Hà Uyên
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
1.069 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
8
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Hà Uyên
-
Hà Uyên chào Đào Hoa Nếu có thể, Đào Hoa chưa nên công bố đồ hình mà mình đã thiết kế ra. Rất nhiều anh chị em khi đi vào Bốc dịch, hay Nguyên lý cổ phương Đông, cũng cần có thêm một số khái niệm cơ bản cần thiết. Có thể họ không đi được tới đích của con đường, nhưng cũng thêm một cách nhìn hữu ích về văn hoá nước nhà. Tới thời điểm cần thiết, Đào Hoa có thể công bố đồ hình, thì chữ "ngộ" sẽ trở thành thực tiễn. Hà Uyên.
-
Hà Uyên chào Liễu Ngân Đinh Chủ đề nầy rất hay, Hà Uyên cũng đã gặp trong quá trình trải nghiệm. Có thể cho Hà Uyên suy nghĩ thêm về v/đ này rồi chúng ta cùng bình giải.
-
Hà Uyên xin phép Liên Trinh chuyển thư của Liêm Trinh lên diễn đàn: "Kính cụ Lạc tướng Liêm Trinh nghĩ rằng Kinh Phòng phát triển lý thuyết của mình theo lý thuyết giống với khoa học hiện đại, điều đó trái với hiểu biết chính thống thời bấy giờ. Nên Kinh Phòng cũng như các nhà phát minh các học thuật khác được thực tiễn kiểm nghiệm có cái đúng còn tồn tại đến bây giờ đành ôm theo bí mật gốc về thế giới thiên cổ. Còn bây giờ cụ cũng như Liêm Trinh trên diễn đàn lại bị vướng mắc với ông bạn láng giềng Trung Quốc luôn nhòm ngó nên trên diễn đàn chỉ viết sơ sơ. Cụ cứ gắn vị trí quan sát trên Tử vi, thuộc tính Thủy - Hỏa được phân đinh theo các tiêu trí sau: Giao hội sau Tử vi là Khảm, giao hội trước Tử vi là Hỏa. Chuyển động tương đối so với Tử vi lùi lại là Khảm, tiến lên là Hỏa. Thuộc tính hóa hợp thì cụ cứ gắn hệ quy chiếu vào sao can có một trục song song với trục chia cung xuyên tâm, xét chuyển động của sao can trên mặt phẳng chiếu vuông góc với trục đó sẽ thấy ngay (Sao can tháng chính là Tử vi). Lục thập Hoa Giáp xét sao Can lại là sao đi cùng với Tử vi nên mới có tình trạng khi lịch đúng có 2 Hỏa thì khuyết 2 Thủy, có 2 Thủy thì khuyết 2 Hỏa khi có tháng Nhuận thì đủ ngũ hành. kính cụ" Cùng Anh Chị em tham khảo.
-
-
Phòng Kinh có ý tâm sự với bạn, và hỏi: - "Tiên sinh đã theo học của Đại sư Tiêu Diên Thọ, túc hạ nghe nói quẻ Dịch Lâm được tính một quẻ có 12 hào. Tiên sinh có thể cho túc hạ biết về Dịch Lâm được không ?" Kinh Phòng nghiêm nét mặt và im lặng
-
Phòng Kinh lại tiếp tục hỏi bạn: - "Tiên sinh đã lấy Càn Khôn làm đầu cuối của âm dương. Hào Sơ quẻ Thuần Càn nói "vật dụng" (không dùng). Như vậy trị số của hào Sơ cũng không được tính, hào 1 + hào 3 + hào 5 = 12 + 12 + 12 = 36, bỏ hào Sơ 36 - 12 = 24. Như vậy, số "sách" của Thái âm và Thái dương bằng nhau đều bằng 24 là nghĩa làm sao ?". Kinh Phòng vẫn mỉm cười và chưa trả lời câu hỏi của bạn mình.
-
Phòng Kinh lại hỏi lại Kinh Phòng: Trong 6 hào của quẻ Dịch, Tiên sinh coi mỗi hào có trị số là 12, thì các hào 2, hào 4 là hào có vị trí số chẵn, tương đương với 12 + 12 = 24. Các hào 1 - 3 - 5 là hào có vị trí số lẻ, tương đương với 12 + 12 + 12 = 36. Các hào 2 - 4 có trị số bằng với số "sách" của Thái âm là 24. Các hào 1 - 3 - 5 có trị số bằng với số "sách" của Thái dương là 36. Có thể vì lý do này, mà Tiên sinh đã không cho "khí dịch" phát triển đến hào 6, là hào có vị trí âm. Chỉ phát triển khí dịch tới hào 5, sau đó lại quay xuống hào 4 ? Kinh Phòng mỉm cười và không trả lời bạn mình
-
Lục thập Hoa Giáp được hình thành trước khi Kinh Phòng xuất hiện. Khi Nạp âm cho Lục thập, thì lại được tính theo hoành đồ: Giáp Tý với Giáp Ngọ làm một cặp (4-2-3-5-2 khuyết 1 - Thủy). Giáp Thìn với Giáp Tuất làm một (2-1-5-4-3), Giáp Thân với Giáp Dần làm một cặp (1-5-2-3-1 khuyết 4 - Kim). Liêm Trinh có thể giải thích rõ hơn cho Hà Uyên nhận thức được không ? Có phải căn cứ vào quan sát Thiên văn trực tiếp để nạp âm không ?
