Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Thanhphuc thân mến. Trước trận lũ lụt miền Trung năm nay không lâu, có bạn đưa lên hiện tượng ốc và sò biển xuất hiện tràn ngập bãi biển một xã ở Thừa Thiên Huế. Tôi có lý giải rằng: Thủy khí dâng lên, nên sò ốc theo đó tràn vào bờ. Tất sẽ có lũ lụt. Quả nhiên sau đó lũ lụt lớn ở miền trung và Thừa Thiên Huế (Tin các báo). Bây giờ lại có hiện tượng ong núi bay tràn về đồng bằng. Tất cũng giải thích bằng khí núi tạp loạn, nên loài côn trùng do Thấp khi (Khí ẩm) sinh ra không sống được phải di tản. Bởi vậy, đề phòng khí lạnh tăng cường - như kinh nghiệm của một lão nông đã nói trong bài báo - và lũ lụt. Thuyết Âm Dương Ngũ hành giải thích rằng: Do thấp khí vùng sơn cước tạp loạn, Thiên nhất sinh Thủy - nên lũ lụt sẽ xảy ra khó kiểm soát, kèm theo lở đất rất phiền toái. Bởi vậy, lời khuyên là: Đề phòng lũ quét, lở đất và trời lạnh đột ngột. Thiên nhiên vốn rất cân đối. Ong rừng bay về là thể hiện sự điều tiết của thiên nhiên. Nếu giết chúng thì thiên nhiên không cân đối được, cực kỳ rắc rối. Nên cấm giết ong rừng trong trường hợp này. Nếu chỉ một vài tổ thì không nói làm gì, có thể do những nguyên nhân cụ thể khó đoán, Nay nhiều như vậy thì cần bảo vệ. Ngày xưa - dưới thời Hùng Vương - ông cha ta có những điều luật bảo vệ thiên nhiên rất chặt chẽ. Thanhphuc có học lớp Phong Thủy Lạc Việt không? Nếu có sẽ được giảng rất kỹ về khí.
  2. Theo Trung Tâm dự báo khí tượng Thủy văn thì tối nay 4 - 12 - 2008 một đợt gió lạnh sẽ tràn về Hanoi. Nhưng Thiên Sứ tôi quên không mang đủ áo lạnh theo. Bởi vậy đề nghị Thần Rét để sau ngày thứ Hai tuần tới hãy lạnh. Tuy nhiên mong trời vẫn se lạnh đủ mặc ves và nắng đẹp vào nguyên ngày thứ Bẩy :( 22h ngày 7 - 11 - Mậu Tý . Quẻ Kinh Xích Khẩu. Hy vọng quẻ nghiệm
  3. Mỹ lần đầu bắn thử vũ khí laser từ máy bay Nguồn: VnExpress Quân đội Mỹ vừa tiến hành thử nghiệm lần đầu tiên hệ thống vũ khí laser đường không (ABL) đặt trên một chiếc máy bay hạng nặng Boeing 747. Chiếc Boeing 747 của không quân Mỹ mang vũ khí laser ABL. Ảnh: USAF. Vũ khí laser ABL được thiết kế với mục đích tiêu diệt các loại tên lửa đạn đạo của đối phương ngay từ giai đoạn đầu chúng được phóng đi. Các kỹ sư đã thử nghiệm dạng vũ khí đặc biệt này trên mặt đất, trong đó bắn tia laser từ một tháp pháo gắn trên mũi chiếc máy bay Boeing 747 chuyên dụng và nhằm vào mục tiêu giả định. Hồi tháng 9 vừa qua, các kỹ sư đã cho phóng thử tia laser năng lượng cao vào một dụng cụ đo nhiệt lượng (calorimeter) gắn trên máy bay. Nhưng đây là lần đầu tiên loại vũ khí bằng chùm ánh sáng này được phóng dọc theo chiều dài hệ thống trên chiếc Boeing 747. Cuộc thử nghiệm trên mặt đất này do Cơ quan phòng thủ tên lửa Mỹ thực hiện tại căn cứ không quân Edwards, bang California. Trong cuộc thử nghiệm, tia laser hành trình dọc theo chiều dài của chiếc máy bay hạng nặng với tốc độ khủng khiếp là một tỷ km/h. Nó chạy từ phía đoạn đầu của hệ thống đặt ở phía đuôi máy bay, qua hệ thống kiểm soát chùm laser, hệ thống kiểm soát phóng và bắn ra từ phần tháp pháo đặc biệt gắn ở mũi máy bay để tới mục tiêu giả định. Người phụ trách nghiên cứu hệ thống phòng thủ tên lửa của hãng Boeing là Scott Fancher cho biết: "Nhóm nghiên cứu giờ đây đã hoàn thành hai cột mốc chính đúng kỳ vọng, giữ cho chương trình về vũ khí ABL diễn ra theo kế hoạch, để có thể tiến hành thử nghiệm bắn vũ khí laser bằng đường không tiêu diệt tên lửa đạn đạo đang bay trong năm 2009". Theo thiết kế, cơ chế hoạt động của vũ khí ABL là chiếu sáng tên lửa của đối phương bằng một tia laser dò tìm, trong khi hệ thống máy tính đo khoảng cách và tính toán đường đi của nó. Sau khi tia laser này chạm tới mục tiêu, tia laser thứ hai cực mạnh cũng được phóng ra từ mũi chiếc Boeing 747. Sức nóng của nó gây sức ép lên khoang nhiên liệu của quả tên lửa đang bay khiến nó nổ tung. Mô phỏng cơ chế hoạt động của hệ thống vũ khí laser ABL chống tên lửa đạn đạo trên một chiếc Boeing 747. Ảnh: Ausairpower. Vũ khí laser tiêu diệt các tên lửa đạn đạo trong giai đoạn tăng tốc của chúng nên có nhiều lợi thế. Khi đó các hỏa tiễn đang tỏa nhiệt cực mạnh để phóng và tạo điều kiện cho tia laser tìm đến mục tiêu chính xác. Theo báo cáo của Hội vật lý Mỹ năm 2004, vũ khí laser ABL có thể tiêu diệt một quả tên lửa đạn đạo xuyên lục địa dùng nhiên liệu lỏng (ICBM) từ khoảng cách 600 km. Nhưng sẽ khó khăn hơn khi chúng đánh chặn tên lửa dùng nhiên liệu rắn. Loại vũ khí laser năng lượng cao nói trên do hãng Northrop Grumman chế tạo với mục tiêu phá hủy mọi loại tên lửa đạn đạo, bao gồm tên lửa đạn đạo chiến thuật (TBM) và tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM). Năng lượng cho nó hoạt động gồm các hóa chất có thể tìm thấy trong chất tẩy thông thường là hydrogen peroxide và potassium hydroxide, kết hợp với khí clo và nước. Chương trình nghiên cứu vũ khí laser ABL tiêu tốn nhiều tỷ USD đã được Mỹ khởi động từ hơn 12 năm trước. Các nhà kỹ sư còn đang nghiên cứu sử dụng pháo laser laser này để bắn hạ các loại vũ khí có thể bay khác như tên lửa đất đối không, tên lửa hành trình và thậm chí là máy bay của đối phương. Đình Chính (theo BBC, Defence Industry)
  4. Nhà này dù sao cũng được cách tam hợp tuổi. Cũng không đáng lo lắm. Nhưng năm tam tai Tỹ Ngọ Mùi thì nên thả chim - nói theo các cụ gọi là giải hạn.Thiên Can , mạng và tuổi cha đều sinh con - sắp phát rồi.
  5. Luật pháp Việt qui định múi giờ Việt là thứ 7, Bê Canh thứ 8. Nhưng nếu tính mùi giờ Âm Lịch phủ hợp với luật pháp là giờ thứ 4 so với chuẩn quốc tế và là giờ Tý nến lấy chuẩn hai nước Việt Trung. Bởi vậy về nguyên tắc thì lịch Việt Trung không thể khác nhau. Nhưng nay nó khác vì lấy giờ Tây tính lịch Tàu theo lối ta. Bởi vậy chúng tôi lấy Lịch Van Niên Dịch học Phổ thông do Nxb Dân Tộc phát hành làm chuẩn. Thí dụ: Hôm nay là mùng 8/ 11 - Mậu Tý theo lịch Blog. Nhưng là mùng 7 theo lịch Vạn Niên.
  6. Giá năm nay sinh con đầu thì tốt. Bây giờ sinh con đầu kỷ sửu cũng được, Hai vợ chồng đều mạng Kim, Thiên Can Mộc. Nên sinh con sau Đinh Dậu. 2017. Phát tài.
  7. Sinh Năm kỷ sửu rất tốt. Con trai con gái gì cũng tốt hết. Con trai phát nhanh, con gái chậm hơn nhưng ăn về hậu.
  8. Cần gì phải lý giải nữa. Chính bài báo đã nói điều này. Xem kỹ lại xem. Nhưng giá như những người có ong về nhà đừng giết nó mà cho nó tá túc thì đỡ nguy hơn.
