Hà Uyên
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
1.069 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
8
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Hà Uyên
-
Chào VanTrungHac - Theo Hà Uyên, 1 hào chỉ có 5 quá trình tiệm tiến chuyển hoá, Hà Uyên cũng đã trao đổi với Liêm Trinh. Khi chúng ta trao đổi với nhau, thì Hà Uyên phân tích 12 quá trình là để hiểu thêm về những nguyên lý của Kinh Dịch. - Hai người cùng Năm-Tháng-Ngày-Giờ đến hỏi vận mệnh, thì Hà Uyên chưa có câu trả lời với VanTrungHac. - Quẻ ứng tức thì,...Hà Uyên rất ít, thiếu kinh nghiêm. Hà Uyên có thể cùng thảo luận với VanTrungHac về chủ đề: tại sao một cung, lại quy định 7 quẻ phải theo Ngũ hành của quẻ Bát Thuần, vì phần này Hà Uyên vẫn có nhiều chỗ lúng túng.
-
Chào Liêm Trinh Thực tình, Hà Uyên chủ động chọn cách viết, khi chúng ta trao đổi trên diễn đàn, không phải là vì viết nhiều. Hà Uyên trở lại với chủ đề: Có cách nào để bốc dịch chính xác hơn ? Trên tinh thần : Tìm về cội nguồn. Cội nguồn của Bốc Dịch, có thể bắt đầu từ Kinh phòng. Ông nói:"Dương thắng âm là tráng, tráng cực tắc phản ở âm". Trong 64 quẻ của Kinh Dịch, thì có 3 quẻ nói về số 7, quan trọng hơn cả là quẻ Địa Lôi Phục. Tại sao lại nói đến số 7 ? Quy luật của tự nhiên đã để lại cho người phương Đông thích ứng theo thời gian: cứ 19 năm thì có 7 năm có tháng nhuận.! Thời gian vẫn cứ tiếp tục trôi, khi chúng ta phải chấp nhận: tháng nhuận = "0", trong quá trình tính tháng nhuận cho chu kỳ 19 năm. (19 - 7 = 12, hoặc 7 + 12 = 19). Kinh Phòng đưa ra thuyết Ngũ hành nạp vào Hào của quẻ Dịch, cũng vẫn trên nguyên lý của Kinh Dịch: số 7 Ví dụ: quẻ Thuần Càn, là quẻ Cha - Mẹ, khí Dịch bắt đầu từ hào 1 1- Thuần Càn hào 1 2- Thiên Hoả Đồng nhân hào 2 3- Thiên Lôi Vô vọng hào 3 4- Phong Lôi Ích hào 4 5- Sơn Lôi Di hào 5 6- Địa Lôi Phục hào 6 7- Thuần Khôn hào 1 Từ quẻ Thuần Càn hào 1, đến quẻ thứ 7 là quẻ Thuần Khôn, thì hào 1 là hào Dương quẻ Càn mới biến thành hào 1 là hào Âm quẻ Khôn. Tiếp tục từ quẻ Thuần Khôn khí Dịch lại bắt đầu từ hào 1: 7- Thuần Khôn hào 1 8- Địa Thuỷ Sư hào 2 9- Địa Phong Thăng hào 3 10- Lôi Phong Hằng hào 4 11- Trạch Phong Đại quá hào 5 12- Thiên Phong Cấu hào 6 13- Thuần Càn hào 1 Quẻ Thuần Càn khí Dịch bắt đầu từ hào 1, thì đến quẻ thứ 7 hào 1 dương biến thành âm, và đến quẻ thứ 12, thì "thể" của quẻ Thuần Càn trở lại ban đầu, duy nhất chỉ có hào 1 biến đổi dương thành âm. Ta có thể viết như sau: 1 -> 2 -> 3 -> 4-> 5 -> 6 -> 7 -> 8 -> 9 -> 10 -> 11 -> 12 -> 13 Như vậy : 1 = 13 Khi ta chấp nhận quẻ số 7 là quẻ "Trung tâm". Từ quẻ số 2 đến quẻ số 6 bao gồm "5" quẻ có 30 hào, tương đồng với 30 ngày từ Giáp Tý -> Giáp Thân. Từ quẻ số 8 đến quẻ số 12 cũng bao gồm "5" quẻ có 30 hào, tương đồng với 30 ngày từ Giáp Ngọ -> Giáp Dần. Mối quan hệ Lục thập hoa giáp với 60 hào này như thế nào ? Vấn đề Giáp Tý bắt đầu khởi từ đâu ? Hà Uyên đang ở hào 3 quẻ Thuần Càn, khi cộng thêm với 7 thì ở hào 4 quẻ Thuần Khôn: "Thắt chặt miệng túi".
-
Khi Hà Uyên chọn thông số ban đầu để tính, là căn cứ theo phương pháp tư duy của Thiệu Ung, lấy "số thứ tự" của Hà Uyên khi tham gia vào diễn đàn là 3717, chia cho 64 quẻ, được số 5. Lấy Năm-Tháng-Ngày-Giờ khi Hà Uyên đăng khí tham gia làm Tổng chia cho 6 tìm hào động. - Đối với Hà Uyên, thì số 5 theo Tiên thiên là quẻ Phong Thiên Tiểu súc. - Với diễn đàn này, thì số 5 được hiểu như thế nào đối với Hà Uyên ? Vì sự giao lưu là: Liêm Trinh --> VIETHA --> dichnhan07 --> VanTrungHac --> Thiên Sứ (thực ra còn Như Thông nhưng vì Hà Uyên chưa giao lưu). Số 5 đối với Hà Uyên là anh Thiên Sứ. Theo Nguyên lý vị trí: Vị trí trung tâm 5 - 10, thì Hà Uyên chọn giải pháp ứng xử theo "Đại cục", có nghĩa là, từ "Trung tâm", Hà Uyên tôn trọng nguyên tắc: Tìm về cội nguồn.
-
Tại sao lại như vậy ? Khi Hoàng đế hỏi, có nghĩa rằng Hoàng đế động, tại sao lại coi là Hoàng đế động ? Vì Hoàng đế có thắc mắc ở trong lòng mà chưa hiểu, như vậy là bên trong của Hoàng đế động, có thể coi như "Nội quái động" mà "Ngoại qoái tĩnh", cũng có nghĩa Hoàng đế là Dương gặp Âm vậy. Như vậy, ta có thể nói Dương động - Âm tĩnh được không ?
-
Hà Uyên trao đổi tiếp tục Mỗi chúng ta, không ai có thể làm đảo lộn được trật tự của thời gian. Từ đây, chắc rằng cũng rất ít người làm thay đổi được quá trình nhận thức của mỗi một cá nhân. Ví như, Hà Uyên không thể tự cho mình dùng kiến thức của học sinh lớp 4, mà chưa qua quá trình nhận thức của lớp 1, lớp 2. Cũng ví như, Hà Uyên và Liêm Trinh giao lưu trên diễn đàn lyhocdongphuong, được gọi là "số 1", thì đến vị trí thứ 5, Hà Uyên giao lưu với anh Thiên Sứ, số "5" được coi như vị trí "Trung tâm" của Hà - Lạc. Giả thiết như Hà Uyên có "mưu lược" như Liêm Trinh đã nói, từ cái "ngẫu nhiên" để biến thành cái "tất nhiên", thì đương nhiên đến người thứ năm Hà Uyên giao lưu, là anh Thiên Sứ. Vị trí của Trung tâm. Một đặc trưng cơ bản của BỐC DỊCH, là "dụng thần" lại do đối tượng Khách quan quy định, trên nền giao lưu của Hoàng đế Nội kinh: Hoàng đế hỏi - Kỳ Bá trả lời. Làm thế nào để bốc dịch được chính xác ?, Ai là Hoàng đế, ai là kỳ bá ? Ai là Âm, ai là dương ? Giả thiết là Liêm Trinh chủ động giao lưu với Hà Uyên, như vậy Liêm Trinh là Dương mà Hà Uyên là Âm, nhưng thực tiễn thì Hà Uyên chủ động chào Liêm Trinh, như vậy thì Hà Uyên là âm chủ động gặp dương. Vậy thì, chưa thể dùng một mình hào động làm nguyên nhân "gốc" để xác định thông tin.