-
Chào Liêm Trinh Giả thiết Kinh Phòng xuất phát từ quan sát Thiên văn trực tiếp rồi áp đặt Thiên can vào Bát quái. Ví như cung Ngọ chứa: Liễu - Tinh - Trương, nhưng sao lại nạp Đinh - Kỷ, đành rằng Kinh Phòng đã đặt can Kỷ. Cung Tý chứa: Nữ - Hư - Nguy, nhưng sao đã nạp can Quý, lại còn áp đặt can Mậu.
-
Nhân một ngày đẹp trời, Kinh Phòng đến nhà bạn chơi, rủ Phòng Kinh đi điền giã leo núi. Lên tới đỉnh núi, ngồi nghỉ, trước khi xuống núi, Kinh Phòng có hỏi bạn của mình: "Khi leo lên núi, thì Tiên sinh đã biết, vậy khi xuống núi, thì đầu xuống trước hay là chân xuống trước ?" Phòng Kinh trả lời: "đương nhiên là chân phải xuống trước rồi". Kinh Phòng lại hỏi: "Vậy thì, mặt Trời lên tới đỉnh, qua Ngọ thì nên chọn Giáp làm đầu hay Ất làm đầu ? Trăng tới ngày Rằm thì được tính từ ngày 30 tới ngày 15 có phải vậy không ?" Tới đây thì bạn của Kinh Phòng lại im lặng.
-
Chào Trạng Lợn Quả là đúng như Trạng Lợn đã nói: "cộng đi cộng lại cộng đi cộng lại cuối cùng cũng tìm ra quy luật thôi". Vấn đề mà Hà Uyên chưa hiểu là: Kinh Phòng căn cứ vào đâu, lại áp đặt Mậu - Kỷ vào Khảm - Ly ? Với giả thiết chúng ta chấp nhận lý do: đó là từ hai phía của ngọn đèn. Nhưng sẽ mâu thuẫn với Canh - Tân lại áp đặt vào Chấn - Tốn (!) Không đúng với quy luật đối ứng. Vì Kinh Phòng căn cứ vào cơ sở về thứ tự các quẻ Càn-Chấn-Khảm-Cấn-Khôn-Tốn-Ly-Đoài của “Thuyết quái” - Dịch. Trong đó 4 quẻ Càn-Chấn-Khảm-Cấn là 4 cung Dương, còn 4 quẻ Khôn-Tốn-Ly-Đoài là 4 cung Âm.
-
Chào Phongthuysinh Chắc là phongthuysinh đang đặt v/đ về: "Ngũ hành Mộc Hỏa Thổ Kim Thuỷ phối ứng với số Tiên thiên Ngũ hành 3-2-5-4-1, nên phongthuysinh thấy còn lúng túng ...." Theo Hà Uyên, có lẽ trọng tâm là điều này: Giáp Tý - Giáp Ngọ: 4 -2 -3 - 5 - 4 (khuyết 1 - Thủy) Giáp Tuất - Giáp Thìn : 2 -1 - 5 - 4 -3 Giáp Thân - Giáp Dần : 1 -5 -2 -3 -1 (khuyết 4 - Kim)
-
Hà Uyên chào Liễu Ngân Đinh Bạn có thể cho một ví dụ cụ thể để rõ được ý tứ mà bạn đã đặt vấn đề không ?
-
Vâng, đúng như vậy anh Thiên Sứ. Hà Uyên dành cho ông Kinh Phòng không ít thời gian, đến lúc đi vào ngõ cụt, bế tắc. Liền điện thoại tới nhà ngoại cảm Nguyễn văn Liên hỏi, và được trả lời: "Dòng họ Kinh đâu có xuất sứ từ phía Bắc sông, mà được xuất phát từ phía Nam sông" (Bắc phái - Nam phái). Trong thâm tâm vẫn còn nhiều thắc mắc, Hà Uyên lại điện thoại tới nhà ngoại cảm Bích Hằng, và được trả lời: "Bàn về số 1, thì trận thủy chiến Bạch đằng thông qua thủy triều, được giải thích sao đây". Đúng như vậy, khi Thiên nhất sinh Thuỷ, chắc người phương Bắc phải nắm rõ quy luật của Thủy triều lên xuống, để không đến nỗi phải thất trận Bạch đằng.
