Hà Uyên
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
1.069 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
8
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Hà Uyên
-
- VIETHA dự báo ngày: May 10 2010, 01:12 PM - Thông tin dự báo: Kính chú Thiên Sứ ! - Cháu xin có lời tiên tri viết lên đây để làm chứng Thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ đạt đỉnh vào tháng 9 âm lịch năm nay Kính chú ! ...................... - Cùng nhau trải nghiệm: ngày May 10 2010, 02:08 PM - Hà Uyên tham khảo, cùng dự báo với VIETHA: Chào VIETHA Từ ngày hôm nay tới tháng 9 âm lịch, còn khoảng hơn 180 ngày nữa. VIETHA có nên chia Thời gian làm hai giai đoạn, ví như từ ngày hôm nay đến tháng 5 âm lịch. Tiếp đến từ tháng 6 âm lịch tới tháng 9 âm lịch. Chúng ta cùng tham khảo từ thực tiễn xem sao. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/index.php?showtopic=10349&pid=79613&mode=threaded&start=400#entry79613 ....................... Chứng nghiệm: - Cập nhật lúc :11:48 AM, 07/06/2010 - Chứng khoán ùn ùn đi xuống - Nguồn http://www.baodatviet.vn/Home/kinhte/Chung...6/96382.datviet
-
ĐỌC VÀ HỒI TƯỞNG. Ngày 22.11.1963 – ngày diễn ra vụ ám sát Tổng thống Mỹ John F.Kennedy - đã trở thành ngày quan trọng nhất trong lịch sử Cuộc chiến của Mỹ tại VN. Bởi, nếu không có vụ ám sát, Tổng thống Kennedy đã quyết định ngăn không để Mỹ tham chiến tại VN, và dự kiến rút toàn bộ binh sĩ khỏi miền nam VN vào nhiệm kỳ 2. Bài học từ thảm hoạ Đây là quan điểm được ông Gordon M. Goldstein đưa ra trong cuốn sách mới xuất bản nhan đề: "Những bài học từ thảm hoạ: McGeorge Bundy và Hành trình đến cuộc chiến tại VN”, sau hành trình tìm kiếm tư liệu và trò chuyện với cựu cố vấn an ninh quốc gia Mỹ McGeorge Bundy. Theo ông Goldstein, không ai có thể biết rõ cách Tổng thống Kennedy có thể làm để kiểm soát cuộc khủng hoảng tại VN, nếu ông còn sống. Nhưng một điều rõ ràng, Tổng thống Kennedy đã quyết tâm ngăn cản Mỹ tham chiến tại VN, và dự kiến rút toàn bộ binh sĩ nước này khỏi miền nam VN vào nhiệm kỳ 2 năm 1965. Vào thời điểm Tổng thống Kennedy mới lên nắm quyền năm 1961, sự tham gia của quân đội Mỹ tại Đông Nam Á mới giới hạn trong các chuyến hàng vận chuyển vũ khí và một số lượng nhỏ các cố vấn quân sự. Tuy nhiên, Mỹ đã quyết định đưa binh sĩ đánh trận vào VN, khi hoạt động du kích của lực lượng giải phóng trở nên quá mạnh dưới thời Ngô Đình Diệm. “Mỹ không thể thắng dù đưa hàng triệu binh lính đến VN” Trong suốt năm đó, các cố vấn của Tổng thống Kennedy đã đệ trình lên hàng chục báo cáo đề nghị Mỹ hoá cuộc chiến. Trong một báo cáo, Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara, Ngoại trưởng Dean Rusk và Tham mưu Trưởng liên quân đã tranh luận rằng “sẽ rất khó tránh được thảm cảnh sụp đổ của chính quyền Nam Việt Nam nếu như thiếu đi sự tham gia của lực lượng Mỹ ở mức quân nhất định”. Các cố vấn của ông Kennedy còn yêu cầu bảo vệ chính quyền Sài Gòn bằng việc đưa thêm 200.000 binh sĩ đánh bộ Mỹ đến VN. Ông McGeorge Bundy, cố vấn an ninh quốc gia, tin rằng việc cam kết đưa quân đội Mỹ đến VN mang tính quan trọng sống còn. “Lào đã không bao giờ còn có thể thuộc về phe chúng ta sau năm 1954”, ông Bundy thuyết phục. “Nhưng Việt Nam là đồng minh và muốn là đồng minh của Mỹ”, ông này nhấn mạnh. Nhưng Tổng thống Kennedy không đồng ý. Ngay từ rất lâu trước khi trở thành tổng thống, ông từng lên tiếng tại Quốc hội phản đối cuộc chiến tốn kém và thảm khốc của Pháp ở VN, dẫn dụ nó như lý do khiến Mỹ không bao giờ nên tham chiến tại VN. Vào mùa hè năm 1961, ông tuyên bố chấp nhận ý kiến của Tướng Douglas MacArthur, người luôn kiên định lập trường chống lại cuộc chiến tại VN. Ông MacArthur đã sáng suốt khi nhận định, dù Mỹ có đưa hàng triệu binh lính đến VN thì cũng không thể giành chiến thắng. Vị tướng này cho rằng, Mỹ chỉ nên hạn chế ở mức độ cung cấp viện trợ quân sự và huấn luyện cho Sài Gòn, nhưng không nên triển khai bộ binh đến VN. Trong suốt 3 năm đảm nhiệm cương vị Tổng thống Mỹ, ông Kennedy đôi khi không tránh khỏi bị phe diều hâu lôi kéo đối với cuộc chiến tại VN. Vị Tổng thống này đã cho tăng số lượng cố vấn quân sự và chuyên viên huấn luyện lên tới mức 16.000 người. Nhưng cả Bộ trưởng Quốc phòng McNamara và Bundy đều thấy trước tương lai rằng Tổng thống Kennedy không muốn Mỹ hoá cuộc chiến tranh, thậm chí ngay cả khi đối mặt với viễn cảnh Nam VN thuộc về phe cộng sản. Đường mòn Hồ Chí Minh là dấu hiệu cho thất bại của Mỹ Tổng thống Kennedy tin rằng, khi Mỹ đã không thể ngăn chặn đường mòn Hồ Chí Minh - tuyến đường tiếp vận lương thực và binh sĩ cộng sản từ miền Bắc vào Nam VN – thì nước này không thể đánh bại được cuộc chiến giành độc lập của Hà Nội. "Những tuyến đường mòn đó chính là lý do cho sự thất bại được đoán trước và là lý do để phải xem xét chính sách leo thang quân sự”, Tổng thống Kennedy nói với các cố vấn vào mùa xuân năm 1962. Sự hoài nghi của Tổng thống Kennedy về cuộc chiến tại VN còn gia tăng, đến mức ông tuyên bố với trợ lý Nhà Trắng Michael Forrestal rằng tỉ lệ Mỹ không thể chiến thắng Việt Cộng lên đến 100 ăn 1. Vào đầu năm 1963, Kennedy nói với Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, Thủ lĩnh phe đa số Thượng viện, người phản đối gia tăng sự tham gia quân sự của Mỹ tại VN, rằng ông sẽ bắt đầu rút các cố vấn khỏi miền nam VN vào đầu nhiệm kỳ hai, bắt đầu từ năm 1965. Ông cũng tiết lộ về kế hoạch tương tự với Roswell Gilpatric, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Nhưng vụ ám sát thảm hoạ tại Dallas vào tháng 11.1963 đã thay đổi toàn bộ cục diện cuộc chiến VN. Những gì đã xảy ra sau cái chết của Tổng thống Kennedy là câu chuyện đã được thuộc lòng. Tổng thống Lyndon B.Johnson lên nắm quyền năm 1964 và đến tháng 8 cùng năm, ông ta đã sử dụng sự kiện Vịnh Bắc Bộ - do chính Mỹ dựng lên – làm cái cớ để mở rộng các hoạt động quân sự xuống miền bắc VN. Vào ngày 8.3.1965, Johnson đã cử 3.500 lính thuỷ quân lục chiến đầu tiên đến VN. Trong vài tháng sau đó, ông ta đã thông qua lệnh điều động 175.000 binh sĩ chiến trường đến VN. Nếu Kennedy còn sống, ông sẽ tận hưởng rất nhiều ưu thế trong cuộc bầu cử năm 1965. Ông không có đối thủ, nếu ra tranh cử nhiệm kỳ 2. Ông cũng được biết đến như một tổng thống quyết đoán, sẵn sàng gạt bỏ ý kiến của các cố vấn khi cần thiết. Danh tiếng của Tổng thống Kennedy càng lan rộng sau vụ xử lý cuộc khủng hoảng tên lửa Mỹ-Cuba. “Ông không cần phải chứng minh về sức mạnh của mình tại VN”, cựu cố vấn an ninh quốc gia Bundy nhớ lại. "Tổng thống Kennedy có thể giúp làm giảm thiệt hại của Mỹ trong cuộc chiến tại VN. Ông có thể làm điều đó, bằng việc từ chối Mỹ hoá cuộc chiến tranh”. Theo ông Goldenstein, vị cố vấn Bundy thường nổi cáu mỗi khi bị chất vấn về cuộc chiến VN. Ông Bundy là một trong những kiến trúc sư chính cho các cam kết của Mỹ đối với cuộc chiến tại VN, nhưng rất kín tiếng về thời gian này. Tuy nhiên, theo ông Bundy: “Tổng thống Kennedy và Johnson có chính kiến hoàn toàn khác biệt về cuộc chiến VN. Nếu dự đoán rằng Kennedy cũng sẽ làm điều tương tự như Johnson đã làm tại VN thì quả là nực cười”. Nếu ông Kennedy nghe lời cố vấn, thế giới đã có chiến tranh hạt nhân Khi Tổng thống Kennedy chọn Bundy làm cố vấn an ninh đối nội, ông này là một học giả Harvard nổi tiếng về trí tuệ, sự lịch lãm và các kỹ năng chính quyền. Công việc tại Nhà Trắng đòi hỏi hai điều kiện mà ông Bundy đều đáp ứng đủ: Hoạt động như một người gác cửa để Tổng thống có thể nhận được những thông tin tốt nhất có thể, đồng thời phải đưa ra những quan điểm của bản thân về cuộc xung đột để giúp Tổng thống có lời khuyên tốt nhất. Nhưng vào thời điểm quan trọng nhất, thời điểm định mệnh, ông ta đã không làm được cả hai điều này. Năm 1962, khi cuộc khủng hoảng tên lửa tại Cuba nổ ra, trong thời gian rất ngắn, Tổng thống Mỹ Kennedy chính là người quyết định lựa chọn giải pháp hoà bình. Còn vị cố vấn Bundy lại như một bị xoáy tung như chong chóng giữa cơn bão, hết ủng hộ giải pháp khai chiến, rồi lại chọn đứng yên, đến khởi động quy chế cách ly nhằm ngăn chặn Liên Xô hoàn tất việc lắp đặt tên lửa ở Cuba và cuối cùng đề nghị tiến hành không kích. Theo tác giả Goldstein, nếu Tổng thống Kennedy làm theo lời khuyên của các cố vấn, như Bundy, điều đó có thể đã đưa thế giới đến một cuộc chiến hạt nhân. Ông Goldstein cho rằng, đến khi qua đời, vị cố vấn này vẫn đang phải đấu tranh với chính bản thân để cố hiểu vì sao thảm hoạ cuộc chiến tại VN lại xảy ra. “Dù được đặt vào vị trí trung tâm của bộ máy thiết lập chiến lược cho cuộc chiến, Bundy vẫn không nhận thức hết được vai trò quan trọng của ông ta trong việc ra hàng loạt quyết định đã đưa nước Mỹ đến cuộc chiến tại VN”, ông Goldstein viết. Vào ngày 25.11.1961, 10 tháng sau khi ông Kennedy đảm nhận cương vị Tổng thống và khá lâu trước khi chiến dịch leo thang chiến tranh tại VN bắt đầu, ông Bundy đã đưa ra lời khuyên như sau: “Mỹ nên điều động một sư đoàn để tham gia các hoạt động quân sự bên trong Việt Nam khi cần thiết… Tôi không muốn đưa một sư đoàn này đến chỉ vì các mục đích uý lạo tinh thần. Tôi sẽ cho họ chiến đấu, nếu cần thiết…”. Khi ông Goldstein đưa cho Bundy bản ghi nhớ này hơn 3 thập kỷ sau đó, chính tác giả của nó đã ngạc nhiên. Ông ta không hề nhớ về chính những lời khuyên của mình. Bản ghi nhớ đã thể hiện rõ quan điểm diều hâu đối lập mà Bundy theo đuổi dưới thời Tổng thống Kennedy. Ông ta và những người khác đã không đếm xỉa gì đến lời cảnh báo của Tổng thống Pháp Charles De Gaulle về kinh nghiệm đầy đau đớn của Pháp trong cuộc chiến tại Đông Dương. Chính Tổng thống De Gaulle đã khuyến cáo Mỹ cũng sẽ vấp phải thất bại tương tự nếu tiến hành cuộc chiến tại VN. Các cố vấn của chính quyền Mỹ khi đó còn bỏ qua một bằng chứng rõ ràng rằng dội bom, thực chất, chỉ càng làm cho chính quyền Hà Nội mạnh thêm lên. Nhưng, trong suốt thời gian Tổng thống Kennedy cầm quyền, vị tổng thống này không quan tâm đến chính những lời khuyên của các cố vấn. Tại một cuộc họp báo 8 ngày trước vụ ám sát định mệnh, ông đã đề cập đến VN. "Tôi không muốn nước Mỹ dàn quân ở đó”, ông nói. Một trong các mục tiêu của ông là “đưa binh sĩ về nước”. Vào ngày 22.11.1963, Mỹ mới chỉ duy trì số lượng hạn chế các cố vấn quân sự tại VN. Tỉ lệ thương vong của quân đội Mỹ mới là 108. Nếu như vụ ám sát không xảy ra, nước Mỹ, có lẽ, đã tránh được viễn cảnh thất trận bẽ bàng tại VN. Nguồn (Theo: Los Angeles Time, Concord Monitor - Thuỷ Phương)
