Hà Uyên

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.069
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    8

Everything posted by Hà Uyên

  1. Chào anh Thiên Sứ. Xin cảm ơn Anh rất nhiều từ sự quan tâm của Anh. Chúng ta, ai cũng phải đối mặt và thích ứng với cái mà nó phải đến. Tôi đang tập làm quen dần thích nghi với hiện tại. Trân trọng.
  2. Thực hiện các bước tính toán: - Năm 2010, lấy làm số dùng cộng thêm 30: 2010 + 30 = 2040 - Lấy số dùng 2040 trừ đi số năm 1984 thì được số thứ tự quẻ dịch: 2040 - 1984 = 56 Theo thứ tự Dịch Kinh, số thứ tự 56 là quẻ Hỏa Sơn Lữ, năm Dần nên động hào 6 biến quẻ Lôi Sơn Tiểu quá. - Sao lại trừ đi số năm 1984 ? Vì bởi số khởi Đại vận là 31, cho nên 31 x 64 = 1984 Vận tháng năm 2010 - Canh Dần theo SỐ THÁI ẤT: - Tháng Giêng: hào 6 quẻ Hỏa Sơn Lữ. - Tháng Hai: hào 1 quẻ Lữ. - Tháng Ba: hào 2 quẻ Lữ. - Tháng Tư: hào 3 quẻ Lữ. - Tháng Năm: hào 4 quẻ Lữ. - Tháng Sáu: hào 5 quẻ Lữ. - Tháng Bảy: hào 6 quẻ Lôi Sơn Tiểu quá. - Tháng Tám: hào 1 quẻ Tiểu quá. - Tháng Chín: hào 2 quẻ Tiểu quá. - Tháng Mười: hào 3 quẻ Tiểu quá. - Tháng Một: hào 4 quẻ Tiểu quá. - Tháng Chạp: hào 5 quẻ Tiểu quá. Sử ký - Lễ Thư: "Năng lự vật Dịch" (Khi còn có thể suy nghĩ tìm tòi được, thì không nên xem bói)
  3. Kinh viết: Cấn, Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân; hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân. Vô cữu. Tượng viết, kiêm sơn, cấn, vật dĩ tư bất xuất kỳ vị. Sơ Lục, cấn kỳ chỉ, vô cữu, lợi vĩnh trinh. Nhị Lục, cấn kỳ phì, bất chửng kỳ tuỳ, kỳ tâm bất khoái. Cửu Tam, cấn kỳ hạn, liệt kỳ di, lệ huân tâm. Lục Tứ, cấn kỳ thân, vô cữu. Lục Ngũ, cấn kỳ phụ, ngôn hữu tự, hối vong. Thượng Cửu, đôn cấn, cát.
  4. Chúng ta có bốn con số, được quy định như sau: cặp số 7 - 8 được quy định đại diện cho "tĩnh", cặp số 9 -6 được đại diện cho "động". Trong cặp số 7 - 8 đại diện cho cho "Tĩnh", thì số "8" là số đại diện cho Dương "Tĩnh", còn số "7" là số đại diện cho Âm "Tĩnh". Các bước thực hiện: - Quẻ Càn: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 16 x 2 = 32. Tổng trị số ba hào quẻ Càn là 8 + 16 + 32 = 56 - Quẻ Khôn: hào một trị số là 7, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Khôn là 7 + 14 + 28 = 49 - Quẻ Chấn: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Chấn là 8 + 14 + 28 = 50 - Quẻ Khảm: hào một có trị số là 7, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Khảm là 7 + 16 + 28 = 51 - Quẻ Đoài: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Đoài là 8 + 16 + 28 = 52 - Quẻ Cấn: hào một trị số là 7, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 16 x 2 = 32. Tổng trị số ba hào quẻ Cấn là 7 + 14 + 32 = 53. - Quẻ Ly: hào một 8, hào hai là 7 x 2 = 14, hào ba là 16 x 2 = 32. Tông trị số ba hào quẻ Ly là 8 + 14 + 32 = 54 - Quẻ Tốn: hào một là 7, hào hai là 16, hào ba là 32. Tổng trị số ba hào quẻ Tốn là 7 + 16 + 32 = 55 Bát quái tương đương với trị số quẻ được xếp như sau: ..49.....50.......51......52.....53....54....55....56. Khôn...Chấn...Khảm...Đoài...Cấn...Ly...Tốn...Càn. Từ đây, chúng ta thấy mối liên hệ của thuật toán "Cỏ thi", tại sao lại dùng có 49 cây Cỏ thi để thực hiện 18 lần chia, mỗi lần 3 biến thì được một hào, 18 lần thì được 6 hào của một quẻ Dịch. Từ Âm tới Dương, từ "Không" tới "Có", từ tối tới sáng, từ đêm tới ngày, ... , Cũng từ đây, có thể số 50 được coi là "Đế xuất hồ Chấn" Bây giờ, chúng ta xếp các trị số của quẻ theo mô hình được gọi là Tiên thiên như sau: ....................56.................... ...........52................55.......... ...54...............+.................51.. ..........50.................53............ .....................49.................... Khi chúng ta đọc thứ tự số từ "không" tới "có", từ Âm tới Dương, lần lượt tăng thêm một đơn vị, bắt đầu từ số 49, thì chúng ta thấy đường đi hình chữ số 8 thật là vui mắt. Tổng trị số của Càn-Đoài-Ly-Chấn, đều có hào một là hào dương là: 56 + 52 + 52 + 50 = 212 Tổng trị số của Tốn-Khảm-Cấn-Khôn, đều có hào một là hào âm là: 55 + 51 + 53 + 49 = 208 Như vậy, trị số của Dương và Âm có khác biệt 4 đơn vị. Không hiểu tại sao người xưa lại gọi 4 là chìa khóa của âm dương khi sinh Ngũ hành ? Nhìn vào đồ hình sắp xếp các trị số của quẻ, ta thấy những cặp số đứng liền nhau mà khác biệt 4 đơn vị gồm có: Càn và Đoài, Khôn và Cấn, Chấn và Ly, Tốn và Khảm. Có thể từ đây, mà người xưa đặt ra điều lệ: cặp Khôn-Cấn và cặp Càn-Đoài là Tây tứ trạch. Còn cặp Tốn-Khảm và Chấn-Ly là Đông tứ trạch (?) Những cặp này đều có trị số cách nhau 4 đơn vị Tiếp tục khảo sát, tổng trị số của 8 quái là: 212 + 208 = 420. Thật lạ, như vậy Tổng trị số của tám quẻ khi "Tĩnh" lại bằng với Tổng Trị số tám quẻ Khi "Động", đều bằng 420. (?) Lại tiếp tục khảo sát: ..49.....50.......51......52......53....54....55....56......... (khi dùng cặp số 7 - 8) Khôn...Chấn...Khảm...Đoài...Cấn...Ly...Tốn...Càn. ..63.....60.......57......54......51.....48....45....42..........(Khi dùng cặp số 6 - 9) Nhận thấy, từ Khôn tới Đoài số thứ tự là 4 khi "Tĩnh", thì khi "Động" có trị số cách nhau là 42 + 9 = 51. Tiếp tục từ Đoài tới Tốn, thì thứ tự khi "tĩnh" cũng cách nhau là 4, mà khi "động" cũng có trị số cách nhau là 9, cụ thể là 51 + 9 = 60. Từ "Tĩnh" chuyển sang "động", từ Âm tới Dương, từ "Không" tới "có", thông qua 9 con số Cửu cung, chúng ta từng bước tìm hiểu về những con số của Dịch 7 - 8 - 9 - 6.