-
Thấy Kinh Phòng chưa trả lời được câu hỏi của mình, Phòng Kinh lại hỏi tiếp: - "Đã là Thiên, cũng phải có quy định rõ ràng ? Thánh hiền đã quyết như vậy, cớ sao lại phải phân Giáp là Dương can ? Ất là Âm can ? Trong khi Dịch nói: Trời 1 Đất 2, Trời 3 Đất 4, ... ," - "Nếu Trời về vị trí số 1 trên Cửu cung - phương Bắc, có phải đương nhiên Đất về vị trí số 2 trên Cửu cung không ?" Kinh Phòng lại tiếp tục im lặng chưa trả lời câu hỏi khi bạn mình đưa ra.
-
Sau khi Kinh Phòng nạp 10 Thiên can vào Bát quái lấy làm tâm đắc. Một ngày nọ, bạn của ông là Phòng Kinh hỏi lại Kinh Phòng: "Tý - Ngọ - Mão - Dậu lấy cớ gì mà lại bắt buộc phải chứa 3 sao: Tý chứa Nữ-Hư-Nguy, Ngọ chứa Liễu-Tinh-Trương, ..." Kinh Phòng trả lời Phòng Kinh rằng: "duy hữu tam tinh cư nhất bộ" (đếm tới cung thứ 3 thì an Phá quân) Phòng Kinh lại hỏi tiếp: "vậy khi, coi can Ất thay vị trí của can Giáp khi gặp can Kỷ, tại cung chứa số 9, là vị trí thứ nhất, tiếp đến vị trí thứ Hai của can Ất là số 1 trên Cửu cung, vị trí thứ Ba của can Ất là số 2 trên Cửu cung, vị trí thứ Tư của can Ất là số 3 trên Cửu cung, thì gặp can Canh. Như vậy, có phải Ất ngẫu nhiên gặp can Canh, được coi là hợp không ?". Kinh Phòng im lặng chưa trả lời bạn mình.
-
Khi chúng ta đặt câu hỏi với ông Kinh Phòng: - Có phải khi lấy thứ tự số của 10 Thiên can cộng với số của Cửu cung: ví như can Mậu có thứ tự số là 5 cộng với số 1 bằng 6, sẽ tương đương với can Kỷ có thứ tự số là 6 cộng với 9 bằng 15, rồi 1 + 5 = 6 là căn cứ để nạp Thiên can vào Bát quái hay không ? - Ông Kinh Phòng cười, có thể sẽ trả lời: "hậu sịnh chưa hiểu được ý tứ của Thánh nhân".
-
Hà Uyên chào Anh Chị Em trên diễn đàn. Kinh Phòng đặt ra cách giải Dịch Kinh của ông, những quy định mà Kinh Phòng áp đặt cho 8 quẻ Bát thuần là "Thống suất", 7 quẻ còn lại phụ thuộc Ngũ hành của quẻ "Thống xuất". Rồi tới áp đặt Địa chi vào Hào Dịch. Rồi tới áp đặt Thiên can vào quẻ Dịch., ..., có lẽ, cũng bắt nguồn từ Cửu cung khi an định Bát quái. Chúng ta có đồ hình Cửu cung: ........4..........9..........2...... ........3..........5..........7...... ........8..........1..........6...... Một giả thiết, khi chúng ta lấy cơ sở: Trục Bắc - Nam, nói về Khí. Trục Đông - Tây, nói về Vật. Hình thành nên thuyết: "Khí - Vật tương ứng". Chúng ta chấp thuận dùng ngôn ngữ chuyên ngành của ngành Kết cấu: trục Trung hoà, là trục luôn đi qua điểm giữa. - Phương Bắc: tương ứng với số 1 của Cửu cung, giả thiết ta an định quái Khảm: Âm ngoài Dương trong, trục Trung hòa là hào Dương 2. - Phương Nam: tương ứng với số 9 của Cửu cung, giả thiết ta an định quái Ly: Dương ngoài Âm trong, trục Trung hòa là hào Âm 2. - Thuận tự 10 Thiên can, Kinh Phòng lấy vị trí thứ 5 là can Mậu áp đặt vào phương Bắc - quẻ Khảm, lấy vị trí thứ 6 là can Kỷ áp đặt vào phương Nam - quẻ Ly. - Khi ta lấy số 1 là vị trí thứ nhất của 10 Thiên can, tương ứng là can Giáp, đặt vào vị trí của số 5 Trung cung, vị trí thứ Hai của can Giáp là số 6 tương ứng với Cửu cung, vị trí thứ Ba của can Giáp là số 7, vị trí thứ Tư của can Giáp là số 8, vị trí thứ Năm của can Giáp là số 9. Theo Kinh Phòng, vị trí số 9 trong Cửu cung, tương ứng với quái Ly, mà Kinh Phòng áp đặt cho can Kỷ. Như vậy, thuận tự theo Lưỡng thiên xích, tới vị trí thứ Năm có thể gọi là Giáp gặp Kỷ, rồi có thể dẫn tới Giáp hợp Kỷ, rồi có thể dẫn tới hóa Thổ. - V//đ được đặt ra, tại sao lấy thứ tự số của 10 Thiên can là số 5 (Mậu) và số 6 (Kỷ) đặt vào trục Bắc - Năm, được tạm coi là trục Khí biến thịnh. (?)
