Hà Uyên

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.069
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    8

Everything posted by Hà Uyên

  1. 1-) 大 命 將 泛, 莫 之 振 救 Đại mệnh tương phiếm, mạc chi chấn cứu. 2-) ==> 渙 豐 情 通, 洪 水 泛 濫 成 災。 Hoán Phong tình thông, Hồng thủy phiếm lạm thành tai.
  2. Quái Khí tháng Giêng phối cung: .........Tốn..............Tị..................Ngọ...............Mùi......................Khôn ...........................Thăng.............Cổ................Tốn................................ ........Thìn......................................................................................Thân ......Vô vọng..................................................................................Cấu ........Mão........................................................................................Dậu ........Lý..........................................................................................Tụng ........Dần.......................................................................................Tuất .......Càn..........................................................................................Bĩ ........Cấn.............Sửu................Tý....................Hợi.....................Càn .........................Tiểu súc........Đại súc............Thái............................
  3. 豐 - Phong - 雷 電 皆 至 折 獄 致 刑 折 其 右 肱 終 不 可 用 三 歲 不 見 . 凶 ! Lôi điện giai chí, Triết ngục chí hình. Chiết kỳ hữu quăng, Chung bất khả dụng. Tam tuế bất kiến. Hung ! ======================== Quẻ Tam tài ứng cho 4 mùa năm 2012: - Mùa Xuân: - Tài địa: Vô vọng - Tài nhân: Càn - Tài thiên: Tùy - Mùa Hạ: - Tài địa: Lý - Tài nhân: Tiểu súc - Tài thiên: Vô vọng - Mùa Thu: - Tài địa: Tụng - Tài nhân: Vô vọng - Tài thiên: Phệ hạp - Mùa Đông: - Tài địa: Bĩ - Tài nhân: Trung phu - Tài thiên: Chấn =========================== Quẻ Khởi đầu cho năm 2012 - Nhâm Thìn - ngày 23/01 ĐÊM GIAO THỪA: ..............Năm...............Tháng........... ...Ngày............Giờ .........Nhâm Thìn........Nhâm Dần............Quý Mùi.......Nhâm Tý ............Đại súc...........Tiểu súc...........Minh di.......Đại hữu ========================== Ngày 1 tết - Sáng - Giờ Mão: 5h ~ 7h ..........Năm..........Tháng..........Ngày... .......Giờ ......Nhâm Thìn....Nhâm Dần.. ..Quý Mùi.....Ất Mão ........Quải............Thái...........Phục.. ........Tụy - Giờ Thìn: 7h ~ 9h ...........Năm...........Tháng...........Ngày ..........Giờ .......Nhâm Thìn.....Nhâm Dần......Quý Mùi.....Bính Thìn ........Đại hữu..........Càn............Khiêm........Hàm - Giờ Tị: 9h ~ 11h ..........Năm...............Tháng..........Ngày ..........Giờ .......Nhâm Thìn........Nhâm Dần......Quý Mùi......Đinh Tị ........Đại tráng..........Quải............Khôn........Lâm ===================================== Tháng Giêng Nhâm Dần - 2012: Kim - Hoả - Mộc - Thổ - Thổ
  4. Chào anh Thiên SứNhư vậy, từ giờ Nhâm Tý - ngày Mậu Thìn - tháng Tân Sửu - năm Tân Mão ==> thiên tai lớn trên toàn thế giới sẽ không xảy ra - theo quy ước của cá nhân tôi (Thiên Sứ) là không chết quá 10 người. Thời tiết hoàn toàn bình thương (?) và phù hợp với quy luật tự nhiên (?) Được như vậy, thì loài Người không phải ưu lo gì ! Xuân mới đã trở lại, mang theo sức sống mới, xin được gửi lời thăm tới Anh cùng gia đình một năm mới an lành. Hà Uyên
