-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Đây là bài viết thứ 5 trong topic "Sưu tầm luận điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống" của tác giả Trần Quốc Vượng.Theo thông lệ, Thiên Sứ tôi cũng chép lại nguyên văn vào topic này để quí vị tiện tham khảo trước khi phản biện, nhằm tiện lợi cho quý vị và tính khách quan khi trích dẫn. Xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm. Bánh Chưng Bánh Dầy...GS Trần Quốc Vượng http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...vuong/t656.html Ở một vài đô thị Việt Nam hiện đại, như thủ đô Hà Nội, người ta đã làm và bán bánh chưng, bánh dầy hằng ngày, như một thứ hàng quà, để phục vụ cho thị hiếu thích ăn quà của người dân đô thị. Quà là để ăn chơi, tất nhiên cũng có thể "ăn no quà", nhưng về bản thể luận, quà là món ăn chơi, ăn qua loa thôi, chứ không phải là thứ lương thực thực phẩm chủ yếu, hằng ngày... Trong phong tục học và tâm (lý) học, người ta thường phân biệt hai cặp phạm trù: Cái thiêng liêng/cái thông thường (hay cái thiêng và cái tục). Cái nghi lễ/cái hằng ngày. Giữa hai phạm trù này, có một phép biện chứng chuyển hóa lẫn nhau. Ví như xôi, vốn là lương thực hằng ngày của người Việt cổ thời đại Đông Sơn - Âu Lạc trở về trước (trong nhiều di chỉ Phùng Nguyên - Bàu Tró đã tìm thấy chõ đồ xôi bằng đất nung) cũng như của các cư dân Thái-Mường miền thung lũng trước Cách mạng Tháng Tám Với xu hướng "tẻ hóa" của nhà nông trồng lúa nước (do áp lực dân số và nhu cầu tăng năng suất lúa), dần dà người Việt thời Lý, Trần và người Thái người Mường hôm nay hằng ngày đều dùng cơm tẻ. Người ta dành chỗ xôi cho những ngày giỗ chạp, tết nhất, cưới xin, ma chay... nghĩa là chuyển hóa xôi thành món ăn nghi lễ. Bánh chưng bánh dầy ở đô thị thời hiện đại đã thuộc phạm trù cái hằng ngày, hay nói cách khác, đã được giải thiêng. Nhưng ở thời đại Việt cổ truyền, và chừng nào đó, ở nông thôn Việt Nam cho đến Tết xuân này, bánh chưng bánh dầy vẫn thuộc phạm trù nghi lễ. Người ta chỉ làm và dùng nó (dùng để cúng, để ăn, để làm quà biếu tặng nhưng thường không để bán) trong ngày Tết hay trong những ngày lễ hội (nhiều làng đồng bằng Bắc Bộ có tập tục Tết, rằm tháng Giêng cúng và dùng bánh chưng, lễ hội tháng Ba lịch trăng (Mồng 3, mồng 6, mồng 10...) cúng và dùng bánh dầy, chè kho). Ngày trước, bánh dầy, bánh chưng là những lễ vật và món ăn dân tộc. Bây giờ nó vẫn còn là món ăn dân tộc đáng cho ta gìn giữ và trân trọng. Nhưng xin nhận thức lại cho đúng mức hơn: Nó không phải là lễ vật và món ăn độc đáo Việt Nam theo nghĩa chỉ Việt Nam mới có, mới dùng. Bà Á Linh, giảng viên trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội là người Việt gốc Hoa, quê gốc ở Tứ Xuyên, theo chồng Việt Nam sang sinh sống và công tác ở Hà Nội từ mấy chục năm nay, nhân ngày tết cổ truyền năm con Khỉ (1980) đã cho tôi biết là ở Tứ Xuyên quê bà có loại bánh lễ gần giống như "bánh Tét" (bánh chưng gói tròn như cái giò) và được gọi âm Hán Việt đọc là "tông bính" nhưng âm Hán Tứ Xuyên đọc gần như Téung pính. Ông Ohayashi Taryo, giáo sư nhân học văn hóa trường Đại học Tokyo trong bài báo cô đúc "Vị thần lấy trộm giống lúa" (Xem thông báo UNESCO tháng 12-1984, số chuyên đề về "Những nền văn minh lúa gạo") lại cho ta biết món bánh mochi rất phổ biến và quan trọng của bếp ăn Nhật Bản "được làm bằng gạo nếp hạt ngắn đem đồ lên đến khi chín mềm rồi đem giã nóng bằng chầy cho đến khi thành bột dính trong đó không còn phân biệt được hạt nữa... Mochi đóng vai trò quan trọng trong lễ tết, đầu năm mới ? Đó chính là bánh dầy với các loại hình to nhỏ khác nhau, được bày thành hàng trên bàn thờ cúng tổ tiên và sau đó được ăn với thứ cháo đặc biệt gọi là ojoni trong bữa ăn nghi thức sáng mồng một Tết của người Nhật. Cho nên, xin nói lại cho chính xác hơn là bánh chưng - bánh dầy là sản phẩm độc đáo của một vùng văn minh lúa gạo rộng lớn ở Đông á và Đông - Nam Á. Tất nhiên Giáo sư viện sĩ Đào Thế Tuấn cho ta biết là lúa nếp có loại hình đa dạng nhất và điển hình nhất là ở lưu vực sông Hồng. Bởi vậy, nơi đây phong phú các lễ vật và món ăn được chế tạo từ gạo nếp. Dù sao, bánh chưng vẫn là lễ vật và món ăn cổ truyền điển hình nhất của ngày Tết Việt Nam. Tôi xin đưa ra một minh giải văn chương: Bà con cô bác miền nam gọi bánh chưng là bánh tét, chữ bánh tét này là tiếng đọc chạnh kiểu miền nam của bánh tết. Và nhân đây xin thanh toán một "ngộ nhận văn hóa". Thoạt kỳ thủy, bánh chưng không được gói vuông như bây giờ mà gói tròn như bánh Nam Bộ, gọi là đòn bánh tét là hoàn toàn chính xác. Ngay giờ đây, xin các bạn chỉ quá bộ sang Cổ Loa, Đông Anh ngoại thành Hà Nội thôi, vẫn thấy bà con cố đô Cổ Loa gói bánh chưng như đòn bánh tét và vẫn gọi nó là bánh chưng, thảng hoặc mới gói thêm bánh chưng vuông. Thế cho nên, cái triết lý gán bánh chưng vuông tượng Đất, bánh dầy tròn tượng Trời là một "ngộ sự văn hóa". Trời tròn đất vuông là một triết lý Trung Hoa muộn màng được hội nhập vào triết lý Việt Nam. Đó không phải là triết lý dân gian Việt Nam. Nó không phải là Folklore (nguyên nghĩa: trí tuệ dân gian) mà là Fakelore (trí tuệ giả dân gian). Bánh chưng tròn dài tượng Dương vật, như cái chày, cái nõ. Bánh dầy tròn dẹt tựa Âm vật, như cái cối, cái nường. Đó là tín ngưỡng và triết lý nõ-nường-chày-cối-chưng-dầy của dân gian, của tín ngưỡng phồn thực dân gian. Ngay như khi đã gói bánh chưng vuông, dân gian ngày trước vẫn có tục lệ buộc hay ấp hai chiếc bánh một sấp một ngửa đặt trên bàn thờ và khi biếu họ hàng khách khứa ngày trước dân gian cũng giữ tục biếu một cặp bánh chưng (cũng như trước đấy bao giờ dân ta cũng mua một đôi chiếu) chứ không bao giờ tặng một chiếc bánh chưng (cũng như không bao giờ mua một chiếc chiếu). Nhân tiện nói thêm: việc mua hay chặt cây mía cả gốc cả ngọn đặt bên bàn thờ với giải thích hữu thức ngày sau đó là "gậy chống của ông vải" về nguyên ủy cũng thuộc về tín ngưỡng phồn thực. Bánh chưng gói ghém trong nó cả một nền văn minh nông nghiệp lúa gạo. Trong bầu khí văn minh đó, người Việt Nam sống vừa hòa hợp (thích nghi tối đa và tối ưu) vừa đấu tranh (biến đổi) với tự nhiên. Lá dong gói bánh là lá dong riềng lấy sẵn của thiên nhiên. Cái bánh chưng, là sản phẩm của trồng trọt và chăn nuôi Việt Nam: gạo nếp, đỗ xanh, hành, thịt lợn... Cái đặc sắc, độc đáo của bánh chưng không phải chỉ là, thậm chí không phải chủ yếu là ở từng yếu tố họp thành cái bánh mà là ở cơ cấu của bánh, nó tạo nên nét khác biệt trong hình khối, mầu sắc, hương vị của bánh chưng so với các loại xôi đỗ và bánh nếp khác. Với gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn... có thể tạo nên mấy chục loại bánh xôi Việt Nam dùng hằng ngày như quà và trong các dịp cưới xin, giỗ, tết như lễ phẩm. Huyền thoại quy công sáng tạo bánh chưng bánh dầy cho Lang Liêu, một người con thứ của vua Hùng, tổ dựng nước Việt Nam. Cũng như "vua Hùng", "Lang Liêu" là một "anh hùng văn hóa", nó không hề hiện hữu như một cá thể (cá nhân) nhưng chỉ tồn tại trong công thể (cộng đồng) của nhân dân, dân tộc Việt Nam. Lang Liêu có tài sáng tạo, làm ra bánh chưng bánh dầy cho nên được nhường ngôi, trở thành "vua Hùng" mới. Tuy cũng là cha truyền con nối như xu hướng phổ quát của lịch sử loài người, nhưng không truyền cho con trai trưởng (trước thế kỷ 19, dường như Việt Nam không có tập tục này và sau đó cho mãi đến thế kỷ 14, 15 (Hồ Quý Ly cũng không nhường ngôi cho con trai trưởng là Hồ Nguyên Trừng mà cho con thứ là Hồ Hán Thương) nó vẫn là một truyền thống yếu, có xu hướng ngoại sinh) theo lý, cũng không truyền ngôi cho con trai của một bà ái phi nào theo tình, mà truyền ngôi cho con nào hiền tài, đó là sự kết hợp giữa truyền tử và truyền hiền, đó là sự hòa hợp lý tính thời cổ đại... Trong các cuộc thi tài thuở trước, mà ở đây là thi nấu cỗ, có biết bao người con của "vua Hùng" đã làm ra biết bao nhiêu món lạ, lạ mắt, lạ miệng... những sơn hào hải vị kiếm tận đâu đâu... Cái giỏi của "Lang Liêu", cái con mắt tinh đời của "vua Hùng" cũng là cái sáng giá trong bảng giá trị văn hóa của dân tộc dân gian là tìm cái phi thường trong cái thường thường. Trong tâm lý thường nghiệm, có thói quen chuộng lạ, ưa của lạ. Cái hằng ngày thân quen, nếu không biết cách nhìn, cách thưởng thức, cách biến đổi thành cơ cấu mới từ những nhân tố quen thuộc thì dễ trở thành nhàm chán. Tìm cái đặc biệt trong những của lạ thì nào có khó khăn gì! Có khả năng diễn tả cái phi thường bằng những cái bình thường mới là một tài năng đặc biệt không dễ nhận ngay được giá trị vì cứ tưởng là không khó mà thật ra rất khó, vì nó đòi hỏi sự thấu hiểu, sự đi sâu tìm hiểu, sự nhập thể rất sâu trong lòng văn hóa và nhân dân... Trần Quốc Vượng
-
Khuyến mãi thêm một quẻ Lạc Việt độn toán để thấy tính ưu việt của Lý học Đông phương: Câu hỏi: Vì sao các đề tài này không khả thi? Giờ Hợi ngày mùng 7 - tháng Một - Mậu Tý: Kinh Xích khẩu. À! Thì ra là các vị ấy lúng túng trong tư duy về mối quan hệ giữa phương tiên lưu thông với điều kiện môi trường.Các vị ấy chỉ phân tích rất cục bộ. Các vị ấy đang hướng tư duy tới xe bốn bánh (Xích khẩu) hoặc xe nhiều bánh hơn - Xe Buýt (Kinh). Cứ theo quẻ thì thế nào trong các đề tài này cũng có đề cập tới hạn chế xe hai bánh (Xích khẩu còn có nghĩa là bánh trước - bánh sau) một cách quy mô (Kinh). Xong. Hết thời gian khuyến mãi.
