-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Híc! Chán wá đi! Trận trấn yểm trên sông Tô Lịch chẳng ăn nhậu gì đến vụ lụt tại Hanoi vừa qua cả. Mấy thầy phong thủy nửa vời - khi sự kiện xảy ra rồi mới bày đặt giải thích giải theo cho ra vẻ ta đây huyền bí cao siêu. Nếu thế thì ai chẳng nói được.
-
nncuong thân mến. Những kẻ xúm xít phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt rất đông. Theo như họ quảng cáo là "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "cộng đồng khoa học thế giới". Đã vậy lại được các phương tiện truyền thông nước ngoài và cả trong nước lăng xê ủng hộ. Còn chúng ta, tiếng nói yếu ớt, không vượt quá giới hạn của một trang web. Bởi vậy, những bằng chứng của chúng ta phải rất chắc chắn, khoa học. Không được phép sai lầm và cũng phải rất thân trọng trong các âm mưu khiêu khích và phá hoại. Kể cả những kẻ bề ngoài ủng hộ chúng ta rất nhiệt tình, nhưng lại đưa ra những bằng chứng giả để chúng ta bị phản biện. Chúng ta phải rất, rất thận trọng, nhưng kiên quyết vì chân lý. Riêng cá nhân tôi sẽ im lặng hoàn toàn - Thậm chí im lặng đột ngột - nếu phát hiện - việc phủ nhận những giá trị văn hóa sử truyền thống Việt có âm mưu chính trị. Nếu mọi chuyện thật sự sòng phẳng, khách quan khoa học theo đúng nghĩa của nó thì Hội sử học Việt Nam và TT nghiên cứu Lý học Đông phương phải cùng tổ chức hội thảo đặt lại vấn đề cội nguồn dân tộc Việt và có các phương tiện truyền thông phát bài và sóng một cách khách quan, trung thực. .
-
Cuộc đời nhiều lúc đúng như Dangthu79 nói. Mình làm phúc một, đời trả lại 10. Nhưng chú đang suy ngẫm câu của Đức Giesu: Phúc cho những ai không biết mà tin.
-
Những điểm nói trên chỉ là sự khác biệt của Phật giáo với tôn giáo khác thôi. Không sai. Nhưng điểm đặc sắc nhất của Phật Giáo theo tôi chỉ có một thôi. Đó chính là: Phật giáo chỉ cho con người sự tự giải thoát khỏi chính mình. Nam mô A Di đà Phật. Đệ tử Minh Tính - Nguyễn Vũ Tuấn Anh.
-
Anh Văn tinh ám ảnh thân mến. Thực ra để minh chứng điều này tôi đã viết từ lâu và các diễn đàn như tuvilyso.net từ năm ngoái đã có những cuộc tranh luận. Kết luận cuối cùng là: Lịch Van niên Dịch học phổ thông là chính xác. Ngay trong topic này , những bài viết tuy rất ngắn gon nhưng chính là sự tổng kết cho sự minh chứng đó. Cảm ơn anh quan tâm.
-
Không đâu Thiên Huy ạ. Chú có thể khẳng định rằng: Dân tộc Việt có lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến và cội nguồn lập quốc của người Việt ở miến nam sông Dương Tử là một chân lý và chú đủ khả năng làm sáng tỏ điều này. Chú có thể tự tin và nói rằng: Chú sẵn sàng thách thức sự phản biện trong một cuộc hội thảo được chọn lọc bởi những nhà khoa học có uy tín quốc tế cả trong và ngoài nước với địa điểm ngay tại Bắc Kinh. Vấn đề còn lại là: Có thể có một cuộc hội thảo như vậy không?
-
Trong Phong Thủy Lạc Việt rất kỵ những hình tượng ....ớn lạnh như ông giẫn dữ này. Nặng nhất chỉ treo tranh Hổ, hoặc rồng để trấn yểm thôi. Người ta giới thiệu với Concaocon ông này dùng để làm gì?
-
Wildlavender xin địa chỉ và số Dt của họ. Xong giới thiệu anh với họ. Nếu họ đồng ý, anh sẽ tranh thủ - thay vì vào Sài Gòn ghé Huế làm Phong thủy giúp họ. Nếu sửa chữa nặng - cần nhiều tiền thì ...lại kêu gọi giúp đỡ thôi. Nhưng chắc phải đợt sau thôi. Đợt này anh không ghé được.
-
Theo quan điểm của tôi đã chứng minh qua các bài viết trên nhiều diễn đàn - Tính Âm lịch phải lấy giờ Âm lịch - Điều này không hề trái với Pháp Lệnh nhà nước về quy định múi giờ chuẩn quốc gia. "Lấy giờ Tây tính lịch Tàu theo lối ta" thật không có cơ sở khoa học nào. Híc! Làm gì có chuyện mùa xuân nước này đến chậm hơn mùa Xuân nước kia dù chỉ một giờ khi sát biên giới.
-
Nắng đẹp thật - rất lý tưởng cho việc quay phim chụp ảnh. Nhưng vẫn đủ lạnh để mặc áo ves ...chụp ảnh cho thêm phần nghiêm trọng trong buổi lễ ra mắt :( . Một lần nữa Sư Thiến tui cảm ơn các vị thần thời tiết liên quan. Khi về Sài Gòn nhà em xin hậu tạ.
-
SINH CON GIAP NGỌ SAI KỶ SỬU ĐÚNG/
-
Xin lỗi anh Văn Tinh. Tại tôi không xem bảng phía dưới. Đúng là có sai sót thật. Anh chị em kỹ thuật tra lịch Vạn niên Dịch học phổ thông chỉnh sửa lại.
-
Wildlavender thân mến. Anh đang ở Hanoi. Wild nói "Xếp" đưa cho em 1000. 000 đ ủng hộ quỹ từ thiện. Riêng gia đình chị Nga Minh nếu có dịp em vào lại hỏi kỹ xem: Anh chị này vào căn nhà này ở từ lúc nào? Có phải các đứa con của anh chị ấy sinh ra và gặp nạn cùng trong căn này không? Nếu như vậy thì tại phong thủy nhà. Có thể nhân dịp nào đó anh ra tận nơi giúp họ.
-
Cảm ơn anh đã quan tâm. Chúng tôi đã xem lại. Không có gì sai sót.
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Đây là bài viết thứ 4 theo thuận tự của tác giả Techno. Lược Sử Cổ Đại Việt Nam Tác giả: Tranghuyendo_Techno http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...da_i/t1280.html Ghi chú: Một phần của bài này đã được Techno trình bày tại CLB VHNT Quận 4, TP HCM, tháng 9 năm 2001. Dựa vào truyền thuyết, truyện huyền ảo hay thần thoại mà dựng sử, gọi là huyền sử. Dựa vào những thêu dệt, thậm chí phóng đại để dựng sử, gọi là dã sử. Dựa vào quan điểm của chế độ cai trị, chính trị đương thời thì goi là chính sử. v.v… Các loại sử liệu như thế thường có độ tin cậy rất hạn chế, thậm chí còn đi ngược lại thực chứng khoa học … Thế mà nó vẫn được dùng rất phổ biến ở nước ta và một số nước chưa phát triển khác. Tầm ứng dụng của các loại sử này rất lớn, thậm chí được dùng làm tài liệu giảng dạy và học tập chính thức, gây ra bức tranh sai lệch về lịch sử và đánh giá sai từ bạn bè năm Châu. Một học giả nước ngoài đã hỏi Techno : "Người Việt hiện đại và thông minh của các anh vẫn còn tin chuyện đẻ ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm con hay sao ?" Techno : "Đó là truyền thuyết, nó được sáng tác để giải thích chứ không có mục tiêu phổ hiện sự thật, giống như tín đồ Công giáo tin vào Đức Mẹ Đồng trinh đó thôi". Anh ta : "Nhưng đây không phải là đức tin, mà lại là tài liệu giảng dạy chính thức cho cả nước các anh kia mà". Đến đây thì Techno đành … đánh trống lảng … Xin lật lại vấn đề một chút : chúng ta dùng từ "lịch sử" đã nhiều, nhưng bản than từ lịch sử thì ít ai muốn động tới. Nói khác đi, bản chất ngữ nghĩa của từ lịch sử chúng ta thường né tránh, đơn giản là do chúng ta … không biết nó là gì, hoặc là chỉ biết một cách mơ hồ, không đủ để phát biểu. Ngay cả trong wikipedia tiếng Việt, trích dẫn cả Bách Khoa toàn thư cũng chỉ mơ hồ: Nội dung trích dẫnLịch sử là môn học về nghiên cứu và phân tích những sự kiện đã xảy ra. Trong thực tế, chỉ có một số sự kiện lịch sử được xem là "thật". Đa số các nhà nghiên cứu các tường thuật lịch sử này, hay sử gia, tin rằng quan điểm hiện tại của chúng ta có thể đổi cách hiểu những sự kiện xưa. Vì thế cách giải thích những sự kiện xưa thay đổi thường xuyên qua các thời kỳ. Những giải thích dựa theo các nguồn gốc "căn bản" – những văn kiện được viết ra vào lúc đó hay gần sau lúc đó – thường được xem là có giá trị nhất. http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD Vậy, ngữ nguyên của từ "lịch sử" là gì ? Lịch, là diễn biến đã thật sự xảy ra trong không gian và thời gian, không chịu sự tác động của tri giác và nhận thức của con người. Sử là dấu vết của quá khứ còn lưu lại cho hiện tại và tương lai thông qua nhận thức có tính thời đại của con người. Chúng ta có thể tóm tắt ý nghĩa ngữ nguyên của từ lịch sử như sau : 1- Lịch sử là diễn tiến khách quan với mốc không gian và thời gian cụ thể của nó. 2- Diễn tiến lịch sử là nằm ngoài tác động của ý thức của con người. 3- Lịch sử được con người ghi nhận (thành văn hoặc không thành văn). 4- Lịch sử mang trong nó tri thức của thời đại. Vì vậy, mà quan điểm và phương thức luận lịch sử hiện đại cần phải có những tiêu chí nào ? 