Hà Uyên
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
1.069 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
8
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Hà Uyên
-
Anh Thiên Sứ Tên Hội thảo là như vậy, nhưng thành phần mời thì toàn bộ là Kiến trúc sư. Hà Uyên biết có một vài vị được mời có nghiên cứu về Phong thuỷ. Nhưng theo yêu cầu nào đó trước khi vào hội thảo (?), ngồi im không hề có ý kiến gì. Cũng như Trung tâm Ng/c Tiềm năng con người hội thảo tại Đông mô, lại mời KTS Lê Hiệp tới dự và cũng phát biểu ký kiến. Tại thời điểm anh Trịnh Hông Đoàn còn làm Hiệu trưởng trường ĐH Kiến trúc HN, và anh Tấn làm hiệu trưởng trường ĐH Kiến trúc TP HCM cũng có hỏi Hà Uyên về v/đ này. Anh tham khảo thêm. Hà Uyên.
-
Chào Kevin. Hà Uyên không phải là nhà sư phạm, do vậy, khi thanh đàm cùng nhau, chọn cách diễn ngữ đôi khi không hiểu hết ý tứ của nhau, chúng ta thường dẫn tới đối xung mà khẩu chiến. Mong là không phải như vậy. - Lập ngôn: "Trục Thần Đạo" được hình thành từ bao giờ ? Lịch sử đã cho chúng ta biết rằng, đã có hai vị Vua đi tu, kể từ thời nhà Lý tới nay. Sự chuyển giao quyền lực của ba giòng họ Lý - Trần -Lê đã nói rõ về điều này. Nhà Trần, một vị Vua đã hình thành nên trường phái Mật tông đầu tiên cho dân tộc ta. Khi một điều kiện sống của một Ngai vàng như vậy, thì tại sao lại đi Tu ? Tại Chùa Đồng - Yên tử, khi vào ngày đẹp trời không có Mây và sương, đứng tại đây, nhìn theo trục Bắc - Nam, chúng ta thấy 12 đỉnh nóc Chùa theo một trục thẳng hàng. (Khi không có máy Trắc đạc như ngày nay). Theo thời gian, Trục Thần Đạo được hình thành tên gọi, khi Vua đã xác định rõ như vậy. - Những khái niệm: Trục là gì ? Thần là gì ? Đạo là gì ? Đây là đề tài mà viết mãi không hết, nếu là chuyên ngành Khảo cổ, có thể bảo vệ luận án cao học, thực tiễn đã như vậy. Một vài khái niệm sơ bộ: + Trục: Đứng bên phải của dòng chảy của Thủy, nhìn theo hướng dòng chảy, thì tay tay phải của người đứng, được quy đinh là "sinh". Tại Hoa Vân - Yên Tử, nơi Vua định thiền, một dòng suối nhỏ chảy ra, gọi là suối "vàng", đã quy định, lấy trục của dòng chảy làm căn cứ cho mối quan hệ tổng hoà của toàn bộ vị thế địa lý khu vực Yên Tử, để hình thành 11 đỉnh nóc Chùa còn lại, từ trên xuống đưới theo một đường thẳng. + Thần được Vua quy định như thế nào thì được gọi là Thần ? Đạo mà khi Vua dụng "thần" quy định như thế nào là Đạo ? Tại Yên Tử, một vị Hoà thượng chủ trì, giảng về Thần - Đạo, cũng phải mất một tuần, mỗi ngày hai buổi sáng chiều Hà Uyên cùng Anh chị em tiếp tục bình giải thêm.
-
Chào NASA. Hà Uyên không được đào tạo chuyên ngành về Kiến trúc sư, khi tham gia diễn đàn, thì Hà Uyên nhận thấy mối quan hệ giữa Nhà là để ở với Phong thuỷ học vẫn phải có một "không gian đệm", và ai là những người ở trong ngôi nhà đó. Theo Hà Uyên, thì ngôn ngữ Kiến trúc với Phong thuỷ học cũng chỉ có 12 nguyên lý (tính tới thời điểm này), đối với người phương Đông. Ví như nguyên lý "đặc - rỗng", khi thiết kế cho nhà để ở, không thể dùng tỷ lệ "rỗng" quá lớn tại Mặt đứng của công trình. Khi tỷ lệ "rỗng" lớn, chúng ta thấy nó giống văn phòng làm việc hơn, đó là giải pháp của KTS hay dùng Kính cho mặt đứng, một người bình thường cũng cảm nhận được đây là công trình văn phòng, vẫn giải pháp này, nếu là nhà để ở, thì nó giống như người bị bệnh "Cam tẩu mã", không có tính kín đáo của người Phương Đông. Còn đối với nhà để ở, thì nguyên lý "đặc - rỗng" sẽ ảnh hưởng tới tính "chắc chắn, ổn định, kín đáo" cho con người ở trong ngôi nhà đó. Cùng anh chị em bình giải thêm.