-
1. Chung sống trong sự khác biệt Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton nói sau cuộc đối thoại, rằng “Mỹ và Trung Quốc không thể nhất trí với nhau trong mọi vấn đề” http://vovnews.vn/Home/Nhu-the-da-la-thanh...0105/144911.vov 2.Trung - Mỹ ‘khẩu chiến’ tại Singapore Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates nhấn mạnh, quyết định cắt đứt các mối liên lạc giữa quân đội hai nước của Trung Quốc có thể phương hại tới ổn định khu vực. Ngoài ra, ông khẳng định, bất chấp việc hợp tác quân sự Washington – Bắc Kinh có bị gián đoạn hay không, chính sách của Washington với Đài Loan không thay đổi. http://www.baodatviet.vn/Home/thegioi/Trun...6/96400.datviet 3. Triều Tiên họp Quốc hội bất thường Ngay sau khi Hàn Quốc đưa vụ chìm tàu lên Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, Triều Tiên bất ngờ tổ chức kỳ họp Quốc hội thứ 2 trong năm. Tuy nhiên, các chuyên gia đều nhận định, cả hai miền Triều Tiên hiện giờ chưa sẵn sàng tham chiến, nhưng tranh chấp tại Hoàng Hải và dọc khu phi quân sự DMZ có thể xảy ra nhiều hơn, dẫn đến một cuộc chiến lớn. http://www.baodatviet.vn/Home/thegioi/Trie...6/96390.datviet
-
Xuất hiện hàng loạt hố lớn bí ẩn ở Trung Quốc Hãng thông tấn Tân Hoa Xã ngày 6/6 đưa tin, trong những ngày gần đây các địa phương như Sùng Châu, Đại Ấp thuộc địa phận Thành Đô thủ phủ Tứ Xuyên thường xuyên xuất hiện nhiều hố lớn chưa rõ nguyên nhân. Ngày 4/6 trên tuyến đường cao tốc Hoàng Cù, Triết Giang bỗng nhiên sụt lún, đường kính hố rộng 8,3 m, sâu 6m. Ngày 4/6, một chiếc xe hơi đang chạy trên đường Nam Xương, thành phố Nam Xương, Giang Tây bị “sập bẫy”. http://vtc.vn/10-249845/quoc-te/tin-tuc/xu...-trung-quoc.htm
-
Ngờ rằng, loài Người sắp phải đối mặt với biến cố lớn của Thiên nhiên (!!!) Hà Uyên
-
Chào Anh Chị Em trên diễn đàn. Khi tìm hiểu những phương pháp để lập quẻ Dịch, trong MAI HOA DỊCH SỐ của ngài Thiệu Ung, có phương pháp CHIẾT TỰ SỐ. Theo sách "Bí bản trắc tự toàn thư", ngài Tự Thạch đã nổi danh thiên hạ về khoa Chiết tự. Chữ Quốc ngữ VN có thể xây dựng nên phương pháp Chiết tự này. Tham khảo từ Nguồn: Dichminh.co.cc, được xây dựng Chiết tự số như sau: A : 3 nét ; Ă : 4 nét ; Â : 5 nét B : 3 nét C : 1 nét D : 2 nét ; Đ : 3 nét E : 4 nét ; Ê : 6 nét G : 2 nét ; H : 3 nét I : 1 nét K : 3 nét L : 2 nét M : 4 nét N : 2 nét O : 2 nét Ô : 4 nét Ơ : 3 nét P : 2 nét Q : 3 nét R : 3 nét S : 1 nét T : 2 nét U : 1 nét Ư : 2 nét V : 2 nét X : 2 nét Y : 3 nét Sắc(/) : 1 nét Huyền (\) : 1 nét Hỏi (?) : 2 nét Ngã (~) : 1 nét Nặng (.) : 1 nét Một ví dụ về khoa Chiết tự số tương ứng với chữ Quốc ngữ: Câu thành văn như sau: Trèo lên ngọn cây, thấy mình cao quá, Mọi người ở dưới thấp, nên tự chán. Cụ thể: - "Trèo lên ngọn cây": tổ hợp Chiết tự số làm Ngoại quái - "thấy mình cao quá": tổ hợp Chiết tự số làm Nội quái Thực hiện: - Chữ "Trèo": T = 2, r = 3, e = 4, 0 = 2, dấu "huyền" = 1 => 2 + 3 + 4 + 2 + 1 = 12 - Chữ "lên": l = 2, ê = 6, n = 2 => 2 + 6 + 2 = 10 - Chữ "ngọn": n = 2, g = 2, 0 = 2, n = 2, dấu "nặng" = 1 => 2 + 2 + 2 + 2 + 1 = 9 - Chữ "cây": c = 1, â = 5, y = 3 => 1 + 5 + 3 = 9 Tổ hợp câu "Trèo lên ngọn cây" = 12 + 10 + 9 + 9 = 40 40 / 8 = 5 => được quái Khôn. - Chữ "thấy": t = 2, h = 3, â = 5, y = 3, dấu "sắc" = 1 => 2 + 3 + 5 + 3 + 1 = 17. - Chữ "mình": m = 4, i = 1, n = 2, h = 3, dấu "huyền" = 1 => 4 + 1 + 2 + 3 + 1 = 11 - Chữ "cao": c = 1, a = 3, 0 = 2 => 1 + 3 + 2 = 6 - Chữ "quá": q = 3, u = 1, a = 3, dấu "sắc" = 1 => 3 + 1 + 3 + 1 = 8 Tổ hợp câu: "thấy mình cao quá" = 17 + 11 + 6 + 8 = 42 42 / 8 = 5 dư 2 => được quái Đoài Câu: "Trèo lên ngọn cây, thấy mình cao quá" được quẻ ĐỊA TRẠCH LÂM. Tiếp tục với vế đối là câu: "mọi người ở dưới thấp, nên tự chán", lại phân câu này thành 02 quái: - Chữ "mọi": m = 4, 0 = 2, i = 1, dấu "nặng" = 1 => 4 + 2 + 1 + 1 = 8 - Chữ "người": n = 2, g = 2, ư = 2, ơ = 3, i = 1, dấu "huyền' = 1 => 2 + 2 + 2 + 3 + 1 + 1 = 11 - Chữ "ở": ơ = 3, dấu "hỏi" = 2 => 3 + 2 = 5 - Chữ "dưới": d = 2, ư = 2, ơ = 3, i = 1, dấu "sắc" = 1 => 2 + 2 + 3 + 1 + 1 = 9 - Chữ "thấp": t = 2, h = 3, â = 5, p = 2, dấu "sắc" = 1 => 2 + 3 + 5 + 2 + 1 = 16 Tổ hợp câu: "mọi người ở dưới thấp" = 8 + 11 + 5 + 9 + 16 = 59 59 / 8 = 7 dư 3 => được quái Ly - Chữ "nên": n = 2, ê = 6, n = 2 => 2 + 6 + 2 = 10 - Chữ "tự": t = 2, ư = 2, dấu "nặng" = 1 => 2 + 2 + 1 = 5 - Chữ "chán": c = 1, h = 3, a = 3, n = 2, dấu "sắc" = 1 => 1 + 3 + 3 + 2 + 1 = 10 Tổ hợp câu: "nên tự chán" = 10 + 5 + 10 = 25 25 / 8 = 3 dư 1 => được quái Càn Câu "mọi người ở dưới thấp, nên tự chán" được quẻ HOẢ THIÊN ĐẠI HỮU. - Tượng hai quẻ Lâm thừa Đại hữu: theo Bốc Dịch, động hào 3, 4, 6 - Theo Dịch Lâm được quẻ Lâm chi Đại hữu. Chúng ta tham khảo thêm một phương thức lập quẻ Dịch. Hà Uyên.
-
Nguồn: http://vitinfo.com.vn/MMuctin/Quocte/LA77535/default.html Hàn Quốc chính thức đệ trình vụ chìm tàu lên Hội đồng bảo an VIT - Ngày 04/6, Hàn Quốc đã đệ trình một bức thư chính thức đưa Triều Tiên lên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc vì bị cáo buộc là đã đánh chìm chiếc tàu chiến Cheonan của Hải quân Hàn Quốc. =================== - Ngày tàu chiến Cheonan bị đánh chìm 26/3 dl, là ngày 11/2 al => ngày Ất Hợi. - Ngày chính thức đệ trình là ngày 4/6 dl, là ngày 22/4 al => ngày Ất Dậu. - Tiến trình của Lục Ất đã trải qua gồm 72 ngày (Ất Hợi >> Ất Dậu) - Vận số đã định: Ất hợp Canh chăng (???) Hà Uyên.
-
Chào Amour Bạn đã mở chuyên mục: CÙNG NHAU HỌC LỤC NHÂM, thì Amour nên phát triển theo hướng này, tôi nhận thức được tới đâu, thì chúng ta cùng nhau trao đổi học thuật. Tôi tin rằng, Amour sẽ đánh giá được mức độ sâu rộng của Lục Nhâm. Hà Uyên.
-
Đẩu Thược định số: "Nhất ngũ thất trực như huyền, nhị tứ lục diệc tam nhiên, duy hữu tam tinh cư nhất bộ" - Giáp Kỷ phối ứng: Tử vi - Tham lang - Ất Canh phối ứng: Thiên cơ - Thất sát. - Bính Tân phối ứng: Thái dương - Vũ khúc. - Đinh Nhâm phối ứng: Liêm trinh - Thiên đồng - Mậu Quý phối ứng: Thiên phủ - Thái âm Ví dụ: giờ Thân, ngày Đinh Sửu, 14/04/Canh Dần, được quẻ Phong Thủy Hoán hào 6 động. Quẻ Phong Thủy Hoán, hào 6 => tiếp theo là hào 1 quẻ Trung phu => tiếp theo là hào 2 quẻ Ích => tiếp theo là hào 3 quẻ Gia nhân => tiếp theo là hào 4 quẻ Đồng nhân => tiếp theo là hào 5 quẻ Thuần Ly => hào 6 quẻ Phong => hào 1 quẻ Tiểu quá => hào 2 quẻ Hằng => hào 3 quẻ Giải => hào 4 quẻ Sư => hào 5 quẻ Tập Khảm => hào 6 quẻ Hoán. Diễn giải theo thứ tự số: 1. Hào 6 quẻ Hoán 2. Hào 1 quẻ Trung phu 3. Hào 2 quẻ Ích 4. Hào 3 quẻ Gia nhân 5. Hào 4 quẻ đồng nhân 6. Hào 5 quẻ Thuần Ly 7. Hào 6 quẻ Phong 8. Hào 1 quẻ Tiểu quá 9. Hào 2 quẻ Hằng 10. Hào 3 quẻ Giải 11. Hào 4 quẻ Sư 12. Hào 5 quẻ Tập Khảm 13. Hào 6 quẻ Hoán. Do vậy 1 = 13. Chúng ta gọi quẻ Hoán hào 6, là quẻ số 12 (hoặc số 1), ta có trình tự diễn biến như sau: 1. Hào 1 quẻ Trung phu 2. Hào 2 quẻ Ích 3. Hào 3 quẻ Gia nhân 4. Hào 4 quẻ đồng nhân 5. Hào 5 quẻ Thuần Ly 6. Hào 6 quẻ Phong 7. Hào 1 quẻ Tiểu quá 8. Hào 2 quẻ Hằng 9. Hào 3 quẻ Giải 10. Hào 4 quẻ Sư 11. Hào 5 quẻ Tập Khảm 12. Hào 6 quẻ Hoán. Tháng 4 giờ Tuất, ta tìm được được cung khởi nguyên, như đối với an cung Mệnh của Tử Vi, sau đó ta phối 12 quẻ vừa tính ở trên với 12 cung của lá số, ngày Dương an thuận, ngày Âm an nghịch, theo nguyên tắc: "sổ vãng giả thuận, tri lai giả nghịch". Thêm một cách nhìn, anh chị em tham khảo. Hà Uyên.
-
Chào anh Thiên Sứ Xin chúc mừng anh: LỜI TIÊN TRI đã thành hiện thực. Hà Uyên.
-
Hàn Quốc tham vấn HĐBA vụ chìm tàu Cheonan "Trong khi đó, Tổng thống Mỹ Barack Obama cùng ngày 2/6 tuyên bố sẽ hợp tác với Hàn Quốc buộc Triều Tiên chịu trách nhiệm về vụ chìm tàu Cheonan, trong những ngày tới chính phủ hai nước sẽ tiếp tục tham vấn chặt chẽ về vấn đề này. Các quan chức quốc phòng Mỹ cho biết cuối tuần này Mỹ sẽ đưa ra quyết định về việc cử tàu sân bay USS George Washington chạy bằng năng lượng hạt nhân - một trong những tàu chiến lớn nhất thế giới - tới Hoàng Hải tham gia tập trận với Hàn Quốc về chống tàu ngầm. Giới phân tích cho rằng động thái trên của Washington nhằm gửi tới Bình Nhưỡng thông điệp "Mỹ sẽ bảo vệ Hàn Quốc trong trường hợp cần thiết." Trước đó, Triều Tiên ngày 1/6 cáo buộc Mỹ làm gia tăng căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên. Tờ "Rodong Sinmun" - cơ quan ngôn luận của Đảng Lao động Triều Tiên - nêu rõ Mỹ xem vụ đắm tàu Cheonan là "cơ hội vàng để kích động cuộc chiến tranh Triều Tiên thứ hai," mục tiêu của Washington là "quốc tế hóa các biện pháp trừng phạt chống Triều Tiên và sử dụng Hàn Quốc làm phương tiện để thực hiện chiến lược châu Á của Mỹ"./. http://www.vietnamplus.vn/Home/Han-Quoc-th...nan/20106/47573 Mỹ bổ sung thêm ngân sách chiến tranh và viện trợ http://www.vietnamplus.vn/Home/My-bo-sung-...05/46952.vnplus
-
Chào chị Widlavender Hà Uyên xin gửi tới gia đình chị Widl, cùng chị Widl lời chia buồn. Thành kính phân ưu. Hà Uyên
-
Chào anh Dichnhan Cảm ơn anh có ý kiến về cách diễn ngữ của bài viết, tôi sẽ rút kinh nghiệm. Tôi cũng đang nghĩ về bộ khung dàn bài, nên bắt đầu học Dịch từ đâu: nói về "Kinh" thì là những quy luật thường hằng bất biến, không thay đổi. Còn đối với "Dịch": thì sự ảnh hưởng của yếu tố Lịch sử, từ quá trình hình thành sách Dịch, các học phái chú giải, kết hợp với Học thuyết Tam Huyền của Hình nhi thượng, hoặc Học thuyết Tam giáo, ...v.v... - Ví như, chú giải về quẻ Càn, thì sách: Liệt Tử Dịch chú (NXB Thượng Hải cổ tịch - 1986), có viết: "Thiên hữu thời, Địa hữu lợi", làm căn cứ cho điều kiện tự nhiên khách quan đối với: "Nhân hữu hòa". Nhưng sách Dịch Vỹ chú về Dịch viết: "Bẩm sinh thụ số, ký hữu chế chi giả hĩ, diệc hữu tri chi giả hỹ, tri mệnh kỳ như nhữ hà" (Bẩm sinh thụ số, thì đã chế định rồi, cũng đã biết, biết mệnh để làm gì). - Lại như, trong sách Chu Dịch, khi chúng ta đọc và nghiên cứu, cũng thấy sự ảnh hưởng của Nho giáo độc tôn, mà "Dịch truyện" đã định rõ rằng: "Hình nhi thượng giả, đạo dã". Vậy mà, đối với tôn chỉ của Đạo giáo, khẳng định đề xuất, tại "Hệ từ" viết: "Nhất âm nhất dương chi vị đạo". Như vậy, giữa "Dịch truyện" và "Hệ từ", ta thấy rất rõ sự ảnh hưởng bản chất "Học thuyết", của hai trường phái vào sách Dịch đã rất sâu rộng, mang theo ẩn nghĩa đặc trưng của từng Học thuyết, từng trường phái. Mong được anh Dịchnhan luôn quan tâm, gợi mở, định hướng khi chúng ta cùng nhau học Dịch. Hà Uyên.