1- Cần phải khách quan ở mức độ cao nhất có thể có để tránh sai lầm hay bóp méo sự thật một cách chủ quan trong nhận thực, ghi nhận và giảng dạy lịch sử. 2- Lịch sử mang hơi thở của thời đại, nên nó cần được liên tục nghiên cứu theo dữ liệu và phương pháp khoa học mà thời đại chúng ta đang có. 3- Trung thành với nhận thức và tư duy khoa học, tiếp cận sự thật lịch sử đã xảy ra trong quá khứ từ mọi hướng, bằng mọi biện pháp khoa học mà toàn cảnh khoa học – kỹ thuật đương đại cho phép, bổ sung thậm chí phủ định các ghi nhận trước đó về lịch sử khi cần thiết. Chúng ta quay lại với lịch sử cổ đại Việt Nam … Trống đồng : Biểu tượng văn hoá và quyền lực của người Việt cổ đại. Thời kỳ Hồng Bàng theo truyền thuyết và dã sử cho rằng bắt đầu từ năm 2879 TCN, là niên đại vua Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ. Địa bàn của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương rất rộng lớn : phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay). Chúng ta sẽ bắt đầu nghiên cứu … trong bài sau. Lược Sử Cổ Đại Việt Nam Tác giả:Tranghuyendo_Techno (tiếp theo) Nội dung trích dẫnThời kỳ Hồng Bàng theo truyền thuyết và dã sử cho rằng bắt đầu từ năm 2879 TCN, là niên đại vua Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ. . . Sử theo truyền thuyết của người Kinh - Việt Nam: Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau sinh ra Lộc Tục. Đế Minh truyền ngôi lại cho con là Đế Nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Con của Kinh Dương Vương với Long nữ là Sùng Lãm lấy hiệu là Lạc Long Quân nối ngôi, lấy tiên nữ Âu Cơ là con gái của vua Đế Lai, đẻ ra một bọc 100 trứng và nở ra 100 người con. Những người con sinh ra cùng một bọc gọi là "cùng bọc" (hay còn gọi là Đồng bào) để nói rằng tất cả người Việt Nam đều cùng có chung một nguồn gốc... Con cả của thần Rồng Lạc Long Quân và tiên nữ Âu Cơ trị vì dưới tên Hùng Vương, và là vị vua đầu tiên của người Việt. Vì thế, người Việt thường tự xưng là con rồng cháu tiên. Từ đó người Việt đã di cư từ miền nam Trung Quốc hiện giờ đến đồng bằng sông Hồng và hòa nhập với người dân bản xứ. Vào năm 258 TCN An Dương Vương thành lập vương quốc Âu Lạc, tại miền Bắc Việt Nam bây giờ. Sự thật lịch sử Cách đây hơn 4.800 năm, toàn bộ vùng nam bắc đại giang Dương Tử chưa hề có chế độ phong kiến, do đó cũng chẳng có nước, có vua nào hết. Thể chế xã hội lúc bấy giờ là cát cứ theo nhóm cộng đồng cư dân có cùng một phong tục, ngôn ngữ, cách sinh sống và làm lụng v.v… Khu vực đại giang Dương Tử lúc bấy giờ có nhiều nhóm cát cứ như vậy, và họ có các chỉ tiêu nhân trắc gần giống nhau. Người Trung Hoa xưa gọi cư dân phía nam nói chung là Bách Việt, với nghĩa là một trăm bộ tộc Việt. Các sách xưa ghi chép nhiều nhóm người Việt, trong đó có Câu Ngô (句吳), Ư Việt (於越), Dương Việt (揚越), Mân Việt (閩越), Nam Việt (南越), Đông Việt (東越), Sơn Việt (山越), Lạc Việt (雒越, người Kinh ở Việt Nam ngày nay) Âu Việt (甌越, hay còn gọi là Tây Âu - 西甌) v.v... Sách Hán thư (漢書) viết: "Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Cối Kê (thuộc vùng Bắc Chiết Giang), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình…". Như vậy chúng ta có thể đính chính sai lầm nhận thức lịch sử quan trọng : đó là không có dân tộc Bách Việt mà chỉ có nhiều thị tộc (tộc người với các thể chế và quan hệ riêng có) Việt được gom chung thành một danh xưng xã hội là Bách Việt. Theo tập quán kết giao để tránh chiến tranh, người Trung Quốc xưa thường nhận các địch thủ có thế mạnh tiềm tàng làm con, hoặc gả con để kết thân. Ta có thể thấy rằng việc "vua lấy tiên nữ sinh con" là để giải thích việc nhận con nuôi một cách thánh hoá. Người Lạc Việt (*) sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới trên các lưu vực đại giang, mạnh mẽ và nhiều tham vọng, dưới sự dẫn dắt của Sùng Lãm trẻ trung và hiếu chiến, buộc Lộc Tục phải nhận Sùng Lãm làm con nuôi, ban cho quyền hạn, hiệu là Lạc Long Quân, để tránh phải đối đầu. Cách đây gần 3.000 năm, trận nhiệt hà dai dẳng và khắc nghiệt đã làm đại giang Dương Tử và các chi – phụ lưu của nó dần dần khô cạn. Các tộc người trong Bách Việt sinh sống bằng chài lưới và cả canh tác lúa nước đều khốn đốn, bắt buộc phải ra đi tìm đất sống. Lạc Long Quân với tư cách là đại thống lĩnh các tộc Việt phải dẫn trên dưới 100 bộ tướng chọn lọc trong Bách Việt (cùng quân lính và vợ con họ) tiến xuống phía nam trù phú. Vượt qua rặng Hoàng Liên Sơn, tiến đến khu vực Piaya (Phi mã Yên Sơn) và Piaouac (Phi mã Ác Sơn) thì đoàn tinh binh của Lạc Long Quân chạm trán với lực lượng của Cửu Thiên Huyền Nữ và ác chiến nổ ra. Một bên là tinh binh hăm hở với áp lực tìm đất sống nếu không muốn diệt vong, một bên là bảo vệ chủ quyền và nguồn sống của cộng đồng các dân tộc thượng du Bắc Bộ, được đông đảo cư dân bản địa phục tòng và ủng hộ hết lòng . . . Cửu Thiên Huyền Nữ là ai, cuộc ác chiến lịch sử diễn ra như thế nào, xin các bạn đón xem trong bài tiếp theo. =============================== (*) Theo truyền thuyết của Việt Nam, tổ của người Lạc Việt bắt nguồn từ vùng Động Đình Hồ, nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, và địa bàn sinh sống lan rộng xuống tận vùng Bắc Trung Bộ của Việt Nam ngày nay. Sử sách của Việt Nam cũng chỉ trích dẫn từ các truyền thuyết này. Nguồn cổ sử duy nhất có nói đến Lạc Việt là một số rất ít các sách cổ của Trung Quốc, và các sách này cũng chỉ ghi lai rất ít thông tin. Tài liệu cổ nhất viết về Lạc Việt là Giao Châu Ngoại Vực Ký (thế kỷ 4) viết như sau: Nội dung trích dẫn"Thời xưa khi Giao Chỉ chưa có quận huyện, thì đất đai có Lạc Điền, ruộng ấy là ruộng (cầy cấy) theo con nước thủy triều. Dân khai khẩn ruộng ấy mà ăn nên gọi là Lạc Dân. Có Lạc Vương, Lạc Hầu làm chủ các quận huyện. Ở huyện phần đông có Lạc Tướng. Lạc Tướng có ấn bằng đồng, (đeo) giải (vải mầu) xanh. Lược Sử Cổ Đại Việt Nam Tác giả: Tranghuyendo_Techno (tiếp theo) Nội dung trích dẫnVượt qua rặng Hoàng Liên Sơn, tiến đến khu vực Piaya (Phi mã Yên Sơn) và Piaouac (Phi mã Ác Sơn) thì đoàn tinh binh của Lạc Long Quân chạm trán với lực lượng của Cửu Thiên Huyền Nữ và ác chiến nổ ra…. Cửu Thiên Huyền Nữ là đại thống lĩnh các tộc người Thượng Du Bắc bộ, còn có danh xưng là bà Chúa Thượng Ngàn. Người Việt hiện nay trong lễ cúng đất đai thần thánh và nhất là tục lên đồng vẫn tôn thờ vái van bà, cả hai danh hiệu Cửu Thiên Huyền Nữ và bà Chúa Thượng Ngàn được tuyên xướng và xem là hai nhân vật thần thánh. Bà sinh hạ cô con gái Uhr Ka (U – ca) chưa đầy tháng đã phải lãnh đạo chuộc chiến đấu bảo vệ lãnh thổ. Được sự hỗ trợ của hơn 30 bộ tộc, bà tiến hành chiến tranh dai dẳng nhằm làm suy giảm nhuệ khí và uy thế tấn công của đoàn quân Việt. Cuộc chiến tranh kéo dài 16 năm trời, hai bên đều hao tổn cả về lực lượng quân sự lẫn khả năng kinh tế mà không có dấu hiệu dừng lại. Công nương U ca ngày nào còn ẵm ngửa, nay đã trở thành mỹ nhân xinh đẹp, được xem như là nữ tiên đại biểu cho cái đẹp thượng du Bắc Bộ. Một ngày nọ, nàng bỗng xin phép mẹ là Cửu Thiên Huyền Nữ cầm binh ra trận. Người mẹ không thể nào đồng ý, vì địch quân thì mạnh bạo, còn cô con gái mình thì xinh non như ngọc như ngà, có thể nào đương cự được. Mỹ nhân biểu diễn thần võ của mình trước mặt mẹ, và người mẹ kiêu dũng bị thuyết phục vì thấy nàng không những xinh đẹp tuyệt trần mà còn có binh tài xuất chúng. U ca diện bạch – kim bào ra trận, đoàn quân với đa số là nữ binh áo trắng xinh đẹp làm ngơ ngẩn cả núi rừng…. Hai đoàn quân kiêu dũng gặp nhau, hai chiến tướng ghìm ngựa nhìn nhau hồi lâu mà không có ý định xua quân tiến đánh. Tiếng sét ái tình đã nổ ra trước đầu chiến mã, đổi thay tất cả quan niệm và cuộc diện chiến tranh. Dũng lược và tài năng lãnh đạo của Cửu Thiên Huyền Nữ cho phép Bà nhận ra ngay tính chất quyết định của cuộc hôn nhân kỳ lạ này : nó cho phép giải quyết cuộc chiến dai dẳng và hao tốn binh lực của cải, thêm bạn bớt thù mà còn làm tăng năng lực và nhuệ khí của núi rừng Bắc Bộ. Cuộc hôn nhân của hai người được thần thánh hoá thành cuộc giao phối giữa thần Rồng Lạc Long Quân Và Tiên nữ Âu Cơ (U à Âu như chu sa à châu sa; Ca à Cơ như rà và rờ). Trên dưới 100 bộ tướng thành con nuôi của họ và trở thành 100 người con thánh hoá từ cuộc sinh nở phi thường ra chiếc bọc 100 trứng.(*) Đất trời như cũng vang tiếng ngợi ca một dân tộc Việt vĩ đại ra đời, là hợp thể của nhiều tộc người từ thượng du cho đến trung du, đến tận đồng bằng và duyên hải Bắc bộ, mà sức mạnh của họ chinh phục mãi đến tận chót mũi Cà Mau như ngày hôm nay … (còn tiếp) ======================== Chú thích : (*) Danh sách 100 người con trai từ bọc trăm trứng Lân Lang làm vua 49 người con theo cha Lạc Long Quân là: Xích Lang, Quynh Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Huân Lang, Yên Lang, Tiên Lang, Diên Lang, Tích Lang, Tập Lang, Ngọ Lang, Cấp Lang, Tiếu Lang, Hộ Lang, Thục Lang, Khuyến Lang, Chiêm Lang, Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần Lang, Tân Lang, Quyền Lang, Đường Lang, Kiều Lang, Dũng Lang, Aác Lang, Tảo Lang, Liệt Lang, Ưu Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang, Châm Lang, Tường Lang, Chóc Lang, Sáp Lang, Cốc Lang, Nhật Lang, Sái Lang, Chiêu Lang, Hoạt Lang, Điển Lang, Thành Lang, Thuận Lang, Tâm Lang, Thái Lang, Triệu Lang, Iích Lang. 50 người con trai theo mẹ Âu Cơ là: Hương Lang, Kiểm Lang, Thần Lang, Văn Lang, Vũ Lang, Linh Lang, Hắc Lang, Thịnh Lang, Quân Lang, Kiêm Lang, Tế Lang, Mã Lang, Chiến Lang, Khang Lang, Chinh Lang, Đào Lang, Nguyên Lang, Phiên Lang, Xuyến Lang, Yến Lang, Thiếp Lang, Bảo Lang, Chừng Lang, Tài Lang, Triệu Lang, Cố Lang, Lưu Lang, Lô Lang, Quế Lang, Diêm Lang, Huyền Lang, Nhị Lang, Tào Lang, Ngyuệt Lang, Sâm Lang, Lâm Lang, Triều Lang, Quán Lang, Cánh Lang, Ôốc Lang, Lôi Lang, Châu Lang, Việt Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Trình Lang, Tòng Lang, Tuấn Lang, Thanh Lang. Trích