Hà Uyên
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
1.069 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
8
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Hà Uyên
-
Công Minh thân mến. Trong suốt một thời gian dài, Đất nước chúng ta khi tổ chức đón Chính khách của nước các nước, hầu như không bao giờ bị mưa, bão. Đây là một kết luận hết sức đúng đắn. Mặc dù Nha khí tượng chỉ có thể báo trước về thời tiết trước 15 ngày, trong khi kế hoạch đón Nguyên thủ, thường phải chuẩn bị ấn định ngày, trước đó từ 8 tháng tới 1 năm. Điều này, cho chúng ta hiểu rằng, "Khí Tượng" cũng là một nghi thức lớn. Vậy, chọn ngày chẳng may đúng ? suốt bao nhiêu năm nay, nghi thức đón Nguyên thủ các nước, không bao giờ bị mưa chăng ? Chúng ta sẽ cùng nhau, tìm hiểu thêm về v/đ này. Cảm ơn Công Minh đã dùng ngôn ngữ ví về cơn Bão rất hay: cố tình Hà Uyên.
-
Phongthuysinh thân mến. Từ lúc "ngửa xem" đến khi "cúi xét", có thể người xưa đã có những thay đổi, mà chúng ta chưa luận giải được. Ví như khi "ngửa xem", thì các hướng Đông-Tây-Nam-Bắc cũng có thay đổi đối với khi "cúi xét". Thường thấy người xưa quan tâm đến 11 năm, thì có sự ảnh hưởng của Thái dương. Từ Giáp Tý tới Giáp Tuất có thứ tự là 11. Quẻ Thuần Càn hào Bảy: "Vô thủ" => 7 x 11 = 77. ...v.v... Quẻ Thuần Khôn khi hướng về Tây nam (2) thì đạt được tốc độ của Ngựa, còn khi tiến về Đông Bắc (8) thì công thành mà Thân thoái, ... , Khi ta giả thiết có một cách định hướng "địa tâm", hay "nhật tâm", hoặc "nhân tâm" .......Mộc........Hỏa......Thổ......Thổ.......Kim........Thủy .......Giáp...........Bính.........Thổ.......Thổ.........Đinh........Ất ......................................Trung Cung........................... Thì chúng ta quy định lại thứ tự số của Thập can như thế nào ? Theo Tiên thiên hay Hậu thiên ?
-
Chúng ta trở về khuôn khổ của môn Bát Tự Hà Lạc nhé.
-
Phapvan thân mến. Những kiến giải mà Phapvan nói trên, theo Hà Uyên thì thuộc về "ngửa xem", nhưng khi "cúi xét" thì có thay đổi. Đó là khi tìm hiểu về Nguỵ Bá Dương đã để lại học thuyết "Thủ Khảm Điền Ly" - Tham Đồng Khế. Để mà luyện tập cả đời về "thủ Khảm điền Ly", thì thú thực Hà uyên không làm được. Người đời sau khi nghiên cứu và viết lại sách cũng chưa nhất quán, ví dụ như về Đan điền cũng có nhiều tên gọi cũng khác nhau như: Quan nguyên, Khí hải, Mệnh môn, ... , Tổ khí, Quy trung, Huyền mục, ... , Nói Dương khí về Tây Bắc, cũng có nghĩa là: ngưng thần tại Mạch Đốc, dùng Ý để dẫn khí từ cung Càn ở Tây Bắc đối với cơ thể khi nằm đầu Bắc chân Nam, mà cung Càn lại chứa hai kinh: Thủ quyết âm Tâm bào (thần kinh tim) và Thủ thiếu dương Tam tiêu, về hướng Đông, gặp khí Âm để sinh một Dương, hướng Đông là Kinh Thủ Dương Minh Đại trường, để sinh một Dương, là quẻ Chấn. Sau đó hoà hợp với Tứ tượng, tạo đủ ngũ hành. Tinh Khí Thần kết hợp với nhau, gọi là "Tam gia tương kiến". Sự kết hợp này được gọi là "Anh nhi", hay "Tiên thiên nhất khí", hay còn gọi là "Thánh thai", hoặc "Kim đan" ,... , Sức mạnh theo ý trí mà tới. Lần cầu đầu tiên, sinh khí lưu thông, âm dương hòa hợp, chỉ cảm thấy một chấm sáng ở trong lòng. Lần cầu thứ hai, tinh thần và thể xác hài hòa, tinh chất thành đan, hạ xuống vùng Đan Điền (???), Lần cầu thứ ba, sắc của Kim đan dưới Đan Điền từ đen chuyển sang mầu hồng tươi, lúc này tinh thần phát "lửa" (Ly), ... , Hà Uyên hiểu sơ sơ là như vậy. Còn chủ đề này, mà Phongthuysinh nêu ra, chắc không phải để luyện "thánh thai". Có thể Nguỵ Bá Dương mượn tượng, để diễn tả quá trình tu tập vậy.