  5. Khảo sát Lịch sử về chiêm bốc, thì "cỏ thi" đã thay thế cho "mai rùa". Trên thực tế, ngoài ghi chép của Khổng Tử ra, không có phương pháp bói "cỏ thi" nào khác, được ghi chép lại. Tới tận đời Đường, thời gian có tới hơn hai ngàn năm. Một cuộc cách mạng đã làm thay đổi thời gian Bốc quẻ, khi thay thế Ba đồng tiền để tiến hành lắc quẻ. Theo thời gian, Bốc dịch lại sản sinh ra một cuộc cách mạng trọng đại nữa, cho tới khi xuất hiện Thiệu Ung. Ông cho rằng: "Thần sinh Số, Số sinh Tượng, Tượng sinh Khí". Được gọi là Khang Tiết Thần số. Thời Tam quốc, Vương Bật, một người thanh niên đề xướng tư tưởng trị dịch: "đắc ý quên tượng". Thì Dịch học đã chuyển từ Chiêm Bốc sang Triết học. Trường phái Nghĩa - Lý đã thay thế Dịch Số thời nhà Hán. Cho tới ngày hôm nay, Bốc Dịch cần Khoa học, hiện đang là thời mà Khoa học không cần Chiêm Bốc.
  6. Trước khi tìm hiểu về Âm Dương sinh Ngũ hành như thế nào ? Có lẽ, chúng ta khảo sát trước về những con số Âm Dương khi sinh. Một thuận tự dãy số, khi quan hệ với trị số của quẻ Khôn là 49 như sau: ..1......2......3......4......5......6......7......8......9.. .49....48.....47....46.....45....44.....43....42....41.. .40....39.....38....37.....36....35.....34....33....32.. .31....30.....29....28.....27....26.....25....24....23.. .22....21.....20....19.....19....17.....16....15....14 .13....12.....11....10......9......8......7......6......5 ..4......3......2......1......0.............................. .................................9......8......7......6.....??? Thông qua năm lần hàng ngang, trị số giảm dần của Khôn, thì hàng dọc cho chúng ta thấy những cặp số: 1 -4, 2 - 3, 3 -2, rồi lại 1 - 4, thì trị số của quẻ Khôn từ 49 => 1 ở vị trí có số thứ tự là 4. Tiếp tục một thuận tự dãy số, khi quan hệ với trị số của quẻ Càn là 56 như sau: ...1......2......3......4......5......6......7......8......9.. ..56.....55....54....53.....52....51.....50....49....48.. .................................................................... .................................................................... .................................................................... .................................................................... ..11.....10.....9......8......7......6......5.....4.......3.. ...2.......1.....0................................................ Trị số của Càn là 56, nếu theo thứ tự là một, thì từ hàng dọc, trị số của Càn được khởi đầu lại là 2, là số "Chẵn", là số "Ngẫu". Vậy thì tại sao Dịch lại nói: Dương lẻ Âm chẵn, Dương cơ âm ngẫu ?
  7. Chúng ta khảo sát lại với cặp số 9 - 6, được coi là cặp số đại diện cho "động" ....................CÀN.........................KHÔN.......... Hào ba.......18 x 2 = 36...............12 x 2 = 24...... Hào hai...... 9 x 2 = 18.................6 x 2 = 12..... Hào một...............= 9..........................= 6...... - Quẻ Chấn: hào một dương 9, hào hai âm 6 x 2 = 12, hào ba âm 12 x 2 = 24. Tổng trị số ba hào quẻ Chấn là 9 + 12 + 24 = 45 (Hàm tam vi nhất) - Quẻ Khảm: hào một âm 6, hào hai dương 9 x 2 = 18, hào ba âm 12 x 2 = 24. Tổng trị số ba hào quẻ Khảm là: 6 + 18 + 24 = 48 - Quẻ Cấn: hào một âm trị số là 6, hào hai âm 6 x 2 = 12, hào ba dương 18 x 2 = 36. Tổng 3 hào: 6 + 12 + 36 = 54. - Quẻ Tốn: hào một âm trị số là 6, hào hai dương trị số là 9 x 2 = 18, hào ba dương trị số là 18 x 2 = 36. Tổng trị số ba hào quẻ Tốn là: 6 + 18 + 36 = 60 - Quẻ Ly: hào một dương trị số là 9, hào hai âm 6 x 2 = 12, hào ba dương trị số là 18 x 2 = 36. Tổng trị số ba hào quẻ Ly là: 9 + 12 + 36 = 57. - Quẻ Đoài: hào một dương trị số là 9, hào hai dương trị số là 9 x 2 = 18, hào ba âm trị số là 6 x 2 x 2 = 12. Tổng trị số ba hào quẻ Đoài là: 9 + 18 + 24 = 51. Tổng trị số 3 hào của Càn là: 9 + 18 + 36 = 63. Tổng trị số 3 hào của Khôn: 6 + 12 + 24 = 42. .42.......45.........48.........51......54........57.......60.........63... Khôn....Chấn......Khảm.....Đoài....Cấn......Ly.......Tốn.......Càn.. .49.......50.........51.........52.......53.......54........55........56... Tổng trị số tám quái khi tĩnh: 420 (cặp số 7 - 8) Tổng trị số tám quái khi động: 420 (cặp số 6 - 9) Âm Dương sinh Ngũ hành, có thể thông qua chìa khóa của Ngũ hành là số 4, và những con số từ 1 => 9, chúng ta nhận thức được không ? Người xưa đã thực hiện tính toán như thế nào để quy tám quái về Ngũ hành ? Tại sao Càn Đoài thuộc Kim, Chấn Tốn thuộc Mộc, Ly thuộc Hỏa, Khảm thuộc Thủy, Cấn Khôn thuộc Thổ ???. Người xưa nói: phương Đông sinh Mộc, vậy phương Tây có sinh Mộc không ?