theo http://www.binhthuan.gov.vn/khtt/vanhoa/0005/0001/DTDH1.htm Nội dung trích dẫnĐất trời như cũng vang tiếng ngợi ca một dân tộc Việt vĩ đại ra đời, là hợp thể của nhiều tộc người từ thượng du cho đến trung du, đến tận đồng bằng và duyên hải Bắc bộ, mà sức mạnh của họ chinh phục mãi đến tận chót mũi Cà Mau như ngày hôm nay … Như 3 bài trên đã phân tích, chúng ta thấy rõ ràng là người Việt chúng ta không hề có huyết thống gì với Lộc Tục (Kinh Dương Vương) và cả Lạc Long Quân, mà chỉ có giống nòi Lạc Việt mới là căn cứ đáng tin cậy nhất. Những dữ liệu lịch sử từ Sử Ký Tư Mã Thiên (1) hay Đại Việt Sử Ký (1272) của Lê Văn Hưu không chép gì về đời Hồng Bàng. An Nam Chí Lược của Lê Tắc, viết tại Trung Hoa khoảng 1333, cũng không viết gì về đời Hồng Bàng. Phải đến khoảng 1377, trong Việt Sử Lược, một cuốn sách không rõ tác giả, mới có nhắc sơ qua đến đời Hồng Bàng. Một số thần phả còn bịa ra thụy hiệu của các vua Hùng (như Hùng Hy vương, Hùng Duệ vương...) nhưng tất cả đều không có dữ liệu đáng tin. Có thuyết còn tính một cách võ đoán rằng Kinh Dương Vương là Hùng Vương đầu tiên và Lạc Long Quân là Hùng vương thứ hai, sau đó chỉ có 16 Hùng Vương là hết thời Hồng Bàng. Trong Việt Sử Tiêu Án (1775), Ngô Thì Sĩ (2) đã đặt nghi vấn về Kinh Dương Vương, Xích Quỷ, và nhiều truyền thuyết liên quan. Niên đại của đời Hồng Bàng có bắt đầu từ 2879 trước công nguyên? Sử gia đặt nghi vấn này (như Trần Trọng Kim) tính từ con số truyền thuyết về vua Kinh Dương Vương (2879 trước CN), qua Lạc Long Quân và 18 vua Hùng (kết thúc 257 trước CN), tính ra 2322 năm cho 20 ông vua, trung bình mỗi người 121 năm. Một con số có tính ly kỳ và không có giá trị tham chiếu khoa học lịch sử.Nhiều người chấp nhận niên đại khoảng 600 trước CN là năm bắt đầu đời Hồng Bàng vì Việt Sử Lược ghi rằng nước Văn Lang bắt đầu từ đời vua Chu Trang Vương (696-682 trước CN). Nhưng lại cũng chẳng có bằng chứng xác đáng nào cả. Về xác định niên đại của Lạc Long Quân, chúng ta thấy rõ ràng là Người chỉ phải tiến xuống phía nam khi nạn khô hạn kéo dài trên lưu vực đại giang Dương Tử tiến đến cao trào. Theo dữ liệu Địa Vật lý và thiên văn học cho thấy tại đây, vào năm 922 TCN đã có một trận hạn hán rất lớn kéo dài gần 5 năm trời, đến tận 917 TCN mới chấm dứt. Nghĩa là Lạc Long Quân dẫn đoàn quân nam tiến vào khoảng năm 921 đến 920 TCN (lấy mốc 920). Cộng với 16 năm chinh chiến và 10 năm chung sống không con cái với Âu Cơ rồi phân chia quân ngũ, thì Vua Hùng đầu tiên xuất hiện không sớm hơn năm 920 - 26 = 894 TCN. Xét thời điểm vua Hùng thứ 18 nhảy xuống sông tự tử khi thua trận và An Dương Vương (3) lập nước Âu Lạc năm 227 TCN thì thời gian trị vì trung bình của mỗi đời vua Hùng là (894 – 227) / 18 = 37 năm. Đây là con số rất phù hợp với tuổi trị vì trung bình của vua chúa một thời hoà bình thịnh vượng. Như vậy, có thể nói rằng không có thời đại Hồng Bàng, mà nó chỉ là sản phẩm tưởng tượng của một tác giả không rõ danh tánh thế kỷ XIV chăng ? Đó chỉ còn là vấn đề quan điểm của chúng ta đối với lịch sử mà thôi, vì mọi vấn đề chứng lý khoa học đã được phơi bày. Lược sử cổ đại Việt Nam – những điều cần nói thêm : 1/. Người Lạc Việt sau cuộc hôn nhân vĩ đại Lạc Long Quân – Âu Cơ, đã hùng cứ phương Nam, trở thành người Kinh (4) và duy trì được sự tồn tại bản sắc văn hoá riêng trong khi những người đồng chủng của họ ở lại lưu vực đại giang Dương Tử đều bị đồng hoá trở thành một bộ phận của 56 dân tộc Trung Hoa ngày nay. 2/. Cho đến nay nhiều người vẫn nghĩ rằng người Kinh thuộc giống dòng Giao Chỉ (5). Nhưng chỉ cần xét đến anh em đồng hệ tộc thuộc Bách Việt (còn ở lại trên đất Trung Quốc) không hề có tài liệu nào ghi nhận tính trạng giao chỉ, cho thấy đó là một nhận thức lịch sử tai sai lầm. Sự thật là tính trạng giao chỉ rất phổ biến trong một số tộc người thượng du Bắc và Bắc Trung bộ Việt Nam. Như vậy có thể xác định rằng người Giao chỉ là cư dân bản địa – bà con huyết thống với chúng ta ngày nay trước khi người Lạc Việt đến phương Nam. 3/. Chữ Lạc (trong Lạc Việt) có nghĩa là nước, còn là tên một loài chim huyền thoại giống trĩ, hót hay và bay cao, lông trắng hay hoàng hồng. Việt: Nước - Bana: Đák - Sơ Đăng: Đák - Cua: Đaák - Xi Tiêng: Đaác - Mường: Rác - Tiếng địa phương bắc Trung Bộ: Nác đều là biến thể ngữ âm của từ Lạc còn lại đến ngày nay. Lạc Việt là dân tộc đầu tiên trên thế giới biết trồng lúa nước, cuộc khai quật của Wilheim G. Solheim, thuộc đại học Hawaii lại cho thấy sau khi thử phóng xa C-14, mẫu lúa của người Hòa Bình, cho niên đại là khoảng 3500 trước Tây Lịch, sớm hơn ở Ấn Độ và Trung Quốc khoảng 1000 năm, nơi mà người ta vẫn cho là quê hương của loại lúa trồng này. Chữ Lạc, về sau viết nhầm thành chữ Hùng (Ngô Sĩ Liên: trước là Lạc Tướng sau lầm ra Hùng Tướng - Lạc Tướng hậu ngọa vi Hùng Tướng), nhưng do ý nghĩa của chữ Hùng quá đẹp nên được dùng đến ngày nay. Lạc Vương --> Hùng Vượng Chữ Việt ngoài nghĩa thông dụng Hán ngữ là vượt qua, còn có nghĩa là cái rìu lớn (phủ việt = búa rìu), một biểu hiện sức mạnh và uy quyền của các Lạc tướng, Lạc vương. Rìu đá trong các di chỉ thuộc đồ đá mới tại VN đã cho thấy rìu lớn là phát minh đặc sắc của cư dân Lạc Việt mà các anh em hệ tộc bách việt phía bắc không hề có. ========================= Chú thích 1- Sử Ký (史記/史记; Shǐjì) của Tư Mã Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, là kiệt tác của Tư Mã Thiên, trong đó ông ghi lại lịch sử Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông. Vì là văn bản lịch sử Trung Quốc có hệ thống đầu tiên, nó ảnh hưởng cực lớn tới việc chép sử và văn chương Trung Quốc sau này. 2- Ngô Thì Sĩ (吳時士), hiệu là Ngọ Phong (午風) 1726-1780 - là một nhà sử học, nhà thơ thuộc tầng lớp nho sĩ trí trức . Quê ông là làng Tả Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Ông đóng vai trò là người sáng lập Ngô Gia Văn Phái. Tác phẩm : Tác phẩm tiêu biểu nhất có sự tham gia của ông là Hoàng Lê Nhất Thống Chí (của Ngô Gia Văn Phái) sáng tác đầu thế kỷ thứ 19. Các tác phẩm sử học: Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký tiền biên, một phần Đại Việt sử ký tục biên. 3- Cho tới đầu công nguyên thời Hai Bà Trưng, người Việt vẫn chưa có họ. Do đó họ Thục của An Dương Vương là một nghi vấn. Nước Thục (ở Tứ Xuyên ngày nay) mất năm 316 TCN. Chống Tần thất bại, con cháu họ chạy xuống phía bắc nước Văn Lang, sống với người Âu Việt. Sau một thời gian đứng vững, thủ lĩnh Âu Việt thôn tính Lạc Việt. Không hẳn thủ lĩnh Âu Việt đã là dòng dõi nước Thục cũ mà có thể chỉ là con cháu của tướng lĩnh, quan lại cũ của Thục, xưng làm họ Thục để thu phục nhân tâm vùng Âu Việt. Bộ sử lâu đời nhất và gần thời An Dương Vương nhất là Sử ký Tư Mã Thiên chỉ nhắc tới nước Âu Lạc mà không nhắc tới An Dương Vương họ Thục. 4- Người Kinh, hay dân tộc Kinh (京族; jīngzú, Kinh tộc) là tên gọi của người Việt sống tại Trung Quốc. Vào khoảng thế kỷ 16, có một số lượng người Việt di cư lên phía bắc vào lãnh thổ Trung Quốc. Tuy đã bị ảnh hưởng Trung Hoa nhiều hơn, con cháu những người này vẫn còn nói tiếng Việt và được công nhận là một dân tộc thiểu số tại Trung Quốc. Họ tạo thành một trong số 56 dân tộc được chính thức công nhận tại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Họ nói tiếng Việt và sinh sống chủ yếu trên 3 đảo ngoài khơi khu tự trị người Choang Quảng Tây, nhưng tiếng Việt của họ đã pha trộn nhiều với tiếng Trung và có nhiều từ cổ của tiếng Việt. Về chữ viết, ngày nay họ sử dụng Hán tự. Năm 2000 ước tính có khoảng 22.000 người Kinh tại Trung Quốc. 5- Tính trạng Giao Chỉ : đó là tính trạng di truyền thể hiện bằng hai ngón chân cái của bàn chân chìa ra, chạm nhau khi người đứng thẳng. Sử liệu Trung Hoa chưa từng ghi nhận tính trạng giao chỉ trong cộng đồng bách việt từ ngàn xưa đến nay. Quốc Gia đầu tiên của người Việt và Hiến Pháp đầu tiên của Nhân Loại. Quốc Gia đầu tiên của người Việt Năm 1221 TCN, đoàn người Âu (甌), còn gọi là Tây Âu (西甌) thuộc chủng Arriane trên đại bình nguyên lưỡng hà Ấn - Hằng từ phía Tây Trung Hoa tràn vào đất Lĩnh Nam của cư dân Bách Việt. Họ nhập vào các nhóm Bách Việt và dần dần trở thành một bộ phận của Bách Việt và càng ngày càng xa rời phong tục tập quán của lưu vực Ấn - Hằng, nên được gọi là Âu Việt (甌越). Họ cao lớn, có năng lực thể chất và thể trạng hơn hẳn các nhóm dân Bách Việt khác, ưu thế trong chiến đấu và xây dựng của họ nhanh chóng được khẳng định và trở thành một đầu tàu, một ngòi nổ mạnh trong cuộc chiến không ngừng giành quyền sống của cộng đồng bách Việt trong thời mông muội của lịch sử. Khi đoàn người Bách Việt tràn xuống phương Nam tìm đất sống thì đại bộ phận Âu Việt lang thang qua các vùng đất lửa Trung Hoa. Họ dần dà quay lại đất Lĩnh Nam, theo chân đoàn di dân cơ học Bách Việt về đất Giao Châu và quần cư với người Lạc Việt trên dải đất lưu vực sông Hồng phì nhiêu màu mỡ. Năm 227 TCN, thủ lĩnh Âu Lạc mượn tiếng họ Thục để giành lấy quyền làm chủ phương Nam và lập ra Vương Quốc Âu Lạc đầu tiên trong lịch sử Giao Châu. Nội dung trích dẫnCho tới đầu công nguyên thời Hai Bà Trưng, người Việt vẫn chưa có họ. Do đó họ Thục của An Dương Vương là một nghi vấn. Nước Thục (ở Tứ Xuyên ngày nay) mất năm 316 TCN. Chống Tần thất bại, con cháu họ chạy xuống phía bắc nước Văn Lang, sống với người Âu Việt. Sau một thời gian đứng vững, thủ lĩnh Âu Việt thôn tính Lạc Việt. Không hẳn thủ lĩnh Âu Việt đã là dòng dõi nước Thục cũ mà có thể chỉ là con cháu của tướng lĩnh, quan lại cũ của Thục, xưng làm họ Thục để thu phục nhân tâm vùng Âu Việt. Bộ sử lâu đời nhất và gần thời An Dương Vương nhất là Sử ký Tư Mã Thiên chỉ nhắc tới nước Âu Lạc mà không nhắc tới An Dương Vương họ Thục. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính An Dương Vương mới là người xây dựng nên cường quốc Âu Lạc , 227 TCN. Một cuộc giao hoà rất đẹp giữa hai nguồn GEN : Lạc Việt có ưu thế khéo léo và khả năng ngôn ngữ cộng với Âu Việt có tính trạng tuyệt vời, hiếu chiến và giàu tính phấn đầu (*) Hiến pháp đầu tiên của Nhân loại. Thế giới công nhiên thừa nhận Hiến Chương Octavius - Hoàng Đế La Mã - công bố khoảng năm 240 là hiến pháp đầu tiên của nhân loại. Nhưng chú ý rằng Chiếu "Lịch Dân Lập Quốc" của An Dương Vương nhằm khẳng định vương quyền Âu Lạc công bố trước Hiến Chương Octavius gần 500 năm (chính xác là 467 năm) mới là Hiến Pháp đầu tiên của Nhân Loại. Niềm tự hào của người Việt là từ niềm kiêu hãnh Âu Lạc chứ không phải là Con Rồng Cháu Tiên hay gì gì đó đầy ảo ảnh. Tiếc là vào thời đó (227 TCN), người Việt chưa có chữ viết, chưa có cả chữ Nôm nên Hiến Pháp đầu tiên của người Việt và Nhân loại phải viết bằng chữ Hán cổ, trúc trắc và đầy dị bản. TrangHuyenDo-Techno ============================================= (*) Từ nguyên nhân này mà trong cộng đồng người Việt, thậm chí trong một gia đình, thường có 2 nhóm tính trạng khá tương phản thể hiện 2 nhóm GEN : chị (anh) cao lớn kiểu Âu và em (trai, gái) đậm người kiểu Lạc. Ví dụ : Hai chị em Thuý Kiều - Thuý Vân được Nguyễn Du diễn tả rất tinh tế các xu thế tính trạng : Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang ....... Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn Làn thu thuỷ nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh Phân tích ngữ nghĩa cho thấy Vân đẹp kiểu đầy đặn, sung mãn kiểu Lạc, còn Kiều thì lại cao gầy, ẻo lả kiểu Âu, như dáng vẻ cái đẹp hiện đại... *** Xin khẳng định lại một lần nữa là ở đây chỉ có vấn đề GEN trội, GEN lặn trong một dân tộc Việt Nam thống nhất và duy nhất chứ không có bất cứ vấn đề chủng tộc hay sắc tộc nào khác. Mọi luận điệu khác đi là hoàn toàn sai lạc với lịch sử thật sự đáng tự hào của Dân Tộc Việt Nam. Tranghuyendo_Techno
-
Ngày sinh là một trong những dữ kiện quan trong trong môn Tử Vi và đặc biệt quan trong trong môn Tử Bình. Các nghiên cứu khoa học mới nhất có vẻ như cho thấy rằng những yếu tố bệnh tật liên quan đến con người có liên quan đến ngày sinh. Quí vị có thể tham khảo bài viết dưới đây trên Vietnamnet.vn: Cận thị có thể do... ngày sinh 15:07' 04/12/2008 (GMT+7) Mắt kém thường liên quan đến việc sử dụng liên tục máy tính, xem tivi, thói quen đọc sách quá gần mắt hoặc đọc ở nơi không đủ độ sáng cần thiết và một phần do di truyền. Nhưng một nghiên cứu mới lại kết luận, cận thị phụ thuộc nhiều vào ngày sinh. Tỷ lệ học sinh Việt Nam cận thị đang ngày càng tăng. Ảnh: VNN Nhóm các nhà khoa học Israel của Trường ĐH Tel Aviv do TS.Iossi Mandel đứng đầu đã nghiên cứu hồ sơ y tế của 276.000 người đã phục vụ trong lực lượng vũ trang nước này. Các bác sĩ nhãn khoa đã phân tích số liệu đo thị lực những người điều tra cả nam và nữ được khám sức khoẻ trong suốt 4 năm. Những số liệu thống kê đủ để các bác sĩ tìm ra nguyên nhân của bệnh cận thị (tỷ lệ người bị cận thị lên tới 30%) và khái quát hoá thành quy luật. Cấu tạo của dụng cụ quang học hoàn hảo nhất - con mắt - và bản chất ánh sáng của thị giác đã làm cho các nhà khoa học Israel suy nghĩ, biết đâu nguyên nhân gây ra cận thị là do tác dụng quá mạnh của những tia sáng lên hệ thống thị giác còn quá yếu ớt của đứa trẻ sơ sinh. Sau khi đối chiếu số đo thị lực của những người được kiểm tra sức khoẻ với ngày sinh của họ, các bác sĩ khẳng định rằng, đa số những người cận thị được sinh ra vào tháng nắng to nhất là tháng sáu và tháng bảy. Còn những người sinh vào tháng chạp, tháng giêng, trời thường râm và ngày ngắn thì tỷ lệ bị cận thị cũng thấp nhất. Từ số liệu trên, các nhà khoa học cho rằng mối quan hệ ấy có thể được giải thích là ánh nắng chói chang của mùa hè tác dụng lên võng mạc chưa ổn định của đứa trẻ, làm nó bị biến dạng ít nhiều, làm bệnh cận thị phát triển. Theo thống kê trên toàn thế giới, cứ 3 người thì có một người bị cận thị. Bệnh thường xuất hiện ở độ tuổi từ 7 đến 15, sau đó, hoặc nặng lên, hoặc giữ nguyên và đến một tuổi nào đó, tuỳ người, sẽ bắt đầu giảm xuống. Các nhà khoa học Nga coi đó mới chỉ là giả thiết. Bà Irina Baradulina, bác sĩ nhãn khoa Bệnh viện “Vision” nói: Cận thị do nhiều nguyên nhân, trong đó đáng kể nhất là nguyên nhân di truyền và nguyên nhân giải phẫu. Bệnh cần thị truyền từ thế hệ này sang thế hệ kia, thậm chí đến cả mức độ cận thị. Các nhà khoa học đã xác định được cả một quy luật thế này: những người từng bị trật khớp luôn luôn bị cận thị. Không ít người khớp xương chuyển động quá trơn tru và những người có bàn chân bẹt cũng hay bị cận thị. Cho nên không thể căn cứ vào một nguyên nhân, mà có nhiều nguyên nhân khác đã được chứng minh”. Còn bác sĩ nhãn khoa Ekaterina Pavlova, chuyên gia giải phẫu mắt bằng tia laze phát biểu: “Nếu nhìn nhận vấn đề theo góc độ khác thì chính ánh nắng mặt trời lại có tác dụng ngăn ngừa bệnh cận thị. Thực tế cho thấy tại những nước nhiều ánh nắng mặt trời ở Nam vĩ tuyến thì tỷ lệ người cận thị bao giờ cũng ít hơn ở những nước Bắc vĩ tuyến, độ dài ngày rất ngắn. Vấn đề là ở chỗ, cường độ ánh sáng thấp buộc người ta phải “căng mắt ra” mà nhìn, có nghĩa là để rút ngắn khoảng cách giữa mặt và đối tượng. Đó mới là nguyên nhân cơ bản xuất hiện bệnh cận thị”. Chính các nhà khoa học Israel cũng thống kê được những nguyên nhân khác của bệnh cận thị (di truyền, dặc điểm của nghề nghiệp), tuy nhiên họ cho rằng, kết luận của họ vẫn đúng. Nếu xét độ cận thị (đo bằng điôp) chia ra làm 3 mức là cận thị nhẹ (chiếm 18,8% số người đến khám bệnh), trung bình (8,7%) và nặng (2,4%) thì ở những người bị cận thị nhẹ, ngoài nguyên nhân phụ thuộc ngày sinh, còn nguyên nhân khác. Song với những người cận thị trung bình và nặng thì sự phụ thuộc ngày sinh hết sức rõ ràng. Việc tìm hiểu nguyên nhân của bệnh cận thị là cần thiết để các nhà nhãn khoa học tìm ra các phương pháp ngăn ngừa bệnh cận thị - căn bệnh có xu hướng ngày càng tăng. Tuấn Hà (Theo membrana.ru)
-
Tổng kết. Anh chị em nào đoán không có đảo chính là đúng.
-
Những thế lực đứng sau vụ khủng bố Mumbai Nguồn: Vietnamnet.vn 14:52' 05/12/2008 (GMT+7) Mười thanh niên từ nhóm chiến binh Lashkar-e-Taiba (LET) tại Pakistan đã được cử tới Mumbai để tiến hành khủng bố. 9 trong số chúng đã bị tiêu diệt - như mong đợi của thủ lĩnh LET - trong các cuộc đọ súng kéo dài ba ngày với lực lượng an ninh Ấn Độ. Nhà ga chính ở Mumbai sau khi bị khủng bố. (Ảnh: AP) Điều không diễn ra theo kế hoạch là vụ bắt giữ chiến binh 21 tuổi Ajmal Amir Kesab, kẻ đã cung cấp chi tiết về âm mưu của nhóm này. Âm mưu này được hoạch định bởi một số nhân vật trong Cơ quan tình báo liên ban (ISI) của Pakistan và LET, trong đó có việc huấn luyện 10 tên này tại PNS Iqba (đơn vị lính đặc nhiệm hải quân ở Karachi) và tại Mangla Dam gần Thủ đô Islamabad của Pakistan. Vụ bắt giữ trên đã khiến kế hoạch của LET và al-Qaeda đổ vỡ. Trước tình hình căng thẳng leo thang giữa Ấn Độ và Pakistan, câu hỏi then chốt hiện nay là: Liệu Pakistan sẽ khuất phục trước áp lực của Washington để trấn áp LET và các sĩ quan ISI đồng lõa trong vụ khủng bố ở Mumbai hay không? ’’Một cuộc chiến giữa Ấn Độ và Pakistan là chìa khóa thành công đối với các chiến binh Thánh chiến từ Afghanistan cho tới Ấn Độ’’, một thành viên cấp cao của LET tiết lộ. Rõ ràng là các chiến binh muốn cuộc chiến của chúng, song Mỹ giờ muốn một cuộc chiến với các chiến binh này. Đô đốc Mỹ Mike Mullen, Chủ tịch Hội đồng các tham mưu trưởng liên quân, hiện đang ở Islamabad cùng Ngoại trưởng Condoleezza Rice. Các nguồn tin nói rằng, thông điệp chủ đạo của Mullen sẽ là yêu cầu Pakistan nghiêm túc trong việc trấn áp LET - nhóm đã đổi tên là Jamaatut Dawa - cũng như các sĩ quan tình báo ISI tham gia vào vụ tấn công Mumbai. Áp lực của Mỹ hiện đè nặng lên quân đội Pakistan và đây sẽ là một cuộc sát hạch thực sự đối với Tổng tham mưu trưởng mới của Pakistan là