-
<h1 id="title" class="title">Bão mạnh thêm, Quảng Ninh - Đà Nẵng cấm biển tàu thuyền</h1> Cập nhật lúc 11:37, Thứ Ba, 13/10/2009 (GMT+7) Bão số 10 đã mạnh lên cấp 9, giật cấp 10, cấp 11 ngay trên vịnh Bắc Bộ. Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão trung ương đã có công điện khẩn yêu cầu các tỉnh, thành phố ven biển từ Quảng Ninh đến Đà Nẵng thực hiện việc cấm tàu thuyền ra khơi. Từ chiều tối nay bão đổ bộ vào đất liền Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn trung ương, sáng nay (13/10), tại đảo Bạch Long Vĩ đã đo được gió mạnh cấp 9, giật cấp 11. Hồi 7 giờ sáng 13/10, vị trí tâm bão số 10 ở vào khoảng 20 độ Vĩ Bắc; 108,5 độ Kinh Đông, trên khu vực vịnh Bắc Bộ, cách bờ biển các tỉnh Quảng Ninh – Hà Tĩnh khoảng 250 km về phía Đông. Sức gió mạnh nhất ở vùng gần tâm bão mạnh cấp 9 (tức là từ 75 đến 88 km một giờ), giật cấp 10, cấp 11. http://vietnamnet.vn/xahoi/200910/Bao-manh...-thuyen-873424/
-
Cảm ơn HOÁIM ve thong tin.
-
03:00 JST, 13 October 2009
-
TIN BÃO KHẨN CẤP (Cơn bão số 10) 12/10/2009 Hồi 16 giờ ngày 12/10, vị trí tâm bão số 10 ở vào khoảng 19,5 độ Vĩ Bắc; 109,6 độ Kinh Đông, cách bờ biển các tỉnh Quảng Ninh – Hà Tĩnh khoảng 410 km về phía Đông. Sức gió mạnh nhất ở vùng gần tâm bão mạnh cấp 8 (tức là từ 62 đến 74 km một giờ), giật cấp 9, cấp 10. Dự báo trong 24 giờ tới, bão số 10 di chuyển theo hướng giữa Tây và Tây Tây Bắc mỗi giờ đi được khoảng 15 km. Như vậy khoảng tối nay (12/10), bão sẽ đi vào vịnh Bắc Bộ. Đến 16 giờ ngày 13/10, vị trí tâm bão vào khoảng 19,8 độ Vĩ Bắc, 106,6 độ Kinh Đông, cách bờ biển các tỉnh Quảng Ninh – Hà Tĩnh khoảng 70 km về phía Đông. Sức gió mạnh nhất ở vùng gần tâm bão mạnh cấp 8 (tức là từ 62 đến 74 km một giờ), giật cấp 9, cấp 10. Tính từ tâm bão vùng gió mạnh nguy hiểm từ cấp 6 trở lên có bán kính khoảng 200 km. Trong khoảng 24 đến 48 giờ tiếp theo, bão số 10 di chuyển chủ yếu theo hướng Tây, mỗi giờ đi được khoảng 10 - 15 km, suy yếu dần thành áp thấp nhiệt đới. Áp thấp nhiệt đới tiềp tục đi sâu vào đất liền và suy yếu thành một vùng áp thấp. Đến 16 giờ ngày 14/10, vị trí tâm trung tâm vùng áp thấp ở vào khoảng 19,8 độ Vĩ Bắc, 103,4 độ Kinh Đông, trên khu vực Trung Lào. Sức gió mạnh nhất ở trung tâm vùng áp thấp giảm xuống dưới cấp 6 (tức là dưới 39 km một giờ). Ngoài ra, hiện nay ở phía Bắc có một bộ phận không khí lạnh đang di chuyển xuống phía Nam. Dự báo chiều tối và đêm mai (13/10) bộ phận không khí lạnh này sẽ tăng cường xuống các tỉnh miền Bắc nước ta. Do ảnh hưởng của bão kết hợp với hoạt động của không khí lạnh, khu vực vịnh Bắc Bộ, vùng biển các tỉnh từ Quảng Trị đến Đà Nẵng có gió mạnh cấp 6, cấp 7, vùng gần tâm bão đi qua cấp 8, giật cấp 9, cấp 10. Biển động mạnh. Từ sáng sớm ngày 13/10, ở các tỉnh từ Quảng Ninh đến Quảng Trị gió sẽ mạnh dần lên cấp 6, cấp 7, vùng gần tâm bão cấp 8, giật cấp 9, cấp 10. Vùng ven biển các tỉnh từ Quảng Ninh đến Nghệ An cần đề phòng nước biển dâng cao kết hợp với thuỷ triều cao từ 2 – 4 mét. Phía Đông Bắc Bộ và các tỉnh từ Thanh Hoá đến Quảng Bình, từ sáng ngày 13/10 có mưa vừa, mưa to, có nơi mưa rất to. Cần đề phòng lũ quét và sạt lở đất ở vùng núi, ngập úng ở vùng trũng. Bản tin tiếp theo được phát vào lúc 21h30 ngày 12/10. Nguồn:TTDBKTTVTW
-
Bão Parma - Cơn bão số 10 LỜI TIÊN TRI 2009 Đường đi của cơn bão sẽ không như bản đồ dưới đây Reduced: 55% of original size [ 915 x 620 ] - Click to view full image Nhìn bản đồ này, có vẽ như bão chỉ tấn công Philipfin. Nhưng theo dự báo của tôi thì diễn biến sẽ như sau: Cơn bão bên phải - hướng lên Nhật Bản - sẽ suy yếu và tan trên biển. Ngược lại cơn bão Parma sẽ đi qua điểm cực bắc của Philipfin tấn công dữ đội phía nam Đài Loan và vào đất liền. Cụ thể: Sau khi vượt qua cực Bắc Philipfin, bão có xu hướng chuyển xuống phía Tây, Tây Nam, nhưng sau đó bẻ lại phía Tấy Bắc và tấn công theo một đường cong vào đất liền. Bão rất mạnh. Hãy chờ xem. -------------------- Ta về giữa cõi vô thường Đào trong kỷ niệm tìm hương cuối mùa ----------------------------------------------------------------------------- Hà Uyên Theo Hà Uyên, cơn bão Parma sẽ được gọi là cơn bão có số chẵn (số 8, 10 theo VN) thường hướng về phía