  8. Có thể, những con số là sợi dây nối liền Bốc Dịch với Khoa học.
  9. Xin chào anh chị em. Môn Tử vi, thông qua Tháng sinh và Giờ sinh, xác định được cung lập Mệnh. Tiếp đến là xác định Ngũ hành cho Cục, thông qua Can của Năm sinh. Với những trị số cơ bản như sau: - Hoả Lục cục - Thổ ngũ cục. - Kim tứ cục - Mộc tam cục. - Thủy nhị cục. Trị số: 2, 3, 4, 5, 6 được phối hợp với Ngũ hành: Thủy - Mộc - Kim - Thổ - Hỏa, không biết Người xưa căn cứ vào đâu, để xác lập như vậy ? Anh chị em cùng bình giải xem, Tại sao lại được cấu tạo như vậy ?
  10. Ngày Quốc khánh 2 - 9 - 1945, Hà Uyên chọn giờ Thìn, có Bát tự là: Ất Dậu - Giáp Thân - Giáp Tuất - Mậu Thìn (26/7 âm) - Môn Bát tự Hà Lạc: Tổng số âm là 32, tổng số dương là 29. Được quẻ Địa Phong Thăng, có Nguyên đường ngồi hào 3. - Từ năm 1945 - 1950, hào 3 quẻ Thăng - Từ năm 1951 - 1956, hào 4 quẻ Thăng - Từ năm 1951 - 1956, hào 5 quẻ Thăng - Từ năm 1957 - 1962, hào 6 quẻ Thăng - Từ năm 1963 - 1968, hào 1 quẻ Thăng - Từ năm 1969 - 1977, hào 2 quẻ Thăng - Từ năm 1978 - 1986, hào 3 quẻ Thăng - Từ năm 1987 - 1995, hào 1 quẻ Phong Lôi Ích - Từ năm 1996 - 2001, hào 2 quẻ Ích - Từ năm 2002 - 2007, hào 3 quẻ Ích - Từ năm 2008 - 2013, hào 4 quẻ Ích + Hào 4 quẻ Ích 2008 - 2013: "Lục Tứ, trung hàng cáo công tòng, lợi dụng vi y thiên quốc - Dịch: "Hào Sáu Bốn, giữ điều trung, thận trọng sự hành, cung kính thăm hỏi bậc vương công, tất sẽ được lời nghe, kế theo, lợi về sự dựa vào Bậc quân thượng trong việc dời đô, ích dân". - Thủ đô Hà nội mở rộng, Thành phố Hồ chí Minh cũng được phê duyệt Quy hoạch tổng thể mở rộng, rất nhiều thành phố mở rông. Cùng Anh Chị Em trên diễn đàn bình giải PS: Hà Uyên chưa định được giờ của ngày Quốc khánh nhân dân Trung Quốc ? Có ai biết không ?
  11. Chào Dichnhan07. "...nói vậy không thể mở ra một bài học cho người đọc đang cần một lời khuyên, mà chỉ nói về cái kết quả". Thanh đàm cùng nhau, thực sự Hà Uyên thấy thanh thản và ấm cúng. Hay quá, cảm ơn Dichnhan07.
  12. Kính gửi anh Thiên Sứ. Trong chuyên mục này, Hà Uyên đặt vấn đề khai thác khi Ngũ tinh "Hợp" rồi "Hóa". Xét thấy, đây vẫn là một khoảng còn rất trống mà Người xưa, có thể đã nhận thức được, nhưng ít thấy bàn tới một cách cụ thể. Để xây dựng một học thuyết về vấn đề này, thú thực Hà Uyên không thể. Mong muốn có một phần nhỏ bé mỏng manh của mình, mà đặt vấn đề tại sao lại có quy luật tính vận 20 năm trong Tam nguyên Cửu vận. Từ 2004 tới 2009, kiến thức Thiên văn hiện đại đã cho chúng ta biết. Nhưng khi Giáp hợp Kỷ, bỏ đồng loại để đi "Hợp" rồi "Hoá", thì đồng loại còn lại sẽ phản ứng tới đâu ? Mộc khắc Thổ, Mộc tinh và Thổ tinh chu kỳ giao hội đã để lại những ảnh hưởng gì ? Đây là những điều mà Hà Uyên rất muốn khai thác, hướng tới giá trị có ích, trong hiện hữu chung. Cảm ơn Anh đã quan tâm. Hà Uyên
  13. Chúng ta nhận xét thấy: ngôn ngữ của Dịch, tại sao Cổ nhân lại chọn hình tượng như vậy ? Ví như Hào một quẻ Cấn và Hào một quẻ Sơn Hoả Bí, đều dùng một hình tượng giống nhau: "ghìm chặn ngón chân" và " tô điểm ngón chân". "Trinh" là quẻ gốc, ví như ở đây là quẻ Cấn, khi Hào một biến dịch thì thành quẻ "Hối", đó là quẻ Sơn Hỏa Bí. Đây là thuyết "Trinh - Hối" của Người xưa vậy.
  14. “Tượng viết: Kiêm sơn, cấn, vật dĩ tư bất xuất kỳ vị.” Dịch nghĩa: “Đại tượng nói: Hai núi chồng nhau, tượng trưng cho sự “ghìm chặn”, vạn vật ở trong hoàn cảnh này, nhân vậy, tự thân ghìm nén tà dục bên trong , mọi cái hướng ra bên ngoài, không vượt khỏi vị trí của mình.” Theo thời mà hình thành nên thuyết Cổ ngữ: Mệnh kiến, tòng tiện, tự đạt. Mệnh tiện, quý vị, tự nguy Bình: mệnh không đủ, mà ngồi nới quý vị, thì tự kéo kẻ thù tới. Đủ mệnh, ở nơi vất vả gian truân, tự khẳng định mình mà thành đạt.