Tướng Kiani cũng như mối quan hệ giữa quân đội nước này và các chiến binh. Hậu thuẫn các chiến binh Thủ lĩnh của Jamaatut Dawa là Hafiz Muhammad Saeed đã ở Sukkur - một thành phố cách Karachi 363km về phía bắc - vào ngày 26/11 và định tới Karachi. Tuy nhiên, sau vụ khủng bố Mumbai hôm 27/11, hắn được triệu tập khẩn cấp tới thành phố quân sự Rawalpindi để tham dự một cuộc họp được tổ chức tại Văn phòng Tổ chức chiến lược. Tại đó, hắn được thông báo rằng không lực Ấn Độ đang trong tình trạng báo động cao và hắn có kế hoạch gì nếu Ấn Độ phát động một cuộc chiến tranh. Saeed đáp lại rằng LET sẽ là hàng phòng ngự đầu tiên chống lại hải quân Ấn Độ ở biển Ảrập. LET cũng sẽ tăng cường các hoạt động ở Ấn Độ và Kashmir. Hắn nói thêm, sẽ yêu cầu các chiến binh ở tỉnh Biên giới Tây Bắc bất ổn của Pakistan ngừng chĩa súng vào lực lượng an ninh Pakistan. Cùng lúc, do nguy cơ không kích của Ấn Độ, mọi trại huấn luyện chiến binh ở Muzzafarabad, thủ phủ của vùng lãnh thổ Kashmir do Pakistan kiểm soát, đã được sơ tán. Sau đó, một quan chức cấp cao của ISI đã tổ chức một cuộc họp báo ở Islamabad. Trong cuộc họp này, ông nói rằng nếu Ấn Độ huy động binh sĩ áp sát biên giới, mọi đơn vị quân đội Pakistan sẽ rút khỏi tỉnh Biên giới Tây Bắc, nơi họ đang chống lại Taliban và các chiến binh khác. Điều gây tranh cãi là quan chức này đã nói rằng, lãnh đạo Taliban theo đường lối cứng rắn Baitullah Mehsud và những thủ lĩnh khác sẽ ủng hộ Pakistan nếu Ấn Độ tiến hành chiến tranh với nước ông. Hơn nữa, các lực lượng an ninh Pakistan đã khởi xướng tiến trình đàm phán với Taliban ở thung lũng Swat để thảo luận các điều kiện rút quân đội Pakistan khỏi đó. Khai sinh kế hoạch khủng bố Mumbai Vụ tấn công khủng bố Mumbai dựa vào các chiến binh địa phương có liên quan tới al-Qaeda (Mujahideen Ấn Độ), chẳng hạn như Abdus Subhan Qureshi (Tauqir). Hắn đã xem xét kỹ trung tâm Do Thái ở Mumbai và thu thập được thông tin rằng cơ sở này đang được tình báo Israel - Mossad - sử dụng. Trung tâm này đã bị tấn công hôm 27/11 và nhiều người tại đó đã thiệt mạng. Thông tin về những mục tiêu then chốt như vậy đã được chuyển cho LET và các biệt kích được huấn luyện kỹ càng của nhóm này sau đó đã tiến hành chiến dịch khủng bố ở Mumbai. Abdus Subhan đã hoạch định những cuộc tấn công khác nhằm vào các mục tiêu chiến lược của Ấn Độ ngay sau vụ tấn công Mumbai. Tuy nhiên, vụ bắt giữ Kasab đã ngăn chặn được âm mưu đó. Trước các vụ tấn công khủng bố ở Mỹ vào 11/9/2001, ISI có nhiều vùng hoạt động, vươn tới cả Ấn Độ. Các bộ phận tấn công lớn tập trung ở Muzzafarabad, thủ phủ của vùng Kashmir do Pakistan kiểm soát. Nơi này được sử dụng để mở các chiến dịch mà Pakistan ủy quyền cho các nhóm li khai Kashmir tiến hành tại vùng Kashmir do Ấn Độ kiểm soát. Các vùng hoạt động khác là Nepal và Bangladesh, nơi được sử dụng để buôn lậu vũ khí vào Ấn Độ cũng như để các chiến binh thâm nhập vào Ấn Độ nhằm tiến hành các chiến dịch phá hoại kiểu du kích trong vùng lãnh thổ khác của Ấn Độ, ngoài Kashmir. Sau 11/9, khi Islamabad sát cánh với Mỹ trong "cuộc chiến chống khủng bố’’ và cuộc tấn công Afghanistan được phát động để bắt các chiến binh al-Qaeda và Taliban, Pakistan buộc phải từ bỏ các hoạt động ở Muzzafarabad dưới sức ép của Mỹ. Những thay đổi lớn gần đây về tình hình chính trị ở Nepal với việc bãi bỏ chế độ quân chủ cũng làm thu hẹp các hoạt động của ISI. Tình hình tương tự cũng xảy ra ở Bangladesh, nơi Chính phủ đã thay đổi. Các bộ phận tấn công duy nhất còn hoạt động của ISI được để lại ở thành phố cảng Karachi và các bộ phận trước đây ở Muzzafarabad được điều tới đó. PNS Iqba, đơn vị biệt kích hải quân của Pakistan, là căn cứ chính để huấn luyện các chiến binh. Sau đó, các chiến binh này được đưa tới biển Ảrập và xâm nhập vào vùng Gujarat của Ấn Độ. Cùng lúc, Washington đã làm trung gian cho tiến trình đối thoại hòa bình giữa Ấn Độ và Pakistan, dẫn tới tình hình yên tĩnh tạm thời trong khu vực này. ISI khuyên các chiến binh nằm im ở hang ổ của họ để đợi lệnh. Tuy nhiên, các chiến binh không chịu nghe lời. Tài sản quan trọng nhất và con đẻ của ISI là Laskhar-e-Taiba (LET) bị chia rẽ sau 11/9. Nhiều tư lệnh hàng đầu của LET đã bắt tay với các chiến binh al-Qaeda. Một triệu phú ở Karachi là Arif Qasmani, một nhà tài trợ lớn cho các chiến dịch của LET ở Ấn Độ, đã bị bắt vì làm việc hai mang. Hắn bị cáo buộc hợp tác với ISI trong khi gửi tiền tới vùng bộ tộc Nam Waziristan của Pakistan để mua vũ khí cho các chiến binh al-Qaeda. Harkat-ul-Jihad-al-Islam, mạng lưới ủng hộ ISI trong toàn khu vực Nam Á, đặc biệt là tại Bangladesh, đã bị đập tan và rơi vào tay của al-Qaeda khi thủ lĩnh Maulana Ilyas Kashmiri của Harkat - một anh hùng trong cuộc đấu tranh vũ trang tại Kashmir - bị lực lượng an ninh Pakistan bắt giữ hồi tháng 1/2004. Hắn bị tình nghi có liên quan tới những kẻ đánh bom liều chết nhằm vào đoàn xe hộ tống của Tổng thống Pakistan lúc đó là Musharraf hôm 25/12/2003. Maulana Ilyas Kashmir được phóng thích 30 ngày sau, song hắn đã từ bỏ cuộc chiến giành độc lập cho Kashmir và chuyển tới vùng bộ tộc Bắc Waziristan cùng gia đình. Việc hắn chuyển mục tiêu đấu tranh từ Kashmir sang cuộc nổi dậy ở Afghanistan là một chỉ dẫn tôn giáo đích thực cho những chiến binh tại các trại ở Kashmir chuyển sang ủng hộ cuộc đấu tranh vũ tranh chống lại các lực lượng nước ngoài ở Afghanistan. Hàng trăm chiến binh Thánh chiến Pakistan đã thiết lập một trại huấn luyện nhỏ ở Bắc Waziristan. Gần như cùng lúc, mạng lưới Harkat ở Bangladesh cắt đứt liên lạc với ISI và xích lại gần al-Qaeda hơn. Đây là sự khởi đầu của vấn đề mà làm cho cuộc khủng bố hôm 27/11 tại Mumbai trở thành một câu chuyện rất phức tạp. Ấn Độ chưa bao giờ là mục tiêu trực tiếp của al-Qaeda. Một phần là do chính sách không liên kết bấy lâu của New Delhi và một phần là do al-Qaeda sử dụng Ấn Độ như một tuyến đường an toàn từ biển Ảrập vào Gujarat và sau đó vào Mubai. Từ Mumbai, chúng sử dụng đường bộ hoặc đường không để tới Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất. Al-Qaeda không muốn phá vỡ tuyến đường này bằng cách tiến hành những cuộc tấn công tại Ấn Độ. Tuy nhiên, nhiều tiếng nói từ khối NATO và từ bên trong Ấn Độ muốn nước này là một đối tác chiến lược của NATO và Mỹ tại Afghanistan đã khiến al-Qaeda xem xét kế hoạch sử dụng vũ trang nếu việc đó xảy ra. Nhiều cuộc tấn công quy mô nhỏ đã được tiến hành tại nhiều nơi ở Ấn Độ như một cách diễn tập và các lực lượng an ninh Ấn Độ vẫn không biết chủ mưu của các vụ này. Tuy nhiên, al-Qaeda vẫn chưa chuẩn bị cho những cuộc tấn công lớn hơn, giống như các cuộc khủng bố ở Mumbai. Theo chỉ thị từ Tổng tham mưu trưởng Quân đội Pakistan là Tướng Kiani, lúc đó còn là chỉ huy ISI, một kế hoạch tấn công khủng bố quy mô nhỏ đã được chuẩn bị để hậu thuẫn lực lượng chiến binh Kashmir. Kế hoạch này là bình thường, thậm chí trong bối cảnh Ấn Độ và Pakistan đang đàm phán hòa bình. Mặc dù Pakistan đã ngừng các hoạt động lớn của họ, song vẫn hỗ trợ cho các chiến binh để phong trào Kashmir này sẽ không bao giờ chết hoàn toàn. Sau khi ông Kiani được thăng chức Tổng tham mưu trưởng, Tướng Nadeem Taj thay ông lãnh đạo ISI. ISI đã thực hiện kế hoạch của Kiani và huấn luyện vài chục chiến binh của LET gần Mangla Dam, không xa Thủ đô Islamabad. Sau đó chúng được đưa tới Gujarat bằng đường biển và từ đó chúng phải tới Kashmir để tiến hành các chiến dịch tấn công. Trong khi đó, một cuộc cải tổ lớn trong ISI cách đây 2 tháng đã chính thức xếp kế hoạch này vào một xó vì toàn bộ trọng tâm của Pakistan đã chuyển sang các vùng bộ tộc. Người phụ trách các chiến dịch bên ngoài của ISI cũng bị thay thế, đặt kế hoạch này vào tay của một thiếu tá, người đứng đầu bộ phận tiền tiêu của ISI và tư lệnh của LET là Zakiur Rahman. Zakiur đã ở Karachi hai tháng, đích thân giám sát kế hoạch này. Tuy nhiên, các mạng lưới chiến binh ở Ấn Độ và Bangladesh, gồm cả Harkat, hiện nằm trong tay của al-Qaeda, đã sửa đổi kế hoạch này. Thay vì Kashmir, chúng chọn mục tiêu tấn công là Mumbai, sử dụng các mạng lưới địa phương hiện có, với người phương Tây và trung tâm Do Thái là mục tiêu. Zakiur và bộ phận tấn công của ISI tại Karachi, hoàn toàn bị cắt đứt với giới lãnh đạo hàng đầu của ISI, đã phê chuẩn kế hoạch này mà theo đó hơn 10 tay súng đã khủng bố Mumbai và gieo rắc thành công sự sợ hãi. Cuộc tấn công, bắt đầu từ tổng hành dinh của ISI và được al-Qaeda nhào nặn, rõ ràng đã gây tức giận khắp Ấn Độ. Vấn đề tiếp theo là liệu hành động khủng bố đó có tiềm năng thay đổi chiến lược trong khu vực của Ấn Độ hay không và ngăn Ấn Độ tham gia các kế hoạch của NATO ở Afghanistan hay không. Rối ren Nam Á Khách sạn Taj Mahal. (Ảnh: AP) Washington có vẻ như chấp nhận rằng vụ khủng bố Mumbai không được tiến hành theo lệnh của Islamabad hoặc quân đội Pakistan, hoặc