rộng vành,” ông nói. “Họ đi đến đâu thường hay xem đất, tìm đất... sau đó chôn bùa hoặc đào đất để phá long mạch.” Đạo bùa này được cho là trấn bùa xấu và giúp vận nước hưng thịnh Tuy nhiên đối với khu vực đền Hùng mà ông Lan nói ông đã ‘điền dã rất kỹ từ nửa thế kỷ nay’ thì ông chưa sưu tầm được truyền thuyết, lời kể hoặc hiện vật nào ‘chứng tỏ người Tàu đã sang đây để yểm bùa hay triệt phá gì’. Cho nên ông Lan cho rằng phiến đá trấn yểm đặt trong đền Thượng ‘nên được di dời ra khỏi đền’ vì ‘đấy là thứ mới tạo chứ không phải có từ trước’. Tiến sỹ Ngô Đức Thịnh, ủy viên Hội đồng Di sản quốc gia, cũng có cùng ý kiến với ông Lan về cách xử lý đối với phiến đá. “Đó là một hiện vật không nguyên gốc,” ông nói với BBC, “Cầu may thì cũng được thôi nhưng không thể đưa vào một cách tùy tiện.” “Quan điểm của tôi là nếu như chưa biết rõ hòn đá này là gì và không gắn với đền thờ Vua Hùng thì tốt nhất là nên đưa ra ngoài,” ông nói. Hiện Ban quản lý đền Hùng đang tính đến sau ngày Quốc giỗ mùng 10/3 Âm lịch sẽ tổ chức hội thảo khoa học để các chuyên gia và các nhà khoa học bàn luận rõ ràng về vấn đề này. Tuy nhiên, TS Thịnh cho rằng ‘lĩnh vực tâm linh rất mơ hồ khó mà đem ra một hội thảo khoa học’.
  2. Bác có thể nói rõ hơn vấn đề này ? Ở đây làm sao có giả định là "nếu" để rồi kết luận là "cản trở Phật giáo trở thành tôn giáo của tương lai"?
  3. Để bác TS có ý kiến được rồi, không nên có ý kiến theo kiểu hội đồng a dua như thế !!!!!
  4. Xuquang rất thích câu này của cô Wil!
  5. Bác này chắc bị lừa mà chưa thông. Muốn mua đá thật thì có thổ địa, Đá Nẵng trấu gì, đi bang bang du lịch ba lô mua mấy viên đá ngoài đường giá hời mà đòi phải là thạch anh thật !!! Hàng tàu nhập về là phục vụ cho mấy người thích giá rẻ như bác đấy, dân DN cũng tùy khách mà "vui lòng khách đến vừa lòng khách đi" đoái kaka..
  6. Biết hay không, sách lược làm gì....mỗi người đều có cái suy nghĩ của riêng,( Bác Hồ ta giỏi còn tiên đoán thắng Mỹ là thắng, nhưng vẫn nói ra những điều giản dị, dễ hiểu cho dân chúng thì hà cớ gì phải im tất)đọc tin tức mà thấy xóc gan, nói ra những cái tai nghe mắt thấy thường nhật cho hả dạ âu cũng là chủ đề cà phê vắng khách í mà....
  7. Sự vụ này, là một trong số nội dung được đưa vào Hội nghị phổ biến, quán triệt, triển khai nghị quyết TW4 (khóa XI)- Một số vấn đề cách bách về xây dựng Đảng. Trong đó nêu một số trường hợp mang tính thời sự như vụ ông Nguyễn Chí Dũng (Vinalines), vụ cưỡng chế đất ở Hải Phòng....Chứng tỏ Đảng ta đã kịp thời, sáng suốt nhận định đúng tình hình.P/s: Góp phần bảo vệ, giữ gìn và phát huy truyền thống ngàn năm văn hiến, bảo vệ thành quả cách mạng là điều nên làm, thiết nghĩ dù trang web có đề ra nội quy nhưng những lời nhận xét như thế này không gì bác phải thấy áy náy hihi.....
  8. Ông này chết chắc, TW Đảng lại có chuyện để họp bàn về ông bí thư Hải Dương roài... Cán bộ như thế này là một số trong số lớn ĐV làm mất lòng dân đây. Như thề này thì làm sao dân ta còn tin vào Đảng. Ngọn ngành cần phải làm rõ nghiêm túc. Làm sở LĐ mà như làm bilgate nhễ!!!! Đáng phục ông quan con có ô dù che....hay thật !
  9. Sao Phi luật tân không mời chiếc này ra bãi cạn Scarborough thăm quan nhỉ, cho cái tụi ăn cướp kia chạy có cờ, cứ ở Rubic chơi đi anh bạn, thử coi thằng Tàu nó dám làm gì bãi cạn.
  10. Nếu sự thật là như vậy thì tốt biết mấy. Mà khi nói PT việt thì dùng đúng từ lun bác ạ, dùng "Phoengshui" thì còn PT tàu đó bác!
  11. Thái tử đỏ Bạc Hy Lai của Trung Quốc bị thất sủng thế nào? Tác giả: Chris Buckley -Người dịch: Trần Văn Minh Reuters/ National Post BẮC KINH – Bạc Hy Lai đã nhận được tín hiệu về một cơn bão sẽ đánh đổ ông và làm rung chuyển đảng Cộng sản Trung Quốc dưới hình thức cảnh báo ngầm về thời tiết. Họ Bạc từ Trùng Khánh, địa phương quyền lực của ông ở vùng Tây Nam, bay lên Bắc Kinh để tham dự hội nghị thường niên của quốc hội. Ông cố gắng giảm thiểu sự xôn xao về việc giám đốc công an của ông đã xin tỵ nạn ở lãnh sự quán Hoa Kỳ một ngày trước đây. Nổi bật và đầy tự tin trong giới chính trị cấp cao giữa tập thể đông đảo những người hòa đồng trong thận trọng, Bạc Hy Lai đã là người gây tranh cãi về việc ông đẩy mạnh Trùng Khánh “đỏ” như là một mô hình táo bạo cho Trung Quốc. Trò hề đầy kinh ngạc của người thân cận lâu năm, Phó Thị trưởng Vương Lập Quân, đe dọa làm hư hỏng bộ mặt thống nhất của quốc hội và nỗ lực chạy đua của Bạc vào trung tâm quyền lực của đảng. Còi báo động xảy ra vào ngày 3 tháng 3 từ một nhà lãnh đạo trung ương lão thành đã khuyên Bạc và những viên chức khác của Trùng Khánh cẩn thận khi tham dự hội nghị quốc hội ở Bắc Kinh. Vị viên chức kia, mà nhiều nguồn tin cho Reuters biết là Hà Quốc Cường, người đứng đầu Đảng về giữ kỷ luật và chống tham nhũng, nói: “Khí hậu Bắc Kinh rất khác với khí hậu Trùng Khánh. Vì thế tôi hy vọng mọi người sẽ ráng chống cơn lạnh, giữ mình ấm áp, và bảo trọng”. Không phải tai nạn riêng lẻ Luồng gió chính trị Bắc Kinh thực sự đã hướng tới Bạc một cách tàn nhẫn. Việc cách chức ông khỏi chức vị bí thư Trùng Khánh được loan báo tuần trước, chỉ dấu sự bất thường về tiến trình trao quyền vào cuối năm cho một thế hệ lãnh đạo mới trong Quốc Hội thứ 18 của đảng Cộng Sản. Một sự tái lập của những biến cố dẫn đến cuộc trốn chạy của Vương Lập Quân và sự mất chức của Bạc tỏ rõ sự vận hành của Trung Quốc bao trùm xa khỏi căn cứ chính trị của hai ông ở Trùng Khánh, một tỉnh với 30 triệu dân bên bờ sông Hoàng Hà. Cuộc trốn chạy của Vương Lập Quân vào lãnh sự quán Hoa Kỳ ở thành phố Thành Đô (thuộc tỉnh Tứ Xuyên) không phải là tai nạn riêng lẻ như viên chức Trung Quốc diễn giải. Trong những cuộc phỏng vấn ở Bắc Kinh và Trùng Khánh, viên chức nhà nước, cán bộ về hưu, phóng viên và những nguồn tin khác thân cận nhà nước đã gọi đây là sự bùng phát từ những căng thẳng âm ỷ cả năm qua và dính líu tới giới lãnh đạo cao cấp Trung Quốc. Câu chuyện bao gồm những tố cáo về tham nhũng và lạm dụng quyền hành của gia đình họ Bạc, ghi âm lén những lãnh đạo kỳ cựu, và sự bất đồng giữa Bạc và Vương. Trên tất cả, sự lên xuống của Bạc, được coi là người hùng của phe tả, bộc lộ sự rạn nứt tư tưởng đe dọa xé toạc sự thống nhất trong đảng nếu giới lãnh đạo giải quyết sơ suất sự ra đi của ông. Li Weidong, chủ bút và bình luận gia ở Bắc Kinh, người từng theo dõi sát cuộc biến động nói rằng, “Việc mất Bạc Hy Lai hàm nghĩa sự cân bằng của Quốc Hội thứ 18 tiếp nối đã bị xáo trộn. Việc tìm kiếm sự cân bằng đúng đắn sẽ khó khăn hơn”. Vì hệ thống chính trị bí mật của Trung Quốc làm dân chúng không dám nói ra một cách thành thật về những tin tức nhạy cảm, đa số những người được phỏng vấn trong bài viết này đòi hỏi được dấu tên.character:line-break"> Giáng chức và hăm dọa Cuộc trốn chạy của Vương Lập Quân vào lãnh sự quán Hoa Kỳ ngày 6 tháng 2 đã không được kiểm chứng cho tới khi chính quyền Trung Quốc và Hoa Kỳ xác nhận. Nhưng hàng rào an ninh nghiêm ngặt chung quanh lãnh sự quán khơi động làn sóng suy diễn trên mạng đã làm cho lãnh đạo đảng không thể bưng bít biến cố này. Li, nhà bình luận ở Bắc Kinh, nói rằng: “Việc này giống như chính trị ở cung đình. Chính trị đàng sau bức màn thì rất bí mật cho tới lúc cơn khủng hoảng xảy ra phô bày mọi nhân vật”. Chỉ chừng vài ngày trước, Bạc cách chức Vương khỏi chức vụ giám đốc công an và bổ nhiệm ông làm phó thị trưởng về giáo dục, khoa học và văn hóa. Đây là một sự giáng chức đột ngột cho một sĩ quan cảnh sát chuyên ngành đã từng nỗ lực chống băng đảng tội phạm ở Trùng Khánh và đem lại cho ông và Bạc sự khen tặng trên toàn quốc năm 2009. Sự bất đồng giữa hai người gia tăng dần, theo lời một cựu viên chức đã từng hay gặp Bạc và gia đình ông: “Mối liên hệ giữa Bạc và Vương thực sự bắt đầu suy thoái từ tháng 1, nhưng càng ngày càng trở nên trầm trọng”. Vị cựu viên chức nói thêm, Bạc “đã bắt ép Vương rời khỏi chức vụ càng làm cho ông rơi sâu hơn trong thất vọng và hoảng hốt về tương lai. Ít nhất, điều này có vẻ độc tài và có chủ ý, làm mối quan hệ đã xấu càng xấu thêm”. Hai cựu viên chức khác cho biết, những ngày trước việc giáng chức, Vương đã đối đầu với Bạc về cuộc điều tra liên quan đến gia đình của Bạc, bao gồm vợ ông là Cốc Khai Lai, và một ủy ban chuyên môn đã được thành lập để điều tra vụ này. Vị cựu viên chức đầu tiên nói, “chính bởi nhóm đặc biệt này mà quan hệ cuối cùng đã bị gẫy đổ”. Một viên chức thành phố cho biết, dư luận loan truyền giữa các viên chức Trùng Khánh về sự tranh cãi nẩy lửa giữa Bạc [Hy Lai] và Vương [Lập Quân], và ngay cả việc Bạc bạt tai người đồng hành lâu đời của mình. Một chủ bút ở Bắc Kinh nghe được câu chuyện từ viên chức chính quyền trung ương nói: “Bạc cảm thấy Vương Lập Quân đang dùng vụ điều tra để bắt chẹt ông. Ông nổi giận và sau đó quyết định thay đổi chức vị của Vương để tự bảo vệ mình”. Phá luật Tự bảo vệ và tự phong chức đến với Bạc Hy Lai một cách dễ dàng. Sự giáo dục như một “thái tử”, con của lãnh tụ cách mạng Bạc Nhất Ba, được xưng tụng là một trong “Bát Tiên”, đã cấy cho ông lòng tham vọng, tự tin và đôi khi sự thiếu kiên nhẫn bộc lộ với cấp dưới và ngay cả cấp trên, nhiều người giao tiếp với ông nói vậy. Một cựu viên chức Trùng Khánh hiện đang là thương