  9. Kính thưa quí vị quan tâm. Nguyên văn bài viết tôi đã trình bày lại ở trên trong topic này. Vì nó quá dài, để tiết kiệm diễn tích, tôi không chép lại nguyên văn xuống đây. Nội dung bài viết này của tác giả Nguyễn Ðức Hiệp mới nhìn thoáng qua thì có vẻ như chỉ giới thiệu những tư liệu phản ánh hiện tượng khảo cổ - tức có vẻ như hoàn toàn khách quan. Nhưng sở dĩ Thiên Sứ tôi xếp nó vào loại phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống chính bởi những lập luận hoàn toàn chủ quan mà tôi sẽ trích dẫn và phân tích sau đây. Tác giả Nguyễn Đức Hiệp viết: Qua đoạn trích dẫn trên thì quí vị quan tâm cũng thấy rằng: Tác giả đã khoanh vùng văn hóa Đông Sơn giới hạn ở đồng bẳng Bắc bộ so với các vùng văn hóa lân cận là: Điền ở Hoa Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên. Sự khoanh vùng văn hóa này là nguyên nhận trực tiếp dẫn tới tách rời văn hóa đông bằng sông Hồng với lịch sử Bách Việt dưới quyền trị vì của các vua Hùng theo truyền thuyết và cổ sử ghi nhận: Bắc giáp Động Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Đông Giáp Đông Hải, Tây giáp Ba Thục. Tất nhiên đây là quan điểm hoàn toàn chú quan của tác giả. Ông ta không thể chứng minh được tính đặc trưng của văn hóa đồng bằng sông Hồng với văn hóa các vùng lân cận nói trên. Chính ông ta cũng thừa nhận: Đã chưa thống nhất tất nhiên là có những mâu thuẫn trong việc lý giải niên đại. Nhưng tác giả đã vội vã kết luận về niên đại Hùng Vương tương đươc với niên đại xác định của những di vật khảo cổ tìm thấy. Cho rằng hiện vật khảo cổ xưa nhất tìm thấy có niện đại không quá 9BC. Nhưng điều đó không có nghĩa là thời Hùng Vương chỉ có từ thế kỷ thứ 9BC. Di vật khảo cổ không phải là bằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử, mà nó chỉ có thể là sự biện minh sắc sảo cho những luận cứ lịch sử. Ông ta dẫn chứng những công trình nghiên cứu của Đào Duy Anh như sau: Nhưng chúng ta cũng thấy rằng: Cái "theo Đào Duy Anh" đó hoàn toàn khập khiễng khi ông này căn cứ vào thư tịch Trung Quốc, mà thực tế những thư tịch này xuất hiện rất muôn sau khi thời đại Hùng Vương Kết thúc từ thế kỷ thứ IIIBC. Cũng ông Đào Duy Anh cũng căn cứ theo thư tịch Trung Quốc để kết luận "Thục Phán là con vua Thục" và tôi đã chỉ ra sai lầm của ông từ năm 1999 trong cuốn "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp". Vậy chứng tỏ rằng: Đào Duy Anh và những tư liệu của ông ta dẫn chứng không đủ cơ sở để tin cậy.Đối với bài viết này, có những tư liệu có giá trị có thể góp phần minh chứng cho nền văn hiến Việt, như những đoạn sau đây: Tuy nhiên tác giả lại không có một tư duy hợp lý với những vấn đề mà chính tác giả đề cập đến trong bài viết như trên, mà lại phân biệt những giá trị văn hóa giữa Bách Việt và Lạc Việt khí mà chúng có những nét đặc thù văn hóa giống nhau: Tức là chính tác giả cũng thừa nhận: Trống đồng là một biểu tượng văn hóa của Nam Trung Hoa và Việt Nam ngày nay. Điều này chúng tỏ từ BC đã có một sự thống nhất văn hóa ở vùng này và đó là một minh chứng sẵc sảo cho một dân tộc và một quốc gia thống nhất đã tồn tại ở đây.Nhưng tác giả lại tách rời những giá trị văn hóa chung Nam Dương Tử - gồm Bắc Việt Nam - ra thành một loại hình văn hóa trống đồng riêng của người Lạc Việt với giới hạn ở Bắc Việt Nam, những nét chung thì họ cho rằng đó chỉ là sự giao lưu văn hóa. Chính vì sự chia tách hoàn toàn chủ quan cho văn hóa Đông Sơn với các vùng miền lân cận ở Nam Dương Tử, nên tác giả đã kết luận văn hóa Đông Sơn chỉ có ở đồng bắng Bắc bộ với các địa danh trong đoạn trích dẫn sau đây: Đến đây thì quí vị quan tâm cũng nhận thấy tính chủ quan trên cơ sở phân tích các hiện tượng khảo cổ của tác giả bài viết này khi ông ta khoanh vùng văn hóa Đông Sơn chỉ giới hạn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và phủ nhận mối liên hệ với những giá trị văn hóa trồng Đồng phổ biến tận miền Nam Dương Tử. Trồng đồng - một biểu tượng và đặc trưng văn hóa Bách Việt có ở khắp miền nam Trung Hoa Hiện nay và rải rác ở các vùng Đông Nam Á và cả Nhật Bản. Tất nhiên không thể nói rằng Trồng Đồng Đông Sơn và Trồng đồng ở các vùng miền khác ở Đông Nam Á và Nam Trung Hoa hiện nay là thuộc những vùng văn hóa khác nhau trong thời đại của nó được. Khi chính tác giả và những đồng nghiệp của ông thừa nhận thuần túy yếu tố bản địa. Chính bởi sự chủ quan này và tính giới hạn nghiên cứu cổ sử Việt chỉ ở trong vùng Bắc Việt Nam ngày nay, nên nó không thể là bằng chứng khoa học phủ nhận những giá trị truyền thống văn hóa sử xác định thởi Hùng Vương có lãnh thổ ở Nam Dương Tử.
  10. Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Dũng: Không thể chấp nhận thăm dò dầu khí trên vùng biển VN 15:34' 02/12/2008 (GMT+7) - Trao đổi với VietNamNet bên lề Hội nghị ngoại giao lần thứ 26 khai mạc sáng 2/12 tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Vũ Dũng nói Biển Đông cũng có phần của Trung Quốc, nhưng nếu hoạt động tiến hành trên vùng biển và thềm lục địa của VN thì "dứt khoát không thể chấp nhận được". Thứ trưởng Vũ Dũng. Ảnh: XL Bình luận về thông tin Tập đoàn dầu khí Trung Quốc công bố dự án thăm dò, khai thác dầu khí trong vùng nước sâu ở Biển Đông trị giá gần 30 tỷ USD vừa qua, Thứ trưởng Vũ Dũng nói rõ : "Hiện nay, tôi không biết rằng công ty Nhà nước của Trung Quốc đó sẽ đầu tư vào đâu. Họ tuyên bố một chương trình, bằng ấy tiền, đi thăm dò như thế, ở Biển Đông. Biển Đông cũng có phần của Trung Quốc nhưng nếu như hoạt động trên thềm lục địa của VN thì dứt khoát không thể chấp nhận được". Kiên trì đàm phán hòa bình Thứ trưởng Vũ Dũng nhấn mạnh nguyên tắc lớn trong chính sách đối ngoại của VN, đó là chủ trương giải quyết các bất đồng thông qua hòa bình, phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc - các quốc gia trên thế giới cam kết giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. "Đối với Biển Đông, ta với một số nước, trong đó có Trung Quốc, còn có nhận thức khác nhau, chủ trương của ta là kiên trì đàm phán hòa bình, từng bước thu hẹp bất đồng lại và thực tế trong mấy chục năm qua ta đã làm điều đó", ông Vũ Dũng nói. Theo Thứ trưởng ngoại giao VN, VN và TQ đã đàm phán thành công Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và hiện đang đàm phán để phân định cửa Vịnh, tức bên ngoài Vịnh Bắc Bộ. Ông Vũ Dũng nói : "Tôi tin rằng một thời gian không xa, hai bên sẽ giải quyết được vấn đề cửa Vịnh". Về cơ sở tiến hành đàm phán, Thứ trưởng Ngoại giao VN nói một trong những cơ sở quan trọng là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, bộ luật lớn nhất về biển vốn được đàm phán, xây dựng liên tục trong vòng hơn 20 năm và đã điều chỉnh lập trường của các nước phát triển lẫn không phát triển, các nước có biển và không có biển. "Vậy thì ta và các nước có liên quan, trong đó có Trung Quốc đương nhiên phải dựa trên bộ luật đó, không thể dựa trên cái gì khác cả. Bộ Luật đó quy định một quốc gia ven biển có 5 vùng biển; có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế - 200 hải lý và vùng thềm lục địa - tối thiểu là 200 hải lý và có thể kéo dài ra 350 hải lý ở những nơi mà thềm lục địa kéo dài. Thế thì phải dựa trên cơ sở pháp lý đó chứ không có cơ sở nào khác", ông Vũ Dũng nhấn mạnh. Ngoài công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, VN cũng chủ trương đàm phán dựa trên các cơ sở luật pháp quốc tế khác, đó là Tuyên bố Manila về Biển Đông 1992 và tuyên bố về cách ứng xử giữa các bên ở Biển Đông được ký giữa ASEAN và Trung Quốc ngày 4/11/2002. Thứ trưởng khẳng định VN sẵn sàng đàm phán với TQ dựa trên các cơ sở luật pháp trên. Nếu chỗ nào thực sự có chồng lấn thì hai bên cùng hợp tác, khai thác, cùng phát triển. Ông Vũ Dũng giải thích: "Thí dụ trong Vịnh Bắc Bộ dù đã phân định rồi nhưng có những chỗ nằm vắt ngang đường phân định thì gọi là chồng lấn, hoặc có những cấu tạo mỏ nằm vắt bên phía ta 4 phần, Trung Quốc 6 phần thì cùng khai thác, cùng phát triển. Vùng chồng lấn thực sự là sự giao thoa giữa 200 hải lý của mỗi bên gặp nhau như hai vòng tròn vậy". Người lính hải quân canh gác vùng biển Đông thiêng liêng của Tổ quốc. Ảnh: Hà Trường Hiện có rất nhiều công ty dầu khí nước ngoài Anh, Ý, Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Na Uy, Phần Lan đang hoạt động ở VN. Thứ trưởng nói: "Khi ký với chúng ta, họ đều hiểu rằng hoạt động ở đâu. Có một điều khoản rất quan trọng là "phù hợp với luật pháp của nước CHXHCN Việt Nam", có nghĩa là các công ty biết rõ đang hoạt động trong vùng chủ quyền của VN". Trước đó, Trung Quốc đã từng gây sức ép buộc các công ty dầu khí BP (Anh), Exxon Mobil (Mỹ) phải rút lui khỏi các dự án hợp tác thăm dò dầu khí với Việt Nam, mặc dù các dự án này, theo phía Việt Nam, hoàn toàn nằm trong vùng thềm lục địa Việt Nam. Thứ trưởng Vũ Dũng cũng cho biết 5/7 tỉnh của VN đã hoàn thành cắm mốc biên giới đất liền với TQ. Đó là các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Quảng Ninh. Tuần này, hai nước đang tổ chức cắm những mốc cuối cùng và nếu không có gì thay đổi, ngày 10/12 tới sẽ cắm cột mốc cuối cùng trên đường biên giới trên bộ giữa VN với Trung Quốc. Thứ trưởng khẳng định: "Việc này có ý nghĩa to lớn. Lần đầu tiên trong lịch sử, chúng ta có đường biên giới do chính chúng ta hoạch định, một hệ thống mốc giới được quản lý bằng phương tiện phần mềm số hiện đại". TIN LIÊN QUAN Thứ trưởng Ngoại giao: Vùng khai thác dầu thuộc chủ quyền VN Việt Nam tái khẳng định chủ quyền tại Trường Sa, Hoàng Sa "Tranh chấp Biển Đông phải được giải quyết theo Luật Biển LHQ" Người dân ủng hộ việc xác định chủ quyền Việt NamXuân Linh Lời bàn của Thiên Sứ Ngày xưa, khi Tào Tháo thua tơi tả ở trận Xích Bich, chạy về Hứa Đô võ bụng bình bịch, ngửa mặt lên trời mà than rằng: "Thương xót thay Phụng Hiếu! Đau xót thay Phụng Hiếu! Nếu còn Phụng Hiếu thì ta đâu có đến nỗi như thế này!".Gây sự với Việt Nam, điều này chứng tỏ người Trung Quốc không có các nhà chiến lược tầm cỡ. E rằng thời gian không xa, người Trung Quốc cũng vỗ bung như Tào Tháo vậy.