-
Chào Liêm Trinh Khi Liêm Trinh nói: "Làm thế nào để BỐC DỊCH chính xác hơn" Hà Uyên xin kể lại: Những người đi trước đã hướng dẫn cho Hà Uyên: tư duy về "tượng quẻ trước". Sau đó mới tư duy về "Lục thân". Ví dụ: khi Bốc Dịch được quẻ Trạch Sơn Hàm hào 2 được quẻ Trạch Phong Đại quá - Tư duy theo tượng quẻ Kinh Dịch: quẻ Hàm tượng trưng cho sự giao cảm. Quẻ Đại quá tượng trưng cho sự quá mức - Tư duy theo tượng quẻ Kinh Phòng, Bốc phệ chính tông, Tăng san bốc dịch: quẻ Hàm có tượng "Manh nha xuất thổ", rồi đến quẻ Đại quá có tượng: "Dạ mộng kim ngân" Cũng phải mất đến 8 tháng hay một năm sau, Hà Uyên mới thuộc được tượng của 64 quẻ, và cảm nhận được một phần nào đó về ý nghĩa của "tượng quẻ". Mặc dù tại thời điểm đó, Hà uyên trong lòng vẫn thích xác định được hào động, tìm lục thân, an Thế - Ứng, tìm dụng thần,... Bước thứ hai là: đi sâu vào phân tích 8 quẻ "bát thuần", khi Kinh Phòng đưa Ngũ hành vào nạp cho hào quẻ Dịch. Đây là bước quan trọng, mối quan hệ "mẹ - con" ? từ quẻ Mẹ với 7 quẻ con ? Hình thành một phương pháp tư duy cho mỗi người, thì các nước phát triển đã làm rất có hiểu quả. Phương Tây hình thành một phương pháp sư phạm chuẩn mực cho loài người. Từ cá nhân Hà Uyên, một chia sẻ kinh nghiệm, một người Hà Uyên giao lưu đầu tiên trên diễn đàn (số "1")
-
Hà Uyên xin cùng được tham gia Ngày Quốc khánh 2 - 9 - 1945 giờ Thìn, có Bát tự là: Ất Dậu - Giáp Thân - Giáp Tuất - Mậu Thìn (26/7 âm) - Theo phương pháp của Trần Đoàn, môn Bát tự Hà Lạc: Tổng số âm là 32, tổng số dương là 29. Được quẻ Địa Phong Thăng, có Nguyên đường ngồi hào 3. - Từ năm 1945 - 1950, hào 3 quẻ Thăng - Từ năm 1951 - 1956, hào 4 quẻ Thăng - Từ năm 1951 - 1956, hào 5 quẻ Thăng - Từ năm 1957 - 1962, hào 6 quẻ Thăng - Từ năm 1963 - 1968, hào 1 quẻ Thăng - Từ năm 1969 - 1977, hào 2 quẻ Thăng - Từ năm 1978 - 1986, hào 3 quẻ Thăng - Từ năm 1987 - 1995, hào 1 quẻ Phong Lôi Ích - Từ năm 1996 - 2001, hào 2 quẻ Ích - Từ năm 2002 - 2007, hào 3 quẻ Ích - Từ năm 2008 - 2013, hào 4 quẻ Ích + Hào 4 quẻ Ích 2008 - 2013: "Lục Tứ, trung hàng cáo công tòng, lợi dụng vi y thiên quốc - Dịch: "Hào Sáu Bốn, giữ điều trung, thận trọng sự hành, cung kính thăm hỏi bậc vương công, tất sữ được lời nghe, kế theo, lợi về sự dựa vào Bậc quân thượng trong việc dời đô, ích dân". (Thủ đô Hà nội mở rộng) - Tượng viết:"Cáo công tùng, dĩ ích chí dã" - Dịch: Tượng truyện nói: "Cung kính thăm hỏi Bậc vương công, tất sẽ được lời nghe, kế theo", nói lên Sáu Bốn lấy sự tăng ích tâm chí thiên hạ để khuyên gián vương công. +Tiểu Vận:2008 - Thiên Lôi Vô vọng hào 4, năm 2009 - Hoả Lôi Phệ hạp hào 5, Phệ hạp: Hanh, lợi dụng ngục + Tiến trình của hào 5 quẻ Hoả Lôi Phệ hạp: 1- Hoả Lôi Phệ hạp hào 5: "Lục Ngũ, phệ can nhục, đắc hoàng kim; trinh lệ, vô cữu" 2- Thuần Lôi hào 6: "Thượng Lục, Chấn tác tác, thị quắc quắc, chinh hung, chấn bất vu kỳ cung, vu kỳ lân, vô cữu, hôn cấu hữu ngôn" 3- Lôi địa Dự hào 1: "Sơ Lục, minh dự, hung" 4- Lôi Thuỷ Giải hào 2: "Cửu Nhị, điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ, trinh cát" (Chín Hai, đi săn bắt được mấy con cáo, được mũi tên mầu vàng, (đặc trưng cho đức trung trực), giữ được chính bền thì được tốt lành) 5- Lôi Phong Hằng hào 3: "bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu, trinh lận" (Chín Ba, không thường giữ được đức đẹp, có khi bị người làm cho hổ thẹn, phải giữ vững chính bền để phòng sự thẹn tiếc) 6- Địa Phong Thăng hào 4: "Lục Tá, vương dụng hưởng vu Kỳ Sơn, cát, vô cữu" (Sáu Bốn, nhà vua đến núi Kỳ sơn tế thần linh, tốt lành, tất không cữu hại) 7- Thuỷ Phong Tỉnh hào 5: "Cửu Ngũ, tỉnh liệt, hàn tuyền thực" (Nước giếng trong như nước suối mát có thể mức để ăn) 8- Thuần Tốn hào 6: "Thượng cửu, tốn tại sàng hạ, táng kỳ tư phủ, trinh hung" (Chín Trên, thuận theo quá mức, nép ở dưới giường, giống như mất búa sắc cứng rắn; giữ vững chính bền để phòng hung hiểm" 9- Phong Thiên Tiểu sức hào 1: "Sơ Cửu, phục tự đạo, hà kỳ cữu, ? Cát" (Trở về đạo dương cứng của mình, có "cữu hại" gì đâu ? Tốt lành) 10- Phong Hoả Gia nhân hào 2: "Lục Nhị, vô du toại, tại trung quỹ, trinh cát" (Sáu Hai, không có thành tựu gì, coi sóc việc nấu nướng trong nhà, giữ vững chính bền thì được tốt lành) 11- Phong Lôi Ích hào 3: "Lục Tam, ích chi dụng hung sự, vô cữu, hữu phu trung hàng, cáo công dụng khuê" (Sáu Ba, nhận ích phần lớn phải dấn thân để cứu người khỏi điều ác, giải trừ hiểm nguy (như vậy) mới không lỗi; tất phải giữ lòng thành tín, giữ đạo trung, thận trọng trong công việc, lúc nào cũng phải như tay cầm ngọc khuê tâu việc với bậc quân vương) 12- Thiên Lôi Vô vọng hào 4: "Cửu Tứ, khả trinh, vô cữu" (Chín Bốn, có thể giữ vững chính bền, do đó tất không bị cữu hại) - Tháng Giêng: quẻ Lôi Địa Dự hào 1: Dự, lợi kiến hầu hành sư. - Tháng Hai: quẻ Lôi Thuỷ Giải hào 2: Giải, lợi Tây Nam; vô sở vãng, kỳ lai phục cát; hữu du vãng, túc cát. - Tháng Ba: quẻ Lôi Phong Hăng hào 3: Hằng, hanh, vô cữu, lợi trinh, lợi hữu du vãng. - Tháng Tư: quẻ Địa Phong Thăng hào 4:Thăng: Nguyên hanh, dụng hiện đại nhân, vật tuất, nam trinh cát. - Tháng Năm quẻ Thuỷ Phong Tỉnh hào 5: Tỉnh, cải ấp bất cải tỉnh, vô táng vô đắc, vãng lai tỉnh tỉnh. Hất chí diệc vị duậtttiinỉnh, luy kỳ bình hung - Tháng Sáu quẻ Thuần Tốn hào 6: Tốn, tiểu hanh, lợi hữu du vãng, lợi hiện đại nhân. - Tháng Bảy quẻ Phong Thiên Tiểu súc hào 1: Tiểu súc, hanh; mật vân bất vũ, tự ngã tây giao. - Tháng Tám quẻ Phong Hoả Gia nhân hào 2: Gia nhân, lợi nữ trinh - Tháng Chín quẻ Phong Lôi Ích hào 3: Ích, lợi hữu du vãng, lợi thiệp đại xuyên. - Tháng Mười quẻ Thiên Lôi Vô vọng hào 4: Vô vọng: Nguyên hanh, lợi trinh, kỳ phỉ chính hữu sảnh, bất lợi hữu du vãng. - Tháng Một quẻ Hoả Lôi Phệ hạp hào 5: Phệ hạp, hanh, lợi dụng ngục. - Tháng Chạp quẻ Thuần Chấn hào 6: Chấn, hanh. Chấn lai kích kích, tiểu ngôn nha nha; chấn kinh bách lý, bất táng chuỷ sưởng. - Theo phương pháp của Thiệu Ung: môn Hoàng cực kinh thế:
-
Hà Uyên chào Rubi Rubi viết:"nick Hà Uyên : lạc thu gép với tiên thiên bát quái" Hà Uyên đã đọc lại những bài viết của mình trên diễn đàn với một thái độ ngiêm túc. Khi tìm hiểu về phương pháp tư duy của Thiệu Ung, nguyên lý Động - Tĩnh đã được Thiệu Ung từ Hậu Thiên truy ngược lại Tiên thiên, đó là một đóng góp lớn, mà Hà Uyên tất tôn trọng. Khi Ngoại quái tĩnh và khi Nội quái tĩnh, Thiệu Ung đã chỉ ra những quy định để hình thành một học thuyết của mình, mà sáng tạo ra HOÀNG CỰC KINH THẾ, MAI HOA DỊCH SỐ. Hà Uyên vẫn còn rất nhiều thắc mắc về khái niệm:"trị số thực dụng", và "số thứ tự". Hà Uyên tạm thời đành phải trả lời với chính bản thân mình: "trị số thực dụng" ví như cùng học một lợp phổ thông, có cùng một năm sinh, nhưng khác nhau về Tháng-Ngày-Giờ. Còn "số thứ tự" ví như lớp học lái xe, các Học viên trong lớp học lái xe lại có Năm sinh khác nhau, không cùng một gốc để xét về "thời". Vậy thì, khi nào thì áp dụng "trị số thực", và khi nào thì áp dụng "số thứ tự". ? Một lần nữa, xin cảm ơn Rubi đã dành thời gian cho Hà Uyên.