-
Chào Amouruniversel Điều mà Tôi lấy làm trở ngại đầu tiên, khi thực hiện phép: cùng một Giờ chiêm nhiều quẻ (Nhất thời đa chiêm pháp) - đó là quy định về Thiên la Địa võng trong môn Lục Nhâm. Cụ thể: - Thiên la tính theo Can ngày chiêm 1. Ngày Giáp thì Thiên la cư Mão thiên bàn, Địa võng tại Dậu thiên bàn. 2. Ngày Ất thì Thiên la tại Tị thiên bàn - Địa võng tại Hợi thiên bàn. 3. Ngày Bính Mậu thì Thiên la tại Ngọ thiên bàn - Địa võng tại Tý thiên bàn ....................... - Địa võng tính theo Chi ngày chiêm: ngày Tý thì Địa võng tại Sửu thiên bàn, ngày Sửu thì Địa võng an tại Dần thiên bàn, ngày Dần tại Mão, ngày Mão tại Thìn, ...v.v. Ví như ngày chiêm là ngày Ất Tị, thì đã gặp quy định về Thiên la Địa võng gây trở ngại cho những quẻ sau tiếp, cùng chiêm trong một giờ vậy. Thân ái.
-
Chào amouruniversel Cảm ơn Amour đã dành thời gian quan tâm. Đối với mục "Nhất thời đa chiêm pháp" - LỤC NHÂM, khi trải nghiệm, thì Amour có thấy vấn đề gì nảy sinh không ? Tức là mức độ tin cậy của thông tin, đối với phương pháp đảo quẻ trong một giờ, có khẳng định được độ tin cậy cho chúng ta không ? Bộ khung của phương pháp này, gợi mở nhiều điều sâu sắc đối với tôi. Khi ứng dụng trải nghiệm, do mức độ nhận thức của bản thân Tôi còn hạn chế, cho nên thông tin mà tôi đọc ra chưa được thống nhất và thiết thực. Khi đọc những bài Amour viết, tôi cảm nhận rằng, Amour đã dành thời gian chuyên sâu vào Lục Nhâm. Mong được chia sẻ với Amour, những kiến thức của tiền nhân, khi mỗi chúng ta, mang ra trải nghiệm thực tiễn. Hà Uyên.
-
Tháng Năm - Nhâm Ngọ: Tuần _Triệt đồng cung 1- Thủ tướng Nhật tuyên bố từ chức VIT -Thủ tướng trung tả Nhật Bản Yukio Hatoyama hôm nay (02/6) đã tuyên bố từ chức trước mặt các nghị sỹ thuộc Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) cầm quyền của ông. 2- Tổng thống Đức bất ngờ từ chức VIT - Trong một thông báo bất ngờ mới đây, Tổng thống Đức Horst Koehler đã tuyên bố từ chức sau khi bị chỉ trích vì liên hệ vấn đề triển khai quân đội ở nước ngoài với những lợi ích kinh tế của quốc gia. http://vitinfo.com.vn/MMuctin/Quocte/LA77361/default.html 3- Bình Nhưỡng tuyên bố sẵn sàng tiến tới đối thoại theo đề tài trương trình hạt nhân, nhưng với hình thức khác "Trong khi đó, Bắc Triều Tiên đòi phải tham gia cuộc đàm phán với tư cách cường quốc hạt nhân,..." http://vietnamese.ruvr.ru/main.php?lng=vie...7.2009&pn=1 4-
-
DƯƠNG ĐỘN 72 CỤC LẬP THÀNH Năm Bính Tý niên hiệu Cảnh Hưng thứ 17. - Cục 1 Thái ất, kế thần ở cung 1, Dần. Thuần dương. Văn xương, thuỷ kích ở cung Khôn, Thân. Địa, Mục, Kích. Chủ 7. Đơn dương. Vô thiên. Khách số 13. Hoà Chủ đại tướng ở cung 7. Khách mục yểm. Khách đại tướng ở cung 3. Phát. Chủ tham tướng ở cung 1. Tù. Khách tham tướng ở cung 9. Cách. - Cục 2 Thái ất ở cung 1. Kế thần ở Sửu. Văn xương ở Dậu, nội cung Bách. Thuỷ kích ở Tuất, Thìn kích. Chủ 6. Bất hoà. Đơn dương. Vô thiên. Khách 1. Đơn dương. Vô thiên. Chủ đại tướng ở cung 6 nội Bách. Khách đại tướng ở cung 1. Tù. Chủ bị hiệp. Chủ tham tướng ở cung 8, ngoại Bách. Khách tham tướng ở cung 3. Phát. -Cục 3 Thái ất ở cung 1 Kế thần ở Tý. Văn xương ở Tuất, ngoại Thìn kích. Thuỷ kích ở Hợi. Chủ 1. Bất hoà. Vô địa. Khách 4, 10. Bất hoà. Chủ đại tướng ở cung 1. Tù. Khách đại tướng ở cung 4. Phát. Chủ tham tướng ở cung 3. Phát. Khách tham tướng ở cung 2. Phát. - Cục 4 Thái ất ở cung 2. Kế thần ở Hợi. Văn xương ở Càn. Thuỷ kích ở Sửu. Chủ 25. Đỗ. Khách 17. Bất hoà. Chủ đại tham tướng ở cung giữa. Đỗ. Khách đại tướng ở cung 7. Ngoại Bách. Khách tham tướng ở cung 1. - Cục 5 Thái ất ở cung 2. Kế thần ở Tuất Văn xương ở Càn. Thuỷ kích ở Dần. Chủ 25. Đỗ. Khách 10, 4. Hoà. Chủ đại tham tướng ở cung giữa. Đỗ. Khách đại tướng ở cung 4. Phát. Khách tham tướng ở cung 2. Tù. - Cục 6 Thái ất ở cung 2. Kế thần ở Dậu. Văn xương ở Hợi. Thuỷ kích ở Thìn. Chủ 25. Đỗ. Khách 10. Cô dương. Vô thiên. Chủ đại tham tướng ở cung giữa. Đỗ. Khách đại tướng ở cung 1. Phát. Khách tham tướng ở cung 3. Phát. - Cục 7 Thái ất ở cung 3. Kế thần ở Thân. Văn xương ở Tý, nội cung Bách. Thuỷ kích ở Tị. Chủ 8, bất hoà. Khách 35. Đỗ. Chủ đại tướng ở cung 8. Khách đại tham tướng ở cung giữa. Đỗ. Chủ tham tướng ở cung 4. Ngoại Bách. - Cục 8 Thái ất ở cung 3. Kế thần ở Mùi. Văn xương ở Mùi bị Thìn Bách. Thuỷ kích ở Khôn. Chủ 1. Đơn dương. Vô địa. Khách 22. Trường hoà. Chủ đại tướng ở cung 1. Khách đại tướng ở cung 2. Chủ tham tướng ở cung 3. Tù. Khách tham tướng ở cung 6. Phát. - Cục 9 Thái ất ở cung 3 Kế thần ở Ngọ. Văn xương ở Cấn. Thuỷ kích ở Dậu. Chủ 3. Bất hoà. Đơn dương. Vô địa. Khách 15. Đỗ. Chủ đại tướng ở cung 3. Tù. Khách đại tham tướng ở cung giữa. Đỗ. Chủ tham tướng ở cung 9. Phát. - Cục 10 Thái ất ở cung 4. Kế thần ở Tị. Văn xương ở Dần, Thìn Bách. Thuỷ kích ở Càn. Chủ 1. Đơn dương. Vô thiên. Khách 12. Hoà. Vô địa. Chủ đại tướng ở cung 2. Yểm thuỷ kích. Khách đại tướng ở cung 2. Phát. Chủ tham tướng ở cung 3. Tù. Bách. Khách tham tướng ở cung 6. Cách. - Cục 11 (Năm Bính Tuất niên hiệu Cảnh Hưng thứ 27) Thái ất ở cung 4 Kế thần ở Thìn. Văn xương ở Mão. Thuỷ kích ở Sửu. Chủ 4. Bất hoà. Đơn âm. Vô địa. Khách 4. Bất hoà. Chủ đại tướng ở cung 4. Tù. Khách đại tướng ở cung 4. Tù gặp Quan. Chủ tham tướng ở cung 2. Phát. Khách tham tướng ở cung 2. Gặp Quan. - Cục 12 Thái ất ở cung 4. Kế thần ở Mão. Văn xương ở Thìn. Ngoại Thìn Bách. Thuỷ kích ở Dần. Chủ 37. Trường hoà. Đủ tập hợp số trùng dương. Khách 1. Đơn dương. Chủ đại tướng ở cung 7. Chủ tham tướng ở cung 1. Quan, Phát. Khách đại tướng ở cung 1. Phát. Khách tham tướng ở cung 3. Nội Bách.
-
TƯ LIỆU THƯỜNG DÙNG TRONG TÍNH TOÁN THÁI ẤT 1- Các con số: Đơn dương là các số 1, 3, 7, 9 Đơn âm là các số 2, 4, 6, 8 Cô dương là các số 10, 30 Cô âm là các số 20, 40 Trùng dương gồm 2 số đơn dương và cô dương hợp lại Trùng âm gồm 2 số đơn âm và cô âm hợp lại. Chủ về Tướng quân, số tính được 10 Chủ về Lại Sỹ, số tính được 5 Chủ về quân lính, số tính được 1 2- Các con số quan hệ với Thái ất và Thiên mục, Địa mục. Cung dương: Thái ất ở các cung 3, 8, 4, 9 Thiên mục, Địa mục ở các Thần vị: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Cung âm: Thái ất đóng các cung 1, 6, 2, 7 Thiên mục, Địa mục đóng các cung gián thần vị: Dần, Thân, Tị, Hợi, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Số lẻ: các số 1, 3, 5, 7 Số chẵn: các số 2, 4, 6, 8 Trùng dương: Thái ất ở các cung 3, 8, 4, 9 mà tính được các số 1, 3, 5, 7 là trùng dương. Nguyên tắc tính: Các cặp số quá 60, đều chia cho 60 và tính số dư: 31, -81, -41, -91, -13, -33, -53, -73 33, -83, -43, -93, -18, -38, -58, -78 35, -85, -45, -95, -14, -34, -54, -74 37, -87, -47, -97, -19, -39, -59, -79. Theo nguyên tắc tính nói trên, các cặp số còn lại là 13 31 39 41 53 18 33 35 43 58 14 38 37 45 54 19 34 47 59 Trùng âm: Thái ất ở các cung 1, 6, 2, 7 mà tính được các số 2, 4, 6, 8 là trùng âm. Ta có các cặp số như sau: 12 62 22 72 21 41 61 81 14 64 24 74 26 46 66 86 16 66 26 76 22 42 62 82 18 68 28 78 27 47 67 87 Cũng theo nguyên tắc tính nói trên, các cặp số còn lại là: 2 12 22 31 41 4 14 24 32 42 6 16 26 36 46 7 18 28 37 47 21 27 Thuần dương: nhị mục ở số 3, 9 gặp cung Dần, Thìn Tạp dương: nhị mục ở số 4, 8 gặp cung Sửu, Tị Thuần âm: nhị mục ở số 2, 6 gặp cung Hợi Mùi Tạp âm: nhị mục số 1, 7 gặp cung Thân, Tuất. Trùng dương: Nhị mục các số 33, 39 tính được là trùng dương. Trùng âm: Nhị mục các số 22, 26 tính được là trùng âm Tạp trùng dương: Thái ất, Thiên mục ở cung dương. Số tính được 19, 13, 31, 37. Tạp trùng âm: Thái ất, Thiên mục đóng cung âm. Số tính được 24, 28 là tạp trùng âm. Dương ở trong âm: Thái ất, Thiên mục ở cung âm mà số tính được 11, 17 Hoà: Thái ất, Nhị mục đóng cung dương, tính được số chẵn; đóng ở cung âm, tính được số lẻ. Bất hoà: Thái ất, Nhị mục ở các cung âm mà tính được số chẵn. Thái ất, Nhị mục đóng cung dương mà tính được số lẻ. Thắng: số tính được nhiều và hoà. Bại: số tính được ít và bất hoà. Dịch khí: Cung là Yểm, gặp cung 2, cung 8. Tuyệt khí: Cung là Yểm, gặp cung 4, cung 6. Tuyệt âm: Cung là Yểm, gặp cung 9. Tuyệt dương: Cung là Yểm, gặp cung 1. Thần kích: Kích gặp Thần vị. Cung kích: Kích gặp Gián thần vị Nội: từ Càn đến Thìn (còn 1 nghĩa nữa đứng sau là trong). Ngoại: từ Tốn đến Tuất (còn 1 nghĩa nữa đứng trước là ngoài) Thiên nội: Thái ất đóng các cung 1, 8, 3, 4. Là trợ chủ. Thiên ngoại: Thái ất đóng các cung 2, 9, 6, 7. Là trợ khách Yểm: Thuỷ kích đồng cung với Thái ất. Bách: Nhị mục, Tứ tướng và Kế mục ở bên phải, bên trái cung Thái ất đóng. Nội bách: bên trong, cùng họ, Hậu phi hai lòng, âm mưu phản nghịch. Ngoại bách: bên ngoài âm mưu xâm lấn. Minh bách: ở đằng trước cung Thái ất Ám bách: ở đằng sau cung Thái ất. Tướng phát: Đại tướng, Tiểu tướng không tương quan. Văn xương không bị Tù Bách, Thủy kích không bị Yểm kích. Quan: chủ khách Đại tướng, Tiểu tướng đồng cung. Tù: Văn xương, Thái ất đồng cung. Kích: Thuỷ kích đóng bên phải, bên trái cung Thái ất. Cách: Khách mục, Đại tướng, Tiểu tướng cùng đối xung với Thái ất. Đối: chủ mục đối xung với cung Thái ất. Đề hiệp: Chủ mục, Khách mục cùng 2 tướng hoặc 1 tướng hiệp cùng Thái ất. Chủ mục, khách mục cùng hai Đại tiểu tướng ở cung Chính (Thần vị); ấy là Đề hiệp. Chủ khách hai tướng cùng Thái ất hiệp Nhị mục ở gián thần vị là Hiệp quan. Chấp đề: Thái ất hợp cùng 2 cửa Khai, Sinh. Đề cách: Thái ất xung với 2 cửa Khai, Sinh. Chủ khách Đại tiểu tướng ở cửa Sinh đến xung cách là dữ Tứ quách cố: Văn xương gặp Tù ở cung Thái ất Chủ đại, tiểu tướng lại cùng gặp Quan hoặc có Thuỷ kích. Hoặc khách Đâị tiểu tướng tương quan; hoặc cùng chủ Đại Tiểu Tướng gặp Quan. Tứ quách đỗ: Có khách Tham tướng, Văn xương cùng có mặt. Chủ tham tướng cùng khách đại tướng gặp Quan; có cả Yểm, Bách, Quan, Cách. 3- Bát môn và các số trường hoà, bất trường: Tam cát môn: Ba cửa lành là Khai, Hưu, Sinh. Thái ất, Thiên mục đóng cát môn là tốt. Hai cửa không đủ: Thái ất, Thiên mục đóng ở dưới cửa Khai và Sinh. Ba cửa không đủ: Thái ất, Thiên mục đóng ở dưới cửa Hưu. Trường hoà: Chủ khách toán số 16 trở lên. Bất trường: chủ khách toán dưới số 16. Bất cư: (không đủ). Chủ khách toán từ số 9 trở xuống. Số vô thiên: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. Số vô địa: 11, 12, 13, 14, 21, 22, 23, 24, 31, 32, 33, 34. Số vô nhân: 10, 20, 30, 40. Số thượng hoà: 14, 18. Số thứ hoà: 23, 29, 32, 36. Số hạ hoà: 12, 16, 21, 27, 34, 38 Số trùng dương trong âm: 11, 17 Số trùng âm trong dương: 24, 28.