-
Phongvan thân mến Phongvan chủ động gửi thư cho VinhL đề nghị quan tâm là được. Hà Uyên nói điện thoại cho VinhL cũng với dụng ý để VinhL quan tâm thêm tới chuyên mục này. Phongvan mở chủ đề mới cho cháu về bình giải số Tử bình cũng được.
-
Chào Tamlinh Anh và người bạn gái đang tìm hiểu lại ở quá xa nhau, Tamlinh nên dành thời gian hai người gặp gỡ nhau, để người bạn đời tương lai có đầy đủ nội hàm cảm nhận chính bản thân mình.
-
Tham khảo thêm một số thông tin. Thời Hán là thời đại phát triển mạnh của tượng số Dịch học, ở thời điểm này tượng số rất được coi trọng, và được liệt vào Dịch học chính thức. Tiêu biểu cho giới tượng số Dịch học là Mạnh Hỷ, Tiêu Cán, Kinh Phòng. Thuyết quái khí của Mạnh Hỷ, là sự kết hợp Bát quái, Lục thập tứ quái với khí tiết, để tạo nên “Tứ chính quái thuyết”, “Lục thập quái ứng thất thập nhi hậu thuyết”, và nổi tiếng là “Thập nhị nguyệt quái thuyết” (12 thuyết quái tiêu sinh) Mối quan hệ Âm – Dương với khí tiết, tương ứng với quy luật chuyển hoá âm dương và quá trình luân chuyển của mặt Trăng, mặt Trời, làm tăng khả năng nhận thức Lịch pháp thiên văn, trở thành mối tương quan mật thiết với sự chuyển vận của mặt Trời. Bát quái đã phản ánh tiêu chí biến hoá của Đạo Trời. Thuyết quái khí của Mạnh Hỷ có ý nghĩa xuyên thời đại. Trên cơ sở thuyết Quái khí, Kinh Phòng đã xây dựng học thuyết Bát cung, làm tăng giá trị của Bát quái, giao phó cho Bát quái những hàm nghĩa về không gian và thời gian. Kinh Phòng đưa ra thuyết “Bát quái nạp giáp”, kết hợp giữa Bát quái với Thiên can - Địa chi và “Thập nhị Luật lịch”, tạo nên sự kết hợp chặt chẽ giữa Bát quái và Luật lịch. Do vậy, đã mở rộng phạm vi ứng dụng của Bát quái. Đây cũng chính là khởi dòng cho mạch chảy của học thuyết nổi tiếng “Nguyệt thể nạp giáp” của Nguỵ Bá Dương. Học thuyết “Nguyệt thể nạp giáp” của Nguỵ Bá Dương, kết hợp Bát quái với chu kỳ vận chuyển của mặt Trăng, giao cho Bát quái thêm một chức năng giải thích mới, trở thành lý luận chủ đạo của “Nội đan” Đạo gia và khí công nuôi dưỡng sức khoẻ. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯỢNG SỐ THỜI HÁN “Pháp biến quái” bắt nguồn từ Pháp phệ cỏ thi của “Đại diễn chi số”. Dịch truyện viết: “Tham ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số, thông kỳ biến, toại thành Thiên Địa chi giao; Cực kỳ số, toại định thiên hạ chi tượng, phi thiên hạ chi chí biến ,...) (Làm ba và năm thao tác thì có được một biến. Phân bổ ra và kết hợp lại. Thông suốt biến hoá thì tạo lên sự giao nhau giữa Trời và Đất. Khi số biến hoá tăng tới cực, thì sẽ định được tất cả các tượng trong Thiên hạ. Nếu không phải là vật biến hoá nhất trong thiên hạ, thì làm sao được như thế). Đặc biệt đáng chú ý là phái tượng số thời Đông Hán, là “quái biến” và “hào biến”. Tuân Sảng