  11. Bức chạm nhạc công đàn Đáy ở đình Đại Phùng, huyện Đan Phượng, Hà Nội. Bức chạm tiên gảy đàn Đáy ở đình Lỗ Hạnh, huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang
  12. Thị trường chứng khoán sẽ xuống nhẹ trong tuần này.
  13. Năm nay không có quẻ Kinh Tốc Hỷ. Lại mất bình tĩnh rồi.Rất nhiều người xem topic này. Thiên Huy ko tự biên tự diễn đâu.
  14. Tôi xin giải thích thay anh Pham Thái Hòa. Đây là trình Tử Vi Lạc Việt. Trình Tử vi này căn cứ theo Lạc Thư hoa giáp. Trong đó Hỏa Lục cục theo sách Tàu được đổi thành Thủy Lục cục. Thủy Nhị cục được đổi thành Hỏa Nhị cục. Thổ trường sinh tại Tỵ là chính vị Khôn thổ theo Hậu Thiên Lạc Việt. Theo Hậu Thiên Văn Vương thì Khôn nằm ở Thân nên Thổ trường sinh ở đấy. Nhưng nó lại mâu thuẫn khi Thủy cũng Trường Sinh ở Thân. Trong khi Thủy Thổ là hai hành tương khắc. Các sách khác căn cứ vào bảng Lục thập hoa giáp từ cổ thư chữ Hán truyền lại.
  15. Kính thưa quí vị quan tâm. Đây là bài thứ hai theo thuận tự từ topic "SƯU TẦM LUẬN ĐIỂM PHỦ NHẬN VĂN HÓA SỬ TRUYỀN THỐNG". Để bào đảm tính khách quan, Thiên Sứ tôi cũng xin kính mời quí vị xem lại toàn văn bài viết này. Sau đó, tôi cũng sẽ xin chứng minh tính phi lý và chủ quan của bài viết này. Bài viết này tuy rất dài. Nhưng tôi hy vọng phần phản biện của tôi sẽ không quá 400 chữ và có thể ít hơn. *** Khảo cổ Việt Nam soi sáng văn minh Đông SơnNguyễn Ðức Hiệp Nguồn: http://vannghesongcuulong.org Bài này viết để giới thiệu về nền văn minh Đông Sơn và sự liên hệ của văn minh Đông Sơn với các văn minh khác trong vùng (như Sa Huỳnh). Sự hiểu biết về văn hóa Đông Sơn còn được nhiều đóng góp về sau này nên sẽ không ngạc nhiên khi có những thuyết và tranh luận giừa các nhà khoa học nghiên cứu về nguồn gốc, biểu tượng, văn hóa Đông Sơn. Từ các thập niên 50 đến 80, các nhà học giả Việt nam đã khai quật khám phá và đóng góp nhiều hiểu biết quan trọng về văn hóa Đông Sơn và công bố trong các tạp chí Khảo cổ học, Lịch Sử, Xã hội, các hội nghị khoa học trong và ngoài nước. Nhiều nghiên cứu có giá trị của Hà Văn Tấn, Chử Văn Tần, Phạm Văn Kỉnh, Diệp Đình Hoa, Phạm Minh Huyền.. bằng quốc ngữ chưa được biết nhiều ở các học giả nước ngoài . Đáng chú ý, là từ các di chỉ tiền Đông Sơn khám phá ở các vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ đến các nghiên cứu về dân tộc và xã hội học, ta có thể thấy sự phát triển liên tục của văn hoá, văn minh Đông Sơn và cho thấy tính chất nội sinh và bản địa của nó. Các yếu tố ảnh hưởng từ ngoài, mà nguồn chính là từ vùng thảo nguyên Trung Á, thể hiện ở một số nhỏ hoa văn động vật và phong cách, cho thấy sự trao đổi văn hoá, kinh tế qua con đường từ trung du Bắc bộ đến Vân Nam và Tứ Xuyên qua sự trung gian của văn hoá Điền ở vùng Hoa nam. Các điều kiện nghiên cứu tuy không đầy đủ như ở các nước khác, nhưng phẩm chất và nội dung rất phong phú. Ông Tạ Chí Đại Trường, một sử gia miền Nam trước 1975, trong một bài báo gần đây ở Mỹ, đã chỉ trích các nghiên cứu khảo cổ học ở Việt Nam là quá thiên về sự tự hào dân tộc và hoài nghi về các kết quả nghiên cứu. Ông ngay cả chỉ trích nhà sử học Mỹ Keith Taylor đã đến Việt Nam học hỏi và nghiên cứu các kết quả cùng với các nhà khảo cổ và sử học trong nước để kết thúc luận án tiến sĩ của ông mà sau này ông xuất bản cuốn sách với tựa đề “The birth of Vietnam”. Dĩ nhiên ngoài các công bố ít nội dung và có tính chất “diễn văn” mà ta có thể thấy dễ dàng và gạn lọc được ở các tạp chí khoa học trong nước, các nhà nghiên cứu vẫn biết được và trân trọng đa số các kết quả nghiên cứu có giá trị trong nước. Ông Tạ Chí Đại Trường đã có chút khách quan khi nhận định về khảo cổ học ở Việt Nam, nhưng khác với ông, tôi cho rằng các kết quả nghiên cứu ở Việt Nam cũng có giá trị và đáng trân trọng. Vừa đây Viện Khảo cổ học với đã xuất bản quyển sách "Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam" (Nxb Khoa Học Xã hội, Hà Nội, 1994, với sự tài trợ của Toyota Foundation tổng hợp một phần sự hiểu biết về văn hóa Đông Sơn từ các học giả Việt Nam. Đây là một bước nhỏ trong công việc tổng quan về vấn đề tìm hiểu văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam. (1) Sơ lược về khám phá và nghiên cứu văn hóa Đông Sơn Năm 1924, một nông dân làng Đông Sơn (Thanh Hóa), sau cơn nước lũ, đi câu cá ở bờ sông Mã, ngẫu nhiên phát hiện một số đồ đồng nằm trong lòng đất nơi bờ sông bị lỡ. Khi viên thương chính người Pháp, L. Pajot, thích chơi đồ cổ, mua được số đồ đồng trên và phát hiện sự tình, đã vội vàng báo cho trường Viễn Đông Bác cổ. L. Pajot được uỷ nhiệm tiến hành những cuộc đào bới ở địa điểm trên. Thế là tên làng Đông Sơn trở thành nổi tiếng dành cho "thời đại đồng thau ở Bắc kỳ và Bắc Trung kỳ" khi Victor Goloubew ở trường Viễn đông Bác cổ công bố về các di vật đào được ở Đông Sơn trên tạp chí khoa học. Trường Viễn đông bác cổ (Ecole Francais d'Extreme-Orient), thành lập năm 1900, trước đó đã sưu tập được một số đồ đồng như trống đồng Ngọc Lũ lấy từ chùa Long Đọi Sơn, Hà Nam (1903) và mua lại từ bộ sưu tập của Demange và D'Argence (1913 và 1927) mà trước đó họ đã thâu lượm và mua lại từ dân ở các vùng từ Bắc Ninh, Hà Đông, Sơn Tây tới Ninh Bình và Thanh Hóa. Năm 1918, H. Parmentier đã công bố sự giống nhau kỳ lạ giữa hoa văn trên trống Ngọc Lũ với hoa văn trên các đồ đồng khác trong bộ sưu tập D'Argence. Trước đó, năm 1902, F. Heger, nhà nghiên cứu người Đức về các trống đồng ở Đông Nam Á đã xếp trống loại Ngọc Lũ (Đông Sơn) là trống đẹp và cao thuộc loại I (Heger I) trong 4 loại trống. Sự khám phá ở Đông Sơn đã khởi động cho các cuộc tìm hiểu và nghiên cứu có hệ thống về thời đồng và văn hóa Đông Sơn của các học giả nhiều nơi trên thế giới. Năm 1934, nhà học giả người Áo, R. Heine-Geldern đã đề nghị gọi nền văn hóa đồ đồng ở Việt nam là "văn hóa Đông Sơn". Từ đó về sau các nhà nghiên cứu về văn hoá đồ đồng ở Đông Nam Á và Nam Trung quốc đã gọi chung nền văn hoá này là văn hóa Đông Sơn. Sau năm 1954, các nhà khảo cổ Việt Nam đã khám phá ra nhiều di tích thuộc văn hóa Đông Sơn. Cho đến nay, 125 di tích đã được phát hiện ở khu vực Sông Hồng, Sông Cả và Sông Mã ở Việt Nam không kể các di tích Tiền Đông Sơn (Hà Văn Tấn, "Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam", 1994). Riêng số trống đồng loại I Heger (tức trống Đông Sơn) đã lên tới 143 chiếc. Trong đó có những trống đẹp, trang trí gần giống trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ như trống Cổ Loa phát hiện năm 1982 và trống Hy Cương phát hiện ở Đền Hùng mới đây. Trong năm 1997, các trống trên và nhiều trống khác đã được trưng dụng ở khắp nơi trong cuộc triển lãm đặc biệt về Thăng Long truyền thống tại Viện Bảo tàng Lịch sử, Hà Nội Trong thư tịch lịch sử Việt Nam cũng có nói đến trống đồng trong sinh hoạt đời sống như lễ đông cô thời Lý, sứ Nguyên nghe trống đồng nhiều nơi khi sang Đại Việt dưới đời Trần. Đáng chú ý là ở chùa Đồng Cổ, Thanh Hoá có một tấm bảng gỗ khắc năm Bảo Hưng thứ 2 Tây Sơn (1802) của Tuyên Công Nguyễn Quang Bàn, con trai Nguyễn Huệ, ghi chép khá tỉ mỉ về trường hợp phát hiện và đo đạc khảo tả chiếc trống đồng cổ đặt trong chùa (1). Về sau chiếc trống này được người Pháp đưa vào trường Viễn đông Bác cổ. Trong luật Hồng Đức thờ Lê cũng có nói đến điều lệ trừng phạt lấy cắp hay phá hỏng tượng Phật và chuông dồng cổ. Có thể nói việc sử dụng trống đồng dần dần biến đi sau đời Trần cùng với các trống đồng. (2) Niên đại và nguồn gốc Đông Sơn Thuyết cho rằng kỹ thuật làm trống đồng được truyền từ các các bộ tộc ấn-Âu (Indo-european) sang Nam Trung quốc rồi từ đó xuống Bắc Việt Nam lúc đầu đã được nhiều học giả như Parmentier, Finot, Maspero .. chấp nhận. Giả thuyết này được nghiên cứu từ sự giống nhau giữa các hoa văn, kỹ thuật của trống Đông Sơn và trống đồng của các bộ tộc indo-european. Cách đây vài năm và gần đây (đầu năm 1998), các nhà khảo cổ Trung quốc và phương Tây đã khám phá và công bố một vài mộ chôn của các người bộ tộc indo-european, Tochara, ở miền Tây TQ và cho thấy họ đã đi đến vùng này và gần hơn ở Nam và Bắc Trung Quốc. Những người này sau đó bị tuyệt chủng. Sự khám phá này cho thấy giả thuyết trên có thể đúng nhưng cần có sự nghiên cưú kỷ lưỡng hơn. Mặc dầu không thống nhất trong sự xác định về niên đại của trống đống và văn hoá Đồng ở Đông Nam Á và Nam Trung Quốc, hiện nay các nhà khảo cổ cho rằng thời gian này kéo dài từ khoảng thế kỷ 9BC đến thế kỷ 1 sau công nguyên. Thời gian này tương đương với thời Hùng Vương đến giai đoạn đầu của Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam. Theo Đào Duy Anh, căn cứ vào thư tịch cổ Trung Quốc và Việt Nam, thi văn hoá Đông Sơn khởi từ thế kỷ 8BC đến thế kỷ 1 sau công nguyên. Ông chia ra làm 3 giai đoạn phát triển: giai đoạn 1 là giai đoạn hưng thịnh điển hình với các trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ tương đương với thời kỳ hưng thịnh Hùng Vương. Giai đoạn 2 là giai đoạn tiến triển với trống Việt Khê, thạp Đào Thịnh, tương đương với cuối thời Hùng Vương và An Dương Vương. Giai đoạn 3 là giai đoạn suy vi, tương đương với thời kỳ đầu Bắc thuộc, Tây Hán và Đông Hán. Trần Mạnh Phú dựa vào diển biến hoa văn trên trống đồng cũng chia văn hoá Đông Sơn ra 3 giai đoạn như trên của Đào Duy Anh với giai đoạn 3 thuộc thời đại dồ sắt từ thế kỷ 2 trước công nguyên đến đầu thế kỷ 1 sau công nguyên. Nhà khảo cổ Phạm Văn Kỉnh và Lê Văn Lan chia văn hoá Đông Sơn theo thời đại khảo cổ: giai đoạn đầu (sơ kỳ) của thời đồng thau với di tích của văn hoá Gò Mun, giai đoạn trung kỳ thuộc vào thời kỳ hưng thịnh đồng Đông Sơn và giai đoạn cuối là thời đại sắt cũng là mạt vận của văn hoá đồng Đông Sơn với đồ Tần-Hán có mặt bên cạnh đồ bản địa Đông Sơn, từ thế kỷ 3 trước công nguyên đến thế kỷ 1 sau công nguyên. Hà Văn Tấn thì cho văn hoá Đông Sơn ở 2 giai đoạn: giai đoạn đồng thau và giai đoạn sắt. Nguyễn Linh thì không chia văn hoá theo giai đoạn mà nhìn tổng quan văn hoá Đông Sơn nằm trong thời hưng thinh và suy vong của thời đại đồng thau, từ thế kỷ 7 trước công nguyên đến khi nhà Hán sang cai trị cũng là lúc mạt vận của văn hoá Đông Sơn .Chử Văn Tần cũng như Nguyễn Linh coi văn hoá Đông Sơn tổng quan trong giai đọan cuối của một nền văn minh Đông Sơn khởi từ văn hoá Phùng Nguyên. Phạm Minh Huyền chứng minh trong nền văn hoá Đông Sơn có sự phát triển khác nhau ở các địa phương, sớm nhất ở vùng sông Hồng rồi đến sông Mã. Sự kết thúc cũng khác nhau đánh giấu sự xuất hiện của đồ minh khí và tăng trưởng của đồ ngoại lai. Ông chia văn hoá Đông Sơn thành ba loại hình cơ bản: loại hình sông Hồng, loại hình sông Mã và loại hình sông Cả. Các loại hình có một số nét phong cách địa phương. Cũng nên nhắc lại là từ miền Nam Trung Quốc xưa kia ở vào khoảng niên đại của trống đồng (thế kỷ 9 BC đến thế kỷ 2 AD) là vùng cư ngụ của các bộ tộc Bách Việt trước khi bị Hán hoá. Ở đây, văn hoá Đông Sơn cũng phát triển ở các bộ tộc vùng Hoa Hạ. Các lễ nghi, sinh hoạt của các dân trong thời này đã cho thấy rõ ràng tính chất của văn hoá Đông Sơn. Bửu Cầm (2), trong bài triển khai từ nghiên cứu của Lăng Thuần Thanh “Đồng cổ đồ văn dữ Sở từ Cửu ca” (đăng trong Quốc lập trung ương nghiên cứu viện viện san đệ nhất tập, Đài bắc 1954, tr. 403-417) cho thấy họ Lăng dùng bài Đông quân trong Cửu ca của người dân Sở và những tài liệu dân tộc học về người A-Mi ở Đài Loan, người Nagas ở Assam cùng người Dayak ở Borneo để giải thích hình chạm trên trống đồng. Theo Bửu Cầm, Cửu ca của dân tộc Sở chẳng khác gì những bài “văn chầu” của đạo “thờ chư vị” ở nước ta. Nước Sở ngày xưa tuy rộng lớn nhưng dân tộc Sở không quá phức tạp, phần nhiều là giống Bộc, Lão tức Việt tộc, hoặc nói theo ngôn ngữ đời nay là giống Indonesian. Chính Sở vương Hùng Cừ đã nói: “Ta là man di, không cùng hiệu thụy với Trung quốc”. Đồ đồng và trống đồng khám phá ở khu vực đông Nam Trung quốc được chia ra ba nhóm (3b) nằm trên 3 khu vực Tả Giang, Hữu Giang (giáp ranh với biên giới Việt Nam hiện nay) và Quế Giang-Tương Giang (giữa tỉnh Hồ Nam và Quý Châu). Đây cũng là vùng của các nhóm bộ tộc Việt: Lạc Việt, Câu Đinh, và Tây Âu. Các hoa văn trên một số trống đồng và rìu đồng giống hoa văn của nhóm Lạc Việt ở Bắc Việt Nam nhất là các rìu đồng hình hia tìm được ở vùng bộ tộc Tây Âu. Vùng Quế Giang của nước Tây Âu giáp với Hồ Nam bên kia Ngũ Lĩnh là địa phận xưa của văn hoá Sở.. Từ thập niên 60 đến nay, các học giả Việt Nam đã khai quật nhiều di tích Tiền Đông Sơn và Đông Sơn và đã công bố nhiều công trình nghiên cứu gần đây cho thấy có sự liên tục của các nền văn hoá. Từ đó đã khẳng định là nguồn gốc kỹ thuật và trống đồng Đông Sơn là nội sinh từ bản địa chứ không phải di từ bên ngoài vào (1). Tuy không phủ định là có sự giao lưu văn hoá giữa Đông Sơn ở Việt Nam, Nam Trung Quốc và vùng đồng cỏ phía Tây cho đến văn hoá Hallstatt Châu Âu, nhất là sự tương quan của một số hoa văn như các hoa văn ngôi sao trung tâm, xoắn ốc, thừng tết.. nhưng có rất nhiều hoa văn đặc biệt bản địa mà chỉ có ở Đông Sơn Việt Nam như nhà sàn, thuyền, người mặc áo lông chim, chim, cá, voi, hổ, hươu, cóc ... . Đặc biệt “thần thái Đông Sơn” trên trống đồng có tính chất bản địa Lạc Việt và khác xa với thần thái của trống đồng và đồ đồng của các văn hoá khác. Với nhiều địa điểm dã được khai quật và nghiên cứu, như Gò Bông, Gò Mun, Gò Chiền, Đồng Dậu, Đường Cổ (Vĩnh Phú), Thiệu Dương, Quỳ Chử, Núi Nấp, Hoa Lộc (Thanh Hoá), Rú Trăn (Nghệ Tỉnh).., các nhà khảo cổ học Việt Nam đã đem lại sự hiểu biết sâu rộng hơn về các giai đoạn phát triển của văn minh Đông Sơn từ đồng thau đến sắt từ vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ tới lưu vực sông Mã . Giai đoạn Đông Sơn mà chúng ta thường biết từ khi Đông Sơn được khám phá chỉ là tiêu biểu cho một nền văn hoá phát triển từ khoảng thế kỷ 2BC đến các thế kỷ sau công nguyên. Những nghiên cứu trên phương diện địa tầng cũng như di vật tại các di tích cho biết sự liên hệ của các tầng văn hoá, như di tích Đồng Đậu chứa 3 tầng văn hoá từ Phùng Nguyên đến Gò Mun. Các hoa văn của Phùng Nguyên cũng đã được tìm thấy ở văn hoá Đông Sơn, cũng như sự chuyển tiêp của các loại hình đồ gốm, hoa văn trên đồ gốm cho thấy sự kế tiếp của các truyền thống văn hoá (1)(Chương VI, Hà Văn Phùng). Văn minh và văn hoá Đông Sơn có thể được hiểu rộng hơn bao gồm bắt đầu từ giai đọan văn hoá Đồng Đậu, Gò Mun, Gò Chiền cho đến giai đoạn Đường Cổ ở vùng Trung du Bắc Việt tương đương với giai đoạn Đồng Ngầm, Quì Chử tới Đông Sơn ở vùng sông Mã, Thanh Hoá (3a). Có thể tóm tắt văn hoá Đông Sơn là sự liên tục của nền văn minh Đông Sơn bắt đầu từ giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên ở sông Hồng, văn hoá Quỳ Chữ ở sông Mã và Rú Trăn ở sông Cả. Văn hoá Sông Hồng sông Mã Sông Cả Niên đại Thời đại khảo cổ Văn hoá Tiền Đông Sơn Văn hoá Phùng Nguyên Văn hoá Hoa Lộc Nhóm di tích Đền Đồi-Rú Ta 800-700 Sơ Đồng Văn hoá Đông Đậu Nhóm di tích Đồng Ngầm ? 