gia nói: “Thế hệ đỏ thứ hai cảm thấy rằng, họ hẳn nhiên xứng đáng ở trên đỉnh, và những nhà lãnh đạo hiện tại thì quá yếu đuối”. Sau khi tới Trùng Khánh năm 2007, Bạc đã biến thành phố thành pháo đài của văn hóa cộng sản đỏ và sự phát triển bình đẳng, được sự chú ý toàn quốc về việc dẹp tan những tổ chức tội phạm bằng cách bỏ tù hoặc ngay cả tử hình những viên chức bị buộc tội bảo vệ những đầu sỏ tội ác. Đây là một sự trở lại công khai của một chính trị gia chải chuốt mà sự bổ nhiệm về Trùng Khánh được xem là một cuộc đi đầy sau khi nắm giữ chức bộ trưởng thương mại từ năm 2003. Cuộc vận động chống nạn tham nhũng đang lan rộng không thể đem một trong hai người tiền nhiệm ra ánh sáng là Uông Dương, hiện là Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông và là ứng viên cho một vị trí hấp dẫn trong Ban Thường vụ Bộ Chính Trị; và Hạ Quốc Cường, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng. Cuộc cải cách kinh tế và xã hội quần chúng của Bạc và làm sạch tội phạm đã được nhiều người ủng hộ với hy vọng, ông có thể áp dụng chính sách này trên toàn quốc khi trở thành lãnh đạo trung ương của thế hệ kế tiếp của Đảng Cộng sản sẽ xuất hiện vào cuối năm 2012. Tính tự cao không che đậy của ông và sự phục hồi tư tưởng Mao, vì thế, đã làm giới cấp tiến thiên thị trường khó chịu, cũng như việc ông lôi kéo giới trí thức cánh tả, là những người hoan hô “mô hình Trùng Khánh”. Zhu Zhiyong, một cựu thương gia ở Trùng Khánh đã từng chỉ trích Bạc nói: “Bạc đã đánh một ván cờ lớn tại Trùng Khánh. Ông chơi một lá cờ có thể đặt ra hướng đi mới cho toàn quốc. Điều này đã phá vỡ luật chính trị”. Nhắm vào Vương Nhiều nguồn tin thân cận với giới chức lãnh đạo Trùng Khánh tiết lộ, cuộc tranh luận về Bạc có thể đoạt một ghế trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị, cốt lõi quyền lực gồm chín thành viên, gia tăng hơn năm trước, và gây thêm căng thẳng, đã làm Bạc và Vương kình chống nhau. Một cựu viên chức thường gặp Bạc và những lãnh đạo lão thành khác nói: “Một nhóm lãnh đạo trung ương đã quyết liệt chống lại sự gia nhập của Bạc, bởi vì ông bị xem là một người kẻ gây rối không tôn trọng luật lệ”. “Rất có khả năng là những nhân vật cao cấp không muốn Bạc vươn lên, nên họ nhắm vào Vương”. Một cựu viên chức và nhiều nguồn tin khác nói, vị lãnh đạo trung ương giữ vai trò then chốt trong việc tiến hành việc kết tội Bạc và Vương là Hạ Quốc Cường. Từ 1999 tới 2002, Hạ là Bí thư Đảng ủy ở Trùng Khánh, chứng kiến cảnh thuộc cấp của mình trong chính quyền bị gạt ra ngoài dưới sự vận động của Bạc. Khi giữ chức Trưởng ban Điều tra Kỷ luật Trung ương, ông hỗ trợ những cuộc điều tra tham nhũng có thể gây tổn hại cho Bạc. Năm trước, Hạ đã thấy đủ, và bắt đầu gây ra rạn nứt giữa Vương và Bạc. Một viên chức Trùng Khánh cho biết, “Hạ Quốc Cường hỗ trợ cuộc điều tra về Vương Lập Quân để nhắm vào Bạc Hy Lạc”. Theo nguồn tin này, bước đầu của ông tiến hành một cách hoàn hảo. Sự ngờ vực giữa hai liên minh vỡ ra “và sau đó Vương Lập Quân bắt đầu quay sang hăm dọa để bảo vệ lấy mình”, một viên chức Trùng Khánh nói. Sự khen tặng từ Kissinger Vào cuối tháng 1, Bạc vẫn còn chú tâm vào việc chiếm được một chỗ trong hàng lãnh đạo trung ương của Đảng Cộng sản. Chức vụ cao nhất, kế thừa Hồ Cẩm Đào, hầu như chắc chắn dành cho Phó Chủ tịch Tập Cận Bình. Bạc đã dẫn đầu nhóm những chủ tịch tỉnh với danh tiếng, tuổi tác và mối liên hệ có khả năng tranh những chức chung quanh Tập Cận Bình. Ngày 9 tháng 1, Nhân dân Nhật báo, tờ báo chính của Đảng, đã dành hàng tít đầu để nồng nàn khen ngợi những thành quả của Trùng Khánh. Những nhà ngoại giao lão luyện, bao gồm cựu Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, Henry Kissinger, đã bay qua Trùng Khánh để gặp Bạc và cảm phục những tòa nhà thép và kiếng mọc lên dọc theo bờ dốc của sông Hoàng Hà. Trùng Khánh tự nhận đã đạt được mức phát triển nhanh nhất Trung Quốc so với bất cứ vùng cấp tỉnh nào, 16.4%. Thình lình, sự trốn chạy bất ngờ của Vương vào lãnh sự quán của địch thủ chính của Trung Quốc. Ông tiều tụy và run sợ và đã trải qua “cuộc điều trị kiểu nghỉ hè”, thành phố đã giải thích lúc khởi đầu. Khi quốc hội nhóm họp, chính quyền trung ương cũng cố gắng che đậy sự kiện này, bằng cách khiển trách những cơ quan truyền thông dám thắc mắc về vấn đề này và khen ngợi những thành quả của Trùng Khánh. Một viên chức trước kia của Trùng Khánh nói: “Đầu tiên, lãnh đạo trung ương muốn làm lắng dịu mọi chuyện trong lúc quốc hội nhóm họp, nhưng thất bại”. Hiện thời, Vương bị giam giữ, nêu lên khả năng rằng những tin tức gây hại về Bạc có thể lộ ra. Có hai nguồn tin nói, trong nội bộ nhà nước đã loan tin rằng, Bạc và Vương bị tình nghi nghe lén địch thủ và ngay cả lãnh đạo trung ương. Bạc đã nắm lấy cơ hội để tự giải thích vào buổi họp báo ngày 9 tháng 3 ở quốc hội, và ứng xử theo kiểu nghênh ngang cố hữu của ông. Bạc phủ nhận những tường thuật “vô nghĩa”, loan tải trên mạng Trung Quốc và được sự ủng hộ của những trang nhà của các nhà ngoại giao, rằng con của ông, Bạc Qua Qua, phóng vòng quanh Bắc Kinh với chiếc xe Ferrari màu đỏ, và học bổng nhà nước trả tiền cho học vấn ở Oxford và Harvard. Bạc nói với những kẻ phê phán ông: “Những người này là những nhóm tội phạm có quan hệ xã hội rộng lớn và khả năng định hướng dư luận. Thí dụ, có người đã đổ rác rưởi lên Trùng Khánh, lên tôi và gia đình tôi”. Lãnh đạo trung ương thấy đã đủ. Họ bị chọc tức bởi hành động khinh bỉ như kẻ thù của Bạc, thay vì chứng tỏ sự hối lỗi. Họ đặc biệt khó chịu bởi câu nói của ông tin tưởng Hồ Cẩm Đào sẽ viếng thăm Trùng Khánh, ngầm ý chứng tỏ sự tin tưởng vào Chủ tịch Trung Quốc. Trò chơi chấm dứt Nhiều tiên đoán khác nhau về thời điểm lãnh đạo đảng sẽ quyết định cho Bạc ra đi, nhưng hầu hết nguồn tin cho rằng bức màn sẽ rơi trong vòng 72 tiếng sau cuộc họp báo hiếu chiến của ông. Vào một buổi họp báo năm ngày sau cuộc họp báo của Bạc, Thủ tướng Ôn Gia Bảo gợi ý Bạc có lỗi không những về sự trốn chạy của Vương mà còn khơi dậy sự luyến tiếc không đúng cách về thời đại Mao. Trung Quốc cần đổi mới chính trị, nếu không có thì “những thảm kịch lịch sử như Cách mạng Văn Hóa có thể lại xảy ra”, theo lời Ôn. Một cựu viên chức Trùng Khánh cho biết: “Lời nói của Ôn biểu lộ sự rạn nứt. Điều này trở thành cuộc đấu tranh chấn chỉnh”. Ngày hôm sau, chính quyền loan báo Bạc bị cách chức Bí thư Thành ủy Trùng Khánh. Những lãnh tụ Trung Quốc bây giờ dường như không biết làm sao giải quyết cuộc suy thoái của một chính trị gia được lòng dân. Wang Wen, một ký giả Bắc Kinh đã từng gặp Bạc, nói: “Kết quả của Quốc Hội thứ 18 chưa được ổn định, và sự việc này gây thêm khó khăn, bởi vì Bạc Hy Lạc tiêu biểu cho nhiều tiếng nói tả khuynh ở Trung Quốc”. Một tuần sau khi mất chức, Bạc trở nên vắng bóng, với sự phỏng đoán, ông vẫn còn ở Bắc Kinh và sẵn sàng trả lời câu hỏi. Sự ra đi đột ngột của ông đã nhen nhúm những tin đồn, bao gồm sẽ có cuộc đảo chánh trong tuần. Cựu viên chức quen thuộc với Bạc nói: “Cuộc chơi chưa chấm dứt. Vẫn chưa thấy sự việc này chấm dứt hoàn toàn”. Nguồn: Reuters/ National Post
  12. Kỳ 4: Mỹ vừa hợp tác vừa chế ngự tại khu vực biển Đông Quyết định hồi mùa hè năm 2011 về việc đồn trú hai tàu chiến ven biển tại Singapore là một ví dụ điển hình. Chưa rõ hai tàu chiến và thủy thủ đoàn trên tàu này sẽ neo tại Singapore hay chỉ thường xuyên lui tới đây, nhưng mô hình hiện diện mềm dẻo này có thể được các nước ASEAN ủng hộ, kể cả Philippines và Việt Nam. Australia, nằm trong tầm ảnh hưởng của cả Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, có thể nổi lên như một đối tác quan trọng nhất của Mỹ trong khối các nước nói tiếng Anh vì vị trí của họ. Mỹ gần đây đã tăng cường thỏa thuận quốc phòng của mình với Australia nhằm cho phép tiếp cận rộng hơn với các căn cứ quân sự của Australia mà không phải đồn trú thường trực lính Mỹ tại đây. Trong chuyến thăm Australia tháng 11/2011, Tổng thống Obama thông báo rằng trong vài năm nữa, sẽ có tới 2.500 lính thủy đánh bộ Mỹ đồn trú luân phiên tại Lãnh thổ phương Bắc của Australia, nơi họ sẽ huấn luyện các lực lượng quốc phòng của Australia cũng như của các nước khác trong khu vực. Củng cố các chuẩn mực và thể chế đa phương. Mỹ cần đảm bảo rằng hòa bình và an ninh tại biển Đông luôn nằm trong ưu tiên hàng đầu của chương trình ngoại giao và an ninh của mình. Điều này có thể bao gồm mọi thứ, từ các cuộc hội thảo như hội thảo thường niên mà Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, tới các cơ chế chính thức liên quan đến ASEAN, bao gồm Diễn đàn Khu vực ASEAN và Hội nghị thượng đỉnh Đông Á. Phản ứng của Trung Quốc, được hỗ trợ bởi luật pháp nội địa của họ và các quan hệ thương mại ngày càng phát triển với các nước khác trong khu vực, đang nhận được một số ủng hộ; Mỹ nên cố gắng ngăn chặn việc các lập luận của Trung Quốc lôi kéo nước khác. Bằng cách khẳng định chủ quyền đối với các hải trình - như nêu trong đường 9 đoạn - Bắc Kinh giữ quan điểm là không quốc gia nào khác có thể chứng minh được. Mỹ có một cơ hội tự nhiên để nhấn mạnh cái thuộc về lợi ích của tất cả các quốc gia trong khu vực. Hợp tác dựa trên một vị trí mạnh bao gồm sử dụng các biện pháp