-
KINH NGHIỆM TÍNH TOÁN THÁI ẤT I.Xem tuế kế 1. Tính từ thượng cổ, năm Giáp Tý đời Thiên Hoàng, đến năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị thứ 13 triều Lê (Mậu Ngọ 1558 – 1571). Số tích niên là 10.155.487 năm -Thái ất vào nguyên Canh Tý. Cục 31 -Thái ất ở cung 3 Cấn -Chủ đại tướng ở cung 3. Tù (đồng cung với Thái ất) -Thiên mục Văn xương ở cung 9 Tốn -Chủ tham tướng ở cung 9 Tốn (đồng cung với Văn xương) -Thủy kích ở Tuất, chủ về âm -Khách đại tướng ở cung 1. Phát -Kế thần ở cung Thân -Khách tham tướng ở cung 3. Tù -Chủ toán: 3, 10, 3. Trùng dương. Vô địa -Khách toán: 10. Cô dương Cục này, Thái ất thuộc Lý thiên (lẻ 1), chủ về trời hạn Nội giúp chủ (cung 1, 8, 3, 4 là nội trợ). Chủ về phương Nam có binh khởi. Văn xương ở ngoài, có thể đánh vào trong (cung 2, 9, 6, 7 là ngoại) Chủ toán là số lẻ. Chủ về không nên làm việc lớn. Chủ đại tướng Tù. Có việc vỡ đổ, thương vong, bỏ chạy và thất bại. Nếu cứ làm sẽ không lợi. Chủ tham tướng, Quan. Chịu sự khắc chế của Văn xương. Các quan văn, võ nên kiêng kỵ; phải đề phòng, chuẩn bị đối phó việc xấu nảy sinh (gần thì ngay trước mắt đại tướng). Âm mưu phát sinh từ đám quân quan. Nếu cứ làm sẽ bất lợi. Thủy kích ở Tuất là thổ. Các năm Canh được mùa và yên vui, mùa hạ có nước lớn. Đến vùng sao khuê, bầy tôi làm điều phản nghịch. Đến vùng sao lâu, núi rừng có giặc nổi dậy. Đường không thong Về khách toán là âm dương bất hòa. Không nên cất quân Khách đại tướng phát Khách tham tướng Tù Chủ đại tướng Quan Các quan văn, võ phải kiêng kỵ (Năm ấy Thái vương mất, các tướng làm phản) Tuấn Đức hầu lập Thành Tô. Quân Mạc nhân đó cử đại binh vào quấy phá; sau cũng bị đánh lui ............................... 2. Tính từ năm Giáp Tý thời thượng cổ đến năm Nhâm Thìn niên hiệu Quang Hưng thứ 15 triều Lê (Năm Mậu Dần 1587 – 1599), số tích niên là 1.155.509 năm -Thái ất ở nguyên Canh Tý. Cục 53 -Thái ất ở cung 2 Ly -Chủ đại tướng ở cung 8 Khảm -Thiên mục Văn xương ở cung 7 Khôn -Chủ tham tướng ở cung 4 Chấn. Phát -Thủy kích ở Hợi là Đại nghĩa -Khách Đại tướng, khách tham tướng ở trung cung -Kế thần ở Tuất -Chủ toán là 3, 10, 8. Trường hòa -Khách toán là 2, 10, 5. Đỗ .................................... 3. Tính đến năm Kỷ Hợi, niên hiệu Quang Hưng thứ 22 triều Lê, số tích niên là 10.155.516 năm Thái ất đi vào kỷ nguyên năm Canh Tý. Cục 60 Thái ất ở cung 4 Chấn Chủ đại tướng ở cung 2. Phát Thiên mục văn xương ở Hợi. Đại nghĩa. Khách đại tướng ở cung 3. Bách Thủy kích ở Tuất. Chủ âm. Khách tham tướng ở cung 9. Bách Kế thần ở Mão, tù. Chủ tham tướng ở cung 6 Chủ 10, 2. Hạ hòa. Vô địa Khách 10, 2. Tạp trùng dương. Cục này Thái ất giúp cho chủ. Chủ là hòa. Bát môn đủ. Tướng phát. Bát môn khai thong. Cất quân đều thành. Đánh không trận nào không thắng. Thủy kích ở Tuất thổ. Năm Tị cung giữa có lo âu Lâm vào vùng sao Khuê, kẻ bề tôi dưới làm điều ác Đến vùng sao Lâu, giặc núi nổi lên, đường đi không thong Khách đại tướng bên trong bức bách Thái ất Khách tham tướng bên ngoài cũng bức bách Thái ất là cùng nhau mưu nghịch. Đại thần trái lệnh vua. Thái tuế ở sau Thái ất, gặp năm âm, tai họa hiểm sâu. Xét về khách là tạp; trùng dương là xấu Đại tướng, tiểu tướng bách là bất lợi Thái ất tuy gặp hai tướng khách Đề hiệp, nhưng ở cung 4 là nội, còn có thể chống đỡ. Chủ thắng, khách bại Năm ấy thành tổ nhân phong phương vị. Đến mùa thu, thế tổ mất. Bỏ thái tử lập con thứ. Năm sau, đại tướng Nguyên Hoàng đi Nam, Phan Ngạn và Bùi Văn Khê làm phản. Xa giá phải chạy sang phía Tây. Hai giặt trên rồi cũng bị bại vong. .................................. 4. Năm Giáp Thân, niên hiệu Phúc Thái thứ 2 triều Lê (năm Quý Mùi 1643 – 1649). Số tích niên là 10.155.561 năm Thái ất đi vào kỷ nguyên Nhâm Tý. Cục 33 Thái ất ở cung 3 Cấn Chủ đại tướng ở cung 4. Ngoại bách, khách hiệp Thiên mục văn xương ở cung 2 Ly Khách đại tướng ở cung 3. Tù Kế thần ở Ngọ Chủ địa tướng ở cung 2. Phát Thủy kích ở Cấn. Hòa đức. Yểm. Kích Khách tham tướng ở cung 9. Hiệp chủ Chủ: 2, 10, 4. Mưu. Dương. Vô địa Khách: đơn 3. Đơn dương. Vô thiên Cục này tính về khách và Thái ất thấy cùng ở 1 cung là Quan, Tù; có biểu tượng tranh giành, lấn át lẫn nhau Khách đại tướng phạm Thái ất. Dưới phạm trên có họa bôn tẩu, bại vong, thoán đoạt, phản nghịch. Các quan văn, võ đều ko lợi. Thủy kích vào cung Thái ất là yểm. Âm thịnh dương suy, cương kỷ nhà vua mất mối dường. Vua yếu, bầy tôi mạnh. Thân chết, nước mất. Yểm có ý nghĩa tụ tập, cướp giết. Ở cung 3 là chủ thắng khách. Khách đại tướng bị yểm, khách cũng bị bại Thủy kích ở cấn thổ. Năm Giáp, cung trung đông Thái ất bị yểm, bầy tôi ở dưới âm mưu thoán đoạt bề trên. Phương Sửu cấn Dần (Đông Bắc) không bằng phương Nam khách hai tướng hiệp chủ đại tướng. Chủ hai tướng cũng hiệp khách tham tướng Chủ khách đều bất lợi. Hai bên hiệp lẫn nhau là hai bên đối địch, đều mưu chống nhau. Chủ là trường. Khách là đoản; cuối cùng, giặc tự bại. Tính ra thấy: Vô thiên, Quan, Tù, Yểm, Bách; và âm dương bất hòa thì trời có biến đổi lớn Tính ra thấy: Vô địa; đất có thay đổi khách thường nhân dân cấu xé lẫn nhau Thái ất ở cung 3 là giúp chủ, đối phó lại sau là thắng. Năm ấy nước ta đem quân đánh Thuận Hóa, lúc quân về, vua Thần Tôn nhà Lê (làm vua lần hai 1649 – 1652) nhường ngôi. Vua Chân Tôn mới được lập; trong nước vô sự Ngũ phúc từ năm Giáp Tý niên hiệu Thiên Khải năm thứ ba vào cung Cấn, Sửu, Dần đã là 21 năm. Quân cơ kể từ niên hiệu Sùng Trinh năm thứ 14 vào Sửu đã 4 năm. Thần cơ năm ấy vào Tý; đó là cung Tý, Sửu, Dần, địa phận Đông Bắc, có bậc vương giả hưng. Thủy kích vào cấn, là bỏ cũ thay mới. Trực phù vào Thìn Tứ thần vào Tý Thiên ất vào Tị Địa ất vào Thân Loạn lạc, mất mùa, hạn, tai họa rất nhiều. Hạ nguyên, vận giữa tai hại nặng. ................................ 5. Năm Ất Dậu, niên hiệu Phúc Thái thứ ba Triều Lê (năm Quý Mùi 1643 – 1649) thêm 1, tính là cục 34. Thái ất ở cung 4 chấn Chủ đại tướng ở cung 6. Cách Thiên mục Văn xương ở Mùi. Thiên đạo Khách đại tướng ở cung 4. Tù Thủy kích ở Mão. Cao tùng. Yểm. Kích. Chủ tham tướng ở cung 8. Phát Kế thần ở Tị Khách tham tướng ở cung 2. Phát Chủ: 2, 10, 6. Trường hòa Khách: đơn 4. Đơn âm, vô địa Cục này tính về khách cũng thấy cùng ở một cung với Thái ất là Quan, Tù. Có biểu tượng lấn áp, bức bách. Thủy kích cũng yểm, bách Thái ất; nhưng Thái ất ở cung 4 là trợ chủ. Chủ trường hòa, khí thuận là lành. Đại tướng tuy gặp Cách, mà tham tướng Phát, cho nên lợi cho chủ. Chủ cách, khách quan. Chiến đấu thì chủ thắng khách. Đại tù, bất lợi là khách. Thái ất cùng thủy kích, khách đại tướng cùng ở cung 4 là tuyệt khí; hung họa khá nặng, có biểu tượng diệt cũ thay mới. Phía Đông Nam phải kiêng kỵ Thủy kích ở Mão mộc. Năm ất, phía đông binh loạn, được mùa. Năm ấy, Trịnh Tùng mới mở phủ Tiết chế. Phù quận công và Hoa quận công Hoàng Ngũ Phúc mưu làm loạn. Phù tiết chế biết trước, dẹp yên được. Bởi ở thời an cư, cử binh trước là chủ; ở thời nhất thống cũng lấy đất vua làm chủ mà giặc nhỏ là khách. Chủ toán trường, khách toán đoản. Thủy kích yểm, Thái ất tù. Giặc họ Lý, họ Trương lần lượt dẹp yên. .............................. 6. Năm Giáp Tý, niên hiệu chính hòa thứ năm triều Lê (năm Canh Thân 1680 – 1705). Số tích niên là 10.155.601 năm. Thái ất 1 ở càn là Lý thiên. Năm Giáp Tý bắt đầu thượng nguyên, kỷ thứ nhất. Thái ất vào nguyên Giáp Tý, cục 1. Thái ất ở cung 1 càn. Chủ đại tướng ở cung 7 khôn. Khách mục yểm Văn xương ở Thân. Vũ đức, địa mục kích. Khách đại tướng ở cung 3 phát. Thủy kích ở Khôn, Đại vũ, yểm chủ đại tướng. Chủ tham tướng ở cung 1. Tù Kế thần ở Dần Khách tham tướng ở cung 9. Cách Chủ 7. Đơn dương. Vô thiên Khách 13. Trường hòa. Cục này Thái ất trợ khách. Khách trường hòa, cửa đủ, tướng phát. An cư, hành động sau có lợi. 1 là cung hòa thì thiên hạ thanh bình, an thịnh. Chủ đại tướng yểm; chủ tham tướng Tù, bất lợi cho thượng công và thượng tướng. Khách đại tướng phát. Công khách tan, nha môn khởi dụng. (Ngũ phúc từ năm Kỷ Dậu, niên hiệu Cảnh Trị thứ 7 đi vào Tốn, năm Quý Mão 1663 – 1671) Quân cơ năm Tân Hợi, niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 9 đi vào Dần. Thần cơ năm ấy đi vào Sửu Dân cơ năm ấy đi vào Thân Là cát tinh lâm chiếu; bốn phương an tĩnh, vô sự ............................ 7. Năm Nhâm Tý, niên hiệu Vĩnh Khánh thứ tư triều Lê (năm Kỷ Dậu 1729 – 1732). Số tích niên là 10.155.649 năm. Thái ất đi vào nguyên Giáp Tý cục 49. Thái ất ở cung 1 càn Chủ đại tướng ở cung 4. Phát Văn xương ở cung 9. Tốn Chủ tham tướng ở cung 2. Phát Thủy kích ở cung Thìn. Thái dương Khách đại tướng, khách tham tướng ở cung giữa Kế thần ở Dần Chủ: 2, 10, 4. Trường hòa. Tạp trùng âm Khách: 2, 10, 5. Môn: Đỗ Cục này Thái ất ở cung âm (2, 7, 6, 1 là âm; 8, 3, 4, 9 là dương) Chủ toán được tạp trùng âm. Tai vạ lạ lùng, chủ về việc trong ngoài có lập mưu. Tính được hòa nhiều là thắng. Thái ất đúng cung 1 là tuyệt dương. Văn xương đúng cung 9 là tuyệt âm. Kẻ bề tôi hung dữ nên bị giết. Văn xương và Thái ất cùng trông nhau là Cách. Trên dưới, đổi đời. 1 – 9 cũng đối nhau là có tai họa Phụ tướng phải đương đầu Quân cơ từ năm Tân Hợi vào cung Thìn vừa được hai năm. Năm ấy, Thủy kích cũng ở đồng cung là biến đổi. Thần cơ vào cung Tị, cùng cung với Văn xương, lại là Thủy kích bức bách công kích. Năm ấy phế Hôn đức công Lê Dung Phương (hiệu Khánh Đức), Thuần Tôn lên ngôi. Các tướng cùng bị tội giết. Cung 1 càn – Hợi là Giao Châu. Cung 9 tốn – Tị, sao Chẩn, dư khí. ...................... 