-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Anh chị em lớp Phong thủy Lạc Việt khóa II chép hình vệ tinh này vào trong lớp - Quán Cafe . Đây sẽ là tài liệu giảng dạy về hình thể sau này. Tôi sẽ có bình luận - không phải bài giảng chính thức trong lúc này. Về cái khu chợ 19/ 12 này hình như là tên mới đặt sau khi tôi đã ly quê, nên mặc dù nghe nói nhiều, nhưng cũng chẳng biết nó ở đâu trên đất Hanoi. Bây giờ mới biết. Về bài viết này thì do tôi chưa đến tận nơi quan sát nên chẳng thể bình luận được. Nhưng quan điểm của tác giả cho rằng: "Phong thủy chính là một vũ khí thầm lặng và vô cùng lợi hại" thì hoàn toàn chính xác. Cảm ơn Thanhphuc đưa bài viết.
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Khi đặt lại vấn đề hoài nghi về sự tồn tại của thời Hùng Vương tức là đặt lại thời điểm lập quốc của dân tộc Việt. Nếu nhân danh tính khách quan khoa học thì có thể đặt lại vấn đề này. Nhưng cũng nhân danh tính khách quan khoa học thì những vấn đề được đặt ra cần phải chứng minh. Chúng ta ta xem ông Lê Văn lan chứng minh như thế nào? Ông Lê Văn lan đặt vấn đề: Đúng là trên thực tế truyền thống văn hóa sử Việt lưu truyền lại cho con cháu đời sau về một thời đại Hùng Vương - với quốc gia Văn Lang khởi nguyên của dân tộc Việt. Nhưng cũng truyền thống văn hóa sử đó cũng lưu truyền rằng: "Dân tộc Việt có hơn 1000 năm đô hộ của Bắc phương" và cũng không thể phủ nhận điều này. Và chính điều này giải thích vì sao có sự thất truyền của chính sử Việt trước thời Bắc thuộc. Một ngàn năm - đó không phải con số để đọc trong một giây - khi mà mới chỉ đến thứ hệ thứ ba của người Việt ở hải ngoại thì con dân Việt tộc có thể đã nói tiếng Việt không rành , nếu như không được tiếp tục học tiếng Việt trong mối liên hệ văn hóa Việt. Bởi vậy cách đặt vấn đề riêng rẽ về Thời Hùng Vương qua truyền thống, mà không khái quát luôn thời Bắc thuộc trải hàng ngàn năm là cách đặt vấn đề một chiều và không khách quan, khi chỉ đưa ra một hiện tượng hoài nghi duy nhất về thời đại Hùng Vương, mà không đặt vấn đề về nguyên nhân thất truyền của chính sử thời Hùng cũng do truyền thuyết văn hóa sử ghi nhận. Trong hoàn cảnh lịch sử năm 1974 trước những học giả bậc thày như Nguyễn Khánh Toàn - ông Lê Văn Lan vẫn phải thừa nhận trong phần chú thích: Thời Hùng Vương là “thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên” - Nhưng ông ta lại phủ nhận gía trị nội dung của thời đại các vua Hùng với quốc gia Văn Lang. Chúng ta xem tiếp nhưng đoạn sau đây chứng tỏ điều này: Qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta cũng thấy rằng: Ông Lê Văn Lan chưa đưa được chứng lý nào để phủ nhận "thời đại Hùng Vương - thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc Việt". Mà ông ta chỉ đặt vấn đề hoài nghi rất lập lờ. Chúng ta xem lại đoạn trích dẫn sau đây: Chúng tôi ngờ rằng, theo những tài liệu đang nắm được như bây giờ, thì lối tính niên đại bốn nghìn năm cho “thời Hùng Vương” (5) có lẽ chỉ mới phổ biến vào thời gian đầu thế kỷ này, và cùng chung cái đà với các tác giả này. Điều này không có gì phải nghi ngờ cả - mà nó rõ như ban ngày. Tất nhiên chỉ đến thế kỷ XV thì lịch sử dân tộc Việt mới đủ thời gian để viết rằng: Lịch sử Việt trải 4000 năm và khái niệm hơn 4000 năm lịch sử mới được nhắc tới vào đầu thế kỷ XX. Chứ không lẽ dân tộc Việt nói sử Việt hơn 4000 năm từ thời Đinh và Tiền Lê? Cũng như phải cho đến ngày nay Thiên Sứ tôi với mạnh dạn nói rằng: Lịch sử văn hiến Việt trải gần 5000 năm. Mặc dù vẫn cùng dựa vào thời điểm lập quốc của dân tộc Việt do chính sử ghi nhận: Quốc gia Văn Lang - nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt - dưới sự trị vì của các Vua Hùng thành lập ở thời điểm năm 2879 BC. Mọi việc rõ ràng như vậy, nhưng ông Lê Văn Lan vẫn lập lờ cho sự hoài nghi của ông để dẫn đến phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt. Cách viết của ông Lê Văn Lan không khác gì bảo rằng:"Tôi ngờ rằng bố mẹ thằng bé này nói nó lên 10 tuổi chỉ khi nó lên mười tuổi". Trên cơ sở hoài nghi chủ quan và không căn cứ khoa học này - mà tôi đã chứng minh ở trên qua phần trích dẫn về thời điểm lập quốc - ông ta đặt lại vấn đề về nội dung khái niệm về Vua Hùng - người đứng đầu nhà nước Văn Lang - quốc gia khởi nguyên của dân tộc Việt. Ông Lê Văn Lan viết: Như vậy chúng ta đã thấy bắt đầu từ việc lập lờ trong cách đặt vấn đề hoài nghi niên đại thời Hùng Vương, ông ta đã cùng Trần Quốc Vượng đặt lại vấn đề người đứng đầu quốc gia để phủ nhân quốc gia đầu tiên của dân tộc Việt. Chúng ta xem lại những đoạn sau đây: * "sẽ thấy rõ khái niệm “vua” trùng với “bố”: người đứng đầu một cộng đồng." * Dường như là Hùng, gọn lại cũng như Khun, Cun…, đều là tên gọi người đứng đầu một cộng đồng. Hùng Vương, danh hiệu đó, như vậy vừa là phiên âm, vừa là phiên dịch sang chữ Hán, cách gọi tên của những người Việt Nam thời cổ về người đứng đầu, những người đứng đầu của mình (1). Như vậy, chúng ta đã thấy rằng: Ông Lê Văn Lan đã mượn sự liên hệ chưa được minh chứng rõ ràng giữa những khái niệm về Hùng Vương với các khái niệm đơn giàn hơn để dẫn đến phủ nhân quốc gia đầu tiên với vị lãnh đạo tối cao Hùng Vương - xuống đồng với khái niệm thủ lĩnh địa phương và chỉ coi quốc gia Văn Lang - theo cách gọi của ông là - "một cộng đồng". Rõ ràng đây không phải là những luận cứ khoa học. Trong những luận cứ ngây ngô này, ông Lê Văn Lan lặp lại một sai lầm toán học sơ đẳng của học sinh cấp một - mà tôi đã nhiều lần chứng minh trên các diễn đàn và ngay trong bài viết trước - trong topic này là - chúng ta xem lại đoạn sau đây trong phần trích dẫn trên: * (2) Ví như các tác giả những bản thần phả thời Lê sơ, mà trong đó đã xác định được “vai trò quan trọng” của các nhà hàn lâm Nguyễn Bính, Nguyễn Cố, v.v… cố gắng tạo cho các vua Hùng những tuổi thọ hàng mấy trăm năm để khớp với cả cái thời Hồng Bàng mà chuyện gốc – cái niên điểm mở đầu: Nhâm Tuất 2879 – lại cũng do chính người cùng thời với họ tạo ra. Để có cái mà những giáo sư - tiến sĩ sử học trong cái nhóm "hầu hết những nhà khoa học trong nước" thường nói đến tuổi thọ mấy trăm năm của các vua Hùng chính là họ đã chia con số 2622 năm cho con số 18 vị vua Hùng . Khi mà họ chưa chứng minh được thời Hùng Vương chỉ có 18 đời vua. Có thể nói rằng: Cái luận cứ gọi là "khoa học" này lặp đi lặp lại từ những kẻ dốt nát tới những bằng cấp giáo sư thuộc về khối "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt. Nếu những lập luận này cứ trơ cái mặt thớt để được coi là "khoa học" thì toàn bộ cơ sở giáo trình toán học thế giới này phải bãi bỏ, khi mà số gà có thể trừ đi số vịt mà không cần qui đổi ra một đại lượng đồng đẳng. Tóm lại, trong đoạn trích dẫn trên - chúng ta đã thấy rất rõ ông Lê Văn lan hoàn toàn không đưa được một bằng chứng xác đáng nào để minh chứng cho vấn đề được đặt ra từ sự hoài nghi của ông ta. Bởi vì chính sự hoài nghi đó đã không xuất phát từ một sự nhận thức toàn diện về truyền thuyết văn hóa sử Việt. Kính thưa quí vị quan tâm. Sự tồn tại khách quan của một thời đại - cụ thể là một vương triểu hiển hách và quốc gia Văn Lang - sẽ không thể chỉ là vấn đề được ghi nhận trong văn bản cổ - khi mà quốc gia đó đã sụp đổ từ hàng ngàn năm trước và dân tộc trong quốc gia đó bị đô hộ trải hàng ngàn năm. Cũng không thể coi di vật khảo cổ là bằng chứng duy nhất để minh chứng cho lịch sử được ghi nhận về biên giới của quốc gia Văn Lang cổ sơ với địa bàn cư trú hiện nay của Việt Tộc - khi lịch sử đã đầy những biến cố thăng trầm của Việt tộc. Nhưng nhà nước Văn Lang với triều đại của các vua Hùng - xác định thời điểm lịch sử của dân tộc đã là một thực tại tồn tại khách quan thì nó phải tồn tại với những dấu ấn của nó trên nhiều phương diện ngoài văn bản lịch sử dù bị hủy diệt với biến cổ lịch sử. Thiên Sứ tôi cũng trân trong lưu ý quý vị quan tâm là tôi chỉ nhân danh khoa học để minh chứng lịch sử huyền vĩ trải gần 5000 năm của dân tộc Việt, ngoài ra không sử dụng phương pháp luận nào khác. Sự phân tích phản biện bài viết của Lê Văn Lan còn tiếp tục. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị. (Còn tiếp)
-
Hi! Quangnx rất là thân mến. Lâu quá chắc bận lắm bây giờ mới xuất hiện trên diễn đàn. Và điều rất rất là đáng quí là đã dẫn chứng một lý thuyết "thậm chí rất rất rất... hiện đại" để minh chứng Thiên Sứ đúng. Quangnx thân mến. Khi tôi đặt vấn đề về thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ và nó thuộc về một nền văn minh toàn cầu kỳ vĩ đã tồn tại trên trái Đất này từ phần cuối của cuốn "Tìm Về cội nguồn Kinh Dịch" cho đến nay đã 8 năm. Tám năm qua, đến nay thì tôi đã có thể dựng lại những nét chính của nền văn minh kỳ vĩ ấy trong ý thức của tôi. Dẫn chứng của Quangnx khiến tôi có thể mạnh dạn hơn khi khẳng định lại một lần nữa khi viết như sau: Bí ẩn tận cùng của vũ trụ này nằm trong nền văn hiến huyền vĩ Việt trải gần 5000 năm văn hiến. Lời tiên tri của bà Vanga rất đúng cho rằng: Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại. Nhưng rất tiếc bà lại đặt một vần đề rất bí ẩn là "Chỉ khi dân tộc Xiry bị diệt vong". Những giá trị nhân bản của nền văn hiến Việt cho rằng: Phần sau lời tiên tri của bà Vanga có thể sai. Lời tiên tri này cần sửa lại rằng: Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại, khi nền văn hiến trải gần 5000 năm của dân tộc Việt được tôn vinh!
-
Quí vị quan tâm thân mến Bài viết này của ông Lê Văn Lan với chủ đề được xác định ngay từ cái tựa - Về khái niệm thời Hùng Vương. Nhưng tại sao Thiên Sứ tôi lại xếp vào loại" Những luận điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt? Xin quý vị theo dõi bài phân tích phản biện dưới đây: PHÂN TÍCH BÀI VIẾT CỦA ÔNG LÊ VĂN LAN Về khái niệm thời Hùng Vương Kính thưa quí vị quan tâm. Có thể nói rằng: Truyền thống văn hóa sử Việt Nam đã khẳng định dân tộc Việt là một quốc gia văn hiến, mà thời lập quốc bắt đầu từ thời Hùng Vương. Khoa lịch sử hiện đại qui định rằng: Lịch sử của một dân tộc được xác định từ thời điểm dân tộc đó lập quốc. . Như vậy, kể từ khi chưa hề tiếp xúc với những qui ước của lịch sử hiện đại, từ ngàn xưa ông cha ta đã khẳng định: Quốc gia Văn Lang là quốc gia đầu tiên của dân tộc Việt: Bắc giáp Động Đình Hồ, Nam Giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Đông Hải. Tất nhiên khi qui ước của lịch sử hiện đại thành lập thì lịch sử dân tộc Việt phải bắt đầu từ thời Hùng Vương - theo chính sử ghi lại thì bắt đầu từ 2879 BC - đến nay trải gần 5000 năm và là một quốc gia văn hiến. Nhưng nhiều nhà nghiên cứu cổ sử hiện nay đã xét lại truyền thống lịch sử đó và dẫn tới phủ nhận những giá trị văn hóa sử truyền thống của dân tộc Việt. Chúng ta có thể thấy rõ điều này ngay lời mở đầu bài viết của ông Lê Văn Lan.Ông Lê Văn Lan viết ngay từ lời mở đầu bài viết của ông ta như sau: Qua đoạn trích dẫn phần mở đầu bài viết trên của ông Lê Văn Lan, chúng ta đã thấy rất rõ rằng: Ông Lê Văn Lan đã đặt lại cội nguồn truyền thống lịch sử văn hiến Việt đã được ghi nhận trong chính sử qua câu: "Thế nào và lúc nào là thời Hùng Vương", khi mà chính sử đã ghi rõ như tôi đã trình bày ở trên. Nếu chúng ta tạm chưa xét tới những mối tương quan hình thái ý thức xã hội với dân tộc như: Văn hóa truyền thống, tâm linh, đạo lý dân tộc...và chỉ bàn đến khoa học thuần túy thì có thể nói ông Lê Văn Lan có quyền đặt vấn đề như vậy. Hay nói một cách khác - Ông Lê Văn Lan nhân danh khoa học để hoài nghi về sự tồn tại của thời đại lập quốc của dân tộc Việt. Tức là xét lại toàn bộ lịch sử hình thành dân tộc Việt. Tôi xin nhắc lại tiêu chí của lịch sử cho lịch sử của một dân tộc là: Lịch sử của một dân tộc được xác định từ thời điểm dân tộc đó lập quốc. Bởi vậy, khi đặt vấn đề "Thế nào và lúc nào là thời Hùng Vương" tức là trên thực tế ông Lê Văn Lan và những người đồng quan điểm với ông đã đặt lại vấn đề: Lịch sử dân tộc Việt bắt đầu từ bao giờ? Và như vậy sẽ phải viết lại truyền thống lịch sử - văn hóa Việt. Ông ta sẽ không thể nhân danh truyền thống văn hóa sử Việt để đạt vấn đề như vậy. Vì nền văn hóa sử truyền thống Việt thừa nhận thời Hùng Vương là vương triều lập quốc đầu tiên của dân tộc Việt. Ông ta cũng không thể nhân danh những giá trị đạo lý của dân tộc Việt vì những giá trị đó không cho phép phủ nhận cội nguồn dân tộc...vv...Ông ta phải nhân danh khoa học để như là một cứu cánh cho vấn đề ông đặt ra - Nhưng khi ông Lê Văn Lan và những người đồng quan điểm với ông nhân danh là khoa học thì chính tiêu chí khoa học lại buộc ông ta với những người đồng quan điểm với ông phải chứng minh điều đó - khi ông ta đặt vấn đề: "Thế nào và lúc nào là thời Hùng Vương?". Có thể nói rằng: Tất cả những luận điểm phủ nhận cội nguồn truyền thống văn hóa sử của dân tộc Việt đều nhân danh khoa học như một cứu cánh cho vấn đề đặt ra. Họ cho rằng: Quan điểm của họ được "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" và được "cộng đồng khoa học thế giới thừa nhận" (1) như là một bằng chứng cho tính chân lý thuộc về họ. Nhưng rất tiếc! Chân lý Khoa học không lệ thuộc vào số đông. Có thể khẳng định rằng: Tất cả những luận cứ của họ không vượt qua được chính vấn đề họ hoài nghi và đặt ra. Những luận cứ của họ rời rạc, không nhất quán. Người thì bảo thời Hùng Vương là "liên minh 15 bộ lạc", người bảo là "thời Hùng Vương là nhà nước sơ khai"; kẻ bảo thời Hùng Vương từ thế kỷ thứ VII BC, kẻ bảo thứ IX BC.... cũng cãi nhau, cũng tranh luận, nhưng không thể nhất quán. Và đây là điều kiện cần đầu tiên trong tiêu chí khoa học cho một giả thuyết nhân danh khoa học. Hay nói cách khác: Họ không minh chứng được cho giả thuyết của họ. Có thể nói rằng: Chỉ cần như vậy thôi thì họ không có quyền gì phủ nhận những giá trị văn hóa sử truyền thống của dân tộc Việt trải gần 5000 năm văn hiến nhân danh khoa học và chưa cần phải phản biện khoa học. Nhưng rất tiếc! Cái gọi là nhân danh khoa học - mà chưa hề mang tính khoa học - lại được phổ biến đến mức xuất hiện cả trong sách giáo khoa và gần đây - Theo VnExpress - còn ra tận Đài Loan trong cuộc thi hình thể nam và xác định trước cộng đồng quốc tế rằng: "Ở trần đóng khố" là trang phục truyền thống của dân tộc Việt! Bởi vậy, Thiên Sứ tôi chẳng quản tài hèn tập hợp một số bài viết của những người gọi là học giả trong số "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" để chỉ ra nhưng sai lầm của họ. Thiên Sứ tôi cũng xin lưu ý quí vị độc giả rằng: Tôi cũng chỉ nhân danh khoa học trên cơ sở tiêu chí khoa học cho một giả thuyết khoa học và không nhân danh bất cứ một điều kiện nào khác. Chân lý khoa học là khách quan và không phụ thuộc vào bất cứ một dân tộc và quốc gia nào. Trên cơ sở này, tôi xin tiếp tục phân tích và phản biện bài viết của ông Lê Văn Lan. Còn tiếp
-
Khi sự việc xảy ra và xuất hiện trên báo chí - khoảng năm 2002 hoặc 2003 gì đó - thì tờ Thị Trường Nhà Đất (Tôi không nhớ chính xác tên) ông Song Thu đã phỏng vấn tôi về điều này. Tôi đã minh chứng rằng đây là trận trấn yếm do Cao Biền thực hiện với mục đích làm tụ khí đất để xây thành Đại La - Hình thể đất Thăng Long là đất phát đế vương - cái này thì ai cũng biết - Nhưng vào thời Cao Biền có hình mà chưa tụ khí. Nên Cao Biền thực hiện việc này. Hàng ngàn năm đã trôi qua, mục đích trấn yểm đã thành công và hoàn tất công việc. Việc đào được trận này bị dư khí của nó nên gây ảnh hưởng đến một số người, Khi dư khí thoát hết thì thôi và sẽ chẳng có chuyện gì cả. Bằng chứng sau thời gian phỏng vấn nói trên thì việc cải tạo sông Tô Lịch vẫn diễn ra bình thường.Còn Cao Biền sau đó bị vua Đường Ý Tông gọi về nước và chém đầu. "Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non" Vì người này đã trấn sai độ số của trận này. Chưa tới thời (Dậy non) đã muốn làm vua một cõi .
-
Bài này hay thật. Xúng danh với học giả Bình Nguyên Lộc nổi tiếng một thời. Nhưng có điều tôi thắc mắc. Xứ Tàu ngày xưa ở Bắc Dương Tử không có tê giác, hoặc tê giác rất hiếm. Chúng chỉ ở miền Nam Dương tử rất gần với Bắc Việt Nam của chúng ta ngày nay. Vậy đâu thể dễ lấy sừng tê làm chén uống rượu nhỉ? Từ lâu tôi đã hoài nghi toàn bộ tứ thư, Ngũ Kinh gọi là của văn minh Tàu thực chất thuộc về văn minh Văn Lang. Cũng như Kinh Dịch vậy - họ gán cho Khổng Tử.