Bắc, đồng bằng Bắc bộ, những cơn bão có số lẻ (7, 9) thường hướng về phía Nam. ------------------------------------------------------------------- Phapvan Khách vận Mộc giao tiết Bạch lộ - Lập đông. Khách khí Thái ất Thiên phù, ba Thổ hợp => chủ mưa. Tích quái: Phong Địa Quan trùng cực kỳ dữ dội (28/9 - 3/10). Khí thế của Phong Mộc quá mạnh. Sáng ngày 6/10/1009 bão sẽ co lại. Độn được quẻ Lôi Hoả Phong - Đoán: phương Đông nam chấn động, gió qua Bắc phương. ---------------------------------------------------- Dự báo => Thông báo: Ngày 13/10/2009 bão số 10 tiến vào Đồng bằng Bắc bộ.http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...3318&st=640
-
Chào Phongthuysinh. "Tài liệu Thất Chánh của PTS đọc được thì lại nói sao Giác tại Tốn" Cung Thìn Tị đều quy về Tốn. Vòng Zodiac định vị cung Tuất là "0" độ. Vòng thứ hai của Thiên can thì can Mậu có thứ tự số 15 cũng về tới cung Tuất. (trung cung 5, 10, 15, ...) để xác định điểm Xuân phân. 28 x 77 = 2156 năm, còn thiếu 4 năm thì đủ 2160 năm. 28 x 925 = 25900 năm, còn thiếu 20 năm thì đủ 25920 năm. Từ đây, truy tìm định vị cho can Mậu.
-
Phongthuysinh thân mến. Chủ đề mà chúng ta đang quan tâm là "Tìm hiểu về Thổ tinh". Những kiến thức có được như ngày hôm nay, chúng ta hãy đặt sang một bên, rồi ví mình như một "cánh bèo", trôi ngược dòng về miền Quá khứ, dành thời gian bới lông tìm vết, để tìm xem, Người xưa "ngửa xem cúi xét" như thế nào (?). Sau đó, chúng ta sẽ dùng những gì, mà chúng ta đang có ngày hôm nay, để kiểm chứng và kiểm nghiệm lại. Hai tiến trình Thượng cổ và Trung cổ theo Lịch sử thường gọi, cũng khó mà truy xét, khi chúng ta không phải là một Viện nghiên cứu, Trung tâm chuyên nghiệp, ... , chúng ta chỉ là một cá nhân, có những điểm nhìn giống nhau "vật tụ theo bầy" vậy. Khi ta giả thiết rằng: "Vạn vật đến và đi (vãng - lai) đều được bắt đầu từ Thổ" mà Ngũ hành đã và đang quy định đối với văn hóa Phương Đông. Học - Hiểu - Hành sẽ trả lời: đúng hay sai về vấn đề này như thế nào ? Chín tháng mười ngày, 280 ngày, có phải là một thông số chuẩn mực, khi ở thời Thượng cổ chờ đón sự "sinh" không ? Vậy mà, đến thời Trung cổ, tại sao lại nói là chờ đón sự "thành" ? Cánh bèo trôi về ngược dòng, thấy rằng: 5 hành tinh có thể nhìn thấy, ứng đối với ngày Vọng là ngày 14 (27,32/2). Theo thời gian, 140 ngày so với 5 hành tinh có mối liên hệ bằng cách đếm, đối với 5 hành tinh là 28, còn đối với ngày Vọng là 10. Như vậy, khi "cúi xét", thì thông số với ngày Vọng và thông số của 5 hành tinh, đếm được là 280 ngày (28 x 10). Tương đương với sự chờ đợi sự "sinh", chín tháng mười ngày. Một ngày nào đó trong quá khứ, việc chờ đón sự "sinh" trở thành một thuyết: "bỏ một dùng ba". Do vậy, theo cách nhìn của Lý học Đông phương, Loài người khi "thành", thì luôn luôn thiếu khuyết mất một "mùa". Sự thiếu khuyết một "mùa" sinh này, trở thành một cái nôi để hiểu và hành, càng tìm hiểu vào nó càng thấy vô vọng, do bởi sự sống được thiên nhiên quy định là cái hữu hạn. Đến đây, Phongthuysinh đặt sao Giác và can Giáp, cùng điểm xuất phát từ cung Thìn nghịch đếm, thì can Mậu vòng thứ nhất về cung Mão, vòng thứ hai về cung Tuất, ... , mà theo như sách xưa viết: "... cũng có chỗ ở Trung ương Mậu Kỷ, đó là rõ ràng thuộc phần vượng ở vòng năm là Tứ quý, ..." Trời tại Tý, Đất tại Sửu, người tại Dần => Trời tại Mão, Đất tại Thìn, Người tại Tị => Trời tại Ngọ, Đất tại Mùi, Người tại Thân => Trời tại Dậu, Đất tại Tuất, Người tại Hợi. Như vậy, để gọi là "Tứ quý", người xưa có thể đã căn cứ vào những tháng của Đất (Thìn-Tuất-Sửu-Mùi), thông qua sao Thổ với chu kỳ 28 năm (theo người xưa), để truy tìm mối liên hệ với Ngũ tinh, mà định ra những quy luật độ số Ngũ hành cho từng năm. Cũng khởi đầu từ cung Tý, thì Thái dương được định vị từ tú Hư là 1 độ, còn Thái âm được định vị từ tú Nữ là 7 độ. Theo thời gian khi tìm hiểu về v/đ này, thì cũng có rất nhiều cách lý giải khác nhau, thuỳ theo nguồn của từng loại sách. Đối với Hà Uyên, thì dòng họ Tư Mã viết Sử có độ tin cậy cao. Phongthuysinh chắc sẽ nẩy sinh nhiều tồn nghi, Hà Uyên chỉ là người đọc trước một trang sách, có gì thì chúng ta cùng kiến giải, xem, tại sao lại quy định một tinh làm chủ cho từng năm.