  15. Cấn, Núi, nhìn thấy mà không nghe thấy. ! Chấn, Sấm, nghe thấy mà không nhìn thấy. !
  16. “Cấn, cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân ; hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân. Vô cữu.” Dịch nghĩa: “Quẻ Cấn tượng trưng cho sự ghìm lại: gìm lại ở sau lưng để tránh sự phát hiện, không để cho thân thể trực tiếp hướng vào phía tư dục đáng phải ghìm ngăn; ví như ở trong sân mà quay lưng lại với nhau, cùng không nhìn thấy điều tà ác bị ghìm ngăn lại, tất không cữu hại.” - Bình giải: tên quẻ Cấn: ghìm lại, ngăn lại, dừng. “Cấn kỳ bối”, lời này nói rõ cách làm sự ngăn, nói lên khi ghìm ngăn là dục của người ta, thì nên bất ngờ chặn đứng ngay khi người ta còn chưa phát hiện ra là có “tà dục”; như thể ta ghìm lại ở “sau lưng” thì người bị chặn sẽ không thấy được tà dục là cái gì, cũng như nói “mắt không nhìn thấy điều tà dục” vậy. Cấn là núi, có nghĩa là chặn đứng, là ngăn, ứng vào sự sự đời thì là sự ghìm lại, ngăn lại để phòng sự động lòng dục, làm sự ngăn chặn được, thì đạo dễ thành, làm việc không ngăn được, thì công khó thành. “Không thấy cái gây nên điều dục, thì lòng không loạn”. “Bất hoạch kỳ thân”, như nói “thân mình không được về phía mà ta muốn ngăn lại”, có nghĩa khi “chặn lại” ở sau lưng, thì bản thân người bị “chặn” không hướng về phía tư dục cần ghìm ngăn, nghĩa là “chỉ đắc kỳ sở” (chặn được đúng chỗ). Cái cần ngăn ở phía sau, cho nên bản thân không thấy được. “Chỉ bối” : cũng như người bị “chặn” đi ở trong sân từng đôi một quay lưng vào nhau; khi thực hiện sự “chặn” thì người nọ không nhìn thấy điều tà ác cần được ghìm ngăn của người kia, là do lưng của hai người quay vào nhau. Dùng cách này để ứng xử với quẻ Cấn thì công “ghìm chặn tà dục” ắt thành. Bình khảo: cách thức ghìm ngăn được nói tới tập trung ở chữ “bối”, thực hiện sự ghìm ngăn trong tình trạng “quay lưng vào nhau”, thì có thể ngăn được lòng dục khi nó còn chưa manh nha, như vậy là ghìm ngăn được đúng chỗ. Cấn là quẻ nói về ghìm chặn không cho thông giao với nhau. Mọi chỗ đều bị ghìm chặn thì không qua lại được với nhau, sao được vô cữu ? Chỉ có không nhìn nhau là được thôi. Thực hiện được sự ghìm chặn ở sau lưng, thì không cần phải ngăn cách vật dục. Lưng là nơi không nhìn thấy được, không nhìn thấy được là tự nhiên bị chặn đứng, chặn đứng lại mà không nhìn thấy là “bất hoạch kỳ thân”. Quay lưng lại nhau, tuy gần mà không nhìn thấy, cho nên “ hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân”. “Thoán viết: Cấn, chỉ dã. Thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành; động tĩnh bất thất kỳ thời, kỳ đạo quang minh. “Cấn kỳ chỉ”, chỉ kỳ sở dã. Thượng hạ địch ứng, bất tương dữ dã, thị dĩ “bất hoạch kỳ thân, hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân, vô cữu” dã.” Dịch nghĩa: “Thoán truyện nói: “Cấn” nghĩa là ghìm chặn. Thời nên ghìm chặn thì ghìm chặn, nên đi lên thì đi lên; hoặc động hoặc tĩnh thích đáng không phạm vào thời, thì lẽ “ghìm chặn” sẽ sáng láng. Ý nghĩa chính của quẻ Cấn tượng trưng cho sự ghìm chặn, điều này nói lên sự ghìm chặn phải thích đáng đúng chỗ. Sáu hào trong quẻ đều đối địch với nhau, không đi lại thân mật với nhau, cho nên giống như sự “không để cho thân mình hướng về phía tư dục đang bị ghìm ngăn, ví như đi trong sân mà từng đôi quay lưng lại với nhau, cùng không nhìn thấy tà ác đang bị ghìm ngăn của đối phương, có như vậy thì mới không bị cữu hại.” - Bình chú: “Cấn kỳ chỉ” là ngừng lại nơi phải ngừng, chỗ cần ghìm chặn là “lưng”, lưng là nơi đáng bị ngăn chặn. Đạo “chặn” phải thực hiện ở cái không thể có sự đi lên, “bối” là vật không nhìn thấy, tức là nơi ghìm chặn được. Sáu hào đối địch tương khắc với nhau, không thân hòa với nhau, chính giống với lẽ “tương bối” mà “ức chỉ”, vì rằng quẻ này đã ghìm chặn mà không giao với nhau, các hào lại trơ cứng không ứng, tương hợp với nghĩa của “chỉ”. “Tượng viết: Kiêm sơn, cấn, vật dĩ tư bất xuất kỳ vị.” Dịch nghĩa: “Đại tượng nói: Hai núi chồng nhau, tượng trưng cho sự “ghìm chặn”, vạn vật ở trong hoàn cảnh này, nhân vậy, tự thân ghìm nén tà dục bên trong , mọi cái hướng ra bên ngoài, không vượt khỏi vị trí của mình.” - Bình giải: “vị” là ngôi của mình, chỉ ngôi giữ là của phận tự thân. Muôn việc đều có nơi chốn, hễ đúng nơi chốn thì “chỉ” mà yên. Nếu đáng “hành” mà lại “chỉ”, đáng nhanh mà lại lâu, hoặc quá, hoặc bất cập, đều