-
Chà! Đấu thầu công khai. Sư Thiến xuống hẳn 5.000.000 VND. Còn 95. 000. 000 VND.Đã vậy còn bật mí trước một ý tưởng chỉ ra sai lầm của họ. Đó là tương quan giữa mật độ xe với các con đường. Nhá vậy thôi, để cho các vị ngâm cứu suy nghĩ. 50. 000. 000 VND cho các chủ đề tài đến nghe phản biện của Sư Thiến cho 1 giờ - sau khi xem xong toàn văn đề tài. Rẻ chán! So với số tiền chi cho các đề tài này lên đến hàng tỷ.
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Như vậy, chúng ta đã quán xét phần trên bài viết của tác giả Techno về những luận cứ gọi là khoa học của ông. Và chúng ta đã thấy chúng thực sự không hề có cơ sở khoa học khi tự mâu thuẫn và tự phủ nhận. Dưới đây là phần cuối bài viết của tác giả Techno và chúng ta cùng quán xét. Tác giả Techno viết: Như vậy, chúng ta lại thấy ở đoạn này tác giả vẫn thừa nhận Lạc Long Quân là tổ tiên của người Kinh và những người đồng chủng Việt khác thì bị Hán hóa. Điều này tác giả một lần nữa tự mâu thuẫn với chính minh khi viết ở trên với nội dung phủ nhận Lạc Long Quân. Xin trích lại như sau: Với hai đoạn văn của chínhbb ông Techno thì cái nào là cái rõ ràng và cái nào là cái thực sự khoa học trong luận cứ của tác giả.Tác giả Techno viết: Kết luận này là hệ quả của những luận cứ tự mâu thuẫn và sự lý giải chủ quan truyền thuyết mà chính ông ta cho là không có cơ sở đáng tin cậy. Bởi vậy nó không có một giá trị khoa học.Riêng phần tác giả Techno ghi là điều 3 trong nguyên văn, tôi chia làm nhiều phần để chúng ta cùng quán xét: 3 - 0: Vậy thì xin hỏi tác giả: Trong Kinh Thư có câu: Chim Việt đậu cành Nam" thì giữa chim Việt và chim Lạc khác nhau như thế nào? 3 - 1: Điều này thì hoàn toàn chính xác: Cư dân Đông Nam Á biết trồng lúa nước đầu tiên và dân Việt không phải đợi tới Sĩ Nhiếp sang dạy mới biết trồng lúa. Nhưng điều đó không có nghĩa là chỉ ở Hòa Bình mới tìm thấy di vật lúa mà còn ở Đông Bắc Thái Lan tức là rất gần với vùng đất Văn Lang xưa ông WG. Solheim cũng tìm thấy di vật lúa và cả đồ sắt có niên đại vào khoảng 1500BC. 3 -2: Rìu đá không phải sản phẩm riêng của người Bách Việt. Mà chúng ta thấy rằng: Rìu đá là một công cụ khá phổ biến trong các cư dân cổ trên thế giới. Và đặc biệt Trương Phi - thời Hậu Hán - cũng dùng một cái rìu và gọi là búa vì cán dài làm vũ khí.Còn đây là phần chú thích của ông Techno: ========================= Chú thích Tôi đồng ý với ông Techno là cuốn Sử Ký Tư Mã Thiên rất vĩ đại. Nhưng tôi cũng lưu ý quí vị độc giả là đây không phải cuốn sử Việt và tôi cũng lưu ý là: Cuốn Sử Ký ra đời 100 năm sau khi nước Văn Lang đã tan rã. Vấn đề này không có gì để bàn, vì nó chỉ liên quan đến tiểu sử của ông Ngô Thì Sĩ Căn cứ vào đâu để ông Techno khẳng định rằng "Cho tới đầu thời Hai Bà Trưng , người Việt vẫn chưa có họ"? Còn việc Thục An Dương Vương là con cháu nước Thục là quan điểm của Đào Duy Anh đã bị Thiên Sứ phản bác trong "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục Thập hoa giáp" - Nxb Thanh Niên 1999. Thế là thế nào nhỉ? Chính ông Techno vừa viết ở trên là Nhưng đến đây thì ông lại viết: . Người Việt lên Trung Quốc vào thế kỷ 16 thì gọi là người Kinh. Vậy người Việt ở Việt Nam gọi là người gì? Lại dẫn sử Trung Hoa. Sao ông không dẫn sử Hy Lạp để minh chứng rằng người Hy Lạp cổ chẳng viết gì đến sử Việt cả. Hay ông dẫn sử Việt để minh chứng rằng không hề nói đến thời Đông Chu Liệt quốc?Bây giờ chúng ta quan xét tiếp lập luận của ông Techno: Thật đáng tiếc! Ông Techno không chứng minh được rằng: Ông căn cứ vào đâu để nói lên điều này? Sử Tàu viết chăng? Tại sao người Tây Âu đó không ở lại với nền văn minh Trung Hoa vĩ đại vào năm 1221 BC mà bò xuống Lĩnh Nam với - nói theo cách của ông Tẻcchhnno - cộng đồng bách Việt trong thời mông muội của lịch sử. Chưa hết - chính đoạn trên ông viết: Nhưng ở đoạn này thì lại là: Thế là thế nào nhỉ? Trong hai luận điểm gần giống nhau đó cái nào gọi là có cơ sở khoa học?Rồi ông Techno viết: Chẳng ai nghi ngờ điều này cả. Từ ngàn xưa lịch sử truyền thống Việt vẫn xác định vào cuối thời vua Hùng Vương thứ 18 đã trao quyền cho Thục Phán chấm dứt triều đại của các vua Hùng và thánh lập nước Âu Lạc. Chỉ có ông Techno với cái "hầu hết những nhà khoa học trong nước " được "cộng đồng khoa học quốc tế" ủng hộ quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống của dân tộc Việt trài gần 5000 năm văn hiến đã đặt lại nghi vấn lịch sử thôi.Còn đây là đoạn kết của ông Techno: Người Việt chưa có chữ Viết? Vậy nền văn minh Trống đồng đặc trưng của người Việt - so với các dân tộc trên thế giới - lưu truyền hàng ngàn năm qua truyền khẩu chăng? Để có được một cái Trồng đồng là cả một hệ thống kỹ thuật từ khai thác quăng, pha chế kim loại đến nghệ thuật và kỹ năng đúc trống - tức là nó phải có một sự phân công lao động xã hội hoàn chỉnh và một nền kinh tế phát triển. Chưa nói đến nền nông nghiệp đầu tiên của thế giới mà chính ông phải công nhận trải gần 1500 năm trước khi bị đô hộ cũng chỉ duy trì nền văn minh của họ bằng truyền khẩu chăng? Tất yếu người Việt phải có chữ viết của họ mới duy trì và phát triển được nền văn minh của mình. Hàng ngàn năn đô hộ - tất nhiên trong một đế quốc toàn trị, tất yếu phải dùng một ngôn ngữ và chữ viết chính thống. Một ngàn năm Hán hóa chứ không phải vài ba mươi năm, tất nhiên chữ Việt sẽ không thể tiếp tục lưu truyền khi nó không còn là chữ viết chính thống của một đế quốc đô hộ. Không tìm thấy văn bản chữ Việt cổ điều đó không có nghĩa dân tộc Việt không có chữ Viết, khi mà nền văn minh ấy đã có đầy đủ chứng cứ trong mối quan hệ xã hội để chữ viết phải tồn tại.Chưa hết. Ông Techno còn viết - quí vị xem lại đoạn sau: Tại sao lại con Rồng cháu Tiên đầy ảo ảnh? Trong khi chính ông phải suy luận từ hình ảnh Lạc Long quân do hạn hán kéo về phía Nam bị con cháu Cửu Thiên huyền nữ và Mẫu Thượng Ngàn đá lông nheo lấy vợ và là cội nguồn của người Lạc Việt. Nay ở đây đã thành ảo ảnh? Thế là thế nào?Xem xong bài viết của ông và của những cái "hầu hết" tôi chẳng thấy lòng tự hào dân tộc được khơi dậy, mà chỉ thấy một màu xám ảm đạm trong cội nguồn dân tộc Việt với "Thời Hùng Vương là một liên minh gồm 15 bộ lạc " và "những người dân ở trần đóng khố". Kính thưa quí vị quan tâm. Trên đây là toàn văn bài viết của ông Techno đã được minh chứng tính phi lý và mâu thuân phản khoa học của luận điểm phủ nhận những giá trị văn hóa truyền thống Việt. Tất yếu những bài viết của luận điểm này - dù họ quảng cáo là - được "cộng đồng khoa học thế giới ủng hộ" thì cũng không nằm ngoài góc nhìn và cái gọi là "cơ sở khoa học" của họ. Thiên Sứ tôi tuy tài hèn, những cũng xin tiếp tục vạch ra những sai trái của họ theo lần lượt thứ tự bài viết sưu tầm được. Nếu quý vị nào dù có bẳng cấp giáo sư, nhưng được sưu tầm sau thì cũng sẽ được Thiên Sứ phản biện sau. Tôi không quan tâm lắm đến bằng cấp giáo sư hay trình độ lớp ba trường làng trong những bài viết được sưu tầm. Vì có lẽ họ cũng na ná như nhau về cách nhìn phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt.