củng cố vai trò của Mỹ nêu trên nhằm tăng cường hợp tác đa phương hiệu quả. Sự hợp tác này cần giúp hợp pháp hóa các quy tắc đa phương, đồng thời tập trung vào các hoạt động đa phương. Hợp tác nên bắt đầu bằng cam kết ngoại giao và đối thoại nhiều hơn. Với việc Campuchia, Myanmar và Lào sẽ lần lượt đảm nhiệm chức Chủ tịch luân phiên ASEAN trong các năm 2012, 2014 và 2016, có thể sẽ là phi thực tế nếu hy vọng đạt nhiều tiến bộ tại Diễn đàn Khu vực ASEAN và Hội nghị thượng đỉnh Đông Á những năm tới, vì các quốc gia này ít quan tâm tới các vấn đề biển Đông. Tuy nhiên, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN sẽ tạo một diễn đàn hứa hẹn hơn để thúc đẩy hợp tác biển tại biển Đông. Các diễn đàn cấp cao khác có thể giúp thúc đẩy sự hợp tác đó bao gồm các hội nghị thường niên các quan chức quốc phòng của Bộ tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ, Đối thoại không chính thức Shangri-La do Viện Nghiên cứu chiến lược Quốc tế tổ chức vào tháng Sáu hàng năm. Các thể chế và cơ chế để giải quyết các yêu sách và các lợi ích chồng lấn vẫn còn yếu; và không có vai trò trực tiếp của Mỹ trong các cơ chế và thể chế này, như Tuyên bố DOC giữa ASEAN và Trung Quốc. Các nỗ lực nhằm thuyết phục Trung Quốc tránh các sự cố biển thông qua các cơ chế song phương hiện có sẽ tiếp tục bị cản trở bởi những xung đột lợi ích căn bản: Trung Quốc đơn giản không muốn giao cho Mỹ một vai trò giám sát pháp lý tại biển Đông, bởi khu vực này cách không xa căn cứ tàu ngầm đầu tiên của Trung Quốc ở đảo Hải Nam. Mỹ cần xây dựng các thể chế đa phương về lâu dài, nhưng nên thừa nhận rằng có thể phải tập trung vào cách tiếp cận song phương trên thực tế nhằm tránh khiêu khích Trung Quốc. Cách tiếp cận này sẽ khuyến khích Trung Quốc hợp tác nhưng là sự hợp tác trên cơ sở sức mạnh. Thông qua các thể chế đa phương trong khu vực (từ Hội nghị thượng đỉnh Đông Á tới Hợp tác Quốc phòng ASEAN+8) cộng với các sáng kiến của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ hoặc các tác nhân khu vực như Australia, Mỹ nên xây dựng và ủng hộ quan hệ hợp tác hiệu quả về an ninh và quân sự trên toàn khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Thúc đẩy hợp tác rộng hơn trong khu vực sẽ tạo ra một thách thức đối với bất cứ hành động xâm lược nào trong tương lai. Một cách thực dụng để thúc đẩy hợp tác nghiêm túc và toàn diện có thể là tiến hành các cuộc tập trận hải quân đa phương, đặc biệt là các cuộc diễn tập cứu trợ nhân đạo và cứu hộ thiên tai. Mỹ đã tiến hành hàng loạt cuộc tập trận như thế trong những năm qua. Hiện tại, hợp tác biển diễn ra ở cấp tiểu khu vực, như Hội nghị chuyên đề hải quân Ấn Độ Dương, Diễn đàn ASEAN và Nam Thái Bình Dương. Bộ tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ nên định kỳ tiến hành một cuộc đối thoại rộng hơn về Ấn Độ - Thái Bình Dương nhằm thúc đẩy các cuộc tập trận và huấn luyện đa phương. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, một liên minh thiện chí giữa các quốc gia Đông Nam Á - được ủng hộ bởi các cường quốc biển ngoài khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ và Australia - cũng có thể dẫn đầu một cuộc tập trận như thế. Trừ phi xảy ra thảm họa hoặc nhận thức về nguy cơ thảm họa ấy, bằng không ít khả năng có một liên minh khu vực như thế. Tuy nhiên, các liên minh và đối tác song phương cũng có thể sâu sắc hơn, và đến lượt mình, chúng có thể tạo thành một nền tảng cho một sự hợp tác đa phương rộng hơn giữa ba hoặc bốn quốc gia. Ví dụ thỏa thuận căn cứ chung Mỹ - Australia có thể mở cánh cửa mới cho các cuộc tập trận đa phương với các đồng minh và đối tác khác như Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và các thành viên ASEAN. Trong khi đó, sự hỗ trợ song phương có thể tạo thành các đối tác, và sự kết hợp đối thoại chiến lược với hợp tác biển thực dụng có thể phát triển thành một liên minh ngầm - một liên minh có thể nhanh chóng kết lại thành một đối trọng với sự xác quyết hay khiêu khích có thể xảy ra trong khu vực. Đầu tư vào thương mại khu vực mở. Mỹ nên thúc đẩy hội nhập kinh tế hơn nữa trong lòng khu vực, cũng như giữa Mỹ với khu vực này. Bên cạnh đóng góp vào một nền kinh tế khu vực sôi động và liên kết, hợp tác kinh tế có thể kết nối các đầu tư chiến lược của Mỹ vào khu vực năng động nhất thế giới này. Tiềm năng tăng trưởng của Thỏa thuận Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) - một thỏa thuận gắn kết Mỹ với các nền kinh tế Đông Á - có thể một ngày tạo thành một chế độ ưu đãi thương mại bao chùm khu vực. Nếu Mỹ và các nước khác không theo đuổi sự hội nhập khu vực sâu rộng như vậy, một hệ thống do Trung Quốc dẫn đầu - và tất nhiên bất lợi với Mỹ - có thể xuất hiện để lấp chỗ trống này. Dù vai trò lãnh đạo của Mỹ tại Hội nghị Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương hồi tháng 11/2011 tại Hawaii đã nhấn mạnh tầm quan trọng của TPP, nhưng nhiều đồng minh thân cận nhất của Mỹ lại có vẻ thờ ơ và tự hỏi liệu Mỹ có nghiêm túc với một thỏa thuận như thế hay không. Nhật Bản chẳng hạn, nước này mới chỉ có dấu hiệu rằng họ sẽ trở thành thành viên của TPP, và nếu thiếu các nước như Nhật Bản, thì TPP sẽ chỉ là một thể chế nhỏ. Ngược lại, Australia, Việt Nam và Peru đã thông báo ủng hộ TPP từ tháng 11/2008; Malaysia đã tham gia từ tháng 10/2010; và Canada, Philippines, Hàn Quốc và Đài Loan đã bảy tỏ quan tâm ở các cấp độ khác nhau đến việc tham gia thỏa thuận này. Thương mại không phải là một hoạt động được ăn cả ngã về không. TPP có thể hình thành nền tảng của một hệ thống thương mại mở và toàn diện, trong đó tất cả các quốc gia trong khu vực có cơ hội tham gia như nhau. Vì TPP sẽ phát triển dần dần, Trung Quốc có một thời gian dài để phản ứng và thay đổi tình hình. Hơn nữa, TPP sẽ có lợi cho Trung Quốc nếu họ chọn cách ủng hộ tự do hóa thương mại. Thúc đẩy quan hệ thực dụng với Trung Quốc. Mỹ sẽ cần có được chính sách đúng đắn của Trung Quốc. Việc này đòi hỏi các cam kết kinh tế và ngoại giao tích cực, được hỗ trợ bởi một nền kinh tế tăng trưởng và sức mạnh quân sự của Mỹ. Chính sách của Mỹ cũng khuyến khích các đồng minh làm nhiều hơn để đảm bảo an ninh vì lợi ích của mình và phối hợp với nhau. Thay vì dựa trên một nền tảng hợp tác toàn cầu lạc quan thái quá, hoặc một quan hệ bi quan thái quá về một cuộc xung đột không tránh khỏi - Mỹ cần cứng rắn hơn, thậm chí quyết đoán, thực dụng hơn nhưng vẫn tôn trọng Trung Quốc. Một chính sách thực dụng bắt đầu là củng cố sức mạnh Mỹ và sau đó hỗ trợ tích cực cho sự hợp tác dựa trên pháp luật; tránh xung đột quân sự nhưng không ngại đối đầu về ngoại giao. Nhiều chính sách và hành động của Trung Quốc - bao gồm định giá không đúng đồng nhân dân tệ nhằm thay thế đồng USD để trở thành đồng tiền dự trữ quốc tế, thiếu minh bạch về quân sự, một số lượng đáng lo ngại các cuộc tấn công mạng được cho là do Trung Quốc tiến hành, tiếp tục hỗ trợ chính trị và kinh tế cho Triều Tiên và không sẵn lòng tuân thủ các trừng phạt của Mỹ chống Triều Tiên - cho thấy Trung Quốc muốn xác định lại trật tự khu vực. Nhiều ví dụ khác có thể dễ thấy trong các hành động gần đây của Trung Quốc tại biển Đông: đẩy mạnh kiểm soát biển, tăng cường huy động tàu ngầm và quấy rầy hoạt động thăm dò năng lượng của các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam và Ấn Độ. Các hành động này được hầu hết các nước trong khu vực coi là ngày càng mang tính quyết đoán. Nhưng dù nhận thức này chưa chính xác, các tác nhân trong khu vực sẽ tiếp tục hoài nghi sự thiếu minh bạch của Trung Quốc cũng như sự bùng nổ tăng trưởng kinh tế và hiện đại hóa quân sự của nước này. Trung Quốc có thể không muốn kiểm soát toàn bộ khu vực, nhưng rõ ràng muốn là trung tâm của khu vực này. Trong tương lai, Mỹ sẽ phải xác định làm cách nào có thể duy trì quan hệ hợp tác toàn diện với Trung Quốc mà không đánh mất ưu thế về quân sự của mình trong khu vực, nhằm chống lại sự bá chủ khu vực của Trung Quốc. Sự đa cực về kinh tế và chính trị được hoan nghênh, nhưng vì lợi thế về địa lý của Trung Quốc, sự đa cực về quân sự hàm chứa nguy cơ Trung Quốc trở thành sức mạnh chế ngự trên thực tế. Cách tốt nhất để đảm bảo một hệ thống dựa trên quy tắc và thị trường mở là bằng cách đảm bảo rằng Mỹ duy trì ít nhất một số lợi thế chính trị quan trọng. Tuy nhiên, duy trì năng lực mạnh trên không và trên biển trong bối cảnh thâm hụt ngân sách nghiêm trọng sẽ đòi hỏi sự ủng hộ lâu dài của một loạt các nhà hoạch định chính sách ở hai đảng phải chính trên chính trường Mỹ. Kết luận Mỹ phải thừa nhận rằng biển Đông nằm trong tầm ảnh hưởng của Trung Quốc. Mỹ nên vừa hợp tác vừa chế ngự tại khu vực biển này. Hai mục tiêu có vẻ xung đột với nhau, nhưng trên thực tế việc tìm kiếm sự hợp tác lớn hơn trong khi duy trì ảnh hưởng của Mỹ là một cách tiếp cận an ninh khu vực về lâu dài, nếu không muốn nói là bất quy tắc. Mỹ và các nước khác trong khu vực chia sẻ một lợi ích sống còn liên quan đến khả năng tiếp cận không bị ngăn cản với vùng biển này, và Mỹ sẽ không tha thứ cho một hành động đơn phương của bất kỳ tác nhân nào nhằm bắt nạt các nước láng giềng và vi phạm các quy tắc đã thiết lập. Thay vì rút lui, Mỹ nên tăng cường cam kết quanh lòng chảo duyên hải biển Đông. Chính sách của Mỹ nên tập trung vào sự hiện diện và các liên minh, kết hợp các cam kết ngoại giao và kinh tế. Như Ngoại trưởng Clinton đã nói: "Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của vai trò lãnh đạo của Mỹ trong thập kỷ tiếp theo sẽ là tập trung gia tăng đầu tư về kinh tế, ngoại giao, chiến lược ... tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương". Với việc Trung Quốc cố gắng chế ngự Tây Thái Bình Dương, các nước Đông Á hơn bao giờ hết tìm cách kết thân với Mỹ. Nhưng các nước này cũng hy vọng tránh xung đột với một Trung Quốc ngày càng hùng mạnh lại là đối tác thương mại chính của họ. Chiến lược lớn của Mỹ nên tập trung vào duy trì sức mạnh và gia tăng cam kết tại khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, nơi có các nền kinh tế năng động nhất thế giới. Mỹ nên chuyển trọng tâm từ chống chủ nghĩa khủng bố và chống nổi dậy tại đại Trung Đông để sang Đông Á. Dù Mỹ sẽ cần duy trì quân đội tại cả hai khu vực này, nhưng sự chuyển hướng sang Đông Á sẽ tiếp tục là một điểm gây sức ép chừng nào Trung Quốc tiếp tục nổi lên. Mỹ sẽ luôn là một quốc gia Thái Bình Dương, nhưng hòa bình và thịnh vượng sẽ ngày càng đòi hỏi Mỹ phải là một cường quốc Thái Bình Dương. Châu Giang dịch theo CNAS
