Kính thưa quí vị.
Đây là bài thứ 11 trong bộ sưu tập những bài viết phủ nhận văn hóa sử truyền thống. Tôi đưa lại lên đây để quí vị tiện tham khảo nguyên văn. Sai lầm căn bản và phi khoa học của những loại bài như thế này chính là họ chỉ căn cứ trên cơ sở tìm thấy những di vật khảo cổ trên vùng đất cư trú của người Việt hiện nay để xác định vùng lãnh thổ của người Việt cổ từ hơn 2000 năm trước. Đây chính là yếu tố phản khoa học của những loạt bài loại này. .
Hùng Vương dựng nước - Tập IV - 12
Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học
Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974 Tìm hiểu quá trình hình thành lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng
Hoàng Xuân Chinh
N ghiên cứu thời kỳ Hùng Vương có nghĩa là tìm hiểu thời kỳ dựng nước, tìm hiểu quá trình hình thành nhà nước đầu tiên của dân tộc ta. Trong quá trình hàng nghìn năm, cùng với sự phát triển của kỹ thuật, của sức sản xuất, sự thống nhất kinh tế, văn hóa cũng được thực hiện dần dần cùng với sự thống nhất lãnh thổ, đặt cơ sở cho sự hình thành quốc gia. Do đó tìm hiểu lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng không chỉ tìm hiểu bờ cõi buổi cực thịnh, lúc quốc gia đã hình thành, mà còn cần tìm hiểu cả quá trình trước đó.Đất nước trước buổi bình minh của lịch sử, chưa thể có được những đường biên giới có mốc rạch ròi. Sự chung đụng giữa con người cũng như văn hóa qua hàng nghìn năm lịch sử đã xóa nhòa những đường biên giới thời dựng nước. Hơn nữa tính không ổn định của những tập đoàn người trước lúc bước vào xây dựng một quốc gia thống nhất cũng chỉ cho chúng ta những khái niệm về phạm vi sinh sống hoạt động chung chung của họ mà thôi. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta không thể tìm hiểu từng bước hình thành lãnh thổ từ buổi xa xưa đó.
Từ những khác biệt trong dấu vết cuộc sống con người để lại – tài liệu khảo cổ học – chúng ta có thể lần tìm phạm vi sinh sống của những tập đoàn người cổ xưa. Thời kỳ này, ở một trình độ nhất định, văn hóa khảo cổ có tính chất đóng kín, cho nên nghiên cứu cẩn thận các văn hóa khảo cổ, có thể tìm hiểu được quá trình hình thành các tập đoàn người từ bộ lạc, liên minh bộ lạc tiến lên cộng đồng quốc gia. Đồng thời có thể tìm hiểu những mối quan hệ phức tạp giữa các tập đoàn người từ mối quan hệ đồng hóa, hòa hợp, quan hệ tộc ngoại hơn cho đến sự thiên di của một phần hay cả bộ lạc nào đó.
Do đó, nghiên cứu sự phân bố các văn hóa khảo cổ, các nhóm di tích khảo cổ ở miền Bắc Việt Nam có ý nghĩa lớn trong việc tìm hiểu phạm vi hoạt động cùng quá trình hình thành các tộc người thời Hùng Vương.
Cùng với tư liệu khảo cổ học, những đoạn thư tịch cổ, những truyền thuyết nói về vị trí các bộ thời Hùng Vương, các quận huyện thời Hán, sự thống nhất về khác biệt về phương ngôn, về phong tục tập quán giữa các tộc người cũng cho ta những gọi ý đáng quý về quá trình hình thành lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng.
Song tình hình tư liệu hiện nay chưa cho phép chúng ta nói được gì nhiều lắm. Bản đồ khảo cổ học Việt Nam còn nhiều vùng trắng chưa được điều tra nghiên cứu. Tài liệu ngôn ngữ học, dân tộc học – người Kinh – con cháu trực tiếp người Việt cổ chưa cung cấp được bao nhiêu. Do đó, lấy tài liệu khảo cổ học làm cơ sở, cho có tập hợp tất cả các nguồn tư liệu lại cũng chỉ nêu lên được những gợi ý bước đầu về các giai đoạn lớn trong quá trình hình thành lãnh thổn Văn Lang của các vua Hùng.