  5. .........................................TỤNG ......................DI.................................NHU ...........ĐẠI QUÁ.....................+...................TIỂU QUÁ ................TR. PHU...............................TẤN .......................................MINH DI 明 夷. 利 艱 貞 Minh di. Lợi gian trinh. 澤 滅 木 大 過 君 子 以 獨 立 不 懼 . 遯 世 無 悶. Trạch diệt mộc. Đại quá NGA, MỸ ĐIỀU TẦU CHIẾN TỚI ĐIỂM NÓNG TRUNG ĐÔNG Các nguồn tin Arập ngày 22/11 nhận định chính sách ngoại giao dựa trên đe dọa vũ lực đã đột ngột tăng mạnh ở Địa Trung Hải và Vịnh Persia, với việc Nga điều tàu chiến tới ngoài khơi Syria trong khi Mỹ đưa tàu sân bay tới Iran. Theo các nguồn tin quân sự, Nga và Mỹ đã thông qua quyết định gây hấn khi hôm 12/11, hai tàu sân bay của Mỹ là USS Bush và USS Stennis đi qua Eo biển Hormuz và chọn vị trí đối diện với bờ biển của Iran, đúng vào ngày xảy ra một vụ nổ bí hiểm tại căn cứ của Lực lượng Vệ binh Cách mạng Iran gần Tehran, khiến toàn bộ giới chỉ huy chương trình tên lửa đạn đạo nước này thiệt mạng. Năm ngày sau, ngày 17/11, hãng thông tấn Syria đưa tin ba tàu hải quân Nga trên Địa Trung Hải đang hướng đến Syria. Ngày 21/11, các nguồn tin tổng thống Syria thông báo ba tàu chiến của Nga đã vào hải phận nước này, bên ngoài cảng Tartus. Những tàu này sẽ không hạ neo ở cảng của Syria mà hoạt động dọc theo bờ biển nước này để chống lại bất kỳ cuộc can thiệp nào của nước ngoài vào bất ổn ở Syria. Trong khi Mátxcơva và Damacus giữ kín danh tính của đội tàu chiến Nga, các nguồn tin Arập cho rằng ít nhất hai tàu trong nhóm này được trang bị để thu thập tin tức tình báo và chiến tranh điện tử. Khi tàu chiến Nga tiến vào lãnh hải Syria, Bộ trưởng Quốc phòng Canada Peter McKay thông báo rằng hải quân hoàng gia Canada sẽ duy trì ở Địa Trung Hải một số tàu từng tham gia chiến dịch Libya cho tới cuối năm 2012./. http://www.vietnampl...1/114397.vnplus
  6. Đọc báo, mời anh chị em tham khảo: ================================= Trận động đất lớn nhất trong vòng 500 năm. Mật mã thời gian trong câu: “Thổ tinh tại cung Ma Kết, Mộc tinh và Thủy tinh tại cung Kim Ngưu”. Cung Ma Kết là từ ngày 21 tháng 12 đến ngày 19 tháng 1 hàng năm, rơi vào cuối tháng 11 đầu tháng 12 Nông lịch, cũng là từ cuối tháng “Tý” đến đầu tháng “Sửu”; như vậy “Thổ tinh tại cung Ma Kết” có khả năng là tổ hợp của “Mậu Tý” và “Kỷ Sửu”. “Mộc tinh tại cung Kim Ngưu” có khả năng là tổ hợp của “Giáp Thìn” và “Ất Tị”; “Thủy tinh tại cung Kim Ngưu” có khả năng là tổ hợp của “Nhâm Thìn” và “Quý Tị”. Cuối cùng có thể suy ra đây là ngày “Mậu Tý” hoặc “Kỷ Sửu” của tháng “Ất Kị” (hoặc “Giáp Thìn”) năm “Nhâm Thìn”. Thời gian này nói rõ ra, đó là ngày 27 hoặc 28 tháng 5 năm 2012; hai ngày này chính là ngày “Mậu Tý” và “Kỷ Sửu” của tháng “Ất Tị” năm “Nhâm Thìn”. Tháng “Ất Tị” và “Giáp Thìn” năm “Nhâm Thìn” đều là tháng có khả năng phát sinh động đất tương đối cao, gọi là thời kỳ có “tỷ lệ phát sinh địa chấn cao” từ tháng 4 đến tháng 5 năm 2012. Nguồn: http://zhengjian.org...0/13/69032.html Thái Dương hệ ngày 21/12/2012 Quỹ đạo của chín đại hành tinh trong Thái Dương hệ ngày 21/12/2012 Những vòng tròn trên ruộng lúa mỳ này hiển thị đúng vị trí chín đại hành tinh trong Thái Dương hệ vào ngày 21/12/2012. Theo các chuyên gia, những vòng tròn này là có liên quan đến tiên tri của người Maya. Cách một tuần sau, tức ngày 23/7/2008, hình quỹ đạo Thái Dương hệ trên ruộng lúa mỳ này đột nhiên thay đổi trong một đêm, ngoài ra bên cạnh còn có hình vẽ một ngôi sao chổi lớn. Trong Thái Dương hệ đã bị thay đổi này, vị trí tương đối của chín đại hành tinh là bất biến, nhưng thể tích Mặt trời lại giãn gấp mấy lần, đến nỗi hai hành tinh gần Mặt trời nhất—Thủy tinh và Kim tinh đều bị Mặt trời nuốt trọn, còn địa cầu nằm ngay sát Mặt trời. Khi ấy hình ảnh sao chổi bên cạnh tiếp cận sát địa cầu, và được các chuyên gia giải mã là sao chổi Nibiru sẽ tiến nhập quỹ đạo Mặt trăng gần địa