600-500 Trung Đồng Văn hoá Gò Mun Văn hoá Quỳ Chử Nhóm di tích Rú Trăn 400-300 Hậu Đồng Văn hoá Đông Sơn Loại hình Đường Cồ Loại hình Núi Nấp Loại hình làng Vạc 200-100, CN100-200 Đồng - sơ Sắt Khi nói tới văn minh Đông Sơn ở Việt Nam, ta có thể hiểu nó bao trùm thời gian và không gian nói trên ở Bắc Việt Nam. Đặc trưng nhất của văn minh Đông Sơn là đồ đồng mà nổi bật là trống đồng. Các nhà khảo cổ Việt nam đã tìm được rất nhiều trống đồng kể cả trống đồng loại Heger I đẹp nhất như trống Hoàng Hạ, Cổ Loa, Hy Cương.. tương đương với trống Ngọc Lũ tìm được trước đó . Riêng trống đồng loại Heger I đã lên đến 143 chiếc, chưa kể hơn 100 trống minh khí (1). (3) Các di tích và di vật văn hóa Đông Sơn Di tích Di tích Đông Sơn được phát hiện ở khắp Đông Nam Á (Việt Nam, Lào, Thái Lan, Indonesia) và Nam Trung Quốc. Việt Nam là nơi có mật độ và số lượng di chỉ nhiều nhất, tập trung ở lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Cả, sông Mã. Di tích cư trú, di tích mộ thuyền được phát hiện dọc sông Hồng đến Vĩnh Phú, các tỉnh đồng bằng sông Hồng, sông Đuống, Thanh Hoá, Nghệ An. Đa số các di tích được khảo sát chi tiết và bảo tồn (một số như Đông Sơn, Thiệu Dương được khai quật và khảo sát nhiều lần), ngoài ra còn một số được khai quật “chữa cháy” khi được khám phá tình cờ ở các công trường, nhà máy, thuỷ lợi.. các hiện vật được lưu giữ nhưng không còn di tích bảo tồn . Ngoài ra ở Hoa Sơn, Quảng Tây, gần biên giới Trung -Việt hiện nay, giáp Lạng Sơn là di tích nghệ thuật trên đá lớn nhất của văn minh con người, với khổ 200m x 40 m các hình vẽ chạm trên triền núi dọc sông Zuo. Trong các hình người (phù thuỷ hay chiến sĩ cầm gươm có vòng ở cán), có các hình trống với mặt trời ở giữa. Đồ đồng Đông Sơn Đồ đồng Đông Sơn gồm giáo, riều, mủi tên, chậu đồng, thố đồng.. nhưng nổi bật nhất là trống đồng . Nghề luyện kim đồ đồng và làm trống đống của người xưa đạt đến cao độ mà ngay cả gần đây vào các thập niên 60, 70 các chuyên gia ở Viện Khảo cổ Việt Nam đã bao lần tìm cách đúc lại các trống đồng mà không thành công. Công cụ sản xuất gồm lưỡi cày, lưỡi cuốc, thuổng, xẻng.. dùng trong nông nghiệp . Đã có hơn 200 lưỡi cày đông Đông Sơn đã được tìm thấy. Các loại vũ khí gồm có giáo, lao, tên, nỏ, rìu, dao, kiếm ngắn, tấm che ngực. Mũi tên có nơi tìm được tới vạn chiếc như ở kho Cầu Vực. Trong vùng Cổ Loa, mủi tên đã được phát hiện ở nhiều nơi. Các đồ dùng sinh hoạt thì có thạp đồng, thố đồng, bình, lọ, chậu, nồi, ấm, bát đĩa, thìa ... Một số thạp đồng Đông Sơn có hoa văn và hình tượng trang trí tỉ mỉ và đẹp như trống đồng. Thạp đồng nổi tiếng như thạp Đào Thịnh tượng trưng và thể hiện cao điểm của nghệ thuật văn hoá Đông Sơn. Trống đồng Đông Sơn (Heger 1) cũng đã được phát hiện ở Gia Lai-Kontum (1921), Thủ Dầu Một, Sông Bé (1934) (3) và gần đây ở Bình Định (1998) cho thấy ảnh hưởng và sự liên lạc giữa khu văn mình Đông Sơn và Sa Huỳnh ở Trung Nam Bộ cho tới khu vực văn hoá Đồng Nai (di chỉ Dốc Chùa, Sông Bé khai quật năm 1977 đã cho thấy thời kỳ đồng thau phát triển bản địa tại khu văn hoá Đồng Nai).. Đồ gốm và thủy tinh Trong đợt khai quật ở Đông Sơn năm 1967, các nhà khảo cổ Việt Nam đã tìm đưọc bình gốm cổ cao, vai khép thân thấp, đặc trưng của loại hình gốm Sa Huỳnh. Trước đây, các loại hình gốm loại đèn và vịt nước cũng được biết ở các di chỉ Đông Sơn (7). Đặc biệt có sự tương quan của các hoa văn trên gốm và hoa văn trên đồ đồng Đông Sơn. Rất nhiều đồ trang sức thủy tinh được khám phá ở các di tích mộ táng Đông Sơn. Tuy vậy số lượg và chất lượng không bằng các vật thủy tinh ở các di tích Sa Huỳnh từ Bình Trị Thiên tới Đồng Nai (trong các mộ chum, điển hình của văn hoá Sa Huỳnh) nhất là khuyên tai có mấu và khuyên tai hai đầu thú. Di vật đồ thủy tinh là chứng cớ khảo cổ cho thấy sự liên lạc và ảnh hưởng giữa hai văn hoá Sa Huỳnh và Đông Sơn. Mật độ các đồ thuỷ tinh tìm thấy ở các di chỉ Đông Sơn càng ngày càng nhiều đi từ đồng bằng sông Hồng xuống phía Nam và nhiều nhất là ở Làng Vạc vùng sông Cả, Nghệ An. Trong sự liên hệ giữa Đông Sơn và Sa Huỳnh, ta nhận thấy đồ đồng Đông Sơn được khám phá rãi rác ở khu văn hoá Sa Huỳnh (đồ đồng tìm được rất ít ở di chỉ mộ chum Sa Huỳnh) ngược lại các đồ gốm và dồ trang sức thủy tinh mang đặc sắc của Sa Huỳnh được tìm thấy ở các mộ táng và di chỉ Đông Sơn. Các di chỉ mộ chum Sa Huỳnh ở Hàng Gòn, Dầu Giây, Đập Suối (Xuân Lộc, Đồng Nai) được xác định bằng C14 vào khoảng cách đây 2300 năm, tức là vào khoảng của niên đại đồng Đông Sơn ở Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc. Về màu sắc và thành phần hoá học, thuỷ tinh Sa Huỳnh và Đông Sơn tương tự như nhaụ Vòng tai và tay đa số là maù xanh lá cây già, xanh lơ, xanh lá mạ. Ngoài thành phần hoá học cơ bản của thuỷ tinh là oxid silic (SiO2), thuỷ tinh Sa Huỳnh và Đông Sơn không có oxid chì (PbO). Trong thời đại muộn hơn (vaì thế kỷ sau Công nguyên), thuỷ tinh tìm được ở Trà Kiệu, Lâm Đồng có chì. Đây là điều chứng tỏ có sự thay đổ kỹ thuật nấu thuỷ tinh so với giai đoạn sớm hơn thuộc văn hoá Sa Huỳnh và Đông Sơn (1). Ngoài những di vật đồng và gốm, thủy tinh nói lên sự trao đổi giữa 2 văn hóa, Hà Văn Tấn (5) đã nghiên cứu những đồ gốm khai quật ở các di chỉ văn hóa Phùng Nguyên (mà cư dân thuộc nhóm ngôn ngữ Tiền Việt Mường có niên đại trước Đông Sơn) và cho thấy có sự liên hệ với các đồ gốm Lapita khám phá ở các di chỉ các đảo Nam Thái Bình Dương (New Caledonia, Solomons, Tonga, New Britain, New Hebrides..). Theo Chử Văn Tần (6), có sự tương quan rất nhiều giữa loại hình gốm và hoa văn ở gốm Sa Huỳnh với các gốm ở di chỉ văn hoá Gò Bông-Hoa Lộc (Thanh Hoá) ở đầu thời đại đồng thau, trước Đông Sơn. (4) Đời sống vật chất, văn hóa và tâm linh người Đông Sơn Để tìm hiểu đời sống và văn hoá Đông Sơn, ngoài các thông tin và tư liệu từ các di chỉ khảo cổ khai quật được, các nhà học giả Việt Nam còn dựa vào các thư tịch cổ của Trung Quốc như Thủy Kinh Chú, Quảng Chí, Hậu Hán thư, Giao Châu ngoại vực ký.. và Việt Nam như Lĩnh Nam Chích quái, Việt Điện U Linh, Vân Đài Loại Ngữ (Lê Quý Đôn). Các nguồn tư liệu qui giá khác là dân tộc học và văn hoá dân gian Việt Nam. Con người Đông Sơn Các cảnh tượng sinh hoạt trên mặt trống đồng cho ta thấy người Đông Sơn có đời sống gắn liền với sông, nước. Các di chỉ mộ thuyền được tìm thấy rất nhiều ở các tỉnh ven biển như Thái Bình, Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình mà cách nay hơn 2 ngàn năm nằm giáp với biển Bắc Bộ, cho thấy họ có nguồn gốc và liên hệ mật thiết với biển. Mộ thuyền cũng đã được tìm thấy ở nhiều nơi ở Đông Nam Á (Kalimantan, Thái Lan, Phi Luật Tân). Đối với cư dân gần nước, khi sống họ dùng thuyền khi mất chiếc thuyền cũng đưa họ đi qua thế giới bên kia. Theo Goboulew, trong buổi lễ chiêu hồn Tiwah của người Dayak ở Borneo, khi có người mất, họ có “thuyền vàng” đưa linh hồn người mất đến thiên đường giữa hồ mây. Theo ông Trịnh Cao Tưởng (8) nghiên cứu về đình làng Việt Nam, vị trí và địa thế lành hướng về sông nước của đình làng và kiến trúc đình Việt Nam mang hình tượng của một con thuyền hay cái lầu thuyền cho thấy âm hưởng của tâm thức người xưa vẫn còn để lại ảnh hưởng trong cuộc sống của người Việt Nam. Về phương diện chủng tộc, có thể biết được giống người Đông Sơn qua các xương để lại trong các di tích. Rất nhiều đã bị mũn nát nhưng từ các năm 70, đã tìm được một số xương sọ ở các di tích như Núi Nấp, Quỳ Chử. Lê Văn Cường đã so sánh sọ các cư dân hiện đại trong vùng Đông Nam Á đến Papua, Úc và Eskimo để đưa đến dạng chủng tộc của con người Đông Sơn. Có hai loại hình đã được phân tích: loại hình Indonesien và loại hình Đông Nam Á. Loại hình Indonesien thuộc ngành Mongoloid với nhiều đặc điểm Australoid, trong khi loại hình Đông Nam Á mang đậm yếu tố Mongoloid nằm trong chủng tộc Nam Á của ngành Mongoloid. Các sọ tìm ở Việt Nam trong thời đại đá giữa và đá mới không hề thấy có sọ thuần Mogoloid, cho thấy nhóm loại hình Indonesien cổ được hình thành ngay từ thời đá mới bên cạnh các loại hình khác như Australoid và các loại hình hổn chủng khác. Cư dân Đông Sơn là hậu duệ của loại hình Indonesien do hổn chủng tăng mạnh vào thời đại kim khí. Trong các mộ thuyền khai quật, các nhà khảo cổ Việt Nam đã thấy các người Đông Sơn đều nhuộm răng đen. Tục nhuộm răng đen và ăn trầu là tục xưa ở các dân tục vùng Đông Nam Á, và các đảo Thái Bình Dương. Tục này vẫn còn phổ biến ở Việt Nam đầu thế kỷ 20. Người Đông Sơn là các bộ tộc vùng trung du giao thoa với các bộ tộc vùng bờ biển và đồng bằng gốc Malaỵ Hai nguồn này là gốc Âu Việt và Lạc Việt mà sử sách và truyền thuyết đã để lại. Mối giây liên lạc giữa vùng núi và vùng biển đã được thể hiện ở truyền thuyết Âu Cơ, Lạc Long Quân và Sơn Tinh, Thuỷ Tinh. Các mộ thuyền Đông Sơn được tìm thấy ở dọc các vùng trũng ven sông: từ Việt Khê, Hải Phòng, qua Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội (cầu