là “xuất kỳ vị” vậy, huống hồ lại vượt bổn phận của tự thân một cách không có căn cứ sao ? Lớn thay là đạo “chỉ” ! Có “chỉ” mà “tuyệt” được điều đó, có “chỉ” mà ở được chỗ đó, có “chỉ” mà gọn được việc đó. Cấn là “chỉ” có ba hàm nghĩa: một là “ức chỉ” tà ác, hai là “chỉ” ở chính đạo, ba là “chỉ” theo phận mình tự thân, nghĩa thứ nhất có thể bao quát cả hai nghĩa sau, tức là “dừng được tà dục”. “Chỉ” nghĩa là dừng. 1- “Sơ Lục, cấn kỳ chỉ, vô cữu, lợi vĩnh trinh.” Dịch nghĩa: Hào Sáu Đầu, biết ghìm chặn ở ngón chân khi cất bước, tất không tội lỗi, lợi về sự giữ vững chính, bền lâu dài. - Tượng nói: “Cấn kỳ chỉ, vị thất chính dã.” Nói lên Sáu Đầu chưa từng vi phạm chính đạo. Chưa mất ngôi chính. Bình giải: Sáu Đầu âm mềm, chất yếu, ở dưới cùng, có tượng ngón chân, khi cất bước thì ngón chân động trước, mọi sự mà được chặn từ khi mới đầu, thì không mất chính, sợ rằng nó chỉ có đầu mà không có cuối, nên răn muốn lâu dài thì phải chính bền. Ghìm chặn trước khi hành động thì dễ, ghìm chặn lại sau khi hành động thì khó. Khi việc chưa bị mất chính, đã có thể ngăn điều tà nguy khi còn đang manh nha. - Sơn Hỏa Bí hào 9.1: “Sơ Cửu, bí kỳ chỉ, xả xa nhi đồ.” Dịch nghĩa: Hào Chín Đầu, văn sức tô điểm cho ngón chân của mình, bỏ xe lớn mà cam lòng đi bộ. - Tượng nói: “Xả xa nhi đồ, nghĩa phất thừa dã.” Nói lên xét về ngôi vị mà Chín Đầu đang ở thì không nên đi xe lớn. Bỏ của cứu (đồ đệ) người. Bình giải: ngôi đầu quẻ, cứng mà dưới, ở nơi không ngôi vị, không dam tham cầu sự tô điểm đẹp đẽ, mà chỉ tự tô điểm cho ngón chân, ví như tô điểm cái đáng tô điểm, cũng như bỏ đi cái bất nghĩa, yên lòng đi bộ để theo chí mình. Đó lấy lễ để tự văn sức, không vượt lễ để cầu sự “bí”. Đời cho sự tiến lạm điều sa xỉ là vinh, thì người quân tử cho là nhục, nói đó là văn sức cho lễ, nhưng lại là miệt thị lễ vậy. Đạo lý là ở chỗ giữ nghĩa, cái lẽ “bí” phải hợp với “nghĩa”. Chín Đầu ứng với Sáu Bốn, thì điều nghĩa được thể hiện ở chỗ yên lòng, thư thái mà đi, tĩnh lặng đợi ứng với hào Bốn, cho nên không đi xe phi nghĩa. Người đời nếu như không giữ lễ, thì tuy đẹp nhưng cũng là người thừa. 2- “Lục Nhị, cấn kỳ phì, bất chửng kỳ chùy, kỳ tâm bất khoái.” Dịch nghĩa: Hào Sáu Hai, ghìm chặn sự cử động của cẳng chân, chưa thể bước lên trên để đội kẻ vốn nên đi theo, trong lòng không được khoan khoái. - Tượng nói: “Bất chửng kỳ tùy, vị thoái thính dã”, nói lên Sáu Hai không có cách nào lùi mà nghe theo mệnh lệnh ghìm chặn. Không lui bước. Bình giải: chất mềm ở ngôi giữa, vốn là phải đội hào Ba dương, nhưng cẳng chân lại bị ép ghìm chặn, đáng là đi mà không đi được, tiến thì không thể “thừa” đội hào dương vốn nên đi theo, lui thì không thể nghe theo mệnh lệnh ghìm chặn. Nhưng thiên chức của âm là thuận theo dương, nên vẫn phải “tùy” dương, đã không thể động, lại phải “tùy” dương, không thể tự chủ, cho nên “kỳ tâm bất khoái”. Hào Hai động thì không có gì là không chính, thế mà bị cưỡng ép dừng, đây là tình trạng thực hiện sự dừng không đúng chỗ. - Sơn Phong Cổ hào 9.2: “Cửu Nhị, cán mẫu chi cổ, bất khả trinh.” Dịch: Hào Chín Hai, uốn nắn sự tệ loạn của mẹ, khi tình thế khó tiến hành thì không thể gượng làm được, mà phải giữ vững chính, bền để đợi thời. - Tượng nói: “Cán mẫu chi cổ, đắc trung đạo dã.”, nói lên Chín Hai nắm vững phương pháp cứng mềm hòa hợp. Bình giải: “bất khả trinh” như nói “thời mà không thể làm thì giữ chính để đợi”, dương ở ngôi âm có tượng cứng có thể mềm, còn như uốn nắn “đức của người làm mẹ”, là ở thời hào âm bác bỏ không theo. Ở bên trong thì thích hợp với việc uốn nắn, nhưng tính phụ nữ khó có thể toàn chính, cho nên cần uốn cái cứng của mình, đã uốn thẳng được mà lại thuận tình, cũng như không thể cố chấp để làm cho thành chính. Cùng là “cán cổ”, nhưng giữa bố và mẹ phải có sự khác biệt, nên thuận theo từng tính cách mà áp dụng các phương pháp sao cho thích hợp, tùy tình thế mà xử lý, thận trọng giữ đạo trung, mới có thể đạt kết quả. 3- “Cửu Tam, cấn kỳ hạn, liệt kỳ di, lệ huân tâm.” Dịch nghĩa: Hào Chín Ba, ghìm chặn sự vận động của lưng đến nỗi đứt cả chỗ thăn lưng (nơi trên dưới giao nhau ở cơ thể), nguy hiểm như cháy ruột. - Tượng nói: “Cấn kỳ hạn, nguy huân tâm dã”, sự nguy hiểm của Chín Ba sẽ như cháy ruột. Cấn cũng có kỳ hạn của Cấn Bình giải: dương cứng, được ngôi, chính là đã thận trọng trong sự đi, thế mà lại bị dừng (chỉ) khiến đứt thăn