thời Đông Hán, đã phát minh ra thuyết về sự thăng giáng “ngôi” của hào âm – dương, xây dựng một quy luật biến hoá của quẻ, Tuân Sảng lấy hai quẻ Càn – Khôn làm gốc, thông qua sự thăng giáng “ngôi vị” của hào Năm và hào Hai của hai quả Càn – Khôn, mà diễn thành Bát quái 64 quẻ. Cốt lõi mà Tuân Sảng xây dựng nên học thuyết cho mình là: “Dĩ dương tại thượng giả dương thăng ngũ vị quân âm tại ngũ giả, dương giáng cư an nhị vị thần”. (Dương ở trên, đưa Khôn hào Năm lên thành quân vương, âm tại ngôi Năm rồi hạ Càn hào Hai xuống làm thần dân). Điều này, có ảnh hưởng rất lớn tới học thuyết biến quái của Ngu Phiên. Ngu Phiên đã đưa thuyết quái biến của Tuân Sảng lên tới đỉnh điểm. Thuyết quái biến lấy hai quẻ Càn – Khôn làm quẻ Phụ - Mẫu, biến thành quẻ sáu con, rồi biến thành quái tạp. Từ đây, Ngu Phiên đã phát minh ra học thuyết “Bàng thông” (Sự biến đổi đối lập), thuyết “Hỗ thể”, tức là thuyết Hỗ tượng, từ hào 2, 3, 4 tạo thành quái “nội hỗ”, từ hào 3, 4, 5 tạo thành quái “ngoại hỗ”, sự chệnh lệch này tạo thành một quái khác, trong đó hào 3 – 4 là hào giao thoa bộc lộ thông tin vô cùng quan trọng. Thuyết “Bán tượng”, chỉ tượng bán thể, tức là chỉ lấy hai hào ở trên hoặc hai hào ở dưới của quẻ làm “Bán tượng”, sau đó tìm sự tương ứng với “Bán tượng” của quẻ khác để giải thích ý nghĩa. Thực tiễn, Ngu Phiên đã làm phong phú thêm nội dung của phép Chiêm phệ, và còn ảnh sâu sắc tượng số Dịch học đời Tống, trong đó Mai hoa của Thiệu Ung cũng bắt nguồn từ đây. Tượng số Dịch học nhà Hán đã xây dựng, đặt nền móng cấu tạo nên mối quan hệ giữa Bát quái với Nhật Nguyệt (mặt Trời, mặt Trăng). Chủ yếu là Trịnh Huyền đã đưa Đại diễn chi số trong Dịch truyện vào thuyết Ngũ hành: “Thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, dĩ ngũ hành khí thông, phàm ngũ hành giảm ngũ, đại diễn hưu giảm nhất, cố tứ thạp hữu cửu”. (Số của Trời - Đất là năm mươi năm lấy ngũ hành thông khí, ngũ hành giảm đi năm, số Đại diễn lại giảm một thì còn bốn mươi chín). Đưa Đại diễn chi số kết hợp với số Ngũ hành, khiến cho việc khí hoá Ngũ hành có thêm sức sống và phát triển.
-
Trân thành cảm ơn Liễu Ngân Đinh Hà Uyên.
-
Hà Uyên đã hiểu. Cảm ơn Huyencodieuly.
-
Không Kiếp được khởi tính từ cung Hợi, có hình tượng như một gọng kìm nghiền nát mọi sự, tới Tý - Tuất gọng kìm bắt đầu mở ra, tới Dần - Thân là giới hạn cao nhất. Tới cung Tị thì gọng kìm lại khép lại. Theo hình tượng này, Tị - Hợi - Dần - Thân là 4 cung, mà sự ảnh hưởng của gọng kìm ít phát huy tác dụng. Từ một cách nhìn mối quan hệ của Tháng với Nguyệt tướng (Lục Nhâm), chúng ta có thể hiểu thêm về Không Kiếp. Hà Uyên cũng đang suy nghĩ về vấn đề này, về lý thuyết còn chưa được thỏa mãn với chính bản thân, có thể chúng ta sang mục TRAO ĐỔI HỌC THUẬT bình giải thêm.