-
Hà Uyên xin chào các Anh các Chị trên dĩên đàn Hà Uyên chào Rubi Xin chân thành cảm ơn những ý kiến nhận xét của các Anh Chi và Rubi về Hà Uyên. Cách thức tiếp cận đối với những kiến thức Người xưa đã để lại, tạo nên cái nội tại trong Hà Uyên rất đam mê, nhưng cũng rất trăn trở. Để tìm cho chính bản thân một khuôn khổ tư duy, phương pháp nhận thức, thì Hà Uyên còn nhiều lúng túng. Hà Uyên xin trân thành cảm ơn.
-
Đạo lý trong thiên hạ bao giờ cũng là “trung”. “Định vị” là phép tắc nhấn mạnh sự không thể thay đổi của vũ trụ. “Động - Biến - Hóa” là quy luật phổ biến nêu rõ sự phát triển của sự vật. “Dị giản” là chỉ rõ đạo Càn Khôn thuần nhất không tạp, dễ biết, dễ theo. Sự động - biến – hoá của Âm Dương thông qua một hào dịch luôn luôn có 12 giai đoạn. Ví dụ: Quẻ Sơn Lôi Di
-
HÀO 6.5 1- Sơn Lôi Di 6.5 - “Lục Ngũ, phất kinh, cư trinh cát, bất khả thiệp đại xuyên.” - Dịch: “Hào Sáu Năm (ví như bậc “quân vương” dựa vào sự kẻ trên nuôi nình để nuôi thiên hạ), trái với lẽ thường, ở yên giữ vững chính bền thìđược tốt lành, không thể vượt qua sông cả sóng lớn.” - Tượng: Sáu Năm nên thuận theo và dựa vào người hiền lương dương cứng Chín Trên. Thuận tình đi theo cấp trên, là điềm lành do “cư trinh”. 2- Địa Lôi Phục hào 5: - “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối.” - Dịch: “Hào Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận.” - Tượng: Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, tự mình suy xét để thành được đạo phục thiện. 3- Thuần Khôn hào 5: - “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát.” - Dịch: “Hào Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành.” - Tượng: Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ đạo “trung”. “Hoàng thường”, văn hóa là trung tâm. 4- Địa Thủy Sư hào 5: - “Lục Ngũ, điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu, trưởng tử xuất sư, đệ tử dư thi, trinh hung.” - Dịch: “Hào Sáu Năm, trong ruộng có cầm thú, lợi về sự vây bắt, tất không có gì cữu hại ; ủy nhiệm cho bậc trưởng giả cương chính thì có thể thống xuất quân đội, còn ủy nhiệm cho bọ tuổi trẻ không có đức thì tất phải trở xác, đại bại mà về, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.” - Tượng: “trưởng tử xuất sư”, hoạt động của trung tâm ; “đệ tử dư thi”, là kết quẻ của việc sử dụng người không đích đáng. Lệnh ban ra không thỏa đáng. 5- Địa Phong Thăng hào 5: - “Lục Ngũ, trinh cát, thăng giai.” - Dịch: “Hào Sáu Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, giống như cứ từng bậc một mà lên cao.” - Tượng: hết sức toại nguyện với tâm chí lên cao, ý chí thật lớn lao. 6- Lôi Phong Hằng hào 5: - “Lục Ngũ, hằng kỳ đức, trinh ; phụ nhân cát, phu tử hung.” - Dịch: “Hào Sáu Năm, muốn thường giữ phẩm đức mềm đẹp, nên giữ vững chính bền ; đàn bà thì được tốt lành, đàn ông tất có hung hiểm.” - Tượng: cần suốt đời thuận tòng một bề theo một chồng ; đàn ông phải điều hành mọi việc sao cho thích hợp, nếu mềm thuận như đàn bà tất có hung hiểm. Chồng ở rể, theo vợ là hung. 7- Trạch Phong Đại quá hào 5: - “Cửu Ngũ, khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kỳ sỹ phu ; vô cữu vô dự.” - Dịch: “Hào Chín Năm, cây dương khô ra hoa mới, bà già lọm khọm lấy được người chồng khỏe mạnh, không bị cữu hại, cũng không được khen.” - Tượng: “dương khô ra hoa” như vậy thì sức sống làm sao lâu bền được. “bà già lọm khọm”, tình trạng như vậy thật đáng xấu hổ. 8- Thiên Phong Cấu hào 5: - “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua, hàm chương, hữu vẫn tự nhiên.” - Dịch: “Hào Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che trở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống.” - Tượng: tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời. Hàm nghĩa 9.5 nói về hiện tượng lạ “thiên thạch từ trời rơi xuống.” 9- Thuần Càn hào 5: - “Cửu ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân.” - Dịch: “Hào Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân.” 10- Thiên Hỏa Đồng nhân hào 5: - “Cửu Ngũ, đồng nhân, tiên hào đào, nhi hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ.” - Dịch: “Hào Chín Năm, hòa đồng với người, trước thì khóc lóc kêu rên, sau thì vui mừng cười reo, đánh lớn rồi báo tiệp, chí đồng rồi tương ngộ hội hợp.” - Tượng: “trước thì khóc lóc kêu rên”, do Chín Năm trung chính, chân thành thẳng thắn. “Phải đến khi đại quân xuất chiến mới tương ngộ hội hợp cùng kẻ chí đồng”, là do Chín Năm cùng với kẻ địch giao chiến và đã chiến thắng. 11- Thiên Lôi Vô vọng hào 5: - “Cửu Ngũ, vô vọng chi tật, vật dược hữu hỷ.” - Dịch: “Hào Chín Năm, không càn bậy mà bị bệnh nhẹ, không cần phải uống thuốc mà vui vì khỏi bệnh.” - Tượng: Chín Năm không dùng thử linh tinh, không thể thử thuốc. 12- Phong Lôi Ích hào 5: - “Cửu Ngũ, hữu phu huệ tâm, vật vấn nguyên cát: Hữu phu huệ ngã đức.” - Dịch: “Hào Chín Năm, có lòng chân thành, tín thực ban ơn cho thiên hạ, không cong nghi ngờ gì là hết sức tốt đẹp: Người trong thiên hạ tất sẽ chân thành tín thực cảm ân huệ và nghĩ tới sự báo đáp ân đức của ta.” - Tượng: “tín thực ban ơn cho thiên hạ”, nói lên sự hết sức tốt lành là điều không cần phải hỏi. “báo đáp ân đức của ta”, nói lên hào Chín Năm được lớn chí tổn thượng ích hạ. Cái đạt được lớn nhất là ý chí. 13- Sơn Lôi Di hào 5 HÀO 9.6 1- Sơn Lôi Di hào 6 - “Thượng Cửu, do di ; lệ cát, lợi thiệp đại xuyên.” - Dịch: “Hào Chín Trên, thiên hạ nhờ nó mà được nuôi dưỡng, biết nguy mà thận trọng thì được tốt lành, lợi về vượt qua sông cả sóng lớn.” - Tượng: Chín Trên có phúc khánh lớn. 2- Sơn Địa Bác hào 6: - “Thượng Cửu, thạc quẻ bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư.” - Dịch: “Hào Chín Trên, quẻ lớn chưa bị hái xuống ăn, người quân tử hái được nó thì có thể ruổi xe đi cứu đời, kẻ tiểu nhân hái được tất sẽ đi đến chỗ phá vạn nhà.” - Tượng: “quân tử đắc dư”, nói lên ý trăm họ do vậy được bề trên che trở. “tiểu nhân bác lư”, nói lên kẻ tiểu nhân cuối cùng không thể tin dùng được. Cuối cùng nhà nát không thể dùng được nữa. 3- Sơn Thủy Mông hào 6: - “Thượng Cửu, kích mông, bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.” - Dịch: “Hào Chín Trên, làm mạnh để mở mang sự ngu tối, không lợi về dùng cách thức quá dữ dằn, cách này chỉ nên ngừa giặc mạnh.” - Tượng: Chín Trên có thể khiến cho ý chí trên dưới hài hòa, ứng thuận. 