-
ẤN TƯỢNG ĐỂ LẠI CỦA GIÁO SƯ LÊ VĂN LAN TRONG TÔI. Chuyện giải trí thư giãn giữa giờ. Kính thưa quí zdị phó thường dân như tôi và các bà nội trợ khà kính. Với chức danh cao quý "Phó thường dân dự khuyết hạng hai Nam Bộ", được vợ trân trọng gọi bằng anh và các con gọi bằng bố như tôi thì tôi chưa có dịp làm quen và thật sự chưa quan tâm đến nhà sử học Lê Văn Lan. Tôi cũng chưa có tư liệu văn bản và các di vật khảo cổ nào để chứng minh một cách pha học sự liên hệ giữa ông Lê Văn Lan 1974 - tác giả bài viết trên - với Giáo sư sử học Lê Văn Lan ngồi ghế giám khảo trong chương trình "Đường lên đỉnh Olimpia" của nhà đài VTV3. Bởi vậy nhân danh tinh thần "pha học" được hầu hết những nhà khoa học trong nước và cộng đồng khoa học quốc tế thừa nhận là "phải rửa tay trước khi ăn cơm"; "không uống nước lã, không ăn quả xanh" thì tôi chưa thể kết luận gì về mối liên hệ giữa Lê Văn Lan 1974 trong bài viết nói trên và Giáo sư sử học Lê Văn Lan trên tàng hình VTV3. Đó chính là tính thận trọng trong pha học. Bởi vậy, tôi phải nói lại cho rõ là tôi chỉ ấn tượng với hình ảnh của giáo sư Lê Văn Lan trong chương trình VTV3 mà thôi. Kính thưa quí zdị phó thường dân như tôi và các bà nội trợ khà kính. Có lẽ tôi cần phải nhắc lại hình ảnh rất ấn tượng về vị giáo sư này trên tàng hình VTV3. Hôm ấy, người dẫn chương trình - được gọi là cô giáo - hỏi một thí sinh là một cậu học trò với câu hỏi rất phổ thông: - Ai là vị vua nữ đầu tiên ở Việt Nam? thằng bé ngây ngô trả lời: - Hai Bà Trưng. Cô giáo quay lại hỏi ban giám khảo: - Thưa giáo sư! Câu trả lời của em có đúng không ạ? Giáo sư Lê Văn Lan trả lời: - Sai! Hai Bà Trưng là Vương chứ không phải là vua! Người nữ đầu tiên là vua trong lịch sử Việt Nam là Lý Chiêu Hoàng. Lạy Chúa! Thề có Thánh Ala! Nếu không có mặt bà vợ vĩ đại của tôi ngồi cạnh với bộ mặt lạnh như tiền mà tôi có trách nhiệm phải tôn trọng thì tôi đã nhảy dựng để gào lên: "Láo toét!". Kính thưa các bà nội trợ khả kính. Kinh thưa quí zdị. Vâng! Đấy là lý do duy nhất mà tôi đã im lặng khi xem chương trinh này và ấm ức đến ngày hôm nay. Đấy cũng chính là "ấn tượng để lại của giáo sư Lê Văn Lan trong tôi". Nhưng đến ngày hôm nay, khi "bốt" bài này của tác giả Lê Văn Lan cách đây vài phút, nên tôi có dịp xem kỹ hơn bài viết này thì lại thấy chính cái nhà ông Lê Văn Lan 1974 thừa nhận "Vương là vua"(?). Không tin xin quí zdị và các bà nội trợ khả kính xem lại dòng này: Zdâng! Thưa quí zdị. Vậy khái niệm "Vương - vua" được chính tác giả Lê Văn Lan xác nhận không chỉ một lần trong bài viết trên và được cơ quan có thẩm quyền chức năng là Ủy Ban Khoa học xã hội với Viện Khảo cổ học chính thức đăng tải - in thành sách hẳn hoi - với cách hiểu "Vương không phải là vua" - mà Hoàng mới là vua - của Giáo sư sử học Lê Văn Lan trong một trò giải trí của trẻ em cấp I ở chương trình "Đường lên đỉnh Olimpia" thì cái nào nên tin với hai người trùng tên? Và tôi cũng xin lưu ý để các quí bà cân nhắc giữa một cơ quan chức năng nhưng tác giả không chức danh với một trò chơi trẻ em nhưng lại được một giáo sư sử học bảo chứng. Kính thưa các quí bà nội trợ khả kính. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta phải giải quyết một tồn nghi lịch sử: * Lê Văn Lan tác giả bài viết và giáo sư sử học Lê Văn Lan trong chương trình VTV3 có phải là một người duy nhất hay không? Khi chúng ta chưa có văn bản tư liệu hoặc di vật khảo cổ chứng minh. Dù các quí bà ở bất cứ thành phần nào trong xã hội và không phân biệt giai cấp, tôn giáo, đang bán ve chai đồ nát hay đang dắt chó tập thể dục mỗi buổi sáng ngoài công viên thì Thiên Sứ tui hy vọng với trí tuệ tập thể cùa các quí bà sẽ có nhận định sáng suốt để chúng ta có thể quyết định vấn đề.
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Theo thông lệ, để bảo đảm tính khách quan Thiên Sứ tôi lại đưa nguyên văn bài viết của ông Lê Văn Lan viết trong cuốn "Hùng Vương dựng nước - Tập IV - 7" do UBKHXHVN phối hợp với Viện Khảo cổ học xuất bản 1974 để quí vị tham khảo trước khi viết bài phản biện. Đây là bài viết đầu tiên sưu tầm được trong một cuốn sách in của một cơ quan chức năng là Viện Khảo cổ học. Những dòng chữ hiển thị màu xanh bleur là chú thích của bài viết trong trang. * Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974 Về khái niệm thời Hùng Vương Lê Văn Lan Thế nào và lúc nào là thời Hùng Vương? Thời gian vừa qua, các nhà nghiên cứu, mặc dù đã có nhiều suy nghĩ, nhưng chưa có dịp trực tiếp bàn bạc nhiều về vấn đề này, mà thường chỉ qua cách gọi tên cho quãng thời gian mà mình nghiên cứu, vắn tắt gọi quan điểm của mình, gián tiếp nói quan điểm của mình. Tẩn mẩn sa vào chuyện chữ nghĩa, chúng tôi đã thử thu nhặt những từ mà các nhà nghiên cứu đã chọn dùng để mệnh danh cho quãng thời gian lịch sử mà mình nghiên cứu. Và kết quả là thấy xuất hiện khá nhiều cách mệnh danh khác nhau: thời đại Hùng Vương, thời kỳ Hùng Vương, giai đoạn Hùng Vương, thời kỳ Hùng Vương – An Dương Vương, thời kỳ Hùng Vương và An Dương Vương… Dĩ nhiên, như vừa trình bày, vì chưa có sự bàn bạc, càng chưa có sự quy định cụ thể, nên không thể có sự thống nhất chặt chẽ. Cho nên, có thể dễ dàng thông cảm với một số nhà nghiên cứu đã chọn lấy một cách mệnh danh khá chung chung là “thời Hùng Vương”, với chữ “thời” thật là “cơ động” trong các công trình của mình. * * * Một số không ít tác giả đã cho rằng cách dùng tên Hùng Vương để mệnh danh cho một thời gian lịch sử, với nội dung là toàn bộ “thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên” (1) là một cách gọi tên truyền thống, bây giờ chỉ việc dùng lại. Và cũng không ít người cho rằng cái quan niệm 4000 năm về niên đại của “thời Hùng Vương” như thế cũng là một quan niệm cổ truyền của nhân dân.(1) Thuật ngữ của đồng chí Nguyễn Khánh Toàn. Chúng tôi tán thành cách dùng. Ngẫm kỹ lại thì dường như không hẳn như thế. Chúng ta biết rằng cách tính tháng năm của thời gian lịch sử, phổ biến trong nhân dân thành một truyền thống, là cách tính theo đời, thậm chí cũng không thật cụ thể và chính xác đến con số của đời nữa (2), và ký ức dân gian về cổ sử, thường cũng chỉ tính theo các khái niệm: cổ, rất cổ, thượng cổ…, chứ không mấy khi tính cụ thể đến con số mấy trăm, mấy nghìn năm. Lối ghi nhớ thời gian có tính chất truyền thống dân gian như thế này, một ghi được văn bản phản ánh và ghi giữ, như trường hợp Lĩnh Nam chích quái chẳng hạn, cũng chỉ thấy áng thành một niên đại là “thời quốc sơ” mà thôi, chứ cũng không có con số tháng năm cụ thể. Thấy nói đến số năm tháng cụ thể, chỉ có sử sách. Như ở Đại Việt sử ký toàn thư chẳng hạn, dù Ngô Sĩ Liên đã theo công thức cổ của sử bút phong kiến, mà tính kỹ rằng quốc sử phần bản kỷ, đến đầu nhà Lê là 1634 năm, và ngoại kỷ, cộng 2672 năm, thì cũng chỏ mới gián tiếp gợi lên con số tháng năm chỉ “thời Hùng Vương, chứ chưa tạo nên một lối tính niên đại có giá trị cụ thể và phổ biến. Cho nên, những thơ văn vào loại cổ - thế kỷ thứ 15, thứ 17 chẳng hạn – đề vịnh Hùng Vương, cũng không thấy có việc tính toán đến con số cụ thể của sự lâu đời. Chỉ đến đầu thế kỷ này, với các tác giả như Hoàng Đức Trung, Nguyễn Đình Chuẩn, Lê Hữu Viện… và đặc biệt là Nguyễn Thuận Kế (3), mới thấy phổ biến sự tính toán cụ thể đến con số như “mấy nghìn năm trước” hoặc là “hai nghìn năm lẻ”, “hai nghìn năm sáu trăm năm có lẻ”, và rồi là “nước bốn nghìn năm” (4). (Những con số này hẳn là dựa vào việc phát hiện lại niêm điểm Nhâm Tuất 2879 trước Công Nguyên và sự gợi ý về cách tính niên đại từ thời Ngô Sĩ Liên. Chúng tôi ngờ rằng, theo những tài liệu đang nắm được như bây giờ, thì lối tính niên đại bốn nghìn năm cho “thời Hùng Vương” (5) có lẽ chỉ mới phổ biến vào thời gian đầu thế kỷ này, và cùng chung cái đà với các tác giả này. Đó là những điều kiện mới của trào lưu và sự chuyển hóa tư tưởng, văn hóa đầu thế kỷ 20 đặc biệt là sự phát triển của “tân thư”, “tân học”, “toán pháp” cùng với chủ nghĩa yêu nước đầu thế kỷ 20. Phổ biến mới từ đây, nhưng trong hoàn cảnh đấu tranh lấy lại nước bị mất, vì phù hợp và có lợi trước hết là cho những người yêu nước và cách mạng, rồi đến quảng đại quần chúng nhân dân, nên cách tính niên đại mở nước này mới nhanh chóng truyền bá đi, cho tới chúng ta ngày nay. (2) “Việc ấy dễ đã đến mấy đời”, “Việc ấy đã có từ trước ông cụ mấy đời nhà tôi” – Chúng ta vẫn thường nghe nói thế trong dân gian. (3) Với vế câu đối “Gây dựng trời Nam, nước bốn nghìn năm, nhà có nóc”. (4) Xem thêm Lê Tư Lành: Văn thơ đề Vịnh đền Hùng – Khảo cổ học, Hà Nội, số 3-4, tháng 12-1969. (5) Xin chú ý phân biệt lối tính cụ thể này với quan niệm hoàn toàn đúng đắn của nhân dân ta về sự lâu đời nói chung của thời Hùng Vương. Cái tên Hùng Vương đang quen dùng với ý nghĩa hiện nay, cũng có vấn đề tương tự như thế. Hùng Vương có thể là một ông vua, những ông vua thực, nếu chúng ta biết tách rời cái khái niệm về ông vua thời phong kiến ra khỏi cái tên gọi “vua” đã được phóng từ đấy ngược lên thời Hùng Vương. Vương, Vua – Bua, Bô, Bố, những cái tên gọi đánh dấu từng chặng đường phát triển của khái niệm ấy, mặc dù cũng có lúc thấy được kết ngang lại với nhau, như ở thế kỷ 8 (6), nhưng, theo kết cấu về thực chất là chiều dọc của các chặng đường ngôn ngữ này mà lần lượt lên đến “thời Hùng Vương”, sẽ thấy rõ khái niệm “vua” trùng với “bố”: người đứng đầu một cộng đồng. Sách Lĩnh Nam chích quái cho chúng ta biết rằng người thời Hùng Vương, mỗi khi gặp khó khăn thì dùng tiếng “bố” để gọi người đứng đầu của mình cứu giúp. (6) Trong trường hợp “Bố Cái đại vương”. Từ Vương (Vua) trong Hùng Vương (Vua Hùng) có nghĩa ấy, mà từ Hùng cũng có nghĩa ấy. Suốt mấy chục năm trước đây, và ở diễn đàn sử học Sài Gòn thì tới cả những năm gần đây, người ta đã dẫn toàn bộ công cuộc nghiên cứu thời đại dựng nước và giữ nước dầu tiên của dân tộc vào một ngõ cụt, ngay sau khi mở các cửa của các cuộc tranh luận về chữ Hùng, chữ Lạc. Không theo cái rớp ấy, mấy năm nay, các nhà nghiên cứu chúng ta đã mở những khoảng vấn đề rộng lớn, đồng thời, vẫn tạt qua, xem lại cái cửa cũ về chữ và nghĩa của cái tên Hùng. Dường như là Hùng, gọn lại cũng như Khun, Cun…, đều là tên gọi người đứng đầu một cộng đồng. Hùng Vương, danh hiệu đó, như vậy vừa là phiên âm, vừa là phiên dịch sang chữ Hán, cách gọi tên của những người Việt Nam thời cổ về người đứng đầu, những người đứng đầu của mình (1). Người đó, những người đó, chúng ta đã tìm được những dấu vết gián tiếp và đang hy vọng tìm được những dấu vết trựa tiếp ở những di chỉ và mộ táng trên vùng đất Tổ Phong Châu (Văn Lang) cũ. Cần chú ý là trước khi đi được đến chỗ nhận thức về thực chất những người đó, như vừa trình bày, thì, một lớp mây mù và vàng son của truyền thuyết và thư tịch cổ đã trùm phủ lên những nhân vật ấy. (1) Xem Trần Quốc Vượng: Về danh hiệu Hùng Vương – Khảo cổ học, Hà Nội, số 7-8, tháng 12-1970. Nhưng bây giờ, hãy trở về cách dùng tên Hùng Vương để mệnh danh cho một thời gian lịch sử. Chúng tôi ngờ rằng, với khái niệm thời gian đang được hiểu là nội dung của các tên gọi “thời kỳ” – “thời đại” – “giai đoạn” Hùng Vương hoặc “Hùng Vương – An Dương Vương” như hiện nay, chúng ta đã thống nhất mở rộng cái khái niệm thời gian mà các nhà nghiên cứu trước đây đã hiểu về “thời Hùng Vương”. Mọi người đều biết, chính sử của ta, từ Đại Việt sử ký toàn thư trở đi, dù là đặt ở ngoại kỷ hay tiền biên, thì cũng đều mở đầu bằng một kỷ, gọi là kỷ Hồng Bàng thị. Chính trong cái kỷ đầu tiên dài đến hơn hai nghìn năm đó của quốc sử, nắm gọn một khúc thời gian là “thời Hùng Vương”. Người xưa, có đôi lúc lẫn cái “thời Hùng Vương” với cái kỷ Hồng Bàng kia (2), nhưng về cơ bản, “thời Hùng Vương” vẫn chỉ được coi là một phần sau của thời Hồng Bàng, thậm chí, có trường hợp còn được xác định rạch ròi tên gọi là “thời Á Hồng Bàng” như ở một câu đối cổ giữa Chùa Tổng, làng Tứ Xã (Vĩnh Phú) (3). Như thế, rõ ràng cái tên gọi “thời Hồng Bàng”, trước đây vẫn được hiểu là một thời lớn hơn, trùm lên “thời Hùng Vương”. Và cái “thời Hồng Bàng” đó mới là cái tên gọi của toàn bộ thời đại dựng nước vá giữ nước đầu tiên của chúng ta. Có thể thấy cái “truyền thống” gọi tên như thế vẫn tồn tại mãi cho đến năm 1967 (4). Còn việc dùng tên Hùng Vương để mệnh danh cho toàn bộ thợi đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của lịch sử ta, dường như chỉ mới trở nên phổ biến trong vòng vài ba năm nay, do sự chuyển khái niệm, mở rộng nội dung, gần như là không tự giác của các nhà nghiên cứu bây giờ. (2) Ví như các tác giả những bản thần phả thời Lê sơ, mà trong đó đã xác định được “vai trò quan trọng” của các nhà hàn lâm Nguyễn Bính, Nguyễn Cố, v.v… cố gắng tạo cho các vua Hùng những tuổi thọ hàng mấy trăm năm để khớp với cả cái thời Hồng Bàng mà chuyện gốc – cái niên điểm mở đầu: Nhâm Tuất 2879 – lại cũng do chính người cùng thời với họ tạo ra. (3) “Thời Á Hồng Bàng, thiên dân hóa dân thành thịnh ấp”. (4) Chẳng hạn như thấy ở lời kêu gọi: Nên nghiên cứu vấn đề hời đại Hồng Bàng của tạp chí Nghiên cứu lịch sử, cũng như ở Vài suy nghĩ về việc tìm hiểu thời đại Hồng Bàng của Nguyễn Linh. * * * Cùng với việc mở rộng thời gian thực tế của “thời Hùng Vương”, hay đúng hơn là việc chuyển khái niệm “thời Hùng Vương” như vừa trình bày, các nhà nghiên cứu hiện nay còn làm một việc quan trọng hơn, là chuyển trọng tâm nghiên cứu, từ chỗ chỉ về những ông “vua”, thậm chí chỉ mới về những tên gọi của những ông vua đó, ra thành cả xã hội, con người và văn hóa (văn minh) của một thời đại mang tên những ông “vua” đó. Và như thế, vấn đề đầu tiên phải giải quyết là xác định thời gian tồn tại cụ thể của thời đại đó.Như đã có dịp trình bày (1), trước hết là từ những tài liệu truyền thuyết và thư tịch mà chúng ra đã có một khung thời gian về “thời Hùng Vương” mà từ lâu, đã có không ít người – từ những sử quan trong Quốc sử quán triều Nguyễn đến Trần Trọng Kim và Nguyễn Phương – đều tỏ ý nghi ngại. (1) Xem Lê Văn Lan: Tài liệu khảo cổ học và viện nghiên cứu thời đại các vua Hùng, - Nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội, số 124, tháng 7-1969. – Trở lại vấn đề văn hóa Đông Sơn, - Khảo cổ học, Hà Nội, số 3-4, tháng 12-1969. – Về một khung niên đại hợp lý cho thời đại các vua Hùng, - Hùng Vương dựng nước, tập III, Hà Nội, 1973. Thật ra thì không phải chỉ có một, mà là hai khung thời gian theo tài liệu thư tịch, nhưng sự quá tập trung chú ý vào cái khung thứ nhất của Đại Việt sử ký tòan thư đã khiến cho, một thời gian dài, người ta tưởng như không có cái khung thứ hai của Đại Việt sử lược. Về cái khung niên đại bắt đầu từ năm 2879 trước Công nguyên cho “thời Hùng Vương” (tên gọi đúng, trong trường hợp này, là “thời Hồng Bàng”) của Đại Việt sử ký tòan thư, chúng ta đã thấy rằng chính là trong không khí tự cường thắng lợi giành lại độc lập ở thế kỷ thứ 15, muốn chứng minh về nguồn gốc lâu đời và ngang bằng với Trung Hoa phong kiến, tiền nhân ta ở thời Lê sơ đã tham bác sử sách đời Đường đời Tống với truyền thuyết dân gian của ta, dựa vào mối quan hệ thực tế đã có từ rất lâu đời giữa Việt Nam và miền Hoa Nam, nhào nặn theo ý muốn chủ quan của mình để tạo ra những sự kiện và niên đại của buổi đầu thời Hồng Bàng, mà rồi nối ngay sau đấy là thời Hùng Vương (1). Chúng ta lại cũng đã thấy rằng có một vạch cương giới thực tế đã ngăn đôi hai vấn đề và thời gian mà người thời Lê sơ đã gắng gượng nhập làm một. Sau và trước cái ranh giới đó: một bên là thời gian và những nhân vật nửa thần thoại nữa lịch sử là Hùng Vương mà bây giờ chúng ta đã làm cho tính lịch sử đè át tính thần thoại, và một bên là thời và nguồn gốc hoàn toàn thần thoại của những nhân vật nửa thần thoại nửa lịch sử đó (2). Ý nghĩa có thể khai thác của sự việc này là: nếu chúng ta chưa thể ghi nhận được phần đầu khung niên đại của Đại Việt sử ký tòan thư (tức là đầu thời Hồng Bàng) do chỗ thiếu cơ sở vững vàng ngay trên những tư liệu sử học, thì lại có thể tin được ở phần sau khung thời gian đó (cuối thời Hồng Bàng, tức chính là thời Hùng Vương). (1) Xem thêm Nguyễn Linh: Phải chăng Hùng Vương thuộc giòng dõi Thần Nông? – Nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội, số III, tháng 6-1968. (2) Về quãng thời gian và vấn đề này, nếu trong dân gian còn lưu hành những mẫu đề văn học dân gian có tính chất truyền thống của dân tộc là “một bọc trăm trứng” và “mẹ chim (đất, núi, Âu Cơ) – bố rồng (nước, biển, Lạc Long)” thì các nhà trí thức phong kiến đã chuyển sang nói bằng ngôn ngữ của văn hóa phương Bắc (gồm chữ và hình tượng): Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân… Xem thêm Cao Huy Đĩnh: Hình tượng khổng lồ và tập thể anh hùng dựng nước giữ nước trong truyện cổ dân gian Việt Nam, trong Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam, Hà Nội, 1971. Có thể từ chỗ này mà nhận xét thêm về giá trị của khung niên đại bấy lâu vẫn chưa được nhiêu người chú ý, là khung niên đại của Đại Việt sử lược. Cuốn sách cổ hơn Đại Việt sử ký tòan thư ít nhất là 100 năm này đã không nói gì về thời Hồng Bàng, mà mở đầu ngay bằng việc xuất hiện của vua Hùng đầu tiên, với thời điểm gọn gàng là đời Chu Trang Vương: đầu thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên (3). Vì cho đến nay, vẫn chưa có ai chỉ ra được cơ sở của trường hợp ghi chép như thế của tác giả, mà cũng cho đến nay vẫn còn là khuyết danh, của bộ sách có giá trị về nhiều mặt này, cho nên, nếu tin vào khung niên đại cho thời Hùng Vương của sách này, thì cũng không khác gì đã tin vào nhiều điều ghi chép quan trọng khác của cuốn sách đó. (3) Năm 696 – 682 trước Công nguyên. Tuy vậy, hiển nhiên là dù sao, những điều ghi chép của tài liệu thư tịch cũng chưa thể làm thỏa mãn người ta về thời gian tồn tại của “thời Hùng Vương” được. Nhưng bù lại chính là tử những tài liệu thư tịch này, những ấn tượng đầu tiên, bao quát và cơ bản, những hiểu biết đại thể về một không khí chung của “thời Hùng Vương” đã được ghi nhận. Và chính là cái diện mạo, cái thần sắc của một thời đại như thế đã là cơ sở, tạo điều kiện để động viên một nguồn tư liệu khác, có khả năng rất quyết định trong việc xác định những niện đại tuyệt đối, cụ thể, là tài liệu khảo cổ học. Sở dĩ có thể coi những niên đại tuyệt đối, chẳng hạn như 3405 ± 100 năm của di chỉ Tràng Kênh, 3328 ± 100 của di chỉ Vườn Chuối, 3046 ± 120 của di chỉ Vinh Quang hay 2350 ± 100 năm của di chỉ Chiền Vậy (1) là nằm trong niên đại chung của “thời Hùng Vương”, chính là vì ở các địa điểm khảo cổ đó, cũng thấy xuất hiện cái diện mạo, cái thần sắc, của một thời đại giống như cái diện mạo, cái thần sắc mà tài liệu thư tịch đã nói về “thời Hùng Vương”. Hơn thế nữa, chẳng phải là chỉ có cái không khí chung như vậy, mà còn có cả sự tương đồng đến những chi tiết cụ thể. Chẳng hạn như khi thư tịch về “thời Hùng Vương” nói có nhà sàn, thì khảo cổ học cũng tìm thấy di tích nhà sàn; khi thư tịch nói: có tục giã cối, thì hình ảnh khảo cổ học về cối chày xuất hiện; khi thư tịch nói: cắt tóc ngắn và ăn cơm nếp thì khảo cổ học cũng lại tìm thấy tượng người có mớ tóc ngắn và cái chõ đồ xôi! (1) Tất cả đều trước năm 1950. Dĩ nhiên, không phải lúc nào cũng vuông tròn, ràng rẽ như vậy. Từ ba năm nay, hàng chục cuộc tranh luận đã diễn ra, chính là để cho quan niệm của các nhà khảo cổ học và niên đại những di tích thuộc “thời Hùng Vương” có thể được làm sáng tỏ và tốt nhất là nhích lại gần nhau. 2 văn hóa hay 4 văn hóa hay chỉ 1 văn hóa là điều đã tranh luận và sẽ còn phải tranh luận. Cũng như, trong khi chưa hoàn toàn giải quyết được vấn đề này, thì một phương hướng “hòa hoãn” khác là tránh “văn hóa” mà tìm “giai đoạn”, lại cũng dẫn ngay đến sự tranh luận 4 giai đoạn hay 6 giai đọan. Những công việc thuần túy khảo cổ học này chính là nhằm đảm bảo tính chính xác và độ phong phú của những tài liệu khảo cổ học cho các nhà nghiên cứu có thể sử dụng rộng rãi trong việc nghiên cứu “thời Hùng Vương”. Và điều quan trọng rất đáng ghi nhận là đến lúc này, hầu hết các nhà khảo cổ học, tuy còn những “tiểu dị” nhưng đã “đại đồng” xác nhận hai cái mốc lớn cho thời gian đầu và cuối “thời Hùng Vương” về mặt khảo cổ học, là Phùng Nguyên và Đông Sơn. Chính vì vậy mà chúng tôi rất phấn khởi khi được đọc những dòng chữ cô đọng mà đầy đủ của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nói trực tiếp về vấn đề này: “Phát hiện một nền văn hóa lâu đời hơn văn hóa Đông Sơn, sản sinh trên đất nước ta, cùng với văn hóa Đông Sơn hình thành một sự diễn biến văn hóa và lịch sử liên tục từ khoảng cuối thời đại đồ đá mới, qua thời đại đồ đồng đến thời đại đồ sắt sớm” (2). (2) Phạm Văn Đồng: Nhân ngày Giỗ tổ Vua Hùng, - Khảo cổ học, Hà Nội, số 1, tháng 6-1969, tra. 17. Đối với những nền văn hóa với ý nghĩa như thế, những người làm công tác khảo cổ đã cố gắng tiến hành nhiệm vụ đầu tiên của mình là xác định niên đại. Có nhiều người, từ năm 1960 cho tới bây giờ (3), đã đoán định niên đại tuyệt đối cho văn hóa Phùng Nguyên là khoảng thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên, cách ngày nay khoảng từ 3 đến 4 nghìn năm. Những kết quả phân tích các bon phóng xạ đồng vị (C14) mới đây đã góp phần xác nhận rằng điều đoán định này căn bản là chính xác. (3) Đào Tử Khải (ý kiến đầu tiên), Nguyễn Linh, Hoàng Xuân Chinh, Trần Quốc Vượng, Lê Văn Lan… Cũng có nhiều người làm công tác khảo cổ, ngay từ năm 1961 cho đến bây giờ (1) đã xác định niên đại tuyệt đối của văn hóa Đông Sơn là khoảng thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, cách ngày nay khoảng từ 2 đến 3 nghìn năm. (1) Lê Văn Lan (ý kiến đầu tiên), Nguyễn Linh, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Đào Duy Anh… Với tính chất và ý nghĩa quan trọng của “một sự diễn biến văn hóa và lịch sử liên tục”, chúng ta có một khoảng thời gian liền hai thiên niên kỷ, từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn, cách đây từ 4 đến 2 nghìn năm. Như đã trình bày ở trên, giới khảo cổ học nói chung thống nhất nhận thấy rằng từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn là cơ sở khảo cổ học của “thời Hùng Vương”. Vậy là, khảo cổ học, bằng những phương pháp của “một khoa học, gần như khoa học chính xác” đã đầu tiên xác định được một khung niên đại chắc chắn cho “thời Hùng Vương”. Khung niên đại này phù hợp, đúng hơn là trùng hợp, rõ hơn là ngẫu nhiên trùng hợp với khung niên đại phổ biến của thư tịch – khung niên đại còn mang nhiều nghi vấn, mà vì những lí do vừa trình bày ở trên, đã truyền lan rộng rãi từ trước tới nay về “thời Hùng Vương”. Một ý nghĩa rất đáng ghi nhận ở chỗ này là: nếu có thể nói đến một đóng góp, thì chính là khảo cổ học, bằng những thành tựu mới của mình, đã đem lại cái bộ xương, cái nền tảng khoa học cho những cách nhận thức và những tình cảm của chúng ta về niên đại lâu đời của “thời Hùng Vương”. * * * Nhìn vào Phùng Nguyên với hiện trạng tư liệu như bây giờ về diện phân bố các di tích và các mặt phát triển kỹ thuật, kinh tế, văn hóa…, có thể nghĩ đến một cái mầm. Để cho cái mầm quý này nảy nở và mọc lên xanh tốt, những cư dân cổ ở đây đã phải mất khoảng 1000 năm lao động và đấu tranh. Và kết quả là những tiền đề cơ bản và trực tiếp đã được tạo ra cho một cái gốc vững vàng. Cảm nghĩ về cái gốc kỳ diệu này dễ dàng nảy ra khi nhìn vào Đông Sơn.Từ lâu và nhiều người đã nói vê Đông Sơn. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá chính xác sự “nổi tiếng thế giới” của văn hóa này, kèm với lời biểu dương công tác khảo cổ thời gian gần đây đã “làm thêm rực rỡ” nền văn hóa đó. Và không phải ngẫu nhiên mà các nhà nghiên cứu chúng ta đã tập trung khai thác tư liệu về mọi mặt của văn hóa này để nghiên cứu về “thời Hùng Vương”. Việc đã hình thành một hệ thống các luận điểm về các mặt tự nhiên, con người, kinh tế, chính trị và nhất là văn hóa, xã hội của “thời Hùng Vương” dựa trên những tư liệu của Đông Sơn như hiện nay, cho thấy dường như rất đông đảo các nhà nghiên cứu đã mặc nhiên coi Đông Sơn là cơ sở khảo cổ học của bước phát triển đáng chú ý nhất của tòan bộ “thời Hùng Vương”, nếu không phải là chính ngay thời Hùng Vương – hiểu với nghĩa cụ thể, không mở rộng, của từ này. Niên đại của văn hóa Đông Sơn đã được xác định là khỏang thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, và bước phát triển cao nhất của bước văn hóa này là những thế kỷ giữa thiên niên kỷ đó. Chính ở đây đã có sự không thể gọi là “trùng hợp ngẫu nhiên” nữa mà phải gọi đúng là sự ăn khớp kỳ lạ giữa tài liệu khảo cổ học và tài liệu thư tịch. Như đã nói trên, Đại Việt sử lược đã chép về sự xuất hiện của các Vua Hùng, sự thành lập nước Văn Lang với những khẳng định về niên đại tuyệt đối là từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên. Một cái gốc vững vàng đã hình thành để rồi chồi cây có thể mọc tiếp lên (1). Thời kỳ nước Âu Lạc và An Dương Vương cùng với những cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống sự xâm lược và thống trị của nhà Triệu, nhà Hán, cho đến thời Hai Bà Trưng, đã được ghi chính thức trên sử sách giấy tờ từ lâu rồi. Ở bước phát triển này của lịch sử, chỉ có những Vua Hùng cụ thể là không thấy nữa, nhưng “thời Hùng Vương” với toàn bộ cấu trúc của nó vẫn còn. Khảo cổ học cũng cho thấy từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên đến đầu Công nguyên, văn hóa Đông Sơn đang tồn tại ở bước phát triển cuối cùng. (1) Đỗ Văn Ninh: Chồi Âu Lạc mọc từ gốc Văn Lang – Khảo cổ học, Hà Nội, số 3-4, tháng 12-1969, tr. 89. Thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên là niên đại báo hết của văn hóa Đông Sơn, đồng thời cũng là lúc mà cuộc khởi nghĩa và kháng chiến oanh liệt do Hai Bà Trưng lãnh đạo bị dìm trong máu. Cái chồi cây đến đây bị chém gãy, nhưng cũng chính từ đây, những hạt quả, rễ mầm, và ngay cái chồi của nó, cắm trở lại vào đất tổ, đã đối chọi với những thử thách khốc liệt để rồi lại vượt lên ngay trên gốc cũ, cả một rừng cây xanh tốt như đang thấy ngày nay. Hình tượng về cái – cây – quý – Hùng Vương như vừa trình bày không có gì khác hơn là nhằm hình dung ra các bước phát triển của “thời Hùng Vương” từ mầm đến ngọn, từ đầu đến cuối của khoảng thời gian hai thiên niên kỷ trước Công nguyên, với bước phát triển quan trọng nhất là những thế kỷ giữa thiên niên kỷ thư 1 trước Công nguyên. Chúng tôi đã có lần dùng từ thời kỳ Hùng Vương (2) để mệnh danh cho bước phát triển quan trọng nhất này, so với các tên gọi thời kỳ tiền Hùng Vương và thời kỳ hậu Hùng Vương, mệnh danh một cách ước lệ cho các bước phát triển trước và sau của nó, gắn bó hữu cơ trong một chỉnh thể. (2) Hiểu với nghĩa chặt chẽ và cụ thể từ: có thể có những Vua Hùng thật sự ở thời này, bởi nếu tính kỹ vào con số 18 đời vua của truyền thuyết thì cũng thấy họ vừa đủ sống trong khoảng thời gian mấy thế kỷ này. Chỉnh thể đó chính là một thời đại, gồm nhiều thời kỳ, hết sức quan trọng của lịch sử nước ta, có nội dung là sự tan rã xã hội nguyên thủy và sự xuất hiện xã hội có giai cấp đầu tiên, là sự hình thành và tập hợp những mầm mống của dân tộc, là sự phát hiện và khẳng định con đường vượt qua những thử thách quyết liệt, là sự xây dựng vẻ cao đẹp của nền văn minh đầu tiên mang tính dân tộc của chúng ta ở miềng Đông Nam Á. Chính Hồ Chủ tịch kính yêu là người đầu tiên đã, bằng ngôn ngữ đặc sắc của Người, gợi lên bản chất và cả tên gọi nữa của thời đại này, qua câu nói đã trở thành tiêu đề cho nhiều trường hợp và sự kiện: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Có lẽ đồng chí Nguyễn Khánh Tòan đã từ chỗ này mà đề nghị tạm gọi bằng một tên chung là “thời đại bắt đầu dựng nước và giữ nước” (1) cho “thời Hùng Vương” mà có lúc chúng tôi đã mệnh danh cho phổ cập là “thời đại các Vua Hùng”, và các nhà nghiên cứu khác thì gọi tên như các cách mà chúng tôi đã giới thiệu ở trên. (1) Nguyễn Khánh Toàn: Vài gợi ý về việc biên sọan cuốn sử Việt Nam – Khảo cổ học, Hà Nội Trở lại với chuyện chữ và nghĩa, chúng tôi muốn một lần nữa nhắc đến những ý kiến của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ở Hội nghị lần thứ nhất nghiên cứu thời Hùng Vương năm 1968. Thủ tướng đã thận trọng “suy nghĩ không biết nên dùng tiếng “thời đại” hay “thời kỳ”, tuy vẫn cho rằng “những vấn đề này không quan trọng”. Lý do cân nhắc của Thủ tướng tức là “dùng “thời đại” thì nó có ý nghĩa và nội dung, về thực chất của cái thời gian đó” mà “về cái khoảng thời gian đó, ta chưa biết rõ nó ra sao mà gọi nó là “thời đại”. Sau ba năm tập trung tìm tòi, suy nghĩ, những người làm công tác khoa học, như đã thấy, đã không chỉ khẳng định được rằng “thời Hùng Vương” là có thực, mà còn có thể bước đầu hiểu được một số điều về thời đó. Vì vậy mà có lẽ bây giờ, nếu chúng ta dùng thuật ngữ khoa học là “thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên” song song với cái tên “thời Hùng Vương”, và để cho cái tên này chủ yếu dùng trong các trường hợp phổ cập, thì chúng tôi nghĩ rằng đây cũng là một cách để những nhà nghiên cứu báo cáo với đồng chí Thủ tướng kính mến, với các đồng chí và bạn bè về những thành tựu bước đầu, sau ba năm nỗ lực làm việc của chúng ta, về một thời đại có ý nghĩa hết sức trọng đại của lịch sử dân tộc Việt Nam ta. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học
-
:D :) :) Tình yêu là có thật. Nhưng nếu nói là: "Yêu nhau suốt đời và không thể thiếu được nhau trên đời này" thì có thể là nói dối. Nhưng hình như trải qua bao thế hệ luôn luôn xuất hiện những câu như vậy trong mỗi con người - :lol: :lol: :D .
-
Cảm ơn Thiên Huy nhắc nhở. Thiên Huy hãy yên tâm. Chú đã cân nhắc nhiều mặt và đi trước những vấn đề này từ lâu. Nếu không như thế chú không thể một mình đương đầu với cái "hầu hết" và "cộng đồng". Chú sử dùng bằng chứng di sản văn hóa phi vật thể trước khi Liên hiệp quốc công nhận điều này 5 năm.
-
Vấn đề Trường Sa - Hoàng Sa: cần một nỗ lực tổng hợp Nguồn: Tuanvietnam.net.vn http://www.tuanvietnam.net/vn/tulieusuyngam/5518/index.aspx 07/12/2008 09:43 (GMT + 7) Khoảng 50 năm qua, TQ có chừng 60 công trình nghiên cứu quy mô nhằm chứng minh Hoàng Sa - Trường Sa thuộc chủ quyền của mình. Hiện công cuộc tuyên truyền của Chính phủ TQ vẫn tiếp tục cả trong nước lẫn quốc tế. Trong khi đó, các nghiên cứu của phía VN vừa ít hơn vừa không được công bố rộng khắp, mặc dù chúng ta có đủ bằng chứng để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo này. Việt Nam tái khẳng định chủ quyền tại Trường Sa, Hoàng Sa Không thể chấp nhận thăm dò dầu khí trên vùng biển VN Hiện tại, cả Malaysia, Philippines và Brunei cũng đều có ý muốn xác lập chủ quyền đối với ít nhất là một phần của quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, những lý lẽ họ đưa ra chủ yếu là từ khía cạnh địa lý (khoảng cách địa lý giữa Trường Sa và lãnh thổ các nước này), thay vì có bằng chứng trên bình diện lịch sử. "Ngoài các tài nguyên như phốt phát, cát trắng, hải sản, tài nguyên quan trọng nhất ở HS - TS là dầu khí. Từ năm 1972, một số công ty dầu khí phương Tây đã thăm dò và phát hiện ra vùng chung quanh HS - TS có một trữ lượng dầu cực lớn, như ở Trường Sa là tương đương hơn 100 tỷ thùng". (Học giả Nguyễn Q. Thắng) Theo pháp lý quốc tế, sự gần kề về địa lý không có giá trị, (trừ phi hòn đảo/ quần đảo đang xét nằm trong lãnh hải của một quốc gia; theo quy định hiện nay là 12 hải lý tính từ đất liền) (*). Không thiếu trường hợp đảo/ quần đảo nằm gần nước này nhưng lại thuộc chủ quyền nước khác, ví dụ Greenland gần Canada nhưng lại thuộc Đan Mạch. Do đó, về căn bản, Malaysia, Philippines và Brunei không có nhiều cơ sở để sở hữu Hoàng Sa - Trường Sa (HS - TS). Chỉ hai nước có sử liệu liên quan tới HS - TS, là Việt Nam và Trung Quốc. Vì thế, trong việc xác lập chủ quyền đối với HS - TS, Việt Nam và Trung Quốc là hai bên tham gia chính với nhiều luận cứ hơn cả, và cả hai đều dựa vào tư liệu lịch sử. Những bằng chứng trong sử cũ: hoàn toàn vững chắc Căn cứ trên sử liệu, đặc biệt là cổ sử (tức những ghi chép từ khi Việt Nam độc lập - năm 1945 - trở về trước), thì HS - TS chắc chắn thuộc về Việt Nam. Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân - người đã tìm đọc khá nhiều cổ sử Trung Quốc cũng như phần nửa trong số các tài liệu của Trung Quốc từ giữa thập kỷ 1950 đến nay - khẳng định: "Sử liệu của Việt Nam chắc chắn và liên tục hơn sử liệu Trung Quốc, mặc dù xuất hiện trễ hơn. Các học giả Trung Quốc cho rằng từ thời Đông Hán, Trung Quốc đã có những biên chép về chủ quyền đối với HS - TS. Tuy nhiên, sử liệu của họ về vấn đề này không rõ ràng và thuyết phục như của Việt Nam". Quân đồn trú Pháp - Việt chào cờ trên đảo Hoàng Sa. (Ảnh tư liệu, nguồn: Tuổi Trẻ) Ông Quân nói rõ hơn rằng từ đời Hán đến cuối đời Thanh, Trung Hoa có khoảng 120 tựa sách có đề cập đến những nơi mà Trung Quốc nay gọi là Tây Sa, Nam Sa (HS - TS của Việt Nam). Nhưng nói chung, những tư liệu cổ sử này là các biên chép dạng "du ký" của các nhà hàng hải theo kiểu "trông thấy thì ghi lại", chứ không phải chính sử và không nhằm mục đích xác lập chủ quyền đối với HS - TS. Trong khi đó, mặc dù sử liệu ở Việt Nam muộn hơn nhưng hầu hết các biên chép thể hiện sự khẳng định chủ quyền đều nằm trong các bộ sử chính thống do Quốc sử quán biên soạn, như Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục... Từng nghiên cứu sâu về HS - TS từ trước năm 1975, Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã cũng cho rằng, căn cứ trên cổ sử, "chỉ Việt Nam mới có cơ sở vững chắc để khẳng định HS - TS là của mình". Chính vì thế mà, khi tranh chấp HS - TS với Trung Quốc, vào hai năm 1932 và 1947 chính quyền thực dân Pháp đã đề nghị đưa vấn đề ra một trọng tài quốc tế để phân xử mà Trung Quốc đều từ chối. "Các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã xuất hiện liên tục từ đầu thời Chúa Nguyễn sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn. ... Việt Nam còn có cả châu bản, hội điển chép những hành động của nhà nước chiếm hữu, thực thi chủ quyền như vẽ bản đồ, cắm mốc, dựng bia, xây miếu thờ, trồng cây, đào giếng… của thủy quân triều Nguyễn". (trích tham luận của TS. sử học Nguyễn Nhã tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học, Hà Nội, tháng 12/2008) Tóm lại, căn cứ sử liệu và những công trình nghiên cứu cá nhân của các học giả, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định HS - TS là của Việt Nam. Hiện nay: kém quy mô Điều đáng nói là trong khi sử liệu của Trung Quốc yếu lý hơn sử liệu Việt Nam, thì sự chuẩn bị của họ cho việc xác lập chủ quyền đối với HS - TS lại rất quy mô, bài bản và đã bắt đầu từ lâu. Ngay từ sau khi thống nhất và ổn định đất nước (năm 1949), chính quyền Trung Quốc đã huy động các học giả tiến hành các nghiên cứu mới và hệ thống hóa sử liệu cũ với mục đích chứng minh HS - TS thuộc về Trung Quốc. Nhiều trung tâm nghiên cứu về Biển Đông và HS - TS được thành lập. Và khoảng 60 công trình của cả cá nhân và tập thể ra đời, dày dặn, bề thế, chẳng hạn Nam Hải chư đảo địa danh tư liệu hối biên (tập thể tác giả, Trần Sử Kiên chủ biên, 1987), Trung Quốc Nam Đảo chư đảo địa lý - lịch sử - chủ quyền (Lữ Nhất Nhiên chủ biên, 1992), hay Nam Hải chư đảo địa danh luận cảo (Lưu Nam Uy, 1996). Nhiều công trình được dịch sang tiếng Anh để đưa ra thế giới. So với khối lượng đồ sộ đó, các công trình nghiên cứu của giới học giả Việt Nam vừa ít, không được phổ biến sâu rộng ngay cả trong nước, vừa là những nỗ lực cá nhân rời rạc. Cuốn sách được xuất bản gần đây nhất về vấn đề HS - TS. (Ảnh: Mai Thi) Có thể kể ra một vài tác phẩm gần đây như Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (tác giả Lưu Văn Lợi, năm 1995), hay cuốn Hoàng Sa, Trường Sa - lãnh thổ Việt Nam nhìn từ công pháp quốc tế (Nguyễn Q. Thắng, 2008). Trước đó, vào các năm 1974 và 1975 cũng có một số nghiên cứu độc lập của các học giả Việt kiều như của các ông Võ Long Tê, Trần Minh Tiết.Trong khi nhiều công trình của phía Việt Nam được Trung Quốc tổ chức dịch để giới học giả tham khảo và phản biện (tập san Sử Địa, chuyên đề về HS - TS, ra đời năm 1974 thì năm 1978 có bản tiếng Trung), thì không một tác phẩm nào của phía Trung Quốc được dịch sang tiếng Việt. Dường như các nhà nghiên cứu Việt Nam đang phải làm việc trong tình trạng đơn lẻ, thiếu hẳn sự hỗ trợ từ một cơ quan phối hợp chung, cũng như thiếu sự trao đổi, hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau. Điều này nguy hiểm, bởi không có gì đảm bảo giữa các công trình nghiên cứu sẽ không chứa đựng những mâu thuẫn, sơ hở, gây bất lợi cho chúng ta. Một trong số rất hiếm nhà nghiên cứu đã đọc tài liệu của phía Trung Quốc (tự tìm đọc), ông Phạm Hoàng Quân, cho biết: "Do dựa vào nguồn sử liệu không chắc chắn, các học giả Trung Quốc dễ bị mâu thuẫn, kiểu như người nói không thật lúc trước thì lúc sau dễ quên mất điều mình nói. Còn Việt Nam, với sử liệu đầy đủ căn cứ, chúng ta không được để có sơ hở, mâu thuẫn nào". "Nhưng, cần phải hệ thống hóa lại sử liệu cho thật chặt chẽ, thống nhất, và có một cơ quan phối hợp chung để đảm bảo các công trình nghiên cứu đã (hoặc sẽ) công bố không có những lý luận đối nghịch nhau". Trong ngoại giao Hiện tại, trong dư luận quốc tế, chưa quốc gia nào có tuyên bố chính thức ủng hộ Việt Nam hay Trung Quốc trong vấn đề HS - TS. Có một sự thực là, tranh chấp biên giới, lãnh thổ, lãnh hải là chuyện thường xảy ra trong quan hệ quốc tế. Nhưng với việc nhân loại ngày càng văn minh hơn, chủ nghĩa vô chính phủ đã suy giảm, và việc tấn công quân sự ít khả năng xảy ra. Mặc dù có ý thức xây dựng tư liệu và diễn giải lịch sử theo hướng chứng minh HS - TS của mình, Trung Quốc vẫn không tránh khỏi mắc phải nhiều sơ suất. Từ điển Anh - Hán năm 1968 của Khải Minh Thư Cục, Trung Quốc, định nghĩa Hoàng Sa: "Paracel Islands, Group of islands and reefs in South China Sea, Annam, Federation of Indochina", nghĩa là "Hoàng Sa là một nhóm đảo và dải san hô ở Nam Hải Trung Hoa, An Nam, Liên bang Đông Dương". (tư liệu của học giả Phạm Hoàng Quân) Ngoài ra, việc sử dụng vũ lực để chiếm hữu là trái với Hiến chương LHQ (ra đời từ năm 1945). Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã nhấn mạnh: "Bất cứ giải pháp nào chỉ dựa vào sức mạnh quân sự cũng không có giá trị pháp lý”". Tiến sĩ luật Từ Đặng Minh Thu cũng từng viết trong một tham luận năm 1998: "Việt Nam phải thường xuyên lên tiếng phản đối và khẳng định chủ quyền đối với HS - TS. Việt Nam cũng nên công khai đề nghị Trung Quốc đưa vấn đề HS - TS ra trước Tòa án Quốc tế. Nếu Trung Quốc thật tình tin tưởng rằng mình có căn bản pháp lý vững chắc để khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo này, thì Trung Quốc không có lý do gì để từ chối một giải pháp pháp lý". Việc đưa vấn đề ra Tòa án Quốc tế không đơn giản, vì nó đòi hỏi sự đồng thuận của cả hai bên. (Tòa không chấp nhận một nước đơn phương kiện một nước khác). Dù vậy, ngay cả khi không làm được điều đó, chúng ta vẫn có thể thực hiện các nỗ lực ngoại giao nhằm tuyên truyền, vận động thế giới công nhận chủ quyền của Việt Nam đối với HS - TS. Tất cả đều phải tham gia Nhìn vào những gì phía Trung Quốc đã và đang làm, có thể thấy việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo HS - TS đòi hỏi không chỉ những nỗ lực ngoại giao hay các nghiên cứu trên giấy, mà cần sự phối hợp đồng bộ các lĩnh vực. Phải có sự tham gia của các nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu (lịch sử, địa lý, thậm chí sinh học, khí tượng học), giới luật gia, truyền thông báo chí. Tóm lại, chúng ta cần một chương trình hành động bền bỉ trong cả nước, dưới sự điều hành và điều phối thống nhất của Nhà nước. Hoàng Sa - Trường Sa đã thuộc về Việt Nam từ trong lịch sử. (Ảnh: Phạm Tuấn) Cuối cùng, cũng vì tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải là chuyện không hiếm gặp trong quan hệ quốc tế, nên chính phủ nào cũng cần trang bị cho nhân dân thông tin và kiến thức cơ bản về lãnh thổ, lãnh hải của nước mình, để người dân có ý thức bảo vệ Tổ quốc. Điều này sẽ tạo nên một “mặt trận” nữa bên cạnh các “mặt trận” ngoại giao hay nghiên cứu. HS - TS đã là của Việt Nam từ trong lịch sử, và mỗi người trong chúng ta đều có trách nhiệm bảo vệ sự thật lịch sử đó. Đoan Trang(*) Công ước LHQ về luật biển năm 1982 quy định các quốc gia ven biển có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải không quá 12 hải lý (1 hải lý = 1,852 km) tính từ đường cơ sở. Đường cơ sở là đường tiếp giáp thực tế của đất và nước, hay đường thẳng nối hai điểm thuộc đất liền, được chọn khi chúng nổi lên trên mặt nước và xa bờ nhất khi mực nước thủy triều là thấp nhất. Lời bàn của Thiên Sứ Cái gì cũng phải có căn gốc của nó. Căn gốc của Trường Sa Hoàng Sa thuộc về nước Đại Việt chính là lịch sử dân tộc Việt trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương Tử. Thiên Sứ tôi chẳng quản tài hèn sẽ cùng mọi người và anh chị em trong Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương minh chứng việc này. Nhưng tiếc thay! Nó cũng không được - nói theo cách nói của bài nào này: "không được công bố rộng khắp" - dù chỉ ở trong nước.