-
Phapvan thân mến. Hà Uyên đã chuẩn bị đầy đủ tư liệu Lịch sử về giai đoạn 1969 - 1977. Nhưng với dụng ý, trên diễn đàn, anh chị em từ những góc độ cá nhân với kiến thức chuyên môn riêng của mình, truyền đạt thông tin Lịch sử thông qua bình giải quẻ Hà Lạc, thì Hà Uyên nghĩ sẽ phong phú và thú vị hơn rất nhiều. Còn khi chúng ta đưa ra những tóm tắt phần Lịch sử với những sự kiện 69 - 77, sợ rằng khi bình giải quẻ Hà Lạc thì tính khách quan bị ảnh hưởng bởi những thông tin đã có sẵn. Hai sự kiện Lịch sử nổi bật trong giai đoạn này là: năm 1969 Bá Hồ ra đi, và năm 1975 là năm thống nhất đất nước. Khi tính về Tiểu hạn, Hà Uyên đứng về góc độ bình giải quẻ Hà Lạc một cách thuần tuý trước, làm cơ sở cho rất nhiều anh chị em không đăng ký Danh trên diễn đàn quan tâm. Sau đó, từ những thông tin thuần túy của quẻ Hà Lạc, Phapvan cùng anh chị em bình giải, thì tính sinh động từ nhiều góc độ khác nhau sẽ sâu sắc hơn. Phapvan thấy dụng ý của Hà Uyên như vậy có được không ?
-
Câu hỏi Huyencodieuly nêu ra thấy thú vị quá. Năm Kỷ, mệnh cư Dậu đi hạn Kim cục, Tử vi cư Ngọ - Thiên Phủ cư Tuất, có Thái âm ngộ Mã tại Hợi cung, là tượng Mẹ muốn đi. Ngày 10/9 đi chuyến máy bay 13h - 14h, thì Hà Uyên thú thực chưa lý giải nổi. Mong được thanh đàm cùng Huyencodieuly.
-
Chào anh chị em trên diễn đàn. Chúng ta nghe nói tới Tam hợp biến tam tai. Trước khi nhận thức về : biến Tam tai, chúng ta tìm hiểu về ý nghĩa của Tam hợp. - Tam hợp Dần - Ngọ - Tuất - Tam hợp Tị - Dậu - Sửu - Tam hợp Thân - Tý - Thìn - Tam hợp Hợi - Mão - Mùi Chúng ta có một Tam giác đều nội tiếp trong hình tròn, ba đỉnh của Tam giác đều là ba con vật tượng trưng được đặt tên. Ý nghĩa của Tam hợp cũng tham gia vào quyết định, khi lựa chọn con vật tiêu biểu tượng trưng. Hà Uyên bắt đầu từ Tam hợp Dần -Ngọ - Tuất: ba con vật này đều có một đặc trưng giống nhau: đều thè lưỡi để thở khi "nhiệt" độ môi trường cao. Khi đi săn con Hổ phải có con Ngựa và con Chó. Như vậy, có thể giải thích Tam hợp Dần - Ngọ - Tuất thuộc Hỏa được chăng ? Anh chị em cùng cho ý kiến bình giải.
-
Hà Uyên xin tiếp tục bình giải - Một giả thuyết: tam hợp Tị - Dậu - Sửu, với ý nghĩa trăn nuôi trồng trọt phát triển.
-
Chào Hoangtrieuhai. Hà Uyên đọc đi dọc lại được 4 lần bài viết của bạn, nhưng chưa thấy Hoangtrieuhai nói tới "trục thần đạo". Hà Uyên hiểu trục thần đạo như xương sống trên cơ thể con người, cũng ví như sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ cơ cấu của bài viết. Hoangtrieuhai không phải băn khoăn về v/đ này, chỉ là một cách nhìn từ cá nhân Hà Uyên thôi. Gốm phối với Gỗ. Đồng phối với Đá. Thông qua những bức ảnh về công trình, Hà Uyên thấy không có điểm "kết thúc", bị trôi tuột đi mất.