4- Sơn Phong Cổ hào 6: - “Thượng Cửu, bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự.” - Dịch: “Hào Chín Trên, không làm sự nghiệp của bậc vương hầu, đề cao hành vi ung dung tự tại của mình.” - Tượng: ý chí của Chín Trên đáng để noi theo. Không việc gì là không đến tay vương hầu. 5- Hỏa Phong Đỉnh hào 6: - “Thượng Cửu, đỉnh ngọc huyễn, đại cát, vô bất lợi.” - Dịch: “Hào Chín Trên, vạc có đòn bằng ngọc, hết sức tốt lành, không gì không lợi.” - Tượng: Chín Trên dương cứng có thể điều tiết bằng âm mềm. Cương nhu hòa hợp. 6- Thiên Phong Cấu hào 6 : - “Thượng Cửu, cấu kỳ giác, lận, vô cữu.” - Dịch: “Hào Chín Trên, gặp nơi trống vắng, lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cưu hại.” - Tượng: ở nơi cao cùng cực nên dẫn tới sự hối tiếc là tương ngộ mà không người. Nghèo hèn sinh ra tiếc của (từ giầu có tụt dốc xuống thành nghèo khổ). 7- Trạch Phong Đại quá hào 6: - “Thương Lục, quá thiệp diệt đỉnh ; hung, vô cữu.” - Dịch: “Hào Sáu Trên, lội nước quá sâu đến nỗi ngập cả đầu ; có hung hiểm, nhưng không có lỗi gì.” - Tượng: cứu đời mà mất mạng, không thể coi là có lỗi. qua sông hỏng thuyền. 8- Trạch Thiên Quải hào 6: - “Thượng Lục, vô hào, chung hữu hung.” - Dịch: “Hào Sáu Trên, không phải gào khóc, cuối cùng khó tránh sự hung hiểm. - Tượng: Với tình thế ở cao bên trên cuối cùng không thể lâu dài. 9- Trạch Hỏa Cách hào 6: - “Thương Lục, quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện, chinh hung, cư trinh cát.” - Dịch: “Hào Sáu Trên, người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, kẻ tiểu nhân đua nhau làm thay đổi khuynh hướng thời trước, lúc này nếu cứ tiếp tục tiến mạnh không thôi, tất có hung hiểm, ở yên giữ vững chính bền thì được tốt lành.” - Tượng: “quân tử báo biến”, ngôn ngữ hoa mỹ bay bổng. “Đánh dấu vào mặt tiểu nhân”, thuận tòng sự niến cách của nhà vua. 10- Trạch Lôi Tùy hào 6: - “Thương Lục, câu hệ chi, nãi tùng, duy chi; vương dụng hưởng vu tây sơn.” - Dịch: “Hào Sáu Trên, bắt giam, cưỡng bức phải theo, theo mà rằng chặt lấy ; đấng quân vương xuất quân thảo nghịch đặt tế lễ ở non tây.” - Tượng: ở ngôi trên cùng, đạo theo cùng tận, “trên” nghèo khổ. 11- Thủy Lôi Truân hào 6: - “Thương Lục, thừa mã ban như, khấp huyết liên như.” - Dịch: “Hào Sáu Trên, người cưỡi ngựa muốn cầu hôn phối (nhưng lại không có sự cảm ứng) nên thương tâm khóc đến nỗi máu mắt chảy đầm đìa.” - Tượng: làm sao mà có thể trường cửu như vậy được. 12- Địa Lôi Phục hào 6: - “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại, dĩ kỳ quốc, quân hung, chí vu thập niên bất khắc chinh.” - Dịch: “Hào Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến nhiều năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển.” - Tượng: Sáu Trên đi ngược với con đường của đạo quân chủ dương cứng. Ngược với đạo lý của vua. 13- Sơn Lôi Di hào 6
-
HÀO 6.4 1- Sơn Lôi Di 6.4: - “Lục Tứ, điên di, cát ; hổ thị đam đam, kỳ dục trục trục, vô cữu.” - Dịch: “Hào Sáu Bốn, đảo điên mà cầu dưới nuôi dưỡng (rồi lại dùng sự nuôi dưỡng đó nuôi lại mọi người), tốt lành ; như mắt hổ nhìn đăm đăm, gấp gáp cầu xin tiếp liền không dứt, tất không có cữu hại.” - Tượng: Sáu Bốn ở ngôi trên mà có thể tỏa rọi ánh sáng của đức đẹp xuống dưới. Lòng đầy thèm muốn. Điềm cát, đã thực hiện xong công việc. 2- Phong Lôi Ích hào 4: - “Lục Tứ, trung hàng cáo công tòng, lợi dụng vi y thiên quốc.” - Dịch: “Hào Sáu Bốn, giữ điều trung, thận trọng sự hành, cung kính thăm hỏi bậc vương công tất sẽ được lời nghe, kế theo, lợi về sự dựa vào bậc quân thượng trong việc dời đô, ích dân.” - Tượng: Sáu Bốn lấy sự tăng ích tâm chí thiên hạ để khuyên gián vương công 3- Thủy Lôi Truân hào 4: - “Lục Tứ, thừa mã ban như, cầu hôn cấu ; vãng cát, vô bất lợi.” - Dịch: “Hào Sáu Bốn, cưỡi ngựa dập dừu tới, muốn cầu hôn ; đi lên tất sẽ tốt lành, không gì là không lợi.” - Tượng: Sáu Bốn muốn cầu hôn ở phía dưới mà tiến lên, như vậy là kẻ sáng suốt hiểu biết. 4- Thủy Địa Tỷ hào 4: - “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát.” - Dịch: “Hào Sáu Bốn, ở ngoài thân mật, gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền thì được sự tốt lành.” - Tượng: Sáu Bốn thuận theo bậc tôn thượng. 5- Thuần Khảm hào 4: - “Lục Tứ, tôn tửu, quỹ nhị, dụng phẫu, nạp ước tự dũ, chung vô cữu.” 6- Thủy Phong Tỉnh hào 4: - “Lục Tứ, tỉnh trụ, vô cữu.” - Dịch: “Hào Sáu Bốn, giếng nước đang được xây lại, tất không cữu hại.” - Tượng: Sáu Bốn chỉ có thể sửa giếng (không thể nóng vội mà nuôi người. 7- Trạch Phong Đại quá 9.4: - “Cửu Tứ, đống long, cát ; hữu tha, lận.” - Dịch: “Hào Chín Bốn, cột vươn thẳng như trước, tốt lành ; nếu ứng viện với dưới, tất sinh thẹn tiếc.” - Tượng: Chín Bốn không thể cho cột lại ỏe xuống nữa. 8- Lôi Phong Hằng hào 4 - Lục Tứ, điền vô cầm.” - Dịch: “Hào Sáu Bốn, đi săn không được cầm thú.” - Tượng: Sáu Bốn ở lâu không đúng chỗ của mình, săn bắn làm sao mà bắt được cầm thú ? 9- Hỏa Phong Đỉnh hào 4: - “Cửu Tứ, đỉnh chiết túc, phúc công tốc, kỳ hình ốc, hung.” - Dịch: “Hào Chín Bốn, vạc khó lòng chựu nổi sức nặng, chân vạc gãy, cao lương mỹ vị của vương công bị đổ hết, thân vạc ướt át bẩn thửu, có hung hiểm.” - Tượng: Chín Bốn làm sao còn tín nhiệm được nữa. Chân đỉnh bị cắt, tức là lật đổ chế độ cũ, nên tin như thế nào cho phải ? 10- Hỏa Thiên Đại hữu hào 4: - “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu.” - Dịch: “Hào Chín Bốn, đừng để tỏ ra quá sự giầu có thì không bị họa hại.” 11- Thuần Ly hào 4: - “Cửu Tứ, đột như kỳ lai như, phần như, tử như, khí như.” - Dịch: “Hào Chín Bốn, giống như ngọn lửa mạnh đang thiêu đốt, nhưng chỉ trong phút chốc sẽ bị tiêu tán diệt vong, bị vứt bỏ sạch trơn.” - Tượng: hư thế của Chín Bốn sẽ làm cho nó không còn nơi phụ bám, chứa chấp. Vật đột nhiên đến, không có chỗ dung thân. 12- Hỏa Lôi Phệ hạp hào 4: - “Cửu Tứ, phệ can tỷ, đắc kim thỉ ; lợi gian trinh, cát.” - Dịch: “Hào Chín Bốn, gia hình không thuận lợi như cắn miếng thịt có xương khô, nhưng có khí phách cương trực như mũi tên đồng, lợi về trong gian nan giữ vững được chính bền, tốt lành.” - Tượng: đạo trị ngục của Chín Bốn chưa phát huy được sáng lớn, không sáng sủa gì. 13- Sơn Lôi Di hào 4