Giấy, sông Tô) đến Hà Sơn Bình. Đặc biệt các mộ thuyền khám phá ở vùng sông Châu, Hà Nam đều quay đầu về hướng núi Đọi. Mộ thuyền bắt nguồn từ vùng Đông Nam Á hải đảo với truyền thống không ít hơn 2,500 năm lịch sử. Từ vùng ven biển nó hội nhập vào văn hoá Đông Sơn, ngược theo các sông vào các vùng trũng hai bên tả ngạn sông Hồng. Cùng với nó là sự hội nhập hàng ngàn từ gốc ngữ hệ Malayo-Polynesian vào tiếng Việt. (9) Không những thế trong thời gian này, vùng Bắc Việt Nam cũng là nơi các thuyền nhân từ phương xa đến. Theo Trần Quốc Vượng (9), thì truyền thuyết An Tiêm và quả dưa đỏ từ Tây qua thì An Tiêm là người đến nước Văn Lang của vua Hùng là người từ xứ Ấn. Tây Vu - biến âm của Tây Âu - bao gồm miền Đông Anh và Tiên Du là một bộ lạc lớn Âu Việt, là mủi nhọn đi xuống vùng đồng bằng Lạc Việt . Người Tây Âu cũng là hậu duệ của chủ nhân văn hoá Phùng Nguyên, Đồng Đậu là kết hợp của người trung du và vùng Quảng Ninh gốc hải đảo. Những cư dân Tày, Thái cổ, vừa gần gủi Nam Á vừa gần gủi Nam Đảo mà học giả Karl P. Benedict gọi là Kadai hay Nam Thái (austro-Thai) có lẻ là chủ nhân chính của văn hoá Phùng Nguyên (9). Nói tóm lại con người Đông Sơn, mà hậu duệ là người Việt hiện nay ở bán đảo Đông Dương, là giao chủng của các giống dân từ bờ biển, đồng bằng và miền trung du Bắc phần. Tiếng Việt hiện nay đã mang di sản của sự giao thoa trên với gốc từ Mon-Khmer, Tày-Thái, Malay và Tạng Miến. Môi trường sống Ta có thể biết chút ít về thế giới động vật, thực vật và môi trường sống ở thời đại Đông Sơn qua các di tích đông, thực vật ở các di chỉ, mặc dầu chúng có ít và không được bảo quản tốt. Ngoài ra còn có các hình tượng, hình vẽ.. ở các di vật, các tư liệu, thư tịch cổ của Trung quốc ở giai đọan muộn của văn hoá Đông Sơn hoặc thời Hán sau này. Đã có những di tích động vật nuôi phổ biến: voi thuần, chó nhà, lợn nhà và trâu bò. Các di tích này được tìm thấy trong các di trỉ và được thể hiện trên các hình khắc và tượng (thí dụ các hình vẽ trên đá vách núi Hoa Sơn, Quảng Tây giáp Lạng Sơn biên giới hiện nay, cho thấy có chó nhà). Trong di tích Đông Sơn ở Làng Vạc, cũng tìm thấy những hạt thóc luá, trấu. Lúa thuộc loại hạt tròn, gần giống lúa chim hoặc lúa nếp. Nông nghiệp là hoạt động chính yếu của cư dân Đông Sơn. Theo Thuỷ Kinh Chú và Nam Phương thảo mộc trạng, thì vùng Giao Chỉ, Cửu Chân trồng nhiều nếp và dùng nếp nấu rượu. Cũng trong “Nam phương thảo mộc trạng” của Kê Hàm (xuất bản năm 304) về thực vật ở khu vực nhiệt đới Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Việt Nam, ta có thể thấy được môi trường thực vật như sau: cây bầu, cây chuối, cây tre, lúa, tùng bách, dương sĩ, xoan, dâm bụt, hoa nhài, hoa súng, mía, hạt tiêu, trầm hương, nhãn, vãi, dừa, chà là, nho, khế, chanh, rau muống, rau cải.. Qua một ít các di tích xương răng ở các di chỉ Đông Sơn và trên các hình tượng, ta chỉ thấy hình ảnh hạn hẹp của thế giới động vật. Loài thú thì có hổ, voi, tê giác, huơu sao, bò bưóu, cá sấu. Ngoài ra còn có loại chim thuộc bộ cò (cò, vạc, bồ nông..) thường đến miền Bắc Việt nam khi di cư về phương Bắc . Theo Lĩnh Nam Chích Quái, thì người Việt xưa thường ăn canh cá, biết dùng cá tôm làm mắm. Theo truyền thống người Việt ít ăn thịt trừ những dịp lễ tết, hội hè. Như vậy ta có thể cho rằng thức ăn của người Đông Sơn xưa chủ yếu là gạo, bột và hải sản. Các di chỉ trong mộ thuyền cho thấy dân cư Đông Sơn biết làm chiếu cói, vải. Vải mặc dầu mũn nát, đã cho thấy có nghề se sợi, dệt vải. Ngoài ra đồ gổ đều có lớp sơn, chứng tỏ nghề sơn đã xuất hiện từ vài ba thế kỷ trước Công nguyên. Văn hoá và đời sống Đông Sơn Heger cho rằng các hình ảnh trên trống Sông Đà là ngày hội khánh thành trống với các thuyền chở người đi dự, họ là những khách cầm thoa để đánh trống. Ngày khánh thành trống là một ngày hội lớn cho cả cộng đồng. Theo Loofs-Wissoma, trống đồng là vật tượng trưng cho quyền lực của người cầm quyền. Một thứ quyền uy kiểu tôn giáo ở Bắc Việt Nam mà các tù trưởng ở khắp mọi nơi, kể cả vùng Đông Nam Á, tìm đến để xin ban cho trống đồng, để làm vua một cách hợp pháp (1). Tuy nhiên thuyết này không đựợc tán thành vì không những chỉ ở Việt Nam mới có đúc trống mà ở miền Nam Trung Quốc, và các vùng lân cận ở Đông Nam Á cũng có đúc trống. Sự có mặt khắp nơi của trống đồng là do sự giao thoa văn hoá trong vùng (Trịnh Sinh trong “Văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam”). Theo nhiều nhà khảo cổ thì nhiều hình ảnh trên trống đồng phản ảnh ngày hội mùa để gặt lúa nước và thu thập mùa màng. Đoàn người vừa đi vừa múa tay cầm giáo, lao, rìu hay nhạc cụ. Họ mặc trang phục lông chim, mũ chim. Một số người mặc áo choàng lông chim mà chỉ ngày lễ hội lớn mới mang ra mặc. Người Dayak ở Borneo vẫn còn phong tục mặc áo và mũ lông chim trong các buổi lễ. Như ta biết, trong truyền thuyết Trọng Thủy, Mỵ Châu, cũng có đề cập đến áo choàng lông ngỗng dành cho công chúa. Ngày hội mùa cũng mang tính chất tín ngưỡng phồn thực mong cho mùa màng tốt tươị Hình ảnh trên tang trống của đôi trai gái trên mặt trống cầm chày giã vào cối phản ảnh tính chất trên. Trên thạp đồng Đào Thịnh còn có các cặp trai gái đang giao phối. Ngày nay, tục lệ trai gái giao duyên ngày hội mùa mong cho mùa mang tốt tươi là vết tích của tín ngưỡng phồn thực còn lại ngày nay trong dân gian Việt Nam. Trên trống đồng Ngọc Lũ, ta cũng thấy trong một ngôi nhà sàn, một đôi nam nữ ngồi với tay và chân giao vào nhau, đang hát đối đáp trong lúc ở góc có người đang ngồi đánh trống đồng. Nghi lễ đâm trâu, đâm bò cùng có phản ảnh trên trống đồng như trên trống đồng Làng Vạc, với hình bò và các chiến binh cầm rìu, giáo nhảy múa. Tục này vẫn còn phổ biến ở các dân tộc Đông Nam Á và các dân tộc sống ở Tây Nguyên Việt Nam. Ngày hội cầu mưa, cầu nước lên hay rút là những ngày hội mà nhiều xã hội nông hay ngư nghiệp coi trọng để thời tiết mưa thuận gió hoà. Nhiều trống Đông Sơn có tượng cóc trên mặt trống gần mép trống, ngoài các vòng tròn đồng tâm. Có khi có cóc mẹ cõng cóc con như trên trống Hữu Chung . Hình tượng cóc thường gắn với sự cầu mưa vì “con cóc là cậu ông Trời” như dân gian Việt thường nói. Tiếng trống đồng cũng biểu hiện cho tiếng sấm. Người xưa trong hội cầu mưa đánh trống để thức tỉnh thiên nhiên mang lại mưa cho vạn vật. Trống vì vậy có mục đích quan trọng trong đời sống dân Đông Sơn. Trên các tang trống Đông Sơn như Sông Đà, Làng Vạc, Miếu Môn.. ta có thể thấy nhiều hình thuyền diển tả cảnh bơi chải. Tục bơi chải (bơi thuyền dưới nước và bơi thuyền tượng trưng trên cạn) thường thấy trong hội đua thuyền ở các làng thờ thần nước ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Ngay cả trong thơ văn đời Đường, cũng có bài nhắc đến tục dùng trống trong lễ nghi về thần sông. Mặc dù vào thời Đường đã là 5 thế kỷ sau khi văn minh Đông Sơn tàn lụi, như dư âm các dân tộc Việt vùng Hoa nam vẫn còn vọng lại ở kinh đô Trường An. Kinh đô Trường An có vị trí đặc biệt là nằm giữa vùng ranh giới của hai vùng văn hóa Hoa Nam và Hoa Bắc. Tống khách nam quy hữu hoài Lục thủy noãn thanh tần Tương đàm vạn lý xuân Ngõa tôn nghinh hải khách Đồng cổ trại giang thần Tỵ vũ tùng phong ngạn Khán vân dương liễu tân Trường An nhất bôi tửu Toà thượng hữu quy nhân (Hứa Hồn) (Tiễn khách trở về Nam - Nuớc biếc làm ấm cỏ lau xanh, Hồ Tương vẻ xuân vạn lý, Bình rượu gạch nằm đón khách đi biển, Trống Đồng cúng thần sông, Núp mưa bên bờ có tùng và phong, Ngắm mây bến sông có dương liễu, Một ly rượu ở Trường An, Trên tiệc có người về quê) Bát phách Man Khổng tước đuôi kim tuyến trường Phạ nhân phi khởi nhập Đinh Hương Việt nữ sa đầu tranh thập thúy Tương hô quy khứ bội tà dương (Tôn Quang Hiến) (Tám điệu gõ người Man - Chim tước đuôi kim tuyến dài lê thê, Sợ người bay lên đậu ở Đinh Hương, Cô gái Việt đầu bãi cát tranh nhau nhặt sỏi, Kêu nhau trở về nhà lưng quay lại ánh tà dương) Bồ Tát Man từ Mộc thiên hoa ánh tùng từ tiểu Việt cầm thanh lý xuân