-
Hà Uyên chào Anh Chị Em Có thể, VinhL chưa hiểu ý của Hà Uyên, vì Đồ hình của VinhL cũng giống như Đồ hình của Hà Uyên mà thôi, chỉ khác nhau là chúng ta chưa thực hiện phép tính cộng trừ: ................4.............................9.............................2.............. .....................trừ 1................cộng 4...............trừ 3.................... ..............3.........trừ 2................5...........cộng 2.........7.............. .......................cộng 3.............trừ 4.................cộng 1............... ..............8............................... 1..............................6............ Hà Uyên chỉ phụ họa theo VinhL, nên mới đặt vấn đề có thêm một cách nhìn về Đồ hình Cửu cung như sau: ......trừ 1................cộng 4................trừ 3...... .....trừ 2....................5....................cộng 2.... ....cộng 3................trừ 4..................cộng 1.... VinhL chưa cộng trừ nên mới viết: "...Vòng số cộng trừ của bác nếu đi theo lường thiên xích: Đi thuận từ 1: Trừ 4, Trừ 3, Trừ 2, Trừ 1, 5, Cộng 1, Cộng 2, Cộng 3, Cộng 4. Đi nghịch từ 9: Cộng 4, Cộng 3, Cộng 2, Cộng 1, 5, Trừ 1, Trừ 2, Trừ 3, Trừ 4...." Có thể, không biết gì về vòng Trường Sinh. Khi ta có số 1 là vị trí thứ nhất, nghịch hành tới vị trí thứ Năm, thì ta cũng tìm được số 6. Tương tự như vậy, khi ta có số 2 là vị trí thứ nhất, nghịch hành tới vị trí thứ Năm, ta cũng tìm được số 7,... Còn khi chúng ta quy định với nhau Trường sinh là vị trí thứ Nhất, của "số sinh" nghịch hành theo Lưỡng thiên xích, tới vị trí thứ Năm, là Đế vượng, thì tìm tìm được "số thành", cũng vậy mà thôi. Vấn đề Hà Uyên đưa đồ hình chỉ gồm các số từ 1 => 5 cũng có dụng ý của đồ hình. VinhL tham khảo thêm.
-
Chào VinhL - Hà Uyên đã nhận thức rõ hơn: 5 - 4 = 1 (Bắc), 5 + 1 = 6 (Tây Bắc), và từ đây, cặp số 1 - 6 là cặp số sinh - thành của Thủy. ......trừ 1................cộng 4................trừ 3 .....trừ 2....................5....................cộng 2 ....cộng 3................trừ 4..................cộng 1 .............................1...............................6..... [/color]- Khi giả thiết trung cung không phải là số 5, mà là số 7 chẳng hạn, ta có: 7 - 4 = 3 (Bắc), 7 + 1 = 8 (Tây Bắc), vậy cặp số 3 - 8 có thể được coi là cặp số sinh - thành của Thủy được không ? Vậy thì, phải tồn tại một quy ước gì đây ? - Cặp số 1 - 6 được coi là cặp số sinh - thành của hành Thủy, khi Trung cung là số 5, hay số 10, hay số 15, .... Tại sao lại như vậy ? - Lật đi lật lại vấn đề, để tìm hiểu tại sao (?) kyte lại nói như vậy. Cùng anh chị em tham khảo.