cầu, sau đó đụng vào địa cầu. Cảnh tượng mà các vòng tròn trên ruộng lúa mỳ này hiển thị là một loại tai họa vũ trụ đáng sợ: Mặt trời bành trướng tới quỹ đạo Kim tinh, khi ấy con người và các sinh vật khác trên bề mặt địa cầu sẽ phải sống trong nhiệt độ rất cao. Ngoài ra địa cầu còn có nguy cơ đụng độ với sao chổi, dường như rất không hay. Có lẽ đây là sự việc đã sớm phát sinh trong vũ trụ, và đã được người ngoài hành tinh nhìn thấy. Khi các tinh hệ trong vũ trụ nổ tung, con người xem thì thấy hoành tráng lắm, nhưng đối với các sinh mệnh trong đó thì quả thực là đáng sợ! Vậy tại sao người ngoài hành tinh làm tất cả những điều này ? Dịch từ: http://zhengjian.org...0/13/69032.html
  7. Trong Lục Nhâm, Tập 3 - Bài 45 được định danh là Nhị phiền khoá. Trong quá trình trải nghiệm và ứng dụng, Tôi nhận thấy được nhiều giá trị với khả năng ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Nay, chuyển tải lên diễn đàn để Bạn đọc rộng đường khảo cứu. NHỊ PHIỀN KHÓA Lập quẻ: - Phàm quẻ chiêm nhằm Tứ trọng Nguyệt tướng, lại nhằm Tứ trọng Nhật hoặc nhằm các Ngày Sóc, Vọng, Huyền, Hối mà trong quẻ thấy Thiên Cương lâm Sửu hay Mùi địa bàn và lại thấy Nhật tú lâm Tứ trọng địa bàn thì gọi là: Thiên phiền cách. - Phàm quẻ có đủ điều kiện như Thiên phiền cách nhưng chỉ khác là không phải Nhật tú lâm Tứ trọng địa bàn mà lại là Nguyệt tú lâm Tứ trọng địa bàn thì gọi là Địa phiền cách. - Phàm quẻ thấy có cả Thiên phiền cách và Địa phiền cách thì gọi chung là: Nhị phiền cách (Nh chiêm quẻ cho Nam tử mà thấy Nhật tú lại lâm Nam Hành niên hoặc chiêm quẻ cho Nữ nhân mà thấy Nguyệt tú lâm Nữ Hành niên, hoặc thấy Nhật tú hay Nguyệt tú được dụng làm Sơ truyền là quẻ rất đúng kiểu cách. Lời giải: Tứ trọng Nguyệt tướng: là những Nguyệt tướng Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Trong khí Cốc vũ và tiết Lập hạ thì nhằm Nguyệt tướng Dậu, trong khí Đại thử và tiết Lập thu nhằm Nguyệt tướng Ngọ, trong khí Sương giáng và tiết Lập đông nhằm Nguyệt tướng Mão, trong khí Đại hàn và tiết Lập xuân nhằm Nguyệt tướng Tý. Nhưng nếu quẻ chiêm không nhằm Tứ trọng Nguyệt tướng mà nhằm Tứ trọng Nguyệt kiến là các tháng 2, 5, 8, 11 cũng dùng được vì đó chính là tháng Mão, Ngọ, Dậu, Tý. Tứ trọng Nhật: là 4 ngày Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Sóc, Vọng, Huyền, Hối: Sóc là mùng 1. Vọng là ngày rằm. Huyền là Thượng huyền ngày mùng 8 và hạ huyền ngày 23. Hối là ngày cuối tháng, tháng thiếu ngày 29, tháng đủ ngày 30. Quẻ chiêm nhằm ngày Sóc, Vọng, Huyền, Hối đúng kiểu cách hơn nhằm Tứ trọng nhật. Thiên Cương là Thìn thiên bàn. Nhật tú: tháng Giêng thì Nhật tú là Hợi thiên bàn, rồi tính nghịch lại: tháng 2 là Tuất, tháng 3 là Dậu, tháng 4 là Thân, tháng 5 là Mùi, tháng 6 là Ngọ...tháng 12 là Tý. Thí dụ: tháng 5 thì Mùi là Nhật tú, và như trong quẻ thấy Mùi lâm Tý Ngọ Mão Dậu địa bàn thì gọi là Nhật tú lâm Tứ trọng thuộc về Thiên phiền cách. Nguyệt tú: dùng bộ Nhị thập bát tú là tên 28 ngôi tinh tú mà tính ra Nguyệt tú. Trước hết phải biết Ngày mùng 1 của mỗi Tháng thuộc về tinh tú nào. ấy là chỗ khởi đầu, gọi là khởi Nguyệt tú pháp như sau đây: tháng Giêng mùng 1 khởi sao Thất, tháng 2 mùng một khởi sao Khuê, tháng 3 mùng một khởi sao Vị, tháng 4 mùng một khởi sao Tất, tháng 5 mùng một khởi sao Sâm, tháng 6 mùng một khởi sao Quỉ, tháng7 mùng một khởi sao Trương, tháng 8 mùng một khởi sao Giác, tháng 9 mùng một khởi sao Đê, tháng 10 mùng một khởi sao Tâm, tháng 11 mùng một khởi sao Đẩu, tháng 12 mùng một khởi sao Hư. Khi đã biết ngày mùng 1 của tháng hiện tại phải khởi đầu nhằm sao nào rồi thì đếm thuận tới số ngày đang chiêm quẻ, cứ mỗi ngày một sao thứ tự của 28 Tinh tú như sau: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trương, Trương, Dực, Chẩn. Nên nhớ: gặp 6 sao Đê, Đẩu, Khuê, Tỉnh, Trương, Dực phải đếm 2 lần gọi là trùng hư. Thí dụ: chiêm quẻ nhằm ngày rằm tháng 6, bắt đầu kể mùng một tháng 6 là sao Quỷ (do khởi Nguyệt tú pháp) rồi cứ tính thuận tới theo số ngày và theo thứ tự của 28 sao thì mùng 2 nhằm sao Liễu, mùng 3 sao Tinh, mùng 4 sao Trương, mùng 5 cũng sao Trương, mùng 6 sao Dực, mùng 7 cũng sao Dực, mùng 8 sao Chẩn...14 là sao Tâm, ngày rằm 15 là sao Vĩ tức gặp Nguyệt tú Vĩ. Nguyệt tú Vĩ thuộc cung Dần và như trong quẻ thấy Dần thiên bàn lâm Tý Ngọ Mão Dậu địa bàn thì gọi là Nguyệt tú lâm Tứ trọng địa bàn, thuộc về Địa phiền cách. Lại muốn biết Nguyệt tú nào thuộc về cung nào xem bài Nguyệt tú sở thuộc như sau: Giác Cang thuộc về Thìn, Đê Phòng Tâm thuộc về Mão, Vĩ Cơ thuộc về Dần, Đẩu Ngu thuộc về Sửu, Nữ Hư Nguy thuộc Tý, Thất Bích thuộc Hợi, Khuê Lâu thuộc Tuất, Vị Mão Tất thuộc Dậu, Chủy Sâm thuộc Thân, Tỉnh Quỷ thuộc Mùi, Liễu Tinh Trương thuộc Ngọ, Dực Chẩn thuộc Tị. Một số quẻ thuộc về Nhị phiền khóa: - Những ngày Tứ trọng như Ất Mão, Đinh Mão, Kỷ Mão, Tân mão, Mậu Ngọ, Canh Ngọ, Nhâm Ngọ chiêm nhằm tháng 3 mà quẻ thấy Thìn là Thiên Cương gia Sửu địa bàn thì có Sơ truyền Dậu gia Ngọ, tức là Nhật tú gia Tứ trọng thuộc về Thiên phiền cách. Nếu quẻ lại chiêm ở ngày 9, 10, 11, 12 thì nhằm các sao Liễu Tinh Trương tức là Nguyệt tú Ngọ gia Mão, hoặc chiêm ở ngày 18, 19, 20, 21 thì nhằm các sao Đê Phòng Tâm tức là Nguyệt tú Mão gia Tý, hoặc chiêm ở ngày 27, 28, 29 thì nhằm các sao Nữ Hư Nguy tức là Nguyệt tú Tý gia Dậu, ấy là Địa phiền cách. - Những ngày Tứ trọng như Giáp Tý, Bính Tý, Canh Tý, Nhâm Tý, Đinh Dậu, Kỷ Dậu, Tân Dậu, Quí Dậu... chiêm nhằm tháng 6 mà quẻ thấy Thiên Cương là Thìn thiên bàn gia Mùi địa bàn, thì có Sơ truyền là Ngọ gia Dậu tức là Nhật tú gia Tứ trọng, ấy là Thiên phiền cách. Nếu quẻ lại chiêm trong những ngày 2, 3, 4, 5 thì nhằm các sao Liễu Tinh Trương tức là Nguyệt tú Ngọ gia Dậu hoặc trong những ngày 11, 12, 13, 14 thì nhằm các sao Đê Phòng Tâm tức là Nguyệt tú Mão gia Ngọ. Hoặc trong những ngày 20, 21, 22 thì nhằm các sao Nữ Hư Nguy tức là Nguyệt tú Tý gia Mão. Hoặc trong những ngày 28, 29, 30 thì nhằm các sao Vị Mão Tất tức là Nguyệt tú Dậu gia Tý ấy là Địa phiền cách. - Những ngày Tứ trọng như Mậu Tý,Kỷ Dậu,Tân Dậu chiêm trong tháng 9 mà quẻ thấy Thiên Cương là Thìn thiên bàn gia Sửu địa bàn thì có Sơ truyền Mão gia Tý tức là Nhật tú lâm Tứ trọng, ấy là Thiên phiền cách. Và quẻ lại chiêm ở những ngày 1, 2, 3, 4, 10, 11, 12, 18, 19, 20, 26, 27, 28, 29 đều thấy Nguyệt tú gia Tứ trọng, ấy là Địa phiền cách. - Những ngày Tứ trọng như Đinh Mão, Đinh Dậu, Tân Mão, Bính Ngọ, Kỷ Mão chiêm trong tháng Chạp mà quẻ thấy Thiên Cương là Thìn thiên bàn gia Mùi địa bàn thì có Sơ truyền là Tý gia Mão, tức là Nhật tú gia Tứ trọng, ấy là Thiên phiền cách. Và như nhằm những ngày 1, 2, 8, 9, 10, 16, 17, 18, 19, 25, 26, 28 đều thấy Nguyệt tú gia Tứ trọng, ấy là Địa phiền cách. Lý đoán Nhị phiền khoá Nhị phiền là muốn nói về Thiên phiền và Địa phiền. Thiên phiền là trời phiền muội, có nghĩa là Lời quẻ muốn nói về Nhật tú lâm vào nơi - chỗ u ám, kê lưu, ví với cảnh tượng mặt Trời bị mây che khuất. Địa phiền là đất phiền muội, có nghĩa là nói về Nguyệt tú lâm phải chỗ u ám, ví với cảnh tượng của mặt Trăng bị mây mưa che khuất, để lại hậu quả là mặt đất tối tăm. Nhật tú là Thái dương, Nguyệt tú Thái âm. Âm dương đều bị bế tắc ngưng trệ, có tượng "trời phiền đất thảm", cho nên gọi là Nhị phiền. Tại sao vậy? Do bởi tứ Trọng là bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu có chứa độ số của 3 sao, mỗi cung được ứng với 3 ngôi tinh tú. Vì thế, Nhật tú hay Nguyệt tú khi gia lâm Tứ Trọng, thì sự vận hành bị kê lưu (tối & trễ), trì trệ, đương nhiên dẫn tới đức sáng chiếu bị giảm thiểu vậy. Ví dụ ta tính Nguyệt tú cho tháng Mười năm Tân Mão như sau: 1- Tâm - Mão 2- Vĩ - Dần 3- Cơ - Dần 4- Đẩu - Sửu 5- Đẩu - Sửu 6- Ngưu - Sửu 7- Nữ - Tý 8- Hư - Tý 9- Nguy - Tý 10- Thất - Hợi 11- Bích - Hợi 12- Khuê - Tuất 13- Khuê - Tuất 14- Lâu - Tuất 15- Vị - Dậu 16- Mão - Dậu 17- Tất - Dậu 18- Chuỷ - Thân 19- Sâm - Thân 20- Tỉnh - Mùi 21- Tỉnh - Mùi 22- Quỷ - Mùi 23- Liễu - Ngọ 24- Tinh - Ngọ 25- Trương - Ngọ 26- Trương - Ngọ 27- Dực - Tị 28- Dực - Tị 29- Chẩn - Tị Hôm nay là ngày 21 âm lịch, như vậy Nguyệt tú an tại cung Mùi vậy ======================= Ngày 25/11/2011 là ngày mồng 1 tháng Một - Tân Mão, Nguyệt tú an theo ngày tại những cung như sau: 1- Đâủ - Sửu 2- Đẩu - Sửu 3- Ngưu - Sửu 4- Nữ - Tý 5- Hư - Tý 6- Nguy - Tý 8- Thất - Hợi 9- Bích - Hợi 10- Khuê - Tuất 11- Khuê - Tuất 12- Lâu - Tuất 13- Vị - Dậu 14- Mão - Dậu 15- Tất - Dậu 16- Chuỷ - Thân 17- Sâm - Thân 18- Tỉnh - Mùi 19- Tỉnh - Mùi 20- Quỷ - Mùi 21- Liễu - Ngọ 22- Tinh - Ngọ 23- Tinh - Ngọ 24- Trương - ngọ 25- Dực - Tị 26- Dực - Ti 27- Chẩn - Tị 28- Giác - Thìn 29- Cang - Thìn 30- Đê - Mão ======================================
  8. Lời tượng: Nam nhân mà gặp Thiên phiền, ắt bị hình ngục như tra khảo, cũng có thể là tượng giết chết. Nữ nhân mà gặp Địa phiền, ắt bị thương nguy thân thế, không khác gì có tượng bị thuốc độc, cũng là tượng bị lừa dối đủ điều. Nhị phiền vốn là sự bế tắc, mất cả ánh sáng, hình khí hiển lộ ở bên ngoài. Chinh chiến tang vong. Tật bệnh la khóc. Ngục tụng lưu đầy. Thai dựng không thành hình, sinh con ra khó sống. Các sự việc như kiến tạo xây dựng, tạo tác đều gây ra những khó khăn, rối loạn mà mất đi tính trật tự. Đang vui hoá buồn, muốn hoá giải ra mà lại thành kết. Ở nhà thì có lợi, còn xuất hành thì dễ gặp phải những tình huống bất lợi, lâm nguy. Nhị Phiền có tượng bỏ nơi sáng mà vào chỗ tối, tương ứng với Dịch là quẻ Minh di. Thiên phiền là cách ứng điềm xấu cho nam. Địa phiền là cách ứng điềm xấu cho nữ. Khi gặp Nhị phiền, là cách ứng điềm xấu cho cả Nam và Nữ. Phàm thấy Nhật tú lâm cung Mão thì gọi là Xuân thiên phiền, lâm cung Ngọ thì gọi là Hạ thiên phiền, lâm cung Dậu gọi là Thu thiên phiền, lâm cung Tý gọi là Đông thiên phiền. Nếu lại chiêm nhằm những ngày sóc - vọng - huyền - hối thì tượng quẻ càng thêm xấu, cổ nhân thường nói là đại kị
  9. Tự danh là Ham Học, vậy tại sao không nói ngay từ bài viết số 1 như trích dẫn trên, mà lại để đến bài viết số 29 mới nói ??? Ngài Nguyễn Hiến Lê không phải là người học Dịch. Cho nên, câu hỏi số 2 của bài 29 chẳng bàn làm gì ! Tùy thuộc ở bạn, khi lấy sách của ngài Nguyễn Hiến Lê làm thước đo ! Tôi dừng ở đây, vì chưa quen cách thanh đàm của bạn. Cảm ơn
  10. Cũng nên hiểu rằng, ý nghĩa của câu hỏi từ người muốn hỏi, làm sao cho rõ ràng, vì cái muốn hỏi là cái chủ quan mà không phải là khách quan - thời vậy. Lời đề nghị này, nên trả lời như thế nào để được rõ ràng mạch lạc ! Nay ta bàn về tiêu chí của chủ đề là Xác định số trong tập hợp ! - Xác định số gì đây ? Trả lời: Thời của mùa Xuân được số 21. Thời của mùa Hạ được số 27. Thời của mùa Thu được số 24. Thời của mùa Đông được số 18 - Xác định số gì đây ? Trả lời: Số của Địa bàn là 90. - Xác định số trong tập hợp gì ? Trả lời: "thời" của hai cung Tị - Hợi được số 108 trong tập hợp 12 cung Địa bàn. - trong tập hợp gì, ví như khi nói Xuân Thu là nói về số 45 vậy Tôi hiểu như vậy có đúng ý của Ham Học không ?