-
Khỉ con hôm nay không có nhà. Xin để lại lời nhắn - Tuổi dương nam - Tổng số dương 29. - Tổng số âm: 32 - Hóa công: - Thiên khí: Chấn - Địa khí: Khôn - Quẻ không hợp mùa sinh - Mệnh nạp âm: Mộc - Bạch lựu Mộc - Chính mệnh Ngũ hành: dương Kim - Canh - Tiết khí: Tiểu thử - nắng oi 1- Quẻ chủ Tiên thiên: PHONG ĐỊA QUAN, nguyên đường ngồi hào 1 - Quẻ hỗ Tiên thiên: SƠN ĐỊA BÁC 2- Quẻ chủ Hậu thiên: LÔI PHONG HẰNG, nguyên đường ngồi hào 4. - Quẻ hỗ Hậu thiên: TRẠCH THIÊN QUẢI.
-
SUY NGHĨ VỀ "BÁT QUÁI" Trải qua mấy ngàn năm, hệ Bát Quái được sắp đi xếp lại nhiều lần, trong đó lần sắp xếp của Chu Văn Vương phản ánh một sự biến đổi nhất định về chất. Bát Quái sắp xếp theo cách được coi là của Chu Văn Vương này gọi là “Hậu Thiên Bát Quái”. Đây là hình Bát Quái phổ biến nhất cho đến ngày nay. Bài báo này nói riêng về một số điều tìm hiểu thêm về trật tự trong “Hậu Thiên Bát Quái”. Trong sách Kinh Dịch, Nguyễn Hiến Lê cho biết hai tên “Tiên Thiên Bát Quái” và “Hậu Thiên Bát Quái” không thấy dấu hiệu xuất hiện trong Kinh Dịch, chắc là do người đời sau đặt ra, có thể là từ đời Hán. Nhưng, những “người đời sau này” căn cứ vào đâu để đặt ra hai cái tên đối chọi nhau như vậy. Hình như ngay tên gọi đó đã xác nhận một sự phân biệt rạch ròi, một bước biến đổi về chất. Nguyễn Hiến Lê cũng đưa ra một số lời giải thích, nhưng rồi chính ông lại bác bỏ cả, và thú thật là “không hiểu nổi”, và “Kinh Dịch có nhiều điều khó hiểu”... “ta phải chấp nhận vậy thôi”. Trong một công trình hết sức nghiêm túc và rất có triển vọng, mới đây ông Nguyễn Hoàng Phương đã dùng lý thuyết dập mờ để nghiên cứu phân tích một số thuyết dự báo Trung Quốc cổ, trong đó có Bát Quái. Về Bát Quái, ông đã đưa ra một hệ phương trình có hai hệ nghiệm, và ông gán cho một hệ nghiệm là của “Tiên Thiên”, còn hệ nghiệm kia là của “Hậu Thiên” thì chưa có lời giải thích. Nhưng vì sao cái này là "Tiên Thiên", cái kia là "Hậu Thiên" thì chưa có lời giải thích. Và từ những hệ nghiệm đó tìm ngược trở lại các đặc thù của “Tiên Thiên” và “Hậu Thiên” thì chưa thấy nói đến, ngay đến cách làm việc này cũng còn bỏ ngỏ. Cho nên, chưa thể từ các hệ nghiệm đó mà nhận biết sự phân biệt về chất giữa “Tiên Thiên” và “Hậu Thiên”, thậm chí cũng chưa nêu bật được sự khác nhau về hình thức giữa hai cách sắp xếp này. “Tiên Thiên” và “Hậu Thiên” khác nhau trước hết ở cách sắp xếp thứ tự, và đặc biệt ở nội hàm, tượng ở “Hậu Thiên” được mở rộng thêm nhiều. Mỗi cách sắp xếp là theo một tiêu chí riêng nào đó, và chính cái tiêu chí sắp xếp đó sẽ bộc lộ tư tưởng, ý đồ của sự sắp xếp. Như bài báo trước đã trình bày, “Tiên Thiên” được sắp xếp theo hệ thống cấu trúc. Cứ theo ngôn từ mà xét, từ điển Hán ngữ hiện đại cho biết “Tiên Thiên” là để chỉ “người và động vật khi còn là bào thai”. Vậy “Tiên Thiên Bát Quái” là Bát Quái thời kỳ phôi thai, còn là một “cấu trúc tự thân”, thậm chí chưa phải là một sự vật cụ thể, có sức sống. “Kinh dịch” Khi chỉ mới có Bát Quái, chưa có lời văn, thì ý nghĩa “dịch” dù có hàm súc mấy đi nữa cũng chứa đựng một nội hàm rất mờ. Khi Văn Vương viết lời văn đầu tiên cho “Kinh Dịch”, có thể ông còn được học truyền khẩu cái nội hàm mờ đó, và đã chế biến nó theo cách của ông. Văn Vương đã sắp xếp lại Bát Quái theo những tiêu chí nào đó phù hợp với những lời giải thích “dự báo học” mà ông gán cho các quẻ. “Kinh Dịch” hình thành và