-
Có thể lấy cho chú thêm một lá Tử Vi của Tuduca nhưng là giờ Hợi của ngày hôm trước được không? Còn cháu nhỏ có đúng sinh vào lúc 18g 5 phút không?
-
Phản biện bài viết của tác giả Techno Tiếp theo. Có lẽ tôi cần trích lại đoạn văn của ông Techno ở bài trên để quí vị độc giả khỏi phải kéo lên kéo xuống màn hình xem lại sự giải mã truyền thuyết của ông Techno khi chính ông cho rằng: Đấy là phần đầu của bài viết của tác giả Techno. Nhưng phần cuối bài trên thì như sau: Bây giờ chúng ta xem tiếp những luận cứ của tác giả: Quí vị chắc không thể coi một câu chuyện tình y như trong phim được ông Techno kể lại theo chủ quan của ông là một bằng chứng khoa học cho cội nguồn dân tộc Việt. Xin lỗi - Nếu Thiên Sứ viết lại theo đơn đặt hàng của ông thì viết câu chuyện trên còn giầu chất trữ tình và lâm li bi bét hơn nhiều. Nhưng qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta đã thấy rõ ràng rằng: Tác giả Techno đã lấy chất liệu về truyền thuyết dân tộc Việt mà chính ông cho rằng - không có căn cứ khoa học - để viết lại cội nguồn lịch sử dân tộc Việt. Đây phải chăng chính là cái gọi là "tinh thần khoa học" của cái mà họ thường quảng cao "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "công đồng khoa học thế giới " công nhận quan điểm phủ nhận những giá trị truyền thống của nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm? Ông Techno viết: Đúng là dân tộc Việt huyền vĩ thật. Nhưng sự huyền vĩ này trải gần 5000 năm lịch sử một thời hoàng kim ở miền nam sông Dương Tử và là cội nguồn của nền văn hóa Đông phương đang thách đố tri thức nhân loại. Chứ không phải thời Hùng Vương là "một liên minh gồm 15 bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố" như những người phủ nhận văn hóa sử dân tộc quan niêm, rồi che mắt bằng những câu sáo rỗng. Bây giờ chúng ta xem tiếp những luận chứng của tác giả Techno trong phần chú thích của ông ta: Như vậy phần chú thích này muốn nói điều gì? 100 người con của Tổ Phụ Lạc Long quân và Tổ Mẫu Âu cơ theo truyền thuyết huyền sử Việt là có thật chăng? Không thật thì ông đưa danh sách của họ vào đây làm gì? Nếu thật thì truyền thuyết cũng phản ánh sự thật đấy chứ! Chính ông chứng minh mà! Nếu không thật thì tất cả những luận cứ của ông ở trên chăng có giá trị gì! Bây giờ ông chọn cách lập luận nào?Tại sao ông không trả lời cái ông học giả nước ngoài hỏi ông như ông đang thuyết minh ở đây. Có đủ tên tuổi của 100 người con. Lạ nhỉ? Khoa học của cái "Hầu hết những nhà khoa học trong nước " và cái "cộng đồng khoa học thế giới" phủ nhận văn hiến sử Việt là vậy chăng? Bây giờ chung ta xem tiếp những luận cứ của ông Techno: Ơ! Híc!Chính ông vừa mới viết ở trên: và sau đó là một cuộc tình sét đánh để tạo ra dân tộc Việt vĩ đại. Nay thì ở đoạn này ông lại viết: Thế là thế nào nhỉ? Chắc quí vị quan tâm cũng đủ khả năng để thấy được sự mâu thuẫn cao độ của những lập luận của tác giả Techno, khiến những lập luận tự phủ nhận. Ít nhất cũng đến đoạn này của bài viết.Chúng ta xem tác giả viết tiếp như sau: Ơ! Thế thì cái đoạn văn mà ông ca ngợi là dân tộc Việt vĩ đại - do hôn nhân sét đánh - y như phim - là thế nào?Sử ký Tư Mã Thiên không nhắc đến thì ông bảo thời Hùng Vương là không có thật - Xin lưu ý ông là - Tư Mã Thiên Sử ký không phải là cuốn sử Việt ông ạ. Hình như lịch sử Hoa Kỳ cũng chẳng có chữ nào nói đến thời Hùng Vương thì phải. Cả sử Anh , Pháp, Triều Tiên, Nhật Bản ...vv..đều không nhắc đến thời Hùng Vương vì nó không phải là sử Việt. Nếu thực sự khách quan khoa học thì những tư liệu như: Thần Phả, Ngọc phả đều phải được xem xét một cách khách quan, sao ông lại nỡ phũ phàng mà công nhận tư liệu này và chấp nhận tư liêu kia vậy? Thời Hùng Vương đã thực sự tồn tại thì nó sẽ không chỉ ở trong sử liệu, mà nó còn ngay trong đời sông văn hóa , phong tục tập quán của người Việt hiện nay. Thí dụ như sự tồn tại của cái bánh chưng bánh dầy - dù Trần Quốc Vương có nói cái bánh chưng tròn hay méo thì nó vẫn là cái bánh chưng . Vậy nó từ đâu mà ra? Đấy chỉ là một sự nhắc nhở sơ sơ vậy thôi để tác giả suy ngẫm. Chúng ta xem tiếp đoạn sau: Như vậy thì theo tác giả thời Hùng Vương không có thật chăng? 2879 không phải! 600 năm BC cũng không phải! Vậy là thế nào? Trước khi chúng ta xem tác giả kết luận thế nào, Thiên Sứ tôi xin lưu ý cái luận cứ lấy 2622 năm (Tác giả viết là 2322 năm) chia cho 18 để ra trung bình mỗi người gần 145 năm (Tác giả chia là 121) là một sai lầm ấu trĩ về mặt toán học. Xin lỗi các vị giáo sư tiến sĩ trong cái "Hầu hết" và "cộng đồng" trong nước và thế giới: Thằng con tôi mà lấy 4 quả cà chua trừ đi 2 quả cam còn 2 quả cà chua thì chắc cô giáo dạy lớp 2 của nó bắt nó quỳ và học lại bài từ lâu rồi.Hay là các vị cao siêu quá quên mất cả tính tối thiểu trong toán học là các đại lượng phải đồng đẳng? Nếu các ngài "pha học" kia lấy 2622 năm là con số thời gian thật mà lại chia cho con số 18 huyền sử thì có hai vấn đề xảy ra: 1 - Hoặc là các ngài công nhận thời Hùng Vương có 18 đời vua là có thật và không phải huyền sử . Như vậy thì các giáo sư tiến sĩ học vấn đầy mình mới chia được chứ? Nếu các ngài cho là có thật thì các ngài phải chứng minh. Nhưng tiếc thay, cái bằng cấp giáo sư đó lại đang phủ nhận những giá trị cội nguồn văn hóa sử truyền thống Việt cho rằng truyền thuyết 18 đời Hùng Vương là không có cơ sở "pha học". Hay nói cách khác: Các ngài không đủ khả năng làm việc này. 2 - Hoặc các ngài giáo sư tiến sĩ khả kính cho rằng 18 đời Hùng Vương chỉ là huyền thoại không đáng tin cậy thì các ngài làm sao chia 2622 năm trị vì của thời Hùng Vương cho con số 18? Qua đó cũng đủ chứng tỏ cái gọi là "tinh thần khoa học" của cái đám phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt , mà họ quảng cáo là "Được hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "công đồng khoa học quốc tế ủng hộ". Nhưng họ vẫn la lối về quan điểm gọi là "pha học" của họ.Quay trở lại tiếp tục quán xét phần còn lại của bài viết của tác giả Techno. Ông ta viết: Đến đây, ông Techno lại nhắc đến Lạc Long Quân. Và bây giờ chúng ta lại xem lại chính ông ta viết ở trên: Thế là thế nào nhỉ? Chúng ta xem ông ta viết tiếp: Tức là ông ta thừa nhận bài toán chia trên là vô lý và ông ta thừa nhận thời Hùng Vương có thật với 18 đời vua - nếu theo ông ta mỗi vị thọ 37 năm!? Bây giờ chúng ta giả thiết rằng ông Techno đúng thì thời Hùng Vương là có thật với niên đại của ông. Nhưng tiếc thay. Ngay đoạn văn tiếp theo ông lại tự phủ nhận luôn cả thời đại mà ông dẫn chứng ở trên qua một trận hạn hán lịch sử. Chúng ta xem ông ta viết gì: Như vậy thì với ông Thời Hùng Vương - tức thời Hồng Bàng là không có luôn. Híc! Vậy thì ông cần quái gì phải nhọc sức lý luận Lạc long Quân vào lúc Nam Dương Tử bị hạn vào năm 922 TCN kéo quân xuống gặp Cửu Thiên Huyền Nữ và Bà Chúa Thượng Ngàn rồi bị con gái bà đá lông nheo thành dân tộc Việt vĩ đại làm gì?! Híc! Nhưng quí vị độc giả cũng thấy: Ông ta vẫn "khoa học" như thường khi viết: "mọi vấn đề chứng lý khoa học đã được phơi bày". Đoạn sau còn nữa. Nhưng thực sự Thiên Sứ tôi phải nghỉ một tý để tịnh tâm, không thì tẩu hỏa nhập ma vì va chạm với cái "tinh thần pha học" của những nhà ngâm cứu phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt. Còn tiếp
-
Co6 Winter82 thân mến. Chúng tôi đã nhiều lần trình bày rằng: Không thể có cùng một phương pháp làm lịch mà có đến hai cuốn lịch khác nhau. Và chúng tôi không có bộ phận chuyên trách làm lịch. Nhưng xét thấy phương pháp làm lịch theo kiểu "lấy giờ Tây, tính lịch Tàu theo lối ta " là không phù hợp với tính nhất quán theo tiêu chí khoa học, nên chúng tôi tạm lấy cuốn "Van Niên Dịch học phổ thông" do Nxb VHDT làm chuẩn. Theo cuốn này thì ngày sinh của cô đổi ra Âm lịch là ngày 21 - tháng 12 - Năm Giáp Tý (Cô ghi là năm 84). Về vấn đề lịch, tôi xin được trả lời cô như vậy. Mong các anh chị em nào biết Tử Vi coi giùm cô winter82.