  11. Anh Thiên Sứ nói câu này thật là chí lý !
  12. Tôi lại nghĩ Bạn muốn nói đến chữ "thời" mà ngài Vương Bật đã lập thuyết ! Một số tư liệu và sách mà Tôi đã đọc của các Dịch gia, ví như Trình Di dùng bản của Vương Bật, còn Chu Hi thì dùng bản của Lã Tổ Khiêm, một bên thì chủ về nghĩa - lý, một bên thì chủ về tượng - số (tượng chiêm), thì nhận thấy ý nghĩa khác nhau rất nhiều, do đó chữ "thời" cũng khác nhau. Các Dịch gia, hoặc theo bên này hoặc theo bên kia, phân chia theo phái, tranh luận với nhau không dứt. Trình Di thời Bắc Tống soạn, chủ yếu theo bản chú của Vương Bật, là đại biểu quan trọng của phái nghĩa - lý thời Tống, có ảnh hưởng rất lớn đối với những Dịch gia đời sau. Trình Di không tin theo thuyết về tượng - số của Thiệu Ung, khi Thiệu Ung lấy Số để nói về Dịch, còn Trình Di lại nói về Lý. Một người phát huy về "Thiên đạo", một người chú trọng về "nhân sự". Các nhà Nho thời Tống Nguyên đều lấy ý riêng của mình mà suy đoán, thường sa đà vào luận thuyết diễn nghĩa suông. Cho nên ngày càng cách xa với Hán Dịch vậy. Có thể, Ham Học muốn nói về chữ "thời" theo cách chung chung ! Hay muốn nói một cách tổng quát nhất ! Tôi cho rằng, dù là nói chung chung hay nói tổng quát, thì cũng còn tùy thuộc ứng dụng cho từng môn, ví như chữ "thời" dùng cho Lục Nhâm cũng khác với chữ "thời" dùng cho Kỳ Môn. Cho nên, chữ "thời" theo phái nghĩa - lý sẽ khác chữ "thời" theo phái tượng - số vậy. Có thể, Tôi còn mơ hồ về chữ "thời", nên thanh đàm cùng Bạn cũng khó mang lại giá trị gì. Hà Uyên
  13. Tôi tính Thái Ất cho năm 2011 - Tân Mão, theo đồ hình sau: .....Tốn......Tị.....Ngọ......Mùi.....Khôn .....Tỉnh....Cấu....Giải.....M/di....Hằng ....Thìn...................................Thân ....Cấn....................................Đ/quá ....Mão....................................Dậu ....Lữ.....................................Phục ....Dần....................................Tuất ...Tiết....................................Quan ....Cấn......Sửu......Tý.....Hợi.....Càn ...Vị tế....Mông......Tỷ.....Bĩ......Dự Hóa thời Ứng - Biến thời phục. Đó là cái lý sinh - trưởng - thành - hóa - thu - tàng bình thường của khí trời đất. Nếu trái với lẽ thường đó, thì cái khí của trời đất và bốn mùa sẽ bị vít lấp. Thanh âm là Chủy. Đây chính là hậu quả từ sự Mậu Quý hợp hóa, mà do Hỏa tinh biến động đến tự nhiên, nên dẫn tới Giáp với Mậu đối nhau, càng làm cho Thổ thêm hư mà gây họa hại vậy. Trong ngũ hành, thì vi khuẩn vi trùng là những tác nhân, ứng với hành Thổ. Cho nên có tượng về hóa học. Anh tham khảo thêm Hà Uyên
  14. Thế giới phải đối mặt với những căn bệnh khó hiểu, do hậu quả của chiến tranh hóa học chăng ? Điều gì sẽ xảy ra khi bị dồn vào bước đường cùng ? Cuộc chiến tranh hóa học chăng ? Chỉ còn mấy Tháng nữa là hết năm 2011 - Tân Mão ! Ngày Giờ nào sẽ xảy ra ?