quang hiểu Đồng cổ dữ Man ca Nam nhân kỳ trại đa (Tôn Quang Hiển) (Đền bồ tát người Man - Ngôi đền nhỏ trong bụi cây toả ánh hoa mộc miên, Trong tiếng hót chim Việt thấy ánh sáng ban mai mùa xuân, Trống Đồng và bài hát Man, Người Nam cầu cúng nhiều) Ngoài ra còn các bài thơ của Ôn Đình Quân hay Đổ Mục (9) Độc thần từ Đồng cổ trại thần lai Mãn đình phan cái bồi hồi Thuỷ đối giang phố quá phong lôi Sở sơn như haọ yên khai (Ôn Đình Quân) (Đền thần bến sông - Trống đồng cầu cúng thần, Đầy sân cờ lọng bồi hồi, Gió sấm lướt trên mặt nước bến sông, Khói mây mờ núi Sở như tranh vẽ) Trên trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ, ta còn thấy hình người ở trần, bị trói quặt tay sau lưng ngồi trên sàn thuyền, trước mặt là những người cầm vũ khí. Có thể đây là lễ hiến tế cho thần nước, nạn nhận bị giết rồi quẳng xác xuống sông cho thuỷ thần. Theo tài liệu dân tộc học thì trong lễ cầu nước có lễ hiến tế để cống và chiều lòng thuỷ thần. Ngay cả gần đây ở vùng ven sông Hồng, sông Đáy và sông Mã vẫn còn tục bắt con gái hoặc con trai ném xuống sông cống Hà Bá trong khi nước lụt lội (1) Trên trống cũng có hình các loại nhà sàn: nhà sàn mái cong hình thuyền với hai đầu vểnh trang trí hình chim và nhà sàn mái tròn. Trong nhà sàn hình tròn có chia làm hai gian chứa lương thực. Các vết tích của nhà sàn như cọc, gỗ.. đã được khai quật và khám phá trong những đợt khai quật đầu tiên của người Pháp ở Đông Sơn. Cư dân Đông Sơn sống gần sông nước xây nhà sàn để tránh nước lên và thú dữ. Ngoài ra mặc dầu chưa có chứng cớ trực tiếp từ khảo cổ học, người Đông Sơn còn có thể có tục xâm mình, tục ăn đất, tục uống nước bằng mũi qua tư liệu sử học (như trong Hán thư, Lĩnh Nam chích quái), dân tộc học hay dân gian. Các hình tượng và cấu trúc trên mặt trống biểu hiện thêm gì? . Ngoài các thuyết cho rằng là biểu tượng ngày hội trống, tục bái vật (totem), nghi lễ cầu mưa... Cấu trúc trên trống có thể cho ta biết về triết lý và quan niệm sống của chủ nhân trống đồng. Theo Trần Quốc Vượng thì quan niệm sống của chủ nhân trống đồng đã được ghi và kết tinh trong các hình tượng và mô hình trên tang trống. Ông đã dùng kết quả nghiên cứu liên ngành từ dân tộc học và xã hội học để cho thấy quan niệm lưỡng hợp và lưỡng phân trong đời sống tâm linh của người Đông Sơn. N.I Nicolin trong bài “Trống đồng Đông Sơn và quan niệm cây thế giới” (4) (dịch từ nguyên tác Nga đăng trên tạp chí Khoa học Xã hội) đã so sánh rất hay và lý thú về truyền thuyết người Mường và biểu tượng trên trống đồng Đông Sơn. Dựa vào các khám phá và nhiều ý kiến về biểu tương trên trống đồng của các nhà khảo cổ Việt Nam gần đây (như Lê Văn Lan) cho rằng trống đồng Đông Sơn biểu hiện mô hình thế giới: mặt trống phía trên là thiên giới và trần giới, phần tang trống là thuỷ quốc và mặt dưới là âm phủ, Nicolin cho rằng có sự liên hệ mật thiết giữa trống đồng, biểu tượng trên mặt trống và huyền thuyết của người Mường, một dân tộc rất gần với người Việt. Trong tâm linh và thần thoại người Mường về sáng tạo vũ trụ, con người, “cây cuộc sống” biểu hiện nguyên lý về trật tự thế giới đối nghịch với trạng thái hỗn mang khi thế giới tạo lập. Trong truyền thuyết sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, một văn bản chính yếu của văn hoá Mường Ngày xưa sinh đời trước Dưới đất chưa có đất Trên trời chưa có trời, Trên trời chưa có ngôi sao đỏ đỏ Dưới đất chưa có ngọn cỏ xanh xanh Con nhà, con người muốn dậy Chưa có mặt mủi “Cây cuộc sống” xuất hiện chấm dứt tình trạng hổn mang Mọc lên một cây xanh xanh Cây xanh có chín mươi cành Cành mọc lên trời lá xanh biết cựa Thân trên mặt đất thân cây biết rung Cành bung xung có tiếng đàn bà con gái Cành chọc trời biến nên cật đứa cái Là ông Thu Tha Cành bung xung biến nên cật đứa con maí Là bà Thu Thiên Ra truyền: làm nên đất nên trời Tâm linh về “cây cuộc sống” cũng có ở các dân tộc Việt, Lào (4). Cây là hiện thân số phận của con người trong dân tộc người Ê Đê. Tục thờ cây cối là một tín ngưỡng xưa của người Việt. Truyền thuyết trầu cau thể hiện tục thờ cây (10). Theo Trần Quốc Vượng (9), thì tục thờ mẫu Liểu Hạnh, một trong Tứ Bất Tử, thì Liễu Hạnh, cùng hai đàn em trong Phủ là chầu Quỳnh, chầu Quế cũng như tên chồng của Mẫu là Đào lang, đều là tên cây, hoa. Ông cho rằng tục thờ mẫu Liễu Hạnh có liên hệ cội nguồn với tục thờ cây cối. Cây cũng đdại diện cho bộ tộc người Chàm trong truyền thuyết lịch sử: bộ tộc dừa, bộ tộc cau. Cùng với cái chết của cây crêc (cây sắt) thì đất nước cũng diệt vong. Cũng vậy trống đồng biểu hiện “cây thế giới” cũng có thể biến thành cây chết, với sự khám phá trong một ngôi mộ cổ: trống bị lật ngược với mặt trên bị thủng. Ở thế kỷ 1 sau công nguyên, Mã Viện nhà Hán sau khi chinh phục dân tộc Lạc Việt đã thu thập và nấu hết các trống đồng “cây sống” tượng trưng cho sức mạnh dân Việt. Mã Viện cũng dựng lên một “cây chết” trụ đồng với dòng chữ: “Đồng trụ triết, Giao chỉ triệt”. Theo Minh sử thì “Trống mất thì vận người Man cũng mất” cho thấy vị trí của trống đồng trong sự sống còn của bộ tục chủ nhân làm trống. Giữa mặt trống ở trung tâm là hình “ngôi sao” mặt trời với 14 tia sáng, tượng trưng cho tục thờ Mặt trời. Sau các vòng tròn đồng tâm trang trí, là vòng thứ 6 mô tả xã hội loài người, các hội hè nghi lễ, các hình vẽ nhà sàn, các hình người đánh trống, đánh cồng. Cồng sử dụng trong ngày hội tượng trưng cho sự sinh sản thịnh vượng. Người Mường theo tập tục mẫu hệ, chiếc cồng biểu hiệu cho bộ ngực người phụ nữ và chiếc cồng với những quả bí ngô liên kết với nhau biểu tượng cho sự phồn thực. Trên trống đồng, ta thấy có nhiều mo-típ về chim, và người ăn mặc dưới dạng chim. Sự phồn thực cũng có thể liên quan đến nhóm hình trên trống Ngọc Lũ: hình một người đàn bà và một người đàn ông dùng chày giã gạo trong cối đá. Phía trên nhóm hình này là bầy chim bay liệng - đó là linh hồn trẻ nhỏ chuẩn bị đầu thai vào lòng phụ nữ. Cũng như chim Lạc của bộ tộc người Lạc Việt, theo người Mường thì thuỷ tổ của họ được coi là loài chim. Thế giới trên vòng tròn đồng tâm thứ 8 thể hiện thế giới loài vật. Thế giới này được thể hiện bởi hai đàn chim và hai bầy hươu (hoẵng). Trong “Đẻ đất đẻ nước”, bên cạnh cây thế giới ta cũng thấy hoẵng và chim Đàn hoẵng chầu ở giữa Lũ phượng hoàng chầu ở trên Lũ chim nên chầu ở cành si, cành đa. Trên vòng đồng tâm thứ 10, vẽ 18 con chim bay và 18 con chim đậu. Các con chim bay giống như những tia mặt trời liên kết thiên giới với trần giới. Những con chim đậu ở nước (thuỷ điểu) liên kết trần giới, thiên giới với thuỷ quốc. Đằng sau các thuỷ điểu là những con ếc đúc nổi bằng đồng. Các loài ếch này coi là trung gian giữa thiên giới và trần giới với tiếng kêu báo hiệu mưa từ trời. Trong dân gian Việt nam, con cóc ếch vẫn còn được gọi là “cậu ông Trời”. Như vậy trên “cây thế giới” trống đồng, ta thấy cả những biểu tượng thể hiện tâm linh và văn hoá của chủ nhân trống đồng. Nó liên kết thiên giới, trần giới, xã hội loài người và thuỷ quốc. Tham khảo (1) Hà Văn Tấn chủ biên - Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, Viện khảo cổ học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994 (2) Bửu Cầm - Tương quan giữa những hình chạm trên trống đồng Việt tộc và bài “Đồng Quân” trong Sở từ, Tập san Sử Địa, Số 25, 1973, Saigon, trang 49-80. (3) Phạm Minh Huyền, Diệp Đình Hoa - Vị trí địa điểm khảo cổ học Thiệu Dương (Thanh Hóa) trong văn minh Đông Sơn, Khảo cổ học, 2/1981, trang 19-34. (3b) Nguyễn Duy Hinh - Đồ đồng vùng Đông Nam Trung Quốc, Khảo cổ học, 2/1982, trang 29-33. (3) Phan Đức Mạnh - Lịch sử nghiên cứu khảo cổ học thời tiền sử Đông Nam Bộ, Tạp chí Khoa học Xã hội, Tp. HCM, 13 (III/92), 1992, trang 47-52 (4) N.Ị Nicolin - Trống đồng Đông Sơn và quan niệm cây thế giới, Tạp chí Khoa học xã hội, Tp Hồ Chí Minh, 12, II/92, trang 60-68. (5) Ha Văn Tấn - Văn hoá Phùng Nguyên, nhận thức mới và vấn đề, Khảo cổ học, 1/1978, trang 5-22 (6) Chử Văn Tần - Về văn hoá Sa Huỳnh, Khảo cổ học, 1/1978, trang 52-60. (7) Diệp Đình Hoa - Người Việt cổ phương Nam vào buổi bình minh dựng nước, Khảo cổ học, 1/1978, trang 61-69. (8) Trịnh Cao Tưởng - Kiến trúc đình làng, Khảo cổ học, 2/1981, trang 56-64. (9) Trần Quốc Vượng - Theo dòng lịch sử, những vùng đất, thần và tâm thức người Việt, Nxb Văn Hoá, Hà Nội, 1996. (10) Nguyễn Đăng Thục - Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, Nxb Tp HCM, 1992. Nguồn: http://vannghesongcuulong.org NGUYỄN ĐỨC HIỆP