  13. Kỳ 3: Gìn giữ an ninh biển và luật pháp quốc tế tại biển Đông An ninh biển đã chế ngự nhiều chương trình nghị sự ngoại giao gần đây ở Đông Nam Á, bao gồm Diễn đàn Khu vực năm 2010 và 2011 và các hội nghị liên quan tại Việt Nam và Indonesia. An ninh biển ở cả góc độ quân sự và thương mại dân sự bao gồm ba mặt: các đòi hỏi chủ quyền và lãnh thổ chồng lấn, đặc biệt liên quan đến hai quần đảo lớn là Trường Sa và Hoàng Sa; các quyền cơ bản trên biển, vì các nước đưa ra các căn cứ khác nhau cho các yêu sách của mình và cũng tìm cách áp dụng luật quốc tế như cách hiểu của Công ước LHQ về luật Biển (UNCLOS); và tự do hàng hải, bao gồm kiểm soát các tuyến SLOCs và các hoạt động được phép tiến hành bên trong các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Dù các căng thẳng về an ninh biển đã leo thang tại biển Đông trong hai hoặc ba năm gần đây, song các căng thẳng này chưa trực tiếp bị quân sự hóa như các tranh chấp bùng phát từ năm 1988 -1995, trong đó có cuộc giao tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam liên quan đến đảo Gạc Ma và giữa Trung Quốc với Philippines liên quan đến đảo Vành Khăn. Ở đây không đề cập đến câu hỏi tại sao các quốc gia lại nhanh chóng chuyển sang đối đầu quân sự trong thời kỳ trước như vậy. Có thể khi đó, đúng giai đoạn cuối và ngay sau Chiến tranh Lạnh, các nước cảm thấy được thoải mái sử dụng vũ lực mà không sợ rằng các cuộc xung đột có thể dẫn tới kịch bản hạt nhân. Tuy nhiên, đó là trước kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay. Ngày nay, các quốc gia sử dụng sức mạnh cứng một cách mềm dẻo và gián tiếp hơn, che giấu thông tin về các sự cố lãnh thổ ở vùng xa xôi hải đảo, tiến hành các chiến dịch quân sự ngoài con mắt dư luận (nhất là ở dưới lòng đại dương và ngoài không gian) hoặc kiên trì theo đuổi hiện đại hóa quân sự một cách đều đặn. Các nước trong khu vực, nhất là các nước thành viên ASEAN, muốn Mỹ duy trì cam kết và sự hiện diện quân sự nhằm gìn giữ một tương quan lực lượng trên biển. Nhưng các nước này dường như cũng đang bảo vệ những cái tốt nhất của mình bằng cách làm sâu sắc hơn các chương trình hiện đại hóa quốc phòng và các thỏa thuận quốc phòng với nhau. Điều này giúp giải thích tại sao các nước châu Á nhìn chung dẫn đầu thế giới về hiện đại hóa quân sự, đặc biệt là không quân, hải quân và không gian vũ trụ. Sự hiện đại hóa này dễ thấy nhất trong việc mua - hoặc quan tâm đến việc mua - tàu ngầm. Tàu ngầm, bất kể năng lực công nghệ thế nào, luôn giúp gây ra cảm giác bất chắc trong đầu của một đối thủ tiềm ẩn về thời điểm nó có thể nổi lên. Khi Việt Nam lần đầu tiên mua tàu ngầm lớp Kilo của Nga (với sự hỗ trợ của Nga trong việc tân trang cảng Cam Ranh, nơi các tàu ngầm đó có thể nhả neo từ năm 2013), vị tướng khẳng định điều này đã nói rõ rằng Việt Nam mua chúng để ngăn cản các nước láng giềng - đặc biệt là Trung Quốc - gây bất lợi với Việt Nam. Tất nhiên, Trung Quốc dẫn đầu quá trình hiện đại hóa quân sự trong khu vực, và có vẻ thích huy động một lực lượng hải quân và không quân với các tên lửa và năng lực không đối xứng như vũ khí chống vệ tính và các năng lực chiến tranh trong không gian có thể gây nguy hiểm cho mạng lưới chiến tranh công nghệ cao của Mỹ. Dù những người chỉ trích ghi nhận các giới hạn của một số hệ thống hiện nay của Trung Quốc (kể cả tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D mà họ khoe khoang rất nhiều), nhưng dường như một Trung Quốc quyết đoán và thịnh vượng hơn sẽ nhiều khả năng khai thác các năng lực cần thiết để theo đuổi một chiến lược chống can thiệp, đe dọa đến khả năng tiếp cận tự do tới khu vực biển này. Dù tăng cường quân sự, Trung Quốc cũng tìm cách làm giảm những lo ngại về an ninh biển và tăng thiện chí, cũng như uy tín. Bằng chứng là thành công của họ trong Diễn đàn Khu vực ASEAN năm 2011 và các biện pháp xây dựng lòng tin sau đó của họ với Việt Nam và các đầu tư mới vào Philippines, Trung Quốc dường như nhanh chóng có khả năng pha trộn thái độ xác quyết với các hoạt động ngoại giao và kinh tế mang tính trấn an hơn. Tuy nhiên, trong khi gần như tất cả các nước đều có chung mối lo trước sức mạnh ngày càng gia tăng của Trung Quốc, họ cũng đều được hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế và thương mại của Trung Quốc - điều mà Mỹ đã không quan tâm nhiều trước khi ký kết một loạt thỏa thuận thương mại gần đây và đăng cai Hội nghị kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ở Hawaii hồi tháng 11/2011. Năm 2011, thương mại của Trung Quốc với các nước ASEAN đã đạt tới 400 tỷ USD và đang tiếp tục tăng. Sự cân bằng về sức mạnh quân sự sẽ tạo ra sự đảm bảo tối cao cho tự do đối với Việt Nam, Đài Loan, Philippines, Indonesia, Singapore, Malaysia và Brunei - cũng như đối với các nước ngoài khu vực này, bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia. Duy trì một sự tương quan lực lượng thuận lợi đòi hỏi phải có đủ tàu chiến và máy bay chiến đấu của Mỹ để đảm bảo rằng Mỹ vẫn giữ một vị trí đỉnh cao về chất lượng, ít nhất trong nhận thức của giới tinh hoa quân sự ở Trung Quốc và trong các nước mày Mỹ tìm cách bảo vệ. Dù các quan chức quốc phòng Mỹ vẫn tự tin vào các năng lực của Mỹ, nhiều nước trong khu vực đang lo ngại về các xu hướng hiện nay. Các nước ngoài biển Đông, đặc biệt là Nhật Bản, Ấn Độ và Australia, đang đo độ bền bỉ của Mỹ không chỉ bằng phép đo kinh tế mà còn bởi khả năng của Mỹ trong việc đối phó với các thách thức tại biển Đông. Một nhà ngoại giao cấp cao của Đông Nam Á cảnh báo nếu Mỹ rút một nhóm tàu sân bay chiến đấu khỏi Tây Thái Bình Dương, đó sẽ là một "yếu tố lật ngược ván cờ", đẩy các nước ven bờ biển Đông vào tình thế Phần Lan hóa. Đây là một điểm không nhỏ. Một nhóm chiến đấu bao gồm một tàu sân bay, nhiều tàu khu trục, tàu tuần dương, các tàu khu trục nhỏ và tàu ngầm. Với việc chỉ có 11 nhóm tấn công như vậy đang trải ra toàn cầu, thì dù chỉ thiếu một nhóm tại châu Á sẽ tạo ra các tác động lớn. Bởi đơn giản, các nhóm tàu sân bay tấn công chính là nguyên tắc tổ chức sức mạnh hải quân của Mỹ. Triển vọng của việc tăng cường khả năng của các tác nhân khác trong khu vực nhằm có trách nhiệm hơn trong việc đảm bảo an ninh biển của khu vực sẽ như thế nào? Theo James Holmes, các đồng minh sẽ mạnh nhất khi hai hoặc nhiều nước cùng chịu chung một mối đe dọa và có chung mục đích. Các liên minh lỏng lẻo hơn, bao gồm các liên minh ngầm hay không chính thức, khó thành lập và ít khả năng hành động nếu không có một biến cố rõ ràng khơi mào cho chiến tranh. Tại các khu vực duyên hải quanh biển Đông, Mỹ tìm cách củng cố các liên minh cũ với những nước như Philippines và xây dựng các liên minh mới với những nước như Việt Nam và Indonesia đúng vào lúc sức mạnh hải quân của Mỹ đang suy yếu. Vì vậy, việc xây dựng liên minh của Mỹ phải đối mặt với chướng ngại kép. Ở đây có yếu tố địa chính trị. Các trường hợp Việt Nam và Philippines cho thấy, nếu Mỹ hy vọng bênh vực các nước có cùng lợi ích trong việc tự do hàng hải trên biển Đông và sự ổn định tại khu vực này, thì họ phải hiểu rằng họ sẽ vấp phải sự chống cự nếu thúc ép quá nhiều. Ví dụ, giống như bất cứ quốc gia nào khác, Ấn Độ cũng nghi ngại Trung Quốc, nhưng mặc dù vậy họ sẽ không muốn trở thành một kẻ thù công khai của Trung Quốc. Đơn giản là có những giới hạn mà các nước khác không thể vượt qua vì ít nước muốn gây thù chuốc oán với Trung Quốc. Dù các quốc gia duyên hải không bị ràng buộc bởi việc giảm ngân sách quốc phòng như các nước châu Âu, những họ bị ràng buộc bởi việc coi Trung Quốc là một láng giềng và đối tác thương mại gần như lớn nhất của mình. Không nước nào lo ngại về an ninh biển của mình khi sức mạnh hải quân của Mỹ có thể yếu đi nhiều như Việt Nam, nước đã phải trải qua một cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc năm 1979 ở phía Bắc. Năm đó, Việt Nam đã chứng kiến đồng minh của mình là Liên Xô bỏ rơi họ vào đúng lúc họ cần nhất; vì vậy Việt Nam sẽ khó tin vào một quan hệ đồng minh với một quốc gia cách họ nửa vòng trái đất như Mỹ. Tuy nhiên, Việt Nam đang muốn một quan hệ đối tác gần hơn với Mỹ, có thể là mối quan hệ bắt đầu bằng một cuộc đối thoại chiến lược về việc làm thế nào để ràng buộc Trung Quốc, nhưng không bao gồm các hợp tác quân sự hữu hình. Các cuộc tập trận hải quân song phương với Việt Nam chắc chắn sẽ khiến Trung Quốc chú ý, và một bước đi như vậy sẽ không nên tiến hành một cách khinh suất, bởi Trung Quốc từng rất nghi ngờ nước láng giềng phương Nam trong suốt lịch sử của mình đến mức nào. Trên thực tế, một cuộc tập trận hải quân Việt - Mỹ trong bối cảnh này sẽ mang tính khiêu khích. Nói như vậy có nghĩa là Mỹ và Việt Nam đang nhanh chóng xích lại gần nhau hơn trong các mục tiêu chiến lược. Diễn biến này cũng là sự kế thừa từ một cuộc chiến giữa thế kỷ 20. Chính xác là vì Việt Nam đã chiến thắng Mỹ về quân sự trong những năm 1960 -1970, họ không có một mảnh vỡ nào thời thuộc địa trên vai và giờ có thể đường hoàng gặp Mỹ như một đồng đẳng về ngoại giao. Tương tự, cũng có những giới hạn nghiêm khắc mà Philippines, một đồng minh hợp đồng của Mỹ, phải tuân thủ nhằm tăng cường các năng lực cảnh sát của mình. Như Holmes đã ghi nhận, thực tế là một tàu chiến của Lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ thời những năm 1960 đã được bán cho Philippines và lập tức trở thành tàu đô đốc của lực lượng hải quân quốc đảo này cho thấy rõ các giới hạn của họ. Thông báo về việc một xuồng canô thứ hai sắp được chuyển giao cho Philippines sẽ vẫn chỉ khiến Hải quân Philippines có khả năng khiêm tốn ở ven bờ. Hơn nữa, dù Nhật Bản và Philippines đã ký một thỏa thuận đối tác chiến lược, hầu hết sự hỗ trợ của Nhật Bản sẽ chỉ liên quan đến các khả năng ven bờ. Các chuẩn mực luật pháp quốc tế Luật pháp và các chuẩn mực quốc tế tạo ra một cơ sở cho hợp tác, hành động hợp pháp cũng như các kỳ vọng của quốc gia. Hòa bình và thịnh vượng tùy thuộc vào các mong đợi dựa trên chuẩn mực như vậy và các cơ chế pháp lý để giải quyết bất đồng một cách hòa bình. Sự nổi lên của Trung Quốc làm dấy lên lo ngại về tưong lai của toàn cầu hóa dựa trên khả năng tiếp cận thị trường mở và các thể chế quốc tế. Trung Quốc không chỉ tìm cách "xé bó đũa", giải quyết với từng nước láng giềng nhỏ bé, mà còn thiết lập và áp dụng luật pháp của riêng mình, trong đó có luật 1992 điều chỉnh các quyền ở trong và xung quanh biển Đông, để xác định cái gì đúng cái gì sai. Trung Quốc muốn cho phép tàu nước ngoài nào được vào EEZ của họ và tàu nào, như tàu thăm dò của Mỹ chẳng hạn, không được phép vào vùng dài 200 hải lý này. Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia ủng hộ cách hiểu luật pháp quốc tế của Mỹ, theo đó đây phải là nơi được phép qua lại một cách hòa bình theo UNCLOS. Mỹ và hầu hết các nước ASEAN sẽ muốn giải quyết bất đồng thông qua một cơ chế đa phương dựa trên đồng thuận và một nền tảng luật pháp quốc tế. Các đòi hỏi đặc quyền của Trung Quốc ban đầu dựa trên đường 9 đoạn, bao chùm phía Nam từ bờ biển Trung Quốc gần biên giới với Việt Nam và Malaysia đến tận Singapore, và phía Bắc dọc đảo Sarawak và Sabah của Malaysia, tới Brunel và Philippines, chiếm toàn bộ phần trung tâm biển Đông. Nhưng như một chuyên gia phân tích đã chỉ ra, nhiều chuyên gia của Trung Quốc cũng phải thừa nhận rằng đường 9 đoạn này "không được hiểu là chủ quyền đầy đủ đối với toàn bộ biển Đông". Trên thực tế, chính sự rất mập mờ của đường đứt khúc này khiến các nước ven biển tức giận. Giới chức Trung Quốc nói rằng họ kế thừa đường lịch sử này từ các chính phủ đầu thế kỷ 20, và vẫn chưa rõ Bắc Kinh giờ đây quan tâm đến tính hợp pháp của đường này như thế nào. Tuy nhiên, bất kỳ lãnh đạo nào của Trung Quốc thừa nhận đường đứt đoạn này không có quy chế pháp lý sẽ bị tấn công bởi những người theo chủ nghĩa dân tộc trong nước. Vấn đề là một số yêu sách của Trung Quốc theo luật pháp quốc tế lại chệch với các yêu sách khác của Trung Quốc và đây có lẽ là sản phẩm của một chính phủ đang bị chia rẽ. Nói tóm lại, chưa rõ liệu Trung Quốc có đang theo đuổi một chiến lược nhất quán tại biển Đông hay không. Nhiều tác nhân khác nhau đang thực thi luật pháp Trung Quốc, bao gồm các cơ quan dân sự, các chính sách và tuyên bố của họ không phải lúc nào cũng thống nhất. Chính phủ Trung Quốc dường như đang cố giải quyết vấn đề này bằng cách thiết lập một tiến trình liên ngành mới nhằm kết nối vô số các cơ quan quân sự và dân sự của chính phủ với các trách nhiệm trên biển Đông. Nếu sự kết nối đại chính sách này giúp làm rõ các yêu sách mập mờ của Trung Quốc - nhiều yêu sách dựa trên các hình thái lãnh thổ chìm dưới mặt nước biển vốn không được luật pháp quốc tế gọi là đảo - thì các nước trong khu vực có thể yên tâm hơn. Ví dụ, Trung Quốc có thể thu hẹp yêu sách của mình từ chỗ dựa trên các quyền lịch sử rộng lớn thành các yêu sách dựa trên luật pháp theo UNCLOS về các quyền trên biển xung quanh các hình thái lãnh thổ tại biển Đông. Xây dựng các quy tắc đồng thuận cho khu vực này là việc không hề đơn giản. Luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS, có thể có ích dù Thượng viện Mỹ chưa phê chuẩn công ước này. Mỹ có thể vẫn khẳng định rằng họ thừa nhận hầu hết các điều khoản của công ước này như luật pháp quốc tế thông thường, và đây sẽ là nền tảng cho chiến lược biển của Mỹ tại biển Đông. Họ có thể tiếp tục thúc đẩy các lập luận của đa số các bên tham gia UNCLOS là ủng hộ hoạt động quân sự hòa bình tại EEZ bên ngoài lãnh hải. (theo Tuanvietnam) (còn nữa)
  14. Kỳ 2: Chiến lược biển Đông mới của Trung Quốc Trung Quốc bị thúc ép tiến xa hơn về phía biển Đông vì lý do địa lý, lịch sử, tài nguyên và một ham muốn rõ ràng là được kiểm soát các tuyến SLOCs quan trọng đối với chính họ - các hải trình tại eo biển hẹp Malacca hay Lombok, Makassar và Sunda đều đang ngày càng dễ bị tổn thương. Trên thực tế, nếu eo biển Malacca bị đóng dù chỉ một ngày, sự gián đoạn nguồn cung năng lượng sẽ có thể gây rối loạn xã hội tại Trung Quốc, theo một quan chức có tiếng nói trong Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa (PLA). Tính dễ bị tổn thương của eo biển này khiến Trung Quốc quan tâm tới các hải trình thay thế để vận chuyển năng lượng và các hàng hóa khác. Sự nổi lên nhanh chóng của Trung Quốc, đến mức một lực lượng hải quân phòng thủ biển xa sắp ra đời, đang đặt ra nguy cơ bất chắc về trật tự tương lai ở Đông Á. Chiến lược của Mỹ có từ chiến tranh thế giới thứ nhất, và đặc biệt là trong chiến tranh Lạnh, tập trung vào đề phòng bất cứ cường quốc đơn lẻ nào đứng lên chế ngự đại lục Á - Âu. Tuy nhiên, khi sức mạnh kinh tế và quân sự chuyển từ phía Tây sang cực Đông của Á - Âu - bằng chứng là cuộc khủng hoảng đồng euro và sự thu hẹp ngân sách quốc phòng của các nước châu Âu - một Trung Quốc mạnh hơn sẽ chắc chắn tìm cách thể hiện chủ nghĩa dân tộc, quyền lịch sử và nhu cầu kinh tế và tài nguyên thông qua gia tăng sức mạnh hải quân. Ngược lại, sức mạnh hải quân của Trung Quốc có thể dễ dàng tập trung vào biển Đông, nơi hợp dòng của hai đại dương là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Trung Quốc cũng muốn xây dựng một lực lượng hải quân biển xa nhằm giúp đảm bảo các tuyến SLOCs của mình ở mọi hướng xung quanh vùng ven biển Á - Âu tới vùng sừng châu Phi. Khó mà tin rằng ham muốn giành quyền kiểm soát các tuyến SLOCs trên biển của Trung Quốc không liên quan gì đến mối đe dọa đối với quyền tự do hàng hải. Trung Quốc có những động lực mạnh, bao gồm các lý do lịch sử hợp pháp, để bảo vệ các tỉnh duyên hải giàu có ven biển Đông, nơi chiếm một nửa diện tích duyên hải của nước này. Sự giàu có thịnh vượng của các tỉnh này phụ thuộc vào sự an toàn của các hải trình trên biển Đông mà Trung Quốc chắc chắn có quyền bảo vệ. Hơn nữa, đại đa số năng lượng và hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc đi qua biển Đông, và biển cũng chứa trong lòng nó những kho cá dồi dào, các mỏ khí hydrocarbons và khoáng sản. Chính sự giàu có tiềm ẩn này đã trở thành động lực cho các yêu sách của Trung Quốc. Trung Quốc dẫn đầu khu vực về hiện đại hóa vũ khí, dù họ tìm cách giữ vẻ ngoài bình lặng. Tàu ngầm của Trung Quốc chạy bằng điện diesel, trong khi tàu ngầm Mỹ chạy bằng năng lượng hạt nhân. Các tàu chạy bằng điện diesel thường không gây ồn và thích ứng tốt hơn với các vùng biển đông đúc và âm u như vùng duyên hải Đông Á. Trung Quốc có hơn 60 tàu ngầm và sẽ có khoảng 75 chiếc trong vài năm tới, nhiều hơn của Mỹ một chút (và chỉ 55% tàu ngầm của Mỹ được đóng tại Thái Bình Dương). Theo hai chuyên gia về hải quân, Trung Quốc đã "vượt Mỹ về số tàu ngầm mới, ở mức 4-1 từ năm 2000 và 8-1 từ năm 2005, trong khi các lực lượng chiến tranh chống tàu ngầm của hải quân Mỹ đã suy giảm. Các chuyên gia bình luận và giới chức Trung Quốc phủ nhận mọi ác ý liên quan đến Mỹ tại biển Đông và hát lại điệp khúc thường nghe thấy rằng suy nghĩ được ăn cả ngã về không đó đã lỗi thời. Nhưng dù chiến tranh Lạnh đã đi vào dĩ vãng, nền chính trị sức mạnh lại không phải như vậy. Sự phủ nhận trên che giấu các lợi ích quốc gia của Trung Quốc. Dù Trung Quốc trong