Thời kỳ Hùng Vương là một quá trình lịch sử kéo dài trên dưới 2.000 năm, cho đến giữa thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Tài liệu khảo cổ học vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ có niên đại được xác định bằng phương pháp C14 đã khẳng định điều đó (1). Còn nhiều điều cần bàn bạc thêm, song mọi người đều thống nhất những mốc lớn đánh dấu các giai đoạn phát triển của văn hóa khảo cổ vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ - vùng được xem là đất tổ, địa bàn gốc của các vua Hùng. Đó là văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun, văn hóa Đông Sơn (2). Quá trình phát triển từ văn hóa Phùng Nguyên qua văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun đến văn hóa Đông Sơn là phản ánh quá trình lịch sử của con người thời Hùng Vương vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Đất nước thời các vua Hùng đã được mở rộng ra ngoài vùng đất tổ. Do đó theo các mốc đã được xác định ở vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, đối chiếu với các vùng chung quanh có thể tìm hiểu những bước lớn trong quá trình mở rộng và hình thành lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng
(1) Cho đến nay Viện khảo cổ học đã tiến hành xác định niên đại bằng phương pháp C14 ở các địa điểm sau:
- Tràng Kênh độc sâu 1m90-2m10: 3.405 ± 100 trước năm 1950
- Đồng Đậu độ sâu 4m00: 3.328 ± 100 trước năm 1950
- Vườn Chuối độ sâu 0m80: 3.070 ± 100 trước năm 1950
- Vinh Quang độ sâu 1m80: 3.046 ± 100 trước năm 1950
- Chiền Vậy độ sâu 0m65: 2.350 ± 100 trước năm 1950
(2) Có ý kiến cho đó là các giai đoạn phát triển chứ không phải văn hóa. Cũng có ý kiến thêm giai đoạn Gò Bông sau giai đoạn Phùng Nguyên, và giai đoạn Gò Chiền, giai đoạn Đường Cồ sau giai đoạn Gò Mun.
Cũng có ý kiến cho rằng ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ không có văn hóa Đông Sơn, mà chỉ có Đường Cồ.
*
* * Vào buổi đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên, hoặc sớm hơn nữa hầu khắp miền Bắc Việt Nam ngày nay đã có nhiều tập đoàn người sinh sống. Dấu vết cuộc sống của họ là các văn hóa khảo cổ phân bố rộng khắp các miền. Đó là các văn hóa Phùng Nguyên, Hạ Long, Tràng Kênh, Đông Khối, Thạch Lạc, văn hóa rìu có vai (1). Mỗi văn hóa khảo cổ có đặc trưng riêng và phân bố trong một phạm vi nhất định.(1) Văn hóa Phùng Nguyên phân bố ở trung du và một phần đồng bằng Bắc Bộ, giữa hai dãy núi Tam đảo và Ba Vì, mà trung tâm là chỗ hợp lưu của các con sông Hồng, sông Lô, sông Thao, sông Đà, sông Đáy, sông Cầu, sông Tích, bao gồm tỉnh Vĩnh Phú, Hà Tây, Hà Nội và một phần Hà Bắc hiện nay. Con người ở đây đã đạt đến đỉnh cao của kỹ thuật đồ đá, và ở giai đoạn cuối đã biệt kỹ thuật luyện đồng. Sự phong phú những chiếc rìu bôn hình tứ giác kích thước nhỏ, vòng trang sức mặt cắt ngang hình chữ nhật dẹt, cùng đồ gốm thành mỏng, hình dáng cân đối hài hòa, trang trí hoa văn thừng mịn và khắc vạch những đồ án đối xứng sinh động v.v… là đặc điểm nổi bậc của văn hóa Phùng Nguyên.