-
KINH PHÒNG KINH THỊ DỊCH TRUYỆN Kinh Phòng (77 – 37 tr.CN) người Tây Hán, là người khai sáng ra Kinh thị Dịch học kim văn. Người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông họ Lý. Cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học Chu Dịch. Ông học Dịch ở Tiêu Diên Thọ người nước Lương, sau ông lại học thêm Dịch từ một ẩn sĩ, ông rất thích âm luật, sau đắc tội và chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển. Đặc trưng của Dịch học Kinh Phòng là chiêm nghiệm, Kinh thị Dịch học mở đầu cho phái tượng số, là gốc của tượng số, gốc của thuật số. Bốn cống hiến lớn của Kinh Phòng là: Bát cung quái thuyết; Nạp Giáp thuyết; Quái khí thuyết; Âm dương ngũ hành thuyết. Do làm rõ được về tai dị nên được nhà Vua ban thưởng. Với đặc điểm học thuật chiêm nghiệm khí số cho xã hội thông qua tai dị trong thiên nhiên trên nền tảng “thiên nhân cảm ứng”. Bát cung quái thuyết lấy cơ sở về thứ tự các quẻ Càn-Chấn-Khảm-Cấn-Khôn-Tốn-Ly-Đoài của “Thuyết quái”. Trong đó 4 quẻ Càn-Chấn-Khảm-Cấn là 4 cung Dương, còn 4 quẻ Khôn-Tốn-Ly-Đoài là 4 cung Âm. Căn cứ vào sự phân vạch của quẻ, 8 quẻ thuần là quẻ “thống suất” gọi là quẻ mẹ, các hào của quẻ “thống suất” đều cố định không biến, 7 quẻ bị “thống suất” đều gọi là “kiến quái”, gọi là quẻ con, vì những hào của chúng đều có biến đổi. Kinh Phòng căn cứ vào Dịch nói: “tinh khí vi vật, du hồn vi biến”. Quy luật biến đổi là hào Dương biến đổi thành hào Âm, hào Âm biến đổi thành hào Dương. Quẻ Đời 1 lấy hào 6 là hào bất biến. Gọi là quẻ Đời 2, là từ 8 quẻ mẹ mà Dịch gọi là “Bát thuần”, do hào đầu tiên biến đổi mà thành. Quẻ đời 3 là do sự niến đổi của 2 hào đầu của quẻ mẹ mà thành, hoặc là do từ quẻ Đời 1 biến đổi hào 2 mà thành. Quẻ Đời 4 là do sự biến đổi của hào 1-2-3 của quẻ mẹ mà thành, hoặc là do từ quẻ Đời 2 biến đổi hào 3 mà thành. Quẻ Đời 5 là do sự biến đổi của hào 1-2-3-4 từ quẻ mẹ mà thành, hoặc là do từ quẻ Đời 3 biến đổi hào 4 mà thành. Quẻ Đời 6 là do sự biến đổi của các hào 1-2-3-4-5 từ quẻ mẹ mà thành, hoặc là do từ quẻ Đời 4 biến đổi hào 5 mà thành. Quẻ Đời 7 được gọi là quẻ Du hồn, căn cứ từ quẻ Đời 6 mà biến đổi hào 4 Quẻ Đời 8 được gọi là quẻ Quy hồn, căn cứ từ quẻ Đời 7, biến đổi cả 3 hào hạ quái quẻ Du hồn mà thành. Kinh Phòng căn cứ vào cấu tạo ngôi vị của quẻ 6 hào, lấy hào Sơ (hào 1) làm Khởi đầu (chung), lấy hào Trên (hào 6) làm Kết thúc (thủy), với nền tảng Càn Khôn làm đầu cuối của Âm Dương, nên hào 6 của quẻ “Bát thuần” không biến đổi. Chữ “đời” ở đây là gọi là Thế là do hào biến đổi làm chủ của quẻ biến, gọi là hào “cư Thế”. Quẻ Đời 1-2 gọi là Địa dịch, quẻ Đời 3-4 gọi là Nhân dịch, quẻ Đời 5-6 gọi là Thiên dịch. Quẻ Du hồn và Quy hồn gọi là Quỷ dịch. Quẻ Đời 1 ở đây lấy hào bất biến làm chủ, tức là hào 6 của quẻ “bát thuần”. Về phương diện ngôi vị hào, hào đầu gọi là Nguyên sĩ, hào 2 gọi là Đại phu, hào 3 gọi là Tam công, hào 4 gọi là Chư hầu, hào 5 gọi là Thiên tử, hào 6 gọi là Tông miếu, gọi như vậy với mục đích để phân rõ đẳng cấp tôn ti. Gọi là Thế - Ứng, tức là chỉ sự tương ứng của 3 hào dưới với 3 hào trên trong mỗi cung, tức là hào đầu tương ứng với hào 4, hào 2 tương ứng với hào 5, hào 3 tương ứng với hào trên. Trong đó, hào làm chủ là hào “cư thế”, thì khi chiêm nghiệm, hào Ứng phải theo hào làm chủ, đó là hào Thế, hào Ứng (để phán đoán) là hào có quan hệ mật thiết với đối tượng