8. Năm Kỷ Mùi, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 5 triều Lê (năm Ất Mão 1735 – 1740). Số tích niên là 10.155.656 năm. Thái ất đi vào nguyên Giáp Tý. Cục 56 Thái ất ở cung 3 cấn Khách đại tướng ở cung 4. Bách Văn xương ở cung 6 Dậu Chủ đại tướng, chủ tham tướng ở cung giữa Thủy kích ở Thìn, Thái dương Khách tham tướng ở cung 2. Phát Kế thần ở Mùi Chủ: 10, 5. Môn: Đỗ Khách: 3, 10, 4. Hạ hòa Cục này, thủy kích yểm, bách Văn xương tù, hiệp Nhưng chủ là Đỗ tắc thì không cửa nào là không lợi Khách trường hòa, ngoài bức bách Thái ất, bầy tôi có âm mưu; hòa là mưu thành. Thủy kích là thổ, gặp năm Tị, trung cung biến là nước dâng, núi lở động đất. Cũng tương tự, lấy đất của vua, là chủ, giặc giã trộm cướp là khách. Thái ất ở thiên nội là trợ chủ; không nên khởi trước nên ứng phó sau thì tốt. Khách đại tướng bách Khách tham tướng phát, vượng. Tù khí cũng bất lợi. Năm ấy, dân cơ vào cung Mão, Địa cơ vào cung Thìn. Hai khách đại, khách tù cùng cung Mão là dân dưới làm phản, giặc giã nổi lên ở phương Đông Nam. ................................................... 9. Năm Ất Mão, năm Dần niên hiệu Vĩnh Hựu triều Lê (1735 – 1740). Số tích niên là 10.155.652 năm. Thái ất đi vào ky nguyên Giáp Tý. Cục 52 Thái ất ở cung 2 ly Chủ đại tướng ở cung 9. Nội bách Văn xương ở Mùi. Thiên đạo. Bách Khách đại tướng ở cung 1. Phát Thủy kích ở Dậu. Thái thốc. Chủ tham tướng ở cung 7. Hiệp. Ngoại bách Kế thần ở Hợi Khách tham tướng ở cung 3. Phát Chủ: 3, 10, 9. Trùng dương Khách: 3, 10, 1. Tạp trùng dương. Hòa Cục này chủ đại tướng, chủ tiểu tướng bức bách Thái ất. Ngoại bách là đại thần trái lệnh vua. Nội bách là người cùng họ mưu nghịch, nội thần có hai long. Cung bức bách là tai biến đến chậm Văn xương bên ngoài bức bách Thái ất cũng là đại thần nghịch mệnh. Thần bức bách là tai biến đến gấp Tiểu tướng ép buộc Thái ất là bầy tôi ở dưới chuyên quyền. Xem được quẻ thuần dương là có điều hung dữ về vua bạo ngược. Thái ất ở cung thứ 2 là khí dịch bệnh. Xem quẻ lại được trùng dương là thứ hung dữ vừa, chủ về việc trong ngoài có lập mưu, bỏ cũ thay mới. Thủy kích ở kim là phía Tây có dấy binh, nước bên Đông bị bại vong Xem quẻ khách được hòa, cửa đủ, tướng phát Thái ất trợ khách nên an cư, hành động sau là đại lợi (năm ấy vua Thần Tôn mất, Thái tử không được lập, lập em là vua Ý Tôn. Vài năm sau, hoàng thượng lại chính ngôi; đó là sự nghiệm về hành động sau là tốt. Tính về khách thấy hòa, tướng phát, cho nên năm sau Nghị tổ cũng mở Phủ Nhiếp Chính. Hành động sau thuận hòa là như vậy. Bấy giờ, bọn thân tín chuyên quyền Hoàng tông không được an vui. Hoài phản trắc. Vài năm sau có loạn Duy Chúc, Duy Mật) ............................. 10. Năm Canh Thân, năm đầu niên hiệu Cảnh Hưng triều Lê (1740 – 1786), thêm 1 để tính là Thái ất đi vào nguyên Giáp Tý, cục 57 Thái ất ở cung 3 cấn Chủ đại tướng ở cung 1. Phát Văn xương ở Tuất, âm thổ Chủ tham tướng ở cung 3. Tù Thủy kích ở Tị. Đại thần Khách đại tướng, khách tham tướng ở cung giữa Kế thần ở Ngọ Chủ 10. Cô dương. Vô nhân. Hòa Khách 2, 10, 5. Môn Đỗ Cục này, Thái ất là Lý nhân được quẻ Vô nhân. Chủ tham tướng, Tù là người có biến đổi. Khẩu thiệt, yêu ma, giả trá, trộm cướp, giặc giã, binh đao, dịch bệnh, lưu tán, di chuyển, đói rét, mất mùa, tàn hại. Mừng là Thái ất ở cung dương. Tính được 10. Số chẵn, hòa: là tai biến nhẹ bớt Thái ất tính được dư 3, là việc liên quan đến tôn miếu. Hòa là tốt cho tôn thân Chủ 10, là có biến ở lớp người thường. Thái ất trợ chủ. Đại tướng phát. Chủ thắng, hành động sau là lợi. Khách đỗ tắc không cửa nào là không lợi Ở thời yên cư, lấy vua, thiên hạ làm chủ, giặc giã, trộm cướp là khách. Thủy kích ở Hỏa, gặp năm Canh là phía Nam có binh động, trong nước có hòa bại, năm hạn hán Quân cơ từ năm Tân Hợi đã vào cung Thìn, đến năm ấy là 10 năm Dân cơ cũng ở Thìn Thần cơ ở Thân Ngũ phúc tự năm Giáp Thân đời vua Vĩnh Thịnh triều Lê (năm Ất Dậu 1705 – 1719) vào Mùi khôn Thân; đến năm ấy là 27 năm Địa ất cũng ở Thìn Tứ thần cùng ở Thân Phương Tây Nam có dư khí Ngũ phúc tới thì tai ương giảm, phúc lộc lớn; cho nên hai xứ Nghệ An, Thanh Hóa được an ninh. Thần cơ cũng thế, bầy tôi có phúc. Tuy tứ thần chủ về việc binh, lụt, hạn nhưng cũng vì thế được giảm nhẹ. Năm ấy, Vương thượng ngự chính, Hoàng thượng nối ngôi vua. Lòng người mừng lớn. Trộm cướp, giặc giã đều tan. Đó là sự nghiêm về chủ thắng, tướng phát. Tính được vô nhân, cho nên năm sau dịch bệnh lớn, nhân khẩu hao tổn. .................................. 11. Năm Tân Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 2 (năm Canh Thân 1740 – 1786), thêm 1 để tính Thái ất đi vào cục 58 Thái ất ở cung 4 chấn Chủ đại tướng ở cung 2 phát Văn xương ở cung 1 càn Khách đại tướng ở cung 6. Cách Thủy kích ở Mùi. Thiên đạo Chủ tham tướng ở cung 6. Cách Kế thần ở Tị Khách tham tướng ở cung 8. Phát Chủ 10, 2. Hạ hòa. Vô địa. Khách 2, 10, 6. Trung hòa Cục này Thái ất Lý thiên, tính được vô địa Cung 4 tuyệt khí, chủ về đất có biến đổi khác Thường, sâu bệnh. Nhân dân cấu xé lẫn nhau. Nhưng tính được trung hòa, hạ hòa là thiên hạ ngừng binh, chín cõi yên ổn Khách đại tướng, chủ tham tướng cùng Thái ất trông nhau là Cách, nghĩa là cơ sự đổi thay, xê dịch. Chủ khách đại tướng, tiểu tướng cùng ở một cung là Quan, cùng nhau đề phòng. Thái ất ở cung 4 là Thiên Hội, trợ chủ; chủ nhân thắng Hai phép tính đều có chữ hòa; kẻ địch phải hàng phục Chủ đại tướng chịu khách mục ở Thìn kích, lại nhận Tù khí, nên chưa phải là toàn lợi. Thủy kích ở thổ; năm Tân, Trung Quốc binh dấy. Dân được mùa, thóc đắt, mùa hè nước lớn. Năm ấy trộm cướp dẹp yên, thiên hạ bị dịch lớn, người chết rất nhiều. .................................................. 12. Năm Giáp Tý, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 5 triều Lê, thêm 3 để tính là Thái ất đi vào trung nguyên kỷ thứ hai, nguyên Giáp Tý. Cục 61 Thái ất ở cung 6. Đoài Chủ đại tướng ở cung 3. Phát Văn xương ở cung 8. Khảm Khách đại tướng ở cung 4. Cách Thủy kích ở Hợi. Đại nghĩa Chủ tham tướng ở cung 9. Khách hiệp Kế thần ở Dần. Khách tham tướng ở cung 2 Ly Chủ: 3, 10, 2. Thuần dương. Vô địa Khách: 3, 10, 4. Hạ hòa. Đủ Cục này, chủ là trường hòa. Đại tướng phát. Lợi chủ, lợi ở hành động sau. Chủ tham tướng tuy là khách hiệp, nhưng trái lại, cùng chủ đại tướng hiệp. Khách đại tướng cách, không lợi cho hành động trước Khách tính được nhiều. Thái ất trợ khách. Chủ nhân chưa thể đắt chí. Thủy kích ở thủy, năm Giáp sợ phương Bắc khởi binh, hòa thì lại hòa thân. Năm ấy, Trực phù vào cung Hợi, cùng cung với Thủy kích. Tứ thần vào Tuất, Hợi là gặp gián cung. Giặc giã nổi lên dữ, sai tướng đánh dẹp, mấy lần bị thua. Đó là nghiệm ứng về sự hành động trước. Chủ đại tướng phát. Tính được hòa, nên cuối cùng lại cất quân thì toàn thắng. ................................................................... 13. Năm Canh Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 11. Thêm 6 để tính là Thái ất đi vào cục 64 Thái ất ở cung 8. Khảm Chủ đại tướng, chủ tham tướng ở cung giữa Văn xương ở cung 9 Tốn Khách đại tướng ở cung 2 Ly, Cách Thủy kích ở Tuất, âm chủ Khách tham tướng ở cung 6. Phát Kế thần ở Thân Chủ: 2, 10, 5. Môn: Đỗ Khách 2. Đơn âm. Vô địa Cục này, chủ tính ra là Đỗ tắc khởi sự sau là xấu, không thể lấy chuyện an cư mà bàn Thái ất trợ khách. Khách tính được hòa Tham tướng phát. Có thể cất quân chinh phạt, khởi động trước là tốt. Năm ấy dẹp xong, các giặc vùng Đông Bắc, mùa đông, xa giá đi đánh phương Tây. Năm sau lại Bình xong ngụy Canh. Các tướng cũng bắt được Ngụy cầu ở Nghệ An Đó là nghiệm về sự khởi động trước. Khách tính được 2, gọi là lược địa. Khách được thì khách lợi. Có thể là ứng về sự hành động trước. ................................... 14. Năm Tân Mùi, niên hiệu Cảnh Hương thứ 12. Thêm 1 để tính,là Thái ất đi vào cục 68 Thái ất ở cung 8. Khảm Chủ đại tướng ở cung 7 Khôn. Phát Văn xương ở Tị, Đại thần Khách đại tướng ở cung 8 Khảm. Tù. Bị yểm Thủy kích ở Tý. Địa chủ Tham tướng ở cung 1. Bách Kế thần ở Mùi Khách tham tướng ở cung 4 chấn. Phát Chủ 10, 7 trong âm có trung dương. Trường hòa Khách: 8. Đơn dương. Vô thiên Cục này, Thái ất lý thiên. Khách: vô thiên, lại trùng dương là bị hạn hán. Chủ 7 là tam tài đầy đủ. Nước có điều lành, dân yên, mùa được. Thái ất trợ chủ. Chủ trường hòa, đại tướng phát. Lợi chủ, lợi về hành động sau. Khách đoản, Thiên mục yểm, đại tướng Tù. Khách bất lợi. Điềm quân nhà vua toàn thắng, giặc cỏ bị tiêu trừ. Thủy kích yểm Thái ất, điềm âm thịnh dương suy Năm ấy, bình được giặc phía Tây, dẹp được phía Nam. Từ đó, trong nước yên; duy chỉ có liên tiếp bị hạn hán và tai dịch. Âm dương không điều hòa. ............................................. 15. Năm Bính Tý, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 17 triều Lê. Số tích niên là 10.155.673 năm. Thái ất đi vào niên Bính Tý. Cục 1 Thái ất ở cung 1 càn. Tuyệt dương Chủ đại tướng ở cung 7. Khách mục yểm Văn xương ở Thân. Vũ đức Khách đại tướng ở cung 3. Phát Thủy kích ở Khôn. Đại Vũ Chủ tham tướng ở cung 1. Tù Kế thần ở Dần Khách tham tướng ở cung 9. Cách Chủ 7. Đơn dương. Vô thiên. Khách: 10, 3. Trường hòa Cục này, khách trường hòa, cửa đủ, tướng phát, an cư hành động sau là lợi Chủ toán là đơn dương. Vô thiên Thái ất đứng vào cung âm Tính được 2. Có nạn hồng thủy Chủ tham tướng ở cung Tù, Bách Chủ đại tướng bị thủy kích yểm. Bất lợi cho thủ tướng, thượng công khanh Khách đại tướng phát. Công khanh phân tán nha môn khởi dụng Chủ tham tướng ở cung Thái ất, là phương binh đao khởi động. Càn – Hợi là phương Tây Bắc. Giặc cỏ tụ tập, quan quân đi đánh giặc tức thời bị bắt, bị diệt. Hành động sau là lợi. ................................................... 