Cùng một trình độ với văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Hạ Long phân bố ở các cồn cát ven biển và hải đảo ở Quảng Ninh có phong cách riêng. Đó là sự phong phú những chiếc rìu bòn có vai, có nấc nhỏ nhắn, những chiếc bàn mài có rãnh mài cắt nhau mà có người gọi là “dấu Hạ Long”, những mảnh gốm xốp nhẹ, hoa văn giản đơn, tiêu biểu là văn đắp nổi và văn trổ lỗ.
Địa điểm Tràng Kênh (Hải Phòng) nằm giữa văn hóa Phùng Nguyên và văn hóa Hạ Long, có thể tiêu biểu cho một văn hóa khảo cổ phân bố từ Hải Phòng, một phần Hải Hưng cho đến một phần Hà Bắc mà một vài đặc điểm đã tìm thấy trong lớp dưới di chỉ Từ Sơn. Hy vọng trong tương lai sẽ phát hiện được nhiều di chỉ kiểu Tràng Kênh trong vùng rộng lớn. Ở đây đồ đá cũng như đồ gốm có phảng phất phong cách văn hóa Phùng Nguyên, song những đặc trưng riêng cũng nổi lên khá rõ. Đó là sự vắng mặt những chiếc rìu bôn tứ giác nhỏ nhắn hình gần vuông, mà phong cách các loại đục đá và dao khắc đá, là loại gốm xốp mỏng, trang trí văn khắc vạch tiêu biểu là loại miệng có mái.
Địa điểm Đông Khối có thể tiêu biểu cho văn hóa khảo cổ thuộc giai đoạn này ở vùng đồng bằng Thanh Hóa, mà chắc hẳn nhiều di chỉ ven sông Mã, sông Chu sẽ được phát hiện trong tương lai. Ở đây vắng mặt loại rìu có vai, mà tiêu biểu là loại rìu tứ giác kích thước tương đối lớn (địa điểm Đông Khối là một công xưởng làm rìu đá, hiện vật phát hiện được chỉ có rìu đá, phác vật rìu và mảnh tước, không thể cung cấp một cách đầy đủ và đặc trưng của một văn hóa khảo cổ).
Quá vào nam, văn hóa Thạch Lạc phân bố trên các cồn sò điệp ven biển Hà Tĩnh. Địa điểm Bàu Tró (Quảng Bình) cũng gần gũi với văn hóa này. Đặc điểm nổi bậc ở đây là phong phú những chiếc rìu đá tứ giác, rìu có vai mặt cắt ngang gần hình bầu dục, là loại gốm thô mỏng trang trí văn khuông nhạc giản đơn.
Trong một số hang động đá vôi rải rác từ Cao Bằng, Lạng Sơn cho đến Quảng Bình phát hiện được những di tích khảo cổ mà tiêu biểu là những chiếc rìu có vai, rìu dài, mài nhẵn: mặt cắt ngang hình chữ nhật cùng với loại gốm thô trang trí văn thừng, văn khắc vạch giản đơn.
Ngoài những văn hóa khảo cổ hay những nhóm di tích khảo cổ phân bố thành từng vùng có đặc trưng riêng ở trên, còn phát hiện được một số di chỉ lẻ tẻ có phong cách riêng ở bên cạnh, phản ảnh mối quan hệ giữa các tập đoàn người đương thời. Di chỉ Tế Lễ, gò Con Lợn (Vĩnh Phú) phong phú loại rìu có vai nhỏ nhắn nằm gọn trong khu vực phân bố văn hóa Phùng Nguyên. Địa điểm Quất động nam, Vạn Ninh, Cộng Hòa (Quảng Ninh) với những chiếc rìu tứ giác dài mặt cắt ngang hình gần bầu dục ở sát ngay khu vực phân bố văn hóa Hạ Long.