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Sau khi phân tích tính mâu thuẫn trong từng bài viết của từng tác giả trong mục "sưu tầm những bài viết phủ nhân giá trị văn hóa sử Việt", Thiên Sứ tôi sẽ có mục tổng kết các bài viết để quí vị thấy tính mâu thuẫn khôi hài giữa những bài viết thuộc đám "hầu hết" và "cộng đồng" với nhau. Tôi rất hy vọng sẽ là phần giải trí thư giãn sau nhưng phút lao động mệt nhọc qua những bài viết của đủ các thứ bậc trong xã hội từ giáo sư sử học tên tuối đến những nhà nghiên cứu nghiệp dư vô danh tiểu tốt. Tôi thí dụ như hai đoạn sau đây của Phó giáo sư Đặng Ngọc Bích và tác giả Techno. Phó giáo sư Đặng Ngọc Bích viết:. Còn đây là ông Techno: Như vậy, quí vị cũng nhận thấy rằng: Một người thì phân tích trên cơ sở pha học cho rằng: Dân tộc Việt là cư dân bản địa hòa nhập với người Nam Đảo, đâu từ ngoài bể kéo vào. Còn người kia cũng nhân danh cái pha học chứng minh rằng thì là cái tổ tiên người Việt lại từ giòng giống Ác Ri ăng nờ từ bình nguyên Ấn Hằng tới. Cả hai vị đều nhất trí hoan hô dân tộc Việt Nam vĩ đại và thống nhất với nội dung phủ nhận truyền thống "zăng góa" sử Việt. Nhưng lại chứng minh pha học với những cơ sở pha học "goàn tàng" khác nhau. Thế vị nào đúng đây nhể, để phó thường dân dự khuyết Nam bô như nhà Thiên Sứ đây biết đường mà lần mò tìm về cội nguồn dân tộc chứ nhể. Tất nhiên hai vị này sẽ chẳng thể nhận là mình sai mà thằng kia lại đúng hơn được. Vì cái sĩ diện và cả cái bản mặt của các zdị thì tất nhiên hai vị sẽ phải tranh "nuận" pha học để tìm ra cái chơn ní ló thuộc về ai. Sư Thiến tui sẽ mần trọng tài cho các vị ấy tranh nuận. Hi. Chưa đâu! Còn lắm trò buồn cười đến bể bụng khi so sánh những "nuận cứ pha học " của "hầu hết những nhà pha học trong nước" được cái "cộng đồng pha học thế giới" ủng hộ nữa cơ, Đấy mới chỉ là hai trong số. Bởi vậy, chẳng bảo sao mà Sư Thiến tui khi va cham với cái "tính thần pha học " của cái đám "hầu hết" và "cộng đồng" này chẳng bị tẩu hỏa nhập ma. Vì cuối cùng chẳng hiểu thực chất cái khoa học mà các vị ấy quảng cáo nó là cái gì. Chắc vì các vị này lấy tinh thần không sợ ma làm tiêu chí xác định khoa học. Thảo nào mà học sinh Việt Nam dốt sử thế. Chính báo chí nói đây nhá! Dẫn chứng hẳn hoi, chứ hổng phải Sư Thiên tui dựng chiện đâu ạ. Giáo sư tiến sĩ còn dốt như thế kia thì làm sao mà bảo các cháu giỏi được. Hic. Thôi, miễn bình nuận. Không sợ mất nòng quí zdị thì con cái nhà em phen này cứ gọi là chít chứ chẳng phải chiện chơi.
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Bài viết này tôi phản biện ông Trần Quốc Vương đã lâu rồi - từ năm 2005. Tôi cũng quên mất bài này. Trong lúc lang thang trên mạng để sưu tầm các bài viết thuộc loại phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt với mục đích vạch ra những sai lầm phi khoa học của nó, tôi tính cờ tìm được lại bài của tôi và cả của ông Vương. Nó được một sinh viên đưa lên mạng để nhờ các bậc "Đứccao vọng trọng" chỉ ra cái đúng và cái sai giữa bài của tôi và của Trần Quốc Vượng. Nhưng thật đau cổ vì viêm họng. Chẳng có bậc nào lên tiếng cả. Nếu có ai lên tiếng bảo vệ quan điểm phủ nhận giá trị vắn hóa sử Việt xin đưa vào topic: "Sưu tầm những bài viết phủ nhận văn hóa sử Việt" và cứ xếp hàng đợi đấy. Thiên Sứ tôi rất trân trọng và khâm phục những bậc trí thức tài hoa, Nhưng với cái "hầu hết" và "cộng đồng" thì Thiên Sứ tôi không có ưu tiên bằng cấp. Xin cảm ơn sự quan tâm. * MỘT BÀI VIẾT PHẢN BIỆN THÀY TRẦN QUỐC VƯỢNG Người giới thiệu: 50qhx103 Nguồn: svnv.org Trong một lần lang thang trên những diễn đàn về lịch sử, em tình cờ đọc được một bài viết của ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh, dưới tên Thiên Sứ viết với nhan đề "Phản Biện Trần Quốc Vượng", hôm nay em xin post lên diễn đàn bài viết đó, đồng thời cũng post cả bài của GS Trần. Chắc có bác đã đọc qua, nhưng chắc cũng nhiều người chưa biết. Tự nhận thấy mình còn non trình quá nên không dám đưa ra ý kiến thảo luận, kính mong các bậc "đức cao vọng trọng" đưa ra những ý kiến chỉ rõ hay dở để chúng em được mở mang thêm kiến thức. Vô cùng cảm ơn! Chúc các bác an lành TỪ HOA LƯ ĐẾN THĂNG LONG Gs. Trần Quốc Vượng Những thủ lĩnh địa phương và lãnh địa. Thời đại văn hoá Đông Sơn, thời đại các Vua Hùng không nên xem là một thời đại của vương triều thống nhất. Văn Lang là cái tên xuất hiện trong sử một cách muộn mằn (thời nhà Đường, thế kỷ thứ VII đến thứ IX). Tôi đã chứng minh rằng Vua hùng là một Po Khun – thũ lĩnh mạnh nhất cũa một phức thể Khun (Vua = Bua = Pò; Hùng = Khun) tức hệ các thủ lĩnh địa phương chiếm cứ các vùng từ đỉnh châu Thổ sông Hồng (Việt Trì) đến các vùng bãi biển. Theo truyền thuyết và theo sử cũ thì lúc bấy giờ có 15 bộ. Ông Giáo sư Tiến sĩ Mỹ Keith Taylor đã dịch một cách tài hoa và lạnh lùng các Lạc tướng là “Lord” và vua Hùng là “Overlord”. Cuối đời Hùng nổi lên nhân vật Thục Phán (An Dương Vương) và nước Âu Lạc, thành Cổ Loa. Cổ Loa (nay thuộc Đông Anh, ngoại thành Hà Nội)nằm gần ngã ba Dâu Canh, được giới địa lý học coi là đỉnh thứ hai của tam giác châu Bắc Bộ, sau cái đỉnh thứ nhât là ngã ba Hạc - Việt Trì. Sự dịch chuyển đỉnh châu thổ sông Cái (Nhị - Hồng) từ trung du tới vùng châu thổ cao (địa) khéo theo sự chuyển di trung tâm phức thể Việt với một tổ chức nhà nước Âu Việt sơ khai (Chính tri). Điều đó là đúng với quy luật địa chính trị, địa chiến lược, địa văn hoá. Tôi và Cầm Trọng đã chứng giải “Thục Phán” không phải là một tên riêng (nhân danh) mà là một từ - chức năng : “Túc Phắn” chỉ thủ lĩnh đi “mở đất mở mường”. Đất nước trải ngàn năm Bắc thuộc. Nhưng Nam Việt Triệu Đà (180-137tr.CN) rồi Tây Hán Vũ Đế (111tr.CN-8 năm sau CN) cũng chỉ phái “sứ giả” (Triệu) hay thứ sử , thái thú (Hán) cùng một số đạo quan binh sang đóng giữ các miền ở Mê Linh, ở Luy Lâu rồi Long Biên……(tại xứ Đoài, xứ Bắc ngày sau) và thu cống nạp chứ bên dưới vẫn “để Lạc tướng trị dân như cũ”, “dĩ kỳ cố tục trị” (Tiền Hán thư). Và Hai bà Trưng vẫn được ghi là “con gái Lạc tướng Mê Linh” và Thi (hay Thi Sách) là “con trai Lạc tướng Chu Diên”. Thái thú Tô Định tàn ngược định dùng pháp chế Hán thắt buộc hạn chế thế lực thủ lĩnh địa phương cũ (“dĩ pháp thằng chi”- Hậu Hán thư) thì lập tức con cái Lạc tướng và các thủ lĩnh cổ truyền đã vì oán giận, nổi dậy chống Hán. Không nên xem Khởi Nghĩa Bà trưng là biểu hiện cũa sự trỗi dậy của tinh thần dân tộc, cùng lắm nên xem đó là một ý thức đòi cách sống riêng của người Việt cổ, không chấp nhận lấy lối sống Hán- Hoa, làm một khuôn mẫu phổ biến. Tôi đề nghị giới khảo cổ sử học Việt Nam nên coi khởi nghỉa Hai Bà Trưng là một phản ứng văn hoá - chính trị. Dù sau năm 43-44, Mã Viện và chính quyền Đông Hán có can thiệp sâu hơn xuống cấp huyện (vùng), nhưng cuối thời Đông Hán đầu thời Tam quốc, đất Việt - với Sĩ Nhiếp và các em ông, tuy tổ tiên 6 dời là ở nước Lỗ (Sơn Đông) nhu8ng7 sang Nam Việt – Giao Chỉ đã lâu và đã nhiều phần bản địa hoá - về thực chất vẫn là một dất tự trị, tự quản. Thời Lục triều (Nguỵ Tấn Nam Bắc triều) cũng như vậy. Triều đình trung ương Trung Hoa thì suy yếu, các thế lực địa phương vẫn mạnh mẽ. Nhiều quan lại Tống, Tề, Lư ơng, Trần (Nam triều Trung Hoa, mà phần Hoa bắc đã bị Ngũ Hồ loạn Hoa chiếm giữ) cử sang Giao Châu chỉ là “hữu danh vô thực”, rất chông chiêng. Chúng ta, giới sử học Việt Nam nên đặt cuộc khởi nghĩa Lý Bí giữa thế kỷ VI và việc thành lập nước Vạn Xuân với danh hiệu Lý Nam Đế (Tiền, Hậu) trong bối cảnh đó. Nên chăng cần ghi nhận, với Lý Nam Đế và nước Vạn Xuân, người Việt sau 600 năm Hán hoá đã bắt đầu có ý thức quốc gia và tinh thần “vô tốn (không thua kém, không lùi bước) Trung Hoa”. (Kháiniệm “vô tốn” và “ bất dị” (không khác) Trung Hoa là do Lê Quý Đôn khái quát lại về sau, ở thế kỷ XVIII). Đằng sau Lý Nam Đế là thế lực tinh thần Phật Giáo , thế cho nên lột Lý Xuân nào đó của tịch thư Trung Hoa thì lại tự xưng là Lý Phật Tử (Con Phật). Cuối đời Tuỳ (605-617), đế quyền Trung Hoa suy yếu thì các thế lực địa phương lại trỗi lên, diển hình là cha con Lê Cốc (Lê Ngọc) ở Ái Châu (Thanh), và Hoan Châu (Nghệ An) - tức là vùng ngoại biên của không gian xã hội Việt – mà nàh Đường tuy lên ngôi ở Trường An năm 618 nhưng phải đến 622 mới tạm dẹp yên được để có được một An Nam đô hộ phủ với trung âm là Tống Bình – Hà Nội ngày nay. Từ Cổ Loa xuống Luy Lâu – Long Biên nửa đầu thời thuộc Bắc 600 năm là sự dịch chuyển từ vùng cao xuống vùng thấp châu thổ sông Hồng và (sông Thái Bình) đã khẩn trương hơn do áp lực dân số ngày càng tăng và cũng do kỹ thuật đồ sắt hậu Đông Sơn, kỹ thuật thuỷ lợi tưới tiêu nước ruộng đồng Lạc điền ngày càng tiến bộ và phát huy rộng rãi (Phong Khê; vùng Cổ Loa – Đông Ngàn cũ đã có đê) (Hậu Hán thư) , một phần do hội nhạp kỹ thuật thuỷ lợi và trị thuỷ Trung Hoa vùng ven biển từ Phúc Kiến đến Quảng Đông ngày nay ( Mã Viện do sử chép ( Hậu Hán thư) đã đào sông khơi ngòi …sinh lợi cho dân”). Đấy vẫn là những hệ thuỷ lợi và trị thuỷ cổ truyền của người Bách Việt cũ được người Hán tiếp thu và truyền dạy lại. Và Luy Lâu là trung tâm buôn bán, trung tâm truyền bá Phật giáo, Nho Giáo, Đạo giáo. Ở thời đó Phật giáo còn nhiều chất pha trộn Bà-la-môn giáo . Sử sách nhà Đường và nhà Tống chép hồi cố về nhà Đường như Cựu Đường thư, Tân Đường thư và Man thư, Nguyên Hoà quận huyện chí, Thái Bình hoàn vũ ký , Đường hội yếu ..v…v .. kể cả Tuỳ thư cho ta biết nhà Đường và nhà Tuỳ đã từng bước đổi mới cơ cấu chính trị - hành chính ở đất Việt khá ổn định. Với các cấp An Nam đô hộ phủ, Châu (12 châu như Giao, Trường, Ái, Hoan, Lục (Hoàng) và kể cả các châu “ki mi” (ràng buộc lỏng lẻo ở miền núi Việt Bắc và một phần Tây Bắc hiện nay) rồi xuống Huyện, Hương và Xã nữa (đơn vị xã có ở đất Việt từ thời thuộc Đường (VII - đầu X), rất nhiều quan cấp sử An Nam đô hộ, Tiết độ sứ…) là người phi Hoa hay chỉ nửa Hoa như Khang Thái. Y như thời Tam Quốc Nam Bắc triều, có rất nhiều thái thú Cửu Chân ( Thanh Nghệ) có họ Mạnh của Mạnh Hoạch hay họ Thoán người gốc Di (Tạng Miến) Vân Nam như Thoán Cốc, Mạnh Thống v..v.. Đây là vấn đề rất lý thú để hiểu thêm về ảnh hưởng Tạng Miến, ảnh hưởng thảo nguyên trung Á đến nền văn hoá việt nam như MậtGiáo , Sa Man giáo… Đồ làng Vạc Đông Sơn muộn cũng như trống đồng Hưng Yên , Quảng Trị có nhiều mô típ trong trang trí kiểu Điền (Vân Nam) . Song, Tuỳ Đường thư vẫn không chối cãi được một sự thật là chính quyền Trung ương Trung Hoa chỉ cử quan được đến cấp châu “còn ở bên dưới, cấp huyện, thì tuỳ tiện tuyển bổ “bọn cừ suý Lý Lão Man” làm huyện quan và ràng buộc chúng lỏng lẻo mà thôi” Cho nên ta đừng nhìn thấy cơ cấu chính trị - tư tưởng Trung Hoa quá mạnh xuống tới cơ sở. Nó chỉ là một lớp sơn mỏng – dày tuỳ nơi, tuỳ lúc phết lên cái lõi văn hoá Việt. Và thật chính xác, khi nói cái làng Việt luôn là cứ điểm chống Hoa hoá cả về chính trị và văn hoá. Làng Việt là nơi lưu giữ bản sắc dân tộc và dân gian lâu dài nhất. Từ Lục triều Tuỳ Đường trở đi, sư sãi đã trở thành lớp trí thức Việt đầu tiên (chứ không phải là nho sĩ, còn lẻ tẽ lắm và thiếu tổ chức lại, ưa vọng ngoại “Nam nhân Bắc hướng”). Và trớ trêu thay, hay nghịch lý thay, thực ra là thuận lý khi lớp sư sãi Việt bản địa và cả gốc Hoa lâu đời, nhiều người đã đi hành hương sang Thiên Trúc, nhiều bậc cao tăng đã sang tận kinh đô Trường An giảng kinh cho vua Đường, có người sang cả kinh đô Nara (Nại Lương) của Nhật Bản nữa, họ đủ chất kinh lịch, từng trải vượt lên trên lớp tiểu nông Phật tử “sống ở làng”, họ hội tụ và kết tinh tinh hoa đất thần linh - người Việt và họ trở thành đại diện của tinh thần quốc gia dân tôc Việt, họ trở thành kẻ tiên tri của nền tự chủ Việt và bằng thế lực tinh thần - vật chất của tự viện, họ trở thành người lãnh đạo tinh thần cho phong trào tự chủ Khúc – Ngô – Đinh – Lê ở thế kỷ thứ X,cái “I An Mil” làm bước ngoặt lịch sử cho cả nước ta, nước Tàu và thế giới Phương Tây. 12 sứ quân: Sự hoài cổ tiền Bắc thuộc: Thế kỷ X là một sự đảo lộn chính trị, một sự lộn xộn nữa, nhưng khuynh hướng chính là tiến bộ, tiến tới nền tự chủ của nước nhà. Tôi rất thích thú về lời ca thán của nhiều sử sách Trung Hoa: “Dân Việt rất khó cai trị, rất thích làm loạn”. Tiếp cận văn hoá học thì “thông điệp” đó có nghĩa là người Việt thích lối sống riêng, không thích sự áp đặt chuyên quyền độc đoán của khuôn mẫu Trung Hoa. Đấy là quan điểm đầy nhân tính, cận nhân tình và do vậy cũng là một số hằng số văn hoá rất hiện đại và luôn có tính thời sự. Quan điểm đó được kết tinh ở tầng lớp Thiền sư và hào trưởng địa phương. Chính quyền trung ương quân chủ nhà Đường suy yếu và chết hẳn vào năm 907 để Trung Hoa mở ra cục diện “Ngũ đại thập quốc” kéo dài hơn nửa thế kỷ X. Đấy là thời cơ thuận tiện để dân ta nổi dậy dành chính quyền tự chủ. Sự nghiệp xây dựng tự chủ đầu tiên là họ Khúc ở Hồng Châu (Bình Giang, Hải Dương) vốn là một hào trưởng địa phương. Lợi dụng sự trống chỗ của Tiết độ sứ cai quản an toàn An nam, Khúc Thừa Dụ đã nổi dậy kéo quân về đô hộ phủ (An Nam, Tống Bình, Hà Nội) và tự xưng Tiết độ sứ năm 905. Đấy là một mưu mẹo chính trị hay và mềm dẻo. Ông đã vạch ngay được một phương hướng chiến lược chính trị mà mấy trăm năm sau vua chúa Đại Việt còn áp dụng: “Chính sự cốt chuộng Khoan Dung - Giản Dị để cho dân chúng được An Cư - Lạc nghiệp” (Cương Mục). Khúc Thừa Dụ mất năm 907, con ông là Khúc Hạo chỉ để tang cha có 7 ngày (một ứng sử phi Nho) đã bắt tay cầm quyền trị nước , cải cách hành chính, đổi hương làm xã và đặt chức xã quan (củng cố chính quuyền cơ sở ), giảm tô thuế (so với định mức tô – dung - điệu của nhà Đường trước) để sinh lợi cho dân. Nhưng con ông, Khúc Thừa Mỹ hèn yếu, bất lực và thần phục nhà Hậu Lương là một trong ngũ đại ở Trung Hoa (do bị áp lực của Nam Hán, bấy giờ là Nam Hán chứ không còn là Nam Việt thời Triệu Đà nữa, có sự bàn bạc của triều đình Quảng Châu ngàn năm sau Triệu Đà, trải Hán - Đường thống trị và di dân đồng bào hoá đã hoàn toàn Hán hoá rồi, còn Giao Chỉ - Cửu Châu, mức độ Hán hoá thấp, vẫn là đất Việt, dân Việt tuy sống lối sống đã khác với người Việt cổ Đông Sơn) Khúc Thừa Mỹ đã đi bước lùi của lịch sử hẳn vì dù đã có Đại La (Hà Nội) vẫn không khống chế nổi các hào trưởng địa phương, phải cầu viện ngoại viện (nhà Lương). Quân Nam Hán tiến sang, bắt Khúc Thừa Mỹ và đem về Quảng Châu. Ông này chết mất tích ở Quảng Châu. ? Nhưng lại có hào trưởng ở Ái Châu là Dương Đình Nghệ (nha tướng cũ của Khúc Hạo) diệt tướng nam Hán , xung Tiết độ sứ. Xứ Thanh bước vào vũ đài lịch sử là bắt đầu từ đây, cho dù, hay chính vì, xứ Thanh là miền “ngoại biên” của đất Việt. Hào trưởng Châu Phong (mạn Phúc Thọ) là một thế lực lớn ngoại biên gần châu thổ sông cái đã kéo quân giết Dương Đình Nghệ. Ngô Quyền – con Ngô Mân tướng quân “Thứ sử châu Phong đời đời là nhà quý tộc quê Đường Lâm”, và là con rể Dương Đình Nghệ - đã kết liễu Kiều Công Tiễn rồi dẹp giặc bên Nam Hán ở Bạch Đằng, dựng lại quyền từ chủ (châu Thao gồm 2 nửa ở hai bên sông Thao,hữu ngạn (Sơn Tây sau) là phạm vi thế lực của Ngô, tả ngạn (Vĩnh Phúc, Phú Thọ sau) là phạm vi thế lực của họ Kiều. Sử cũ ghi chép chuyện đánh lẫn nhau rồi bên yếu cầu ngoại viện.Thực chất của cuộc nội chiến này, theo tôi, là sự đấu tranh giành quyền lực tối cao trên đất Việt của các thủ lĩnh địa phương (mà GS O.W. Woleters gọi là các “man of proess” = người dũng mãnh) Chính quyền quân chủ Trung