lưng, là do ý chí quá nung nấu. Hào này cũng nêu rõ sự dừng ở đây là không đúng chỗ. - Sơn Địa Bác hào 6.3: “Lục Tam, bác, vô cữu.” Dịch nghĩa: Hào Sáu Ba, tuy ở thời “bác lạc” nhưng không cữu hại. - Tượng nói: “Bác chi vô cữu, thất thượng hạ dã”, nói lên Sau Ba xa rời bầy âm ở trên và dưới, riêng ứng với dương cứng. Vô cữu của Bác, trên dưới sai lệch. Bình giải: bầy âm trong quẻ “đều đẽo dương”, Sáu Ba chỉ có ứng với hào Trên, không có ý làm hại mà “bác”, tuy ở thời “bác lạc”, thể của nó bị phá dần dần thành âm, nhưng vì nó ở vị thế dương, ứng hợp với Chín Trên dương cứng, cho nên bên ngoài dường như nó bị “tiêu bác”, nhưng bên trong vẫn còn giữ chất dương, có nghĩa là “ngậm dương đợi quay trở lại”, không phải bị hào khác đến phá. Ở giữa năm hào âm, không cùng phe nhóm, hào âm nào ở vào ngôi Ba, tất đều hàm chứa chất dương, quẻ này hào Ba lại kiêm ứng với trên, chất dương của nó lại càng nhiều hơn, tự nó có thể vô cữu. Hào Năm “tị” dương, hào Ba có ứng, đều có thể tồn dương mà miễn hung. 4- “Lục Tứ, cấn kỳ thân, vô cữu.” Dịch nghĩa: Hào Sáu Bốn, ghìm chặn ở phần thân mình, không để vọng động, tất không cữu hại. - Tượng nói: “Cấn kỳ thân, chỉ chư cung dã”, nói lên Sáu Bốn có thể tự ghìm chặn, yên giữ ngôi mình. Chấm dứt mọi nhu cầu của bản thân. Bình giải: lấy chất mềm ở ngôi mềm, “chỉ” đúng chỗ, “xéo” đúng ngôi, cầu “chỉ” ở nơi thân mình được đúng chỗ, có thể chặn đứng ở thân mình, tự thân ghìm chặn, không gấp vội mà động, cho nên không bị rơi vào lỗi lầm, yên ngừng ở phận mình vậy. - Hỏa Sơn Lữ hào 9.4: “Cửu Tứ, lữ vô xử, đắc kỳ tư phủ, ngũ tâm bất khoái.” Dịch nghĩa: Hào Chín Bốn, kẻ lữ khách chưa được yên ổn tại nơi ở tạm, như được búa sắc chặt bỏ gai góc, nhưng trong lòng ta chẳng sướng. - Tượng nói: “Lữ vu xử, vị đắc vị dã”, vì chưa thể được ở ngôi thích đáng. “đắc kỳ tư phủ, tâm vị khoái dã”, đi đến chỗ nào được của cải chỗ ấy, nhưng trong lòng không vui. Bình giải: ngôi không chính, cũng như đi xa không được ở yên, chỉ tạm ở nơi chú chân, làm khách của nơi ở, tuy được búa sắc để dẹp bỏ gai góc ở chỗ đất phải dùng búa sắc, núi không phải là nơi bằng phẳng, cần dùng “tư phủ” để trừ. Tất cả các quẻ thì dương cứng đều hơn âm mềm, chỉ có quẻ Lữ không như vậy. Hào Hai, hào Năm đều lấy chất nhu thuận mà được cát, hào Ba, hào Bốn, hào Trên đều là dương cứng mà đến hung. Đó là vì người ta không có nơi gửi thân, bất đắc dĩ phải dựa vào người khác, không thể tự cậy sự cứng sáng, Chín Bốn có nơi ở, tạm thời chỉ đủ yên phận thôi. 5- “Lục Ngũ, cấn kỳ phụ, ngôn hữu tự, hối vong” Dịch nghĩa: Hào Sáu Năm, ghìm chặn miệng mình, không để nói càn, nói phải rành mạch đâu ra đấy, hối hận sẽ mất. (Lời nói có trình tự) - Tượng nói: “Cấn kỳ phụ, dĩ trung chính dã”, nói lên Sáu Năm có thể ở ngôi giữa giữ chính. Nhờ có phù trợ mới được trung chính. Bình giải: âm mềm ở ngôi cao tôn quý, ở giữa không lệch, như ở vị trí của “miệng”, như để miệng không để cho nói chọn lời, như sẽ làm mất hối vậy. “Cấn kỳ phụ”, không phải là không nói, nói mà rành mạch đâu ra đấy, do vì là “cấn” vậy. - Phong Sơn Tiệm hào 9.5: “Cửu Ngũ, hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dựng; chung mạc chi thắng, cát.” Dịch nghĩa: Hào Chín Năm, chim đại nhạn bay từ từ lên gò cao, (giống như chồng đi xa) vợ ba năm không có mang ; (nhưng vợ chồng tất sẽ được sum họp) kẻ khác cuối cùng không thể xâm phạm ngăn trở mà thủ thắng, tốt lành. - Tượng nói: “Chung mạc chi thắng cát, đắc sở nguyện dã”, nói lên Chín Năm được toại nguyện ứng hợp với Sáu Hai. Cánh nhạn vào chùa, ba năm không sinh nở, mai danh ẩn tích, cát. Tên chẳng ai hay, cát. Phù hợp tâm nguyện. Bình giải: dương cứng trung chính, ứng dưới với Sáu Hai, tuy hào Ba, hào Bốn ngăn cách nhưng không thể được lâu, khiến Sáu Hai ba năm “không có mang”, nhưng hào Hai và Năm chính ứng, kẻ khác không thể xâm phạm cản trở, thủ thắng được, cuối cùng sẽ được xum họp. Hào Hai không khinh tiến, hào Năm không coi nhẹ trách nhiệm, cùng đợi nhau lâu ngày, cùng tin nhau sâu sắc. 6- “Thượng Cửu, đôn cấn, cát.” Dịch nghĩa: Hào Chín Trên, lấy phẩm đức đôn hậu để ghìm chặn tà dục, tốt lành. - Tượng nói: “Đôn cấn chi cát, dĩ hậu chung dã”, nói lên Chín Năm với bản chất tốt đẹp đã giữ vững đến lúc cuối. Điềm lành của “đôn cấn” là trung hậu. Bình giải: ngôi cuối quẻ Cấn có tượng ghìm chặn cùng cực, tuy là dương cứng mà lại đôn hậu, lấy sự