lịch sử từng là một cường quốc lục địa hướng vào trong lục địa Á - Âu, nhưng nước này đang ngày càng trở thành một cường quốc hải quân, một xu hướng được tạo điều kiện bởi thành công của Trung Quốc trong việc hóa giải căng thẳng tại nhiều đường biên giới trên bộ của mình. Trong ba thập kỷ trước, lực lượng Hải quân của PLA đã lớn mạnh từ một lực lượng phụ trợ, chuyên hỗ trợ các chiến dịch lưỡng cư chống Đài Loan, tới một lực lượng phòng thủ bờ biển và thành một lực lượng hải quân biển xa nhằm đuổi các lực lượng hải quân nước ngoài ra khỏi các "vùng biển gần" của mình. Các nguồn tài nguyên và hàng hóa của Trung Quốc được vận chuyển chủ yếu qua các đại dương, và ít nhất về điểm này, địa lý dường như là số phận. Vì hầu hết các nước trong khu vực phụ thuộc vào Trung Quốc để phát triển kinh tế và thương mại, nên hầu hết đều muốn thận trọng hơn trong cách đối xử với Bắc Kinh, và sẽ cố gắng tin vào các ý định tốt lành của Trung Quốc. Sức mạnh của Trung Quốc không thuần túy là một vấn đề nhiều tàu ngầm hơn hay các phương tiện quân sự mới, mà còn dựa vào sức nặng dân số, sự chế ngự về kinh tế và vị trí trung tâm về địa lý của nước trong khu vực. Trung Quốc sẽ hăm hở thúc đẩy các quan hệ của mình tại biển Đông để tạo dựng tầm vóc một cường quốc bá chủ và khai thác sự nhượng bộ hoặc các điều kiện thuận lợi. Mặt khác, các quốc gia càng hướng tới Trung Quốc thì họ sẽ càng muốn chống lại sức mạnh của nước này. Dù Trung Quốc cố gắng dùng sức mạnh cứng một cách mềm dẻo (ví dụ bằng cách dùng lực lượng thực thi luật pháp dân sự thay vì sức mạnh hải quân để hỗ trợ cho các yêu sách biển ở biển Đông), nhưng các nước láng giềng đôi khi chùn bước trước ngay cả sức mạnh mềm của Trung Quốc dưới dạng thương mại, hỗ trợ và hợp tác. Những năm gần đây cho thấy hầu hết các nước trong khu vực đều muốn duy trì sự hiện diện của các tàu chiến và máy bay chiến đấu của Mỹ như một mạng lưới đảm bảo an toàn. Nhưng đồng thời họ không muốn chứng kiến Mỹ căng thẳng với Trung Quốc, vì vậy ngay sau khi Mỹ mới chỉ "giương cơ" một chút, khu vực đã dấy lên những bàn tán quanh câu hỏi phải chăng Mỹ đang xúi giục một cuộc Chiến tranh Lạnh mới. Giới chức Trung Quốc đang tìm cách khai thác tâm trạng giằng xé này bằng những biện pháp trấn an ngoại giao thường xuyên hơn, bên cạnh các nỗ lực khẳng định đòi hỏi của mình. Trung Quốc sẽ muốn tránh mọi hành động ngăn chặn sự nổi lên của nước này. Ngoài yếu tố địa lý, có một nguyên nhân khác sâu xa hơn đẩy Trung Quốc hướng ra biển Đông và tới các bờ biển của Nhật Bản, Đài Loan, Philippines và Indonesia. Nếu không hiểu những gì đã xảy ra tại Trung Quốc trong 150 năm trở lại đây, người ta sẽ không thể hiểu điều gì thúc đẩy Trung Quốc ngày ngay phải hướng ra biển Đông. Vào thế kỷ 19, khi nhà Tần suy yếu ở Đông Á, Trung Quốc đã mất rất nhiều đất đai - mất các chư hầu phía Nam cho Nepal và Myanmar cho Anh; mất Đông Dương cho Pháp; mất Đài Loan và các chư hầu Hàn Quốc, và Sakhalin cho Nhật Bản; mất Mông Cổ, Amuria và Ussuria cho Nga. Vào thế kỷ 20, xảy ra vụ đánh chiếm đẫm máu của Nhật Bản giành bán đảo Sơn Đông và Mãn Châu ở ngày trái tim của Trung Quốc. Tất cả những điều này lại cộng thêm cảm giác nhục nhã của người Trung Quốc khi phải ký các thỏa thuận đặc quyền ngoại giao thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, mà qua đó các nước phương Tây giành quyền kiểm soát nhiều thành phố của Trung Quốc - gọi là hiệp ước Hải cảng Mở (Treaty Ports). Trung Quốc, sống sót qua cơn ác mộng đó và đã đạt đến vị trí cao nhất của một cường quốc đại lục và ổn định lãnh thổ chưa từng thấy kể từ triều đại nhà Minh thế kỷ thứ 16 và triệu đại Tần thế kỷ 18, giờ muốn hướng ra biển để bảo vệ các tuyến SLOCs của mình tới Trung Đông và từ đó bảo vệ sự thịnh vượng kinh tế cho lương dân cư đông đảo nhất thế giới của mình. Việc Trung Quốc kêu gọi một không gian chiến lược mở chính là cách để tuyên bố rằng họ sẽ không bao giờ có ý định để cho nước ngoài "đè đầu cưỡi cổ" mình như trong hai thế kỷ trước. Một khi Trung Quốc có đủ ảnh hưởng, biển Đông đối với nước này sẽ giống như Đại Caribbea (bao gồm Vịnh Mexico) đối với Mỹ trước đây - một sự thể hiện về vật chất và mang tính biểu tượng của vai trò bá chủ khu vực. Hãy nhớ rằng, chính việc bá chủ lòng chảo Đại Caribbea đã tạo cho Mỹ vai trò chế ngự đối với Tây Bán cầu trong thế kỷ 20, giúp Mỹ rảnh tay để tác động tới cán cân quyền lực ở Đông Bán cầu. Một sức mạnh tương tự có thể xảy ra khi Trung Quốc trở thành người bá chủ biển Đông. Yêu sách của Trung Quốc đối với biển Đông, bên cạnh nguyên nhân về địa lý cũng có nguyên nhân lịch sử. Các chuyên gia phân tích của Trung Quốc cho rằng tổ tiên của họ đã phát hiện ra các quần đảo trên biển Đông từ triều nhà Hán thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Họ cũng cho rằng vào thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên, một phái bộ của Trung Quốc tới Campuchia đã đề cập tới các nhóm đảo tại Trường Sa và Hoàng Sa; rằng từ thế kỷ thứ 10 đến 14 (dưới triều đại nhà Tống và nhà Nguyễn), nhiều sổ sách chính thức và không chính thức của Trung Quốc đã cho thấy biển Đông nằm trong biên giới lãnh thổ quốc gia Trung Quốc; rằng từ thế kỷ 15 - 19 (dưới triều nhà Minh và Tần), nhiều bản đồ đã đưa quần đảo Trường Sa vào lãnh thổ Trung Quốc; và rằng đầu thế kỷ 20 (cuối triều nhà Tần), Chính phủ Trung Quốc đã tìm cách thể hiện quyền tài phán đối với quần đảo Hoàng Sa. Các lập luận trên không nói gì về các quyền trên thực tế rằng các ngư dân Trung Quốc đánh bắt tại biển Đông từ nhiều thế kỷ và các sổ sách mà họ giữ lại về các hòn đảo lớn nhỏ cũng như các vỉa đá, bãi cát ngàm ở đây. Bên cạnh đó, nhiều bản đồ chính thức khác nhau được làm dưới thời Chính phủ Quốc dân Đảng trước và sau chiến tranh thế giới II đã sáp nhập các hình thái đất tại biển Đông vào lãnh thổ Trung Quốc. Các bản đồ này cũng vẽ đường 9 đoạn lịch sử, mà các chuyên gia phân tích của Trung Quốc đưa ra như một cách hiểu luật pháp quốc tế đương đại. Đường 9 đoạn này bao gồm 90% diện tích biển Đông. Vậy đâu là lợi ích lớn của Trung Quốc tại biển Đông và Đông Á về địa chính trị và thực tế? Rốt cuộc, cũng như bất kỳ quốc gia nào khác, Trung Quốc quan tâm đến thương mại quốc tế. Sự ổn định xã hội tùy thuộc vào một dòng chảy đều đặn về tài nguyên và hàng hóa ra và vào Trung Quốc thông qua biển Đông. Vì vậy, sự ổn định của Trung Quốc tùy thuộc vào một nền kinh tế thịnh vượng, mà sự thịnh vượng này lại phụ thuộc vào thương mại. Trung Quốc không có động cơ đế quốc lấn chiếm lãnh thổ như trong các quan hệ quốc tế thế kỷ 19 và đầu 20. (Trung Quốc chắc chắn không phải là đế quốc Nhật sau thời Minh Trị Phục hưng). Tuy nhiên, vị trí trung tâm về địa lý của Trung Quốc trong khu vực khiến họ muốn đóng một vai trò tích cực hơn trong việc định hướng các vấn đề khu vực. Cách tiếp cận đôi khi mạnh tay của Trung Quốc trong việc quản lý nước ở châu thổ sông Mekong có thể báo trước cách đối xử của Bắc Kinh với các nước khác ở ven bờ biển Đông. Trật tự của Trung Quốc hiện được duy trì bởi tính hợp pháp, thể hiện là tăng trưởng kinh tế. Nếu kinh tế Trung Quốc duy trì được tăng trưởng mạnh - và đây là một chữ NẾU to đùng - thì Trung Quốc sẽ rất mong muốn các nước khác phải từ bỏ một số quyền tự do hành động của mình để đổi lại sự lãnh đạo rộng lượng của Trung Quốc, được hợp pháp hóa bởi cách quản lý kỹ trị của họ. Một quan chức quân sự Trung Quốc từng nói rằng nước này chỉ sử dụng tấn công quân sự khi còn yếu, trong những năm đầu lập nước, trong cuộc chiến tranh Triều Tiên và chống lại Ấn Độ. Tuy nhiên, phiên bản lịch sử này chưa nói tới một Trung Quốc mạnh hơn sử dụng vũ lực khi Việt Nam đang phải vật lộn trong giai đoạn cuối cuộc chiến tranh Việt Nam. Đó chính xác là thời điểm Trung Quốc đã chiếm đóng Hoàng Sa, ở phần phía Tây Bắc biển Đông mà hiện giờ vẫn đang tranh chấp. Trung Quốc rốt cuộc sẽ dân chủ hơn, nhưng một Trung Quốc dân chủ không hẳn sẽ đảm bảo là một Trung Quốc bớt xác quyết hơn. Một Trung Quốc dân chủ có thể năng động hơn về kinh tế và văn hóa, với một chủ nghĩa dân tộc bén rễ hơn, và từ đó có nhiều tiền hơn dành để mua sắm trang thiết bị quân sự. Ngược lại, đó là một Trung Quốc tiếp tục độc đoán, hay dù chỉ là bán độc đoán, với một mức độ xác quyết có thể buộc các nước trong khu vực phải hợp tác với nó. Việc tương lai của chính quyền Trung Quốc sẽ đi theo hướng dân chủ hay độc đoán sẽ không đặt ra những vấn đề như chúng ta nghĩ, bởi địa chiến lược của Trung Quốc sẽ vẫn như vậy. Ít người cho rằng Trung Quốc đang tìm cách gây xung đột. Nhưng trên thực tế, điều ngược lại đang xảy ra. Trung Quốc có thể thích một cách tiếp cận gián tiếp hơn và mong muốn tạo ảnh hưởng mà không phải dùng đến vũ lực bạo tàn. Nếu Trung Quốc có thể thay đổi cán cân quyền lực theo hướng có lợi cho mình, họ có thể ngày càng chế ngự các nước láng giềng nhỏ hơn trong khi tăng cường khiêu khích hải quân Mỹ và đi xa hơn chuỗi đảo đầu tiên ở Tây Thái Bình Dương. Các chuyên gia trong khu vực mô tả điều đó là chính sách Phần Lan hóa. Khái niệm này được xác định bởi sự đa nghĩa của nó: sự chế ngự của Liên Xô đối với chính sách đối ngoại của Phần Lan trong Chiến tranh Lạnh nói chung