ương Đường suy tàn rồi biến mất tạo ra một khoảng trống quyền lực ở đất Việt (An Nam đô hộ phủ), một cái “hẫng hụt trung ương” mà nhiều hào trưởng địa phương có tham vọng điền vào chỗ trống ấy. Do vậy theo tôi không nên nhìn thời kỳ “Thập nhị sứ tướng quân” chỉ như một cuộc loạn sau thời Ngô Vương Quyền mất. “Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật” (Hoạ phúc có mầm đâu chốc lát) Ức Trai Cái “loạn” ấy có mầm mống ngay sau năm 905, hay còn từ trước đó nữa như tôi đã dẫn giải ở trên và không nên lấy làm lạ là trong số 12 sứ quân mà sử cũ chép theo nhau ta thấy đến 2 ông sứ quân họ Kiều là cháu nội của Kiều Công Tiễn ở Phong Châu, 2 ông sứ quân họ Ngô thuộc dòng dõi Ngô Quyền, và ông sứ quân họ Đỗ - Đỗ Cảnh Thạc – thì từ đời Đỗ Viện - Đỗ Tuệ Độ thế kỷ thứ IV đã là một thế lực lớn ở Đỗ Động Giang (Thanh Oai – Hà Tây) ..v…v.. Họ Đinh ở Hoa Lư mà một thế lực thủ lĩnh địa phương ở ngoại biên châu thổ sông Cái, nơi ấy sự phân hoá Mường - Việt chưa diễn ra mạnh mẽ. Dễ hiểu là cho đến nay vùng sát dải núi 99 ngọn dọc sông Đáy thì sườn phía Đông dải núi này là Việt còn sườn phía Tây dải núi này (mạn Hoà Bình nay) vẫn là Mường và dòng họ Đinh quý tộc Mường vẫn tự nhận mình là gốc gác Đinh Tiên Hoàng “nhất thế vi vương, vạn đại phi nhất vương tù trưởng” (nhà Đang mường Động). Hoa Lư – sau đổi thành Trường Yên là đất Trường Châu cũ của An Nam đô hộ phủ đời Đường kéo dài hai bên bờ sông Đáy từ Hà Nam tới Ninh Bình nay (Hà Nam là quê Lê Hoàn, Ninh Bình là quê Đinh Bộ Lĩnh). Trong viên gạch có in chữ “Giang tây quân” là một phiên hiệu của quân sĩ phong thu, phong đông ở thời Đường. Ở đôi bờ sông Cái mạn Nam Định- Thái Bình nay (bố hải Khẩu nay là vùng Cầu Bo, Vũ Thư, Thái Bình) là thế lực của sứ quân Trần Lâm - Gốc Mông Phúc Kiến đã sang khai thác miền ven biển rồi Việt hoá. Hai thế lực Đinh - Trần liên kết với nhau, chiếm cứ cả dải phù sa mới ven biển từ cửa sông Đáy (Độc bộ) đến cửa sông Cái Đại Hoàng Giang - tiểu Hoàng Giang là sông Châu - sông Đáy. Vùng ấy có đất đai phì nhiêu, lại có buôn bán bằng đường biển, có đánh cá, tài lực dồi dào, Phật Giáo pha trộn với Thần Giáo cũng phát triển ở vùng Giao Thuỷ (Giao Thuỷ là vùng nước ngọt - nước mặn giao nhau mà theo luật địa - kinh tế, địa - văn hoá là nơi thuyền bè tụ họp chờ nước triều lên xuống để ngược sông ra biển) nên thường hình thành các thị tứ như vùng non nước Đáy – Vân Sàng (Ninh Bình), vùng giao nước Châu Giang – sông Cái Tức Mặc (Nam Định), vùng giao nước sông Cái – sông Trà Lý (Trà Lý là một địa danh gốc Melayu – Trà = Ea = nước, sông nước) (Thái Bình nay). Hai thế lực liên kết Đinh – Lê đó đã ngược sông dần dà chinh phục hay khống chế được các sứ quân khác từ Hưng Yên (Đằng Châu - Phạm Phòng Át, Tế Giang (Văn Giang) Lã Đường), Bắc Ninh (Siêu Loại Lý Khuê, Tiên Du Nguyễn Thủ Tiệp, Phù Liệt - Nguyễn Siêu (Phù Liệt – vùng Sét – Thanh trì nay) rồi Đỗ Động Giang - Đỗ Cảnh Thạc (Thanh Oai), Đường Lâm (Sơn Tây) Ngô Nhật Khánh, rồi anh em họ Kiều (Cẩm Khê - Bạch Hạc Phú Thọ) Nguyễn Khoan - Nguyễn Gia Loan – Yên lạc – Vĩnh Phúc). Nghĩa là kiểm soát được toàn vùng tam giác châu sông Cái - Nhị - Hồng). Cái lãnh thổ cốt lõi của nước Đại Việt ta thời Đinh – Lê là đó. Song Đinh Lê chưa thể ra đóng đô ở thành Đại La cũ “giữa cõi bờ đất nước” được, mà vẫn thủ thế ở vùng Hoa Lư - Trường Yên “quê nhà”. Nhà Đinh nên được xem là một nhà vua quân chủ tập quyền. Sao chăng nữa, cũng đã có một hình mẫu quôc gia ở Hoa Lư, giới khảo cổ Việt Nam đã phát hiện được ngày càng nhiều viên gạch xây thành, xây cung điện có in dòng chữ “Đại Việt quốc quân thành chuyên” (gạch xây thành của vua nước Đại Việt – Do vậy cần xem lại cái quốc hiệu “Đại Cồ Việt”của sử cũ. Nhiều nhà nghiên cứu ngờ Cồ Việt là tên nôm : Kẻ chỉ Việt, Không gian xã hội văn hoá của người Việt) Theo tôi nhìn, cái nhìn địa - văn hoá thì Hoa lư – Trường Yên nghĩa hẹp là một bồn địa giữa núi được lấp đầy dần bởi phù sa sông biển (qua các bài thơ của Nguyễn Trãi thì cho đến thế kỷ XV Thần Phù (Yên Mô – Ninh Bình nay) vẫn là vùng “hải khẩu” và vùng non nước (thị xã Ninh Bình ) vẫn rất gần cửa biển. Còn Hoa lư nghĩa rộng là một vùng tứ giác nước bao bọc bởi các sông Hoàng Long, Đáy, Vân Sàng. Từ Hoa Lư thế lực Đinh Lê vươn tới được Cửu Châu = Kẻ (xứ) Thanh nhưng vẫn phải nhân nhượng các thế lực địa phương như Lê Lương ở Đông Sơn chẳng hạn. Và nên chú ý tới thế lực họ Dương ở vùng ngã ba Dàng (Dương Xã). Dương Đình Nghệ không còn như Dương Tam Kha còn “quậy” dưới thời Ngô. Và trong năm bà hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng (và cả họ Lê - Lý sau này) vẫn có bà hoàng hậu (sau là thái hậu) họ Dương. Sau lưng mỗi bà hậu là một thế lực địa phương. Hôn nhân cung đình thực chất là một cuộc liên minh chính trị, nhà Nho sau không hiểu cho là Đinh – Lê – Lý làm trái lễ Nho, chỉ một “hậu” thôi chứ! Thế lực sĩ phu Nho gia thời đó đâu đã mạnh bằng thế lực Phật giáo. Lê Hoàn sau khi phá tan Tống Bình Chiêm, uy danh có lớn hơn song biên niên sử chép đầy dẫy việc ông phải đi đánh “giặc”, “kẻ làm loạn” ở các xứ Ái, Hoan, Diễn (có vai trò kích động của họ Dương – Dương Tiến Lộc 989), Đỗ Động Giang, Phong Châu… và phải chia đất cho các con cai quản ở các vùng trọng yếu: Đằng Châu (Hưng Yên), Phong Châu (Sơn Tây – Phú Thọ - Vĩnh Phúc), Ngũ huyện giang (xứ Thanh), Đỗ Động (Hà Đông), Cổ Lãm (Bắc Ninh), Phù Đái Hải Dương)… Lại đến lượt các con ông trở thành các thế lực địa phương, sau khi ông mất (1005), lại đánh lẫn nhau trong 8-9 tháng trời để tranh lập các thế lực địa phương khác. Nhà Lý lên ngôi và dời đô ra thành Đại La cũ (Thăng Long) Ông Nguyễn Thiệu Lâu đã nêu một ý tưởng địa lý rất hay: Hà Nội là thủ đô thiên nhiên của Đại Việt: trăm núi, trăm sông đều hội tụ về đây, rồi từ đây lan toả. Sau này theo thuyết phong thuỷ người ta nói đến thế long bàn (rồng cuộn - bên tả, tả thanh long là dải Tam Đảo), hổ cứ (hổ ngồi – bên hữu - hữu bạch hổ - là dải 99 ngọn) với cái chẩm (Gối – Ba Vì) ở sau cái đai (dải nước Nhị Hà) ở trước và trung tâm là Long đồ, (rốn rồng) nơi có trục trung tâm nối trời với đất, rồi sông Tô Lịch với thần Long Đỗ, thần Tô Lịch v..v.. Đặc biệt Hà Nội là xứ sở của rất nhiều huyền thoại - huyền tích, huyền tích bản địa và huyền tích vay mượn và biến đổi từ Trung Hoa, từ Ấn Độ: - Nào là huyền tích “Cửu vĩ hồ tinh” với Long Vương dâng nước phá hang cáo, tạo ra đầm xác cáo (làng Cáo đỉnh bên bờ Hồ Tây – Xuân Đỉnh nay). - Nào là huyền tích hồ Trâu Vàng và sông Kim Ngưu - mượn từ huyền tích Hồ Tây bên Hàng Châu, Trung Quốc. - Nào là huyền tích hồ trả Gươm với nghi thức thần thoại nhúng thanh gươm (dương - lửa sấm sét) xuống nứơc (âm – lũ lụt) được lịch sử hoá thành thanh thần kiếm “Thuận Thiên” thần ban cho Lê Lợi chống giặc Minh, thắng lợi rồi Trời sai thiên sứ Rùa Vàng - một hoài cố thần Kim Quy với thành cổ Loa hay Quy thành ở xứ Tứ Xuyên Trung Quốc - xuống xin lại thanh gươm (Hồ Hoàn Kiếm). - Nào là huyền tích đức thánh Chèm – ông Khổng Lồ xoạc chân đôi bờ sông Cái giết giải - thuồng luồng trả thù cho mẹ bị thuỷ quái nuốt ở thời sơ cổ (Lý Ông Trọng). - Rồi đến huyền tích Khổng Lồ - Không Lộ - Minh Không, đi thuyền như bay về Kinh sư chữa bệnh hoá hổ của vua Lý Thần Tông bằng việc nhúng tay vào vạc dầu sôi sùng sục rồi tắm vuốt cho thân thể nhà vua (đây là ma thuật chữa trị của các nhà Yoga). - Và trước đó Từ Đạo Hạnh vứt gậy ở Yên Quyết (Cót). Gậy trôi ngược dòng đến cầu Tây Dương (Cầu Giấy) mới dứng lại và thiền sư (kiêm một pháp sư) dùng gậy đó đập chết pháp sư Đại Điên, trả thù cho bố… Sau đó là chuyện Từ Đạo Hạnh đập dầu vào đá hang núi chùa Thầy đầu thai làm Lý Thần Tông. Trước đó là huyền tích Pháp sư Đại Điên xui Nguyễn Bông nấp trong buồng tắm Ỷ Lan nguyên phi để đầu thai làm Lý Nhân Tông v..v. và v..v.. Kho di sản văn hoá vô thể đó của Hà Nội cần được nghiên cứu, giải mã, giữ gìn và phát huy. Để kết thúc bài viết này, tôi xin quay trở lại với bài văn thường được gọi là Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn. Chiếu là một thể văn của Trung Hoa chỉ một người (Vua) được dùng và nhằm hạ lệnh. Bài Chiếu của Lý Công Uẩn (do ai đó soạn thảo, có thể là theo ý tưởng của thiền sư Vạn Hạnh). Theo tôi là một tuyên ngôn địa – chính trị, địa chiến lựơc về vùng đất Đại La “ở giữa Đông Tây Nam Bắc, tiện hình thế núi sau, sông trước, xứng đáng là thượng đô của muôn đời” và Lý Công Uẩn bày tỏ khát vọng “Đóng nơi trung tâm, mưu toan việc lớn cho muôn đời con cháu mai sau”. Bài chiếu lại kết thúc bằng một câu phá cách văn chiếu Trung Hoa mang đậm đà bản sắc văn hoá Việt “Trẫm nghĩ như vậy, nhưng ý các khanh thế nào?”. Tôi đã nói nhiều lần đây là bài chiếu hỏi ý kiến quần thần về việc dời đô đầy ý vị Việt Nam. Được viết ở Hoa Lư vào tháng 2 và tới tháng 7 mới bắt đầu cuộc dời đô bằng thuyền, từ Hoa Lư theo dòng Hoàng Giang ra sông Đáy, sông Nhị để tiến lên Đại La. Huyền tích Rồng Bay và cái tên mới của kinh thành Thăng Long xưa nay vẫn được cắt nghĩa như là biểu hiện sức vươn lên mới của dân tộc thì cũng không sai. Song nếu tôn trọng tâm thức lịch sử đương thời thì theo tôi cần giải thích theo Quẻ Càn (Trời – Vua) của Dịch học: Tiềm long vu thuỷ Hiện long tại điền Phi long tại thiên TRẦN QUỐC VƯỢNG Theo báo Nguồn Sáng: Tháng 8 năm 99. Còn đây là bài viết của ông Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh PHẢN BIỆN TRẦN QUỐC VƯỢNG (Nguồn Tuvilyso.com)Bài viết ngày 18/ 5- 2005 Thiên Sứ Trên báo Nguồn Sáng số tháng 8 năm 1999, có bài “Từ Hoa Lư đến Thăng Long” của ông Trần Quốc Vượng. Đọc qua cái tựa, người đọc hy vọng tìm thấy những dấu ấn lịch sử huy hoàng của dân tộc Việt trong giai đoạn đầu giành lại độc lập sau hơn 1000 năm chịu ách đô hộ của các triều đại phong kiến Bắc phương. Nhưng toàn bộ bài viết là một sự phủ định giá trị lịch sử dân tộc qua cái nhìn của một người được coi là Giáo sư sử học. Mặc dù với tựa đề là “Từ Hoa Lư đến Thăng Long” ,nhưng để dễ dàng chứng minh những luận điểm của mình, tác giả bài báo đã bắt đầu từ thời Hùng Vương là một thời kỳ khuyết sử của dân tộc Việt Nam. Thời Hùng Vương chính là khởi điểm quan trọng để dẫn đến sự khẳng định hoặc phủ định giá trị lịch sử Việt. Cho nên ngay những dòng đầu tiên của bài báo, ông Trần Quốc Vượng đã viết: “Thời đại văn hoá Đông Sơn, thời đại các vua Hùng không nên xem là một thời đại của vương triều thống nhất. Văn Lang là cái tên xuất hiện trong sử một cách muộn mằn (Thời nhà Đường, thế kỷ thứ VII - IX). Tôi đã chứng minh rằng vua Hùng là một Pò Khun - thủ lĩnh mạnh nhất của một phức thể Khun (Vua = Bua = Pò, Hùng = Khun) tức hệ thủ lĩnh địa phương chiếm cứ các vùng từ đỉnh châu thổ sông Hồng (Việt Trì) đến các vùng bãi biển. Theo truyền thuyết và sử cũ thì lúc bấy giờ có khoảng 15 bộ. Ông Giáo sư Tiến sĩ Mỹ Keith - Taylor đã dịch một cách tài hoa và lạnh lùng các Lạc tướng là “Lord” và vua Hùng là “Overlord””. Đối với An Dương Vương và Âu Lạc, ông Trần Quốc Vượng chỉ cho rằng đó là: “Một tổ chức nhà nước Âu Lạc sơ khai”. Để chứng minh cho luận điểm của mình, ông Trần Quốc Vượng viết: “Tôi và Cẩm Trọng đã chứng giải “Thục Phán” không phải là một tên riêng (nhân danh) mà là một từ chức năng - “Túc Phắn” chỉ thủ lĩnh đi “mở đất mở mường”. Những luận điểm trên đây của ông Trần Quốc Vượng chính là cơ sở để từ đó dẫn đến sự phủ định hàng loạt những giá trị lịch sử dân tộc. Bởi vì, một khi đã coi thời Hùng Vương không phải là một vương triều thống nhất, Âu Lạc chỉ là một nhà nước sơ khai (tức là chưa đủ tư cách là một quốc gia) thì toàn bộ diễn biến lịch sử đầy máu và nước mắt của người Lạc Việt khởi nghĩa giành lại độc lập dân tộc trong con mắt của ông Trần Quốc Vượng chỉ còn là những cuộc nổi dậy và phản ứng của dân chúng với vương triều Hán. Do đó, về cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng, ông Trần Quốc Vượng viết: “Không nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là biểu hiện của sự trổi dậy của tinh thần dân tộc, cùng lắm nên coi đó là một ý thức đòi cách sống riêng của người Việt cổ, không chấp nhận lấy lối sống Hán Hoa là một khuôn mẫu phổ biến. Tôi (Trần Quốc Vượng) đề nghị giới cổ sử học Việt Nam nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là một phản ứng văn hoá - chính trị”. Đây là một đoạn văn gây xúc phạm mạnh mẽ trong tâm linh dòng dõi Lạc Việt. Cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng trong lịch sử dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa vẫn được coi là biểu tượng của ý chí quật cường, sự trỗi dậy đầy khí phách của người Lạc Việt. Chưa hết, ông Trần Quốc Vượng còn đặt cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ với cục diện “Ngũ Đại Thập Quốc” của Trung Hoa vào cuối đời Đường. Phải chăng ông Trần Quốc Vượng muốn nói rằng cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ tạo nên nền tảng đầu tiên của nền độc lập Việt Nam chỉ là một cuộc ly khai may mắn hơn các thủ lĩnh của Trung Hoa cùng thời kỳ? Những ý tưởng lạc lõng của ông Trần Quốc Vượng không chỉ dừng lại ở đấy mà có thể khẳng định rằng: toàn bộ nội dung của bài báo là một sự bôi nhọ trắng trợn giá trị lịch sử của dân tộc Việt Nam trong suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc. Về văn hoá, Trần Quốc Vượng cho rằng hầu hết huyền thoại cổ tích liên quan đến thành Thăng Long - miền đất đế đô đầu tiên khi phục hồi nền độc lập quốc gia của người Lạc Việt - chỉ là sự vay mượn ý tưởng của nước ngoài. Ông đã lấy huyền thoại Rồng bay - Thăng Long - niềm tự hào về kinh đô chính thức và lâu đời của dân tộc, ông Trần Quốc Vượng cũng cho rằng huyền tích này mượn ý của văn hoá Trung Hoa cổ bằng cách viện dẫn Dịch học nói về quẻ Càn. Ông Trần Quốc Vượng viết: “Huyền tích Rồng bay và cái tên mới của kinh thành Thăng Long xưa nay vẫn được cắt nghĩa như là biểu hiện sức vươn lên của một dân tộc thì cũng không sai. Song nếu tôn trọng tâm thức lịch sử đương thời thì theo tôi cần giải mã quẻ Càn (Trời vua) của Dịch học. Tiềm Long vu Thuỷ Hiện Long tại Điền Phi Long tại Thiên Đến đây ông Trần Quốc Vượng bỏ lửng coi như là đoạn kết của bài báo. Phải chăng ông Trần Quốc Vượng muốn chứng tỏ rằng - mặc dù với sự kiện thành lập kinh đô, sự khẳng định một quốc gia độc lập vững chắc của người Lạc Việt; đối với Trần Quốc Vượng thì nước Đại Việt vẫn nô lệ về văn hoá? Để có cớ dẫn đến sự phản bác giá trị lịch sử văn hoá truyền thống của dân tộc, tất nhiên vị giáo sư khả kinh - vốn được một số người xếp vào hàng tứ trụ trong giới sử học Việt và dài phát thanh có tên tuổi BBC phỏng vấn – ông Trần Quốc Vượng phải nhân danh khoa học. Chúng ta xét xem những chứng cứ gọi là “khoa học” của ông Trần Quốc Vượng trong bài báo được thực hiện như thế nào? Căn cứ cụ thể trên bài báo mà ông Trần Quốc Vượng dựa vào bắt đầu từ danh xưng của vua Hùng và Thục Phán theo cách gọi của đồng bào các dân tộc. Đương nhiên, để phủ nhận những giá trị lịch sử dân tộc Việt Nam, Trần Quốc Vượng không thể chỉ căn cứ vào cách gọi và nội dung danh từ chỉ vua Hùng và Thục Phán; mà có thể còn phải căn cứ vào rất nhiều hiện tượng lịch sử khác. Nhưng việc đưa lên báo cách gọi vua Hùng và Thục Phán của đồng bào các dân tộc – để dẫn đến sự khẳng định thời Hùng Vương không phải là vương triều thống nhất, Âu Lạc chỉ là nhà nước sơ khai theo quan niệm của ông Trần Quốc Vượng – thì tất yếu đó phải là luận cứ quan trọng nhất. Đã