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Đây là bài viết thứ tư theo thuận tự được trưng bày ở topic "Sưu tầm những quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt". Toàn văn bài viết đã được trình bày ở trên trong ngay topic này để quí vị tiện tham khảo. Lược Sử Cổ Đại Việt Nam Tác giả: Tranghuyendo_Techno (*) http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...da_i/t1280.html Tác giả Techno viết: Hôm nào Thiên Sứ tôi cũng xin một nhà văn hóa nào đó ở Thành phố tạo điều kiện thuận lợi và khách quan cho một buổi nói chuyện về "Y phục thời Hùng Vương". Nếu có một hội thảo càng tốt. Tất nhiên đây là mơ ước đã lâu của Thiên Sứ tôi và tôi còn tiếp tục mơ ước cho đến khi ước mơ thành hiện thực. Chúng ta xem tiếp ông viết: Chúng ta chở xem tác giả nói gì, tôi sẽ quay trở lại đoạn này.Tác giả viết tiếp: Một giáo sư sử học Nhật Bản cũng bày dặt nhân danh "Pha học" giảng cho học sinh rằng: "Người Nhật Bản không phải con của Thái Dương Thần nữ", rằng: "Đó là truyền thuyết không có cơ sở "pha học". Ông này đã bị chính phủ Nhật cho về đuổi gà. Theo Thiên Sứ tui, nếu vị giáo sư Nhật kia - hoặc các vị giáo sư tiến sĩ Việt có quan điểm phủ nhận lịch sử văn hóa truyền thống Việt sang Trung Quốc bảo rằng: "Các ngài không phải con của Hoàng đế. Đấy chỉ là truyền thuyết không có cơ sở khoa học"; hoặc sang Mỹ nói rằng: Đảng Cộng Hòa không phải là con voi. Đảng Dân chủ không phải con Lừa.. hay sang Pháp bảo rằng: "Dân tộc Pháp văn minh không phải do con gà trống đẻ ra" thì mới khách quan chứ! Sao chỉ phủ nhận truyền thuyết của riêng Việt Nam vậy? Cần phải khẳng định rằng: Với các dân tộc có nền văn hóa sử lâu đời đều có những truyền thuyết, huyền thoại về sự khởi nguyên của dân tộc mình. Bởi vậy, việc giảng dạy những truyền thuyết huyền thoại sử đó trong nhà trường hoàn toàn mang một nội dung giữ gìn những giá trị văn hóa sử truyền thống. Nhưng tác giả Techno lại cho rằng đó là một sự giải thích nguồn gốc. Chính cách hiểu sai và chủ quan này là một nguyên nhân dẫn đến xóa bỏ nội dung truyền thuyết trong giáo dục. Tác giả Techno không giải thích được với vị học giả nước ngoài thì đấy chỉ là mối tương quan giữa khả năng nhận thức của tác giả Techno với một câu hỏi. Căn cứ gì mà lại được - khoe ầm ĩ ở hẳn câu lạc bộ văn hóa hẳn ở Quận nhỉ? Hay là ông ta muốn nói rằng: Hẳn như một nhà nghiên cứu có hạng như ông ta - Phát biểu hẳn ở câu lạc bộ văn hóa Quận - mà còn chưa trả lời được thì đấy là vấn đề cần đặt ra (Tức là tác giả loại suy mối tương quan giữa nhận thức của tác giả với khả năng trả lời một câu hỏi). Thôi thì cứ coi như một cách đặt vấn đề. Chúng ta xem ông ta giải quyết như thế nào? Tác giả Techno viết: Như vậy, tác giả đã dẫn chứng chính những nhà nghiên cứu lịch sử hoàn toàn chỉ nhận thức chủ quan về ngay khái niệm lịch sử: "Đa số các nhà nghiên cứu các tường thuật lịch sử này, hay sử gia, tin rằng quan điểm hiện tại của chúng ta có thể đổi cách hiểu những sự kiện xưa" do chẳng hiểu lịch sử là gì: "bản chất ngữ nghĩa của từ lịch sử chúng ta thường né tránh, đơn giản là do chúng ta … không biết nó là gì, hoặc là chỉ biết một cách mơ hồ, không đủ để phát biểu".Bởi vậy, tác giả Techno phải tự đặt ra tiêu chí để chứng minh những luận cứ của ông ta: Trên cơ sở này, ông Techno mới: "Chúng ta quay lại với lịch sử cổ đại Việt Nam …" Ông ta viết tóm lược truyền thuyết và huyền thoại về cội nguồi sử Việt: Nhưng ông ta lại đá vào truyền thuyết được tóm lược đoạn sau đây hoàn toàn không ghi nhận trong truyền thuyết: Tạm thời hay để vậy đi, chúng ta sẽ phân tích sau.Và bây giờ là những phân tích của ông Techno. Chúng ta xem nó có phù hợp với những tiêu chí lịch sử của chính ông ta đưa ra không: Ơ! Híc! Quí vị chắc cũng nhận ra ngay mâu thuẫn cực kỳ nghiêm trọng trong đoạn này của tác giả:"Thể chế xã hội lúc bấy giờ là cát cứ theo nhóm cộng đồng cư dân có cùng một phong tục, ngôn ngữ, cách sinh sống và làm lụng v.v…" Vậy xin hỏi: Cái gì làm ra những phong tục, ngôn ngữ, cách sinh sống và làm lụng giống nhau của những con người sống ở một vùng rộng khắp trài "toàn bộ vùng nam bắc đại giang Dương Tử"? Hay nói một cách rõ hơn: Điều gì tạo nên sự thống nhất về văn hóa (Phong tục) và cách làm việc, sinh sống của họ mà chính tác giả thừa nhận; khi mà tác giả phát biểu: "Cách đây hơn 4.800 năm, toàn bộ vùng nam bắc đại giang Dương Tử chưa hề có chế độ phong kiến, do đó cũng chẳng có nước, có vua nào hết". Từ cách đặt vấn đề trên một cơ sở không hề có căn cứ minh chứng này, chúng ta có thể thấy được sự khập khiễng trong lập luận ở đoạn sau: Như vậy, tác giả chỉ căn cứ vào "Người Trung Hoa xưa gọi..." và dẫn chứng sách "Sách Hán thư (漢書) viết: "Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Cối Kê (thuộc vùng Bắc Chiết Giang), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình…". Nhưng có lẽ tất cả quí vị cũng đều biết rằng cái sách Hán thư ấy ra đời sau cái "Cách đây hơn 4.800 năm" ngót nghét khoảng 2600 năm vậy. Và sách đó chỉ phản ánh hiện thực lịch sử vào thời gian ra đời của cuốn sách đó là: Sách Hán thư (漢書) viết: "Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Cối Kê (thuộc vùng Bắc Chiết Giang), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình…" Nhưng tác giả Techno lại khẳng định rằng: Quí vị cũng đã xem rõ chính câu trích dẫn của tác giả trong sách Hán thư: "ở đâu cũng có Bách Việt" vậy chúng ta hiểu câu này như thế nào? Nếu không gọi là dân tộc Bách Việt thì gọi là gì? Quí vị cũng lưu ý rằng: Sách Hán thư viết khi nhà nước Văn Lang đã sụp đổ và tan rã từ lâu (Theo chính sử và truyền thuyết). Bởi vậy không thể căn cứ vào một cuốn sách chỉ ghi nhận hiện tượng thực tại vào thời điểm của cuốn sách đó phản ánh để kết luận về một hiện trạng lịch sử trước đó mà không hề chứng minh. Còn câu "mỗi nhóm có các thị tộc của mình…" thì nên hiểu thế nào? Nếu theo ông Techno thì những thị tộc này là những dân tộc khác nhau chăng khi ông viết: "không có dân tộc Bách Việt mà chỉ có nhiều thị tộc (tộc người với các thể chế và quan hệ riêng có) Việt"? Như vậy giữa các thị tộc mà ông cũng phải hạ bút viết là "Việt" và dân tộc Việt là khái niệm như thế nào? Cũng chưa thấy ông đưa ra tiêu chỉ này để minh chứng cho lập luận của ông! Có lẽ không cần bàn sâu thêm. Xin để quí vị độc giả tự suy ngẫm. Ở đây, tôi chỉ phân tích trên chính những lập luận và dẫn chứng của tác giả để vạch ra tính mâu thuẫn và lập luận hoàn toàn chủ quan của ông ta, mà chưa hề so sánh với những bằng chứng khác liên quan.Bây giờ chúng ta xem tác giả Techno phân tích truyền thuyết và huyền thoại lịch sử cội nguồn Việt: Như vậy tác giả Techno cũng tham gia giải mã truyền thuyết để minh chứng cho tính "Khách quan lịch sử" và tinh thần "khoa học" đấy chứ nhỉ? Thiên Sứ tôi xin nhắc lại rằng: Tất cả những sự giải mã truyền thuyết và văn hóa dân gian của Thiên Sứ tôi không bao giờ tôi coi đó là bằng chứng khoa học nhằm minh chứng cho lịch sử văn hiến Việt - ít nhất trong trình độ hiểu biết của tri thức nhân loại hiện nay. Nhưng tiếc thay! Những người gọi là phản biện Thiên Sứ tôi - cả trước mặt và sau lưng (Phần lớn đều là sau lưng), đều căn cứ vào việc giải mã của Thiên Sứ tôi - cái mà tôi đưa vào cho hấp dẫn cuốn sách và không thừa nhận là bằng chứng khoa học - để minh chứng Thiên Sứ sai. Nhưng ngược lại thì chính họ lại bày đặt giải mã truyền thuyết lịch sử Việt khi mà - cả cái tri thức nhân loại hiện đại chưa có nổi một tiêu chí xác định việc giải mã thế nào là đúng - Thí dụ như ngay trong topich này đã có một vị PGS và ông Techno này đang bày đặt giải mã. Bây giờ chúng ta chịu khó xem ông Techno này giải mã truyền thuyết sử Việt này như thế nào ở phần tiếp theo bài viết của ông ta, khi chính ông ta viết - quí xem lại đoạn sau đây: Híc!Còn tiếp ---------------- Chú thích: Techno là ký danh của người tham gia diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn. Bởi vậy, sau khi Thiên Sứ tôi phản biện xong, nếu tác giả quan tâm có thể tham gia tranh luận ở một topic khác trong muc - Nghiên cứu cổ sử này.