-
-
HÀO 6.3 1- Sơn Lôi Di 6.3: - Lục Tam, phất di ; trinh hung, thập niên vật dụng, vô du lợi.” - Dịch: “Hào Sáu Ba, trái với lẽ thường “nuôi dưỡng” ; giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, mười năm dài lâu không được thi thố tài dụng, nếu thi thố tất sẽ không được lợi gì.” - Tượng: Hào Sáu Ba đại nghịch bất đạo với chính đạo nuôi dưỡng. 2- Hỏa Lôi Phệ hạp 9.4: - “Lục Tam, phệ tích nhục, ngộ độc ; tiểu nhân lận, vô cữu.” - Dịch: “ Hào Sáu Ba, gia hình không thuận lợi, như cắn phải thịt khô rắn cứng, lại ngộ độc ; nhưng như vậy bất quá chỉ hơi tiếc, chứ không đến nỗi cữu hại” - Tượng: Hào Sáu Ba cư vị không thỏa đáng, đến nỗi bị kẻ thụ hình sinh oán. 3- Thiên Lôi Vô vọng 9.5: - “ Lục Tam, vô vọng chi tai: hoặc hệ chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai.” - Dịch: “Hào Sáu Ba, không làm càn mà bị tai ương: ví như có người buộc một con trâu, người đi đường dắt về làm của mình, người trong ấp bị nghi oan là bắt trộm.” - Tượng: Hào Sáu Ba vận số đến lúc bị tai bay vạ gió, bị đổ tội oan. 4- Trạch Lôi Tùy 6.6: - “Lục Tam, hệ trượng phu, thất tiểu tử ; tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh.” - Dịch: “Hào Sáu Ba, quấn quýt với đấng trượng phu dương cứng, mất kẻ tiểu tử ở dưới, theo với người mà ta đã cầu tất được, lợi nếu như ở yên, giữ vững chính bền.” - Tượng: Hào Sáu Ba là bỏ kẻ tiểu tử ở dưới. 5- Trạch Địa Tụy 6.1: - “Lục Tam, tụy như ta như, vô du lợi ; vãng vô cữu, tiểu lận.” - Dịch: “Hào Sáu Ba, (muốn) tụ hội (mà) không người, nên luôn miệng ca thán, không được lợi gì ; đi lên sẽ không có cữu hại, nhưng có sự tiếc nhỏ.” - Tượng: Sáu Ba lòng muốn hướng lên trên thuận theo dương cứng. 6- Trạch Thủy Khốn 9.2: - “Lục Tam, khốn vu thạch, cứ vu tật lê ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, hung.” - Dịch: “khốn ở dưới đá lớn (đá rắn khó vào), dừa vào cây tật lê (nhiều gai khó dẫm) ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, có hung hiểm.” - Tượng: Sáu Ba lấy chất âm mềm cưỡi lên kẻ cương cường. “Về nhà không thấy vợ” đây là hiện tượng chẳng lành. 7- Trạch Phong Đại quá 9.3: - “Cửu Tam, đống náo, hung.” - Dịch: “hào Chín Ba, cột ỏe, hung.” - Tượng: Chín Ba không thể thêm gì để phụ giúp. 8- Thủy Phong Tỉnh 6.4: - “Cửu Tam, tỉnh tiết bất thực, vị ngã tâm trắc ; khả dụng cấp, vương minh tịnh thụ kỳ phúc.” - Dịch: “Hào Chín Ba, giếng nước được nạo vét sạch sẽ mà không được múc nấu ăn, khiến ta động lòng trắc ẩn, nên mau mau múc lấy nước giếng trong này, được vị vua sáng suốt thì vua tôi sẽ chung hưởng phúc trạch.” - Tượng: Chín Ba có hành vi chưa được hiểu, thật khiến cho người ta động lòng chắc ẩn, “nhà vua sáng suốt” là để cho vua tôi cùng hưởng phúc trạch. 9- Địa Phong Thăng 6.5: - “Cửu Tam, thăng hư ấp.” - Dịch: “Hào Chín Ba, lên cao dễ dàng như vào thẳng nơi thành ấp không người.” - Tượng: Chín Ba thượng thăng sẽ không có điều gì phải nghi ngờ suy nghĩ. 10- Sơn Phong Cổ 9.6: - “Cửu Tam, cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu.” - Dịch: “Hào Chín Ba, uốn nắn điều tệ loạn của cha, hơi có hối hận, nhưng không có cữu hại lớn.” - Tượng: Chín Ba mạo hiểm đưa ra lời can gián, cuối cùng không thể có cữu hại 11- Sơn Thiên Đại súc 9.1: - “Cửu Tam, lương mã trục, lợi gian trinh, nhật nhàn cư về, lợi hữu du vãng.” - Dịch: “Hào Chín Ba, ngựa tốt hay rong ruổi, lợi về nhớ kỹ sự gian nan, giữ vững chính bền ; không ngừng rèn luyện kỹ năng phòng vệ của ngựa xe, lợi về có sự đi.” - Tượng: Chín Ba hợp chí với hào Chín Trên. 12- Sơn Hỏa Bí 6.2: - “Cửu Tam, bí như, nhu như, vĩnh trinh cát.” - Dịch: “Hào Chín Ba, văn sức được đẹp đẽ đến nhường ấy, nhiều lần ban huệ trạch cho người, giữ vững chính bền được lâu dài sẽ được sự tốt lành.” - Tượng: Chín Ba có thể làm được như vậy thì không bao giờ bị kẻ khác lấn nhờn. 13- Sơn Lôi Di 6.3
-
TIÊN THIÊN NỘI TĨNH NGOẠI ĐỘNG Vị trí thứ nhất là Thuần Càn, số là 99, trong và ngoài đều là số “thành”, nội tĩnh ngoại tĩnh Vị trí thứ 2 là Trạch Thiên Quải, số là 49, trong là số “thành”, ngoài là số “sinh”, do quẻ Càn hào 6 biến. Ngoại động nội tĩnh. Vị trí thứ 3 là Hỏa Thiên Đại hữu, số là 39, ngoài “sinh” trong “thành”, ngoaì do quẻ Càn hào 5 biến. Vị trí thứ 4 là Lôi Thiên Đại tráng, số là 89, cả trong và ngoài đều là số “thành”, ngoài do quẻ Khôn hào 4 biến. Vị trí thứ 5 là Phong Thiên Tiểu súc, số là 29, nội tĩnh ngoại động, ngoại động do quẻ Càn hào 4 biến. Vị trí thứ 6 là Thủy Thiên Nhu, số là 79, nội và ngoại đều là số “thành”, ngoại do quẻ Khôn hào 5 biến. Vị trí thứ 7 là Sơn Thiên Đại súc, số là 69, nội và ngoại đều là số “thành", ngoại do quẻ Khôn hào 6 biến. Vị trí thứ 8 là Địa Thiên Thái, số là 19, nội “thành” ngoại “sinh”. Vị trí thứ 9 là Thiên Trạch Lý, số là 94. Vị trí thứ 10 là Thuần Đoài, số là 44. Vị trí thứ 11 là Hỏa Trạch Khuê, số là 34 . Vị trí thứ 12 là Lôi Trạch Quy muội, số là 84 Vị trí thứ 13 là Phong Trạch Trung phu, số là 24. Vị trí thứ 14 là Thủy Trạch Tiết, số là 74. Vị trí thứ 15 là Sơn Trạch Tổn, số là 64 Vị trí thứ 16 là Địa Trạch