ra đời dưới dạng hoàn chỉnh, cả về biểu tượng và lời văn. Bát Quái được sắp xếp lại này gọi là “Hậu Thiên Bát Quái”, tức là Bát Quái thời kỳ đã thực sự ra đời và hoạt động như “người và động vật sau khi rời khỏi thân thể mẹ và có một đời sống độc lập” (Từ điển Hán ngữ hiện đại). Vấn đề của chúng ta là dò tìm lại các tiêu chí mà ngày xưa các cụ đã dùng để sắp xếp lại thành “Bát Quái Hậu Thiên”. Gần như không có khả năng tìm được đúng các tiêu chí đã được sử dụng, chẳng qua chỉ là một cách minh họa lời phán đoán về các tiêu chí có thể đã được dùng. Bát Quái thường được đưa ra cùng với các sơ đồ “Hà Đồ” và “Lạc Thư”, hai hình tượng được coi là hình tượng gốc gợi lên ý tưởng và biến dịch cho Bát Quái. Thực ra, mối liên quan giữa: “Hà Đồ” và “Lạc Thư” với Bát Quái tỏ ra khá mỏng manh, có tỉnh hình thức. Có thể nghĩ rằng người xưa có hứng thú đặc biệt với các “ma phương”, vĩ “Hà Đồ” và “Lạc Thư” đều thuộc loại “ma phương” theo nghĩa nào đó. “Lạc Thư” rõ ràng là một “ma phương” cấp 3 theo nghĩa tương tự như ngày nay (tổng theo dòng ngang, cột dọc và đường chéo đều bằng 15). Còn “Hà Đồ” lại là một ma phương loại khác, theo đường xoắn (tham khảo “Chu Dịch Thập Nhật Đàm”, Trung Văn, Nhà xuất bản Thượng Hải, 1946). Trong Hà Đồ và Lạc Thư, số 5 đứng giữa không ứng với quẻ nào, nên thứ tự sắp xếp các quẻ của Văn Vương có thể mã hóa thành. Trật tự Quẻ: Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài Mã xuôi..........1..... 2...... 3.... 4...... 6.. 7... 8...... 9.. Mã ngược...... 9..... 8...... 7.... 6...... 4...3... 2...... 1 Có thể thấy ngay rằng dù mã xuôi hay mã ngược, cách sắp xếp theo thứ tự này của Văn Vương cũng không phù hợp với trật tự các con số trong Lạc Thư hay Hà Đồ. Ngược lại, có thể mã theo trật tự Tiên Thiên rồi theo các con số của Lạc Thư hay Hà Đồ mà đổi thành trật tự Hậu Thiên chăng ? Bảng mã sẽ là: Trật tự Quẻ Càn Đoài Ly Chấn Tốn Khảm Cấn Khôn Mã xuôi........ 1..... 2... 3.... 4.... .6.... 7..... 8...... 9... Mã ngược..... 9..... 8... 7.... 6..... 4.... 3..... 2...... 1... Với Hà Đồ, ta cũng vẫn không thể làm cho cách sắp xếp phù hợp được. Còn với Lạc Thư, mặc dù bằng các phép chuyển vị (đổi dòng thành cột). đổi hàng, đổi cột ta có thể có 8 ma phương khác nhau, nhưng vẫn không thấy được sự phù hợp cần thiết. Vậy là với giả thiết dựa vào sự gợi ý của Lạc Thư hay Hà Đồ, ta đều chưa tìm ra được một hình ảnh có thể minh hoạ cách sắp xếp của Văn Vương. Có thể còn có những khóa mã khác nữa mà người viết bài này không biết đến. Mong rằng nó vẫn còn là một gợi ý có ích. Tiêu chí sắp xếp thứ hai có thể nghĩ đến là tiêu chí “giá trị”. Do bói toán có nhu cầu xác định trình độ “Cát - Hung” nên mỗi quẻ có thể được gán một “giá trị” biểu thị phần cát, phần hung, và có thể có phần phi cát, phi hung. Có thể coi giá trị của một quẻ là tổng hợp (theo một nghĩa nào đó) của các giá trị của các hào tạo nên nó. Ta có thể lấy giá trị ban đầu của các hào là bằng nhau vào bằng 0,5. Và, vì theo lý thuyết Trung Quốc cổ đại, trong âm có dương và trong dương có âm, nên phép hợp ở đây có thể dùng phép cộng xác suất biến cố không độc lập (giá trị được coi như xác suất), tức là phép hợp phi bài trung (hợp (a, :lol: = a + b - ab). Cáo hào âm và dương ban đầu có giá trị 0,5 như nhau, nhưng khi trở thành thành phần một quẻ thì giá trị của nó thay đổi tuỳ theo vị trí và vai trò