có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu liên quan đến danh xưng của vua Hùng và Thục Phán. Trước đây, ông Đào Duy Anh có quan điểm ngược lại với Trần Quốc Vượng về Thục Phán. Ông Đào Duy Anh cho rằng: Thục Phán là một từ nhân danh (Trần Quốc Vượng cho là một từ chức năng), là Thục Vương Tử và cố chứng minh rằng Thục Phán là con vua nước Ba Thục. Cho rằng Trần Quốc Vượng đã đúng so với Đào Duy Anh, tức là vua Hùng được gọi là Pò Khun và đúng luôn cả cái nghĩa là thủ lĩnh mạnh nhất; Thục Phán là Túc Phắn, là thủ lĩnh mở đất mở mường thì điều đó cũng không thể coi là luận cứ có sức thuyết phục để phủ nhận thời Hùng Vương là một vương triều và cho rằng Âu Lạc chỉ là nhà nước sơ khai. Ngược lại; hiện tượng mà chính ông Trần Quốc Vượng đưa ra lại có thể giải thích ngược lại rằng: Chính sự tồn tại của từ Pò Khun trong đồng bào các dân tộc để chỉ vua Hùng; đã chứng tỏ quyền lực của các vua Hùng không phải chỉ ảnh hưởng đến chủng tộc Lạc Việt, mà còn bao trùm trên các chủng tộc khác trên đất nước Văn Lang. Sự ảnh hưởng này chắc chắn phải rất mạnh; nên 2000 năm sau hình ảnh vua Hùng vẫn tồn tại trong lịch sử phát triển của đồng bào các dân tộc để ông Trần Quốc Vượng biết được Pò Khun là vua Hùng, là thủ lĩnh mạnh nhất. Ông Trần Quốc Vượng còn căn cứ vào sử sách của người Hoa hạ để chứng minh rằng quốc hiệu Văn Lang của Việt Nam xuất hiện vào đời Đường. Như vậy ông Trần Quốc Vượng gián tiếp phủ nhận luôn nội dung truyền thuyết cổ nhất của dân tộc Việt Nam - truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên, niềm tự hào của người Lạc Việt; khi truyền thuyết này khẳng định thời Hùng Vương quốc hiệu là Văn Lang. Nếu vậy - theo ông Trần Quốc Vượng – thì sẽ phải đặt lại vấn đề: Truyền thuyết này có từ bao giờ? Và tiếp theo đó sẽ là việc đặt lại thời điểm xuất hiện của hàng loạt những truyền thuyết lịch sử thời Hùng mà tuần tự thời gian được xác nhận ngay trong các truyền thuyết đó đều có sau truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên; như: Bánh Chưng , bánh Dầy; Trầu cau.... Đây là một việc mà khả năng của ông Trần Quốc Vượng và tất cả những học giả chung quan điểm với Trần Quốc Vượng - kể cả trong và ngoài nước (không loại trừ Giáo sư Tiến sĩ Mỹ Taylor) không bao giờ có thể làm được; để phủ nhận giá trị lịch sử của những truyền thuyết đó. Tổ tiên người Lạc Việt đã để lại một tổ hợp truyền thuyết lịch sử về thời Hùng Vương có một kết cấu chặt chẽ với những di ấn không thể phủ định. Đó là sức mạnh của nền văn hiến Việt Nam được chứng tỏ qua bao thăng trầm của lịch sử. Chỉ cần một hiện tượng đó cũng đủ chứng tỏ thời Hùng Vương là một quốc gia có tổ chức với một nền văn minh rực rỡ. Thời Hùng Vương không thể phủ định thì giá trị lịch sử đầy máu và nước mắt của dân tộc Việt Nam thể hiện trong các cuộc khởi nghĩa đầy khí phách dành độc lập của dân tộc trong hơn 1000 năm Bắc thuộc không thể phủ định. Tiêu biểu cho khí phách và tinh thần anh dũng đó chính là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Để chứng minh điều này; tôi trở lại với vấn đề quốc hiệu Văn Lang của các vua Hùng – nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt và các dân tộc anh em. Hiện nay có không ít những nhà nghiên cứu cho rằng các truyền thuyết về thời Hùng Vương là nguỵ tạo từ thế kỷ XV. Họ căn cứ vào cuốn ”Lĩnh Nam trích quái “ được viết vào thế kỷ XV. Đúng là cuốn sách này được viết vào thế kỷ XV thật. Nhưng điều đó không có nghĩa những truyền thuyết này chỉ xuất hiện vào thời kỳ đó. Chính tác giả của cuốn sách cũng thừa nhận chỉ sư tầm chép lại từ dân gian. Ông Vũ Quỳnh - viết trong lời tựa: Ôi! Lĩnh Nam liệt truyện có phải chỉ riêng khắc vào đá; viết vào tre mới là quí hơn bia miệng đâu? Từ đứa trẻ hoi sữa đến các cụ già tóc bạc đều truyền tụng để tỏ lòng yêu dấu..” Nhưng chuyện tiêu biểu về thời Hùng Vương trong Lĩnh Nam trích quái chúng ta cũng thấy rằng: Truyện lập quốc Văn Lang là sớm nhất. Sau đó mới đến Trầu Cau và Bánh Chưng – Bánh Dầy . Ông Trần Quốc Vương và một số không ít các nhà nghiên cứu ủng hộ ông có thể chứng minh được tục làm bánh chưng bánh dầy trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc vào thế kỷ XV chăng? Hay họ có thể chứng minh tục ăn trầu có từ thời Lý - Trần chăng? Ăn trầu là phong tục của người Trung Quốc chăng? Như vậy; chính những giá trị văn hoá phi vật thể là chiếc bánh chưng – bánh dầy trong ngày lễ Tết của dân tộc Việt và tục ăn trầu phổ biến khắp miền năm sông Dương Tử – và ngay bây giờ ở Đài Loan (vốn có vị trí vĩ tuyến ngang Đông Đình Hồ là biên giới Văn Lang xưa) – đã chứng tỏ tính thống nhất về văn hoá trong một cộng đồng sinh sống ở một vùng lãnh thổ rộng lớn Nam Đông Đình Hồ. Sự thống nhất về văn hoá này chứng tỏ đã có một quyền lực bảo trợ cho những giá trị văn hoá ấy . Đó là triều đại các vua Hùng mà chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa hiện đại đã thừa nhận; họ gọi là nước Ba. Các truyền thuyết sau – “Trầu Cau” và “Bánh Chưng – Bánh Dầy” lại là sự bảo chứng cho truyền thuyết trước về một nước Văn Lang ở Nam Động Đình Hồ với những dấu ấn văn hoá phi vật thể tồn tại từ hàng ngàn năm trước. Cho dù có một văn bản nào đấy nhắc tới một địa danh Văn Lang vào thời nhà Đường thì điều đó cũng không có nghĩa danh từ Văn Lang chỉ xuất hiện vào thời kỳ này. Ông Trần Quốc Vượng muốn chứng minh rằng nước Đại Việt dù độc lập về chính trị nhưng vẫn lệ thuộc về văn hoá, bằng cách đưa lời Hào Từ của quẻ Thuần Càn trong Kinh Dịch về con Rồng trong văn hoá Han để liên hệ với Thăng Long trong chiếu dời đô của Hoàng đế Lý Thái Tổ. Nhưng Kinh Dịch vốn được người Hoa Hạ coi là sản phẩm của mình lại có nguồn gốc hết sức mơ hồ, cứ như từ trên trời rơi xuống. Đó là một cuốn sách không đầu không đuôi, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu. Người coi Kinh Dịch là sách bói, người coi là sách triết và lịch sử Kinh Dịch thì đầy mâu thuẫn. Cho đến ngày nay, cả thế giới hiện đại xúm vào nghiên cứu Kinh Dịch vẫn còn ngơ ngác; thậm chí Kinh Dịch bí ẩn ngay cả với các học giả Trung Hoa hiện đại vốn tự nhận là hậu duệ của nền văn minh sản sinh ra Kinh Dịch. Đã có những học giả Việt Nam khả kính đặt vấn đề cho rằng thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch liên quan đến nền văn minh Bách Việt; đó là Giáo sư Bùi Văn Nguyên với tác phẩm “Kinh Dịch Phục Hy” và Lê Văn Sửu với tác phẩm “Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành”. Đây là một giả thuyết rất có cơ sở khoa học. Như vậy, nếu đứng về góc độ của khoa học và thực tiễn thì lý luận của ông Trần Quốc Vượng chưa đủ sức thuyết phục. Nhưng ông Trần Quốc Vượng đã vội vàng khẳng định quan điểm của mình có tính áp đặt; khi đề nghị: “Không nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là biểu hiện của sự trổi dậy của tinh thần dân tộc, cùng lắm nên coi đó là một ý thức đòi cách sống riêng của người Việt cổ, không chấp nhận lấy lối sống Hán Hoa là một khuôn mẫu phổ biến. Tôi (Trần Quốc Vượng) đề nghị giới cổ sử học Việt Nam nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là một phản ứng văn hoá - chính trị”. Chính lời đề nghị này đã chứng tỏ một tư duy phi khoa học, khi khoa học cần có sự đối thoại để tìm chân lý. Sự đề nghị có tính áp đặt của ông Trần Quốc Vương sẽ không cho phép những tư duy phản biện xuất hiện. Đấy không phải là tinh thần khoa học. Không xuất phát từ một tư duy khoa học thì ông Trần Quốc Vượng nhân danh cái gì để phủ định những giá trị lịch sử của dân tộc Việt Nam? Nếu có sự nói thẳng ra điều này dưới bất cứ hình thức nào thì Thiên Sứ tôi sẽ im lặng. Vì Thiên Sứ tôi chỉ nhân danh khoa học. Sắp tới ngày tưởng niệm hai vị liệt nữ anh hùng của dân tộc Việt. Hai vị đã giải phóng 64 thành trì và giành độc lập; gìn giữ lại những bản sắc văn hiến của dân tộc Việt. Xin có lời nhắc nhở đến những ai có quan niệm phủ định công lao của Hai Bà trong lịch sử dân tộc bằng cách cho rằng: Lãnh thổ của nước Văn Lang chỉ vỏn vẹn ở đồng bằng Bắc bộ; nên làm gì có 64 thành để Hai Bà Trưng giành lại. Nhưng chính Tô Đông Pha đã viết: ” ...Nước Nam Việt từ Tam Đại trở xuống, không đời nào dẹp yên cả. Đời Tần (246 - 207 tr.CN), tuy có đặt quan chức cai trị, xong rồi trở lại tình trạng man di. Bì Ly mới diệt được nước ấy và chia làm chín quận. Nhưng đến đời Đông Hán, lại có người con gái là Trưng Trắc, khởi binh rung động hơn 60 thành. Đương thời vua Thế Tổ mới dẹp yên thiên hạ, thấy dân đã mỏi mệt và chán việc dụng binh, bèn đóng cửa Ngọc Quan từ tạ Tây Vực. Phương chi Nam Việt là chỗ hoang viếng, không đáng phiền lụy đến quân đội nhà vua nếu không phải Tuân Tức Hầu (Mã Viện) chịu khó đánh dẹp thì dân chín quận vẫn khoác áo bên trái đến bây giờ. ----------------------- * Chú thích: An Nam chí lược: Lê Tắc; Quyển đệ nhất; mục “Cổ Tích”. Viện ĐạI hoc Huế 1961. Giáo sư Linh mục Cao Văn Luận. Qua đoạn trích dẫn trên thì dân Chín quân sẽ không thể chỉ là Nhật Nam và Cửu Chân; mà là bao trùm nam sông Dương Tử. Chính với vùng lãnh thổ rộng lớn này sẽ giải thích hơn 60 thành mà ông Tô Đông Pha nói tới. Cảm ơn sự quan tâm của quý vị. NGUYỄN VŨ TUẤN ANH
-
Kính thưa quí vị quan tâm Những người thuộc nhóm "Hầu hết những nhà khoa học trong nước " và "công đồng khoa học thế giới" ủng hộ quan điểm phủ nhận những giá trị văn hóa sử truyền thống Việt, không chỉ phủ nhận giá trị lịch sử của một thời đại, mà họ còn phủ nhận luôn từng chi tiết của nền văn hóa truyền thống Việt một cách rất phản khoa học. Họ khoanh vùng biên giới Văn Lang - quốc gia đầu tiên của người Việt chỉ trong giới hạn Bắc Việt Nam và Bắc Trung bộ Việt Nam ngày nay. Họ cho rằng thời Hùng Vương chỉ là một liên minh 15 bộ Lạc và không phải là một quốc gia. Họ gán cho những người dân ở trần đóng khố là y phục dân tộc thời Hùng Vương. Với bài viết này của Trần Quốc Vương, ông ta đã tấn công vào linh vật của nền văn hiến Việt được tổ tiên trân trọng từ hàng ngàn năm trước trong thời Hoàng Kim của nó. Nhưng phải nói rằng: Những luận điểm của họ trong cái đám "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" được "Cộng đồng khoa học thế giới thừa nhận" đó đều hoàn toàn chủ quan và phi khoa học. Bài viết này tiếp tục chứng minh điều đó. Ông Vượng viết: Vấn đề là tại sao nó bị giải thiêng? Chúng ta cũng thấy rằng: Trong cuộc đời dâu bể này, có những cái được trân trọng ở thế hệ này thì lại bị - nói theo Trần Quốc Vương - "giải thiêng" ở thế hệ khác. Con vua thì lại làm vua. Con sãi ở chùa thì quét lá đa. Bao giờ dân nổi can qua. Con vua thất thế lại ra quét chùa. Trong trường hợp này - cái thiêng liêng của "con vua cháu chúa" một thời đã bị "giải thiêng". Huống chi dân tộc Việt bị hơn 1000 năm đô hộ và Hán hóa thì làm sao những giá trị "thiêng liêng" một thời của dân tộc Việt được người Hán tôn thờ. (Họ chỉ tôn thờ những giá trị của dân tộc Việt khí họ tưởng là của họ thôi - Thí dụ như Kinh Dịch). Nhưng quí vị cũng thấy rằng: Trải hơn hàng ngàn năm Bắc thuộc và tiếp theo hàng ngàn năm sau đó với bao thăng trầm của lịch sử Việt mà chiếc Bánh chưng bánh dầy vẫn được bao thế hệ trân trọng trong những ngày lễ Tết đến tận bây giờ. Điều này đã chứng tỏ sức mạnh huyền vĩ của nền văn hiến Việt. Bánh chưng bánh dầy - linh vật của nền văn hiến Việt - một trong những bằng chứng rất rõ nét chứng tỏ một thời huyền vĩ của dân tộc Việt ở Nam Dương Tử. Đấy chính là sản phẩm văn hóa thuần Việt mà không thể một người nào minh chứng được rằng nó là sản phẩm của Nhâm Quang Sĩ Nhiếp từ văn hóa Hán đem lại. Nó mang dấu ấn của vua Hùng qua truyền thuyết của dân tộc Việt và truyền thuyết ấy lại được bảo chứng bằng tính nghi lễ của Bánh Chưng bánh dầy trong những lễ lớn nhất của dân tộc Việt - Đó chính là ngày Tết. Nền văn hiến Việt tan rã ở Nam Dương tử từ hàng ngàn năm trước. Tất nhiên - "Con vua thất thế lại ra quét chùa". Bởi vậy Trần Quốc Vượng mới thấy hiện tượng nó bị bày bán ở chợ đời mà ông ta nói là nó bị "giải thiêng". Nhưng ông ta lại không thể giải thích vì sao nó vẫn được trân trọng trong tâm linh người Việt. Ông chỉ nhìn thấy cái tục của nó, nhưng ông không đủ tầm để nhìn thấy cái thiêng liêng huyền vĩ của nó. Tức là ông chỉ thấy được một vế tục trong cái mà ông gọi là "cặp phạm trù" - Thiêng/ Tục. Chưa hết, Trần Quốc Vượng còn viết: Đoạn trên cho chúng ta thấy rằng: Ông Vương cố tình dẫn chứng hòng xóa nhòa giá trị độc đáo của chiếc bánh chưng, bánh dầy như là một sản phẩm duy nhất của riêng người Việt, bằng cách minh chứng các dân tộc khác cũng có sản phẩm tương tự. Trong địa vị của ông với tư cách là giáo sư Sử học hàng đầu - tất nhiên ông có điều kiện hơn gấp rất nhiều lần một phó thường dân dự khuyết hạng hai Nam Bộ như tôi - để có thể sưu tầm những tư liệu lịch sử. Nên ông có vẻ như có nhiều bằng chứng mà ông đã dẫn để minh chứng cái bánh chưng, bánh dầy không phải là sản phẩm duy nhất của dân tộc Việt. Nhưng rất tiếc cho ông, ông không có đủ khả năng tư duy để tổng hợp lại những gì mà ông biết qua những hiện tượng mà ông sưu tầm được. Cho nên ông không thể chỉ ra được cái vế thứ hai của cặp phạm trù là tính thiêng liêng của cái bánh chưng, bánh dầy. Cho nên, mặc dù ông rất nổi tiếng, được tung hê trên các phương tiên thông tin cả trong và ngoài nước, thí dụ như BBC. Nhưng người dân Việt vẫn trân trọng tổ tiên và bảo vệ nền văn hóa Việt khi họ vẫn dùng bánh chưng, bánh dầy thành kính dâng lên tổ tiên trong ngày lễ Tết. Ông chỉ có khả năng nhận thức hiện tượng, nên ông cứ tưởng những hiện tượng mà ông sưu tầm được ở Tứ Xuyên qua bà Á Linh, Ở Nhất Bản qua ngài giáo sư Ohayashi Taryo khả kính, là ông có thể xóa được giá trị của chiếcbánh chưng bánh dầy trong tâm thức Việt. Ông đã nhầm, hiện tượng là một chuyện. Lý giải hiện tượng lại là một chuyện khác mà Thiên Sứ tôi cho rằng: Ông không đủ khả năng tư duy. Chính những hiện tượng mà ông dẫn chứng đó lại minh chứng cho một luận điểm khác: Luận điểm minh chứng hoàn toàn khoa học - với tiêu chí khoa học rằng: Nước Văn lang một thời huyền vĩ ở bờ Nam sông Dương Tử. Bắc giáp Động Đình hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tấy giáp Ba thục, Đông giáp Đông hải. Bởi vậy mà trài hàng ngàn năm sau đó người dân Tứ Xuyên vẫn còn giữlại những dấu ấn Việt như chính bà Á linh nói, Và cũng chính qua hiện tượng mà giáo sư Ohayashi Taryo nói lại là một bằng chứng săcsảo chứng tỏ rằng: Cội nguồn lịch sử dân tộc Nhật Bản ngày này xuất phát từ đất nước Văn Lang xưa, khi nền văn minh này bị tàn phá vào thòi Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Họ đã di tản đến đảo Phù Tang và lập quốc ở đó. Nhưng tôi sẽ không cần dùng đến bằng chứng của ông để chứng minh cho một luận đề lích sử "Văn Minh Văn Lang và cội nguồn lịch sử Nhật Bản" (Bài viết trong mục "Cổ văn hóa sử"- lyhocdongphuong.org.vn hoặc vanhienlacviet.org.vn). Chính bởi không đủ khả năng phủ nhận tính thiêng liêng của chiếcbánh chưng bánh dày trong tâm linh người Việt, nên ông phải thừa nhận trong ngay đoạn tiếp theo: Tuy nhiên ông vẫn cứ cố tính dùng hiện tượng để lập lờ đánh lận con đen (Chỉ lận được con đen thôi). Ông viết: Híc! Bởi vậy! Khả năng của Trần Quóc Vương đâu thể xóa sổ nổi những giá trị văn hóa Việt. Này tôi nói cho các người biết: Khi Trương Phụ vâng mệnh Tuyên Đức sang Việt Nam với sứ mệnh xóa sổ văn hiến Việt, đập hết văn bia, đốt hết chữ viết dù là sách vở học trò, bắt dân ta theo phong tục Trung Quốc