-
Quẻ Tử Tốc Hỷ -Giờ Dần ngày 7 - 8 - Mậu Tý. Đúng là đáy của răng cưa . Tuần sau sẽ nhích lên - Nhanh thì cuối tuần này.
-
CHÚC MỪNG SINH NHẬT BABYWOlf ĂN NO CHÓNG LỚN
-
CHINH KHÁCH Laviedt Vàng rơi Rơi Người đi Ơ kìa Trăng khóc... Phong suơng Vuơng giải Ngân Hà Lênh đênh Nẻo vắng Biết là Về đâu... Cuối gềnh Giục nhịp chèo mau Để buồn Cơn gió Dâng sầu Thiên thu... Cảm tác CHINH KHÁCH Miên man ngàn thu xưa. Lạnh lùng lá rơi nhặt thưa. Im im Dấu chân người đi Mưa buồn hiu hắt dâng sầu bi. Gió sương lâm li. Ai trèo non cao? Ai về biển rộng? Nước non một giải mênh mông. Thuyền không bền bờ. Ai đợi. ai chờ. Còn đây một bóng trăng mờ. Thiên thu hiu hắt, chơ vơ Ngân Hà.
-
Cảm ơn anh Mộc Công có nhận xét. Tôi cũng có nhiều lần suy ngẫm cho rằng môn Thái Ất là nền tảng căn bản của Tử Vi. Nhưng vì điều kiên chưa cho phép suy ngẫm sâu thêm, nên hy vọng anh và các cao nhân khác đồng ý kiến sẽ có ngày minh chứng được điều này.
-
Cảm ơn anh Mộc Công có những tư liệu rất giá trị và nhận định sâu sắc: Thái Ất không phải của người Hán. Tôi xin phép được đưa vào mục những bài viết cần chú ý.
-
Tuduca thân mến. Chú hiểu thế này có đúng không: Sau khi sinh cháu Bính Tuất 9 tháng thì chuyển nhà lần đầu tiên và đến nay là 7 lần. Từ đó - một năm sau khi sinh - thì cháu Bính Tuất mới bắt đầu bệnh cho đến nay. Chú thấy tuổi mẹ và con tuy đồng mạng thổ nhưng mà mạng mẹ không dưỡng được mạng con - Sa Trung thổ và Ốc thượng thổ. Nhưng đó chỉ là một yếu tố. Yếu tố thứ hai chú nghi là do Phong Thủy vì liên quan đến chuyển nhà. Nhưng nếu Tuduca ở nước ngoài thì khó sửa nhà lắm. Hai lá Tử Vi đều không xem được. Tuduca vào trang chủ Lyhocdongphuong - hay - vanhienlacviet.org.vn lấy lại hai lá khác đi.
-
Chủ quyền VN ở vùng Nam Côn Sơn, Tư Chính, Vũng Mây Nguồn: Vietnamnet.vn 08/12/2008 10:19 (GMT + 7) Bất chấp chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam đối với vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn, được luật quốc tế và các bên liên quan công nhận, Trung Quốc vẫn có yêu sách đối với vùng này. Nhưng, chiếu theo luật quốc tế, những yêu sách này cũng hoàn toàn không có cơ sở. Bài liên quan: Vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa: cần một nỗ lực tổng hợp Việt Nam tái khẳng định chủ quyền tại Trường Sa, Hoàng Sa Không thể chấp nhận thăm dò dầu khí trên vùng biển VN Năm 1992, Trung Quốc ký hợp đồng thăm dò dầu khí ở vùng Tư Chính – Vũng Mây với công ty Crestone. Năm 1994, Trung Quốc phản đối hợp đồng dầu khí giữa Việt Nam và Mobil ở vùng Thanh Long với lý do vùng này thuộc quần đảo Trường Sa. Năm 2007, Trung Quốc gây áp lực buộc BP ngưng hoạt động trong dự án dầu khí có vốn đầu tư 2 tỷ USD với Việt Nam ở hai vùng Mộc Tinh, Hải Thạch. Các vùng Thanh Long, Mộc Tinh, Hải Thạch nằm trong bồn trũng Nam Côn Sơn. Bản đồ 1: Bản đồ vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn (Nam Con Son Basin). Vùng Thanh Long nằm trong lô 05-1B. Vùng Mộc Tinh nằm trong lô 05-3. Vùng Hải Thạch nằm trong lô 05-2. Vùng Lan Tây, Lan Đỏ nằm trong lô 06-1. Các vùng này nằm ngoài vùng lãnh hải của các đảo Trường Sa. Vạch chấm đen là “đường lưỡi bò” của Trung Quốc trên Biển Đông. Tháng 7 năm nay, Trung Quốc gây áp lực với ExxonMobil yêu cầu không được cộng tác với Việt Nam trong một dự án thăm dò dầu khí ở bồn trũng Nam Côn Sơn. Ngày 12/11 năm nay, Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc tuyên bố dự án có vốn 29 tỷ USD để khảo sát và khai thác Biển Đông, trong cả những vùng biển hiện đang nằm trong tình trạng tranh chấp. Thái độ và hành động nói trên của Trung Quốc đã gây thiệt hại cho kinh tế và đe doạ nền độc lập và sự vẹn toàn lãnh thổ của Việt Nam. Thế nhưng, những thái độ và hành động đó lại không dựa trên một cơ sở nào của luật biển quốc tế. Bài viết này sẽ chứng minh sự không có sơ sở đó theo Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển (UNCLOS – United Nations Convention on the Law of the Sea). Chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam theo luật quốc tế Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Dũng: "Quyền của chúng ta thì chúng ta làm"Tất cả các dự án Việt Nam đang tiến hành đều nằm trong vùng thềm lục địa tối thiểu 200 hải lý của Việt Nam. Điều này tuân theo quy định quan trọng trong Công ước Luật Biển năm 1982. Công ước này quy định bất kỳ quốc gia ven biển nào đều có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý, tức khoảng hơn 300 km. Điều quan trọng, tất cả tài nguyên nằm trong thềm lục địa đó thuộc quyền chủ quyền của quốc gia đó. Công ước Luật Biển năm 1982 cũng quy định những nơi có vùng chồng lấn thì các bên liên quan tìm kiếm giải pháp công bằng. Những dự án khai thác hiện nay trên thềm lục địa Việt Nam thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam. Quyền của chúng ta thì chúng ta làm. Chúng tôi đã nói rõ quan điểm với Trung Quốc như vậy. Trong sự kiện Trung Quốc phản đối và đe dọa BP vào năm 2007 và ExxonMobil vào năm 2008, nhiều người hiểu lầm rằng thái độ và hành động đó của Trung Quốc là sự tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thật ra, theo luật quốc tế, giả sử như Hoàng Sa và Trường Sa có thuộc về Trung Quốc một cách hợp pháp đi nữa, thì vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn nằm ở phía bắc ranh giới với Indonesia vẫn thuộc về Việt Nam. Nói cách khác, sự xác lập chủ quyền của một nước nào đó trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nếu có, hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến chủ quyền của Việt Nam ở vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn. Chủ quyền đối với khu vực này, dù cho chủ quyền trên quẩn đảo Hoàng Sa và Trường Sa có là của bất cứ nước nào, cũng thuộc về Việt Nam, chiếu theo các quy tắc của luật biển quốc tế. Trên thực tế, yêu sách của Trung Quốc đối với vùng này hoàn toàn sai với luật quốc tế. Chính sự hiểu lầm như đã nói trên, dù vô tình hay cố ý, đã che khuất đi phần nào sai trái của Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền đối với vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn. Bản đồ 2: Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ bờ biển Việt Nam. Các hình tròn đen là lãnh hải 12 hải lý của các đảo trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc lấn sâu vào vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ bờ biển Việt Nam. Dựa trên bản đồ của PetroVietnam. Theo Điều 57 và 76 của UNCLOS, các quốc gia ven biển được hưởng một vùng đặc quyền kinh tế rộng tối đa là 200 hải lý từ đường cơ sở và một vùng thềm lục địa nếu địa lý đáy biển cho phép thì có thể rộng tối đa là 350 hải lý từ đường cơ sở hay 100 hải lý từ độ sâu 2500 mét. UNCLOS cũng quy định là nếu có tranh chấp, trong trường hợp vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của hai quốc gia chồng lấn lên nhau, thì tranh chấp phải được giải quyết một cách công bằng (Điều 74 và 83). Có hai nguyên tắc được dùng để đo lường sự công bằng này trong tập quán luật quốc tế và ngoại giao, đó là đường trung tuyến và tỷ lệ chiều dài bờ biển liên quan. Khi xét xử tranh chấp biển, Toà án Công lý Quốc Tế (International Court of Justice) thường bắt đầu bằng cách vạch đường trung tuyến giữa hai nước làm ranh giới thử nghiệm, sau đó Toà sẽ xét sử công bằng bằng cách xem tỷ lệ diện tích được chia cho mỗi nước có gần như tỷ lệ chiều dài bờ biển liên quan tới tranh chấp hay không. Trong việc vạch ranh giới, tập quán luật quốc tế và ngoại giao không tính những đảo nhỏ, xa bờ, tự thân không có các điều kiện cho sự cư trú của con người và đời sống kinh tế riêng, như các đảo trong hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, để tránh việc những đảo này ảnh hưởng không công bằng tới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Nguyên tắc này được Toà án Công lý Quốc Tế tuyên bố từ năm 1969 trong phiên toà chia thềm lục địa Bắc Hải và được khẳng định trong Điều 121, Khoản 3 của UNCLOS. Từ năm 1969 tới nay, Toà án Công lý Quốc Tế luôn luôn tôn trọng nguyên tắc này, thí dụ như trong những phiên toà Lybia/Malta, Vịnh Maine, Guniea/Guniea-Bisseau. Đối chiếu với những quy tắc pháp lý kể trên với vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn, ta thấy: Phần lớn vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn phía bắc ranh rới với Indonesia và Malaysia nằm trong phạm vi 200 hải lý từ bờ biển Việt Nam. Dù Việt Nam vạch đường cơ sở gần bờ thế nào đi nữa thì, theo UNCLOS, những vùng này cũng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam (Xem Bản đồ 2). Một phần nhỏ của vùng Tư Chính – Vũng Mây và một phần nhỏ của bồn trũng Nam Côn Sơn phía bắc ranh rới với Indonesia, tuy nằm ngoài phạm vi 200 hải lý từ bờ biển Việt Nam, nhưng nằm trong phạm vi thềm lục địa của Việt Nam. Theo Điều 76 của UNCLOS, thềm lục địa ở những vùng này thuộc về Việt Nam. Phần lớn những nước tranh chấp Trường Sa và Biển Đông không tranh chấp chủ quyền của Việt Nam ở vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn. Malaysia và Philippines không tranh chấp chủ quyền của Việt Nam ở những vùng này, dù các nước này tranh chấp Trường Sa. Indonesia đã có hiệp định ranh giới với Việt Nam và không tranh chấp những vùng này. Chỉ có Brunei tranh chấp một phần nhỏ của vùng Tư Chính – Vũng Mây, nhưng cũng không tranh chấp lô 133 và 134. Điều này không chỉ là một sự công nhận về chủ quyền của Việt Nam ở vùng này mà còn cho thấy những nước Đông Nam Á, dù có tranh chấp Trường Sa hay Biển Đông, vẫn tôn trọng UNCLOS và không có đòi hỏi lấn sâu vào vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Việt Nam. Tuy Mỹ không có quan điểm Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về nước nào, trong lời tuyên bố về sự hợp tác của Exxon Mobil ở bồn trũng Nam Côn Sơn, đại sứ Mỹ Michael Michalak tuyên bố là việc ExxonMobil cộng tác với Việt Nam trong vùng này là hoàn toàn hợp pháp. Theo báo South China Morning Post, ExxonMobil và các công ty dầu khí quốc tế cho là vùng đang bị Trung Quốc tranh chấp thuộc về Việt Nam. Trên thực tế, PetroVietnam, BP và ONGC (Ấn Độ) đã hợp tác ở vùng Lan Tây, Lan Đỏ (lô 06-1) từ năm 1992 và hiện đang khai thác dầu khí mà không có nước nào phản đối, kể cả Trung Quốc. PetroVietnam, BP và Conoco cũng đã hợp tác ở vùng Mộc Tinh, Hải Thạch từ năm 1992-1993; cho tới năm 2007 Trung Quốc mới áp lực BP ngưng hợp tác với Việt Nam. Những vùng Mộc Tinh (lô 05-3), Hải Thạch (lô 05-2), Thanh Long (lô 05-1B) gần bờ Việt Nam hơn vùng Lan Tây, Lan Đỏ. Ngoài ra, nhiều công ty dầu khí quốc tế khác đã hợp tác với Việt Nam từ thập niên 90 trong vùng Nam Côn Sơn, thí dụ như, Idemitsu, Nippon Oil, Teikoku, Conoco Phillips, Vamex, Premier Oil. Vì Việt Nam là nước nhỏ yếu hơn Trung Quốc, việc những công ty này hợp tác với Việt Nam không thể do Việt Nam lấn át Trung Quốc hay những công ty này. Bằng những hợp tác trên, một điều chắc chắc rằng các công ty trên đã công nhận những vùng này thuộc về Việt Nam theo luật quốc tế. Yêu sách vô lý, không có sơ sở của Trung Quốc Bất chấp chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam đối với vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn, được luật quốc tế và các bên liên quan công nhận như đã kể trên, Trung Quốc vẫn có yêu sách đối với vùng này. Nhưng, chiếu theo luật quốc tế, những yêu sách này hoàn toàn không có cơ sở. Đảo Hải Nam cách vùng này khoảng 1000 hải lý. Vì vùng đặc quyền kinh tế được giới hạn tối đa là 200 hải lý, đảo Hải Nam hoàn toàn không phải là nền tảng theo luật quốc tế để xác lập chủ quyền của Trung Quốc đối với vùng này. Quần đảo Hoàng Sa hoàn toàn cũng không phải là cơ sơ để Trung Quốc xác lập chủ quyền đối với khu vực này, vì: - Quần đảo này hiện là đối tượng tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và Việt Nam; - Cực nam của quần đảo Hoàng Sa cách vùng này khoảng 750 hải lý. Trong khi đó, vùng đặc quyền kinh tế được giới hạn tối đa là 200 hải lý; - Tập quán luật quốc tế và ngoại giao không dựa vào những đảo nhỏ như trong quần đảo Hoàng Sa để làm nền tảng cho việc phân chia vùng đặc quyền kinh tế. Sự xác lập hợp pháp chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa, giả sử có, cũng không cho Trung Quốc cơ sở pháp lý để tranh chấp vùng này. Tất cả các đảo trong quần đảo Trường Sa đều có diện tích dưới 0,5 km vuông, tự thân chúng không có các điều kiện cho sự cư trú của con người và đời sống kinh tế riêng. Theo nguyên tắc và tập quán luật quốc tế đã dẫn, những đảo này không được hưởng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Những đảo này chỉ được hưởng lãnh hải tối đa là 12 hải lý (Điều 121, khoản 2 và 3 của UNCLOS). Bản đồ 1 cho thấy lãnh hải 12 hải lý của tất cả các đảo trong quần đảo Trường Sa nằm ngoài vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn. Vì vậy, tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Trường Sa không cho Trung Quốc cơ sở pháp lý để tranh chấp vùng này. Ngoài ra, Hình 1 cho thấy vùng này nằm trên thềm lục địa Việt Nam, hoàn toàn không liên quan tới thềm lục địa của quần đảo Trường Sa. Từ những lẽ trên, việc Trung Quốc tranh chấp vùng Tư Chính – Vũng Mây, vùng Thanh Long, Mộc Tinh, Hải Thạch, hay bất cứ vùng nào khác trong bồn trũng Nam Côn Sơn, với Việt Nam là một điều hoàn toàn vô lý và không có cơ sở pháp lý. Hình 1: Thềm lục địa vùng Nam Côn Sơn thuộc về thềm lục địa Việt Nam, khác biệt với quần đảo Trường Sa. Nguồn: Marine Ecosystem Dynamics Modeling. *** Tóm lại, việc tranh chấp và những thái độ, hành động của Trung Quốc liên quan đến vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn không có cơ sở pháp lý, ngay cả khi đang tồn tại tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này cũng cho thấy yêu sách của Trung Quốc đòi 75% phần diện tích trên Biển Đông cũng hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và vô lý ngay cả khi đang tồn tại tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa. Nhằm bảo toàn tính toàn vẹn toàn lãnh thổ của Việt Nam, không chỉ ở vùng Tư Chính - Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn, mà còn ở tất cả các vùng Biển Đông của Việt Nam, Việt Nam cần phải làm những việc sau: • Kiên quyết giữ vững chủ quyền và thực thi chủ quyền ở vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn. Việc Trung Quốc thành công trong việc xâm lấn vùng này có nghĩa là những quy tắc pháp lý, những giá trị hành xử được xây dựng ở tầm quốc tế đã bị chà đạp một cách nghiêm trọng và đây sẽ là một tiền lệ nguy hiểm cho tất cả vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ bờ biển Việt Nam ở Biển Đông. • Không lẫn lộn, không để cho Trung Quốc viện cớ tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa để ngụy trang cho việc chiếm hữu các vùng đó của Việt Nam. Cần hiểu rõ và tuyên bố rõ ràng, dứt khoát với Trung Quốc và với thế giới rằng những vùng này nằm ngoài tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa và hoàn toàn thuộc về Việt Nam. • Cần hiểu rõ và tuyên bố rõ ràng với Trung Quốc và thế giới rằng việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển có diện tích khoảng 75% Biển Đông là hoàn toàn sai trái, vô lý, không có cơ sở pháp lý ngay cả khi đang tồn tại tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa. Dương Danh Huy - Lê Minh Phiếu
-
-
Bởi vậy - Thiên Sứ tôi đã nói ngay từ đầu - Nếu có một cuộc hội thảo thì ông Lê Mạnh Thát sẽ thất bại bởi phương pháp luận cổ điển của chính ông và những người gọi là học giả phản biện. Cuộc tranh luận giữa Lê Mạnh Thát và Hội sử học Việt Nam cùng lắm cũng như "Thờn bơn méo miệng, chê trai lệch mồm".Họ chỉ căn cứ vào tính hợp lý riêng rẽ từng hiện tượng. Với phương pháp luận kiểu này thì quả cà chua sẽ không phải quả cà chua hay nói một cách dân giã hơn "Mồm bò chẳng phải mồm bò, nhưng lại là mồm bò". Minh triết hơn một tý nữa thì tức là kiểu lập luận : "Lực sĩ Asin không đuổi kịp con rủa". Rõ ràng là vô lý , nhưng không phải dễ chỉ ra cái vô lý đó. Cho nên ngay từ lúc đó tôi thấy cần phải ở bên canh Ngài Lê Mạnh Thát để cùng ông chỉ ra cái sai của mấy loại học giả kiểu này. Ông Lê Mạnh Thát có thể sai. Nhưng tôi không thể để cái đám "hầu hết những nhà khoa học trong nước" và cái "công đồng khoa học thế giới" phủ nhận văn hiến Việt đúng được. Thật tức cười! Lúc đầu hội sử học Việt Nam la toáng lên sẽ lập một hội thảo về vấn đề Lê Mạnh Thát. Sau im re. Hic. Cách đặt vấn đề về sự tồn tại tiếng Việt thời Hùng Vương hoàn toàn chính xác. Điều này ông Đỗ Văn Xuyền đã minh chứng. Tôi sẽ tiếp tục minh chứng điều này.