trong quẻ. Vị trí và vai trò này được thể hiện bằng những hệ số làm thay đổi giá trị của hào. Trong mỗi quẻ có ba hào, mà sự phân chia hệ số thay đổi phải tùy thuộc vào tính chất của hào mà thay đổi. Theo Nguyễn Hiến Lê, giá trị của hào có thể thay đổi theo các điều kiện sau đây: - Đắc trung: hào chiếm vị trí giữa của quẻ. - Đắc chính: hào dương chiếm vị trí lẻ, hào âm chiếm vị trí chẵn. Có thể xét thêm hai điều kiện phụ: - Hợp chủ: hào dương trong quẻ dương, hào âm trong quẻ âm. - Có thế: hào ở trên được coi là thế phát triển cao hơn hào ở dưới. Tôi đã chọn các hệ số sau đây để tính giá trị các quẻ: - Trung: đắc trung = 0,6; không đắc trung: 0,2. - Chính: đắc chính = 0,5; không đắc chính: 0,25. - Chủ: hợp chủ = 0,4; không hợp chủ: 0,3 - Thế: hào trên tăng giá trị 1,5 so với hào dưới. Với các hệ số này, tôi đã tính giá quẻ theo hai cách: - Cách thứ nhất: kết hợp phép hợp xác suất với phép tính thông thường (với các yếu tố không phụ thuộc). - Cách thứ hai: dùng phép hợp xác suất phổ biến và đã thu được kết quả như sau: Quẻ.... Càn........ Đoài........ Ly.... Chấn...... Tổn..... Khảm... Cấn...... Khôn... Giá tích 0.12267 -0.11725 -0.12164 0.12149 -0.12556 0.12457 0.12227 -0.11950 Giá hợp 0.99963 -0.25264 -099219 0.91971 -0.99546 0.95432 0.94987 - 0.25529 Xếp riêng các quẻ âm và dương và theo thứ tự trị tuyệt đối của “giá trị” giảm dần, ta sẽ được: ............Quẻ dương...................................... Quẻ âm............................. Càn (giá tích: 0.12667; giá hợp: 0.99963.. Tốn giá tích: - 0.12556; giá hợp: - 094546 Khảm (GT:0.12457; GH: 0.95432)............. Ly (GT: - 0.12164;GH: - 0.99219) Cấn (Giá Thành 0.12227; GH:0.94987)....... Khôn (GT: - 0.11950; GH: - 0,25529) Chấn (GT:0.12149; GH:0.91971)............... Đoài (GT: - 0.11726; GH: - 0.25264) Trong kết quả tính trên đây, riêng quẻ Đoài đã được điều chỉnh bằng một hệ số bộ phẩn bổ sung). Thứ tự sắp xếp trên đây phù hợp với cách sắp xếp “Hậu Thiên Bát Quái” của Văn Vương. Như vậy, lời phán đoán trong số báo trước nói “thứ tự sắp xếp các quẻ... được làm lại theo nhu cầu bói toán”... đã được minh họa bằng cách tính giá trị các quẻ, có thể coi như “biểu thị hàm lượng cát - hung” chứa đựng trong quẻ đó. Chưa ai tìm được tư liệu đáng tin cậy nào có thể chứng minh được rằng Văn Vương đã sắp xếp lại Bát Quái theo tiêu chí gì và như thế nào. Cách suy nghĩ và tính toán như trên nhiều lắm cũng chỉ đáng coi là một ví dụ minh hoạ một cách tiếp cận vấn đề nan giải này. Việc dùng tập mờ có giá để minh hoạ “Hậu Thiên Bát Quái” trên đây mới chỉ được thực hiện với 8 quẻ đơn, 24 hào. Tôi chưa dám đi vào 64 quẻ trùng, với 368 hào, một việc vượt quá xa khả năng rất hạn chế của mình. Xin nêu cách làm như một lời gợi ý thô thiển./. Đỗ Nguyên Đương - Tạp chí Hán Nôm
-
Dịch học họ Hùng http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...art=#entry12588 Dương "cảm" âm "ứng", "cảm" tức là động vậy, "ứng" đó có thể được coi là thông chăng ?
-
Âm chứa Dương, thì xung khí được chuyển thành hòa khí. Lá số Dương cho môn Tử vi, còn thấy thật mờ mịt. Nay, có người bạn của Hà uyên còn đang cất công đi tìm miền, cho lá số Âm của môn Tử vi. Kể thì cũng dầy công nghiền ngẫm lắm thay ! Sang năm 2010 Canh Dần, Tuần Triệt đồng cung cư Ngọ gặp Quan phù (?) Không biết rồi trong mỗi chúng ta, còn phải đối mặt với những gì sẽ đến. (!)
