Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Sinh Năm Canh Dần 2010. Nhưng có thể rất giàu hoặc rất phiền 5/5.Sinh Năm Quý Tỵ chắc ăn nhất. Sẽ phát từ từ nhưng chắc chắn và cân đối mọi lĩnh vực. Lưu ý: Các cụ nhà ta có câu: "Người tính không bằng trời tính". Chúc vạn sự an lành.
  2. Kính thưa quí vị. Đây là bài thứ 11 trong bộ sưu tập những bài viết phủ nhận văn hóa sử truyền thống. Tôi đưa lại lên đây để quí vị tiện tham khảo nguyên văn. Sai lầm căn bản và phi khoa học của những loại bài như thế này chính là họ chỉ căn cứ trên cơ sở tìm thấy những di vật khảo cổ trên vùng đất cư trú của người Việt hiện nay để xác định vùng lãnh thổ của người Việt cổ từ hơn 2000 năm trước. Đây chính là yếu tố phản khoa học của những loạt bài loại này. . Hùng Vương dựng nước - Tập IV - 12 Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974 Tìm hiểu quá trình hình thành lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng Hoàng Xuân Chinh N ghiên cứu thời kỳ Hùng Vương có nghĩa là tìm hiểu thời kỳ dựng nước, tìm hiểu quá trình hình thành nhà nước đầu tiên của dân tộc ta. Trong quá trình hàng nghìn năm, cùng với sự phát triển của kỹ thuật, của sức sản xuất, sự thống nhất kinh tế, văn hóa cũng được thực hiện dần dần cùng với sự thống nhất lãnh thổ, đặt cơ sở cho sự hình thành quốc gia. Do đó tìm hiểu lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng không chỉ tìm hiểu bờ cõi buổi cực thịnh, lúc quốc gia đã hình thành, mà còn cần tìm hiểu cả quá trình trước đó.Đất nước trước buổi bình minh của lịch sử, chưa thể có được những đường biên giới có mốc rạch ròi. Sự chung đụng giữa con người cũng như văn hóa qua hàng nghìn năm lịch sử đã xóa nhòa những đường biên giới thời dựng nước. Hơn nữa tính không ổn định của những tập đoàn người trước lúc bước vào xây dựng một quốc gia thống nhất cũng chỉ cho chúng ta những khái niệm về phạm vi sinh sống hoạt động chung chung của họ mà thôi. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta không thể tìm hiểu từng bước hình thành lãnh thổ từ buổi xa xưa đó. Từ những khác biệt trong dấu vết cuộc sống con người để lại – tài liệu khảo cổ học – chúng ta có thể lần tìm phạm vi sinh sống của những tập đoàn người cổ xưa. Thời kỳ này, ở một trình độ nhất định, văn hóa khảo cổ có tính chất đóng kín, cho nên nghiên cứu cẩn thận các văn hóa khảo cổ, có thể tìm hiểu được quá trình hình thành các tập đoàn người từ bộ lạc, liên minh bộ lạc tiến lên cộng đồng quốc gia. Đồng thời có thể tìm hiểu những mối quan hệ phức tạp giữa các tập đoàn người từ mối quan hệ đồng hóa, hòa hợp, quan hệ tộc ngoại hơn cho đến sự thiên di của một phần hay cả bộ lạc nào đó. Do đó, nghiên cứu sự phân bố các văn hóa khảo cổ, các nhóm di tích khảo cổ ở miền Bắc Việt Nam có ý nghĩa lớn trong việc tìm hiểu phạm vi hoạt động cùng quá trình hình thành các tộc người thời Hùng Vương. Cùng với tư liệu khảo cổ học, những đoạn thư tịch cổ, những truyền thuyết nói về vị trí các bộ thời Hùng Vương, các quận huyện thời Hán, sự thống nhất về khác biệt về phương ngôn, về phong tục tập quán giữa các tộc người cũng cho ta những gọi ý đáng quý về quá trình hình thành lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng. Song tình hình tư liệu hiện nay chưa cho phép chúng ta nói được gì nhiều lắm. Bản đồ khảo cổ học Việt Nam còn nhiều vùng trắng chưa được điều tra nghiên cứu. Tài liệu ngôn ngữ học, dân tộc học – người Kinh – con cháu trực tiếp người Việt cổ chưa cung cấp được bao nhiêu. Do đó, lấy tài liệu khảo cổ học làm cơ sở, cho có tập hợp tất cả các nguồn tư liệu lại cũng chỉ nêu lên được những gợi ý bước đầu về các giai đoạn lớn trong quá trình hình thành lãnh thổn Văn Lang của các vua Hùng. Thời kỳ Hùng Vương là một quá trình lịch sử kéo dài trên dưới 2.000 năm, cho đến giữa thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Tài liệu khảo cổ học vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ có niên đại được xác định bằng phương pháp C14 đã khẳng định điều đó (1). Còn nhiều điều cần bàn bạc thêm, song mọi người đều thống nhất những mốc lớn đánh dấu các giai đoạn phát triển của văn hóa khảo cổ vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ - vùng được xem là đất tổ, địa bàn gốc của các vua Hùng. Đó là văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun, văn hóa Đông Sơn (2). Quá trình phát triển từ văn hóa Phùng Nguyên qua văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun đến văn hóa Đông Sơn là phản ánh quá trình lịch sử của con người thời Hùng Vương vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Đất nước thời các vua Hùng đã được mở rộng ra ngoài vùng đất tổ. Do đó theo các mốc đã được xác định ở vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, đối chiếu với các vùng chung quanh có thể tìm hiểu những bước lớn trong quá trình mở rộng và hình thành lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng (1) Cho đến nay Viện khảo cổ học đã tiến hành xác định niên đại bằng phương pháp C14 ở các địa điểm sau: - Tràng Kênh độc sâu 1m90-2m10: 3.405 ± 100 trước năm 1950 - Đồng Đậu độ sâu 4m00: 3.328 ± 100 trước năm 1950 - Vườn Chuối độ sâu 0m80: 3.070 ± 100 trước năm 1950 - Vinh Quang độ sâu 1m80: 3.046 ± 100 trước năm 1950 - Chiền Vậy độ sâu 0m65: 2.350 ± 100 trước năm 1950 (2) Có ý kiến cho đó là các giai đoạn phát triển chứ không phải văn hóa. Cũng có ý kiến thêm giai đoạn Gò Bông sau giai đoạn Phùng Nguyên, và giai đoạn Gò Chiền, giai đoạn Đường Cồ sau giai đoạn Gò Mun. Cũng có ý kiến cho rằng ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ không có văn hóa Đông Sơn, mà chỉ có Đường Cồ. * * * Vào buổi đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên, hoặc sớm hơn nữa hầu khắp miền Bắc Việt Nam ngày nay đã có nhiều tập đoàn người sinh sống. Dấu vết cuộc sống của họ là các văn hóa khảo cổ phân bố rộng khắp các miền. Đó là các văn hóa Phùng Nguyên, Hạ Long, Tràng Kênh, Đông Khối, Thạch Lạc, văn hóa rìu có vai (1). Mỗi văn hóa khảo cổ có đặc trưng riêng và phân bố trong một phạm vi nhất định.(1) Văn hóa Phùng Nguyên phân bố ở trung du và một phần đồng bằng Bắc Bộ, giữa hai dãy núi Tam đảo và Ba Vì, mà trung tâm là chỗ hợp lưu của các con sông Hồng, sông Lô, sông Thao, sông Đà, sông Đáy, sông Cầu, sông Tích, bao gồm tỉnh Vĩnh Phú, Hà Tây, Hà Nội và một phần Hà Bắc hiện nay. Con người ở đây đã đạt đến đỉnh cao của kỹ thuật đồ đá, và ở giai đoạn cuối đã biệt kỹ thuật luyện đồng. Sự phong phú những chiếc rìu bôn hình tứ giác kích thước nhỏ, vòng trang sức mặt cắt ngang hình chữ nhật dẹt, cùng đồ gốm thành mỏng, hình dáng cân đối hài hòa, trang trí hoa văn thừng mịn và khắc vạch những đồ án đối xứng sinh động v.v… là đặc điểm nổi bậc của văn hóa Phùng Nguyên. Cùng một trình độ với văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Hạ Long phân bố ở các cồn cát ven biển và hải đảo ở Quảng Ninh có phong cách riêng. Đó là sự phong phú những chiếc rìu bòn có vai, có nấc nhỏ nhắn, những chiếc bàn mài có rãnh mài cắt nhau mà có người gọi là “dấu Hạ Long”, những mảnh gốm xốp nhẹ, hoa văn giản đơn, tiêu biểu là văn đắp nổi và văn trổ lỗ. Địa điểm Tràng Kênh (Hải Phòng) nằm giữa văn hóa Phùng Nguyên và văn hóa Hạ Long, có thể tiêu biểu cho một văn hóa khảo cổ phân bố từ Hải Phòng, một phần Hải Hưng cho đến một phần Hà Bắc mà một vài đặc điểm đã tìm thấy trong lớp dưới di chỉ Từ Sơn. Hy vọng trong tương lai sẽ phát hiện được nhiều di chỉ kiểu Tràng Kênh trong vùng rộng lớn. Ở đây