thậm chí là Bộ Tư lệnh cấp cao của ISI. Tuy nhiên, giờ có một số bằng chứng về sự dính líu của LET và một số sĩ quan cấp thấp trong ISI. Đây chính là điểm mà Mỹ sẽ gây áp lực với Islamabad: Họ phải tiêu diệt những chiến binh như vậy. Tuy nhiên, có một vấn đề: Tình hình tại tỉnh biên giới Tây Bắc đang vượt khỏi tầm kiểm soát khi các chiến binh đang tràn vào tỉnh này từ các khu vực bộ tộc. Trong 4 ngày qua, các chiến binh đã bắt cóc 60 người từ thủ phủ Peshawar của tỉnh này, nhiều kỷ lục. Hầu hết nạn nhân là các sĩ quan quân đội đã nghỉ hưu, thành viên hoặc người thân của đảng dân tộc Awami (ANP) đang cầm quyền ở tỉnh này. Taliban đã giết hại nhiều người liên quan tới ANP hoặc những người có người thân làm trong lực lượng an ninh. Trong khi đó, các đoàn xe hậu cần của NATO đi qua Pakistan tới Afghanistan gần đây liên tục bị tấn công. Gần đây nhất, các chiến binh đã phá hủy 40 container tại các trạm được cho là an toàn ở giữa thành phố Peshawar. Trong bối cảnh hỗn loạn này, LET có thể ra lệnh cho hàng nghìn chiến binh của chúng, gần như là một lực lượng bán quân sự, đi theo đường lối của các chiến binh chống nhà nước và thân al-Qaeda. Điều đã ngăn cản LET, nhóm chống Ấn Độ, chưa làm việc đó là sự trung thành của chúng với Pakistan và sự hậu thuẫn mà chúng nhận được từ Pakistan. Nếu nhà chức trách Pakistan bắt đầu quay mặt với LET, tức là hành động chứ không chỉ nói suông như hiện nay, rối loạn sẽ bao trùm Pakistan. Tương tự, nếu nhà chức trách Pakistan gây áp lực với ISI, các sĩ quan theo đường lối cứng rắn trong ISI cũng như trong quân đội có thể sẽ có phản ứng gay gắt. Cho tới nay, nhà chức trách Pakistan vẫn chưa đưa ra bất kỳ kế hoạch nào của họ. Nếu họ chống lại yêu cầu của ông Mullen và bà Rice, chắc chắn rằng các lực lượng vũ trang Pakistan sẽ rút khỏi thung lũng Swat và Bajaur Agency, để khu vực đó cho các chiến binh do Taliban đứng đầu làm bàn đạp để mở các cuộc tấn công vào Afghanistan. Các chiến binh cũng sẽ mở các cuộc tấn công hơn nữa vào Ấn Độ, gây ra những hậu quả thảm khốc cho toàn Nam Á. Tuy vậy, biện pháp trấn áp LET hoàn toàn không hấp dẫn và có thể gây thảm họa không kém cho Pakistan. Minh Sơn (tổng hợp từ ATO)
-
Khắc tên 16 nghìn tiến sỹ - xin can, xin can! 12/10/2008 11:37 (GMT + 7) Nguồn: Tuanvietnamnet Tôi tin rằng, những nhà khoa học thật sự của Việt Nam không ai muốn nằm cạnh những tiến sỹ “ngoại giao” hay “mua bán”. Họ thà làm viên sỏi lát đường cho người nghèo đi cắt lúa hơn là có tên trên bia đá để phủ bụi thời gian. Một đêm thức dậy, "đường đời mở rộng" Người viết bài này có bằng PTS ở Đông Âu, đề tài về tự động hóa văn phòng, dùng máy vi tính thiết kế hệ thống lập lịch tự động. Nếu ai dùng Lotus Notes hay các loại lịch trên internet của Google, Yahoo và so sánh hệ thống tôi xây dựng cách đây 20 năm sẽ nói đó là mớ…giấy lộn. Luận án được đóng gáy vuông, hơn trăm trang, trông rất được. Về nước nộp cho thư viện quốc gia một cuốn. Nhưng hình như nó đã bị mối xông hoặc bán cho hàng rong gói xôi. Vài năm trước đến xin lại, không thấy nữa. Thú thật, tôi nhẹ cả người. Nếu ai không may tìm thấy để tham khảo cũng không sợ vì “biết mình là ai?”. Nhưng tôi biết chắc “tôi tên là gì”. Bạn đọc biết tôi sợ nhất cái gì không? Sợ đọc luận án PTS của chính bản thân (!). Tôi tin rằng, những nhà khoa học thật sự của Việt Nam không ai muốn nằm cạnh những tiến sỹ “ngoại giao” hay “mua bán”. Ảnh: blogdulich Bằng đỏ được gói trong giấy bóng, cất trong két sắt. Thỉnh thoảng lôi ra ngắm hay mang về cho mẹ già ở quê khoe làng xóm. Cậu sinh viên nhà bên cạnh nhìn thấy vài lần, thản nhiên hỏi: “Chú mua hết bao nhiêu?”. Tôi không mua bằng. Vì mối quan hệ ngoại giao giữa nước ta và bạn nên Hội đồng khoa học hàn lâm “thương” người Việt Nam đánh Mỹ, cần nhiều tiến sỹ về xây dựng đất nước. Tôi biết rõ các viện sỹ bạn đã ưu ái bỏ phiếu “đồng ý”, giúp tôi nên danh giá và họ hàng được tiếng thơm. Cái bằng PTS “ngoại giao” ấy cũng giúp được nhiều việc. Đến hội nghị được giới thiệu “đây là PTS toán lý X”, rất oách! Rồi một đêm thức dậy, tôi…thành Tiến sỹ vì quốc gia quyết định “không còn học vị PTS”. Đường đời càng mở rộng. Nhưng thật không may, cái bằng ấy giúp chút danh tiếng nhưng không có miếng. Trình độ có hạn nên đành đổi nghề, đi dạy học kiếm tiền. Thấy tổ chức nước ngoài thi tuyển, tôi đánh liều gửi đơn. Họ nhận vì may mắn trong CV đã không đề Ph.D. Nếu không bị liệt vào loại “over qualified - trình độ quá cao”. Làm việc một thời gian, nhiều người biết tôi có bằng cấp nên thi nhau gọi đùa “Dr. X” dù tôi chỉ là anh chàng quản trị mạng máy tính. Tôi đã “lạy như tế sao”, xin họ bỏ chữ Dr. Người ta xứng đáng là tiến sỹ nếu làm trong lĩnh vực đó nhiều năm, có kết quả nghiên cứu được thừa nhận, các trường mời giảng dạy, ứng dụng rộng rãi trong thực tế hoặc ít nhất có các bài báo đăng ở các tạp chí nổi tiếng. Còn tôi, cái bằng kia đã vứt xó. Bao nhiêu năm nay không có bài báo nào, sống bằng quá khứ “nhầm lẫn” của hội đồng khoa học nước bạn trời Âu. Xin can, xin can... Mấy hôm nay nghe chuyện nước ta dự định thành lập Trung tâm bảo tồn di sản tiến sĩ Việt Nam thời hiện đại. Họ định dành mười mấy hecta cho “Văn Miếu” khác, ghi danh các tiến sĩ thời nay, có cả rùa đội bia đá khắc tên các nhà khoa học. Tôi thấy run. Đàng hoàng là tiến sỹ, tên mình có thể được xét. Bà mẹ già 88 tuổi nghe tin này, sợ cụ không qua khỏi…vì mừng. Vì thế, tôi “cắn cơm cắn cỏ”, lạy các chư vị đừng cho tôi lên lưng rùa vì muốn mẹ tôi sống trăm tuổi. "Nếu lịch sử nhầm lẫn trên "bia đá" dễ trở thành “bia miệng” cho đời sau"Ảnh: vn.wz.cz Để đưa đất nước đi lên như ngày hôm nay, chúng ta có rất nhiều nhà khoa học thực sự giỏi, đóng góp rất lớn cho phát triển, xóa nghèo và bảo vệ đất nước. Họ xứng đáng có bia đá như các vị trạng nguyên thuở trước. Những tên tuổi lớn như Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng, Trần Đại Nghĩa, Lương Định Của hay vài chục người khác nên được khắc ngay vào văn bia Quốc Tử Giám. Nhưng khắc tên 16 nghìn tiến sỹ thì thật khủng khiếp. Tôi lo thần Kim Qui mang trên vai cả tài sản trí tuệ …rởm. Sự dối trá, nhất là dối trá trong khoa học, sẽ nặng như Ngũ Hành Sơn. Mai của các cụ rùa sẽ gẫy, bia sẽ đổ. Thế hệ tương lai mất công khuân đá để…làm đường. Những năm cuối 1980, tôi còn nhớ phong trào làm hồ sơ phong giáo sư. Có người ra sức tìm các bài báo đăng đâu đó, rồi những bài đứng chung tên được chia chác. Chủ trì đề tài quốc gia được thêm vài điểm dù ông ta chỉ lĩnh tiền “chủ trì nhưng không làm gì”. Họp tổng kết, ông thường ngồi trên bàn đầu, nơi ống kính TV dễ bắt nhất. Tôi cứ tưởng tượng lúc xét lên bia đá trong Văn Miếu mới sẽ diễn vở kịch tương tự. Dám chắc, ông ta lại đòi ra mặt tiền của dãy bia. 16 nghìn tiến sỹ với 16 ngàn bia và rùa, kể cả công nổ mìn, đục, đẽo, khắc trên đá chắc đủ làm một con đường 16 km cho một vùng quê nghèo Hà Tĩnh hay Hà Nội mở rộng. Gọi đó là “Đường Tiến sỹ Việt Nam” sẽ được người đời nhớ lâu. Tôi tin rằng, những nhà khoa học thật sự của Việt nam không ai muốn nằm cạnh những tiến sỹ “ngoại giao” hay “mua bán”. Họ thà làm viên sỏi lát đường cho người nghèo đi cắt lúa hơn là có tên trên bia đá để phủ bụi thời gian. Vốn ghét sân golf, vì nước mình còn nghèo, nên tôi xin chuyển mục đích sử dụng mười mấy hecta đất cho thể thao “lỗ” thay vì dùng cho “Văn Miếu” đương đại. Hoặc kinh phí ấy dùng cho thi hoa hậu cũng thú vị, dù tôi không thích trình diễn áo tắm. Hoa hậu “rởm” về học lực nhưng chân dài và các vòng 1-2-3 của các nàng lại rất “thật”. Về khoa học, công trình “rởm” biến thành tai họa “thật” cho người nghèo. Lịch sử nhầm lẫn trên "bia đá" dễ trở thành “bia miệng” cho đời sau. Nhà văn hóa Nguyên Ngọc đã “xin can” trên báo Tia sáng (03/10/2008), trí thức Việt kiều Trần Hữu Dũng cũng viết đùa “Xin can, xin can” khi biết tin này. Biết không thể khuyên người khác, tôi chỉ biết tự can…mình. Hoa Lư Lời bàn của Sư Thiến:Phải công nhận ở Việt Nam có nhiều ý tưởng sáng tạo vượt xa các nước tiên tiến. Có thể nói rằng chưa một nước nào trên thế giới nghĩ ra được ý tưởng hoàng tráng này. Tất nhiên để vinh danh trí thức dù thật hay giả thì cũng là trí thức. Việc làm có ý nghĩa này sẽ kích thích sự học hành mà bao năm nay báo chí la lối. Hay! Rất hay! Tôi đề nghị bổ sung cho dự án này là bia tiến sĩ phải làm bằng đá hoa cương nguyên khối nhập khẩu từ Ý Đại lợi cho nó oách. Trên mỗi đầu cụ rủa phải gắn thêm một bức tượng đá hoa cương của chính vị tiến sĩ đó. Trên bia đá cần giới thiệu nội dung luận án tiến sĩ, chữ phải mạ vàng... Tôi tin rằng với ý tưởng vinh danh trí thức như thế thì thế hệ sau sẽ phục lăn và sẽ học như ve để được ghi tên vào đấy. Nhà nhà tiến sĩ, người người tiến sĩ, chẳng mấy chốc nền khoa học kỹ thuật sẽ phát triển. Thế giới sẽ phục lăn. Chỉ nội nhìn khu kỷ niệm tiến sĩ cũng đủ xanh mặt. Kinh quá!