đôn hậu làm trọng trên hết, không bị sa vào điều trái, điều càn. Việc trong thiên hạ, duy giữ được đến lúc cuối là khó, đôn hậu trong sự dừng là người có đầu có cuối, Chín Trên được tốt, là do có thể dốc lòng dốc sức vào lúc cuối vậy. - Địa Sơn Khiêm hào 6.6: “Thượng Lục, minh khiêm, lợi dụng hành sư, chinh ấp quốc.” Dịch nghĩa: Hào Sáu Trên, tiếng tăm lừng lẫy về đức khiêm, có thể lợi dụng điều đó mà đem quân đi đánh, chinh phạt các nước nhỏ ở gần. - Tượng nói: “Minh khiêm, chí vị đắc dã”, nói lên chí của Sáu Trên chưa hoàn toàn thực hiện được, ý chí chưa đạt được. “Khả dụng hành sư, chinh ấp quốc dã”, nói lên chỉ đi chinh phạt các đô ấp gần xung quanh. Bình giải: ngôi cực quẻ Khiêm, có tượng cực khiêm mà tiếng tăm lừng lẫy (hào Hai và hào Trên đều nói “minh khiêm”, hào Trên ở cao mà “minh” với kẻ dưới, hào Hai ở trong mà “minh” với kẻ ngoài), ngôi vị thì cao, đức khiêm thì cực, đủ để cảm hóa mọi người, nhưng cuối cùng vẫn còn có kẻ kiêu nghịch không theo. Kẻ thuận theo thì nhiều, kẻ bội nghịch tất ít, là điều kiện quan trọng cho việc “hành quân đi đánh ấp quốc”. Cho nên chí yên định thiên hạ của Sáu Trên còn chưa được hoàn toàn thực hiện, chưa thỏa lòng mong muốn sự đại đồng trong thiên hạ.
  17. Chào Đồng Quảng. Hà Uyên cũng chỉ là người đọc trước một trang sách thôi, chúng ta bình đẳng về học thuật mà. Một số điều lệ khi Kinh Phòng khi xây dựng học thuyết cho mình, thì rất ít và hầu như không thấy sách nào bàn tới, từ Hoả châu lâm, rồi Tăng san tới Bốc phệ chính tông, ... , có gì thì chúng ta cùng khảo chứng và tìm hiểu thêm.
  18. VinhL thân mến. Dụng ý của Hà Uyên ở chủ đề này, là đặt vấn đề về Thổ tinh, thông qua điều lệ của Người xưa khi nói Giáp hợp Kỷ, Sinh hợp Thành, ý nghĩa và hậu quả, hình thành quy luật, ... , có tác dụng thiết thực về nhận thức mối quan hệ Xưa và Nay. Năm 2010 là năm Canh, nên chăng chúng ta tiếp tục tìm hiểu về Kim tinh (Venus) ? Giữa Thất tinh và Tứ dư, có phải thông qua Tứ dư là phần gây ảnh hưởng trực tiếp đến Trái đất không ? Thái bạch Kim tinh, La hầu, Kế đô, ... , Về môn Thái Ất, thì theo Hà Uyên nên mở một chuyên mục riêng, cho rộng đường khảo chứng, thực tâm của Hà Uyên cũng chưa muốn bàn tại thời điểm này. Phongthuysinh thân mến. Chúng ta nên tìm hiểu về Kim tinh, sao Hôm sao Mai. Sang năm là 2010, năm Ất hợp Canh, thông qua hệ thống Can Chu Ngũ hành, chúng ta cùng tìm hiểu những gì Người xưa để lại, kết hợp với kiến thức Thiên văn hiện đại làm khảo chứng, Hà Uyên thấy nó thiết thực và hiệu quả. Thông qua chu kỳ vận hành của Kim tinh, chúng ta tiếp tục bàn về mối quan hệ Thời gian của Người xưa.
  19. a/ Hán-thư Luật-lịch-chí: Thoạt đầu là vào Nguyên, 106 dương 9, thứ nhì là 374 âm 9, thứ ba là 480 dương 9, thứ tư là 720 âm 7, thứ năm là 720 dương 7, thứ sáu là 600 âm 5, thứ bẩy là 600 dương 5, thứ tám là 480 âm 3 và thứ chín là 480 dương 3, phàm 4617 năm mà thành trọn một nguyên. Vị chi là 4560 Kinh-tuế (tức thường tuế) và 57 tai-tuế. Tóm lại 4617 tuế là một Nguyên, dương là hạn-tai (hạn hán), âm là thủy-tai (Xin xem Sớ của Thiên Vương-chế trong Kinh Lễ và ô chót Bảng 21.1 Bảng Tỷ-giảo Dịch/Huyền). Theo Hà Uyên tính thì có khác: "...thứ nhì là 378 âm 9, thứ ba là 486 dương 9, ..." Hà Uyên đã tham khảo và khảo chứng từ thực tiễn trong nhiều năm. VinhL đã lấy trích dẫn cho là mấu chốt thì Hà Uyên tôn trọng. Chúng ta không bàn nữa.
  20. Lê Quý Đôn, nhà Bác học của Dân tộc, khi để lại sách, tại sao lại phải lấy danh là: Dị dản 6 ? Ngoài hạn Dương Cửu Bách Lục ra, thì Trái đất này còn bao nhiêu hạn nữa mà không thấy Sách nào bàn tới, kể cũng lạ thật. !
  21. VinhL thân mến. Toàn bộ phần dẫn chứng trên, Hà Uyên đã đọc, đang hiểu mà chưa dám hành. VinhL có hiểu nguồn gốc Kinh tuế 4560 năm có nguồn gốc từ đâu không ? Thái ất lấy 456 năm là một Dương Dửu, 288 năm sau làm một Bách Lục, thì tại sao lại quy định như vậy không ? Cớ sở Chính tuế 336 năm, Thiên tuế 504 năm, thì nguồn gốc từ đâu ? Còn khi Toán theo Liên Sơn thì Chính tuế là 432 năm, toán theo Quy tàng thì Chính Tuế 384 năm. Hà Uyên cũng chưa giám mạo bàn tới Thái ất. Kể từ: Lý thường ... Nguyễn Trãi ... Nguyễn Bỉnh.... Phùng Khắc.... Lê quý.... Nguyễn Ngọc...Doãn Thường => Trãi => Bỉnh => Khắc => Quý => Ngọc ...., Tên chữ đệm "Ngọc" ai ban cho ? Tên chữ đệm này hiện nay tới bộ sắc dấu "ngã", không biết ai đang nắm giữ chìa khoá đây (!)