đồ đá cũng như đồ gốm có phảng phất phong cách văn hóa Phùng Nguyên, song những đặc trưng riêng cũng nổi lên khá rõ. Đó là sự vắng mặt những chiếc rìu bôn tứ giác nhỏ nhắn hình gần vuông, mà phong cách các loại đục đá và dao khắc đá, là loại gốm xốp mỏng, trang trí văn khắc vạch tiêu biểu là loại miệng có mái. Địa điểm Đông Khối có thể tiêu biểu cho văn hóa khảo cổ thuộc giai đoạn này ở vùng đồng bằng Thanh Hóa, mà chắc hẳn nhiều di chỉ ven sông Mã, sông Chu sẽ được phát hiện trong tương lai. Ở đây vắng mặt loại rìu có vai, mà tiêu biểu là loại rìu tứ giác kích thước tương đối lớn (địa điểm Đông Khối là một công xưởng làm rìu đá, hiện vật phát hiện được chỉ có rìu đá, phác vật rìu và mảnh tước, không thể cung cấp một cách đầy đủ và đặc trưng của một văn hóa khảo cổ). Quá vào nam, văn hóa Thạch Lạc phân bố trên các cồn sò điệp ven biển Hà Tĩnh. Địa điểm Bàu Tró (Quảng Bình) cũng gần gũi với văn hóa này. Đặc điểm nổi bậc ở đây là phong phú những chiếc rìu đá tứ giác, rìu có vai mặt cắt ngang gần hình bầu dục, là loại gốm thô mỏng trang trí văn khuông nhạc giản đơn. Trong một số hang động đá vôi rải rác từ Cao Bằng, Lạng Sơn cho đến Quảng Bình phát hiện được những di tích khảo cổ mà tiêu biểu là những chiếc rìu có vai, rìu dài, mài nhẵn: mặt cắt ngang hình chữ nhật cùng với loại gốm thô trang trí văn thừng, văn khắc vạch giản đơn. Ngoài những văn hóa khảo cổ hay những nhóm di tích khảo cổ phân bố thành từng vùng có đặc trưng riêng ở trên, còn phát hiện được một số di chỉ lẻ tẻ có phong cách riêng ở bên cạnh, phản ảnh mối quan hệ giữa các tập đoàn người đương thời. Di chỉ Tế Lễ, gò Con Lợn (Vĩnh Phú) phong phú loại rìu có vai nhỏ nhắn nằm gọn trong khu vực phân bố văn hóa Phùng Nguyên. Địa điểm Quất động nam, Vạn Ninh, Cộng Hòa (Quảng Ninh) với những chiếc rìu tứ giác dài mặt cắt ngang hình gần bầu dục ở sát ngay khu vực phân bố văn hóa Hạ Long. Sơ đồ phân bố các nền văn hóa khảo cổ vào nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên Sự khác biệt trong phong cách đồ đá, đồ gốm giữa các vùng chắc hẳn không phải do hoàn cảnh tự nhiên khác nhau giữa các vùng tạo thành. Lúc bấy giờ môi trường sinh sống của con người giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Thanh Hóa cũng như giữa vùng ven biển Quảng Ninh, Hải Phòng và ven biển Hà Tĩnh không khác nhau bao nhiêu, song bộ mặt văn hóa mỗi vùng có phong cách riêng. Phải chăng những khác biệt trong văn hóa là phản ánh những cộng đồng người khác nhau lúc bấy giờ. Đây là mối quan hệ giữa văn hóa khảo cổ và cộng đồng tộc người. Về vấn đề này đã được nhiều nhà khảo cổ học các nước bàn đến khá nhiều (1). Thông thường văn hóa khảo cổ ở thời đại đá mới và đầu thời đại đồng thau là di tồn vật chất của bộ lạc hay nhóm bộ lạc thân thuộc trong thời kỳ nhất định. Do đó các văn hóa khảo cổ hay các nhóm di tích khảo cổ trên không những nói lên mật độ cư dân đông đúc phân bố khắp mội miền đất nước, mà còn phản ánh sự phân bố cùng mối quan hệ giữa các nhóm người đương thời, có thể là các bộ lạc hoặc nhóm bộ lạc thân thuộc.(1) Xem: văn hóa khảo cổ - Đại bách khoa toàn thư Liên xô, xuất bản lần thứ II, quyển 24, tr.31. - Hạ Nãi: đối với vấn đề định tên văn bản khảo cổ - khảo cổ số 4 – 1959 (chữ Trung Quốc). - Bờ-ru-xốp: văn hóa khảo cổ và cộng đồng tộc người. - Tạp chí khảo cổ học xô viết, số 18 – 1956 (chữ Nga). Văn hóa khảo cổ chỉ rõ lúc bấy giờ ít nhất cũng đã có những bộ lạc sinh sống ở trung du và phần trên đồng bằng Bắc Bộ (người Phùng Nguyên, ở vùng đồng bằng ven biển và tả ngạn sông Hồng (người Tràng Kênh), ở vùng biển và hải đảo Quảng Ninh (người Hạ Long, người Quất đông nam), ở vùng đồng bằng Thanh Hóa (người Đông Khối), ở ven biển Hà Tĩnh (người Thạch Lạc) và những nhóm người sống rải rác trên vùng núi đá vôi (chủ nhân rìu có vai). Mỗi văn hóa có phong cách riêng, song giữa chúng cũng có nhiều nét gần gũi nhau, nhất là giữa các văn hóa Phùng Nguyên, Tràng Kênh và Đông Khối ở trung su đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Thanh Hóa. Về đồ đá, những con người ở đây chỉ biết đến loại rìu tứ giác nhỏ nhắn xinh xắn, hầu như vắng mặt loại rìu có vai, họ ưa dùng các loại vòng trang sức, mà phong phú nhất là loại vòng mặt cắt ngang hình chữ nhật dẹt. Về đồ gốm, họ đều truyền thống làm gốm thô, xoa thêm lớp áo mịn, thành mỏng, trang trí các loại hoa văn thừng mịn, trải mịn và văn khắc vạch. Tiêu biểu cho sự thân thuộc gần gũi là những chiếc “vật hình cốc” (chữ chưa rõ công dụng phổ biến rộng rãi ở các văn hóa). Những nét chung này phản ánh mối quan hệ thân thuộc giữa những nhóm người cư trú ở vùng trung du và đồng bằng miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ. Đây là khu vực tụ cư đông đúc nhất của người Việt hiện đại. Phải chăng, những tập đoàn người này là những bộ lạc thân thuộc hình thành nên người Việt cổ. Văn hóa Hạ Long với những chiếc rìu bôn nhỏ nhắn độc đáo có nhiều nét tương đồng với miền duyên hải và hải đảo miền Nam Trung Quốc từ xa xưa đã gắn bó mật thiết với vùng ven biển và hải đảo đông bắc Việt Nam. Ở văn hóa Thạch Lạc và văn hóa rìu có vai phân bố trong vùng núi đá vôi miền Bắc Việt Nam (cả ở ngoài biên giới phía bắc Việt Nam) với những phong cách riêng của mình, cũng tồn tại nhiều văn thừng và văn khắc vạch trên đồ gốm có nét gần gũi với các văn hóa trên, chứng tỏ ngay từ buổi đầu dựng nước, có nhiều tộc người sống quanh người Việt cổ và có mối quan hệ nhất định với người Việt Cổ. Bên cạnh mối quan hệ thân thuộc xa gần, giữa những nhóm người cùng sinh sống cạnh nhau trên, còn có sự giao lưu trao đổi nhất định. Bằng chứng là có những nét gần gũi về phong cách đồ đá và đồ gốm giữa các văn hóa khảo cổ hoặc một ít hoa văn đồ gốm, đồ đá điển hình của văn hóa này tìm thấy trong văn hóa kia. Như ở di chỉ Tràng Kênh phát hiện được 1,25% mảnh gốm mà hoa văn và chất liệu hoàn toàn giống đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên và gần 5% đồ gốm có phong cách hoa văn gần gũi văn hóa Phùng Nguyên. Hoặc ở văn hóa Phùng Nguyên cũng phát hiện được vài chiếc rìu bôn có vai có nấc là vật điển hình của văn hóa Hạ Long. Những nhóm trên sẽ góp phần sinh thành lãnh thổ Văn Lang thời các Vua Hùng, song ở giai đoạn này, giữa các nhóm người tuy có mối quan hệ thân thuộc giao lưu nhất định vẫn còn độc lập lẫn nhau hình thành những văn hóa riêng biệt, phải chăng đó là những bộ lạc, những nhóm bộ lạc thân thuộc tụ cư trong những khu vực riêng. Giữ các nhóm chưa hòa hợp thành một tập thể thống nhất thể hiện trong một văn hóa chung. Những tập đoàn người trên không những để lại dấu vết trong các văn hóa khảo cổ, mà hình bóng của họ còn lắng đọng lại trong ngôn ngữ học. Sự gần gũi giữa tiếng Việt và tiếng Mường là phản ảnh mối quan hệ thân tộc giữa người Việt và người Mường trước đây. Tiếng Việt tuy đã trải qua hàng nghìn năm biến đổi, đã được nhiều lớp ngôn ngữ thuộc các thời đại sau này bao phủ, vẫn có thể cho ta nhiều gợi ý đáng quý. Tiếng Việt ngày nay, bênh cạnh sự thống nhất về ngữ âm, ngữ điệu, ngữ pháp, chúng vẫn tìm thấy những khác biệt về thổ âm thổ ngữ cũng như phương ngôn giữa các vùng. Tương đối phổ biến và dễ nhận thấy, đó là sự khác nhau về thổ âm giữa các làng gần kề nhau. Ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ cũng như ở khu 4 cũ phổ biến hiện tượng 2 làng kề nhau, không bị một biên giới tự nhiên nào ngăn cách, song lại có sự khác biệt về thổ âm và thổ ngữ. Đây có thể là kết quả của sự định cư tương đối ổn định của những thị tộc trước đây cùng mối quan hệ tương đối đóng kín của những công xã nông thôn tạo thành. Song bao trùm lên những khác biệt về thổ âm thổ ngữ đó, tiếng Việt cũng có sự thống nhất trong từng vùng nhất định. Phải chăng đó là các khu vực phương ngôn của tiếng Việt. Tiếng nói vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ với âm điệu nhẹ nhàng, phát âm đúng các dấu (huyền, nặng, hỏi, ngã) song lại lẫn lộn giữa các âm tr và ch, s và x, r và d dễ dàng phân biệt được với vùng khu 4 cũng với âm điệu nằng nặng, phát âm sai các dấu song lại đọc đúng các âm tr, ch, s, x, r, d v.v… Riêng ở Bắc Bộ, tiếng nói vùng đồng bằng ven biển và đặc điểm nói ngọng vần 1 và n cũng có khác biệt với vùng đồng bằng và trung du với đặc điểm thường lên cao giọng ở cuối câu. Và giọng nói vùng Nghệ An, Hà Tĩnh cũng cứng nặng hơn vùng Thanh Hóa. Sự khác biệt về phương ngôn này chắc hẳn không phải do hoàn cảnh thiên nhiên giữa các vùng tạo thành. Có điều đáng chú ý, là những khu vực phương ngôn này, trong chừng mực nhất định, gần trùng hợp với phạm vi phân bố những văn hóa khảo cổ cuối thời đại đá mới đầu thời đại đồng thau đã kể ở trên. Phải chăng những bộ lạc hay những nhóm bộ lạc thân thuộc của người Việt Cổ còn để lại dấu vết mờ nhạt trong ngôn ngữ Việt. Dầu vết các bộ lạc xưa cũng được ghi lại vài câu ngắn ngũi trong thư tịch cổ. Theo truyền thuyết và sử cũ, Hùng Vương chia nước làm 15 bộ (hoặc 15 bộ lạc như trong sách Việt sử lược), nhà Hán chiếm nước ta chia thành quận Giao Chỉ và Cửu Chân gồm 17 huyện. Có thể từ những quận huyện thời Hán được ghi chép trong thư tịch xưa lần tìm những bộ lạc hoặc những liên minh bộ lạc trước đó, vì nhà Hán đặc quận huyện trên cơ sở những đơn vị hành chính có sẵn. Trước đây Nguyễn Thiên Túng chú Dư địa chí của Nguyễn Trãi và gần đây Đào Duy Anh và một số người cũng đã cố gắng chỉ định vị trí 15 bộ thời Hùng Vương (1), song vì chỉ bằng vào một số ghi chép ít ỏi trong thư tịch xưa nên việc chỉ định khó phân biệt đúng sai. Đất nước của các vua Hùng có thể gồm 15 bộ, song cũng có thể nhiều hơn hoặc ít hơn. Cho đến nay chúng ta chưa tìm được 15 văn hóa khảo cổ hoặc nhóm di tích khảo cổ tương ứng với 15 bộ ghi chép trong thư tịch xưa, song việc liên hệ những văn hóa khảo cổ với các bộ thời Hùng Vương là điều có thể được. Và rất có thể nhiều bộ ở gần kề nhau cùng chung một nền văn hóa khảo cổ. (1) – Quốc sử quán triều Nguyễn: Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch của Viện Sử học, Hà Nội 1957, tập I, tr.54. - Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Hà Nội, 1964. Phải chăng chủ nhân văn hóa Phùng Nguyên là người bộ Văn Lang, bộ lạc gốc của các vua Hùng; người Tràng Kênh thuộc bộ Dương tuyền, chủ nhân văn hóa Hạ Long và vùng ven biển Hoa Nam, đảo Hải Nam là thuộc bộ Lục Hải, Ninh Hải; người Đông Khối thuộc các bộ ở Cửu Chân; người Thạch Lạc thuộc bộ Cửu Đức, chủ nhân văn hóa rìu có vai chắc hẳn thuộc nhiều bộ lạc thân tộc sống rải rác trong vùng núi đá vôi. Và tất cả những nhóm người đó có thể là những bộ lạc, nhóm bộ lạc có quan hệ xa gần với nhau góp phần hình thành lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng sau này. Đất nước thời Hùng Vương lúc này chỉ là địa bàn của các bộ lạc, hoặc nhóm bộ lạc thân thuộc phân bố gần khắp miền Bắc Việt Nam ngày nay. Mối quan hệ giữa các bộ lạc, giữa các nhóm bộ lạc thân thuộc ngày càng khăng khít, sự giao lưu văn hóa càng được đẩy mạnh nhất là ở vùng trung du, đồng bằng và ven biển Bắc Bộ, làm cho bộ mặt văn hóa khảo cổ ở giai đoạn này có phong cách khác trước. Sự thống nhất văn hóa được thực hiện trong từng khu vực rộng lớn hơn. Kết quả của quá trình giao lưu hòa hợp dẫn đến tình hình là vào khoảng những thế kỷ cuối thiên niên kỷ thứ 2 và đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, trên miền Bắc Việt Nam hình thành các văn hóa khảo cổ mà phong cách có tính chất tổng hợp hơn, phạm vi phân bố và phạm vi ảnh hưởng rộng lớn hơn. Không kể vùng núi, ít nhất cũng đã hình thành 2 khu vực khá rõ, lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Mã. Bắc Bộ, từ giai đoạn trước đã là nơi tụ cư của nhiều nhóm người, cũng là nơi dễ dàng tiếp xúc với các văn hóa vùng đông nam và tây nam Trung Quốc. Kết quả của quá trình giao lưu giữa các miền trong vùng và với các vùng chung quanh cũng như sự thay đổi trong đời sống kinh tế và xã hội làm cho phong cách văn hóa ở Bắc Bộ có nhiều thay đổi lớn. Từ phong cách cân đối, nhịp nhàng, hài hòa, đối xứng trên các đồ án hoa văn gốm Phùng Nguyên, qua hoa văn làn sóng các kiểu trên gốm văn hóa Đồng Đậu, đến hoa văn hình học trên gốm văn hóa Gò Mun. Song chính sự giao lưu mạnh mẽ này đã dẫn đến sự thống nhất văn hóa sớm ở vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Do hoàn cảnh tự nhiên và hình thái sinh hoạt kinh tế giữa các vùng khác nhau nên trình độ phát triển giữa các nhóm người không đồng đều. Chủ nhân văn hóa Phùng Nguyên, trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp ruộng nước, với trình độ kỹ thuật cao hơn đã thu hút tinh hoa văn hóa ở các vùng chung quanh mà hình thành văn hóa khảo cổ có phong cách riêng: văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun. Hai văn hóa này chủ yếu vẫn phân bố ở vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, song rộng lớn hơn văn hóa Phùng Nguyên ít nhiều. Về phía Bắc, nó đã vượt quá sông Cầu, về phía nam nó cũng đã có mặt ở phía Tây Nam tỉnh Hà Tây. Phạm vi ảnh hưởng của văn hóa Gò Mun cũng đi xa hơn. Bằng chứng là sự có mặt của rìu đồng tứ giác ở lớp trên di chỉ Ngọc Vừng (tỉnh Quảng Ninh), những mảnh miệng gốm kiểu Gò Mun ở lớp dưới di chỉ Đông Sơn (Thanh Hóa). Cũng phải nhận rằng, tuy sự thống nhất văn hóa đã được thực hiện trong vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, song những nét đặc trưng văn hóa có tính chất truyền thống giữa các miền vẫn tiếp tục tồn tại, nhất là đối với những vùng xa trung tâm. Trong giai đoạn này, ở miền bắc Trung Bộ, dấu vết sinh hoạt của con người được giữ lại trong tầng văn hóa và lớp mộ sớm ở Đông Sơn và Thiệu Dương (Thanh Hóa). Ở Đông Sơn, tuy có tìm được khoảng 10 mảnh gốm, 1 mũi giáo, 2 lưỡi dao xéo đồng giống ở văn hóa Gò Mun, song toàn bộ chất liệu, hình dáng hoa văn đồ gốm ở đây không giống với đồ gốm trong văn hóa Gò Mun ở Bắc Bộ (1). (1) Gốm ở đây là loại thô, thành mỏng, độ nung thấp, gốm mềm, màu gạch non, hoa văn trang trí giản đơn, chủ yếu là văn thừng và văn đắp nổi, dễ dàng phân biệt với loại gốm thành dày, độ nung cao, màu xám, gốm cứng, miệng gãy trang trí hoa văn hình học phía trong thành miệng điển hình của văn hóa Gò Mun. Việc tìm thấy những mảnh gốm kiểu văn hóa Gò Mun ở đây không những nói lên niên đại tương đương mà còn nói lên phong cách khác nhau cùng mối giao lưu giữa 2 vùng. Sống trên vùng đồng bằng sông Mã phì nhiêu, nhóm người ở Đông Khối có trình độ kỹ thuật cao cùng với nền kinh tế nông nghiệp làm ruộng nước, đã đẩy mạnh quá trình đồng hóa, hòa hợp với các vùng chung quanh mà hình thành một văn hóa chung mà tiêu biểu là lớp dưới Đông Sơn và Thiệu Dương. Quá trình thống nhất văn hóa được thực hiện dần từng bước. Lúc này ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh phát triển chậm chạp hơn và vẫn có sắc thái riêng. Quá trình giao lưu hòa hợp văn hóa, dẫn đến hình thành văn hóa ở 2 khu vực Bắc Bộ và bắc Trung Bộ phải chăng phản ánh quá trình hình thành các liên minh bộ lạc hoặc bộ tộc lúc bấy giờ. Chủ nhân văn hóa Gò Mun là hạt nhân của liên minh bộ lạc hay bộ tộc ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Chủ nhân của văn hóa lớp dưới Đông Sơn là trung tâm của liên minh bộ lạc hay bộ tộc miền bắc Trung Bộ. Trong mỗi khu vực, bộ mặt văn hóa giữa các miền gần gũi những nét riêng trong phong cách chung, phải chăng phản ánh tính chất bảo lưu lâu dài của văn hóa vật chất, mặt khác nói lên tính chất độc lập tương đối của các bộ lạc, các nhóm bộ lạc thân thuộc trong liên minh bộ lạc hay bộ lạc lúc bấy giờ. Tài liệu dân tộc học cho biết, các dân tộc phía nam nước ta như Chăm-pa. Khơ-me, Ê-đê… gọi người Việt là người Doan, Yoan, Im, De; các dân tộc phía bắc như Tày, Thái, Dao, người ở Quảng Tây gọi người Việt là Keo (1). Nguồn gốc chữ Keo và Doan, Dẹ,… hiện nay chưa rõ. Phải chăng, nếu đây không phải là địa danh cổ, có thể là tên bộ lạc, liên minh bộ lạc, hay bộ tộc lớn mạnh ở phía bắc và nam nước ta trước kia. Và người Keo, người Doan phải chăng là 2 liên minh bộ lạc hay bộ tộc chủ yếu hình thành nên lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng. (1) Nguyễn Đổng Chi: Vài nét về thể chế gia đình, công xã và cộng đồng người thời Hùng Vương – Bài phát biểu trong cuộc tọa đàm khoa học về các vấn đề mấu chốt về thời kỳ Hùng Vương, Hà Nội, tháng 7-1970 – Tài liệu đánh máy, lưu tại Phòng tư liệu Viện Khảo cổ học. Sử cũ như Giao Châu ngoại vực ký, Hậu Hán thư cũng có nhiều đoạn ghi chép về sự khác nhau về phong tục tập quán cùng trình độ giữa 2 vùng Giao Chỉ và Cửu Chân, song lại có quan hệ gần gũi, trao đổi với nhau ở thời nhà Hán thống trị cũng phần nào phản ánh sự khác nhau và gần nhau giừa vùng trước lúc bị nhà Hán thống trị. Từ các nguồn tư liệu nói trên, chúng ta có thể hình dùng là vào khoảng vài thế kỷ cuối thiên niên kỷ thứ 2 và đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Mã đã là hạt nhân hình thành 2 liên minh bộ lạc hay bộ tộc lớn phân bố ở trung du và đồng bắng Bắc Bộ ở phía bắc và vùng đồng bằng sông Mã, sông Lam ở phía nam. Đó là 2 nhân tố chủ yếu hợp thành đất nước thời Hùng Vương. Ngoài ra cũng cần kể đến những nhóm người sinh sống ở vùng núi quanh 2 trung tâm trên cũng đã tham gia vào trong khối hợp thành ấy. Đồng thời với mối giao lưu đồng hóa trong nội bộ các liên minh, sự trao đổi với các liên minh cũng không ngừng mở rộng. Từ 2 lưu vực sông Hồng và sông Mã quá trình hòa hợp đồng hóa diễn ra ngày càng mạnh. Kết quả là vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, quá trình hòa hợp văn hóa giữa 2 khu vực được thực hiện, hình thành văn hóa Đông Sơn. Văn hóa Đông Sơn hình thành không chỉ là sự mở rộng phát triển của văn hóa Gò Mun hay của văn hóa lớp dưới Đông Sơn, Thiệu Dương, mà là kết quả của sự hòa hợp nhiều yếu tố văn hóa trước đó mà hạt nhân là văn hóa Gò Mun ở phía bắc và văn hóa lớp dưới Đông Sơn, Thiệu Dương ở phía nam. Do đó văn hóa Đông Sơn không chỉ đóng khung ở Thanh Hóa và một phần trung du và đồng bằng Bắc Bộ mà còn mở rộng ra cho đến vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và ảnh hưởng của nó còn sâu rộng ở vùng Tây Bắc và Việt Bắc và xa hơn nữa ngoài biên giới nước ta ngày nay (1). Song có di chỉ và khu mộ thuộc văn hóa Đông Sơn chủ yếu vẫn tập trung ở vùng trung du và đồng bằng thuộc lưu vực các sông Hồng, sông Mã là khu vực tụ cư chủ yếu của người Việt ngày nay, phải chăng cũng là khu vực sinh sống chủ yếu của người Việt cổ, và là vùng đất chủ yếu, là trung tâm của nước Văn Lang của các vua Hùng. Những di vật điển hình của văn hóa Đông Sơn tìm thấy ở khu Tây Bắc, Việt Bắc không những phản ánh sức sống của văn hóa Đông Sơn mà cùng với những phong tục, những chỉ số nhân chủng gần giống nhau giữa cư dân vùng núi ở đây với người Việt thể hiện mối quan hệ gần gũi giữa những nhóm người vùng núi với người Việt cổ lúc bấy giờ. (1) Vùng đất Phong Châu và Thanh Hóa vẫn là nơi phát hiện được nhiều di chỉ và khu mộ văn hóa Đông Sơn cùng những chiếc trống đồng loại 1 Hê-gơ nổi tiếng như Vạn Thắng, Việt Trì (Vĩnh Phú), Hoàng Hạ, Miếu Môn, Vinh Quang, Nam Chính, Đường Cồ, Chiềng Vậy, Đại Án (Hà Tây), Đường Mây, Đình Chàng, Trung Mầu, Chùa Thông (Hà Nội), Quả Cam (Hà Bắc), Đông Sơn, Thiệu Dương, Núi Nấp, Núi Soi, Hoằng Lý, Hoằng Quỳ, Phà Công (Thanh Hóa). Vượt ra ngoài vùng Phong Châu và Thanh Hóa, văn hóa Đông Sơn phân bố rộng khắp các miền. Ngược dòng sông Hồng văn hóa Đông Sơn phân bố dày đặc ven sông từ Yên Bái đến Lào Cai như Yên Hợp, Yên Hưng, Đào Thịnh, Đại Thắng, Kim Sơn (Yên Bái), Phố Lu, Bản Lầu, thị xã Lào Cai (Lào Cai). Theo dòng sông Hồng, sông Thái Bình, sông Kinh Thầy, sông Đáy về xuôi, văn hóa Đông Sơn cũng phát hiện được ở Cửu Cao, Liên Nghĩa, La Đôi (Hải Hưng), Việt Khê, Núi Đèo, Núi Voi, Tràng Kênh (Hải Phòng), Ngọc Lũ, Đại Vũ (Nam Hà), Quỳnh Xá, Diêm Điền (Thái Bình). Tuy chưa phát hiện được di chỉ, song vùng núi đá vôi Hòa Bình cũng phát hiện được nhiều di vật văn hóa Đông Sơn như rìu xéo, mũi qua, mũi giáo, lao và cả những chiếc trống đồng loại 1 nổi tiếng như trống Mu-liê, trống Đồi Ro. Từ Thanh Hóa vào Nam văn hóa Đông Sơn cũng phát hiện được ở nhiều nơi như Nghệ An tìm được trống đồng, trìu xéo, mũi giáo ở Nghĩa Đàn, Con Cuông, Yên Thành; Hà Tĩnh có rìu xéo, dao găm ở Xuân An, Thạch Đài; Quảng Bình tìm thấy rìu đồng, kiếm ở Cương Hà. Số hiện vật bằng đồng ở địa điểm Cương Hà hiện nay không biết ở đâu. Nghiên cứu các bản vẽ trong Tạp chí Ban Huế cổ tháng 1 – 1936 (tiếng Pháp) có 6 lưỡi rìu đồng và 1 thanh kiếm lưỡi sắt cán đồng. Trong số đồ đồng này, theo chúng tôi có 2 chiếc rìu đồng gần gũi phong cách văn hóa Đông Sơn. Những chiếc còn lại, nhất là những chiếc rìu có trang trí văn đan chúng tôi chưa gặp trong các sưu tập văn hóa Đông Sơn ở Bắc Bộ và Thanh Hóa. Đây là những hiện vật thuộc văn hóa Đông Sơn hay chỉ chịu ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn cần được nghiên cứu cẩn thận hơn. Trong khu vực rộng lớn của người Thái, người Mèo, người Xá ở Tây Bắc, người Tày, người Nùng, người Dao ở Việt Bắc hiện nay, không những chưa phát hiện được các khu di chỉ. Khu mộ táng của văn hóa Đông Sơn, mà các di vật lẻ tẻ của văn hóa Đông Sơn phát hiện được cũng không nhiều. Cho đến nay chỉ phát hiện được trống đồng loại 1 ở Thuận Châu (Sơn La), rìu xéo ở Phù Yên (Nghĩa Lộ), khuôn đúc dao găm ở Lạng Sơn, dao găm ở Thái Nguyên, Hà Giang, rìu xéo ở Cao Bằng, Tuyên Quang. Vượt qua về phía bắc hay phía nam, chỉ thỉnh thoảng mới gặp vài chiếc trống đồng loại 1 văn hóa Đông Sơn, có thể do trao đổi mà có như trống Đác-Giao (Tây Nguyên), trống Bình Phú (Thủ Dầu Một), trống Khai Hóa, trống Thạch Trại (Vân Nam), trống U-Bông (Lào) và trống Mã-Lai, v.v… Sơ đồ phân bố nền văn hóa Đông Sơn và các di vật văn hóa Đông Sơn. Phạm vi phân bố của văn hóa Đông Sơn từ lưu vực sông Hồng cho đến miền Hà Tĩnh, Quảng Bình ngày nay khắp các vùng đều phát hiện được những khu di chỉ, mộ táng chức hiện vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn.Ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn vượt ra ngoài vùng trung du và đồng bằng và còn vượt quá biên giới miền Bắc Việt Nam ngày nay nói lên trình độ cao của văn hóa Đông Sơn cùng ảnh hưởng vai trò của người Việt Cổ đang trong quá trình hình thành lãnh thổ Văn Lang. Sự thống nhất văn hóa ở giai đoạn Đông Sơn cũng như phạm vi phân bố của văn hóa Đông Sơn có ý nghĩa lớn trong việc tìm hiểu người Việt cổ cùng đất nước Hùng Vương thời cực thịnh. Quá trình hình thành văn hóa Đông Sơn phản ánh quá trình hình thành người Việt Cổ. Phải chăng từ 2 vùng đất màu mỡ, mối quan hệ giữa các liên minh bộ lạc ngày càng chặt chẽ, dẫn đến hình thành một khu vực thống nhất của người Việt cổ làm cơ sở cho sự hình thành lãnh thổ Văn Lang vào cuối thời Hùng Vương. Dựa trên sức mạnh của khối thống nhất bền vững này, Hùng Vương đã tập họp lại quanh mình những tộc người sinh sống ở các vùng núi mà xây dựng nên nước Văn Lang. Đến lúc này, một cương giới hẳn hoi của đất nước mới hình thành. Văn hóa Đông Sơn là dấu tích của người Việt Cổ trong buổi bình minh của đất nước. Vùng trung du và đồng Bắc Bộ và đồng bằng sông Mã, sông Lam – địa bàn sinh tụ của người Việt cổ, là trung tâm của nước Văn Lang. Từ đây, các vua Hùng khống chế cả vùng núi rộng lớn phía bắc và tây bắc, và nước Văn Lang lúc cực thịnh có thể kéo dài từ Hoành Sơn cho đến biên giới Việt – Trung ngày nay (hoặc co giãn chút ít). Cho đến giai đoạn Đông Sơn, sự thống nhất văn hóa trong khu vực cư trú của người Việt cổ đã được hiện, song những khác biệt trong phong cách văn hóa giữa các vùng vẫn tồn tại. Những khác biệt này dẫn đến hình thành các loại hình của văn hóa Đông Sơn: Chí ít cũng đã hình thành 2 loại hình: loại hình vinh quang tiêu biểu cho văn hóa Đông Sơn ở Bắc Bộ, loại hình Thiệu Dương tiêu biểu cho văn hóa Đông Sơn ở bắc Trung Bộ. Sự hình thành những loại hình văn hóa Đông Sơn không làm lưu mờ sự thống nhất của văn hóa Đông Sơn, mà trái lại làm nổi rõ những tính chất địa phương của văn hóa Đông Sơn, phản ánh quá trình hình thành văn hóa Đông Sơn cùng mối giao lưu giữa các miền lúc bấy giờ (1). (1) Hoàng Xuân Chinh và Chữ Văn Tần: Nội dung loại hình và niên đại văn hóa Đông Sơn – khảo cổ học, Hà Nội, số 3 – 4, tháng 12 – 1969. Hai loại hình của văn hóa Đông Sơn phải chăng là dấu vết của 2 liên minh bộ lạc chủ thể hợp thành đất nước Văn Lang vẫn còn giữ những dáng dấp, những phong tục tập quán riêng khi quốc gia đã hình thành. Không những thế, giữa các miền trong vùng Bắc Bộ,các di vật văn hóa Đông Sơn cũng có những sắc thái riêng. Những lưỡi giáo, lưỡi rìu, dao găm ở ven biển (Việt Kê, Núi Đèo, Núi Voi, Quỳnh Xá), ở trung châu Bắc Bộ (Vinh Quang, Nam Chính, Việt Trì,…) và thượng du sông Hồng (Yên Hợp, Yên Hưng, đào Thịnh, Phố Lưu,…) không hoàn thành giống nhau trong nhiều chi tiết hình dáng. Những khác biệt trong chi tiết này phải chăng là dấu vết những tập đoàn người khác nhau hợp thành quốc gia còn được giữ lại mờ nhạt trong khối cộng đồng quốc gia thống nhất. Thế là, từ rất sớm, với sự hình thành văn hóa Đông Sơn, khối thống nhất dân tộc lấy người Việt cổ làm trung tâm được hình thành, tạo điều kiện thành lập nhà nước đầu tiên của dân tộc ta, đặt cơ sở cho sự tồn tại lâu dài của dân tộc ta, đủ sức chống chọi với sự xâm lược của phương Bắc. * * * Lịch sử hình thành lãnh thổ của các dân tộc vô cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ. Theo những quy luật chung của xã hội, con đường bước vào lịch sử văn minh của mỗi dân tộc cũng có những nét riêng của nó. Quá trình hình thành lãnh thổ của dân tộc ta cũng có cái chung và cái riêng của nó.Các nguồn tư liệu đều cho thấy phải từ rất sớm dân tộc ta đã bước vào ngưỡng cửa văn minh. Vào khoảng đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên, không phải chỉ ở vùng núi, mà hầu khắp lãnh thổ miền Bắc Việt Nam ngày nay đã có nhiều nhóm người có quan hệ gần xa với nhau sinh sống. Những nhóm người này đã sáng tạo nên những nền văn hóa rực rỡ ở khắp các miền, từ vùng núi đá vôi với văn hóa rìu có vai đến vùng trung du và đồng bằng với văn hóa Phùng Nguyên, Đông Khối, Tràng Kênh, cho đến vùng ven biển và hải đảo với văn hóa Hạ Long, Thạch Lạc, v.v… Giữa những nhóm người này, mối quan hệ giao lưu trao đổi, hòa hợp, đồng hóa không ngừng được tăng cường, hình thành những tập đoàn người đông đúc hơn, rộng lớn hơn với sự thống nhất văn hóa trong từng khu cực lớn hơn: Lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Mã. Từ 2 lưu vực này, xu thế thống nhất ngày càng được đẩy mạnh. Cho đến nửa đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, với sự thống nhất và mở rộng của văn hóa Đông Sơn, khối thống nhất người Việt cổ được thực hiện, đặt cơ sở cho sự hình thành nước Văn Lang của các vua Hùng. Vào lúc thịnh, lãnh thổ của các vua Hùng có thể từ trung tâm sông Hồng, sông Mã đã vươn tới Hoành Sơn ở phía nam và biên giới Việt-Trung ở phía bắc (có thể co giãn chút ít). Đó là những chặng đường lớn trong quá trình hình thành lãnh thổ thời Hùng Vương. Chắc hẳn, con đường đi trong buổi bình minh lịch sử của dân tộc ta còn phong phú phức tạp hơn nhiều. Trong quá trình, từ những nhóm người có quan hệ gần xa với nhau sống trong từng khu vực riêng tiếng lên hình thành một quốc gia thống nhất ở thời các vua Hùng, mối quan hệ trao đổi, đồng hóa, hòa hợp bao trùm lên tất cả; song trong một giai đoạn nào đó, ở một vùng nào đó, những cuộc chiến tranh bộ lạc có thể không tránh khỏi. Đồng hóa hòa hợp hay chiến tranh bộ lạc cũng là biểu hiện của xu thế tập trung thống nhất quanh trung tâm người Việt cổ sinh sống ở vùng trung du đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Thanh Hóa. Từ trung tâm này, người Việt cổ đã cùng các tộc anh em chung xây dựng nên nước Văn Lang của các vua Hùng. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học Nguồn: Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974
  3. Hường Đông Nam theo Bát trạch Lạc Việt là một hướng tốt (Theo sách Tàu là xấu với tuổi Bính Thìn). Nhưng trong vận 8 này - cũng theo Huyền Không Lạc Việt - thì đang bị sao Ngũ Hoàng Đô THiên Sát chiếu, nên nếu chọn hướng này thì phải trấn yểm. Hero cứ chon 1 trong 4 hướng vothuong đã nói, xong đưa sơ đồ nhà lên đây tôi tin sẽ có nhiều người xem giúp. Chúc vạn sự an lành.
  4. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN Đây là một khu chung cư - sang trọng. Các bạn cũng thấy rằng nó có một kiến trúc phạm cách lộ cốt về hình thể. So với những ngôi nhà chuẩn về Phong thủy và sang trọng khác cho tôi một khái niệm về một sự phát triển không cân đối nơi đây. Hình như nơi này có sự phát triển rất vội vã(*). Không có phương tiện để nghiên cứu, nhưng bằng ngón tay với chiếc bóng của nó và cái đồng hồ - anh chị em cũng thấy ở vùng Triết Giang này vào chính Ngọ - mặt trời và chiếc cọc sẽ không tạo nên một điểm mà người Việt quen gọi là "đứng bóng". Hiện tượng này chỉ có thể lùi sâu xuống phía Nam Dương Tử - có thể ở Quảng Đông. Những nền văn minh cổ ghi nhận dấu ấn một tri kiến thiên văn phát triển đều ở gần sát vùng Bắc xích đạo. Văn minh Hoa Hạ không thể là nguồn gốc của Âm lịch Đông phương. Nó phải thuộc về văn minh Lạc Việt. ----------------------- * Chú thích: Về hiện tượng phạm lộ cốt tôi có thể lấy một ví dụ chính là nơi mà ngày xưa người ta gọi là Dinh Độc Lập - bấy giờ là Dinh Thống Nhất. Nơi này còn phạm một điều tối kỵ về phong thủy là xây hình thể phạm cách "quan tài sát". Anh chị em hãy nhìn thẳng mặt đứng của tòa nhà: Nó giống như một ngôi mộ hoặc một chiếc quan tài với những khúc xương (lộ cốt) được xếp ở chung quanh.
  5. Để đáp ứng yêu cầu của bạn thì sẽ mất rất nhiều thời gian. Tôi nghĩ bạn nện tự tìm hiểu thì hơn. Trong web này cả trang chủ và diễn đàn có nhiều bài viết để bạn có thể tìm hiểu, nếu bạn thật sự quan tâm. Riêng về v/d kết hôn thì chúng tôi đã minh chứng quan điểm cho rằng: Yêu nhau cứ lấy. Mối quan hệ gia đình hạnh phúc hay không còn tùy thuộc vào đứa con tuổi gì - nếu xét theo phương pháp luận tuổi.