  15. Như vậy, 386 hào cần phải có 386 bài viết, và như vậy thì ... XÁC ĐỊNH CUNG MỆNH Dần Thân trì thế mệnh cư Lục Sửu Tuất trì thế mệnh cư Ngũ Tý Mão trì thế mệnh cư Tứ Tị Ngọ trì thế mệnh cư Tam Thìn Mùi trì thế mệnh cư Nhị Mão Dậu trì thế mệnh cư Sơ 命 = mệnh Hàm nghĩa: - (Động từ) Sai khiến, ra lệnh. - (Động từ) Định đặt, chọn lấy. - (Danh từ) Mạng sống. ◎Như nói: sinh mệnh 生命, tính mệnh 性命. - (Danh từ) Vận số (cùng, thông, v.v.). - (Danh từ) Lệnh, chỉ thị. ◎Như nói: tuân mệnh 遵命 tuân theo chỉ thị, phụng mệnh 奉命 vâng lệnh. - Truyền mệnh. Truyền bảo sự lớn gọi là mệnh 命 , truyền bảo sự nhỏ gọi là lệnh 令 . Lời của chức Tổng-thống tuyên cáo cho quốc dân biết gọi là mệnh lệnh 命 令 . - Lời vua ban thưởng tước lộc gì gọi là cáo mệnh 告 命 . - Mệnh trời. Phàm những sự cùng, thông, được, hỏng, hình như có cái gì chủ trương, sức người không sao làm được, gọi là mệnh. - Mạng, được chết lành gọi là khảo chung mệnh 考 終 命 , không được chết lành gọi là tử ư phi mệnh 死 於 非 命 . - Tên, kẻ bỏ xứ sở mình trốn đi xứ khác gọi là vong mệnh 亡 命 (mất tên trong sổ đinh). - Ðạo. Như nói: duy thiên chi mệnh 維 天 之 命 bui chăng đạo trời.
  16. Chào Ham Học Không biết Bạn đã đọc sách Chu dịch lược lệ của ngài Vương Bật chưa ? Nếu Bạn đã đọc rồi, thì chúng ta dễ tìm được tiếng nói đồng thuận. Còn khi Bạn chưa đọc, thì Tôi có cách dùng lời khác, để chúng ta cùng nhau khảo cứu về học thuyết về chữ Thời của ngài Vương Bật !
  17. Vâng, anh Thiên Sứ Không có vấn đề gì đâu Anh, chỉ là cách nhìn đa chiều về những Dịch gia, đã được người đời sau chú giải và nhắc tới. Khi đọc và khảo cứu những tư liệu thuộc phân loại này, những Thuyết cũ chỉ giảng chung, rồi tập trung đưa vào việc luận về con Người và chính trị xã hội, còn những nguyên lý, những giá trị ứng dụng, ... thì hầu như không được xem xét tới. Cảm ơn anh Hà Uyên
  18. Về già, khí huyết đã suy, nên tự răn về tính tham ! Vì hay tự cho là mình được, mình đúng. Vào tuổi tráng niên, khí huyết cương cường, nên răn về tính "tranh đấu". Sách Luận Ngữ nói như vậy ! { 及其壯也, 血氣方剛, 戒之在鬥; 及其老也, 血氣既衰, 戒之在得 } { Cập kỳ tráng dã, huyết khí phương cương, giới chi tại đấu. Cập kỳ lão dã, huyết khí kí suy, giới chi tại đắc. }
  19. Khi giao lưu bằng lời văn viết trên diễn đàn, ta xem Cổ nhân xưa nói gì: "Lời là để diễn đạt chí, văn là để lời nói được đầy đủ. Không nói, ai biết được chí, lời nói mà không đẹp thì không thể đi xa." (Tả Truyện dẫn lời Khổng Tử) Hãy để Cổ nhân tự lên tiếng: Định ra Lễ có gốc có văn. Không có gốc thì không đứng được, không có văn thì không đi được Dịch 64 quẻ thể hiện sự vận động quy luật của vũ trụ tác động vào xã hội ! Lời nói này, Tôi đọc chưa hiểu tại sao lại có thể nói được như vậy ? Dịch gia Ngu Phiên lập thuyết như vậy, chúng ta sưu tầm những Thuyết này, để biết rằng Cổ nhân chú giải về Dịch như thế nào? vậy thôi !
  20. Câu hỏi từ bài 1 còn chưa thông, thì câu hỏi của bài 17 này xét sau, nên như thế ! Đó là cái trật tự của tự nhiên - Dịch vậy. Bài mở đầu của topic này, khi đọc, chắc chỉ riêng Ham Học là người hiểu ! Vạn vật hướng về đâu ? Không ai biết ! Nội dung chiêm quẻ để làm gì ? Không rõ ! ... - Đục lỗ mai rùa - hơ nóng - xuất hiện vết nứt - hỏi tại sao lại xuất hiện vết nứt ? - Ngẫu nhiên rút được số 15 - hỏi: Tôi rút được số 15. Mời bác luận đoán để sao ra số 15 thì hay nhất rồi. Lúc này là 12:50PM ngày 2/11/2011 dương lịch. Hỏi (nội dung chiêm): Tôi muốn biết sức khỏe của Cha tôi như thế nào? Tôi rút được số 15 ! Ai giải quẻ giúp tôi đây? Mời bác luận đoán để sao ra số 15 thì hay nhất rồi. Viết cho vui cửa vui nhà,
  21. 論語 - 子路 Luận Ngữ - Tử Lộ 必也正名乎 Tất dã chánh danh hồ. Hẳn là phải biện rõ danh - nghĩa. Chữ: "Tượng", Thuyết văn giải tự viết: Xem mặt đặt tên, nhìn mặt bắt hình Chu dịch lược lệ - Minh quái thích biến thông hào - Vương Bật nói: "Cho nên, đặt Tên cho quẻ, thì cát hung cũng theo ý nghĩa của loại tên ấy. Nêu thời quẻ nào, thì động tĩnh thích ứng với tác dụng của thời ấy. Tìm tên quẻ xem xét cát hung của tên ấy, nêu thời để xem động tĩnh của thời ấy, thế thì sự biến dịch của một thể sẽ do đó mà thấy được vậy". Như vậy, thật khó để biện danh tích lý !