16. Năm Canh Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 21 triều Lê. Thêm 4 để tính. Thái ất đi vào cục 5. Thái ất ở cung 9 Ly Chủ đại tướng, chủ tiểu tướng ở cung giữa. Văn xương ở càn. Âm đức Khách đại tướng ở cung 4. Phát Thủy kích ở Dần. Lã Thân Khách tham tướng ở cung 2. Tù Kế thần ở Tuất Chủ: 2, 10, 5. Đỗ Khách: 10, 4. Hòa. Vô địa Cục này, Thái ất lý thiên, vô địa; là đất có biến động lạ thường. Thái ất ở cung 2 là thiên ở ngoài, trợ khách Khách trường hòa, đại tướng phát; lợi cho việc dấy binh công phạt. Chủ đỗ tắc, khởi sự là xấu Khách đại tướng bị Thìn kích, tham tướng bị Quan, Tù. Tướng tá binh lính bất lợi. Thủy kích ở mộc, năm Canh, phía Tây có động binh. Dân lưu tán. Đến vùng sao cơ là quân sẽ bị lưu vong. Năm ấy, Thái ất đi vào thân. Vùng sao Quý có binh sự khởi động. Quan quân đánh dẹp. Đại tướng thắng địch. Không động binh trước, lấy phép cầm cự lâu dài mà chế ngự. Tuy thắng, song quân lính chết hầu hết. Ngũ phúc từ năm Kỷ Mão đi vào cung giữa. Thần cơ vào Dần Dần cơ vào Tý. Vùng trung ương dương lúc thịnh Quân cơ năm ấy còn ở Thìn. Năm sau mới vào Tị ........................................... 17. Năm Quý Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 24 triều Lê. Thêm 3 để tính. Thái ất đi vào cục 8 Thái ất ở cung 3 cấn Chủ đại tướng ở cung 1. Phát Văn xương ở Sửu. Âm đức Khách đại tướng ở cung 2. Phát Thủy kích ở Khôn. Đại vũ Chủ tham tướng ở cung 3. Tù Kế thần ở Mùi Khách tham tướng ở cung 6. Phát Chủ: đơn 1. Đơn dương. Vô thiên Khách: 2, 10, 2. Trường hòa Cục này, Thái ất trợ chủ. Nhưng chủ tham tướng gặp Tù. Tính ra đoản là bất lợi. Thủy kích cung Thái ất trông nhau là cách. Trên dưới đổi đời Văn xương ở trong lại bức bách Thái ất, là bức bách cung vua. Ngôi hậu phi gặp tai họa nặng. Năm ấy, tứ thần đi vào Thìn; Thái ất đi vào Dậu Trực phù đi vào Thân, Nghệ An là phương Tây Nam; có binh đao, giặc giã. Thủy kích ở khôn cũng là phương Tây Nam. Đến mùa đông, chính phi của Nghị Tổ mất. .............................................................. 18. Năm Ất Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26. Thêm 2 để tính, Thái ất đi vào cục 10 Thái ất ở cung 4 chấn. Tuyệt khí Chủ đại tướng ở cung 1. Yểm thủy kích Văn xương ở Dần. Lã thân. Thần bách Thái ất Khách đại tướng ở cung 2 . Phát Thủy kích ở càn. Âm đức Chủ tham tướng ở cung 3. Tù. Bách Thái ất Kế thần ở Tị Khách tham tướng ở cung 6. Cách Chủ đơn 1. Đơn dương. Vô thiên Khách: 10, 2. Trường hòa. Cục này Thái ất bị Văn xương ở trong bức bách, là bề tôi ở dưới khinh bỉ trên. Khách tham tướng đổi cách. Trên dưới cách tuyệt, bế tắc. Chủ đơn 1; Thái ất lại đứng ở cung dương là bất hòa Chủ đại tướng phạm vào cung Thủy kích, là chủ quan. Khách, tướng cùng tự Quan nhau, kỵ. Lấy khí Vượng Hưu, tính xem nhiều ít mà phân biệt chủ khách được thua Chủ đại tướng là thượng công, thượng tướng, chủng tể, thượng khanh. Chủ tham tướng là á khanh. Khách 2. Tướng và công khanh ở nhàn cung Chủ mục đến Dần. Tuyệt khí. Tính là ít mà Khách mục đến càn. Vượng khí, tính là nhiều, khách ắt thắng. Thủy kích ở Kim. Năm Ất, phía Tây binh khởi. Khách trường hòa. Tướng phát. Hành động trước là lợi. Hợi – Càn là cung Giao Châu ..................................................... 19. Năm Bính Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 27 triều Lê. Thêm 1 để tính, Thái ất đi vào cục 11. Thái ất ở cung 4 chấn Chủ đại tướng ở cung 4. Tù Văn xương ở Mão. Cao Tùng Khách đại tướng ở cung 4. Tù. Chủ quan Thủy kích ở Sửu. Dương đức Chủ tham tướng ở cung 2. Phát Kế thần ở Thìn Khách tham tướng ở cung 2. Chủ tham tướng, Quan. Chủ 4. Bất hòa. Đơn dương. Vô địa Khách 4. Bất hòa Cục này, Thái ất, Văn xương, chủ đại tướng, khách đại tướng cùng ở trong cung quan lại ở chỗ nặng là Tuyệt khí. Tai ương nặng. Gọi là giam chặt trong 4 bức thành. Tuế kế gặp thì dữ. Chủ tham tướng lại quan Khách tham tướng, hai bên cùng đề phòng, đố kỵ lẫn nhau. Các quan văn võ đều bất lợi. Chủ đại tướng số 4, cùng số với Thái ất, là đại vạ cho phụ tướng. Hai tham tướng cùng 1 cung, cận binh nổi loạn. Ở cửa Đỗ thì không lành. Thái ất, Thiên mục đứng cửa sinh, là trái cửa không đủ. Tính về khách, tính được là 13 Đại tướng ở cung 3. Tham tướng ở cung 9. Hiệp Thái ất, chủ mục, chủ khách hai đại tướng. Hành động sau có lợi. Thái ất lý địa, tính được vô thiên là đất có biến động khác thường
-
THÁI TUẾ Thái tuế là biểu tượng cho người chủ lãnh đạo các thần. Đi tuần thú quốc gia, thăm hỏi các địa phương, đem quân ra trận, kiểm tra nơi cảnh giới, đều không thể không xem cho kỹ. Nếu Tuế quân (Thái tuế) và Thái ất cùng gặp Cách là đại hung. Thái ất đóng cung 3 mà Thái tuế ở Mùi là cách. Có sao chổi xuất hiện ở phương Tây Nam, là các nước phía Đông Bắc bại hoại trước, các nước phía Tây Nam bại hoại sau. Nếu sao chổi xuất hiện ở phương Đông Bắc thì trái lại. Hiện tượng này chủ về sự lưu vong, tật bệnh. Thái ất đóng cung 4, Thái tuế ở cung Dậu cũng là cách. Khi có sao Thái Bạch xuất hiện ở phương Tây là nước phía Đông bại hoại trước, nước phía Tây bại hoại sau. Nếu sao chổi xuất hiện ở phương Đông thì ngược lại. Hiện tượng này chủ về sự binh đao, tật dịch, lưu vong. Thái ất đóng cung 8, Thái tuế ở cung Ngọ cũng là cách. Khi có sao Huỳnh hoặc xuất hiện ở phương Nam, là nước phía Bắc bại hoại trước, nước phía Nam bại hoại sau. u sao đó xuất hiện ở phương Bắc thì ngược lại. Hiện tượng này chủ về sự loạn lạc, tang thương. Thái ất ở cung 9, Thái tuế ở Tuất Hợi cũng là cách. Khi có sao Bột xuất hiện ở phương Tây là nước ở phương Đông bị bại hoại trước; nước ở phương Tây bị bại hoại sau. Nếu sao Bột xuất hiện ở phương Đông thì ngược lại. Hiện tượng này chủ về sự tang thương, tật bệnh. Khi có sao chổi xuất hiện ở phương Tây Bắc, là nước ở phương Đông Nam bại hoại trước; nước ở phương Tây Bắc bại hoại sau. Nếu sao Chổi xuất hiện ở phương Đông Nam thì ngược lại. Hiện tượng này chủ về sự binh đao, tang thương, tật bệnh. Nếu Thái ất ở các cung 3, 8, 4, 9 lại bị cách mà Thái tuế ở các cung Ngọ, Mùi, Thân, Dậu đều có sát khí yêu tinh hiện ở phương đó thì nhà vua nên tu sửa đức độ, làm tốt chính sự để tránh đi. Và nên đổi niên hiệu, xá hình tội thay đổi chính lệnh để ứng phó với sự biến động nên xảy ra. Ngoài những năm nói ở trên là không bị cách, và do nguyên nhân có sinh khí. THÁI ÂM Giả dụ như năm Tý thì Thái tuế đóng cung Tý; cung Hợi là hợp thần. Sau hai cung tức là cung Tuất là cung Thái âm đóng. Các năm khác dựa theo đó mà tính. Thái âm là vị hậu phi của Tuế đức, chủ về dạy dỗ, khuyên bảo, hứa hẹn. Ở sau Thái tuế 2 thần. Như tính về Thái ất mà Thái ất và Thái âm cùng cung là tất có nước láng giềng đem tiến cống con gái đẹp. Văn xương hoặc Thuỷ kích cùng cung với Thái âm là Hậu phi có lòng nghiêng ngả, phụ nữ chủ về mưu mô. Nhà vua gặp năm như thế thì phải thân thiết với các trung thần, xa lánh kẻ dèm nịnh, cẩn mật với tả hữu, dứt việc nữ sắc, để phòng suy vi.
-
Mỹ: Đến lúc không thể làm bạn với Trung Quốc nữa Tác giả: ELIZABETH ECONOMY - ADAM SEGAL "Tầm quan trọng của mối quan hệ song phương, thừa nhận khả năng sẽ thu được ít hơn khi chỉ thông qua đối thoại Washington - Bắc Kinh." Đình Ngân theo FP
-
CÁC SỐ PHỐI HỢP NGŨ ÂM Các số phối hợp ngũ âm như sau: -Số 1 là cung -Số 2 là tỷ cung. Có biến động ở vua, số tính mà hoà, không có Tù, Bách thì vua có phúc lành. Bất hoà lại có Tù, Bách là trời biến động, vua có điều lo. Như xem năm Kỷ Mão, niên hiệu Vũ Đức thứ 2 triều Đường, năm này Thái ất vào cục 16, nguyên Giáp Tý. Thái ất ở cung 7 Thiên mục ở Mùi, Thiên đạo. Chủ tính được 1, hoà. -Số 3 là Chuỷ. -Số 4 là Tỷ chuỷ. Có biến ở tôn miếu. Số tính hoà là có tăng bổ, chủ về tôn thần. Bất hoà và bách, kích lập tức bị phế hoại. Như xem năm Đinh Mùi niên hiệu Thái Khang thứ 8 triều Tấn; năm này Thái ất vào cục 44. Thái ất đóng cung 8 Thiên mục đóng cung Sửu, dương đức Chủ tính được 33, Chuỷ. Thiên mục, gián thần gặp Bách Chủ Đại tướng ở ngoài cung Bách Năm ấy nhà Thái miếu gặp tai họa -Số 5 là Vũ. -Số 6 là Tỷ Vũ Có biến ở bậc Hậu phi. Số tính mà hoà, không gặp Tù, Kích, Bách, Hiệp thì lành; trái lại là dữ. Như xem năm Đinh Mão niên hiệu Nguyên Đỉnh thứ 3 triều Hán. Thái ất vào cục thứ tư. Thái ất đóng cung 2 Thiên mục tại Càn, âm đức. Chủ tính được 25 là Vũ Đỗ không thông vô môn. Thuỷ kích ở Sửu, dương đức Khách tính được 7, bất hoà. Năm ấy Thái hậu mất. -Số 7 là Thương. -Số 8 là Tỷ Thương. Có biến ở con cháu. Tính được hoà, không gặp Quan, tù, yểm, bách là chủ về việc Thái tử được lập; trái thế là có sự lo. Như xem năm Giáp Thân niên hiệu Thiên Tích năm đầu triều Nguỵ. Thái ất vào cục 17. Thái ất đóng cung 7 Thiên mục tại Khôn, Đại vũ. Chủ tính được 7 Năm ấy lập Hoàng thái tử. -Số 9 là Giốc -Số 6 là Tỷ Vũ Có biến ở bậc Hậu phi. Số tính mà hoà, không gặp Tù, Kích, Bách, Hiệp thì lành; trái lại là dữ. Như xem năm Đinh Mão niên hiệu Nguyên Đỉnh thứ 3 triều Hán. Thái ất vào cục thứ tư. Thái ất đóng cung 2 Thiên mục tại Càn, âm đức. Chủ tính được 25 là Vũ Đỗ không thông vô môn. Thuỷ kích ở Sửu, dương đức Khách tính được 7, bất hoà. Năm ấy Thái hậu mất. -Số 10 là Tỷ Giốc. Có biến ở dân chúng. Tính được hoà, không gặp Tù, Bách, là dân yên vật thịnh. Trái thế là phát sinh tật dịch, đói rét, sâu bệnh. Như xem năm Bính Tý, niên hiệu Kiến An năm đầu triều Hán. Thái ất đi vào cục 25. Thái ất đóng cung 1 Càn Thiên mục tại Tý, địa chủ. Chủ tính được 39 Năm ấy có bệnh dịch lớn Từ số 1 phối với Cung là suy nghiệm về tai biến phát. Xem năm, tháng, ngày, giờ đều lấy năm Kế thần đóng, thêm vào Hoà Đức. Xét rõ Thái ất đi đến cung thần nào là kỳ hạn tai biến phát sinh. Thái ất ở cung 2 Ly, chủ năm, tháng Ngọ gặp tai hoạ. Thái ất đóng cung 9 Tốn, các năm Thìn Tị gặp tai hoạ (việc Hoàng Hựu nhà Tống). Năm Nhâm Thìn, Thái ất đóng cung 7 Khôn, kế thần ở Tuất. Lấy Tuất đặt là Cấn, Hoà Đức, tính thuận. Càn ở Dần Hợi ở Mão Tý ở Thìn Sửu ở Tốn Cấn ở Tị Dần ở Ngọ Mão ở Mùi Thìn ở Khôn Tốn ở Thân Tị ở Dậu Ngọ ở Tuất Mùi ở Càn Khôn ở Hợi Thái ất lâm Hợi, tháng 10 là thời điểm có tai hoạ Hoặc Thái ất, Thiên mục cùng lâm vào cung 3 tất các năm, tháng Sửu, Dần là thời hạn có tai hoạ.