  6. PHẢN BIỆN BÀI VIẾT CỦA PHAN DUY KHA Tiếp theo. Kính thưa quí vị quan tâm. Trong bài trước tôi đã chứng minh sự võ đoán và áp đạt tiêu chí không có cơ sở khoa học của ông Phan Duy Kha. Tất nhiên khi đã đặt vấn đề từ một cái sai thì tất yếu những phân tích và kết luận của ông ta sẽ sai. Tôi tiếp tục minh chứng điều này trong phần tiếp theo đây. * Ông Phan Duy Kha viết: Qua đoạn trích dẫn trên thì có vẻ như ông Phan Duy Kha chỉ thống kê những địa danh không gọi là làng mà bắt đầu bằng "kẻ". Nhưng thực chất lại không phải như vậy. Ông Phan Duy Kha đã lồng vào đấy những quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử Việt cho rằng: Nước Văn Lang chỉ giới hạn lãnh thổ ở vùng đồng bằng sông Hồng. Nhưng rất tiếc cho ông ta là sự thống kê những địa danh bắt đầu bằng từ "kẻ" không thể coi là bằng chứng minh chứng cho giới hạn lịch sử của nước Văn Lang chỉ ở vùng đồng bằng sông Hồng. Bởi vì - mặc dù từ "kẻ" là một di sản văn hóa phi vật thể - nhưng nó chỉ giới hạn là một từ cổ còn lại trong ngôn ngữ Việt thuộc cộng đồng dân tộc Việt hiện hữu còn giữ lại được những bản sắc văn hóa. Nó không phải và chưa bao giờ là một bằng chứng để thẩm định biên giới quốc gia của dân tộc đó trong quá khứ. Ông ta cố gắng lồng những địa danh mà ông cho rằng phản ánh lịch sử như: Phú Thọ là kinh đô Văn Lang; hoặc Nga Sơn với Mai An Tiêm..vv..mà ông ta cho rằng theo truyền thuyết. Nhưng chính những người đồng quan điểm với ông ta lại bắt đầu sự phủ nhận giá trị truyền thống văn hóa Việt bằng luận điểm cho rằng truyền thuyết không đáng tin cậy. Thì ở đây - trong trường hợp cụ thể này - thì truyền thuyết lại được ông Phan Duy Kha liên hệ khá chặt chẽ với các địa danh gọi là "kẻ" để minh chứng cho quan điểm của mình?! Đây chính là tính không nhất quán của quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt. Nhất quán là một yếu tố cần trong tiêu chí khoa học cho một giả thiết khoa học. Ông Phan Duy Kha viết: Đến đây thì quí vị quan tâm cũng nhận thấy lý do nào tôi đưa bài viết của Phan Duy Kha vào danh sách "Sưu tầm những luận điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt". Ông ta cho rằng: . Hay nói cách khác: Ông ta đã minh chứng rằng ngay cả cái Kinh đô Văn Lang cũng chỉ là một làng bình thường như những làng xã khác. Có nghĩa là nó không đủ tư cách là thủ đô của một quốc gia. Đây chính là kết luận cuối cùng của ông ta trong bài viết này. Một lần nữa thật không may cho ông khi ngay chính tư liệu ông dẫn chứng - và có lẽ cố tình hiểu sai - lại không có nội dung như ông vũ đoán áp đặt nội dung cho nó để minh chứng cho quan điểm của ông và "hầu hết những nhà khoa học trong nước". Chúng ta xem lại chính đoạn bản văn tư liệu mà ông ta dẫn từ sách "Hoài Nam tử": Vâng ! "Không phải là nơi ấp lý có thành quách". Điều này tôi có thể nói rằng: Trong lịch sử tất cả các quốc gia trên thế giới thì chẳng có quốc gia nào mà "ấp lý" lại có "thành quách " cả. Và dù bạn hiểu theo cách nào thì bản văn tư liệu trên cũng không thể minh chứng cho luận điểm của ông Phan Duy Kha khi kết luận rằng: Và ngay cả đoạn văn cuối của bài viết trong phần kết luận này của ông ta cũng tự phủ nhận chính nội dung toàn bài viết. Ông ta viết: Vậy tại sao ngay gần nơi mà ông ta coi là kinh đô Văn Lang lại có những địa danh khác không phải là "kẻ"? Những nơi gọi là Bản, mường đó có thuộc về quốc gia Văn Lang không theo phương pháp phân tích địa danh để kết luận lịch sử của ông ta? Nếu như phương pháp phân tích địa danh để thẩm định biên giới của một quốc gia trong lịch sử của ông Phan Duy Kha được coi là khoa học , thì tôi có thể nói rằng: Chẳng có quốc gia nào trên thế giới này đã tồn tại trong quá khứ và ngay cả bây giờ.
  7. Cảm ơn anh Thiện Nhơn và anh chị em có lời chúc mừng. Những vấn đề liên quan đến lịch pháp và phong thủy trong chuyến đi này tôi sẽ tiếp tục đưa lên đây để chúng ta tiếp tục tham khảo.
  8. Rất cảm ơn Đào Hoa đã đưa ý kiến rát xác đáng. Hiện chúng tôi đang biên dịch một số bài tiếng Anh đầu tiên để giới thiệu Lý học Đông phương. Rất cảm ơn sự công tác của Đào Hoa trong tương lai.
  9. Tôi đặt vấn đề như thế này: Nếu nhà đặt giữa sa mạc thì liệu ngàn vạn con Tỳ Hưu có giúp phát tài phát lộc được không? Tất nhiên câu trả lời là không. Vậy vấn đề là nhà phải vượng khí cái đã. Lúc đó mới phát huy được năng lực trấn yểm. Nhưng mọi người hãy để ý: Tất cả những nhà đặt Tỳ Hưu - sau một thời gian - đều ở trạng thái suy thoái. Không tin cứ để ý mà xem. Không nên dùng Tỳ Hưu.
  10. Kính thưa quí vị quan tâm Không phải ngẫu nhiên mà tôi xếp bài này vào topic "Sưu tầm những luận điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt". Mới nhìn qua thì dễ lầm tưởng ông Phan Duy Kha chỉ phân tích từ "kẻ" trong mối liên hệ với làng cổ Việt. Rất hiền lành. Nhưng rất tiếc, ngoài cái vỏ hiền lành đó lại là sự phủ nhận những giá trị văn hóa truyền thống Việt. Điều này sẽ được chứng minh ngay trong bài viết này - hoặc loạt bài viết này. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị. * PHẢN BIỆN BÀI VIẾT CỦA PHAN DUY KHA Ngay từ cái tựa, ông Phan Duy Kha viết:. Kẻ là một danh từ chung. Vậy làm sao lại đặt cái tựa khó hiểu như vậy? Vậy làng cổ nào có tên là "Kẻ"? Xem cả bài viết chẳng thấy ông Phan Duy Kha dẫn được một làng cổ nào là "Làng Kẻ" cả. Nhưng thôi. Coi như là chuyện "sai chính tả" bỏ qua chuyện này. Bây giờ chúng ta xem xét những nội dung của bài viết: Tôi không phải là nhà ngôn ngữ học. Bởi vậy những từ chuyên môn về ngôn ngữ học tôi không rành. Môn Ngôn Ngữ học ở Văn khoa mà tôi theo học ngày xưa - thật tình tôi chỉ học trong có 45 phút *, nên cũng chẳng có gì để gọi là uyên bác. Nhưng với cách lập luận của ông Phan Duy Kha thấy lủng củng quá, nên tôi phải phân tích một chút đoạn này, mà đáng lẽ tôi không nên quan tâm. Đó là khái niệm "kẻ" trong ngôn ngữ cổ Việt không phải đơn giản chỉ có nghĩa là "người", mà cũng không đơn giản có nghĩa là "làng" như ông Phan Duy Kha thống kê và kết luận vũ đoán ở trên. Mà từ "kẻ" mang một khái niệm phức hợp hơn. Nó có nghĩa là "người ở ... (vị trí, hay vùng nào đó)". Ở vùng thôn quê thì gọi người thành thị là "kẻ chợ", ở thành thị thì