Lâm, số là 14. Vị trí thứ 17 là Thiên Hỏa Đồng nhân, số là 93. Vị trí thứ 18 là Trạch Hỏa Cách, số là 43. Vị trí thứ 19 là Thuần Ly (10 + 9), số là 33. Vị trí thứ 20 là Lôi Hỏa Phong, số là 83. Vị trí thứ 21 là Phong Hỏa Gia nhân, số là 23. Vị trí thứ 22 là Thủy Hỏa Ký tế, số là 73. Vị trí thứ 23 là Sơn Hỏa Bí, số là 63. Vị trí thứ 24 là Địa Hỏa Minh di số là 13. Vị trí thứ 25 là Thiên Lôi Vô vọng, số 98 Vị trí thứ 26 là Trạch Lôi Tùy, số là 48. Vị trí thứ 27 là Hỏa Lôi Phệ hạp, số là 38. Vị trí thứ 28 là Thuần Chấn, số là 88. Vị trí thứ 29 là Phong Lôi Ích, số là 28 Vị trí thứ 30 là Thủy Lôi Truân, số là 78. Vị trí thứ 31 là Sơn Lôi Di, số là 68. Vị trí thứ 32 là Địa Lôi Phục, số là 18. Vị trí thứ 33 là Thiên Phong Cấu, số là 92. Vị trí thứ 34 là Trạch Phong Đại quá, số là 42. Vị trí thứ 35 là Hỏa Phong Đỉnh, số 32. Vị trí thứ 36 là Lôi Phong Hằng, số là 82. Vị trí thứ 37 là Thuần Tốn, số là 22. Vị trí thứ 38 là Thủy Phong Tỉnh, số là 72. Vị trí thứ 39 là Sơn Phong Cổ, số là 62. Vị trí thứ 40 là Địa Phong Thăng, số là 12. Vị trí thứ 41 là Thiên Thủy Tụng, số là 97. Vị trí thứ 42 là Trạch Thủy Khốn, số là 47. Vị trí thứ 43 là Hỏa Thủy Vị tế, số là 37. Vị trí thứ 44 là Lôi Thủy Giải, số là 82 Vị trí thứ 45 là Phong Thủy Hoán, số là 27. Vị trí thứ 46 là Thuần Khảm, số là 77. Vị trí thứ 47 là Sơn Thủy Mông, số là 67. Vị trí thứ 48 là Địa Thủy Sư, số là 17. Vị trí thứ 49 là Thiên Sơn Độn, số là 96. Vị trí thứ 50 là Trạch Sơn Hàm, số là 46. Vị trí thứ 51 là Hỏa Sơn Lữ, số là 36. Vị trí thứ 52 là Lôi Sơn Tiểu quá, số là 86. Vị trí thứ 53 là Phong Sơn Tiệm, số là 26. Vị trí thứ 54 là Thủy Sơn Kiển, số là 76. Vị trí thứ 55 là Thuần Cấn, số là 66. Vị trí thứ 56 là Địa Sơn Khiêm, số là 16 Vị trí thứ 57 là Thiên Địa Bĩ, số là 91. Vị trí thứ 58 là Trạch Địa Tụy, số là 41. Vị trí thứ 59 là Hỏa Địa Tấn, số là 31. Vị trí thứ 60 là Lôi Địa Dự, số là 81. Vị trí thứ 61 là Phong Địa Quan, số là 21. Vị trí thứ 62 là Thủy Địa Tỷ, số là 71. Vị trí thứ 63 là Sơn Địa Bác, số là 61. Vị trí thứ 64 là Thuần Khôn, số là 11. HẬU THIÊN NỘI ĐỘNG NGOẠI TĨNH 1- Càn ngoại: - Vị trí thứ nhất là Thuần Càn, số thực dụng là 99 - Vị trí thứ 9 (1 +8) là Thiên Trạch Lý, số là 94. - Vị trí thứ 17 (9 + 8) là Thiên Hỏa Đồng nhân, số là 93. - Vị trí thứ 25 (17 +8) là Thiên Lôi Vô vọng, sô là 98 - Vị trí thứ 33 (25 +8) là Thiên Phong Cấu, số là 92. - Vị trí thứ 41 (33 +8) là Thiên Thủy Tụng, số là 97. - Vị trí thứ 49 (41 + 8) là Thiên Sơn Độn, số là 96. - Vị trí thứ 57 (49 + 8) là Thiên Địa Bĩ (bế tắc), số là 91 2- Đoài ngoại: - Vị trí thứ 2 là Trạch Thiên Quải, số là 49,(58 + 8 = 66 – 64 = 2) - Vị trí thứ 10 là Thuần Đoài (vui vẻ), số là 44 - Vị trí thứ 18 là Trạch Hỏa Cách (cải cách), số là 43. - Vị trí thứ 26 là Trạch Lôi Tùy (theo), số là 48. - Vị trí thứ 34 là Trạch Phong Đại quá (quá lớn), số là 42. - Vị trí thứ 42 là Trạch Thủy Khốn, số là 47. - Vị trí thứ 50 là Trạch Sơn Hàm (trai gái cảm nhau), số là 46. - Vị trí thứ 58 là Trạch Địa Tụy (nhóm họp), số là 41. 3- Ly ngoại: - Vị trí thứ 3 là Hỏa Thiên Đại hữu, số là 39, (59 + 8 = 67 – 64 = 3) - Vị trí thứ 11 là Hỏa Trạch Khuê (chia lìa), số là 34. - Vị trí thứ 19 là Thuần Ly, số là 33. - Vị trí thứ 27 là Hỏa Lôi Phệ hạp (cắn để hợp), số là 38. - Vị trí thứ 35 là Hỏa Phong Đỉnh, số 32. - Vị trí thứ 43 là Hỏa Thủy Vị tế, số là 37. - Vị trí thứ 51 là Hỏa Sơn Lữ (bỏ nhà đi tha hương), số là 36. - Vị trí thứ 59 là Hỏa Địa Tấn (tiến lên), số là 31. 4- Chấn ngoại: - Vị trí thứ 4 là Lôi Thiên Đại tráng, số là 89,(60 + 8 = 68 – 64 = 4) - Vị trí thứ 12 là Lôi Trạch Quy muội (em gái về nhà chồng), số là 84. - Vị trí thứ 20 là Lôi Hỏa Phong (thịnh, lớn) số là 83. - Vị trí thứ 28 là Thuần Chấn, số là 88. - Vị trí thứ 36 là Lôi Phong Hằng (lâu dài), số là 82 - Vị trí thứ 44 là Lôi Thủy Giải, số là 87. - Vị trí thứ 52 là Lôi Sơn Tiểu quá (quá chút ít), số là 86. - Vị trí thứ 60 là Lôi Địa Dự (vui sướng), số là 81. 5- Tốn ngoại: - Vị trí thứ 5 là Phong Thiên Tiểu súc, số là 29 (61 + 8 = 69 – 64 = 5) - Vị trí thứ 13 là Phong Trạch Trung phu (có đức tin trong lòng), số là 24. - Vị trí thứ 21 là Phong Hỏa Gia nhân, số là 23. - Vị trí thứ 29 là Phong Lôi Ích (tăng lên), số là 28. - - Vị trí thứ 37 là Thuần Tốn, số là 22. - Vị trí thứ 45 là Phong Thủy Hoán (chia lìa, tan tác), số là 27. - Vị trí thứ 53 là Phong Sơn Tiệm (tiến dần), số là 26. - Vị trí thứ 61 là Phong Địa Quan (xem xét), số là 21. 6- Khảm ngoại: - Vị trí thứ 6 là Thủy Thiên Nhu (chờ đợi), số là 79 (62 + 8 = 70 – 64 = 6) - Vị trí thứ 14 là Thủy Trạch Tiết (tiết chế lại), số là 74. - Vị trí thứ 22 là Thủy Hỏa Ký tế, số là 73, nạp Mậu Thìn, hành 9 vận. - Vị trí thứ 30 là Thủy Lôi Truân (đầy và khó khăn), số là 78. - Vị trí thứ 38 là Thủy Phong Tỉnh, số là 72. - Vị trí thứ 46 là Thuần Khảm, số là 77. - Vị trí thứ 54 là Thủy Sơn Kiển, số là 76. - Vị trí thứ 62 là Thủy Địa Tỷ, số là 71. 7- Cấn ngoại: - Vị trí thứ 7 là Sơn Thiên Đại súc, số là 69 (63 + 8 = 71 – 64 = 7) - Vị trí thứ 15 là Sơn Trạch Tổn, số là 64. - Vị trí thứ 23 là Sơn Hỏa Bí (rực rỡ, sáng sủa), số là 63. - Vị trí thứ 31 là Sơn Lôi Di (nuôi nấng), số là 68 - Vị trí thứ 39 là Sơn Phong Cổ, (đổ nát, công việc), số là 62. - Vị trí thứ 47 là Sơn Thủy Mông (non yếu, mù mờ), số là 67. - Vị trí thứ 55 là Thuần Cấn, số là 66 (46), Cấn nạp Bính Dần, hành 1 vận. - Vị trí thứ 63 là Sơn Địa Bác (tiêu mòn, bóc lột), số là 61 8- Khôn ngoại: - Vị trí thứ 8 là Địa Thiên Thái (hanh thông), số là 19. - Vị trí thứ 16 là Địa Trạch Lâm (lớn tới), số là 14. - Vị trí thứ 24 là Địa Hỏa Minh di số là 13. - Vị trí thứ 32 là Địa Lôi Phục (trở lại), số là 18. - Vị trí thứ 40 là Địa Phong Thăng, số là 12. - Vị trí thứ 48 là Địa Thủy Sư (đám đông), số là 17. - Vị trí thứ 56 là Địa Sơn Khiêm (nhún nhường), số là 16. - Vị trí thứ 64 là Thuần Khôn, số là 11.