-
CHỌN CHỦ KHÁCH VÀ THÁI ẤT, NHỊ MỤC TỐT XẤU. Âm dương hoà hay bất hoà là nói về Thái ất, Chủ Khách, nhị Mục, thần nào đóng ở cung nào. Chủ về tai hoạ do bầy tôi mạnh. Tuy ở cung dương mà tính được thuần dương cũng không tốt. Nếu năm đó tính được số 14, 18, 23 là Thương hoà; chủ về tám phương bình an, nước có điềm lành. Nhị mục mà được như vậy là các tướng đại lợi. Các số 23, 36, 29 là Thứ hoà. Chủ về tình hình thiên hạ yên hoà, nhân dân vui vẻ, mùa màng được. Các số 12, 16, 27, 34, 38 là Hạ hoà. Chủ về chín cõi bình an, cơm no áo đủ. Tuế kế mà gặp như vậy là năm thông thuận. Tính được các số 16, 26, 36, 17, 27, 37, 18, 28, 38, 19, 29, 39 là Tam tài đều đủ. Tính Tuế kế mà gặp thế, lại không có Quan, Tù, Yểm, Bách, Cách, Đối, Đề, Hiệp phạm vào là chủ về việc trời, giáng phúc lành, dân yên, mùa được. Nếu số tính được các số đơn: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 không đến số 10 là số đến số 10 là số Vô thiên. Hoặc gặp quan, tù, yểm, bách, cách, tuyệt và âm dương bất hoà là trời có biến đổi lạ thường, hai sao bị ăn khuyết, năm vì sai lệch, sao Tuệ (sao chổi), sao Bột (sao thổ) xuất hiện là có tai hoạ về sương buông và mưa đá. Nếu tính được số 11, 12, 13, 14, 21, 23, 24, 31, 32, 33, 34 số tính không quá 5 là 5 là Vô Địa. Hoặc gặp các điều xấu thì mặt đất có nhiều biến đổi lạ thường như núi lở, đất rung, sông cạn, nước bồng; thậm chí còn có sâu bọ nảy sinh, dân chúng xâu xé lẫn nhau. Nếu tính được số 10, 20, 30, 40 là số không qua 1 là Vô nhân. Hoặc có các điều phạm về bất hoà thì con người có biến đổi lạ thường (cãi cọ, lật lọng, dối trá, trộm cướp…). Thậm chí còn loạn lạc, tật dịch, phiêu bạt, mất mùa, chết đói, rất nhiều tai hoạ. Nếu như tính được các số 2, 12, 32 là đủ ba x của năm tương phát, lợi việc dấy binh xuất quân. Nếu như số tính được 10 là Tướng quân, được 5 là Lại sĩ, được 1 là binh lính. Không trúng số 10 là không có Tướng; ra quân không có lợi cho chủ tướng. Không trúng số 5 là không có Lại sĩ; bất lợi cho phó tướng. Không trúng số 1 là không có binh lính; bất lợi cho quân sĩ. Nếu như tính được từ số 16 trở lên là Hoà, là Tướng, Lại, quân lính đều đầy đủ; lợi cho việc dấy quân, làm trăm việc. Nếu dưới số 16, số đơn từ 9 trở lên là bất lợi cho việc ra quân, kỵ trăm việc. LUẬN VỀ CHỦ KHÁCH, TRƯỚC SAU. Như dân quân ở đồng bằng, cờ trống cùng trông, thấy nhau; hành động trước là khách, ứng phó sau là chủ. Nếu ở thời an cư, hành động trước là chủ, ứng phó sau là khách. Sách phong giốc chiêm nói: Làm vua một xứ, độc 1 mình là chủ; đem quân vào đất lạ là khách. Sách Thống tôn nói: Lấy Trung Quốc là chủ thì xem chủ mục, Văn xương. Lấy rọ ngoài là chủ thì nhìn khách mục, Thuỷ kích. Sách Đăng dàn nói: Như bốn tướng cùng 1 cung, thì Khách có thể Quan được Chủ, chủ không thể Quan được Khách. Đương lúc như vậy nên cử binh trước để ứng chiến với Khách. Nếu là Chủ mà khởi sự sau thì gặp đại hung. Muốn rõ Thiên đạo, trước phải suy tính Chủ, sau suy tính Khách. Nếu cả chủ khách đều được kế lành, ba cửa đủ, năm tướng phát, âm dương hoà là lợi cho việc dấy binh, đi đâu được đó. Khởi sự trước là thắng, khởi sự sau tất bại. Nếu chủ khách đều gặp kế xấu, ba cửa không đủ, năm tướng không phát, âm dương không hoà thì khởi sự trước là bại, khởi sự sau sẽ thắng. Tính về cát hung, trường là thắng, đoản là bại. Tính chủ khách, lấy trường nhiều là thắng; đoản ít là thua. Trường nhiều thì nên vào sâu; trường ít thì vào nông. Xem nước ngoài động tĩnh ra sao, lấy giờ của phép tính khách mà xem vào cửa Đỗ thì giặc không đến. Cửa đủ, tướng phát, âm dương hoà, chủ khách đều hội ở trước Thái ất thì giặc đến hàng. Như xem rợ Bắc Dịch, khách mục chuyển mà đi về phía Nam là giặc đến; chuyển đi về phía Bắc là giặc không đến. Xem về việc quân địch cho sứ đến giảng hoà, có thể tin hay không, nên xem Thái ất chế ngự. Như tính thời kế Thái ất ở cung 2 là Ly hoả. Thuỷ kích đến Thân, Vũ Đức là kim, Hoả chế khắc kim là sứ bên địch thực hàng. Xem có phản gián hay không, nên xem Khách mục trước và sau. Như Thái ất ở cung 1 Càn. Nếu chủ khách Đại tướng, Tiểu tướng, Thuỷ kích đến các cung 6, 7, 2 là ngoài, là trước; đến các cung 8, 3, 4, 9 là trong, là sau. Nếu Khách mục Thuỷ kích đến Tuất là có giặc đến nhòm ngó. Xem quân giặc đến nhiều hay ít, nếu lấy số khách tính được 16 trở lên, âm dương thịnh là quân giặc nhiều, có tướng mạnh. Nếu được dưới số 15 thì quân giặc ít. Thiên mục đến phía trái thì giặc từ phía Đông kéo đến; đến phía phải thì giặc từ phía Tây kéo đến; vào cửa Đỗ thì giặc không đến. Xem về sự đối địch, nên xem thế mây gió, chim bay, muông chạy. Cung Thái ất sở tại mà có gió mây, chim muông từ giữa bay lên thì phải chuẩn bị gấp. Như Thái ất ở cung Tốn là mộc, mà gió mây chim thú từ phương Càn kim bay tới là chế ngự Thái ất; là rất xấu. Gió mây, chim muông từ khu Chủ Đại tướng, Thái ất, Tòng Đức lại thì cần đánh gấp, vì Chủ Đại tướng lợi. Nếu từ cung khách mục, Đại tướng lại thì nên chuẩn bị đối phó với địch. Chọn ngày, chọn giờ nên xem cách tính ngày và giờ. Nếu lợi, sẽ dấy quân. Khắc chế không nên theo. (Phép tính ngày và giờ sẽ nói rõ ở sau) Xét chủ khách là vô thường, tuỳ người mà hoạt biến. Như xem năm Kỷ Tị niên hiệu Chính thống triều Minh, Thái ất vào cục 64. Thái ất đóng cung 2 Ly, trợ khách. Khách 24, hoà. Đại tướng phát, lợi là Khách lợi ở hành động trước. Chủ 38, tuy hoà, tham tướng phát nhưng Đại tướng gặp cách là trên dưới gặp cửa Đỗ. Thuỷ kích cũng bị cách là đổi thay biến dịch. Văn xương bị Bách Khách Tham tướng gặp tù là bức hiếp, trì trệ, giằng co, công kích, không lợi cho chủ; nên cố thủ. Lại Khách mục ở Khảm là thuỷ khắc Thái ất là hoả; rất xấu. Năm ấy Dã Tiên làm giặc, Vương Chấn (bầy tôi đời vua anh Tông triều Minh) không nghe lời bàn của quần thần, ép vua thân chinh, bị thua ở Thổ mộc (một địa danh ở Trung Quốc). Vua đi tuần thú phương Bắc, chỉ lấy tính về chủ, về Khách đều được hoà, cuối cùng quay được về. Đó là sự nghiệm về Trung Quốc là chủ, rợ ngoài là khách; ứng phó là Chủ, hành động trước là Khách. Năm Bính Tuất niên hiệu Vĩnh Lạc nhà Minh, Thái ất vào cục 13 Thái ất ở cung 9, trợ khách Khách là 23, trường hoà. Tham tướng tù Đại tướng phát lợi cho khách, lợi hành động trước. Chủ là 16, hoà Hai tướng phát, cùng lợi cho chủ. Chủ đoản, khách trường. Trường mà nhiều là thắng. Chủ và Khách đều tính được số lành. Lợi cho việc dấy quân; khởi sự trước là thắng, khởi sự sau là bại. Khách mục ở Thân là kim, khắc Thái ất mộc; rất xấu. Văn xương đối xứng với Thái ất là xung tai. Năm ấy, nhà Minh sai tướng Hoàng Trung đem quân đưa Trần Thiện Binh về nước ta. Chúa họ Hồ cự chiến ở Lạng Sơn; trước thua sau thắng. Vua Thành Tổ nhà Minh cả giận, phát đại quân sang đánh. Trương Phụ và Mộc Thanh chỉ huy 2 đạo quân cùng tiến, phá quân Hồ, chiếm đất Giao Châu. Chỉ lấy Chủ tính được hoà, các cửa đủ, tướng phát nên cuối cùng thu phục lại được và lập quốc. Đó là nghiệm về ở đất vua là chủ vào 6 cõi khác là khách; ứng chiến sau là Chủ, khởi động trước là Khách. Năm Canh Dần niên hiệu Vĩnh Lạc, Thái ất vào cục 27, Thái ất đóng cung 1 Càn, trợ thủ. Chủ 30, trường hoà. Đại tướng tù. Thái ất ở kim khắc Thuỷ kích là mộc. Lợi chủ, lợi cho hành động sau. Khách 26, chủ đại. Tiểu tướng hiệp khách đại tướng, bất lợi cho khách. Năm ấy, Bản nhà Thất lý chống lệnh triều đình. Vua Thành Tổ tự đem quân đi đánh phương Bắc. Đánh bại chúng ở sông Cán Nan. Đó là Trung Quốc, rợ ngoài là Khách, khác cõi là Khách. Năm Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Lạc Thái ất đóng cung 4 Chủ 25 Cửu là Đỗ. Đại tướng phát. Lợi cho Khách, lợi cho sự hành động trước. Năm ấy đức Cao Hoàng triều ta khởi binh ở Lam Sơn, lần lần đánh giặc đều thắng. Quan Tam Ty nhà Minh phải giảng hoà kéo quân về Bắc. Nước An Nam mới thu phục lại được, bởi vì bên kia chiếm nước ta, chia ra quận huyện thì họ là chủ, ta chỉ là 1 chốn khởi binh thì ta là khách. Thế là trong nước là Chủ, ngoài nước là Khách, mà có cái nghĩa đất là của vua đã rõ ràng. Năm Đinh Mùi niên hiệu Tuyên Đức, Thái ất vào cục 44. Thái ất đóng cung 8 Số tính là trường. Văn xương bị ngoài Bách. Khách mục khắc chế Khách tham tướng cách Đối bất lợi cho Chủ nhân Khách đoản cũng bất lợi nhưng được Thượng hoà Khách đại tướng và tiểu tướng hiệp chủ tham tướng. Chủ đại tướng hiệp khách tham tướng là 2 bên đối địch nhau, cùng mưu diệt nhau. Tình thế này, khởi động trước là bại, khởi động sau mới thắng. Trong khung cảnh cờ trống cùng trông thấy nhau thì khởi động trước là Khách, khởi động sau là Chủ. Đức Cao Hoàng ta đã vây Đông Đô, các lộ đã hạ được cả. Tháng 2 năm ấy, hai thượng tướng là Lê Triện và Lê Công Thành bị thua, chết hại binh lính hàng vạn người. Tháng 10, đại tướng nhà Minh là Liễu Thăng đem bảy vạn quân đến xâm phạm. Quân ta nhử đánh ở trên ải Chi Lăng, phá tan quân địch, chém chết Liễu Thăng. Đó là biểu tượng của sự hai bên cùng o ép lẫn nhau (hỗ hiệp). Khởi sự trước là bại, chủ khách vô thường là thế. Cho nên, nhất thời, hai bên cùng chiếm 1 cục, đều nên lấy đó mà suy lường mới rõ nghĩa của Chủ Khách; quyết được thời cơ hành động sau hay trước. Khách tính được thượng hoà thì tám phương thanh bình, khang thái, thiên hạ ngừng binh. Từ đó Nam Bắc kết giao hoan hỷ, trong ngoài không còn chuyện gì.