Sơ đồ phân bố các nền văn hóa khảo cổ vào
nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên Sự khác biệt trong phong cách đồ đá, đồ gốm giữa các vùng chắc hẳn không phải do hoàn cảnh tự nhiên khác nhau giữa các vùng tạo thành. Lúc bấy giờ môi trường sinh sống của con người giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Thanh Hóa cũng như giữa vùng ven biển Quảng Ninh, Hải Phòng và ven biển Hà Tĩnh không khác nhau bao nhiêu, song bộ mặt văn hóa mỗi vùng có phong cách riêng. Phải chăng những khác biệt trong văn hóa là phản ánh những cộng đồng người khác nhau lúc bấy giờ. Đây là mối quan hệ giữa văn hóa khảo cổ và cộng đồng tộc người. Về vấn đề này đã được nhiều nhà khảo cổ học các nước bàn đến khá nhiều (1). Thông thường văn hóa khảo cổ ở thời đại đá mới và đầu thời đại đồng thau là di tồn vật chất của bộ lạc hay nhóm bộ lạc thân thuộc trong thời kỳ nhất định. Do đó các văn hóa khảo cổ hay các nhóm di tích khảo cổ trên không những nói lên mật độ cư dân đông đúc phân bố khắp mội miền đất nước, mà còn phản ánh sự phân bố cùng mối quan hệ giữa các nhóm người đương thời, có thể là các bộ lạc hoặc nhóm bộ lạc thân thuộc.(1) Xem: văn hóa khảo cổ - Đại bách khoa toàn thư Liên xô, xuất bản lần thứ II, quyển 24, tr.31.
- Hạ Nãi: đối với vấn đề định tên văn bản khảo cổ - khảo cổ số 4 – 1959 (chữ Trung Quốc).
- Bờ-ru-xốp: văn hóa khảo cổ và cộng đồng tộc người.
- Tạp chí khảo cổ học xô viết, số 18 – 1956 (chữ Nga).
Văn hóa khảo cổ chỉ rõ lúc bấy giờ ít nhất cũng đã có những bộ lạc sinh sống ở trung du và phần trên đồng bằng Bắc Bộ (người Phùng Nguyên, ở vùng đồng bằng ven biển và tả ngạn sông Hồng (người Tràng Kênh), ở vùng biển và hải đảo Quảng Ninh (người Hạ Long, người Quất đông nam), ở vùng đồng bằng Thanh Hóa (người Đông Khối), ở ven biển Hà Tĩnh (người Thạch Lạc) và những nhóm người sống rải rác trên vùng núi đá vôi (chủ nhân rìu có vai).
Mỗi văn hóa có phong cách riêng, song giữa chúng cũng có nhiều nét gần gũi nhau, nhất là giữa các văn hóa Phùng Nguyên, Tràng Kênh và Đông Khối ở trung su đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Thanh Hóa. Về đồ đá, những con người ở đây chỉ biết đến loại rìu tứ giác nhỏ nhắn xinh xắn, hầu như vắng mặt loại rìu có vai, họ ưa dùng các loại vòng trang sức, mà phong phú nhất là loại vòng mặt cắt ngang hình chữ nhật dẹt. Về đồ gốm, họ đều truyền thống làm gốm thô, xoa thêm lớp áo mịn, thành mỏng, trang trí các loại hoa văn thừng mịn, trải mịn và văn khắc vạch. Tiêu biểu cho sự thân thuộc gần gũi là những chiếc “vật hình cốc” (chữ chưa rõ công dụng phổ biến rộng rãi ở các văn hóa). Những nét chung này phản ánh mối quan hệ thân thuộc giữa những nhóm người cư trú ở vùng trung du và đồng bằng miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ. Đây là khu vực tụ cư đông đúc nhất của người Việt hiện đại. Phải chăng, những tập đoàn người này là những bộ lạc thân thuộc hình thành nên người Việt cổ.