chiêm nghiệm, ví như giữa vợ chồng, giữa anh em, vì giữa họ có tình cảm tương ứng với nhau. Định cát hung thì lấy hào cư Thế làm chủ. THUY ẾT NẠP GIÁP Càn Khôn là gốc của Âm Dương, là đầu cuối của Âm Dương 64 quẻ cho nên lần lượt nạp Giáp Ất Nhâm Quý. Khi nạp Thiên can vào quẻ thì căn cứ theo số thứ tự Tiên thiên bát quái của quẻ phối với thứ tự của 10 Thiên can như sau: Càn 1 đứng đầu nạp Giáp mộc đứng đầu của Thiên can, Càn thuộc dương nạp Giáp cũng thuộc dương. Tiếp đến Đoài 2 phối với cặp Thiên can Bính-Đinh thuộc Hỏa, Đoài thuộc Âm nên phối với Đinh cũng thuộc Âm. Tiếp đến Ly 3 phối với cặp Thiên can Mậu-Kỷ thuộc Thổ, quẻ Ly thuộc Âm nên phối với can Kỷ thuộc âm. Tiếp đến Chấn 4 phối với cặp Thiên can Canh-Tân thuộc Kim, quẻ Chấn thuộc Dương nên phối với can Canh thuộc Dương. Càn Khôn đối ứng, trời đất định vị, Giáp dương nạp Càn dương, nên Ất âm nạp vào Khôn âm. Cấn Đoài đối ứng, núi đầm thông khí, Đoài âm nạp can Đinh âm, nên Cấn dương nạp can Bính dương. Khảm Ly đối ứng, Thủy Hỏa tương tề, Ly âm nạp Kỷ âm nên Khảm dương nạp Mậu dương. Chấn Tốn đối ứng, sấm gió cùng nhau, Chấn dương nạp can Canh dương, nên Tốn âm nạp can Tân âm. Còn lại cặp Nhâm Quý thuộc Thủy, nạp vào 2 quái phụ mẫu Càn Khôn, Nhâm dương nạp theo Càn dương, Quý âm nạp theo Khôn âm. Kinh Phòng căn cứ theo thứ tự Ngũ hành Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy phối ứng với số Tiên thiên Ngũ hành 3-2-5-4-1, cặp số 3-2 thuộc Xuân-Hạ mà Dương trước Âm sau, cặp 4-1 thuộc Thu-Đông mà Dương sau Âm trước. THUYẾT NẠP ĐỊA CHI “Định cát hung chỉ lấy tượng của một hào”. Kinh Phòng lần lượt cho 6 hào của 64 quẻ đối ứng với 12 địa chi, với quy luật phân theo Chi âm và Chi dương tương ứng với số chẵn lẻ rồi cho đối ứng với 384 hào. Chi dương đi thuận chiều vì dương chủ tiến, Chi âm đi ngược chiều vì Âm chủ lùi, vì 8 quẻ thì có 4 quẻ thuộc dương, 4 quẻ thuộc âm, mà 12 Chi lại có những 6 chi dương và 6 chi âm. Âm theo Ngọ, Dương theo Tý, Tý-Ngọ phân đường đi, Tý đi phía trái, Ngọ đi phía phải. Tháng 11 tháng 5 là tháng Tý Ngọ lần lượt phối hợp với hào Sơ và hào 4 quẻ Càn. Tháng 12 và tháng 6 là tháng Sửu Mùi lần lượt phối hợp với hào Sơ và hào 4 của quẻ Khôn, vì căn cứ theo “thuyết quái” nói Càn Khôn là quẻ Cha Mẹ. Thể của quẻ Dịch phải đủ 6 vạch mới thành, 6 vạch lại phân chia ngôi âm ngôi dương mới thành quẻ, mới phản ánh cụ thể mối quan hệ sinh khắc giữa Bố Mẹ và Con của 8 cung quái với vị trí 6 hào. Như quẻ Càn thuộc Kim là quẻ Bố Mẹ, hào Sơ thuộc Thủy, Kim sinh Thủy, mẹ sinh con, cho nên là cát, hào 4 thuộc Hỏa, Hỏa khắc Kim, con khắc mẹ là hung. Như vậy có nghĩa là tương sinh là thuận, tương khắc là hung, mẹ sinh con là đại cát, con khắc mẹ là đại hung. Kinh Phòng nói: Quỷ bát quái là hào “học”, tài là hào “chế”, trời đất là hào “nghĩa”, phúc đức là hào “bảo”, đồng khí là hào “chuyển”. THUYẾT QUÁI KHÍ Kinh Phòng lấy 64 quẻ 384 hào ứng với 1 năm, nói “ hào đầu trên, hào hai giữa, hào ba dưới, số của tháng 3 thành ra tháng 1. Hào đầu 3 ngày, hào hai 3 ngày, hào ba 3 ngày, tất cả là 9 ngày, còn dư ra một ngày gọi là ngày nhuận. Mười ngày của hào đầu là Thượng tuần, mười ngày của hào hai là Trung tuần, mười ngày của hào ba là Hạ tuần, 3 tuần là 30 tích tuần”. “ Thành tháng, tích tháng thành năm, 8 lần 8 là 64 quẻ, chia ra 64 quẻ phối với 384 hào thành 32 x 360 = 11520 thẻ. Khí dịch 24 tiết