  22. KHÔN VI ĐỊA Khôn: Nguyên, Hanh, lợi, tấn mã chi trinh. Quân tử hữu du vãng. Tiên mê, hậu đắc chủ, lợi. Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc táng bằng. An trinh cát. Tượng viết: Địa thế Khôn, quân tử dĩ hậu đức tải vật.
  23. Chào Minh An. Trên một diễn đàn, khi giao lưu trao đổi học thuật, có nên chăng khi dùng ý kiến chủ quan của mình, để làm kinh nghiệm không ? Theo như Minh An nói, quẻ đầu có giá trị nhất. Vậy thì Minh An có thể khảo chứng về: "quẻ đầu luôn luôn là quẻ có giá trị nhất" cho mọi người trên diễn đàn thêm phần sáng tỏ được không ? Một năm 365,25 ngày, trải qua 6 vòng giáp Tý, rồi tiếp đến 5 ngày nữa trôi đi, vậy thì 1/4 ngày còn lại sẽ tính Can Chi cho Nhật thần như thế nào đây ? Chúng ta cùng chia sẽ khi tìm hiểu kiến thức của người xưa.
  24. Một ví dụ: được quẻ Trạch Sơn Hàm, động hào 2. Nội quái động Căn cứ vào Tổng trị số của Nội quái như sau: - Quẻ Chấn: hào một dương 9, hào hai âm 12, hào ba âm 24. Tổng 3 hào là 9 + 12 + 24 = 45 - Quẻ Khảm: hào một âm 6, hào hai dương 18, hào ba âm 24. Tổng 3 hào: 6 + 18 + 24 = 48 - Quẻ Cấn: hào một âm 6, hào hai âm 12, hào ba dương 36. Tổng 3 hào: 6 + 12 + 36 = 54. - Quẻ Tốn: hào một âm 6, hào hai dương 18, hào ba dương 36. Tổng 3 hào: 6 + 18 + 36 = 60 - Quẻ Ly: hào một dương 9, hào hai âm 12, hào ba dương 36. Tổng 3 hào: 9 + 12 + 36 = 57. - Quẻ Đoài: hào một dương 9, hào hai dương 18, hào ba âm 24. Tổng 3 hào: 9 + 18 + 24 = 51. Ta có thứ tự như sau .63. -. 60. - 57 - 54. -. 51. -.. 48.. -.. 45.. -. 42. Càn - Tốn - Ly - Cấn - Đoài - Khảm - Chấn - Khôn Động hào 2 quẻ Chấn, khi bắt đầu vào 7h được quẻ Trạch Sơn Hàm => sau 15 phút, tới quẻ Trạch Địa Tụy => 7h30 - 7h45 tới quẻ Trạch Thiên Quải => .....cho tới quẻ Khảm, được quẻ Trạch Thủy Khốn. Là hết 8 quẻ của giờ Thìn. Còn khi động ở ngoại quái, thì Đong_quang làm tương tự, tìm Tổng trị số của Ngoại quái, cũng sắp xếp tương tự như Nội quái.
  25. Chào Đồng_quang. Người xưa quy định một Giờ can chi thì 8 quái vận hành hết. Vấn đề là tại sao Người xưa lại chọn đơn vị tính là "Khắc" ? Vạn vật quan hệ với Thời gian, ví như Thời gian đã bộc lộ một tiềm ẩn hàm lực, một sức mạnh, làm thay đổi khí âm dương. (Thay đổi về chất) Người xưa nhận thức sự chuyển dịch Ngày - Đêm, đã chọn đơn vị tính là "Khắc". Đơn vị thời gian Khắc này bằng 1 phần 100 của một Ngày - Đêm. Một đơn vị thời gian nữa là "Giờ", được tính bằng 1 phần 12 của ngày - đêm. Khi bóng ngả chuyển một cung, chiếm 1 phần 12 đường tròn tính là một Giờ (Cung độ góc chiếu sáng mặt trời theo bóng ngả trên mặt đất). Chúng ta đang quan niệm, một Giờ can chi = 120 phút. Như vậy, mỗi một quẻ Dịch trong tám quẻ, sẽ chuyển dịch tương đương với 15 phút (120 / 8 = 15). Còn đối với Khắc do quy định là 1 phần 100 của 12 giờ (ngày - đêm), do vậy một Khắc là (12 x 120)/100 = 14, 4 phút. Khi lấy đơn vị tính là tám quẻ Dịch, mỗi quẻ là 15 phút (~ đơn vị), vận hành hết một Giờ can chi. Thì một ngày can - chi, mỗi quẻ dịch phải trải qua 96 phút. Bắt đầu từ hai quẻ Càn Khôn, với trị số Càn 9 - Khôn 6 ....................CÀN.........................KHÔN.......... Hào sáu....144 x 2 = 288............96 x 2 = 192 Hào năm....72 x 2 = 144.............48 x 2 = 96 (12 giờ có 96 Khắc - 96 quái) Hào bốn.....36 x 2 = 72...............24 x 2 = 48..... Hào ba.......18 x 2 = 36...............12 x 2 = 24...... Hào hai...... 9 x 2 = 18.................6 x 2 = 12..... Hào một...............= 9..........................= 6...... Một ngày, có 12 giờ can chi, tương ứng với 96 khắc. Do vì, Hào Sáu chỉ tồn tại có 4, 6 phút, chưa đủ một Khắc là 14, 4 (15 phút). Cho nên điều lệ dịch học của Kinh Phòng khi quy Bát quái về Ngũ hành, chỉ cho Khí dịch tiến hóa đến Hào Năm. Sau 15 phút, thì quái dịch thay đổi. Như vậy, trong một Giờ can chi (120 phút), Dong_quang có thể hỏi được 8 câu hỏi, nhưng với điều kiện là: câu hỏi trước cách câu hỏi sau 15 phút (14,4).