-
Nếu Nhật tiếp tục tài trợ, ODA có thể vượt 6 tỷ USD Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (CG) bế mạc chiều nay với số vốn cam kết 5,014 tỷ USD, thấp hơn năm ngoái gần 400 triệu USD. Đúng như tuyên bố hôm qua, phía Nhật Bản không dành vốn ODA cho Việt Nam năm 2009. > Thủ tướng: 'Việt Nam luôn trân trọng từng đồng vốn ODA' Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: "Việt Nam trân trọng từng đồng vốn ODA". Ảnh: Ngọc Châu. Đại sứ Nhật Bản đã rời hội nghị CG ngay từ sáng nay mà không chờ tới lúc bế mạc như thông lệ, sau khi đã đưa ra tuyên bố gây sốc tạm ngừng mọi dự án ODA mới có lãi suất ưu đãi cho Việt Nam tới khi có kết luận cuối cùng về nghi án hối lộ của Công ty Tư vấn quốc tế Thái Bình Dương (PCI). Tại buổi họp báo bế mạc hội nghị chiều nay, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc cho biết Việt Nam lấy làm tiếc vì Nhật Bản tuyên bố ngừng các dự án ODA mới ở Việt Nam. Theo ông, nếu không có sự cố này, cam kết ODA dành cho Việt Nam có thể vượt 6 tỷ USD. "Việt Nam cảm ơn Đại sứ Nhật Bản đã có tuyên bố về vấn đề này. Hiện nay, Nhật Bản vẫn là đối tác lớn của Việt Nam. Việt Nam hy vọng Ủy ban hỗn hợp của hai bên sẽ hợp tác chặt chẽ để giải quyết những vấn đề đang cản trở ODA cho Việt Nam. Hy vọng Ủy ban sẽ làm việc sớm có kết quả để tôi và ngài Đại sứ có thể sớm ký công hàm về ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam vào đầu năm 2009", ông Phúc nhấn mạnh. Ông Phúc cho biết thêm Việt Nam cam kết hành động để công cuộc chống tham nhũng thành công, nếu không, sẽ ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế cũng như công bằng xã hội. Ngoài sự cố Nhật Bản tạm ngưng cấp vốn vay ưu đãi, lượng ODA mà các nhà tài trợ khác cam kết cho Việt Nam năm 2009 không quá bi quan khi xét tới điều kiện kinh tế thế giới đang suy thoái như hiện nay. Phần lớn các đối tác đều tăng mức cam kết. Trong tổng vốn 5,014 tỷ USD, Ngân hàng Thế giới (WB) cam kết lớn nhất với 1,66 tỷ USD. ADB cam kết 1,566 tỷ USD, tăng hơn 200 triệu USD. Riêng EU giảm cam kết gần 70 triệu USD xuống còn 893,4 triệu USD. Ngọc Châu
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Mới đọc toàn bộ bài viết trên chúng ta thấy tác giả có vẻ rất ca ngợi sự huyền vĩ của thời Hùng Vương. Nhưng nếu chúng ta loại bỏ những câu chữ ca ngợi chung chung và những đoạn có tính tư liệu trong bài viết thì tính chất phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt chính ở đoạn sau đây: Chính vì những giới hạn địa lý nói trên trong cổ sử dân tộc Việt là cơ sở lý luận cho quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa truyền thống. Lịch sử và truyền thống ghi nhận mà tôi nghĩ rằng - tất cả những người Việt đứng tuổi hiện nay đều biết rất rõ là: Nước Văn Lang: Bắc Giáp Động Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba thục, Đông giáp Đông Hải. Việc giới hạn địa lý vùng đồng bằng Bắc bộ và Bắc Trung bộ đã phủ nhận giá trị truyền thống văn hóa sử và những tư liệu liên quan. Nếu cho rằng: Căn cứ vào biên giới nước Việt như hiên nay và không bàn tới lịch sử ngoài biên giới thì không phải là căn cứ phủ nhận giá trị văn hóa truyền thống. Và điều này không phù hợp với tiêu chí lịch sử của một dân tộc là: Lịch sử của một dân tộc được xác định khi dân tộc đó lập quốc. Do đó khi ông Lê Văn Hảo xác định giới hạn địa lý cho cổ sử dân tộc Việt "Cư dân nước Văn Lang sống tập trung trên những đồng bằng ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ" thì mặc nhiên mọi vấn đề phải xem xét lại. Sự chủ quan và tính bất hợp lý của bài viết này chính từ giới hạn địa lý cho cổ sử dân tộc không có cơ sở.
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Đây là bài thứ ba theo thuận tự sưu tầm được về những bài viết có luận điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt. Thiên Sứ tôi đưa lên đây toàn văn bài viết để quí vị quan tâm tham khảo trước khi phản biện. Để bảo đảm tính công bằng và dân chủ, tôi sẽ phản biện theo thuận tự không phân biệt bằng cấp và chức vụ học thuật. Bài của ai sưu tầm trước sẽ phản biện trước, ai sau sẽ phản biện sau. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị. * Thiên nhiên nước ta ở buổi đầu của dân tộc Lê Văn Hảo Trích Hành trình về thời đại Hùng Vương dựng nước Tổ tiên ta đã khéo chọn cho mình một miền đất độc đáo ở vào vị trí tiếp xúc của nhiều hệ thống địa lý: nước Văn Lang nằm trong vòng đai nhiệt đới mà lại không đơn thuần là một nước nhiệt đới. Từ ngàn xưa, gió mùa đã ảnh hưởng sâu sắc đến thiên nhiên nước ta, một thiên nhiên muôn màu muôn vẻ với nhiều rừng rậm núi cao, sông dài biển rộng, với vùng cao, vùng trung du và miền đồng bằng. Ngày nay rừng rậm đã lùi dần lên vùng cao về phía tây, sau một quá trình đấu tranh dài hàng nghìn năm giữa con người với thiên nhiên, nhưng ở thời đại dựng nước, rừng còn lan khắp vùng trung du và cả một phần lớn đồng bằng. Nhiều vùng gò đồi trọc hiện nay xưa kia đã phủ rừng dày đặc. Ngay tại đồng bằng còn giữ được nhiều di tích của rừng: mỏ than bùn thấy ở nhiều nơi như Thạch Thất (Hà Tây), Lỗ Khê (ngoại thành Hà Nội); rừng gỗ tứ thiết ở Sặt (Tráng Liệt, Bắc Giang), rừng Báng (Đình Bảng, Bắc Ninh), đồi Lim, làng Lim, phà Rừng... Trong các di tích khảo cổ ở đồng bằng, đã tìm thấy xương cốt nhiều loại thú rừng. Cư dân nước Văn Lang sống tập trung trên những đồng bằng ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ; quá trình kiến tạo đồng bằng chưa hoàn thành thì bàn tay con người đã sớm dựng lên những công trình thủy lợi để khai thác trồng trọt trong những điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu thích hợp với nghề trồng lúa nước. Chiến thắng của Sơn Tinh chính là chiến thắng lũ lụt của những người Việt cổ trị thủy tài giỏi, đã gây dựng nên những cánh đồng màu mỡ ven những dòng sông lớn. Nhìn chung, mọi người đều nhất trí là tổ tiên ta đã dựng nước trong một khung cảnh thiên nhiên thích hợp, thuận lợi, trên một dải đất nhiều núi rừng, nhiều sông ngòi, hồ ao, đường giao thông thuận tiện, giàu khoáng sản, lâm sản, hải sản, trên những đồng bằng màu mỡ thích hợp với nghề nông. Những yếu tố thiên nhiên tích cực này đã góp phần đẩy mạnh quá trình tiến bộ kinh tế và văn hoá, đưa đến việc dựng nước Văn Lang, một nước có đủ sức chống ngoại xâm, có nền văn minh nông nghiệp phát triển rực rỡ ở vùng Đông Nam Á cổ đại. Thế giới thực vật thời đại dựng nước Nghề trồng trọt đã giữ một địa vị quan trọng trong đời sống kinh tế của cư dân Việt cổ từ buổi đầu dựng nước. Di tích thực vật thu thập được từ các địa điểm khảo cổ tuy chưa được nhiều lắm như cũng đủ cho thấy sự phát triển của nghề trồng trọt. Con người thời đó đã quen với những loại cây dương xỉ, tùng bách... Trên nương rẫy, vườn ruộng của họ đã có mặt những loại cây thiết thân với các cư dân nông nghiệp cổ đại. Đó là những cây na, cây trám, cây đậu, cây dâu tằm, cây bầu, cây bí, cây cải cúc, cây tre, và nhất là cây lúa. Ở di chỉ Đồng ĐẬu, đã tìm thấy những hạt thóc đã cháy thành than cách đây trên dưới 3300 năm. Ở di chỉ Gò Mun đã phát hiện được cả một hầm chứa ngũ cốc. Ở di chỉ Gò Chiền, dấu vết của những vỏ trấu, than trấu còn thấy khá rõ. Đặc biệt ở di chỉ Hoàng Ngô còn tìm thấy một hạt đậu nguyên vẹn. Người Việt cổ còn biết trồng khoai, trồng bông, trồng dưa, trồng trầu và cau. Các sách cổ của Trung Quốc như Nam Phương thảo mộc trạng, Giao châu ký, Tam đô phủ, Thủy kinh chú, Tề dân yếu thuật, Ngô lục địa lý chí... đều có ghi chép về việc người Lạc Việt biết trồng khoai, đậu, dưa, bông, trồng dâu nuôi tằm, mặc dù sách ghi chép những sự việc trong thời Bắc thuộc nhưng chắc chắn những loại cây trồng này đã có từ trước. Truyền thuyết của nhân dân ta về thời đại Hùng Vương có nói đến một vài loại cây trồng như cây lúa trong truyện Bánh chưng bánh giầy, cây cau trong truyện Trầu cau, cây dưa dấu trong truyện An Tiêm. Hình ảnh sống động của cây lúa còn thấy ở nhiều truyền thuyết, cổ tích của các dân tộc anh em như truyện Nàng tiên trứng của đồng bào Tày, truyện Khả Sắc Sia của đồng bào Thái, truyện Nam A-lách của đồng bào Gia-rai, truyện Đum Đú với nàng tiên của đồng bào Ê-đê, truyện Cô gái thứ mười của đồng bào Hơ-rê, truyện Phu-man của đồng bào Ba-na... Nông nghiệp thời đại Hùng Vương là nông nghiệp trồng lúa trong đó việc trồng lúa nước chiếm vị trí chủ đạo. Nghề trồng lúa xuất hiện ở nước ta khá sớm và có thể coi đó là một truyền thống của dân tộc ta. Cho đến nay nguồn gốc cây lúa còn là một vấn đề đang được tranh luận sôi nổi trên thế giới. Ý kiến của các nhà nghiên cứu rất khác nhau, trong đó có một số người cho cây lúa có nguồn gốc từ Việt Nam, ví dụ như Cô-xven (Liên Xô) trong tác phẩm Sơ yếu lịch sử văn hoá nguyên thủy hay như Tùng Vinh Hiếu Linh (Trung Quốc) trong công trình Nghiên cứu tổng hợp về cây lúa. Các sách cổ của Trung Quốc và của ta đã nói đến nhiều giống lúa có ở Việt Nam. Đặc biệt là nhà bác học Lê Quý Đôn ở thế kỷ 18, trong bộ bách khoa toàn thư Vân đài loại ngữ đã kê ra hơn 100 giống lúa tẻ và lúa nếp, đồng thời ông đã mô tả một cách tương đối chi tiết đặc tính của các giống lúa, những kinh nghiệm gieo trồng và năng suất. Không phải ngẫu nhiên mà có thể kể ra một số lượng phong phú các giống lúa và đặc tính của giống lúa như thế. Bởi vậy, rất có khả năng là từ thời Hùng Vương đã có một số giống lúa khác nhau. Điều này đã được phản ánh trong phong tục tập quán cổ ở vùng đất Tổ: Tại Đền Hùng, hàng năm vào ngày hội đều có giữ tục cúng các vua Hùng bằng xôi nhiều màu: xôi trắng, xôi nhuộm đỏ, xôi nhuộm tím có ý nghĩa tượng trưng cho nhiều giống lúa khác nhau đã trồng được ở thời đấy, đánh dấu những tiến bộ vượt bực của nền nông nghiệp Việt cổ. Sách cổ của ta đều thống nhất ghi lại sự kiện trồng lúa hai vụ từ xưa ở nước ta: "Lúa ở Giao Chỉ chín hai mùa". Dựa vào địa bàn