khí phối hợp với Ngũ hành, thì mọi việc từ đạo Trời, đến vận mệnh con người, đến Trăng, Sao, ta đều có thể thấy được mọi chuyện cát hung rõ ràng”. Âm sinh dương tiêu, dương sing âm diệt, hai khí giao nhau, thì vạn vật mới sinh ra. Dương nhập vào âm, âm nhập vào dương, hai khí giao hỗ không ngừng, cho nên gọi thế là “sinh”. Dương trong âm, âm trong dương, hai khí âm dương hòa vào nhau mà thành “tượng”. Kinh Phòng căn cứ vào âm dương khí hóa, âm dương thăng giáng và âm dương tiêu trưởng chuyển hóa đưa ra nguyên lý quẻ ẩn - hiện, trong đó quẻ “hiện” là quẻ hướng ngoại, lộ mặt, còn quẻ “ẩn” thì hướng nội, tiềm ẩn. Nói chung, tượng quẻ dương phần nhiều là quẻ “hiện”, tượng quẻ âm phần nhiều là quẻ “ẩn”. Ví như quẻ Càn có tượng thuộc dương, phối Thiên thuộc Kim, nó với quẻ Khôn là một cặp đối ứng “ẩn - hiện”. Quẻ Khôn có tượng thuộc âm, phối hợp với Địa thuộc Thổ, khi phối với quẻ Càn là một cặp đối ứng “ẩn - hiện”. Nguyên lý “ẩn - hiện” trong tượng hào của quẻ vốn “ngụ hàm” với nhau, như hào Sáu đầu của quẻ Khôn nói “ lý sương kiên băng chí” thích là “ rồng đánh nhau ở cánh đồng, máu chúng chảy ra đen vàng”. Rồng tính dương là đặc tính của Càn dương, nói nên mối quan hệ “ẩn - hiện” của hai quẻ Càn – Khôn, cấu thành cặp quẻ đối ứng với nhau. Không những hai quẻ Càn Khôn đối ứng với nhau, mà giữa 64 quẻ cũng cấu thành từng cặp “ẩn - hiện” với nhau. Khi chiêm nghiệm theo “ẩn - hiện”, ta có thể từ hai mặt chính - phản, tăng lượng thông tin về chiêm nghiệm được nhiều hơn, đó là mối quan hệ giữa hai mặt chính - phản của âm – dương. Theo Kinh Phòng, sự biến hóa âm dương là nguyên nhân khiến cho các thiên thể trong vũ trụ vận động, âm dương thăng giáng là quy luật vận động của Vũ trụ, sự chuyển hóa âm dương tiêu trưởng phản ánh mối liên hệ nội bộ âm dương. Kinh Phòng nhấn mạnh rất nhiều vào sự chiêm nghiệm, ông cho rằng mục đích của sự nghiên cứu Dịch quái là ở chỗ “định cát hung, rõ được mất”, do đó ông sáng tạo ra quẻ 8 cung, phát huy mối quan hệ ngang dọc, là cốt để “định dự cát hung”. Ông nói “ Nghĩa về cát hung, bắt đầu ở Ngũ hành, kết thúc ở Bát quái. Nghĩa lý về âm dương là sự phân định về Năm, Tháng. Một khi Năm, Tháng đã phân định thì sẽ đoán định được cát hung”. Phần lớn vật chất dương là “hư”, vật chất âm là “thực”, “hư” là bề ngoài của dương, “thực” là bên trong của âm, “hư” là bề gnoài của “thực”, “thực” là phần bên trong của “hư”. Thuyết Quái khí là sự đối ứng giữa 64 quẻ và 34 tiết khí, bao gồm Tứ thời và 24 khí, thuyết này bắt nguồn thuyết quái khí của Mạnh Hỷ, bao gồm ba nội dung sau: - Thuyết quái khí Tứ chính quái: lấy bốn quẻ Khảm - Chấn – Ly – Đoài làm tượng ứng với 24 tiết khí, mỗi quẻ có 6 hào ứng với 6 tiết khí. Trong đó, quẻ Khảm ứng với 6 tiết khí từ tiết Đồng chí đến tiết Kinh trập. Quẻ Chấn ứng với 6 tiết khí từ tiết Xuân phân đến tiết Mang chủng. Quẻ Ly ứng với 6 tiết khí từ tiết Hạ chí đến tiết Bạch lộ. Quẻ Đoài ứng với 6 tiết khí từ tiết Thu phân đến tiết Đại tuyết. Trong bốn quẻ này, 6 hào của mỗi quẻ, từ hào Đầu đến hào Trên, lại phân ra làm chủ 6 tiết, như hào Đầu quẻ Khảm, làm chủ việc của tiết Đông chí, hào 2 tiêt Tiểu hàn, hào 3 tiết Đại hàn, hào 4 tiết Lập xuân, hào 5 tiết Vũ thủy, hào Trên tiết Kinh trập. - Thuyết Thập nhị bích quái (nguyệt quái): là thuyết 12 quẻ ứng với 12 tháng. Mỗi một quẻ ứng với 2 tiết khí, 12 quẻ ứng với 24 tiết khí.