-
Quý 1/2009, Đà Nẵng đề xuất để dân bầu chủ tịch TP 20:21' 02/12/2008 (GMT+7) - Cùng với đề xuất lập Quỹ giữ gìn đạo đức công chức, Đà Nẵng sẽ chính thức đề nghị Chính phủ cho thí điểm dân bầu trực tiếp chủ tịch UBND TP. TIN LIÊN QUAN "Nộp hồ sơ về Đà Nẵng còn nhanh hơn rút nơi khác" Tranh cử chủ tịch TP:Chưa nhận được đề nghị của Đà Nẵng Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch HĐND TP Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh đề xuất lập quỹ "giữ gìn đạo đức công chức" tại kỳ họp thứ 12 HĐND TP khoá VII. Ảnh: HC Phát biểu vào cuối ngày họp đầu tiên (2/11) của kỳ họp cuối năm HĐND TP, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HĐND TP Nguyễn Bá Thanh cho hay: "Hiện các cơ quan chức năng TP đang khẩn trương nghiên cứu để trong quý 1/2009 chính thức báo cáo với Chính phủ đề án thực hiện mô hình chính quyền đô thị tại Đà Nẵng". "Trong đề án này, Đà Nẵng sẽ đề xuất thí điểm việc dân bầu trực tiếp chủ tịch UBND TP", ông Thanh khẳng định. Sáng kiến tăng thu nhập công chức Ông Nguyễn Bá Thanh cũng tiết lộ, đề án trình Chính phủ sẽ đề xuất việc thành lập một loại quỹ nhằm hỗ trợ công chức, viên chức, được một số đại biểu HĐND TP gọi là Quỹ giữ gìn đạo đức công chức. Theo đó, ngân sách TP sẽ dành từ vài chục đến vài trăm tỷ đồng lập quỹ hỗ trợ (ngoài lương) nhằm tăng thêm thu nhập cho đội ngũ cán bộ, công chức. Khoản hỗ trợ này sẽ được chia làm hai: công chức được nhận trực tiếp một phần ít (khoảng 1 triệu đồng/tháng), phần còn lại nhiều hơn (khoảng vài triệu đồng/tháng) sẽ được lập thành sổ tiết kiệm mang tên công chức đó và lưu giữ tại cơ quan chức năng của TP. Thâm niên của công chức càng lâu thì số tiền trong sổ tiết kiệm này sẽ càng lớn. Theo dự kiến của Bí thư Thành ủy, một công chức có thâm niên khoảng 20 năm trở lên thì số tiền này có thể lên đến hàng trăm triệu đồng. Đến khi nghỉ hưu, thậm chí số tiền trong sổ tiết kiệm có thể lên đến cả tỷ đồng và toàn bộ sẽ được chuyển giao cho công chức (ngoài lương hưu). Tuy nhiên, không phải bất cứ ai đang là công chức cũng sẽ đều được hưởng chế độ này. Để thực hiện đề án, TP sẽ tiến hành rà soát lại toàn bộ đội ngũ công chức, hiện khoảng 2.100 - 2.200 người. Những người có đủ khả năng làm việc lâu dài mới được giữ lại. “Công chức phải ra công chức, không thể ăn mặc lôi thôi, làm việc ì ạch”, ông Nguyễn Bá Thanh nói. Đà Nẵng vốn được biết đến bởi một loạt chính sách thu hút người tài. Trong 7 năm, TP này đã "hút" được hơn 500 SV khá, giỏi, 70 thạc sĩ và 3 TS. Theo thống kê của Sở Nội vụ, 30% trong số đó đến từ các địa phương khác: Hà Nội, Thanh Hóa, Quảng Ngãi, Quảng Trị... Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện đề án, những công chức có vi phạm sẽ tuỳ theo mức độ mà xem xét. Vi phạm nhẹ thì cảnh cáo, 3 lần cảnh cáo sẽ cho nghỉ; còn vi phạm nặng thì cho nghỉ ngay. Khi đó, toàn bộ số tiền trong sổ tiết kiệm của công chức kể trên cũng sẽ bị… xóa sạch. “Công chức sau một đời làm việc, đến khi nghỉ hưu, ai cũng mong có một khoản để chăm lo nhà cửa, đi du lịch, cưới vợ, xây nhà cho con… Một công chức đã làm việc chừng chục năm thì trong sổ tiết kiệm sẽ có khoảng vài chục đến cả trăm triệu. Do vậy, khi bị mua chuộc, hối lộ chừng vài triệu hay vài chục triệu thì họ sẽ chờn tay, nếu không muốn vì khoản lợi nhỏ trước mắt mà mất đi khoản vốn lớn hơn đang có trong sổ tiết kiệm. Như thế công chức sẽ có ý thức hơn trong việc giữ gìn phẩm chất, đạo đức”, ông Thanh lý giải sáng kiến có tính đột phá này. Đối với đội ngũ viên chức (y tế, giáo dục…) hiện vào khoảng mười mấy ngàn người, ông Nguyễn Bá Thanh cho hay, đề án kể trên cũng sẽ nghiên cứu để hỗ trợ mỗi người từ 30 - 50 triệu đồng khi nghỉ hưu và cũng sẽ tiến hành theo cách thức như áp dụng với công chức. “Nguồn ngân sách này hoàn toàn nằm trong khả năng của TP. Chẳng hạn, hiện chúng ta đang dự định xây 3 cây cầu qua sông Hàn, có thể trước mắt chỉ xây 2 cây cầu thôi, dành nguồn vốn của cây cầu còn lại để lập quỹ, sau này TP phát triển hơn sẽ xây tiếp chứ không đi đâu mà mất”, Bí thư Thành ủy cho hay. Theo ông Thanh, cách làm này Singapore và một số nước đã thực hiện từ hàng chục năm nay chứ không phải là đề xuất gì mới mẻ, ghê gớm. "Đề xuất này của TP (cũng như đề xuất về việc dân bầu trực tiếp chủ tịch UBND TP) là thực hiện theo tinh thần Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị, cho phép Đà Nẵng có phương án trình Chính phủ phê duyệt thí điểm một số cơ chế, chính sách mới, chưa có hoặc có nhưng chưa hiệu quả, nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển của TP". Ông cũng đề nghị các đại biểu HĐND TP Đà Nẵng dành hai ngày còn lại của kỳ họp để thảo luận cụ thể về định hướng lập quỹ này, đặc biệt là các vướng mắc có thể nảy sinh đối với luật hiện hành: Luật Ngân sách, Luật Cán bộ, công chức và cả Hiến pháp. Hải Châu
-
Hai cái khó để thực hiện ý tưởng của Đà Nẵng 08:20' 08/12/2008 (GMT+7) - "Kiến nghị của Đà Nẵng gợi mở một cách tư duy mới trong tổ chức quản trị quốc gia. Nên coi ý tưởng này như cơ hội để trao đổi, tranh luận trong thiết kế mô hình quản trị để xây dựng một chính quyền năng động, chọn được người tài đứng đầu, bảo đảm quyền chủ động của địa phương", Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, TS Nguyễn Sĩ Dũng nói về đề xuất của Đà Nẵng để người dân bầu trực tiếp chủ tịch thành phố. Dân chủ không bao giờ là "quà tặng" bất ngờ Chủ tịch Đà Nẵng ủng hộ đề xuất dân bầu chủ tịch TS Nguyễn Sĩ Dũng. Ảnh: LADHệ chuẩn hoàn toàn mới - Đề xuất người dân bầu trực tiếp chủ tịch thành phố của Đà Nẵng đang nhận được nhiều ý kiến trái chiều bởi ngay cả chủ trương thí điểm người dân bầu chủ tịch xã đưa ra Quốc hội mới đây vẫn còn chưa được thông qua. Chủ trương này nếu làm trong điều kiện hiện nay sẽ vấp phải những vướng mắc gì, thưa ông? - Để người dân được bầu trực tiếp chủ tịch thành phố là xác lập một hệ chuẩn hoàn toàn mới trong tổ chức quản trị quốc gia. Chưa bàn đến yếu tố chính trị, dân chủ, chỉ xét về phương diện kỹ thuật thì sẽ có hai cơ quan đại diện là hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính thủ trưởng. Sự ủy quyền đại diện của dân cho hai cơ quan này cũng khác nhau. Một bên theo chế độ hội nghị, tranh luận và đa số. Còn bên kia theo chế độ thủ trưởng. Ông chủ tịch thành phố do dân bầu cũng tương đương như một cơ quan đại diện. Chủ tịch thành phố sẽ có một nền tảng cử tri lớn hơn bất kỳ một ông dân biểu nào. Chủ tịch thành phố chịu trách nhiệm trước dân chứ không phải chịu trách nhiệm trước hội đồng. Ngay cả người đứng đầu Đảng cũng buộc phải đứng ra tranh cử để có một vị thế hợp pháp. - Khi mà quyền lực của ông chủ tịch do dân bầu rất lớn vì đã nhận được sự ủy quyền, tín nhiệm trực tiếp từ dân thì nên thay đổi cơ chế giám sát như thế nào để tránh chuyện lạm quyền? - Đây là cái khó thứ hai, buộc lòng phải cải cách sâu hơn nữa. Không thể có chuyện để mặc chủ tịch TP tự phê chuẩn mọi quyết định. Theo mô