-
Tham đồng khế viết: "... chữ tòng nhật, hạ nguyệt, Khảm Mậu Nguyệt tinh, Ly Kỷ nhật quang, Nhật Nguyệt vi Dịch, cương nhu tương đương. Thổ vượng tứ quý, la lạc thủy chung. Tham xích bạch hắc, các cư nhất phương, giai bẩm Trung cung, Mậu Kỷ chi công" ...
-
Điều này, căn cứ theo thuyết: "Nhất Quái Bị Tứ Quái"
-
Chào LinhNhi. Hay quá, 60 quẻ còn lại, thì quẻ thứ nhất là quẻ mang thứ tự số 61.
-
Chào Phongthuysinh. Chắc là Phongthuysinh chưa để ý, Việt nam và Trung quốc đón Tết âm lịch chênh lệch nhau một tháng.
-
Chào Sapa. Không biết trong mỗi chúng ta, có ai đã luyện tập đến mức độ như sự phân tích, bình giải mà Sapa đã minh tường. "...Cũng đúng, vì là Chấn-Đoài có cái tượng vạch Dương lấn vạch Âm đến Càn thì Dương cực chứ như dùng Khảm hoặc Ly thì khó minh họa đặng;..." Âm Dương đầy vơi được bắt nguồn từ quá trình vận động mặt Trời và mặt Trăng. Đầy thì đặc, vơi thì rỗng. Khi mặt Trăng đầy, là lúc khí Dương thịnh, thì cần phải bớt đi. Khi mặt Trăng khuyết, là lúc Âm hư, thì cần phải thêm vào. Mục đích là để điều tiết thịnh suy âm dương vơi đầy. Nhờ vào ý nghĩa của Âm Dương mà phối hợp với mặt Trời mặt Trăng. Âm tiêu thì Dương tức, Dương tiêu thì Âm tức. Âm tiêu thì Dương mãn, Dương tiêu thì Âm mãn. Do vậy, "đầy đặc" là tổn hại và mất đi, "vơi rỗng" thì thêm nhiều lợi ích. Khi Âm khí chuyển về Đông Bắc, gặp Dương khí mà sinh Chấn, dương ở trong âm, là thể của Khôn âm cầu lần thứ nhất. Khi Dương khí đến Đông Nam, gặp Âm khí, mà sinh Đoài là âm ở trong dương, thể của Càn dương cầu lần thứ ba. Nói tượng vạch Dương lấn vạch Âm, thì Hà Uyên thấy còn băn khoăn. Cảm ơn Sapa.
-
Mỗi một năm đều có một Tinh làm chủ là đúng, chúng ta sẽ từng bước truy tìm nguồn gốc của v/đ này. Nói về Tứ dư thì có mấy nguồn bàn về nó, v/đ ở đây thì Hà uyên tính cho năm 1953 - 1954.
-
Cảm ơn Phongthuysinh đã cung cấp những thông số chuẩn mực. Những thông số của Nguyệt tinh này, khi tính toán, có mối quan hệ như thế nào đối với 28 tú ? Theo từng Mùa trong năm ? - Thanh long ở phương Đông: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ. Theo thứ tự phối ứng: Mộc, Kim, Thổ, Nhật, Nguyệt, Hoả, Thuỷ. - Huyền vũ ở phương Bắc: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích. Theo thứ tự phối ứng: Mộc, Kim, Thổ, Nhật, Nguyệt, Hoả, Thuỷ. - Bạch Hổ ở phương Tây: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm. Theo thứ tự phối ứng: Mộc Kim Thổ, Nhật, Nguyệt, Hỏa, Thuỷ. - Chu Tước ở phương Nam: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn. Theo thứ tự phối ứng: Mộc, Kim, Thổ, Nhật, Nguyệt, Hỏa, Thủy. Thái âm và Kế tinh (Dư khí của Thổ tinh) đều căn cứ vào tú Nữ làm điểm mốc xuất phát, Thái âm thì 7 độ khởi hành, còn Kế đô thì lấy ngay từ độ đầu tiên làm mốc khởi hành. Có những năm thì Thái âm làm chủ, có những năm thì Kế đô lấn át, gây ảnh hưởng rất nhiều. Mối quan hệ giữa Thái âm và kế đô thì Hà uyên cũng còn đang truy tìm thông số, cũng như mối quan hệ của Khí tinh (Dư khí của Mộc tinh) đối với Thái âm tinh, có ảnh hưởng với nhau như thế nào ? Phongthuysinh có quan tâm đến v/đ này không ?
-
- Thanh long ở phương Đông: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ. Theo thứ tự phối ứng: Mộc, Kim, Thổ, Nhật, Nguyệt, Hoả, Thuỷ. - Huyền vũ ở phương Bắc: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích. Theo thứ tự phối ứng: Mộc, Kim, Thổ, Nhật, Nguyệt, Hoả, Thuỷ. - Bạch Hổ ở phương Tây: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm. Theo thứ tự phối ứng: Mộc Kim Thổ, Nhật, Nguyệt, Hỏa, Thuỷ. - Chu Tước ở phương Nam: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn. Theo thứ tự phối ứng: Mộc, Kim, Thổ, Nhật, Nguyệt, Hỏa, Thủy.