trải gần 20 năm còn chưa xóa sổ được nền văn hiến huyền vĩ Việt. Cỡ ông và tất cả cái "hầu hết" và "cộng đồng khoa học thế giới" chưa là cái đinh gì. Ông ta nói "Trời tròn đất vuông là một triết lý Trung Hoa muộn màng được hội nhập vào triết lý Việt Nam. Đó không phải là triết lý dân gian Việt Nam". Vậy cái bánh chưng bánh dầy có từ bao giờ trong quá trình Hán hóa nền văn hiến Việt? Xin lỗi ông. Ông và tất cả cái "hầu hết" và "công đồng thế giới" ủng hộ không đủ khả năng minh chứng điều này! Những cái biến thể của chiếc bánh chưng miền Nam tất yếu phải có sau chiếc bánh chưng miền Bắc, biến thể của chiếc bánh chưng Cổ Loa mà ông nói đến có thể giải thích do những thăng trầm của sử Việt. Cũng như biến thể của bánh chưng bánh dầy ở Nhật và Tứ Xuyên mà chính ông đề cập đến. Tất nhiên cách giải thích của ông nó chỉ giới hạn trong ý thức chủ quan của ông. Chính ông Vượng đã tự mâu thuẫn với mình ngay trong đoạn trích dẫn tiếp theo trong bài viết của ông sau đây: Như vậy ông cho rằng cái tín ngưỡng phồn thực này có từ bao giờ? Sản phẩm của Hán hóa chăng? Do nền văn minh Hán vĩ đại đem vào dân tộc Việt chăng? Nếu ông và tất cả cái "hầu hết" với cái "cộng đồng" không thể chứng minh được văn hóa phồn thực đó là sản phẩm từ văn hóa Hán thì có nghĩa là ông thừa nhận Bánh Chưng , bánh dầy có từ trước văn hóa Hán xâm nhập văn hóa Việt. Cho dù chiếcbánh chưng bánh dầy đó tròn hay vuông. Như vậy, cho dù hiện tượng mà ông dùng đôi mắt thật của ông nhìn thấy cũng không thể phủ nhận sự tồn tại của khái niệm Bánh chưng bánh dầy trong tâm thức Việt. Vấn đề còn lại là tính thiêng liêng của nó trong tâm thức Việt thì vì ông không đề cập (Làm gì mà ông Vượng có đủ khả năng đề cập), nên tôi cũng không cần thiết viết ở đây. Đoạn sau đây của ông Vượng thì không có gì để bàn. Nhưng tôi vẫn để nguyên vì không muốn chừa ra vài chữ trong bài viết của ông ta. ơộ những kẻ xấu miệng lại bảo tôi cắt xén. Nhưng đoạn say đây của Trần Quốc Vương thì cần phải bàn: Ông Vượng muốn nói gì trong đoạn này? Ông ta muốn phủ nhận tác giả Lang Liêu là người sáng tạo ra chiếc bánh chưng bánh dầy. Ông ta viết: Huyền thoại quy công sáng tạo bánh chưng bánh dầy cho Lang Liêu, một người con thứ của vua Hùng, tổ dựng nước Việt Nam. Cũng như "vua Hùng", "Lang Liêu" là một "anh hùng văn hóa", nó không hề hiện hữu như một cá thể (cá nhân) nhưng chỉ tồn tại trong công thể (cộng đồng) của nhân dân, dân tộc Việt Nam. Nhưng ông ta không đủ khả năng chứng minh cho ý tưởng của ông, nên ông nói trớ theo một đoạn vớ vẩn mà chẳng ăn nhập gì đến câu trên cả. Cuối cùng, Trần Quốc Vượng kết thúc bài viết bằng đoạn đây: Với đoạn kết thúc này thì lại chẳng phải là sự tổng hợp những điều ông ta muốn nói ở nội dung bài viết của ông nhằm tầm thường hóa chiếc bánh chưng bánh dầy trong tâm thức người Việt khi ông đặt vấn đề về cái tục và cái thiêng, Cái mà ông gọi là "cặp phạm trù".
-
Nghiên cứu kẹt xe: Nhà khoa học... né! 13:31' 08/12/2008 (GMT+7) - Trong vòng 10 năm, Sở Khoa học & Công nghệ (KH&CN) TP.HCM chỉ có ba đề tài nghiên cứu về vấn đề giải quyết tình hình kẹt xe trên địa bàn. Một cảnh kẹt xe ở TP.HCM (Ảnh: P.Công/VNN) Theo ông Phạm Văn Xu, chuyên viên phòng Quản lý khoa học, sở KH&CN TP.HCM, trong vòng 10 năm trở lại đây, chỉ có ba đề tài nghiên cứu về vấn đề giải quyết tình hình kẹt xe. Đó là hai đề tài "Ứng dụng kĩ thuật tối ưu và mô phỏng vào việc ngiên cứu tình hình giao thông trong nội thành TP.HCM" (kinh phí: 200 triệu, thời gian thực hiện: tháng 11-2008 đến 12-2000) và "Các biện pháp trước mắt giảm kẹt xe ở TP.HCM" (kinh phí: 312 triệu đồng, thời gian: tháng 4-2001 đến tháng 11-2003) do TS (nay là PGS.TS) Hồ Thanh Phong chủ nhiệm; đề tài "Tăng cường hiệu quả các giải pháp cải tạo giao thông trong thời gian qua tại TP.HCM" do TS KTS Nguyễn Trọng Hòa chủ nhiệm (thời gian: năm 2002-2004). Nội dung như: thiết lập mô hình mạng và mô hình mô phỏng cho hệ thống giao thông để đánh giá tình hình giao thông với các phương án mở các trục đường mới, xây dựng vòng xoay, cầu vượt…, phân tích các điểm ùn tắc, thiết kế chi tiết khu vực ùn tắc: bổ sung đèn tín hiệu, dãi phân cách, bán kính xoay, lề, cây xanh, bảng thông tin… Ba đề tài trên đều được nghiệm thu với kết quả loại khá. "Ba đề tài này đều đã "cũ rích cũ rê", được thực hiện trong thời gian từ năm 1998 đến 2004. Những năm sau này thì tuyệt nhiên không có đề tài nào khác!" – ông Xu nói. Ông cho biết thêm, chỉ vào tháng 8 năm nay, mới có một đề tài liên quan là "Nghiên cứu hoàn thiện và phát triển mạng lưới tuyến xe bus ở TP.HCM" do PGS TS Phạm Xuân Mai chủ nhiệm (với kinh phí: 680 triệu đồng, thực hiện đến tháng 9-2009), vừa được sở KH&CN TP.HCM kí hợp đồng. Giải thích nguyên nhân tại sao ít có nghiên cứu về các vấn đề liên quan nhằm giải quyết tình hình kẹt xe, một số người trong lĩnh vực cho rằng: đề tài mảng này "hóc" quá nên nhiều người… né! Nếu làm ở dạng nhỏ, lẻ (như giải quyết kẹt xe một tuyến, điểm nhỏ…) thì hội đồng khó xét duyệt. Còn nếu làm lớn hơn thì nó lại liên quan đến tính tổng thể, gắn đến nhiều vấn đề như quy hoạch xây dựng, quy hoạch giao thông, thoát nước, quy hoạch phát triển kinh tế cả vùng, các vùng lân cận… điều này thì người ta lại thường không đủ khả năng để làm. Được biết, những đề tài trên sau khi nghiệm thu, tác giả đã chuyển giao kết quả về các đơn vị thụ hưởng, nhưng kết quả ứng dụng hiệu quả hay không thì sở KH&CN cũng chịu, không biết được. "Vì thời gian trước đây, chưa có quy chế yêu cầu đơn vị thụ hưởng báo cáo kết quả ứng dụng về sở" – bà Phan Thu Nga, trưởng phòng Quản lý khoa học, sở KH&CN TP.HCM cho biết. Lê Quỳnh Phản hồi từ bạn đọc: Ho ten: KS Nguyễn Thanh Tuấn Kiệt Dia chi: Công ty chế tạo máy Việt Cường (TP.HCM) E-mail: congtyvietcuong@gmail.com Tieu de: Lãng phí lớn... Noi dung: Thật là lãng phí lớn khi các đề tài nghiên cứu không ứng dụng vào cuộc sống! Tiền từ ngân sách cũng chính là tiền thuế của người dân đóng góp mới có. Tôi nghĩ rằng, cũng nên có những đề tài như "Nghiên cứu về sự lãng phí tiền bạc, thời gian của các đề tài khoa học" ! Ho ten: Vũ Đình Thắng Dia chi: 159 Pasteur, Q3 E-mail: vdthang2004@yahoo.com Tieu de: Nhiều đề tài khoa học không thực sự khoa học Noi dung: Tôi cũng từng tham gia dự việc bảo vệ một số đề tài của cơ quan tôi tại Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố. Thật sự tôi thấy một số đề tài khoa học thật sự không khoa học và không có tính ứng dụng thực tế. Việc phản biện cũng chỉ làm có hình thức cho "vừa lòng đôi bên"... Thực tế là, có anh đi làm phản biện nhưng lại cũng vừa là chủ đề tài khác. Nếu anh phản biện nhiều quá có khi anh bị người ta "phản biện", bắt bí lại anh ở những đề tài khác do anh làm chủ. Hoặc, có thể người phản biện là những giáo sư, tiến sỹ nhưng lại là cấp dưới của anh chủ đề tài về mặt quản lý nhà nước... . Do đó, một số đề tài vẫn chưa khoa học và có tính chất áp dụng vào thực tiễn, gây lãng phí cho xã hội. Rất mong các nhà phản biện đề tài dũng cảm chỉ ra những sai sót, bất hợp lý trong các đề tài mà mình tham gia phản biện để xã hội có được những đề tài thật sự khoa học và có ích... Nhời bàn của Sư Thiến. Tổng ba cái đề tài của các vị học giả trên Sư Thiến tui cộng lại thấy lên tới 1.192.000. 000 VND. Nhưng Sư Thiến tui bảo đảm vẫn kẹt xe. Sư Thiến tui chỉ cần 100. 000.000 VND bảo đảm chỉ ra những cái sai của ba đề tài này - dù chưa được xem nội dung mà chỉ nhìn qua cái tựa. Các bạn có biết nó sai ở chỗ nào không?
-
Ông Dương Trung Quốc chỉ lên tiếng về v/d văn hóa có tính cục bộ của cái nơi nào đó có tòa nhà 17 tầng thôi, chứ không nói về kẹt xe. Tóm lại là những đề tài trên sẽ thất bại. Chúng ta chờ đợi những đề tài hữu hiệu hơn. Thí dụ: Thuyết Âm dương Ngũ hành - lý thuyết thống nhất vũ trụ ứng dụng trong vấn đề kẹt xe và tai nạn giao thông ở các thành phố lớn và đường bộ Việt Nam. Vấn đề là kinh phí thực hiện dự án. :D :) :) .
-
Chú bây giờ cũng đang ở xa. Nhưng xem khái quát thì chú cho rằng khả năng cô bé giờ Hợi nhiều hơn. Tạm thời vậy. Nếu lá số này đúng thì không có vấn đề gì phải lo lắng. Nếu con của Tuduca bị viêm phổi thì hôm nào bồng nó ghé chú, may ra chú giúp được gì chăng?
-
Nếu ông thầy nào đó đã hóa giải rồi thì thôi. Thiên Sứ can thiệp vào không khéo "lợn lành hóa lợn quẻ" :D
-
Về nguyên tắc con trai phải hợp mẹ và không có thêm một lý luận nào. nếu con hộp cha về Thiên Can , hợp mẹ về mạng và địa chi là tốt nhất.Tân Mão khắc mẹ sao gọi là tốt được. Đinh Dậu - Đinh phá Tân mẹ sao tốt Quý Tỵ tốt nhất.
-
Mấy ngàn năm trang phục Việt Nam: Nguồn: Tuổi Trẻ Online Người tái hiện “Không làm được đâu. Không có tư liệu đâu mà làm. Các nhà nghiên cứu sử còn không dám đụng đến thì mình làm sao nổi...”. Biết bao lần Nguyễn Hải Anh được giới chuyên môn khuyên như thế khi chị đi tìm sự hỗ trợ để tái dựng lịch sử trang phục VN. Không ngã lòng, chị vẫn kiên trì theo năm tháng để lần đầu tiên VN có một bộ phim tài liệu (dài trên dưới 20 tập) về lịch sử trang phục VN từ thời Hùng Vương đến nay. Bây giờ, khi bộ phim tài liệu Đi tìm lịch sử trang phục Việt đã đóng máy, bước vào giai đoạn dựng phim, nữ đạo diễn 39 tuổi thầm giật mình vì thời gian đeo đuổi tác phẩm của chị. 15 năm cho một bộ phim Đã có hiện vật về trang phục thời Lê nhưng vẫn khá hiếm hoi, nghe chỉ bất cứ lăng mộ nào có tượng cổ, đoàn làm phim cũng lặn lội tìm đến bất chấp lụt lội, có khi chỉ quay được một kiểu mũ thời Lê khác những kiểu mũ đã có Đỗ á khoa Trường đại học Điện ảnh Hà Nội ở tuổi 18, Nguyễn Hải Anh nhận được học bổng du học tại Học viện Sân khấu - điện ảnh - âm nhạc Leningrat thuộc Liên Xô. Những ngày hội sinh viên quốc tế ở Leningrat, cô sinh viên Hải Anh luôn xúng xính những bộ áo váy, áo dài sang trọng bằng lụa tơ tằm, đũi, thổ cẩm... của VN. Vẻ đẹp, sự độc đáo từ kiểu dáng, chất liệu, hoa văn vải truyền thống VN luôn làm sinh viên các nước bạn trầm trồ làm Hải Anh dậy lên niềm tự hào về trang phục dân tộc, và cô ước muốn tìm hiểu ông cha mình ngày xưa đã mặc như thế nào. Học lên thạc sĩ nghệ thuật học chuyên ngành truyền hình, làm việc tại Đài truyền hình Saint Petersburg trong hai năm, ý tưởng làm một bộ phim tài liệu về lịch sử trang phục Việt càng nung nấu trong Hải Anh. Về nước năm 1998, chị âm thầm thu thập tài liệu từ lịch sử, mỹ thuật, khảo cổ từ năm này qua năm kia một cách khó nhọc để viết kịch bản Đi tìm lịch sử trang phục Việt. Trong sách sử nước ta rất hiếm những dòng viết về trang phục qua các triều đại nên khu vực này luôn bị các nhà nghiên cứu sử bỏ qua - và gần như chưa có một công trình nào ghi nhận đầy đủ và hệ thống. Trừ hình ảnh người Lạc Việt mặc áo lông chim vào thời Hùng Vương trên trống đồng là khá rõ và một vài bộ trang phục thời Nguyễn còn lại, hình ảnh, hiện vật về trang phục Việt các thời kỳ qua tranh vẽ, điêu khắc, di vật khảo cổ... càng hiếm hoi hơn; có những giai đoạn dài tư liệu hiện vật trắng xóa như trong 1.000 năm Bắc thuộc. Không ít lần những nhà sử học, nhà làm phim, làm sân khấu sau khi tranh cãi ầm ĩ về các trang phục lịch sử Việt đã phải kêu lên: “Không có tài liệu lịch sử nào cho biết chính xác thời xưa ông bà ta ăn mặc ra sao!”. Cũng nhiều lần nản chí, song Hải Anh không bỏ cuộc. Chỉ cách nay hơn năm năm, kịch bản phim tài liệu Đi tìm lịch sử trang phục Việt của chị mới hoàn thành. Có kịch bản, Hải Anh đi chào hàng khắp nơi nhưng chẳng nhà tài trợ nào gật đầu. Những nơi hiếm hoi chịu gật lại đòi điều kiện quảng cáo quá thô bạo, Hải Anh từ chối thẳng bởi: “Bộ phim là một công trình khoa học nghiêm túc, không thể để nó méo mó vì bất cứ lý do gì”. Cuối cùng người xưa cũng phù trợ chị nên kịch bản phim đã tìm được nhà tài trợ thích hợp để bộ phim được thực hiện, đó là Tập đoàn Dệt may VN. Cam go chuyện làm phim Thành quả “rực rỡ” nhất của đoàn làm phim trong những ngày ở nước ngoài cũng như của cả bộ phim là tìm ra và ghi hình được pho tượng một quí tộc nước ta vào thế kỷ thứ 6 có vận trang phục rất đẹp tại một bảo tàng ở Bỉ. Cho đến nay, đây là pho tượng độc nhất vô nhị vào giai đoạn Bắc thuộc của nước ta còn sót lại, là hiện vật duy nhất về trang phục Việt trong cả ngàn năm đó. Hai năm ròng rã, chị và đoàn làm phim lặn lội từ Nam tới Bắc để tìm quay hình ảnh cho phim. Nghe bất kỳ ai, dù là nhà sử học hay người dân quê chỉ dẫn, dù cho khá mơ hồ “nghe nói chỗ đó có một pho tượng xưa lắm, vào xem sao” là chị tìm đến bằng được, bất kể đang nắng mưa hay lụt lội, bất kể đó là một di chỉ đang khai quật hay một lăng mộ vô danh nằm trong đồng sâu heo hút hay tận chốn rừng núi hoang vu. Những lần lặn lội có lúc chị trắng tay, song có lúc cảm giác sung sướng chẳng gì bằng khi mình là người đầu tiên phát hiện một hiện vật chưa từng được sách vở nào nhắc đến. Đi sâu vào dân, chứng kiến những pho tượng cổ bị kẻ xấu chặt mất đầu, ngậm ngùi nhưng chị vẫn cảm thấy may mắn vì còn kịp ghi hình được bộ trang phục trên thân pho tượng cho mai sau: tiếc nhất là khi gặp một pho tượng cổ đường nét còn nguyên mà người dân do thiếu kiến thức đã sơn phết xanh đỏ để làm mới đến chẳng nhận ra được nguyên thủy nó ra sao... Tìm được hiện vật là một chuyện, thuyết phục chủ hiện vật cho xem, cho quay hay không là chuyện khác. Chẳng dễ gì một nhà sưu tập tư nhân chịu để lộ ra món cổ vật quí giá của họ. Có những ông từ giữ đền nhất quyết không cho chị quay vì kiêng cữ... Những lúc như thế cô đạo diễn phải trổ tài năn nỉ ỉ ôi... Xong phần trong nước, cả đoàn phim lại khăn gói sang Pháp, Bỉ, Áo, Thụy Sĩ... tiếp tục tìm quay hiện vật quí hiếm từ các bảo tàng và các nhà sưu tập tư nhân. Dù trong hay ngoài nước, muốn ghi được hình, Hải Anh đều phải trải qua công đoạn tiếp cận, năn nỉ chủ sở hữu một cách vất vả. Mỗi một hiện vật được ghi hình đều phải có chuyên gia khảo cổ đứng kế bên để xác định xuất xứ, niên đại chất liệu vải hay tuổi pho tượng... Mỗi một hình ảnh ghi nhận được đều phải có các nhà mỹ học và họa sĩ uy tín xem xét để cho biết chiếc áo của hiện vật gồm mấy lớp, cấu trúc mỗi lớp ra sao, đường nét theo logic thẩm mỹ, logic cơ thể học thế nào... Ý kiến giữa các chuyên gia cùng lĩnh vực hay khác lĩnh vực lắm khi rất trái chiều; tính nết cũng lắm khi trái ngược càng khiến Hải Anh phải làm việc thật tỉ mỉ với từng chuyên gia của từng khâu để hệ thống, kết nối, phản biện một cách khoa học để có kết quả. Hiện có một nhóm ba họa sĩ đang làm việc cật lực để vẽ ra khoảng 30 bộ trang phục từ thời Hùng Vương đến triều Nguyễn từ những hình ảnh, tranh tượng và cả tư liệu mô tả bằng chữ viết mà đoàn làm phim thu thập được. Công đoạn này cũng vô cùng gay go. Nhiều bức tượng dáng người ngồi, chân tay xếp lại, các họa sĩ phải tính toán tỉ lệ, cấu trúc vẽ thế nào cho ra được bức tượng đang đứng dang tay để thấy rõ bộ trang phục, sau đó vẽ riêng bộ trang phục ra. Những hình vẽ trang phục cổ này sẽ được phục hiện thành tác phẩm thật để quay hình rồi tặng lại bảo tàng... Chỉ mới ở vào giai đoạn cuối, cũng có thể sẽ tạo ra nhiều tranh cãi về tính khoa học chính xác của từng bộ trang phục cổ được phục hiện hay từng tư liệu lịch sử về trang phục mà bộ phim nêu ra... nhưng đã có thể thấy rõ Đi tìm lịch sử trang phục Việt là một công trình khoa học lịch sử đáng giá. Người không khuất phục Lối ăn mặc dân gian thời Trần Đạo diễn là nghề đầy nam tính, còn Nguyễn Hải Anh lại có vẻ ngoài rất nữ tính với làn da trắng, đôi mắt to, trang sức cổ điệu đàng và giọng phụ nữ Hà Nội mềm mại. Thế nhưng vào công việc rồi mới biết chị là người dám dấn thân và có những đòi hỏi chẳng dễ dàng chút nào ở bản thân và đối tác. Có lần, để đến được một di chỉ khảo cổ đúng hẹn, đoàn làm phim phải vượt sông Bạch Đằng trong chuyến phà đêm cuối cùng tại bến Phà Rừng nổi tiếng sóng to gió dữ. Là trưởng đoàn, phải lo việc ngoại giao, Hải Anh bị rớt lại. Không thể để cả đoàn với nhiều nhà khoa học đợi mình ở bờ bên kia hoang vu, chị đi gõ cửa nhà các dân chài nhờ đưa đò qua sông. Con sông ngay cửa biển rộng mù khơi đi hoài không tới bờ, đêm tối mịt mù, chiếc đò bé xíu, sóng gió ầm ầm rất nguy hiểm, chị lại không biết bơi. Cuối cùng cũng đến bờ, chị chỉ còn sức nằm lăn ra ngủ... Nhớ lại những lần như thế, giọng chị chấn động: “Có những lúc mình thấy nếu không có sức khỏe, nên chết đi là hơn, đừng đi làm phim nữa!”