là không công khai. Nhưng Phần Lan biết là có những giới hạn mà họ không thể vượt qua, và vì vậy chủ quyền của họ rõ ràng đã bị tổn thương. Đây chính là điều mà Việt Nam, Malaysia, Singapore, Brunei và Philippines đang lo ngại. Đài Loan, ở cực Bắc của biển Đông, có thể đang rơi vào tình trạng Phần Lan hóa rồi, khi 1,500 tên lửa đạn đạo tầm ngắn từ Đại lục đang chĩa thẳng về phía họ, dù hàng trăm chuyến bay thương mại vẫn hàng ngày qua lại với Trung Quốc. Trung Quốc có thể tìm cách chế ngự các nước láng giềng thông qua sự kết hợp giữa hợp tác và ép buộc. Chính sách của Trung Quốc là có thể đoán trước và rất nhất quán, nó là sự đan xen giữa trấn an và mở rộng ảnh hưởng; một số nước Đông Nam Á đã chế giễu về chính sách của Trung Quốc là "miệng nói tay làm". Khái niệm Phần Lan hóa có thể giải thích tại sao Trung Quốc sẽ ép buộc các nước láng giềng. Rốt cuộc, nếu Trung Quốc có thể giảm mong muốn và khả năng các nước láng giềng phối hợp với Mỹ như một đối trọng với sức mạnh của Trung Quốc, thì họ có thể thể hiện quyền lực khu vực, bao gồm cả việc buộc một Đài Loan bị cô lập trở thành một liên minh chặt chẽ hơn. Ngay cả các đồng minh lâu năm của Mỹ cũng không thể làm ngơ trước ảnh hưởng của sức mạnh kinh tế và quân sự ngày càng gia tăng của Trung Quốc. Trung Quốc đã phủ một cái bóng dài lên Thái Lan, một đồng minh hợp đồng của Mỹ, trong khi Philippines với bộ máy chính quyền yếu kém có thể một ngày sẽ ngừng kháng cự tầm ảnh hưởng của Trung Quốc dù họ có những yêu sách chồng lấn với nước này tại quần đảo Trường Sa.Nếu nền kinh tế Trung Quốc giữ được đà tăng trưởng, các diễn biến này có thể xảy ra. Trung Quốc dứt khoát từ chối quốc tế hóa các tranh chấp tại biển Đông thông qua các đàm phán đa phương. Bằng cách giải quyết song phương, Trung Quốc có thể chia rẽ và thuyết phục; các cơ chế đa phương có thể đặt Trung Quốc trong một vị thế yếu hơn. Khi Trung Quốc thấy các nước trong khu vực bắt đầu đoàn kết lại trong một chính sách chung nhằm duy trì nguyên trạng hồi mùa hè năm 2011 (với sự tạo điều kiện của Mỹ), Bắc Kinh đã đổi giọng và chấp nhận một bộ nguyên tắc mập mờ để hướng dẫn thực thi Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông (DOC). Trung Quốc xử trí bằng cách cải thiện quan hệ song phương với hai nước lớn tiếng nhất trong số các nước cũng đòi chủ quyền tại biển Đông, là Việt Nam và Philippines. Rõ ràng mối đe dọa quốc tế hóa các tranh chấp trên biển Đông và rọi đèn vào các hành động của Trung Quốc đã khuyến khích nước này đi theo hành động ngoại giao. (theo Tuanvietnam) (còn nữa)
  15. Chiến lược biển Đông mới của Hoa Kỳ - Trung Quốc Kỳ 1: Hợp tác trên cơ sở sức mạnh tại biển Đông Các lợi ích của Mỹ trên biển Đông đang ngày càng gặp nguy hiểm, tuy nhiên việc bảo vệ các lợi ích này không cần phải – và không nên – dẫn tới xung đột với Trung Quốc. Chính vì vậy, quản lý các căng thẳng và thúc đẩy hợp tác tại biển Đông sẽ đòi hỏi sự chú ý lâu dài và thận trọng của Washington. Tuần Việt Nam giới thiệu độc giả báo cáo mới nhất của giới chuyên gia cố vấn (think tanks) Mỹ về biển Đông, trong đó bàn về các nguy cơ đối với Mỹ, cũng như sự cần thiết của việc Mỹ phải theo đuổi chính sách vừa hợp tác vừa chế ngự. Tác giả cũng sẽ phân tích sự đổi hướng chiến lược của Trung Quốc tại biển Đông, trước khi nghiên cứu sâu hơn vào một số khía cạnh an ninh hàng hải, từ thực tế đến nguyên tắc. Cuối cùng, sẽ là phần kết luận với 5 khuyến nghị dành cho các nhà hoạch định chính sách của Mỹ. Lợi ích của Mỹ ở biển Đông Ý nghĩa của biển Đông vẫn đang bị đánh giá chưa đúng mức, và đang gây tranh cãi trước hết là giữa các chuyên gia trong khu vực, và rộng hơn là trong cộng đồng an ninh quốc gia. Nhưng biển Đông xứng đáng được ưu tiên chú ý hơn vì hệ thống dựa trên sức mạnh mà Mỹ nuôi dưỡng từ nhiều thập kỷ qua đang bị xét lại bởi một Trung Quốc đang nổi lên, và biển Đông sẽ là yếu tố chiến lược quyết định vai trò lãnh đạo của Mỹ trong tương lai ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Câu hỏi liệu Tây Thái Bình Dương có còn là một vùng biển chung ổn định, mở cửa và thịnh vượng, hay sẽ ngày càng trở thành một cái ổ tranh cãi phân cực với các đặc điểm giống như Chiến tranh Lạnh, sẽ được trả lời ngay tại vùng biển quan trọng này. Biển Đông là nơi các quốc gia như Việt Nam, Malaysia và Philippines phải đối mặt với chính sách "Phần Lan hóa" của Trung Quốc nếu hải quân và không quân Mỹ giảm bớt sự hiện diện. Nói tóm lại, biển Đông là nơi toàn cầu hóa và địa chính trị va chạm với nhau. Nền kinh tế toàn cầu có một trung tâm địa lý, đó là ở biển Đông. Khoảng 90% hàng hóa thương mại được chuyển từ châu lục này sang châu lục khác bằng đường biển, trong đó 1/2 nếu xét về trọng tải (và 1/3 nếu xét về giá trị tiền tệ) đi qua biển Đông. Vùng biển này giống như cổ họng nối giữa Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, nơi các hải trình hội tụ, chiếm 1,200 tỷ USD thương mại của Mỹ mỗi năm. Địa chính trị là lực lượng đối chọi với toàn cầu hóa, chia rẽ thế giới thay vì thống nhất nó. Biển Đông là nơi một Trung Quốc đang nổi lên về quân sự ngày càng thách thức vai trò chế ngự của hải quân Mỹ - một xu hướng mà, nếu cứ để diễn ra như hiện nay, có thể làm thay đổi cán cân quyền lực tồn tại từ sau Chiến tranh thế giới II và đe dọa các tuyến thông thương trên biển (SLOCs). Trong vai trò là người bảo vệ chính cho tự do hàng hải toàn cầu, Mỹ có một lợi ích sâu sắc và vĩnh viễn trong việc đảm bảo các tuyến SLOCs được thông lưu đối với tất cả mọi người, không chỉ cho các hoạt động thương mại mà cả các hoạt động quân sự vì mục đích hòa bình, như can thiệp nhân đạo và bảo vệ bờ biển. Mỹ có thể bảo vệ tốt nhất một trật tự hòa bình và thịnh vượng trong khu vực bằng cách đảm bảo khả năng tiếp cận với các SLOCs quan trọng. Nếu Mỹ không thể hiện sức mạnh đầy đủ tại biển Đông thì sẽ làm thay đổi các tính toán an ninh của tất cả các nước trong khu vực. Nếu các lực lượng của Mỹ không những mất khả năng làm phức tạp kế hoạch của kẻ thù mà lại trở nên ngày càng dễ bị tổn thương trước lực lượng quân đội đang được hiện đại hóa một cách vững chắc của Trung Quốc, thì các nước khác trong khu vực sẽ có ít lựa chọn nào khác ngoài việc đi theo một Trung Quốc hùng mạnh. Khi Trung Quốc tiếp tục nổi lên, Mỹ bị xem là suy yếu một cách tương đối, nếu không muốn nói là hoàn toàn. Rõ ràng, không có sự suy yếu tương đối nào đáng lo ngại hơn nguy cơ suy yếu sức mạnh hải quân của Mỹ trong tương lai. Lực lượng Hải quân Mỹ thời Reagan từng tự hào sở hữu gần 600 tàu chiến, con số này ngày nay chỉ còn 284. Dù mục đích của Hải Quân là mở rộng tới 313 tàu chiến, nhưng ngân sách quốc phòng hiện nay, cộng thêm việc giảm sản xuất và tăng chi phí, không giúp đạt mục đích đó. Hơn nữa, với việc cắt giảm ngân sách sắp tới, cũng như số tàu chiến sắp phải "về hưu" trong thập kỷ tới, Mỹ đang phải đối mặt với thực tế là lực lượng Hải Quân chỉ có trong tay 250 tàu chiến hoặc ít hơn. Tất nhiên, số tàu chiến chỉ là một khía cạnh của sức mạnh hải quân. Các chiều kích khác bao gồm trọng tải, vũ khí và các năng lực trên boong, mức độ huấn luyện của thủy thủ và sự kết hợp các dịch vụ quân sự khác nhau. Và Mỹ đang đứng trước nguy cơ phải nhường vị thế bá chủ các khu vực này trong tương lai không xa. Tại Washington đang có cuộc thảo luận về việc xây dựng một đại liên minh giữa các lực lượng Hải Quân bao gồm tất cả các quốc gia để chia sẻ với Mỹ gánh nặng biển trong "buổi xế" của sức mạnh. Vấn đề đặt ra là một con tàu không thể có mặt một lúc ở hai nơi, trong khi sự hiện diện của nó lại chính là thước đo sức mạnh hải quân. Tầm với của sức mạnh Mỹ cần phải bao phủ tất cả các lợi ích của họ trải dài trên toàn cầu. Và ít nơi nào cần nhiều sự chú ý của Lầu Năm Góc hơn biển Đông - nơi kết nối vựa tài nguyên năng lượng của Trung Đông với số dân cư ngày càng đông đúc của Đông Á. Chúng tôi cho rằng vai trò chế ngự về quân sự của Mỹ tại biển Đông sẽ giảm bớt một cách tương đối khi các quốc gia khác, đặc biệt là Trung Quốc cải thiện sức mạnh hải quân và không quân của mình, tăng cường kết hợp các loại tên lửa đạn đạo chống hạm, máy bay chiến đấu thế hệ năm, tàu ngầm và tàu chiến nổi (bao gồm cả tàu sân bay) và các hệ thống mạng và ngoài không gian. Đây là một hiện tượng tự nhiên mang tính lịch sử. Tuy nhiên, điều quan trọng là sự cân bằng mới được điều chỉnh về lực lượng nổi lên từ tình hình rất năng động đó liệu có thể bảo vệ giao thương trên biển thông qua các SLOCs an toàn và tự do hay không. Mục đích là hợp tác, nhưng hợp tác chỉ có thể phát triển tốt nhất thông qua sức mạnh. Các cam kết ngoại giao và kinh tế sẽ được thực hiện tốt hơn khi được hỗ trợ bởi một sức mạnh quân sự đáng tin cậy. Điều này sẽ đòi hỏi phải duy trì vai trò đứng đầu thông qua sức mạnh của Mỹ và sự hợp tác khu vực rộng lớn hơn, một khái niệm có thể được gọi là "hợp tác trên cơ sở sức mạnh". Ý nghĩa địa chiến lược của biển Đông đối với Mỹ là quá rõ. Biển Đông là trung tâm nhân khẩu học của nền kinh tế thế kỷ 21, nơi 1.5 tỷ người Trung Quốc, gần 600 triệu người Đông Nam Á và 1.3 tỷ người Ấn Độ trao đổi các nguồn tài nguyên sống còn và các loại hàng hóa trong khu vực và trên toàn cầu. Gần chục quốc