hình Xô - Viết, cơ quan quyền lực địa phương tập trung hết vào hội đồng nhân dân, nhưng áp dụng việc bầu chủ tịch thì quyền lực nằm ở cả hai bên, do đó cần xác lập một mối quan hệ trên nguyên tắc kiểm tra, chế ước và cân bằng lẫn nhau. HĐND sẽ phải làm việc thường xuyên để kiểm tra từng quyết định. Tối thiểu phải có phiên họp toàn thể mỗi tuần một lần. Những cải cách này sẽ đụng Hiến pháp rất ghê gớm. Nếu muốn "lách" mà không đụng Hiến pháp thì chỉ có cách xin thí điểm. Nhưng có thể thí điểm Hiến pháp hay không lại vẫn còn là câu hỏi bỏ ngỏ. Những cải cách này sẽ đụng Hiến pháp rất ghê gớm vì Hiến pháp thiết kế chính quyền theo mô hình Xô - Viết. Nếu muốn "lách" mà không đụng Hiến pháp thì chỉ có cách xin thí điểm. Nhưng có thể thí điểm Hiến pháp hay không lại vẫn còn là câu hỏi bỏ ngỏ. "Rất cần cải cách" - Có vẻ như đây là đề xuất rất khó khả thi trong điều kiện hiện nay. Vậy ông có gợi ý nào để ý tưởng này trở thành hiện thực? - Bầu trực tiếp chỉ làm được trong mô hình phân quyền ngay từ Trung ương và địa phương được tự quản. Nếu vẫn duy trì mô hình tập quyền ở Trung ương thì chuyện bầu trực tiếp khó thành thực chất. Ở dưới bầu "anh" lên nhưng nếu trên không cho "anh" một cái quyền thì việc bầu không có ý nghĩa. Tốt hơn cứ để trên cử về. Đã để cho dân bầu thì phải hiểu rằng anh sẽ rất độc lập với trung ương. Về lý luận, chúng ta chưa giải quyết được câu chuyện địa phương có được tự quản hay không, quyền tự quản của địa phương đến đâu. Lý thuyết phân cấp, phân quyền chưa thực sự rõ ràng, mạch lạc, triệt để sẽ gây khó khăn cho việc xây dựng một mô hình cụ thể. Rõ ràng là rất cần cải cách và đề xuất của Đà Nẵng là một cơ hội để tranh luận, trao đổi, nhằm chọn ra được một mô hình chính quyền năng động hơn, chịu trách nhiệm tốt, từ đó chọn được người tài đứng đầu và bảo đảm quyền chủ động của địa phương. Kiến nghị của Đà Nẵng gợi mở một cách tư duy mới và nghiêm túc trong việc tổ chức quản trị quốc gia và đặt vấn đề để thay đổi. Đây là cơ hội để trao đổi, tranh luận và nêu ra ý tưởng trong thiết kế mô hình tổ chức chính quyền. Lúc này, chúng ta cũng đang có những thử nghiệm bước đầu để đi ra khỏi mô hình Xô - Viết, nghị quyết thí điểm bỏ hội đồng nhân dân quận, huyện, phường mà Quốc hội thông qua vừa rồi là một trong số đó. Mô hình Đức: TƯ chỉ làm những việc địa phương không làm - Cùng với ý tưởng để người dân bầu chủ tịch, Đà Nẵng cũng đang xây dựng đề án xin thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và TP Hồ Chí Minh cũng có đề xuất tương tự. Theo ông, nên để các địa phương tự dò dẫm, cải tiến, xin thí điểm một số cách làm mới trước, hay Trung ương nên làm rõ việc chúng ta đang muốn xây dựng theo một mô hình chính quyền nào trước? Bầu trực tiếp chỉ làm được trong mô hình phân quyền ngay từ Trung ương và địa phương được tự quản. Nếu vẫn duy trì mô hình tập quyền ở Trung ương thì chuyện bầu trực tiếp khó thành thực chất. - Nên làm rõ ta đang muốn đi theo mô hình nào trước. Nhìn lại lịch sử, trước kia dưới thời phong kiến, chúng ta đi theo mô hình tập quyền, chỉ có chính quyền Trung ương, không có chính quyền địa phương. Trừ cấp làng xã có bầu bán, còn lại ở bên trên là do vua bổ nhiệm. Từ năm 1945 đến 1959 là đan xen mô hình từ thời Pháp và cách mạng với các ủy ban hành chính nhưng mô hình này vận hành thời gian ngắn nên không rõ. Từ năm 1960 ta đi theo mô hình Xô - Viết, sau đó nhân rộng cả miền Nam. Nên có một nghiên cứu lại về mô hình tổ chức chính quyền. Còn hiện nay, thí điểm bỏ HĐND nhưng lại chưa làm rõ sẽ đi theo mô hình nào. - Đã từng nghiên cứu nhiều mô hình quản trị hiện đại, tiên tiến trên thế giới, ông thấy Việt Nam nên đi theo mô hình nào là phù hợp? - Trên thế giới, ngoài mô hình Xô - Viết, còn có 3 mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Đó là mô hình như kiểu nước Pháp, mô hình kiểu Đức và mô hình Anh - Mỹ. Mô hình nào cũng có lịch sử, cần nghiên cứu. Lý tưởng nhất, đem lại sự thịnh vượng là mô hình Anh - Mỹ. Chuyển từ mô hình Xô - Viết, có lẽ nên lựa chọn mô hình như của Đức, dù gần gũi nhất có lẽ là mô hình Pháp. Theo mô hình kiểu Đức thì hầu như địa phương làm hết, Trung ương chỉ làm những việc mà địa phương không làm như quốc phòng - an ninh. Đặc biệt, cho bầu cử rộng rãi ở cấp cơ sở để địa phương tự chịu trách nhiệm trước dân. Lịch sử của mô hình này xuất phát từ việc các bộ lạc sống tản quyền. Khi có nhu cầu chống ngoại xâm, tập hợp lại và cái gì không làm được thì ủy quyền cho bên trên. Lê Nhung
-
Theo tôi thì trong một hoàn cảnh nào đó cái tuyệt đối nhất cũng bị hạn chế. Bởi vậy chúng ta cần xác định tính hạn chế nhìn từ góc độ nào. Tôi nghĩ ngay bây giờ Thượng Đế có hiện ra thì chính Ngài cũng bị hạn chế - dù Ngài hiện ở bất cứ đâu trên thế gian này.
-
Cô bé Sài Gòn này, Bài ở topic khác thì hỏi xem có lấy nhau được không, hay thôi cho rảnh? Ở bài này thì xem ngày cưới. Híc. Cô bé này vui nhỉ! Bé vào đây xác nhận là quyết tâm lấy anh bạn này hay không thì chú và chị Laviedt sẽ xem rất kỹ.
-
Trong các bài viết sưu tầm về phong thủy không phải quan điểm chính thức của Phong Thủy Lạc Việt thì chúng tôi đã khuyến cáo - đại ý - là:Chỉ là tài liệu tham khảo, không phải quan điểm chính thức của Phong Thủy Lạc Việt. Bởi vậy, không có vấn đề: . Nếu Concaocon là học viên lớp Phong Thủy Lạc Việt thì biết rất rõ rằng: Đối với tôi thì tất cả cội nguồn văn hóa Đông phương đều có nguồn gốc Việt - Không có vấn đề của Tàu ở đây!Nếu lỡ mua rồi mà nhà có tủ sắt đựng tiền thì nhốt ông ta vào trong tủ khóa lại và nói với ông ta rằng: Chùng nào tủ sắt đầy tiền thì cho ông ta ra! Bởi vậy ông ta mới gọi là "Thần giận dữ" - vì bị nhốt. Chúc con cáo con vạn sự an lành.
-
Vấn đề là hai người yêu nhau thì cứ lấy. Không thì thôi. Đây là trường hợp câu hỏi khó có lời chứng nghiệm.
-
Tuduca thân mến.Trong những trường hợp như thế này tôi rất thận trọng khi trả lời. Cho tôi hỏi thêm: 1 - Trước khi cháu bé ra đời hoặc trước khi cháu bệnh, gia đình Tuduca có sửa chữa, xây dựng, chuyển đổi nhà cửa không? 2 - Bố mẹ cháu tuổi gì? Trên cháu còn anh chị em nào không? Tuổi gì?
-
Nói đến truyền thống sử văn hiến Việt trải gần 5000 năm trong sách giáo khoa - Có một lần Wildlavender nói với tôi - cũng cách đây vài năm - rằng: Đợt này với vị lãnh đạo bộ giáo dục mới, chắc chắn nền giáo dục Việt sẽ có cải tổ sâu rộng. Tôi trả lời Wild: Còn anh và em đây. Anh khẳng định với em rằng: Chừng nào cổ văn hóa sử truyền thống Việt trải gần 5000 văn hiến chưa được tôn vinh trở lại trong sách Giáo Khoa thì sẽ chẳng có một cuộc cải cách nào thành công cả. Rồi em xem! Tôi không phải cực đoan - cái gì cũng qui về cổ văn hóa sử truyền thống Việt với gần 5000 năm văn hiến - Nếu chúng ta chịu khó suy ngẫm câu của nhà khoa học Trịnh Xuân Thuận phát biểu rằng: Để giải thích một hiện tượng dù rất nhỏ cũng phải viện dẫn toàn thể lịch sử hình thành vũ trụ - thì chúng ta sẽ suy ra tại sao lại có mối liên quan này.