. Làm phim với Hải Anh là sự sống chết một đời. Sự nghiệp làm phim của chị chẳng nhẹ ký chút nào với giải bạc Hội Điện ảnh VN năm 2001 cho phim Thầy Nguyễn Văn Xuân, huy chương bạc Liên hoan phim truyền hình toàn quốc 2007 cho Đi biển một mình - phim về nữ thuyền trưởng, anh hùng lao động Nguyễn Thị Hồng. Năm 2004, phim Bà tôi của chị vượt qua 128 phim từ khắp thế giới để trở thành một trong bảy phim lọt vào chung kết Liên hoan phim tài liệu quốc tế Amiens tại Pháp. Bà tôi kể về bà ngoại chị, một cụ bà 95 tuổi, sống tại Hà Nội hàng thế kỷ với bao nhiêu biến động Pháp đi, Nhật đến, Tàu vào, độc lập 2-9, Hiệp định 54, Mỹ rải bom, nước nhà thống nhất... Bà tôi gặp nhiều lận đận với những cuộc thi trong nước bởi người ta cho rằng nhân vật trong phim bình thường quá. Với Hải Anh thì Bà tôi là kết tinh của tinh thần, văn hóa Việt đáng lưu truyền, trân trọng nên mạnh dạn đưa Bà tôi ra khoe với quốc tế và nhận được sự quí trọng, đánh giá cao về bộ phim từ đồng nghiệp năm châu. Hình người mặc trang phục Việt thời Đông Sơn tại Bảo tàng Thụy Sĩ Tính đến nay vốn liếng của Hải Anh đã lên đến khoảng 50 phim tài liệu về đủ lĩnh vực văn hóa, y tế, quân đội, kinh tế, hội nhập... như Hoàng thành Thăng Long, Làng cổ Đường Lâm, Bánh tráng Trảng Bàng... Hải Anh nổi bật về phim chân dung các nhân vật tiếng tăm như đại tướng Lê Trọng Tấn, giáo sư - thiếu tướng tình báo công nghệ thông tin Nguyễn Đình Ngọc, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng, bác sĩ Trần Đông A, nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh, anh hùng lao động Nguyễn Thị Nghĩa, doanh nhân Đặng Thành Tâm - cố vấn cho Chính phủ tại hội nghị APEC 2006, người đầu tư thành công hơn một chục khu công nghiệp khắp cả nước... Mỗi con người, mỗi đề tài chị chọn làm phim đều luôn đặt ra những lĩnh vực mới với bản thân chị. Hải Anh lại là đạo diễn luôn viết kịch bản cho chính mình, và chẳng dễ gì nói chuyện được với những nhân vật tài giỏi ấy nếu thiếu hiểu biết, và không chứng tỏ được năng lực thuyết phục. Hải Anh sẵn sàng bỏ ra hàng mấy năm ròng để làm một bộ phim chỉ dài 20-40 phút. Chị lặn lội tìm kiếm và đọc hàng đống tài liệu về nhân vật, lĩnh vực mình cần làm từ chiến lược, chiến thuật quân đội trong chiến dịch Hồ Chí Minh đến phương thức điều hành doanh nghiệp... Chị cũng sẵn sàng lăn xả để đáp ứng những thử thách mà nhân vật của chị đặt ra cho chị như việc thiếu tướng Nguyễn Đình Ngọc đã “đào tạo” chị làm việc như một tình báo thực thụ trong suốt hai năm chị làm phim về ông! Hải Anh nhớ mãi “phần thưởng” khi làm phim về ông Trần Bạch Đằng. Thuyết phục thật nhiều lần ông mới để chị làm phim về mình. Hôm đoàn làm phim theo ông đến bệnh viện thăm vợ bệnh nặng, ông nhất quyết không cho quay cảnh này, nhưng Hải Anh vẫn bảo người quay phim quay lén qua cửa sổ cảnh ông chăm sóc vợ. Chỉ vài ngày sau bà mất, những thước phim quay lén đó đã trở thành một tư liệu quí giá nâng giá trị bộ phim và khiến nhà nghiên cứu bạc trắng mái đầu phải cảm ơn chị... Những ngày này Hải Anh đang chạy đôn chạy đáo tìm một đối tác phục hiện những bộ trang phục cổ cho bộ phim. Người thứ nhất, người thứ hai... rồi người thứ tư... chị tìm đến công việc vẫn chưa xong. Nỗi lo vẫn đè nặng trong lòng chị trong suốt hành trình dằng dặc 15 năm Đi tìm lịch sử trang phục Việt. Hải Anh luôn chân thành nói rằng: “Tôi làm bộ phim này bằng cái tâm của mình dành cho mai sau”. HÒA BÌNH theo TuoiTre
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Với ý thức nhằm phục dựng lại cội nguồn dân tộc trên cơ sở khoa học được xác định bởi tiêu chí khoa học. Trung tâm nghiên cứu lý học Đông phương và bản thân cá nhân tôi rất tha thiết được quí vị quan tâm đến cội nguồn dân tộc Việt giới thiệu và hướng dẫn chúng tôi liên hệ được với tác giả đạo diễn đoàn làm phim trong bài viết trên là bà Nguyễn Hải Anh. Chúng tôi hy vọng sẽ có đầy đủ chứng cứ và tư liệu với sự phân tích hợp lý về y phục dân tộc ở tất cả mọi tầng lớp trong xã hội thời Hùng Vương. Chúng tôi làm việc này hoàn toàn bất vụ lợi. Trung tâm chúng tôi rất mong quí vị hãy giúp chúng tôi có được sự liên hệ này với bà Nguyễn Hải Anh. Xin trân trọng cảm ơn. Trung tâm nghiên cứu lý học Đông Phương. Nguyễn Vũ Tuấn Anh
-
Kể ra cách đặt vấn đề của anh Vô Trước rất hay - nếu có thể tóm tắt lại là: Hiệu quả hàng ngàn năm nay của Phật Giáo mà sao thế nhân chưa bớt khổ? Còn tôi thì cho rằng ý của Rubi giải thích cũng có phần xác đáng. Có thể tóm tắt lại là: Do tính cao siêu của Phật Pháp nên thế nhân chưa dễ gì lĩnh ngộ được để tự diệt khổ. Còn với tôi thì cho rằng: Trong tương lai, khi con người xác định thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ thì Phật giáo chính là tôn giáo duy nhất của nhân loại. Đức Như Lai nói: Thiên thượng địa hạ. Duy ngã độc tôn
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Trước khi phản biện bài viết của Trần Quốc Vương, có lẽ tôi nên kể lại vài ba kỷ niệm của tôi liên quan đến ông ta. Kỷ niệm đầu tiên liên quan đến cuốn sách đầu tay của tôi "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại". Tôi viết cuốn này vào khoảng hè năm 1998 thì xong. Tôi đem đến Nxb quen trước đây tôi có dịp in truyện tranh thì được tư vấn cần có một người có bằng cấp chuyên ngành viết lời giới thiệu. Lúc ấy tôi mới lên Sài Gòn, bơ vơ chẳng quen ai, toàn bạn thơ và bạn nhậu. Tôi nghĩ đến ông Trần Quốc Vương - với hy vọng một nhà sử học thuộc lão làng sẽ còn giữ trong ý tưởng của ông về cội nguồn Hoàng Kim của dân tộc Việt. Nhưng cũng chẳng biết ông ta ở đâu mà tìm. Sẵn tờ Nguồn Sáng ghi ông ta là chủ biên hay phó tổng biên tập gì đó, tôi bèn gửi thư và bản thảo đến tòa sọan, hy vọng ông ta sẽ quan tâm và viết cho vài lời giới thiệu. Chẳng thấy hồi âm. Gọi điện thoại thì nhân viên trực điện thoại luôn luôn cho biết là "Bác Vượng đi vắng"; hoặc "Đi công tác". Lúc ấy tôi vẫn chưa có ấn tượng gì với ông ta, mà chỉ coi là mình không có duyên mà thôi. Tôi còn nhớ mang máng - tòa soạn Báo Nguồn Sáng ở nhà số 4 đường gì đó thuộc Quận Tây Hồ - Hình như Xuân Diệu thì phải? Nhưng phải nói là như có bàn tay của Định mệnh an bài. Nếu như ông ta quan tâm và viết cho vài lời giới thiệu thì bây giờ mọi chuyện sẽ có thể ở một góc độ khác. Sau này khi tôi biết ông có quan điểm lịch sử mà tôi xếp vào đám "hầu hết" phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống và được "công đồng khoa học thế giới" ủng hộ thì tôi khinh bỉ ông ta. Có một lần đến thăm mẹ tôi - Nữ sĩ Ngân Giang - Mẹ tôi nói: "Mẹ vừa mới có vài bài viết về thơ Đường gửi in sách cùng vài tác giả cũng có tên tuổi". "Ai đấy mẹ?". "Mẹ không nhớ hết, chỉ biết trong đó có Trần Quốc Vương!". Tôi giật mình vội nói: "Trời! Mẹ đừng bao giờ làm cái gì dính đến người này. Ông ta có quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa cội nguồn của dân tộc Việt đấy mẹ ạ! Con chắc chắn với mẹ là ông ta đã sai lầm và sẽ bị lịch sử lên án. Dính đến người này có thể bị tai tiếng mẹ ạ!". Mẹ tôi nói: "Mẹ không biết chuyên này. Nếu con nói thế thì từ nay mẹ không tham gia viết chung với ông ta nữa!". Cho đến lúc mẹ tôi mất, tôi không thấy bà nhắc đến cuốn sách này và tôi cũng không thấy mặt mũi nó ra sao cả. Hy vọng nó chưa được in. Thực ra giữa mẹ tôi chuyên làm thơ với ông Vương làm nghề viết sử thì chắc cũng chẳng có dịp nào cùng tham gia một đề tài được. Lần cuối cùng là lúc nghe tin ông ta bị ung thư vòm họng. Tôi cũng có một người anh mà tôi kính trọng trong gần 40 năm, làm ở ngành liên quan đến văn hóa xã hội thường gặp Trần Quốc Vượng, vốn được ông Vương vì nể. Tôi nhờ ông nhắn với Trần Quốc Vương là: "Nếu ông Trần Quốc Vương lên một phương tiện thông tin đại chúng nào đó - kể cả trong hay ngoài nước - xác nhận quan điểm phủ nhận những giá trị truyền thống của ông là sai. Tôi hứa sẽ chữa khỏi bệnh ung thư vòm họng cho ông ta. Còn nếu tôi không chữa khỏi thì tôi sẽ ngưng tất cả những gì tôi đang làm liên quan đến cổ sử Việt". Không biết người anh tôi có truyền đạt lại với ông Vương không, nhưng mọi việc vẫn tiếp tục diễn ra. Định mệnh đã trả lời tôi rằng: Để làm sáng tỏ được cội nguồn văn hiến Việt trải gần 5000 năm văn hiến sẽ còn cam go và không thể đơn giản chỉ cần một mình ông Vương tự phủ nhận mình. Tôi chấp nhận Định mệnh đã an bài cho tôi.
-
Chipchip à.Chú cách đây mấy tháng cũng bị rụng tóc. Sau đó chú lấy sữa rửa mặt dưỡng da - mà người ta quảng cáo rất nhiều chất bổ da - để gội đầu. Chú suy luận thế này: Thuốc dưỡng da với chất bổ trong đó tất nhiên là nó phải bổ da đầu và dưỡng được tóc. Bây giờ chú hết rụng rùi. Hi :D . Ngày mai chú cho bé cái xà bông rửa mặt dưỡng da đó để gội đầu thử. Nhân đây chú cũng mách một mẹo nữa cũng do chú nghĩ ra và rất có "hậu quả". :) . Số là cách đây nửa năm chú bị một bệnh ngoài da mà chẳng hiệu bệnh gì, Chữa các loại thuốc Đông Tây không khỏi. Chú suy luận rằng: Các loại vi trùng ngoài da và trong răng miệng phải đối lập nhau. Vì một cái liên quan đến axit Hỏa và một cái liên quan đến Baze Kim. Nếu loại nấm này chống được thuốc ngoài da tất sẽ phải từ trần với loại thuốc trong răng miệng. Thế là chú lấy kem đánh răng dùng khi tắm. Ba ngày sau khỏi luôn. Hi. Chia sẻ kinh nghiệm.
-
LỜI TIÊN TRI 2008 Vì sao Tập đoàn truyền thông Tribune phá sản?Nguồn: Vietnamnet.vn 17:59' 10/12/2008 (GMT+7) Một trong những hãng truyền thông hàng đầu tại Mỹ, Tribune Company, đã đệ đơn xin phá sản. Sự kiện này đã gây ra chấn động trong giới báo chí. Tập đoàn truyền thông Tribune Company trên bờ vực phá sản Tòa soạn của tờ Chicago Tribune. (Ảnh: NYT) Cú sốc với giới truyền thông Tribune, tập đoàn sở hữu tới 23 đài truyền hình trên khắp nước Mỹ cùng những tờ báo lớn như Los Angeles Times và Chicago Tribune, đã sụp đổ bởi lượng người đọc sụt giảm mạnh và những quyết định kinh doanh tồi. Nhà báo chính trị Mỹ, Giám đốc điều hành Trung tâm Dart, ông Bruce Shapiro nói rằng, những gì diễn ra với Tribune là dấu hiệu đáng lo lắng cho tương lai báo chí ở Mỹ. "Đó là cột mốc vô cùng quan trọng cho những gì về một cuộc khủng hoảng đang diễn ra trong truyền thông Mỹ", ông nói. "Tập đoàn Tribune Company sở hữu hai trong số các tờ báo quan trọng nhất nước Mỹ, Los Angeles Times và Chicago Tribune. Công ty này có tới 23 đài truyền hình và 12 tờ báo, vì thế, cuộc khủng hoảng của Tribune Company thực sự sẽ ảnh hưởng tới độc giả cũng như giới báo chí", ông Shapiro nói. Theo ông, quản lý kém và sụt giảm lượng người đọc đã góp phần đưa Tribune tới chỗ phá sản. "Bản thân Tribune đã lâm vào khủng hoảng, nó được tỉ phú bất động sản Samuel Zell mua lại cách đây một năm, Zell tự ném mình vào đống nợ nần, và không giải quyết nổi vấn đề", Shapiron đánh giá. "Đây là một kiểu tiêu biểu trong kinh doanh tin tức, và có rất nhiều hoài nghi về khả năng quản lý báo chí của Zell. Cùng thời điểm ấy, là sự sụt giảm lượng độc giả và quảng cáo trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế nói chung. Một số tờ báo lớn không hình dung ra được cạnh tranh thế nào trong môi trường mới", ông nói. Theo Bruce Shapiro, mặc dù nhiều tờ báo Mỹ đã nỗ lực cạnh tranh trong kỷ nguyên truyền thông mới, nhưng lợi nhuận từ mô hình này đang là điều cần được xem xét lại. "Tôi nghĩ các công ty truyền thông đã làm rất nhiều, có những cải cách lớn như ở New York Times và một phần trong các báo của Tribune. Bảo vệ phá sản cho phép các công ty tái cơ cấu và thoát khỏi nợ nần hoặc tìm người mua lại. Hoài nghi của tôi là ở chỗ, rốt cuộc ai sẽ làm việc này. Thị trường tín dụng khủng hoảng tới mức thậm chí có người đưa ra quyết định điên rồ là mua lại công ty truyền thông lớn cũng sẽ phải trải qua thời khắc khó khăn để kiếm tiền thực hiện ý định của mình". Shapiro khẳng định, rất nhiều chủ bút các tờ báo lớn tại Mỹ đang theo dõi sát sao tình hình của Tribune. "Không ít người đã toát mồ hôi và tự hỏi rằng, liệu tờ báo của họ có tiếp bước Tribune?", ông nói. Lời hứa của ông chủ Tribune sở hữu những tờ báo lớn như Los Angeles Times và Chicago Tribune. (Ảnh: Reuters) Zell cam kết có đủ tiền để tiếp tục hoạt động của 12 tờ báo, 23 đài truyền hình, và những hoạt động truyền thông khác. Tập đoàn Tribune cũng khẳng định việc đệ đơn phá sản không ảnh hưởng tới tiền lương, phúc lợi nhân viên hay số tiền đảm bảo hưu trí của họ. Trên thực tế, tập đoàn này đã không ít lần cắt giảm nhân viên và các sản phẩm truyền thông trong nỗ lực trụ vững trước gánh nặng nợ nần. Vào tháng 5, Tribune đã bán một trong những tờ báo sinh lời nhất của mình là Newsday, cho Cablevision với giá 650 triệu USD. Tribune đang phải đối mặt với hơn 900 triệu USD tiền trả lãi trong năm tới và 512 triệu USD chi phí cơ bản phải trả trong tháng 6. Việc Tribune đệ đơn xin phá sản, cho phép công ty này tiếp tục hoạt động trong khi đàm phán với các nhà cho vay để cố gắng giảm bớt lãi suất vay cũng như khả năng nợ đọng. Theo Rick Edmonds - nhà phân tích kinh doanh truyền thông tại Học viện Poynter- gánh nặng lớn mang tên Tribune không phải là "điềm báo" cho công nghiệp báo chí. "Ông ấy đã mang vào mình số nợ khổng lồ lại đúng vào thời điểm không thích hợp", Rick nói về Zell. Một số nguồn tin cho hay, hôm 5/12, Zell đã có cuộc họp với những chủ cho vay lớn gồm Merrill Lynch, JPMorgan Chase, Bank of America, Deutsche Bank và Citigroup. Trong thông báo gửi tới nhân viên của Tribune, Zell nhấn mạnh, ngành công nghiệp nói riêng và kinh tế Mỹ nói chung "đang thực sự gặp bão", bởi vậy "rất khó khăn để các ngân hàng hỗ trợ khoản nợ cho chúng ta". Zell cũng cố thuyết phục nhân viên rằng: "Việc đệ đơn phá sản và tái cơ cấu sẽ tập trung vào các khoản nợ, chứ không phải hoạt động trong công ty". Nhưng sự phá sản - động thái hiếm có của một công ty truyền thông lớn - sẽ khiến người ta hoài nghi về tương lai của một tập đoàn từng đạt doanh thu 4 tỉ USD/năm với hàng nghìn nhân viên trải khắp nước Mỹ. Zell nắm quyền kiểm soát Tribune từ 10/12/2007 và xây dựng đội ngũ quản lý giống như ông - không hề có nền tảng báo chí. Họ từng thề sẽ xốc lại và phát triển công ty. Nhưng kết quả là Tribune lại càng lún sâu vào vũng bùn nợ đọng. Công ty này kiếm lời 37,1 triệu USD trong quý 3 so với mức 216,8 triệu USD cùng kỳ năm trước, lỗ 26,2 triệu USD trong kinh doanh báo chí. Tại tòa soạn báo Los Angeles Times, từ phá sản đã không gây nhiều ngạc nhiên. "Tôi nghĩ mọi người đã chán nản về những định hướng hay chỉ dẫn vừa qua", Mitchell Landsberg, một phóng viên, nói. "Tình cảm giữa nhân viên và Sam Zell đã xói mòn". Kỳ Thư (Theo Nytimes, ABC news, Businessweek)