phân bố của những nơi cư trú thời Hùng Vương, có thể nói cư dân thời này trồng lúa chủ yếu trên 3 loại ruộng: ruộng phù sa ven sông, ruộng trũng quanh các đầm hồ, ruộng rộc trên các gò đồi miền trung du. Kinh tế nông nghiệp đã trở thành một truyền thống của dân tộc ta. Chính truyền thống ấy đã ảnh hưởng và chi phối mọi hình thái ý thức, và ngay cả tâm tư tình cảm của dân tộc ta và đã là cơ sở cho sự phát triển của nông nghiệp sau này. Để trở thành những người nông dân trồng lúa giỏi, tổ tiên ta đã phải khai sơn phá thạch, đấu tranh gian khổ với cái thiên nhiên vừa thuận lợi vừa khắc nghiệt đã được hình tượng hoá trong câu chuyện Sơn Tinh-Thuỷ Tinh. Trong cuộc đấu tranh đó, phần thắng đã về phía tổ tiên ta. Thế giới động vật thời đại dựng nước Trong các di chỉ khảo cổ thuộc thời đại dựng nước, chúng ta đã tìm thấy di tích của vài loại động vật không xương sống như cua đồng, ốc vặn, và của hàng chục loài động vật có xương sống từ những con cá chép, cá quả, rùa vàng, ba ba, những con gia súc bạn thân của người như gà, lợn, chó, trâu, bò, đến những thú rừng như: hươu, hươu sao, nai, hoẵng, khỉ, tê giác, voi, hổ, lợn rừng, nhím, cầy hương, rái cá... và nhiều loại chim (1) Trên trống đồng và đồ đồng Đông Sơn chúng ta còn thấy hình ảnh của cóc, ếch, nhái, thằn lằn, cá sấu, cá nhám, cáo, sóc, hươu, bò u, voi, chó săn... Trong giới động vật phong phú của thời đại dựng nước nổi bật lên các loài chim mà hình ảnh đã trở nên rất phổ biến trên các trống đồng, thạp đồng, những văn vật tiêu biểu cho văn minh thời đại. Ví dụ như: Trên mặt và thân trống Ngọc Lũ có đến 50 hình chim. "Trống Hoàng Hạ (Phú Xuyên, Hà Tây) 34" "Trống Sông Đà (Khai Hóa, Hòa Bình) 24" "Trống Miếu Môn (Mĩ Đức, Hà Tây) 32" "Trống Vũ Bị (Bình Lục, Hà Nam) 22" "Trống Pha Long (Mười Khương, Lào Cai) 19" "Trống Duy Tiên (Hà Nam) 18" v.v... Những con số trên đây nói lên sự quen thuộc của các loài chim đối với thế giới quan của người Việt cổ. Hình ảnh của chim trong thiên nhiên đã được nhào nặn qua tư duy mỹ thuật và trí tưởng tượng của ngưởi xưa và được thể hiện với những nét cách điệu cao. Từ những hình nét cách điệu đó chúng ta vẫn có thể tìm lại được bóng dáng hiện thực của các loài chim. Dạng phổ biến nhất là những con chim bay có mỏ dài, nhọn, chân dài, cổ thanh và nhỏ, đầu có mào, lông xuôi về phía sau. Đây là những con chim thuộc loài cò, vạc, diệc... Trên trống đồng, chúng ta còn gặp một dạng chim giống như loài cò thìa, đang đứng tư lự, chân cao, đôi cánh khép lại, chiếc mỏ dài mềm mại hơi cong xuống phía dưới và bè ra ở phần cuối mỏ thành một hình thoi. Loài cò thìa này ngày nay vẫn thấy ở một số vùng đồng bằng và trung du miền Bắc nước ta. Một dạng chim khác cũng thường được trang trí trên trống đồng là loài bồ nông mỏ rất to, chân ngắn, đang trong tư thế bắt một con cá từ dưới nước lên. Những con chim bơi theo thuyền trên thạp Đào Thịnh là loài xít, mỏ tù, thân tròn, trên thân có điểm các chấm nhỏ, khi bơi chỉ thấy phần đầu và thân nổi lên mặt nước, loài này hiện nay vẫn thường sống ở những vùng đồng lầy và cửa sông. Trên mái nhà sàn ở trống Ngọc Lũ và Hoàng Hạ thấy khắc những con gà lôi mỏ ngắn, mào nhỏ, chân ngắn, trên thân có những vạch nhỏ, ngắn; những con gà lôi lớn thì có bộ lông đuôi to và dài, đó là những con trống, còn con nhỏ trong mỗi đôi là con mái. Riêng trên mái nhà kho (nhà cầu mùa) ở trống Hoàng Hạ lại có một đôi gà: một trống một mái đang quay đầu vào nhau. Trên trống Ngọc Lũ có một dạng chim khá đặc biệt đó là loài công, mỏ tù, dạng mỏ của loài ăn hạt, trên đầu có hai mào, lông khá lớn dựng đứng, đuôi dài, chân cao. Công là một loài chim quý có khắp nơi ở nước ta trước đây. Đền vua Thục An Dương Vương ở Diễn Châu (Nghệ An) được xây dựng cạnh một khu rừng có nhiều công gọi là rừng Cuông (tiếng địa phương đọc trại công thành cuông) và đền vua Thục quen được gọi là đền Cuông. Trên trống Ngọc Lũ còn có hình đôi chim công lớn nhỏ đang cõng nhau. Trên một cán dao găm đồng tìm thấy ở di chỉ Đông Sơn có hình một con chim gõ kiến có mỏ to, chân đang bám chắc vào thân cây ở tư thế đặc biệt của những loài chim thuộc họ gõ kiến. Trong những hình thú vật thể hiện trên trống đồng và đồ đồng, phổ biến hơn cả là hình hươu. Những đặc điểm của loài hươu được thể hiện khá đầy đủ ở những con đi đầu đàn trên mặt trống đồng với cặp sừng mỗi bên 4 nhánh và những đốm nhỏ rải rác trên thân. Đó là những con hươu sao đực. Trong đàn hươu đang thong thả nhịp bước, người nghệ sĩ Việt cổ đã cố ý sắp thanh từng cặp: một đực một cái, và hươu cái cũng có cặp sừng như hươu đực. Như chúng ta đã biết, trong họ hươu chỉ có những con đực mới có sừng, những con cái không có, phải chăng nghệ sĩ xưa đã cho mỗi con hươu cái thêm một cặp sừng để làm tăng thêm vẻ đẹp trang trí của tác phẩm? Thêm các trống đồng Đồi Ro, Làng Vạc có hình những con bò nhà thuộc loại bò u (hay bò Ấn Độ) với thân hình cân đối, cặp sừng cong vút khỏe, cổ có yếm mỏng, trên lưng có một bướu nhô lên ở phần vai khá rõ. Loài bò u này có mặt ở Việt Nam từ 2000 đến 3000 năm trước đây. Trên trống đồng và đồ đồng Đông Sơn có khắc nhiều dạng chó ở những tư thế và trạng thái khác nhau: đó là loài chó nhà, con thì đang đuổi theo con mồi (chó săn hươu, nai...), con thì đang cùng người vượt qua muôn trùng sóng gió trên những con thuyền lớn (như trên trống Ngọc Lũ). Trên nắp thạp Vạn Thắng (Chí Linh, Hải Dương), trên lưỡi đồng Sơn Tây, ta thấy hình hổ và báo trong tư thế đang vồ mồi. Ở một lưỡi qua đồng khác, dễ dàng nhận ra hình dáng một con voi với thân hình to khỏe, đặc biệt là chiếc vòi dài thả xuống phía dưới, đầu vòi cuộn tròn lại. Ở một lưỡi giáo đồng Đông Sơn có khắc hình hai con cáo đối xứng nhau, mõm dài, tai to, đuôi dài và cuộn tròn lại, toàn thân và 4 chân đều có vẻ hình rất linh hoạt. Trên thạp đồng Đào Thịnh có hai con cá sấu đang giao nhau. Những kiến thức đầu tiên về thế giới tự nhiên của người Việt cổ Nhìn ngắm những hình thú, hình chim khác nhau khắc trên đồ đồng Đông Sơn, chúng ta hẳn phải ngạc nhiên trước tài mô tả hiện thực của người xưa. Ví dụ, chim luôn luôn được thể hiện với nhiều hình dạng và tư thế khác nhau. Những con chim đang nối nhau lượn vòng trên mặt trống, trên thân thạp gợi cho ta cảm giác về đàn cò trắng đang thẳng cánh bay về những phương trời xa thẳm. Trên hình thuyền trang trí ở thạp Đào Thịnh có cả một bầy chim đang bay lượn: con đang lao vút từ mặt nước lên, con đang vùn vụt bay về phía trước, con đang đập cánh chơi vơi trên không, con đang từ từ đỗ nhẹ nhàng xuống khoang thuyền... chỉ trong một khoảng không gian nhỏ bé giới hạn trong một khoang thuyền mà chúng ta đã chứng kiến một cách đầy đủ những dáng bay cơ bản của loài chim. Những dạng chim đậu cũng được thể hiện công phu: con đang co ro chăm chú rình mồi dưới nước, con đậu trên nóc nhà, có chỗ thành từng đôi chụm đầu vào nhau như đôi bạn tri kỷ, con đậu trước mũi thuyền đang bập bềnh trên sóng nước. Chim còn được thể hiện linh hoạt trong lúc đang bắt mồi hay đang ghép đôi (2). Chim được thể hiện ở nhiều nơi, nhiều chỗ trên bầu trời, trên mặt nước, chim sà vào đậu trên nóc nhà, đậu xuống khoang thuyền hay bay lượn bên người đang giã gạo, đánh chiêng... Chim và người, người và chim, cùng với nhiều sinh vật quen thuộc khác: chó, hươu, bò, voi, cóc, ếch nhái... nói lên cuộc sống gần gũi, hài hoà, gắn bó với thiên nhiên của tổ tiên ta. Hiểu biết được tự nhiên chính là nguồn sức mạnh to lớn khiến con người có thể chinh phục và tiến tới làm chủ tự nhiên. Người Việt cổ đã ghi lại sự hiểu biết về tự nhiên của mình một cách cụ thể sinh động và sự khái quát hoá nhận thức của mình bằng những hình tượng nghệ thuật tài tình. Tác phẩm nghệ thuật của người xưa giúp chúng ta sống lại với thiên nhiên từ buổi đầu dựng nước, một thiên nhiên giàu có và tươi đẹp trong đó thiên nhiên với con người, con người với thiên nhiên chan hoà làm một. Những kiến thức phong phú của tổ tiên ta về thiên nhiên, về giới thực vật và động vật là một phần trong toàn bộ kho tàng nhận thức về tự nhiên mà tổ tiên đã có được và đã tạo nên sức mạnh vĩ đại khiến người xưa viết nên những trang sử văn minh rực rỡ đầu tiên mà ngày nay chúng ta còn thắm thiết tự hào. ----------------------------- (1) Vũ Thế Long và Trịnh Cao Tưởng, Tìm hiểu những di tích động vật và thực vật thuộc thời kỳ Hùng Vương, trong Hùng Vương dựng nước tập IV. tr. 169-71. (2) Vũ Thế Long , Hình và tượng động vật trên trống và các đồ đồng Đông Sơn, tạp chí Khảo cổ học, số 14 (1974) tr. 9-17.
-
Mylam thân mến! Đúng hẹn,Tôi đã ra Hà nội và trao quà của Mylam cho Phạm Cương vào đúng trưa thứ ba. Dưới đây là Hình ảnh Phạm Cương rât khoái món Sôcla từ hà lan.
-
Hi. Trước hết Thiên Sứ tôi xin merci Thần Rét mướt. Hôm nay 5 - 12 - 2008 Haloi hoàn toàn không rét tý nào. Mặc một áo len thì vừa, khoác thêm áo ves thì nóng. Trời vẫn nắng đẹp, trưa hơi nóng mí chết chứ lị. Hi. Vốn là Thần Rét với Sư Thiến tôi ngày xưa là bợm nhậu mí nhau - í wen - bạn nhậu mí nhau. Bởi vậy nên cũng zdu zdi tí tẹo. Ngày mai, nhờ Thần Rét cho buổi sáng lạnh hơn một tý để quan chức mặc veste cho thêm phần nghiêm trong. Nhưng trời phải nắng đẹp để còn quay phim chụp ảnh. Tối cũng chỉ hơi se se thui vì còn offline. Cái này là theo cuộc họp trù bị văn phòng Hanoi 2 - 12 - 2008, Trưởng đại diện Phạm Cương có đề nghị thời tiết như vậy. Merci thần Rét nha. Khi nào Sư Thiến tui về Sài Gòn thì Thần Rét hãy rét nha. Quên áo lạnh. Dở wá :( Từ trái qua phải : Phạm Cương, Thiên Sứ, Linh Trang, Random, Phạm thái Hòa, nnCuong, Hà mạnh Hùng
-
Có ba điều cần làm liên quan đến Phong Thủy để sinh con dễ dàng (Trừ trường hợp bị mổ cắt các bộ phận liên quan). 1 - Kích cung Sinh khí theo Bát trạch. 2 - Vượng khí hướng có sao Thiên Y tinh. 3 - Vương khí bếp. Chúc vạn sự an lành.