  16. Kính thưa quí vị quan tâm đến lịch sử cổ Việt. Bài viết dưới đây được trích lại nguyên văn bài viết của P.Gs Đặng Việt Bích. Tôi sẽ trích từng phần và không bỏ sót chữ nào để chứng minh luận điểm khiên cưỡng và hoàn toàn chủ quan của ông. Từ đó khẳng định rằng: Tất cả những luận điểm phủ nhận giá trị văn hóa truyền thống Việt trải gần 5000 năm văn hiến đều chủ quan và phi khoa học. Trong bài này, P.Gs Đặng Việt Bích đã viết: Ông Đặng Việt Bích đã đặt vấn đề về hiện tượng người Nam Đảo thống trị miền châu thổ sông Hồng và sau đó trở thành cư dân ở đây. Cứ cho rằng ông ta có căn cứ để đặt vấn đề này và bây giờ chúng ta xem ông chứng minh vấn đề mà chính ông đặt ra như thế nào? Như vậy với đoạn này ông ta đã sử dụng truyền thuyết để xác định: Truyền thuyết Sơn tinh Thủy tinh. Nhưng chính ông đã phải thừa nhận ngay rằng: Nước lụt - do Thủy Tinh dâng lên không phải từ biển - mà trước đó ông đã gắn hình tượng Biển của người Nam Đảo, mà là từ vùng núi phía Tây, Tây Bắc đồng bằng Bắc bộ. Nhưng có lẽ vì chẳng có chứng cứ nào thuyết phục hơn dù chính ông đã thấy tính phi lý của nó ngay trong đoạn trích dẫn trên: "thực ra lụt lội đâu phải được gây ra từ biển tới mà ngược lại, từ hướng tây, hướng tây bắc – đông nam, theo chiều của các con sông ở miền Bắc nước ta". Cho nên ông vẫn phải sử dụng truyền thuyết và cách giải mã - mà tôi không thể tượng tượng nổi thuộc về đẳng cấp P./Gs viết ra như sau: Thủy Tinh - theo ông là biểu tượng của người Nam Đảo xâm lược - Mặc dù chính ông thừa nhận lũ lụt ở Tây - Tấy Bắc tới. Hai người cùng cầu hôn, nhưng một người thì ông gán là xâm lược vì ông cho là biểu tượng của Nam Đảo, còn người kia - cũng cầu hôn - thì ông cho là liên kết bào vệ giang sơn. Thật là một sự lý giải rất chủ quan - tôi nghĩ là - coi thường độc giả. Nhưng ông ta vẫn kết luận: Từ một câu chuyện truyền thuyết huyền thoại với việc giải mã của ông - chắc ông khẳng định là đúng - nên ông P. Gs này đã gán ngay cho nó một thực tế để minh chứng cho quan điểm của ông Như vậy, qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta đã thấy rất rõ rằng: Để minh chứng cho quan điểm của ông - P.Gs Đặng Ngọc Bích - ông ta đã dựa vào sự giải mã một cách khập khiễng bằng cách cắt xén truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh. Chưa nói đến những mâu thuẫn mà chính ông ta phải thừa nhận mà tôi đã phân tích ở trên. Các chi tiết của truyền thuyết lịch sử này ông đã không nhắc tới. Thiên Sứ tôi cũng thuộc dạng giải mã truyền thuyết, ca dao tục ngữ, truyên dân gian..vv...Nhưng tôi xin nhắc lại một điều mà tôi nhiều lần nói trên diễn đàn rằng: Không bao giờ Thiên Sứ tôi coi việc giải mã - bất cứ một cái gì - trong những bài viết , tiểu luận ...là bằng chứng khoa học, ít nhất trong lúc này. Vì cho đến nay và chí ít cũng phải nửa thế kỷ nữa, may ra người ta mới có một tiêu chí cho việc giải mã những di sản văn hóa phi vật thể. Nhưng vị giáo sư này thì lại coi sự giải mã như là một luận cứ để minh chứng cho luận điểm của ông ta. Đương nhiên với những luận cứ "Pha học" này thì những đoan viết sau đây chỉ là cho vui và chẳng có căn cứ nào cả: Là người Việt Nam, ai cũng thuộc lòng câu chuyện Sơn Tinh Thủy tinh được truyền lại rất rõ rằng: Vào cuối thời Hùng Vương thứ 18. Mà theo nhưng luận cứ "khoa học" phủ nhận văn hóa sử truyền thống thì thời Hùng Vương thứ 18 kết thúc vào năm 208. Nhưng ở đây ông P.Gs Đặng Việt Bích lại cho nó kết thúc vào năm 1100 trước Cn với việc giải mã truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh - vào cuối thời Hùng Vương thứ 18 kể trên. Đoạn cuối của bài viết có lẽ do người khác thêm vào: Chán quá! Như vậy là vào cuối thời Hùng Vương thứ 18 - Thủy Tinh đại diện người Nam Đảo - theo P.Gs Đặng Việt Bích giải mã truyền thuyết đã kết thúc vào từ 1100 đến 700 trước Cn. Để rồi sau đó cái mà họ gọi là:"đạt được sự nhảy vọt thần kỳ: sáng tạo ra văn hóa đồng thau Đông Sơn". Thật hơi ngạc nhiên khi mà luận điểm sử học mới phủ nhận những giá trị văn hóa truyền thống lại cho rằng: Chính nền văn hóa đồng thau là cơ sở kinh tế xã hội để sinh ra một "liên minh gồm 15 bộ lạc" hoặc cùng lắm là "một nhà nước sơ khai" mà họ gán cho cội nguồn dân. Nhưng ở bài viết này thì thời Hùng Vương kết thúc sau khi hóa nhập với người Nam Đảo, để rồi sau đó lại sản sinh một thời Hùng Vương khác với nền văn hóa Đông thau.Tôi chỉ hơi ngạc nhiên. Bởi vì tôi quen với những lập luận tự nhận là khoa học kiểu này. Xin chào Phó giáo sư Đặng Việt Bích trên tinh thần phản biện khoa học.
  17. Câu chuyện thế này: Hôm đầu tiên, một người nhờ tôi tư vấn , nói chung là xem được. Xong việc, họ đưa tôi lá tử vi nhờ xem. Vì tôi tư vấn chủ yếu kết hợp luận tuổi với Lạc Việt độn toán, nên nói chung cũng không sai mấy với Tử Vi cô A. Hôm sau cô B lại đến, nói chung là cũng tương đối đúng. Cô ta cũng nhờ tôi coi sơ qua lá Tử Vi khuyến mãi. Tôi tưởng cô này đùa và đưa lá số hôm qua. Nhưng nhìn nét mặt cô này biết cô ấy không đùa, tôi đành phải dựa vào những điều đã luận tuổi mà cô ấy để nói lại - chứ thực ra tôi không xem nổi. Chịu. Tôi coi như đây là sự khiếm khuyết có tính phương pháp luận của Tử Vi. Vì không thể cùng một lá số có hai cách luận khác nhau được - nếu không kết hợp với các phương pháp khác.
  18. Random giỏi lắm. Ít nhất đến lúc này là hoàn toàn chính xác. Dự báo của Random: Chứng nghiệm: Thái Lan: PAD tuyên bố chấm dứt biểu tình tại toà nhà Chính phủ VIT - Hôm nay (01/12), người biểu tình thuộc Liên minh Nhân dân vì Dân chủ (PAD) tuyên bố sẽ chấm dứt biểu tình tại toà nhà Chính phủ vào chiều nay, nơi bị PAD chiếm giữ từ ngày 26/8.Lãnh đạo PAD, Tướng Chamlong Srimuang, yêu cầu người biểu tình tại tòa nhà Chính phủ rời đến sân bay Đôn Mường và Suvarnabhumi – 2 sân bay bị phong toả hồi tuần trước.Tướng Chamlong cho biết người biểu tình PAD sẽ không được phép ở lại tại tòa nhà Chính phủ thêm một đêm nào để bảo vệ sự an toàn của họ. Trước đó, đã có rất nhiều vụ nổ bom và đọ súng diễn ra tại khu vực toà nhà Chính phủ. Ông này thông báo, biểu tình tại tòa nhà chính phủ sẽ vẫn diễn ra liên tục cho đến tối và sau đó chỉ có lực lượng bảo vệ của PAD mới được phép hiện diện tai khu vực này. Ngày 26/8, PAD đã chiếm giữ toà nhà Chính phủ. Tiếp đó, vào ngày 25 - 26/10 họ đã chiếm đóng sân bay quốc tế Suvarnabhumi sân bay Đôn Mường ở thủ đô Bangkok. Động thái này nhằm gia tăng ép buộc Thủ tướng Somchai Wongsawat phải từ chức. C.Hạnh (Theo THX)
  19. Đúng là một phát hiện lịch sử gây chấn động ngành khảo cổ quốc tế. Đây có thể nói là niềm tự hào xứng đáng của Trung tâm tiền sử Đông Nam Á (Thuộc Hội nghiên cứu khoa học Đông Nam Á). Điều này cho thấy con người thuộc thời đồ đá đã xuất hiện từ rất lâu - 21.000 năm - ở trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay . Nhưng điều đó mà dẫn tới kết luận rằng: Đây chính là người Việt cổ theo tiêu chí nhân chủng học - (nói nôm tức là cùng dòng giống) - để từ đó dẫn đến kết luận "Thời Hùng Vương là một liên minh bộ lạc với những người dân ở trần đóng khố" lại là một sai lầm cực kỳ ngớ ngẩn. Khảo cổ chỉ là sự phát hiện hiện tượng và không bao giờ là bằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử.
  20. CHIM UYÊN ƯƠNG http://www.fredmiranda.com/forum
  21. ANH HÙNG ĐỘC LẬP http://www.fredmiranda.com/forum
  22. SỨC SỐNG
  23. THU XƯA http://www.fredmiranda.com/forum
  24. CHIM LẠC
  25. ANH HÙNG ĐỘC LẬP http://www.fredmiranda.com/forum