  22. Đạo, từ một khái niệm danh từ, Đạo đã phát triển thành một phạm trù triết học, trở thành một trong những phạm trù quan trọng nhất, cơ bản nhất của Đông phương học. Trong các nghĩa nguyên thủy của chữ "đạo", đã hàm chứa rất nhiều nhân tố tiềm ẩn nhiều nghĩa bóng. Vì vậy, trên cơ sở phát triển của thực tiễn xã hội, theo đà nhận thức thế giới khách quan và thế giới chủ quan của con người, đi sâu từng bước hàm nghĩa của Đạo cũng không ngừng phong phú thêm. - Đạo là đường có chí hướng xác định, là con đường mà người qua lại tất phải qua. Do đó, nghĩa bóng là xu thế tất nhiên của sự vận động biến đổi của sự vật, tức là tính quy luật. - Đạo là đường có đặc điểm luôn nắn thẳng, kéo dài mãi. Mọi người cần phải đi thẳng theo con đường đó, mới có thể đi tới nơi định tới. Nếu không, sẽ bị sai lệch. Do đó, nó có nghĩa bóng là phương hướng nguyên tắc mà mọi người phải tuân theo. - Con đường nối liền điểm xuất phát và đích cuối cùng có cự ly nhất định. Người ta muốn đạt được mục đích, thì phải thông qua lộ trình đó. Do đó, nghĩa bóng của nó là quá trình vận động biến đổi của sự vật. - Đường thì thông đạt, không có trướng ngại. Nghĩa bóng chỉ sự thông đạt mọi việc của con người trong xã hội. - Đường dùng để đi. Đi đường gọi là hành. Dẫn dắt người ta đi vào đường lối thì là Đạo, chỉ dẫn đúng đường lối. Do đó, Đạo có nghĩa bóng là đường dẫn đạo, đạo lý. Khi Đạo quá độ từ chỗ là con đường, là đường hướng trong Kinh Dịch sang là quy luật; là nguyên tắc trong Kinh thư, thì cũng có nghĩa là nghĩa của Đạo, là quá trình biến đổi của cả một hệ thống, một động thái. Đạo cũng dự báo rằng, sự tất phiên phải phân ba thành thiên đạo, địa đạo và nhân đạo, để ngay trong Đạo nhìn thấu suốt các vấn đề quan hệ giữa tự nhiên với con người - khái niệm về Đạo bắt đầu có sự biến đổi về tính chất. Đây cũng là một biểu hiện nguyên thủy của tư tưởng hợp nhất thiên đạo và nhân đạo. Tố thư - Chính đạo viết: "德 足以懷遠,信足 以一異 Đức túc dĩ hoài viễn, tín túc dĩ nhất dị" (Đức đủ để dân ở xa vui trong lòng mà thành phục, tín đủ để phân biệt dị đồng). Cẩu Tử đã nâng cao đạo luận của Nho gia lên một trình độ tư duy mới, ông đề xuất tư tưởng: "Chế thiên mệnh nhi dụng chi" = Dùng chính nó để chế ngự mệnh trời. Hệ từ thượng 繫辭上 viết: 是故形而上者謂之道 Thị cố hình nhi thượng giả vị chi đạo. Cho nên những cái từ hình trở lên gọi là đạo. Ta có thể hiểu rằng, cái mà Đạo muốn nói tới, đó là cái ở ngoài hình tượng, hay cái vượt trên hình tượng vậy !
  23. Muốn học Dịch, chẳng nên ra câu hỏi kiểu như thế này ! 俗人察察, 我獨悶悶
  24. Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm. Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó. Cho nên nói tình dã Hà Uyên
  25. Tôi cũng đang tự học Dịch như bạn! - Thiên của số Dương là: Giáp - Bính - Mậu - Canh - Nhâm - Thiên của số Âm là: Ất - Đinh - Kỷ - Tân - Quý - Địa của số Dương là: Tý - Dần - Thìn - Ngọ - Thân - Tuất - Địa của số Âm là: Sửu - Mão - Tị - Mùi - Dậu - Hợi - Nhân của số Dương là: 1 - 3 - 5 - 7 - 9 - Nhân của số Âm là: 2 - 4 - 6 - 8 - 10 Hỏi như vậy, thì biết trả lời sao đây?