-
Hà Uyên chào Phongthuysinh. Hướng đi của chúng ta đang đúng, nhưng có thể, đây là một chuyện "động trời", khi mà chúng ta lần mò tới nguyên lý: Nạp Giáp theo thuyết Nguyệt tượng là không đúng ? Rất hay, cảm ơn bạn. Phongthuysinh nên mở chủ đề mới, chúng ta vẫn song hành với chủ đề này. Tại thời điểm này, Hà uyên sẽ đưa ra cách nhìn cá nhân, khi tìm hiểu về Kinh Phòng. Mong anh chị em trên diễn đàn cùng tham gia bình giải.
-
Chào anh chị em Chào VinhL. Chủ đề này hấp dẫn quá, Hà Uyên có thêm một cách nhìn, để VinhL cùng anh/chị/em cho ý kiến bình giải 1- Theo số cửu cung: - Độ số trục Tây Bắc - Đông nam sẽ là cộng 1 và trừ 1. - Độ số trục Bắc - Nam sẽ là cộng 4 và trừ 4. - Độ số trục Tây nam - Đông bắc sẽ là cộng 3 và trừ 3. - Độ số trục Đông - Tây sẽ là cộng 2 và trừ 2. Thể hiện bằng đồ hình: ......trừ 1................cộng 4................trừ 3 .....trừ 2....................5....................cộng 2 ....cộng 3................trừ 4..................cộng 1 Ở đây không nói tới sự thích nghi, trọng tâm chỉ bàn tới lẽ tiến - thoái, tức là khi ta động. Bất kỳ tại một điểm nào đó, khi ta tiến thì cộng 4, còn khi ta thoái thì trừ 4. Cũng có thể khi ta rẽ phải thì cộng thêm 2, còn khi rẽ trái thì trừ đi 2, ...Khi ta ghép Ngũ hành với độ số của Cửu cung, thì bắt đầu nảy sinh vấn đề. Cặp số sinh - thành mà chúng ta đang phải "thuận nghĩ" từ sách Dịch, được quy định là Mộc 3 - 8, Thủy 1 - 6,... liệu có còn ẩn tàng một nguyên tắc nào nữa hay không ? Trong khi chúng ta cứ phải mặc định rằng: Đông thuộc Mộc, cặp số sinh - thành là 3 - 8.,.... Đây có phải là một căn cứ chính thống hay không ? 2- Từ khái niệm sinh - thành, vậy thì vòng Trường sinh được quy định để tính cho vật khi thành, hay để tính cho vật khi sinh. Chúng ta có thể đổi Ngũ hành theo cặp số mà chúng ta đang nhìn nhận là hợp lý. Tuy vậy, chúng ta cũng nên chăng, tìm được tiếng nói chung khi bàn về vòng Trường sinh, tính tại thời điểm nào ? Khi chúng ta quan niệm rằng: trái Đất là vị trí của cung Cấn - trị số là 8 - được nạp can Bính - thứ tự số là 3, thì chúng ta cũng phải mặc định như sau: Tốn, Thìn, Tị,..............Ly, Ngọ,.............Khôn, Mùi, Thân Chấn, Mão,.....................x....................Đoài, Dậu Cấn, Sửu, Dần,............Khảm, Tý,..........Càn, Tuất, Hợi Chúng ta giả thiết rằng, quy định trên, là dùng để tính vòng Trường sinh cho vật khi thành. Cũng một giả thiết, tính vòng Trường sinh cho vật khi sinh như sau Tốn,Tị.................Ly, Ngọ, Mùi...............Khôn, Thân Chấn, Mão,Thìn.............X....................Đoài, Dậu, Tuất Cấn, Dần.................Khảm, Tý, Sửu.................Càn, Hợi Khi là Dương thì cầu con trai út, khi là Âm thì cầu con gái cả (ngối vị). Càn - Khôn => Thân - Hợi => Thủy - Mộc khởi Trường sinh. Vấn đề tới đây: Hỏa - Kim vẫn còn đang vướng mắc, chưa đi tới được sự thống nhất (!) với những cặp Cấn - Tốn => Dần - Tị => ??? (cung Dần chứa Vĩ - Cơ và cung Tị chứa Dực - Chẩn) Một cách đặt v/đ thêm cho sự bình giải.
-
Cảm ơn tankhach Cũng mong tankhach cùng bình giải, để chuyên mục TƯ VẤN - TỬ BÌNH BÁT TỰ được thêm sinh động
-
Khi xem đến lời đề nghị của Aiha08, tôi có Độn Dịch, nên mới hỏi như vậy ? Bạn cho thể cho biết thêm: khi mổ, cháu có bị "ngạt" kg ? (vỡ ối sớm)