gia nằm ven bờ vùng biển này - theo ngược chiều kim đồng hồ gồm Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei và Philippines - đang đòi chủ quyền đối với một phần đáy biển với trữ lượng dầu 7 tỷ thùng, cũng như khoảng 900,000 tỷ mét khối khí tự nhiên. Nếu các tính toán của Trung Quốc là chính xác, biển Đông đang chứa trong lòng nó khoảng 130 tỷ thùng dầu hoặc hơn thế. Điều đó có nghĩa là biển Đông chứa nhiều dầu mỏ hơn bất kỳ khu vực nào trên toàn cầu, trừ Arập Xêút - điều khiến một số quan sát viên Trung Quốc gọi biển Đông là "Vịnh Persic thứ hai". Nếu thực sự có nhiều dầu như vậy ở biển Đông - và nếu Trung Quốc có thể kiểm soát chúng - thì nước này có thể sẽ giảm bớt được sự phụ thuộc của mình vào eo biển hẹp và dễ bị tấn công Malacca (cũng như eo biển Sunda hay eo biển Lombok), nơi vận chuyển rất nhiều năng lượng mà nước này phải nhập khẩu từ tận Trung Đông. Tập đoàn Dầu mỏ Hải ngoại quốc gia Trung Quốc (CNOOC) đã đầu tư 20 tỷ USD với niềm tin rằng một trữ lượng dầu mỏ lớn như vậy đang nằm dưới đáy biển Đông. Nhìn bề ngoài, trong bối cảnh những thăng trầm của các yêu sách lãnh thổ chồng lấn, các tranh chấp pháp lý và căng thẳng quân sự, sự gia tăng đột ngột các hoạt động ngoại giao về việc ai sở hữu cái gì trên biển Đông dường như không đủ mạnh để làm tăng nguy cơ xung đột giữa các nước lớn trong trước mắt. Thực vậy, nguồn năng lượng dồi dào nằm dưới đáy biển và việc các nước đều cần có tự do hàng hải đang thúc giục các cơ chế hợp tác đa phương mới để tăng cường ổn định và thúc đẩy thương mại. Tuy nhiên, biển Đông cũng đã trở thành "tâm chấn" của cái dường như là một cuộc chiến địa chính trị lâu dài, trong đó các sức mạnh chính trị cổ điển và chủ nghĩa dân tộc đang được tăng cường bên cạnh sự nổi lên của Trung Quốc. Có một cuộc tranh luận địa chiến lược không thể tránh khỏi đang diễn ra tại biển Đông, và cuộc tranh luận này có thể được gói gọn lại trong một câu hỏi là: Liệu Mỹ sẽ duy trì một khả năng kiểm soát đáng tin cậy đối với các tuyến SLOCs qua biển Đông, hay các năng lực chống tiếp cận và ngăn chặn khu vực (anti-access, area-denial) của Trung Quốc sẽ trung lập hóa căn bản mối đe dọa này, từ đó thay đổi các giả định chiến lược trên toàn khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương? Trong khi các nước khác trong khu vực duy trì các yêu sách lãnh thổ đặc biệt của mình dựa trên các ranh giới biển, Trung Quốc lại đòi sở hữu phần giữa lòng rộng lớn của biển Đông. Trong tương lai không quá xa, sự nổi lên trở lại của Trung Quốc và kèm theo đó là khả năng không chỉ nhấn mạnh các đòi hỏi này mà còn hỗ trợ chúng bằng các năng lực quân sự, có thể đặt vấn đề về độ tin cậy của sức mạnh quân sự của Mỹ và các thập kỷ bá chủ khu vực của Mỹ: sự chế ngự từng giúp ngăn chặn tranh chấp leo thang thành chiến tranh. Như vậy, biển Đông đại diện cho những cái chung toàn cầu thu nhỏ - không chỉ về lĩnh vực hải quân và không quân mà cả trong những lĩnh vực có tầm quan trọng như không gian mạng và ngoài không gian vũ trụ. Tại biển Đông, tất cả các lĩnh vực này đề đang có nguy cơ bị đe dọa bởi âm mưu của Trung Quốc, thông qua việc mua và huy động quân sự, nhằm ngăn chặn sự can thiệp của hải quân Mỹ. Đây là một lý do giải thích tại sao 16 trong tổng số 18 quốc gia tại Hội nghị thượng đỉnh Đông Á tháng 11/2011 đã nhấn mạnh tới tầm quan trọng của an ninh biển, với việc hầu hết các nước ủng hộ sự cần thiết phải thiết lập các cơ chế đa phương để giải quyết các yêu sách chồng lấn tại biển Đông. Trong các thập kỷ sắp tới, thách thức đối với Mỹ sẽ là làm thế nào để bảo vệ các chuẩn mực lịch sử - trong đó tự do hàng hải là trên hết - trong khi vẫn thích nghi với sức mạnh và các hoạt động ngày càng gia tăng của các tác nhân trong khu vực. Duy trì các tài sản chung toàn cầu có liên quan đến tự do hàng hải sẽ đòi hỏi vai trò chủ đạo của Mỹ, đặc biệt là sự chế ngự của hải quân. Đồng thời, thích nghi và tăng cường hợp tác cũng sẽ cần thiết. Như vậy, Mỹ cần phải hợp tác, nhưng là sự hợp tác trên cơ sở một vị trí ưu việt. Đây sẽ là một cách để tăng cường hội nhập khu vực về ngoại giao và kinh tế trong khi cùng nhau bảo vệ tương quan quyền lực khi Trung Quốc nổi lên. Cách tiếp cận này không hề tương phản với các lợi ích của Trung Quốc: Trên thực tế, không quốc gia châu Á nào được hưởng lợi từ hệ thống do Mỹ đứng đầu này nhiều như Trung Quốc. Tuy nhiên, vì sự nguyên trạng không thể tồn tại vĩnh viễn, mục đích của hợp tác dựa trên sức mạnh là xây dựng một nền tảng đa phương rộng hơn cho sự thay đổi không gây xáo chộn mà vẫn bảo vệ các nguyên tắc của trật tự các tuyến đường lưu thông trên biển. Sự nổi lên của Trung Quốc về kinh tế và quân sự đang có nguy cơ gieo gió cho một cơn bão thay đổi tại khu vực biển Đông. Vì vậy, việc duy trì các yếu tố chìa khóa của nguyên trạng là rất quan trọng: bao gồm tự do giao thương, các tuyến SLOCs an toàn và an ninh, và sự độc lập - không bị hăm dọa - của tất cả các quốc gia duyên hải trong một trật tự quốc tế dựa trên các nguyên tắc. Như đã nói ở trên, tính ưu việt không có nghĩa là chế ngự: nó có nghĩa là Mỹ giữ vai trò của mình là một cường quốc khu vực nhằm hướng dẫn các đồng minh và đối tác làm nhiều hơn trong khả năng của mình. Theo cách này, tương quan lực lượng có thể được duy trì, và như vậy gánh nặng trên vai Mỹ cũng được giảm bớt. Điều quan trọng, như Tổng thống Obama đã nhấn mạnh trong một chuyến thăm tới khu vực này hồi tháng 11/2011, là tất cả các nước đều hành xử theo cùng một luật chơi. Các thỏa thuận an ninh đa phương sẽ một phần giúp kiểm soát các tham vọng của từng nước, từ đó cho phép các hoạt động ngoại giao và thương mại chiến thắng sự đối đầu quân sự công khai. Tranh luận về các vấn đề này là tranh luận về sự kiểm soát không gian địa lý. Các tranh chấp lãnh thổ kéo dài liên quan đến từng vạt đất trên biển Đông mà người ta nghĩ là có thể bao quanh đó là những mỏ năng lượng khổng lồ. Vì các đòi hỏi này phức tạp đến mức không thể giải quyết, Mỹ đã tìm cách hội tụ khu vực xung quanh một nền tảng đa phương chung, xây dựng trên cơ sở các thỏa thuận song phương hiện đang định hình các quan hệ của Washington với khu vực này. Việc Mỹ phối hợp với các nước khác nếu tốt nhất có thể giữ Trung Quốc tuân thủ các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế, hoặc ít nhất cũng thay đổi căn bản cách hành xử của họ trên thực tế. Nhưng điều đó sẽ cần những nỗ lực lâu dài và kiên trì. Dù sự chú ý ở cấp thượng đỉnh ngày càng tập trung vào châu Á và biển Đông, nhưng nhiều trọng tâm chiến lược của Washington vẫn là ở Trung Đông, nơi vẫn còn rất bất ổn sau một thập kỷ chiến tranh và xây dựng đất nước. Mùa hè năm 2010, sau loạt "khẩu đạn" gay gắt giữa Ngoại trưởng Mỹ Hillary Rodham Clinton với Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì tại Diễn đàn Khu vực ASEAN ở Hà Nội, một chính khách Mỹ đã chất vấn các đồng nghiệp tại Bộ Ngoại giao rằng tại sao Mỹ phải đối đầu với Trung Quốc, đồng thời nhấn mạnh một cơ chế đa phương nhằm tránh xung đột tại biển Đông. Ít nhất đối với vị chính khách này, Mỹ phải rút bớt khỏi khu vực Trung Đông đầy xung đột và hướng về khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trung tâm của nền kinh tế thế giới. Các tuyến SLOCs qua biển Đông nằm trong mối quan hệ toàn cầu hóa và địa chính trị. Hơn nữa, biển Đông có thể là một sân khấu cho sự chuyển giao quyền lực toàn cầu. Đây là nơi sự tìm kiếm tầm ảnh hưởng của một Trung Quốc đang nổi lên sẽ đặt vấn đề về quy chế siêu cường của Mỹ ở Đông Á. Lợi ích và thiện chí của Mỹ đang bị nghi vấn. Việc Trung Quốc hay Ấn Độ có thể cùng nổi lên một cách hòa bình hay không sẽ được quyết định bởi cách thức họ sử dụng sức mạnh hải quân ở hai bờ eo biển Malacca - tại biển Đông và vịnh Bengal. Tương quan lực lượng mới giữa một Trung Quốc đang nổi và một nước Mỹ đang suy yếu tương đối sẽ được thử nghiệm tại biển Đông, vùng biển trải dài từ Trung Quốc ở phía Bắc, tới các đảo quốc Đông Nam Á ở phía Nam và tới quốc gia Đông Nam Á đất liền (Việt Nam) ở phía Tây. Giao thương được xác định về địa lý bởi vị trí của các nguồn tài nguyên thiên nhiên và các cụm dân cư - đây cũng là hai yếu tố cho thấy vai trò trung tâm về địa chính trị và địa kinh tế của biển Đông. Giới chức Mỹ đã thảo luận sự cần thiết phải thay đổi chiến lược hướng tới châu Á từ một thập kỷ qua, kể từ Báo cáo Quốc phòng 4 năm/lần vào năm 2001. Chính quyền của ông Obama gần đây đã tuyên bố một đại chiến lược theo đó sẽ hướng vào trụ cột này - một sự tiến bộ logic của chính sách an ninh quốc gia lưỡng đảng ở Mỹ. Tuy nhiên, Washington không nên cho rằng Trung Quốc sẽ tìm cách tạo điều kiện cho một trụ cột Mỹ. Mọi việc sẽ phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc coi việc Mỹ quan tâm hơn tới châu Á là một sự thay đổi hầu như chỉ nói suông thôi hay là một thay đổi chiến lược tiềm ẩn. Trong cả hai trường hợp, Mỹ đều phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng. Dù các quan hệ đồng minh của Mỹ với Hàn Quốc và Nhật Bản là rất mạnh mẽ và sẽ tiếp tục như vậy - kế thừa từ các cuộc chiến tranh giữa thế kỷ 20 - nhưng vị thế của Mỹ ở khu vực biển Đông sẽ ít được xác định bởi lịch sử. (theo Tuanvietnam)