-
Hà Uyên tiếp nối lại bài viết của Phapvan để liền mạch: " Xin được luận về quẻ Thăng ĐẠI VẬN 1969 - 1977, đất nước mang hào 2 quẻ ĐỊA PHONG THĂNG Tượng quẻ Khôn trên, quẻ Tốn dưới gọi là Địa Phong Thăng Quái từ: Thăng nguyên hanh, dụng kiến đại nhân, vật tuất, nam chinh cát. Tượng viết : Địa trung sinh mộc, Thăng, quân tử dĩ thuận đức, tích tiểu dĩ cao đại. (Theo cụ Ngô Tất Tố) Theo giải thích truyền thống như Trình Di : thì Khôn trên, Tốn dưới, cây ở dưới Đất, tức là trong Đất mọc dậy. Cây mọc trong đất, lớn thì càng cao đó là Tượng lên. Theo cách giải thích hình tượng này không đúng thực tế vì, Tốn vi Mộc, nếu là tượng Cây đã là cây to lớn mọc vượt lên mặt đất rồi. Nếu luận Tốn là Cây là Tượng người ta đem đất đắp lên cây. Nếu luận là Phong - Gió - Khí thì là Tượng Khí mạch trong lòng Đất đang Vượng. (xin lỗi PV bận đột xuất ) Xin tiếp : PV luận trên là Đất dưới là Gió (khí) đang Vượng , Vượng sẽ Thăng (lên). Quái từ: Thăng nguyên hanh, dụng kiến đại nhân, vật tuất, nam chinh cát. Tại sao Quái từ lại kết : Nam Chinh Cát ? Tôi Không thấy sách Dịch nào giải thích chỗ này. Chúng ta thường nói : vào Nam ra Bắc Quẻ Khôn là thuận theo Quẻ Tốn là đi vào Dịch luôn trọng "Trung hành" . Phương Nam là phương giữa hai phương Tốn và Khôn. Một bên Tốn là đi vào, một bên Khôn là thuận theo đều triều đầu vào giữa là phương Nam. Do đó Quái từ xác định Phương Nam là phương tốt để hành động thành công."
-
Càng tiến tới hai cực Bắc Nam, diện tích của lá cây càng nhỏ lại, rồi tiến tới => "0", Tốn (cây) chỉ có cành mà không có lá. Trước khi có "trung hành", "thời" và "vị" nên hướng về "trung hòa" (trục trung hòa). Theo ngôn ngữ ngày hôm nay, là hướng tới đường Xích đạo của Trái đất, để được "trung". Trong Dịch, là lấy hào hai của một quái có ba hào làm :"trung" vậy.
-
Phapvan cùng VinhL thân mến. Điều Phapvan nói thật sâu sắc. Một hình tượng: bao nhiêu Triệu con người phải nằm xuống để có Vạn Lý Trường Thành. Bao nhiêu Triệu con người được dùng làm vật thí nghiệm, để Vương Công Hoàng Đế có những chìa khoá của Tạo hóa. Hà Uyên ấm cúng khi được chia sẻ với VinhL cùng Phapvan về khái niệm này.
-
Bạn Ducminh yên tâm, sắp tới, sẽ có nhiều chuyên gia về Lý học Đông phương tham gia bình giải, Hà Uyên chỉ là người đi trước chuẩn bị những yếu tố cần và đủ, vậy nhé.
-
Vâng, anh Thiên Sứ.Đọc đi đọc lại bài Anh viết, Hà Uyên gắng giành dật trong lòng: không được phép xúc động, là chỉ định của B/s. Anh luôn có những người bạn lớn trong đời với đúng nghĩa của nó. Mong Anh thận trọng. Hà Uyên.
-
Chị Thêm đang được các Đại gia của VN mời sang Đức, chưa về Việt nam. Wildlavender đợi nhé, Hà Uyên sẽ chuyển số ĐT tới.
-
Phongthuysinh thân mến. Hay quá, Phongthuysinh bình giải tiếp nhé: "Nó phải ở Tứ chính" . Chúng ta đã bắt đầu ra đường cao tốc rồi. Với tốc độ quy định cho luồng xe đi trên đường cao tốc, thì "Tứ chính" đóng vai trò chủ đạo. G-K dùng 3, A-C dùng 5, B-T dùng 7, Đ-N dùng 9, M-Q dùng 1.
-
Hà Uyên chào Haithienha. Tôi nghi nhận và ghi nhớ những thông tin mà Haithienha đã định lượng chuẩn xác. Trân thành cảm ơn Haithienha. Hà Uyên.