-
Mô hình “từ trong ra” là mô hình mở, đi ngược chiều kim đồng hồ, từ phải sang trái, từ trên xuống dưới. Khác với chiều vặn đi vào, đi thuận chiều kim đồng hồ, từ trái sang phải, là mô hình đóng. Khi xét việc đã qua phải theo trật tự thuận, đi theo các con số lớn dần, (tức là chiều từ âm đến dương). Còn khi xét việc sắp tới thì phải theo trật tự nghịch của các con số, đi theo các con số nhỏ dần.(tức là chiều từ dương sang âm) Theo nguyên tắc cơ chế tâm truyền, mọi thông tin đều phải từ giữa phát ra, đây là thời điểm xẩy ra sự việc. Nếu lấy thời điểm này mà xét, thì việc trở về quá khứ của sự việc, là trở về những quẻ đã sinh, tức là những quẻ ta đã biết trước. Như vậy phải là những quẻ ở miền dương, tức là từ Chấn-4 đến Ly-5, đến Đoài-6, rồi đến Càn-7. Đi từ Chấn đến Càn là miền Dương, là đi theo chiều thuận của các con số 4-5-6-7 là chiều các con số lớn dần. Khi muốn xét tương lai của sự việc đang xẩy ra thì phải theo hướng các quẻ chưa sinh, tức là những quẻ chưa biết. Như vậy phải là những quẻ ở miền âm, tức là từ Tốn-3 đến Khảm-2, rồi đến Cấn-1, và đến Khôn-0, tức là đi theo chiều ngược của các con số (chiều các con số nhỏ dần 3-2-1-0), như người kể ngược bốn mùa vậy ! Càn-7, Đoài-6, Ly-5, Chấn-4, Tốn-3, Khảm-2, Cấn-1, Khôn-0. <-- <-- <-- <-- --> - - -> - - -> - - -> Khi ta cho rằng Chấn-Tốn là thời điểm hiện tại của sự việc thì, muốn biết tương lai phải đi theo chiều nghịch của các con số, tức là chiều các con số giảm dần cùng với các quẻ tương ứng của chúng. Cũng có thể tìm hiểu quá khứ của sự việc để đoán biết tương lai thông qua các quẻ đối xứng, là các quẻ biến dịch hay “quẻ đối” phản của chúng, vì quy luật sinh-thành của các con số là đối xứng từng cặp một, các con số đều có hai miền đối xứng: quá khứ và tương lai so với thời điểm xẩy ra. Tìm hiểu quá khứ để biết được tương lai, đây chính là chìa khóa của Dịch. Mặt trời mọc từ Đông sang Tây, là quy luật của tạo hóa, là từ tối đến sáng, là từ âm đến dương, từ “không” đến “có”; giai đoạn này được gọi là “ quẻ đã sinh”, đây là trật tự thuận. Ngũ hành thuận bắt đầu từ : Thổ - Thủy - Mộc - Hỏa – Kim. Giai đoạn quẻ chưa sinh bắt đầu bằng trật tự từ Tây sang Đông, từ sáng đến tối, ngũ hành ngược lại là : Kim-Hỏa-Mộc-Thủy-Thổ. Nên nói Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8 thì đều được các quẻ chưa sinh, như người kể ngược thứ tự bốn mùa vậy. Đây là thứ tự của quẻ chưa sinh. Quy luật của tự nhiên tiến từ “không” đến “có”, cái “không” thuộc âm, cái “có” thuộc dương. Âm Dương cũng là trạng thái “đóng - mở” của tạo hóa. Tạo hóa tiến từ trạng thái “đóng” sang trạng thái “mở”, từ không đến có, từ thế giới vô hình sang thế giới hữu hình. Cái “có” đầu tiên thuộc về Dương, nó tương ứng với số 1, là số lẻ, số cơ. Vạn vật hiện hữu quanh ta thì muôn hình vạn trạng theo từng chủng loại, theo từng loài. Tất cả, đều xuất phát từ sự “sinh-thành” và vị trí ban đầu của các con số trong không gian, cũng như quy luật biến hóa theo “tượng âm dương” của chúng. Biến Dịch là vòng tuần hoàn lớn của Tạo hóa, Càn Khôn đóng vai trò mở đầu và kết thúc những quá trình lâu dài. Đối với đời người cũng như vạn loại sinh giới, sự biến dịch từ Càn tới Khôn, đồng nghĩa với sự kết thúc chu trình sống này, để chuyển sang một chu trình sống khác. Sự biến dịch từ Âm sang Dương hay từ Dương sang Âm, là sự biến đổi về bản thể các tượng số, luôn luôm tiệm tiến trải qua 10 giai đoạn.
-
Thiệu Ung viết: “Cái gọi là cung vị Mậu là ở hai ngôi sao Khuê (Tuất) và sao Bích (Hợi). Cung vị Kỷ là ở hai sao Giác (Thìn) sao Chẩn (Tị). Khuê Bích là thời tiết giữa Lập thu đến Lập đông. Giác Chẩn là giữa Lập xuân đến Lập hạ, vì vậy là cửa ngọc của Trời Đất.” Ngày dài thì thời tiết ấm áp, vạn vật phát sinh, đều bắt đầu từ cung vị sao Khuê sao Bích (Tuất - Hợi). Ngày ngắn thì thời tiết giá lạnh, vạn vật thu tàng, đều bắt đầu từ cung vị sao Giác, sao Chẩn (Thìn - Tị), vì vậy mà nói rằng: tiết Xuân phân thì chủ “mở”, tiết Thu phân thì chủ “đóng”. Từ sao Khuê – Bích đi về phương Nam, mặt Trời là đạo Dương, vì vậy gọi là Thiên môn. Từ sao Giác - Chẩn đi về phương Bắc, mặt Trời là đạo Âm, vì vậy gọi là Địa hộ. Từ cung vị sao Khuê, sao Bích, và can Mậu thì bắt đầu ngày dần dài ra, khí Dương thịnh dần, giống như là mở cửa Trời. Đến cung vị sao Giác, sao Chẩn, can Kỷ thì ngày dần ngắn lại, khí Âm thịnh dần, khí Dương thu bế, giống như mở cửa Đất. Cho nên gọi là Thiên môn Địa hộ. Thuyết Thiên môn Địa hộ trình bày: “do Âm xuất Dương, do Dương nhập Âm”, thể hiện quy luật thịnh suy, chuyển hoá, tiêu trưởng Âm Dương bốn mùa. Trùng âm tất dương, trùng dương tất âm. Nguyên lý này cùng ý nghĩa với “dương trưởng thì âm tiêu”, “âm tiêu thì dương trưởng”. Cái máy của tạo hoá không thể không có sinh, cũng không thể không có chế ước. Không có sinh thì không có sự phát triển, không có chế ước thì sự phát triển cao lên mà có hại. Do vậy, trong sinh phải có chế ước, trong chế ước phải có sinh. Nếu giữa Âm Dương mất chế ước, thì sẽ phát sinh thiên thắng (mất cân đối), thậm chí quyết ly máy tạo hoá không thể nào duy trì được. Nguyên nhân cái gì gây ra sự mất chế ước giữa Âm Dương ? Quá trình sinh mệnh của con người từ khi sinh ra, lớn lên, khoẻ mạnh, già yếu và chết, cũng là giai đoạn chuyển hoá tiêu trưởng của Âm Dương, từ Dương bắt đầu sinh, Dương thịnh dần, Dương thịnh vượng, đến Âm bắt đầu sinh, Âm thịnh dần, Âm cực thịnh. Nguyên lý Thái cực sinh ra Âm Dương, Âm Dương hoá hợp sinh ra Ngũ hành, Ngũ hành hàm chứa vạn vật. Khí hoá vận hành, Âm Dương thăng giáng: “Thuỷ là chí âm, cho nên ở dưới ứng với vị trí cực âm. Hoả là chí dương, nên ở trên, ứng với vị trí thịnh dương. Mộc chủ thăng phát, nên ở trên, ứng với vị trí phương Đông. Kim chủ thu giáng, nên ở bên phải, ứng với phương Tây. Thổ là mẹ của số thành, nên ở giữa. Địa khí thăng lên, Thiên khí giáng xuống, là khí của Trời Đất tác dụng hỗ tương. Sau khi thăng rồi giáng xuống, đó là tác dụng của Trời. Sau khi giáng rồi thăng, đó là tác dụng của Đất. Thiên khí giáng xuống, khí rót về mặt đất. Địa khí thăng lên, khí bay bốc ở khung trời. Cho nên, trên dưới giao nhau và hô ứng với nhau, thăng giáng lấy làm nhân quả lẫn nhau, mà phát sinh biến hoá. Kỳ số Nhất Lục cư hạ, Nhị Thất cư thượng, Tam Bát cư tả, Tứ Cửu cư hữu, Ngũ Thập cư trung. Phục hy tắc chi, dĩ họa Bát quái. Số sinh từ 1 đến 5, tượng trưng sự phát sinh của vạn vật. Số thành từ 6 đến 10, tiêu biểu cho sự hình thành của sự vật. Thổ là nơi vạn vật bắt đầu sinh ra. Thổ là gốc của số sinh, cho nên số sinh và số thành đều là “5”. Số dương của Hà đồ sinh ở “1”, cực ở “9”. Số âm sinh ở “2”, cực ở “8”. Lấy “9” làm cực của số dương, là bắt đầu của số âm.
-
ÂM - DƯƠNG động - biến- hoá Quỷ số 2 Thuần Khôn có tương: "Ngạ hổ đắc thực" (Hổ đói được ăn, lâu ngày mới được đi chơi). Quẻ số 11 có tượng: "Manh nha xuất thổ" (Mầm non trồi lên mặt đất).