gọi là "kẻ quê". Với hai thí dụ này - quí vị có thể tìm thấy ở những người rất lớn tuổi trong những vùng quê xa thành thị, có thể vẫn còn dùng. Hồi còn trẻ, tôi còn nghe được những từ cổ hơn mà nói ra bây giờ có lẽ cũng ít người hiểu: " Ông ở đống nào?". Tất nhiên tôi không ở "Đống" rác. Nhưng tôi hiểu ngay và trả lời. Tôi ở đống Hoàn Kiếm. Cụ già hỏi tôi gật gù "Vậy là ông là kẻ chợ rồi". Nhưng cũng không vì thế mà tôi vũ đoán kết luận đống là vùng, là quận, là khu được. Khái niệm "đống" giới hạn hơn khái niệm vùng rất nhiều. Nó thể hiện một khái niệm giới hạn địa lý có thể rất nhỏ. Thí dụ: Người ở trong 1 làng hỏi nhau có thể trả lời "tôi ở Ấp 1" cũng được, hoặc "đống 1" cũng được. Hoặc người trong cùng một địa danh liên quan đến nhau - thí dụ như: Láng Thượng, Láng Trung, Láng Hạ - thì người Láng Thượng hỏi, người Láng Hạ có thể trả lời "Tôi ở đống Hạ". Nhưng với người kẻ Mọc hỏi thì người "đống" Hạ không thể trả lời "Tôi ở đống Hạ" được. Việc ông Phan Duy Kha vũ đoán kết luận: "kẻ" là "người", "kẻ" là "làng" thì thật khôi hài. Vậy "người làng Láng" có thể nói là "kẻ kẻ Láng" hay sao? Hoặc - cứ theo ông này - thì có thể nói là "Làng làng Láng"!?. Híc! Chán thật. Vậy mà thật tiếc cho Dongtac.com là một trang web học thuật có uy tín mà lại đang tải những bài "ngâm cứu" tệ đến như vậy. Nhưng thôi. Cũng coi như lỗi chính tả. Ông Phan Duy Kha viết: Lại áp đặt. Bản thân ông ta đã hiểu sai khái niệm của từ "kẻ" như tôi trình bày ở trên. Thì cái tiêu chí mà ông ta đưa ra tự nó đã sai từ cách đạt vấn đề của ông ta. Trong ngôn ngữ Việt - các cụ nhà ta đôi khi rất vắn tắt cách gọi địa danh. Thí dụ: "Người ở làng Cổ Nhuế" thì các cụ chỉ vắn tắt một câu: "Kẻ Nhuế". Ngày tôi còn bé đi tàu hỏa ra Hải Phòng, thấy hai bà hỏi nhau: "Bà đi đâu?" - "Tôi về Phòng". Xong. Bởi vậy cái gọi là tiêu chí của ông Phan Duy Kha cũng cần xem lại.Ông Phan Duy Kha cho rằng: Vì cần có từ Hán nên các làng Việt phải đặt tên Hán? Vậy thì người Hán phải đặt tên lại cho tất cả các làng xã Việt khi họ cai trị chăng? Tiếng Hán không đủ phiên âm và thể hiện các danh từ Việt chăng? Híc. Âm Hán Việt cho chữ Hán và cách phát âm chữ đó của tiếng Hán rất khác nhau. Làm gì phải thay cho nó phức tạp quá vậy? Híc! Lại võ đoán. Ông tự cho "Xá" là nơi cư trú và là từ Hán Việt. Và ông kết luận tất cả những làng có chữ "Xá" đều là có từ thời Bắc thuộc về sau. Vậy tôi cứ xin hỏi nôm như sau: Vậy từ "trạm xá" là nơi cư trú của cái trạm chăng? hoặc từ "cư xá' là thừa chữ chăng? Đúng ra tôi ít quan tâm đến những bài nghiên cứu chữ nghĩa kiểu này - Nếu như nó chẳng dính gì đến thời Hùng Vương côi nguồn lịch sử của dân tộc Việt. Nhưng quí vị cũng thấy : Đến đây thì từ việc đặt vấn đề về kẻ, làng, xá...ông Phan Duy Kha đã liên hệ đến thời Hùng Vương. Với cách áp đặt rất chủ quan và khiên cưỡng phi khoa học như trên , Tất yếu ông ta sẽ có những nhận xét méo mó về cội nguồn dân tộc Việt - như các bài viết của ông ta trên "Thế Giới Mới" - Điều này tôi sẽ minh chứng sau đây.Còn tiếp ------------------------- * Chú thích: Tôi học môn ngôn ngữ học hết 45 phút. Cái sự tích nó như thế này: Khi tôi ghi danh học Văn Khoa thì tôi chỉ ghi vậy thôi và chẳng bao giờ sách cặp đến lớp học cả. Tôi ở Bến Tre, cách Sài Gòn hơn 100 Km. Tôi còn phải kiếm sống và lúc đó tôi cũng hơn 40 tuổi rồi. Nên khi sắp đến kỳ thi cứ ba tháng 1 lần thì các bạn tôi viết thư về báo cho tôi biết ngày thi và các môn thi. Tôi lên Sài gòn cách ngày thi khoảng 2 đến 3 ngày mua tài liệu và bắt đầu học môn đầu tiên. Mỗi môn thi cách nhau hai ngày và vào buổi tối. Thi xong môn thứ nhất thì tranh thủ ngày cách đó tôi học môn thứ hai...Khốn khổ cho tôi. Hôm đó vì lý do nào đó tôi không nhớ, họ thay đổi lịch thi. Thay vì thi môn văn học dân gian thì lại là thi ngôn ngữ học - Đáng lẽ môn này thi sau. Cũng may tôi đến phòng thi sớm 45 phút. Tôi vội mượn ngay cuốn tập chép của bạn và xem ngốn ngấu. Tôi không phải thi lại là may mắn hơn nhiều các bạn đồng lớp với tôi. Nhưng vì học kiểu đó nên tôi thực sự chằng nhớ gì cả.
  11. SONG HOÀNG XƯỚNG HỌA CÁCH TRỞ Bích Hoàng Xa tự bao giờ hỡi cố nhân. Tìm nhau đâu thấy cõi Dương trần. Bút nghiên dan díu duyên Hàn Mạc. Khuê các thờ ơ chuyện ái ân. Đâu phải Kinh Kha qua Dịch thủy. Mà như Tư Mã hẹn Văn Quân. Trao nhau mấy vần thơ dang dở. Cách biệt trùng dương vẫn thấy gần. Họa CÁCH TRỞ Thi Hoàng. Ở nhỉ! Bây giờ đã cố nhân. Trời ơi mỏi mắt giữa hồng trần. Học hoài một thuở câu chung thủy. Xóa giúp ngàn sau chữ ái ân. Bóng xế ngẩn ngơ tình mấy ngả. Cờ tàn lơ láo tốt vài quân. Cầm thư lòng vẫn còn nghi hoặc. Năm chục năm xa lại đã gần. Họa CÁCH TRỞ Thiên Sứ Kinh mến tặng anh Trần Quang Vũ. Muôn dặm hải hồ kiếm cố nhân. Trời ơi! Sao nỡ bỏ dương trần. Người đi ôm trọn tình chung thủy. Non nước ngàn thu gửi nghĩa ân. Cách biệt âm dương đành đôi ngả. Chiều buông khắc khoải bóng tình quân. Ngậm ngùi ngấn lệ muôn năm cũ. Cảnh đấy, người đây.... Chẳng thấy gần.
  12. Thương Vô Vong - Giờ Mùi - Ngày mùng 6 tháng Chạp - Mậu Tý.* Nhà này chưa thể bán trước Tết được. Nhanh lắm phải đến cuối tháng Hai Âm lịch năm tới. Hướng Tây không phải hướng nhà xấu với tuổi anh cô bé. Nhưng nếu mua nhà vào năm 2007 thì rất có khả năng anh ta đã sửa chữa nhà này ở qui mô vừa và phạm Thái tuế hoặc những vấn đề liên quan đến sao này. Bị chủ nhà hàng từ chối không liên kết chứng tỏ rằng bên phải nhà phải có một vật thể như cột nhà hoặc hầm hồ gì đó xây dựng ở đây. Năm ngoái và năm nay anh ta phạm năm tuổi khá năng cùng với tuổi vợ bị tam tai. Nhất là khoảng ba tháng đầu năm nay. Mọi việc diễn biến theo chiều hướng xấu khi càng tiến gần đến cuối năm. Anh ta cần chịu khó làm lại từ đầu và sẽ thành công vào năm 41 tuổi. Chú có khoảng 11 lần phá sản trắng tay làm lại từ đầu. Sau khi ở nhà mới, cần tìm một phương vị thích hợp đặt hồ hoặc bể cá để hóa giải thế xung sát của Thiên Can Tân chồng khắc sát Ất vợ. Có thể tạm thời mua một bể cá đặt ở vị trí khoảng 285 độ Tây trong nhà (lấy tâm nhà làm chuẩn). Khả năng nhà này bếp hướng Bắc - Nam hoặc Tây Nam. Nếu đúng như vậy thì cho bếp quay về hướng Tây Bắc. Chúc vạn sự an lành. Tai hạn qua mau. Phước lộc mau tới.