-
Chào Phongthuysinh. PTS tìm lời tiên tri của bác nhưng không thấy đâu, bác viết ở mục nào vậy ? http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...rt=0#entry44915 Về thái âm thì quá sai lệch. Theo tính toán của PTS thì ngày: Tài liệu, Sách của tiền nhân xưa viết là như vậy (Thông thiên hiểu), nhưng khi đi vào tính toán thực tế thì không phải là như vậy. Có sai lệch với cách tính của Phongthuysinh đã nêu ở trên. Vấn đề mà Hà uyên quan tâm, là mối quan hệ giữa "Thiên độ" và 'Khí số" của quẻ Dịch khi tính tổng hoà một số môn học thuật để truy tìm tính thống nhất của thông tin. Mỗi một môn học thuật đưa ra một thông số về thông tin có khác nhau, nên chuyên mục này, Hà Uyên đã có viết là "Tìm hiểu về Thổ tinh". PTS rất mong bác có thể nói thêm về "Thái Bạch Kim tinh nhập Nguyệt" Câu hỏi này, thì Hà Uyên cùng Phongthuysinh sẽ từng bước trao đổi, trước hết nó là một kinh nghiệm tính toán trong nhiều năm, từ khi đất nước chúng ta còn chưa có Tivi. Trong thời gian gần đây, chúng đã được thừa hưởng rất nhiều thông tin để đối chứng, kiểm chứng với kiến thức của người xưa để lại. Do vậy, bản thân Hà uyên cũng có rất nhiều những thay đổi được mở rộng tầm nhìn. Cái khó nhất là khi tính Tứ dư cho từng năm. 2/2/1984 (mùng 1 tháng giêng 1984, giáp tý) nguyệt ở 314 độ (longitude) 21/1/1985 (mung 1 tháng giêng 1985, ất sửu) nguyệt ở 302 độ 9/2/1986 nguyệt ở 322 độ 29/1/1987 nguyệt ở 303 độ 17/2/1988 nguyệt ở 321 độ 6/2/1989 nguyệt ở 315 độ 27/1/1990 nguyệt ở 311 độ Những thông số trên, Phongthuysinh tính chung cho toàn bộ trái đất của chúng ta, hay tính toán cho từng khu vực cụ thể ? Nếu là thông số tính toán cho khu vực Đông Nam Á thì Hà Uyên sẽ tiếp thu học hỏi. Cảm ơn Phongthuysinh đã quan tâm.
-
Vì sao ngày 09-09-09 đặc biệt ? Với những nền văn hóa coi 9 là con số may mắn, ngày hôm nay đã được chờ đợi từ lâu. Về lý thuyết thì ngày 9/9/2009 chẳng có gì đặc biệt, song nó lại có nhiều điều thú vị trên phương diện toán học và lịch sử. Chiếm vị trí cuối cùng trong hệ thống chữ số, song số 9 có vai trò khá đặc biệt. Đối với nhiều nền văn hóa nó tượng trưng cho sự bao dung, lòng trắc ẩn và thành công. Tuy nhiên, những chuyên gia về số khẳng định số 9 cũng được gắn với thói kiêu ngạo và ích kỷ. Pythagoras, một nhà toán học Hy Lạp cổ đại, từng nói rằng số 9 có rất nhiều điểm đặc biệt. Nếu lấy 9 nhân với một số bất kỳ trong dãy số 1-9 rồi cộng hai số trong kết quả, ta sẽ được tổng là 9. Chẳng hạn 9 x 3 =27, và 2+7=9. Nếu nhân mọi số có hai chữ số (như 19, 85) với 9 rồi cộng các chữ số trong kết quả, chúng ta cũng được kết quả là 9. Ví dụ: 9 x 62 = 558; 5+5+8=18; 1+8=9. Ngày 9/9 năm nay là ngày thứ 252 trong năm, mà 2+5+2=9. Người dân Trung Quốc và Nhật Bản rất coi trọng chữ số 9. Tuy nhiên quan niệm của họ đối với nó lại hoàn toàn trái ngược. Đối với người dân tại xứ sở Vạn lý trường thành, chữ số 9 tượng trưng cho sự trường thọ. Trong lịch sử, các hoàng đế Trung Quốc luôn cho rằng số 9 là biểu tượng của quyền lực. Nó hiện diện trong cách ăn mặc (long bào có hình 9 con rồng), kiến trúc và thậm chí cả đội múa lân của vua chúa (9 người). Người ta nói rằng Tử Cấm Thành ở thủ đô Bắc Kinh có 9.999 phòng. Trong khi đó, các hoàng đế Nhật Bản không bao giờ mặc trang phục có 9 con rồng. Tại xứ sở hoa anh đào, chữ số 9 được phát âm giống từ “đau khổ”. Vì thế mà người ta cho rằng nó mang đến sự xui xẻo. Số 9 bị xa lánh chỉ sau số 4 (được phát âm giống từ “chết”). http://vtc.vn/394-225591/phong-su-kham-pha...09-dac-biet.htm