-
Hà Uyên xin cùng tham gia: về phương pháp tư duy Thông tin: cháu bé 5 tuổi bị mất tích ngày 15/4/2009 vào khoảng 17h30 ở bờ Tây sông Hàn. Ngày 15/4/2009 Giờ Dậu: Kỷ Sửu - Mậu Thìn - Canh Dần - Ất Dậu (20/3 âm), 5 tuổi. Quẻ Thuỷ địa Tỷ hào 4 được quẻ Trạch Địa Tuỵ (Khôn - Đoài) 2 + 3 + 20 + 5 (tuổi) = 30 - 24 = 6 2 + 3 + 20 + 5 + 10 = 40 = 8 10 quá trình của Âm - Dương chuyển hoá (Động - Biến): "Đầu" số 1 "cuối" số 12 1- Thuỷ Địa Tỷ hào 4 (Khôn) 2- Thuần Khôn hào 5 (Khôn) 3- Sơn Địa Bác hào 6 (Càn) 4- Sơn Lôi Di hào 1 (Tốn) 5- Sơn Trạch Tổn hào 2 (Cấn) 6- Sơn Thiên Đại Súc hào 3 (Cấn) 7- Hoả Thiên Đại hữu hào 4 (Càn) 8- Thần Càn hào 5 (Càn) 9- Trạch Thiên Quải hào 6 (Khôn) 10- Trạch Phong Đại quá hào 1 (Chấn) 11- Trạch Sơn Hàm hào 2 (Đoài) 12- Trạch Địa Tuỵ hào 3 (Đoài) 13- Thuỷ Địa Tỷ hào 4. (Khôn) Phương pháp phân tích: - Tiến trình thuận: quẻ Dịch thông khí" 7 - 8- 9- 10 - 11- 12 - 13 7- Trảm thọ mô tước (Chặt cây mò tổ chim) 8- Khốn long đắc thuỷ (Rồng khốn được nước) 9- Du phong thoát võng (Ong trời thoát lưới) 10- Dạ mộng kim ngân (Đêm mơ thấy vàng) 11- Manh nha xuất thổ (mầm non trồi lên mặt đất) 12- Lý ngư hoá long (Cá chép hoá rồng) 13- Thuận Phong hành thuyền (Thuyền đi thuần gió) - Tiến trình nghịch: quẻ Dịch thông "khí" 7 - 6 - 5 - 4 - 3 - 2 - 1 7- Trảm thọ mô tước (Chặt cây mò tổ chim) Hoả Thiên Đại hữu. 6- Trận thế đắc khai (Trận thế đã mở) Sơn Thiên Đại súc 5- Thôi xa phí lực (Đẩy xe tốn sức) Sơn Trạch Tổn 4- Vị thuỷ phong hiền (Tìm người hiền trên sông Vị) Sơn Lôi Di 3- Ưng thước đồng lâm (Chim Ưng chim thước ở cùng một rừng) Sơn Địa Bác 2- Ngạ hổ đắc thực (Hổ đói được ăn) Thuần Khôn 1- Thuận Phong hành thuyền (Thuyền đi thuận gió) Thuỷ Địa Tỷ Hào Dịch thông khí Ngũ hành: 1- Kim, 2- Thuỷ, 3- Mộc, 4- Hoả, 5- Thổ, 6- Thổ, 7- Thổ, 8- Thổ, 9- Thuỷ, 10- Thuỷ, 11- Mộc, 12- Thuỷ. Kết mối thông tin: ngày 20/3 Kỷ Sửu, giờ Dậu, Tử vi Mệnh lập tại Mùi, cung Giải ách gặp quẻ Sơn Địa Bác số 3, cung Nô gặp quẻ Thuỷ Địa Tỷ. Quẻ số 3 là Sơn Địa Bác động hào 6, quẻ số 9 là Trạch Thiên Quải động hào 6 Quẻ Trung tâm: số 7 Hoả Thiên Đại hữu có tượng: Chặt cây mò tổ chim (Trảm thọ mô tước) Quẻ khởi đầu có tượng: "Thuyền đi thuận gió", quẻ kết thúc có tượng: "Cá chép hoa rồng"
-
Hà Uyên xin chào các Anh Chi trên diễn đàn. Trân trong, chào anh Thiên Sứ. Lý học, một nguyên tắc cơ bản, là một tiếng nói chính thống. Loài Người dùng ngôn ngữ cực Nam - cực Bắc, phương Đông phương Tây, mà không nói cực Đông cực Tây. ! Phương Đông, người Lạc Việt đã lựa chọn dùng 24 chữ cái La Tinh, mà không dùng chữ Tượng hình. Thiệu Vĩ Hoa đã nói, khi công báo với mọi người trên những diễn đàn lớn, trong những hội nghi Quốc tế (...): "...thú thực, không hiểu tại sao Thiệu Ung lại dùng số Tiên thiên..." Niềm tin, có thể mang lại kết quả đúng hoặc sai, nhưng thực tiễn lại là một tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý. Dân tộc Lạc Việt là một nước nhỏ đang sống cạnh một nước lớn. Sự giao thoa là một quá trình tất yếu. Chúng ta, như một cánh bèo, đang trôi ngược dòng. Cũng như Nguyễn Trãi đã nói: Phượng ưa bay cao, Diều ưa lượn (chim Phượng hoàng, chim Diều hâu) Hoa thường hay héo, Cỏ thường tươi. Khi Nguyễn Trãi bị chu di Tam tộc, cho đến tận ngày hôm nay, tại Hà đông - Hà nội, Nhà hát mang tên Nguyễn Trãi cũng bị sập. Trường phổ thông Trung học mang tên Nguyễn Trãi, tỷ lệ học sinh nghiện hút ma tuý rất cao. Đường mang tên Nguyễn Trãi, theo thống kê của Cục Cảnh sát GT, tỷ lệ tai nạn giao thông cũng lại rất cao. Côn Sơn - Kiếp bạc, nơi tôn thờ Nguyễn Trãi, Bộ Văn hoá đã đầu tư 67 tỷ đồng trùng tu, mà nam thanh nữ tú lại không dám viếng thăm, mặc dù chỉ một nén nhang, bởi vì đã quá nhiều đôi lứa bỏ nhau, thật đúng là "kiếp" này đã "bạc". Tại sao lại như vậy ? Hà Uyên trong một thân phận quá bé nhỏ của mình, cũng mong sao, đóng góp một tiếng nói, khi suy tìm về "Quá khứ". Xin chân thành cảm ơn anh Thiên Sứ. Hà Uyên.
-
Theo cách tư duy của Thiệu Ung, thì lấy "Số" làm căn bản. Thiệu Ung từ Hậu thiên, đã truy tìm ngược lại Tiên thiên, đưa ra "số thứ tự" và "trị số thực" của quẻ Dịch. Vậy thì, ta nên hiểu "số thứ tự" và "trị số thực" này như thế nào ? Hà Uyên đành phải dùng "tượng" của Dịch để tự trả lời cho bản thân: "trị số thực" ví như cùng học một lớp phổ thông, có cùng một năm sinh, nhưng khác Tháng-Ngày-Giờ. Còn "số thứ tự" ví như lớp học lái xe, các học viên trong lớp học lái xe có năm sinh khác nhau, không cùng một gốc để xét về "thời".
-
Xin chào các anh chị trên diễn đàn. Hà Uyên chào VanTrungHac. Khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh trên diễn đàn, Liêm Trinh có nói: "...thống nhất về phương pháp tính..." Quá khứ mà "Cổ nhân" đã để lại cho mỗi người yêu thích về những môn học thuật này, đối với Hà Uyên còn nhiều trăn trở, Hà Uyên chưa dành nhiều thời gian về luận quẻ Dịch. Trước tiên mong VanTrungHac thật sự thông cảm. Hà Uyên đang tập trung vào tìm hiểu về: Nguyên lý cấu tạo các môn Học thuật mà Quá khứ đã để lại cho chúng ta. Tính chính xác ? Độ tin cậy ? Tại sao lại "quy định" như vậy ?. Hà Uyên.
-
Dear Liêm Trinh. Một tâm sự ! Trước khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh trên diễn đàn, số người đã đọc bài viết của Liêm Trinh là (ví dụ là:...), sau khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh, thì số người đã đã đọc bài viết này, tại thời điểm này là (ví dụ:... lượt đọc). Đây là một chủ đề mà Hà Uyên đang rất quan tâm, sẽ dành phần nhiều giời gian để tìm hiểu về chủ đề này. Trước khi TA sinh ra, đã tồn tại bao nhiêu Người ? Sau khi TA sinh ra, sẽ tiếp tục tồn tại thêm bao nhiêu NGƯƠI nữa ? Trước khi ÂM gặp DƯƠNG, hoặc trước khi DƯƠNG gặp ÂM, sau khi ÂM gặp DƯƠNG hay sau khi DƯƠNG gặp ÂM, điều gì sẽ đến với chúng ta ? Mong Liêm Trinh đừng hiểu sai ý nghĩa của sự giao lưu giữa hai chúng ta, Hà Uyên chỉ lấy "số lượt người đã đọc" (làm Hình - Tượng) mà làm một ví dụ thôi.
-
Liêm Trinh viết "Tôi gieo một que đơn thấy Hà uyên suất hiện ở diễn đàn vào vào đoài cung". Theo phương pháp tư duy của Thiệu Ung, thì Hà Uyên có thể tính như sau: Số người đã đăng ký tham gia diễn đàn LYHOCDONGPHUONG, tới lượt Hà Uyên là 3717. Hà Uyên lấy 3717 chia cho 64, số dư còn lại là 5. Số của Năm-Tháng-Ngày-Giờ mà Hà Uyên đăng ký tham gia lam Tổng chia cho 6 tìm hào động. - Theo Tiên thiên thì 5 là số thứ tự của quẻ Phong Thiên Tiểu súc. - Theo Hậu thiên, thì số 5 bao gồm những quẻ: theo thứ tự như sau: Tiểu súc - Tổn - Vô vọng - Đỉnh - Hoán - Thuần Cấn. Liêm Trinh thấy Hà Uyên theo phương pháp này có được không ?
-
Vâng, xin chào dichnhan07. Thú thực, Hà Uyên hầu như rất ít khi BỐC DỊCH, mà đã dành thời gian rất nhiều để tự trả lời với chính mình rằng: Tại sao (?) "Quá khứ - Hiện tại - Tương lai", khi nào thì hội tụ thành 1, có nghĩa là: Quá khứ + Hiện tại + Tương lai = 1 Có thể, chỉ có như vậy, thì các môn Học thuận mà Quá khứ đã để lại cho chúng ta một sân chơi, mà không biết bao nhiêu Thế hệ, đều có rất nhiều Người đã dành THỜI GIAN về chủ đề này. Khi đã và đang có số " 1 ", loài Người lại luôn luôn hướng về số " 0 " Cảm ơn dichnhan07.