-
TÍNH TUẾ KẾ Tính Tuế kế, tức là tính niên cục Phương pháp tính: Tính số tích niên từ thượng nguyên Giáp Tý thiên hoàng cổ đại, đến năm Mậu Ngọ, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 6 (năm 1798 dương lịch); được 10.155.715 năm, là vào trung nguyên Giáp Tý, kỷ thứ 2; vào nguyên Bính Tý dương, dương niên cục 43. Tra bảng “Thái ất 72 âm dương cục” (bài 9). Ta được: Thái ất đóng cung 8 Khảm Văn xương ở Tý vào cung 8 Khảm Chủ toán số 8 (Đơn dương, vô thiên) Chủ Đại tướng đóng cung 8 Khảm (tù) Chủ tham tướng đóng cung 4 Chấn (Phát) Kế thần ở Thân. Thuỷ kích ở Tị (Đại thần) Khách toán số 17 (tạp trùng dương) Khách đại tướng đóng cung 7 Khôn (Phát) Khách tham tướng đóng cung 1 Càn (nội Bách) Tính tiếp: Quân cơ ở Mùi Thần cơ ở Mão Dân cơ, Ngũ phúc ở cung giữa 5 Tứ thần ở Thìn Thiên Ất ở Dậu Địa ất ở Ngọ ****** Ví dụ : Tính Tuế kế năm Tân Hợi niên hiệu Tự Đức thứ 6 (năm 1853 dương lịch); được số tích niên là 10.155.768 năm. Tra “Bảng Thái ất 72 âm dương cục” (bài 9). Ta được: Thái ất đóng cung 8 Khảm, năm thứ hai là Lý địa, ở kỷ Giáp Tý thứ 3, Hạ nguyên được 48 năm. Tức là năm Giáp Tý 10 năm, đến Giáp Tuất 10 năm, đến Giáp Thân 10 năm. Tính đủ 48 năm là thuộc năm thứ 8 của tuần Giáp Thìn, tức là năm Tân Hợi. Vào nguyên Mậu Tý dương, dương niên cục 24. ****** TÍNH NGUYỆT KẾ Ngắt từ năm Giáp Tý, niên hiệu Nguyên Gia năm đầu, triều Tống tháng 11 Giáp Tý (năm 424 dương lịch); tính đến năm Mậu Ngọ niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 6 (triều Tây Sơn) năm 1798 dương lịch cộng được số tích niên là 1.673 năm. TÍNH NHẬT KẾ. Khởi từ năm Mậu Thân niên hiệu Hoằng Trị năm đầu triều Minh (năm 1488 dương lịch), tính được số 243. Dùng số đó tính theo năm một tiến, một lùi. Nếu gặp năm nhuận thì phải lùi. Nếu tiến, dùng những năm đã qua là số 24 tháng. Nếu lùi, dùng những số tháng thiếu của năm đã qua. Giả dụ như ngày mồng 1 Tết năm nay ở sau ngày mùng 1 Tết năm ngoái, phải dùng phép lùi. Nếu ngày mùng 1 Tết sang năm mà đứng trước ngày mồng 1 Tết năm nay, phải dùng phép tiến. Lùi tất không quá số 5, 6. Tiến tất không quá số 24 (là số nhất định) Trước hết lấy Kỷ để tìm ngày, tiếp sau lấy nguyên để tìm cục (giống như phép tính năm) ****** LUẬN VỀ QUAN, TÙ, YỂM, BÁCH, KÍCH Quan: -Có nghĩa là 2 bên giao chiến, thế 1 sống 1 chết, 2 bên phòng bị lẫn nhau, tướng văn tướng võ đều phải kiêng kỵ. -Có biểu tượng lấn át, tranh đoạt nhau. Nếu cứ làm sẽ bất lợi. Chỉ khi tính được đa (nhiều) và hoà là thắng; tính được thiếu (ít) và bất hoà là bại. -Có ý nghĩa là sự việc không kịp tới bậc nhân quân. -Về vị trí tức là Chủ, Khách Đại tướng, tiểu tướng cùng ở 1 cung, phải thay nhau mà quan phòng. Tình hình ác liệt như 2 cọp trong 1 rừng, hai thuồng luồng 1 suối. Khi có thịnh suy, thế không đội trời chung được, phải xem nhị Mục ở cung nào mà dùng Ngũ hành để quyết đoán, sẽ rõ sự thắng bại. -Khách Đại tướng, Khách Tiểu tướng phạm vào Thuỷ kích là Chủ quan Khách. -Tuế kế mà gặp như thế là chủ tướng bất hoà. Tù: -Tù là Thái ất, Văn xương, Đại tướng, Tiểu tướng xâm lấn lẫn nhau. Có ý nghĩa là dưới phạm trên, trói buộc, bài xích nhau, cố chấp nhau; sẽ bị hoạ tang vong, thua bại. -Về vị trí là Thái ất và Văn xương cùng đóng 1 cung. -Ở đất dịch tuyệt là rất dữ. -Ở đất Tuyệt âm, Tuyệt dương là tự thua, không lợi cho bên hành động trước. Kích: -Kích là Thuỷ kích ở bên phải, bên trái cung Thái ất cùng lấn đánh lẫn nhau. -Ngoại kích là các nước chư hầu xâm lấn, tôi con, bề dưới phản nghịch. Nước ngoài vào xâm lăng. -Nội kích là kẻ cận thần cùng họ với Hậu phi gây sự phế bỏ, giết chóc. -Thần gặp kích tất gấp. Cung gặp kích là chậm. -Nhà vua và tướng đều phải kiêng kỵ. Bách: -Bách là bên tả, bên hữu Thái ất gặp Thiên Mục, Địa mục và Đại tướng, Tiểu tướng bức sát gần bản cung. Chỉ vào sự xâm lấn, bức bách kìm giữ. Biểu lộ tình hình trên dưới lấn át nhau, tả hữu bức bách nhau. -Trước là ngoài, sau là trong. -Thần là cấp, cung là hoãn, ở sau Thái ất. -Năm dương, tai hoạ nhẹ. Năm âm tai hoạ nặng. Bách còn có nghĩa là Chủ, Khách, nhị Mục, tứ Tướng và Kế mục ở bên phải bên trái cung Thái ất, biểu hiện tình hình bầy tôi bức bách vua. -Ngoại bách là đại thần ngược lại mệnh vua có âm mưu bên trong, cùng họ có âm mưu phản nghịch, Hậu phi 2 lòng. -Nội ngoại Bách kích là trong ngoài liên kết mưu mô. Số tính là bất hoà thì thua; nếu cùng ở cung Dịch tuyệt là trước sau bại. -Ở đằng trước cung ấy là minh bách; sự việc xảy ra từ bên ngoài. -Ở đằng sau cung ấy là ám bách; sự việc xảy ra từ bên trong. Phản: -Phản là Thái tuế đóng trước cung Thái ất; có ý nghĩa phản nghịch, không tuân lệnh, dưới chống đối trên. Yểm: -Yểm là Thuỷ kích tới cung Thái ất. Có ý nghĩa âm thịnh, dương suy, dường mối nhà vua không còn trên lấn áp, dưới tiếm quyền, tụ tập cướp giết. Phàm thấy như vậy thì dùng mệnh toán để phối hợp xem hoà và bất hoà. Một âm, một dương gọi là đạo, tính được hoà. Khí được thuận, là tốt. Nếu bất hoà, khí nghịch là xấu. -Thái ất ở các cung 3, 8, 4, 9 là dương; tính được số 1, 3, 5, 7 là lẻ; thế là trùng dương; chủ về sự khó khăn, hạn hán, hoả tai. -Thái ất ở các cung 1, 6, 2, 7 là âm, tính được số 2, 4, 6, 8 là chẵn, thế là trùng âm; chủ về mưa dầm, lụt, nước to, đều là theo số tính thấy bất hoà. -Nếu Thái ất ở dương cung, tính được số chẵn; ở âm cung, tính được số lẻ, là tính được hoà. -Hai sao Thiên mục, Địa mục lấy các cung Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài là dương; lấy các cung Hợi, Sửu, Dần, Thìn, Tị, Mùi, Thân, Tuất, ngôi gián thần đóng là âm. -Ở cung dương, tính được số chẵn, ở cung âm tính được số lẻ là hoà. Trái lại là bất hoà. -Số 3, 9 gặp cung Dần, Thìn là thuần dương. -Số 4, 8 gặp Sửu, Tị là tạp dương. -Số 2, 6 gặp Hợi, Mùi là thuần âm. -Số 1, 7 gặp Thân, Tuất là tạp âm. -Các số 33, 39 tính được là trùng dương. -Các số 22, 26 tính được là trùng âm. -Thái ất, Thiên mục đóng ở âm cung, số tính được 24, 28 là tạp trùng âm; tai hoạ rất lớn. -Thái ất, Thiên mục đóng ở cung dương, số tính được 19, 13, 31, 37 là tạp trùng dương. Tai hoạ vừa vừa, quá lắm là trong ngoài có lập mưu. Ở cung âm mà số tính được 11, 17 là dương ở trong âm, bên trong có âm mưu. Đều lấy số tính được nhiều và hoà là thắng; trái với thế là bại. -Thái ất, Thiên mục đóng ở cung dương số tính được 33, 39 là thuần dương, là thái quá; chủ về điều hung, va bạo ngược. Đóng ở cung âm mà số tính được 22, 26 là thuần âm, là thái quá, cung là yểm. Nếu gặp cung 2, cung 8 là dịch khí; cung 4, cung 6 là tuyệt khí, tính niên kế là nhà vua gặp hung. Và cung 9 là thuần âm, cung 1 là tuyệt dương, chủ về việc bầy tôi gặp điều dữ, xấu mà bị giết. -Yểm là Thuỷ kích gia vào cung Thái ất là âm yểm dương, gặp tình hình này thì chính trị không thi hành được, kỷ cương nhà vua mất, bầy tôi mạnh, vua yếu; thân chết, nước mất, trộm cướp, binh đao, lụt hạn, bệnh dịch. -Nếu yểm ở cung dịch tuyệt là nhà vua gặp dữ lớn; ở đất tuyệt dương, tuyệt âm, là đại thần bị giết. -Nếu yểm chủ đại tướng mà số tính về chủ không hoà là dữ, số tính hoà là lành. Đại tướng tuy gặp dữ nhưng Tham tướng số tính được hoà lợi, lấy tiểu tướng đánh thì thắng. Nếu Tham tướng bị yểm thì tiểu tướng gặp điều dữ. Cách: -Cách là Khách mục, Đại tiểu tướng cùng đối xung với Thái ất, Cách biến thành tiếm đoạt, chống cự ở đất dịch tuyệt là rất dữ. -Chủ cách khách quan; nếu chiến đấu tất chủ thắng. Chủ quan, khách cách; nếu chiến đấu thì khách thắng. Chủ khách nhà số tính là bất hoà thì bại. Tuế kế mà gặp như vậy là bề tôi ở dưới, lừa dối kinh nhờn nhà vua. Kích: -Kích là Thuỷ kích bức bách gần Thái ất, tiền tả hậu hữu; trong là lấn át, đâm chém nhau, trên lấn áp, dưới tiếm quyền. -Nếu gặp thần “kích” thì tai hoạ rất gấp nếu gặp cung “kích” là tai hoạ chậm hơn. Từ vua chúa đến thứ dân, các quan văn võ đều nên kiêng kỵ. Nếu cứ làm sẽ bất lợi. Bên trong gặp rắc rối phía các bà hậu, bà phi; bên ngoài gặp phiền nhiễu từ các phiên thần hay ngoại quốc. -Kích còn là Thuỷ kích ở bên phải, bên trái cung Thái ất. Có ý nghĩa là cùng lấn đánh lẫn nhau. -Ngoại kích là các nước chư hầu xâm lấn, tôi con phản nghịch, nước ngoài vào xâm lăng. -Nội kích là kẻ cận thần cùng họ với Hậu phi có âm mưu phế bỏ, giết chóc. -Thần gặp kích là gấp, cung gặp kích thì chậm. Nhà vua và tướng tá đều phải kiêng kỵ. -Như xem năm Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị thứ 13 triều Lê (năm dương lịch 1570), chủ tính được 33, trừ đi 30, dùng 3 tức là Chủ Đại tướng ở cung 3 mà Thái ất cũng ở cung 3 là Tù. Tù tức là có sự tang vong, là điều xấu. -Chủ Tham tướng, lấy số 3 mà nhân, 3 x 3 = 9, tức là Chủ Tham tướng ở cung 9, mà văn xương cũng ở cung 9, cũng là Tù, là xấu. -Lại tính Khách là 10, bỏ 10 dùng 1, tức là Khách Đại tướng ở cung 1, không gặp Tù, Bách, Yểm, Kích là tướng phát, là lành. -Lấy 3 x 1 = 3, tức là Khách Tham tướng ở cung 3, cùng cung với Thái ất; tức là tù, là Tiểu tướng bất lợi. -Cục này, Thái ất tuy trợ chủ, mà chủ lại bất hoà; hai tướng gặp tù, nên an cư, không thể hành động trước. -Khách hoà, tướng phát; lợi về khách; nên an cư vì lợi về hành động sau. -Thiên mục ở trước là trong có thể công ngoài; ở sau là ngoài có thể công trong. Từ Càn đến Thìn là trong. Từ Tốn đến Tuất là ngoài. -Thái ất ở các cung 1, 8, 3, 4 là Thiên nội, là trợ thủ, không thể đem quân công phạt. Muốn đánh địch, không nên khởi động trước, tức là nên hậu ứng. -Nếu Thái ất ở các cung 2, 3, 6, 7 là Thiên ngoại là trợ khách, lợi cho việc dấy binh đánh dẹp; nếu muốn đánh địch, không nên tiến sau, mà phải đánh trước. -Xét theo Tuế kế, năm Canh Ngọ niên hiệu Chính trị thứ 13 triều Lê, tương ứng với năm 1570 dương lịch, thuộc nguyên Canh Tý dương, trung nguyên, dương niên cục 31. Theo “Bảng Thái ất 72 âm dương cục”, cục dương 31 có các sao đóng tai các cung như sau: Thái ất đóng cung 3 Kế thần đóng cung Thân Văn xương đóng cung Tốn Thuỷ kích đóng cung Tuất Chủ toán số 33 Chủ Đại tướng đóng cung 3 Chủ Tham tướng đóng cung 9. Khách toán số 10 Khách Đại tướng đóng cung 1 Khách Tham tướng đóng cung 3 Đối: -Đối là chủ mục đối xứng với cung Thái ất, có ý nghĩa là sự xung đột, đối kháng nhau, là bậc đại thần có hai long, lừa dối vua, chặn đường người hiền, ghét đuổi bậc trung lương. -Nếu Chủ mục, Khách mục, Đại tướng, Tiểu tướng đối với cung với Thái ất thì tướng lại hiệp mưu gian, bề tôi dối trá. Đề hiệp: -Đề hiệp là Chủ mục, Khách mục cùng 2 tướng hoặc 1 tướng mà Hiệp cùng Thái ất, Chủ mục, Khách mục cùng 2 Đại tướng, Tiểu tướng ở cung chính ấy là Đề hiệp. -Nếu chủ mục, Khách mục ở gián thần, Chủ khách hai tướng cùng Thái ất hiệp nhị Mục ở gián thần là Hiệp quan. -Nếu chủ khách mục, tương quan số tính mà Trường hoà là thắng. -Nếu chủ khách mục, hoặc 2 tướng hoặc 1 tướng mà cùng Thái ất hiệp chủ khách mục hoặc đại tiểu tướng, ấy là vừa tôi đồng mưu, cùng giết kẻ bất nghĩa bất đạo. -Nếu nhị Mục với Đại tiểu tướng cùng hiệp Thái ất là chính sự trong tay bậc đại thần, bề tôi chuyên quyền. Số tính hoà mà có cách đối cung Thái ất là dữ; bất hoà mà không có cách đối cung thì trước thắng sau bại. -Khách mục, Đại Tiểu tướng hiệp Chủ mục ở cung gián thần thì khách thắng, nếu như hiệp Thái ất thì trước thắng sau bại. -Nếu Chủ Đại tướng gặp tù ở cung Thái ất cũng là khách thắng. -Nếu nhị Mục cùng bốn tướng hiệp lẫn nhau là 2 bên cùng dương có âm mưu. -Nếu Thiên về hiệp 1 tướng một Mục tất bên hiệp sẽ bại. -Khách tại nội, ngoại gặp Bách mà hiệp đều là bất lợi cho việc hành động trước. -Nếu Văn xương gặp tù bách mà khách Đại Tiểu tướng hiệp là đều bất lợi chủ. Chấp đề: -Chấp đề là Thái ất hợp cùng hai cửa Khai và Sinh. Đề cách: -Đề cách là Thái ất xung với hai cửa Khai và Sinh. -Chủ khách Đại tiểu tướng ở cửa Sinh đến xung cách là dữ, không nên cử sự. Xem việc quân cũng như thế. Tứ quách cố: -Tứ quách cố là văn xương gặp tù ở cung Thái ất. Chủ đại tiểu tướng lại cùng gặp Quan hoặc có Thuỷ kích, hoặc khách Đại tiểu tướng tương quan, hoặc cùng chủ đại, tiểu tướng tương quan. -Tuế kế mà gặp như thế là có hoạ thoán ngôi, kẻ dưới giết bề trên. -Có Khách tham tướng, văn xương cùng có mặt chủ đại tướng cùng khách đại tướng tương quan. -Có kiêm cả Yểm, Bách, Quan, Cách, là “Tứ quách đô”, là bất lợi cho việc xuất quân, đều bị Yểm không thong, mọi việc không thành. Đó là rất hung.