  13. CHÚC MỪNG NĂM MỚI. Chân thành chúc toàn thể anh chị em trong diễn đàn Lý học Đông phương và thành viên thuộc Trung Tâm nghiên cứu lý học Đông phương cùng gia đình: Một năm mới vạn sự an lành. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh
  14. Chuyến đi hoàn hảo. Chúng tôi đã hoàn tất phần công việc của mình một cách có trách nhiệm và chu đáo. Vấn đề còn lại là chờ thời gian đủ để chứng nghiệm những tương tác tốt do sự thay đổi theo phương pháp của Phong Thủy Lạc Việt. Chúng tôi được đón tiếp long trọng và chân tình, các bạn cũng thấy điều này. Nhưng chúng tôi sang đây không phải để du lịch và hưởng thụ. Nhưng chính sự trân trọng của những người dân nơi đây, là một thí dụ rất tuyệt vời về tính hiệu quả của Phong thủy Lạc Việt qua thực tế ứng dụng. Nó gián tiếp minh chứng rằng: Nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử, cội nguồn của nền văn hóa Đông phương, một thời huyền vĩ ở bờ Nam sông Dương tử. Nền văn hiến Việt có đầy đủ các yếu tố xứng đáng với những giá trị theo cách gọi của nó. Tôi đi vì mục đích gián tiếp này, mặc dù có những nghi ngại ban đầu. Sự phồn hoa nơi đây càng làm cho tôi ngậm ngùi vì non nước cũ trên 2000 năm trước, mà chính Sử Ký Tư Mã Thiên viết: Nam Dương Tử là nơi Bách Việt ở. Những người dân hiếu khách, cần cù và đầy nghị lực trong cuộc sống..phải chăng chính là hậu duệ của những người dân Lạc Việt đã từng sinh sống nơi đây. Sống nơi đất khách với tất cả sự phồn hoa, tôi càng thấy giá tri sâu xa của câu ca dao Việt: Ta về, ta tắm ao ta. Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn. Về quê Kỷ niệm với người đẹp Giang Nam bên kia cột mốc biên giới. Chúng tôi đã về tới đất Việt. Xin tạ ơn anh linh tổ tiên và thần linh bản địa đã trợ giúp chúng tôi đi đến nơi về đến chốn. Anh đi, anh nhớ quê nhà. Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Rau muống non, luộc xanh rau, chấm nước mắm chanh ớt...Ngon tuyệt! Chúng tôi kịp về đến nhà để xem trận bóng đá giành chức vô địch Đông Nam Á giữa Việt Nam và Thái Lan. Niềm vui trong tôi tăng lên khi biết rằng: Anh chị em Lạc Việt độn toán đã dự báo trước kết quả trân đấu. Tầm Nhìn Mới còn đoán chính xác đến cả trạng thái của cầu thủ. Đúng là một quẻ thần sầu vinh danh Lạc Việt độn toán. Việt Nam muôn năm. Cả nước cùng reo lên như vậy sau chiến thắng của Việt Nam lần đầu tiên vô địch Đông Nam Á. Còn tiếp
  15. Sau những lúc căng thẳng vì công việc lại là "cuộc say đầy tối, trận cười đến nửa đêm" Xin mời! Đây là bánh bao "Tể tưởng Lưu gù" Đồ chơi của Phong thủy theo cổ thư chữ Hán và Lạc Việt hoàn toàn như nhau. Chỉ khác nhau khi liên quan đến tính chất Ngũ hành . Về độ số trấn yểm thì Phong Thủy Lạc Việt theo Hà Đồ. Về phương vị thì chỉ liên quan khi đụng đến Tốn Khôn. Kiểm tra sinh lực của đồ chơi. Phiên dịch phương pháp từ Việt sang tiếng Hoa Lại thư giãn. Lần này thì ở Giang Nam Xuân Đại tửu lầu. Nhưng dịp như thế này cũng là lúc xem tướng, coi tuổi dự báo tương lai, hoặc trao đổi học thuật. "Đem chuông đi đánh xứ người" ít nhất tiếng chuông phải lảnh lót. Tiếng chuông nghe hay đấy! Số một! Ấy là họ bảo tôi thế! Chứ tôi thì không cần mang số cho mình. Tôi cần số 5000 năm cho lịch sử văn hiến Việt. Còn đây là số hai! Có một số người ở đây nhầm chúng tôi là du khách Nhật Bản. Tôi lắc đầu và chỉ vào mình "Dzuê Nản". Họ hỏi tôi nhiều thứ. Híc. Tôi lại lắc đầu nói bằng tay là chính: "Ủa. Pú pinh sua. Trung Của khoa". Có người hỏi tôi bằng tiếng Anh. Híc! "Nô biết!". Hi. Thế mà họ cũng hiểu đấy. Còn tiếp
  16. Đỗ Tiểu Cát - Tử Đại An. Sang năm công việc tốt hơn, nhưng khá vất vả.với câu 2 / 3 thì chỉ được 1 trong hai. Không có hai trong một. Chúc vạn sự an lành.
  17. Oh! Tại chú bận quá, nên mấy hôm nay ít tham gia trả lời . Mong trangsang thông cảm. Quẻ này - Đỗ Tiểu Cát - Cảnh Vô vong thì trong vòng 4 đời tính từ Trangsang trở lên không có mất mộ. Chúc vạn sự an lành.
  18. Hi! Vì "Thiên Sứ du Giang Nam" nên thời gian qua ít vào diễn đàn. Mong anh chị em thông cảm.Quẻ này cho thấy việc dùng thuốc Đông y sẽ có kết quả như ý. Khả năng cuối Xuân sang hè năm tới sẽ có giấy trúng tuyển. Chúc vạn sự an lành.
  19. PHONG THỦY LẠC VIỆT. Phân kim điểm hướng. Tất nhiên là "Đổi chỗ Tốn Khôn và liên hệ với Hà Đồ" Phân tích hình thể và cảnh quan. Đưa ý kiến kết luận. Quan sát cấu trúc hình thể xưởng sản xuất. Bên ngoài xưởng Trao đổi với gia chủ về phương án thực hiện. Mạn đàm, trao đổi về tính khoa học của phong thủy Còn tiếp
  20. Trong thời gian ở đây, gia đình thân chủ rất chu đáo trong việc đón tiếp chúng tôi. Có thể nói là :"Đêm đêm hàn thực, ngày ngày nguyên tiêu" . Ngoài lúc làm việc, họ hướng dẫn chúng tôi đi chơi thăm thành phố. Thành phố nơi tôi ở chỉ tương đương đơn vị hành chính của một huyện của Trung Quốc, nhưng rất lớn. Sân bay rộng như sân bay quốc tế Nội bài và rất hiện đại. Thành phố của họ sạch sẽ với kiến trúc hiện đại. Hầu như rất ít xe gắn máy và phương tiện di chuyển của họ chủ yếu là xe hơi. Họ rất lịch sự trong việc ứng sử. Nhất là những nơi thuộc phạm vi công cộng. Đêm trên thành phố nơi chúng tôi đến. Đây là khách sạn nơi tôi ở. Trước cửa nhà hàng thức ăn nhanh của Trung Quốc. Thành phố của họ rất sạch sẽ và ngăn nắp. Tôi không thấy những đống rác được gom một cách chu đáo chờ xe rác đến dọn ở nơi này. Đêm Noel trên đường phố đi bộ nơi tôi đến. Quan sát thành phố của họ, tôi cho rằng Phong Thủy chưa phải là một tiêu chí được công nhận chính thức trong xây dựng. mà chỉ có từng cá nhân khi kinh doanh chú trọng điều này. Như các nhà hàng và khách sạn mà tôi đã giới thiệu với các bạn. Tôi cũng nhìn thấy vài người ăn xin, nhưng rất ít. Tôi nghĩ đây là điều khó tránh khỏi ở bất cứ quốc gia nào. Người đàn ông này cụt cả hai tay, hai chân. Nhưng anh ta vẫn kẹp viên phấn vào giữa phần xương của ông tay và viết chữ rất đẹp. Những dòng chữ này ca ngợi và chúc lành cho mọi người dừng lại xem anh ta viết. Những người có lòng tốt cho tiền anh ta. Tôi cũng cho anh ta 5 tệ vì cảm phục nghị lực phi thường của anh ấy. Người đàn ông này cũng mất hết cả bàn chân và tay. Anh ấy viết chữ bằng miệng để kiếm sống. Những con người ở đây họ tỏ ra có nghị lực, hiếu khách và chịu khó. Có một điều may mắn cho tôi là thời tiết nơi đây khi tôi đến, không lạnh lắm và đầy nắng ấm. Nhiệt độ lúc nào cũng ở khoảng từ 18 đến 22 độ. Không có cảnh tuyết phủ đầy mọi nơi như trong phim hay tiểu thuyết miêu tả về mùa Đông ở phương Bắc. Mặc dù cũng trong thời gian này - lùi gần 3000 Km xuống phương Nam thì Hanoi đang lạnh 14 độ trong ngày Noel. Và cách nơi tôi ở chỉ 200 km, thành phố Hàng Châu ngập trong sương mù. Đây cũng là điều may mắn cho tôi. Vì tôi rất yếu chịu lạnh. Các bạn cũng thấy, trong phòng cũng không lạnh lắm. Mặc dù đây chính là hôm Noel 25 - 12. Tôi cũng không có ý định nói nhiều về cuộc sống của tôi trong thời gian ở nơi đây. Nhưng qua sự đón tiếp long trọng của họ cho thấy sự trân trọng với những thành quả mà Phong thủy Lạc Việt đã đem lại. Còn tiếp
  21. Cuối cùng chúng tôi cũng lên máy bay đi Triết Giang. Gia đình thân chủ đón chúng tôi ở sân bay. Họ chờ hơi lâu vì phải chuyển máy bay.Đến nơi thì cũng 4 giờ chiều. Chúng tôi được đưa đến một khách sạn sang trọng tiêu chuẩn quốc tế 3 sao ở nơi đây. Ổn định chỗ ở xong. Toàn gia đình họ mời chúng tôi tại một nhà hàng lớn ở địa phương này. Lần đầu tiên tôi được thưởng thức các món ăn Tàu nổi tiếng: "Ở nhà Tây, Ăn cơm Tàu...". Ở đây lại là một cách bố trí Phong thủy độc đáo với một bể cá hình tròn rất hoàng tráng. Xin mời! Bắt đầu bằng tiệc rượu.... Xin mời! Sực phàn... Còn tiếp
  22. Cảm ơn Xuân An có lời chúc mừng. Thực ra tôi đón Xuân ở Hanoi. Tôi đi Trung Quốc từ hôm 22 - 12 và về Hanoi đúng ngày Việt Nam giành chức vô địch Đông Nam á . Cụ thể là đặt chân về tới nhà thì trước trận đấu 30 phút.
  23. Tôi e rằng công việc ỡ đây không bền. Tuy năm tới có nhiều sự tốt đẹp. Sau hai năm sẽ đổi việc khác. Nhanh thì cuối năm tới thay đổi. Chúc vạn sự an lành
  24. Kịch liệt hoan hô Tầm nhìn mới và anh chị em Lạc Việt độn toán - đúng là trận bóng hôm qua thắng cứ y như là....Thượng Đế phù hộ vậy. Hôm qua lúc trên xe về Hanoi tôi cũng đoán trận hôm qua hòa 1 - 1. Rất tiếc vì ngồi trên xe, nên chỉ có ông anh và hai người khách đi cùng ...làm chứng.
  25. Chú nhắn tin DT và hình như có gửi cả PM cho Tuduca. Không biết Tuduca có nhận được không? Chú đang ở xa, khi về chú sẽ tìm cách giúp bé.