Văn hóa Hạ Long với những chiếc rìu bôn nhỏ nhắn độc đáo có nhiều nét tương đồng với miền duyên hải và hải đảo miền Nam Trung Quốc từ xa xưa đã gắn bó mật thiết với vùng ven biển và hải đảo đông bắc Việt Nam.
Ở văn hóa Thạch Lạc và văn hóa rìu có vai phân bố trong vùng núi đá vôi miền Bắc Việt Nam (cả ở ngoài biên giới phía bắc Việt Nam) với những phong cách riêng của mình, cũng tồn tại nhiều văn thừng và văn khắc vạch trên đồ gốm có nét gần gũi với các văn hóa trên, chứng tỏ ngay từ buổi đầu dựng nước, có nhiều tộc người sống quanh người Việt cổ và có mối quan hệ nhất định với người Việt Cổ.
Bên cạnh mối quan hệ thân thuộc xa gần, giữa những nhóm người cùng sinh sống cạnh nhau trên, còn có sự giao lưu trao đổi nhất định. Bằng chứng là có những nét gần gũi về phong cách đồ đá và đồ gốm giữa các văn hóa khảo cổ hoặc một ít hoa văn đồ gốm, đồ đá điển hình của văn hóa này tìm thấy trong văn hóa kia. Như ở di chỉ Tràng Kênh phát hiện được 1,25% mảnh gốm mà hoa văn và chất liệu hoàn toàn giống đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên và gần 5% đồ gốm có phong cách hoa văn gần gũi văn hóa Phùng Nguyên. Hoặc ở văn hóa Phùng Nguyên cũng phát hiện được vài chiếc rìu bôn có vai có nấc là vật điển hình của văn hóa Hạ Long. Những nhóm trên sẽ góp phần sinh thành lãnh thổ Văn Lang thời các Vua Hùng, song ở giai đoạn này, giữa các nhóm người tuy có mối quan hệ thân thuộc giao lưu nhất định vẫn còn độc lập lẫn nhau hình thành những văn hóa riêng biệt, phải chăng đó là những bộ lạc, những nhóm bộ lạc thân thuộc tụ cư trong những khu vực riêng. Giữ các nhóm chưa hòa hợp thành một tập thể thống nhất thể hiện trong một văn hóa chung.
Những tập đoàn người trên không những để lại dấu vết trong các văn hóa khảo cổ, mà hình bóng của họ còn lắng đọng lại trong ngôn ngữ học. Sự gần gũi giữa tiếng Việt và tiếng Mường là phản ảnh mối quan hệ thân tộc giữa người Việt và người Mường trước đây. Tiếng Việt tuy đã trải qua hàng nghìn năm biến đổi, đã được nhiều lớp ngôn ngữ thuộc các thời đại sau này bao phủ, vẫn có thể cho ta nhiều gợi ý đáng quý. Tiếng Việt ngày nay, bênh cạnh sự thống nhất về ngữ âm, ngữ điệu, ngữ pháp, chúng vẫn tìm thấy những khác biệt về thổ âm thổ ngữ cũng như phương ngôn giữa các vùng. Tương đối phổ biến và dễ nhận thấy, đó là sự khác nhau về thổ âm giữa các làng gần kề nhau. Ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ cũng như ở khu 4 cũ phổ biến hiện tượng 2 làng kề nhau, không bị một biên giới tự nhiên nào ngăn cách, song lại có sự khác biệt về thổ âm và thổ ngữ. Đây có thể là kết quả của sự định cư tương đối ổn định của những thị tộc trước đây cùng mối quan hệ tương đối đóng kín của những công xã nông thôn tạo thành. Song bao trùm lên những khác biệt về thổ âm thổ ngữ đó, tiếng Việt cũng có sự thống nhất trong từng vùng nhất định. Phải chăng đó là các khu vực phương ngôn của tiếng Việt. Tiếng nói vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ với âm điệu nhẹ nhàng, phát âm đúng các dấu (huyền, nặng, hỏi, ngã) song lại lẫn lộn giữa các âm tr và ch, s và x, r và d dễ dàng phân biệt được với vùng khu 4 cũng với âm điệu nằng nặng, phát âm sai các dấu song lại đọc đúng các âm tr, ch, s, x, r, d v.v… Riêng ở Bắc Bộ, tiếng nói vùng đồng bằng ven biển và đặc điểm nói ngọng vần 1 và n cũng có khác biệt với vùng đồng bằng và trung du với đặc điểm thường lên cao giọng ở cuối câu. Và giọng nói vùng Nghệ An, Hà Tĩnh cũng cứng nặng hơn vùng Thanh Hóa. Sự khác biệt về phương ngôn này chắc hẳn không phải do hoàn cảnh thiên nhiên giữa các vùng tạo thành. Có điều đáng chú ý, là những khu vực phương ngôn này, trong chừng mực nhất định, gần trùng hợp với phạm vi phân bố những văn hóa khảo cổ cuối thời đại đá mới đầu thời đại đồng thau đã kể ở trên. Phải chăng những bộ lạc hay những nhóm bộ lạc thân thuộc của người Việt Cổ còn để lại dấu vết mờ nhạt trong ngôn ngữ Việt.
Dầu vết các bộ lạc xưa cũng được ghi lại vài câu ngắn ngũi trong thư tịch cổ. Theo truyền thuyết và sử cũ, Hùng Vương chia nước làm 15 bộ (hoặc 15 bộ lạc như trong sách Việt sử lược), nhà Hán chiếm nước ta chia thành quận Giao Chỉ và Cửu Chân gồm 17 huyện. Có thể từ những quận huyện thời Hán được ghi chép trong thư tịch xưa lần tìm những bộ lạc hoặc những liên minh bộ lạc trước đó, vì nhà Hán đặc quận huyện trên cơ sở những đơn vị hành chính có sẵn.
Trước đây Nguyễn Thiên Túng chú Dư địa chí của Nguyễn Trãi và gần đây Đào Duy Anh và một số người cũng đã cố gắng chỉ định vị trí 15 bộ thời Hùng Vương (1), song vì chỉ bằng vào một số ghi chép ít ỏi trong thư tịch xưa nên việc chỉ định khó phân biệt đúng sai. Đất nước của các vua Hùng có thể gồm 15 bộ, song cũng có thể nhiều hơn hoặc ít hơn. Cho đến nay chúng ta chưa tìm được 15 văn hóa khảo cổ hoặc nhóm di tích khảo cổ tương ứng với 15 bộ ghi chép trong thư tịch xưa, song việc liên hệ những văn hóa khảo cổ với các bộ thời Hùng Vương là điều có thể được. Và rất có thể nhiều bộ ở gần kề nhau cùng chung một nền văn hóa khảo cổ.
(1) – Quốc sử quán triều Nguyễn: Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch của Viện Sử học, Hà Nội 1957, tập I, tr.54.
- Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Hà Nội, 1964.
Phải chăng chủ nhân văn hóa Phùng Nguyên là người bộ Văn Lang, bộ lạc gốc của các vua Hùng; người Tràng Kênh thuộc bộ Dương tuyền, chủ nhân văn hóa Hạ Long và vùng ven biển Hoa Nam, đảo Hải Nam là thuộc bộ Lục Hải, Ninh Hải; người Đông Khối thuộc các bộ ở Cửu Chân; người Thạch Lạc thuộc bộ Cửu Đức, chủ nhân văn hóa rìu có vai chắc hẳn thuộc nhiều bộ lạc thân tộc sống rải rác trong vùng núi đá vôi. Và tất cả những nhóm người đó có thể là những bộ lạc, nhóm bộ lạc có quan hệ xa gần với nhau góp phần hình thành lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng sau này. Đất nước thời Hùng Vương lúc này chỉ là địa bàn của các bộ lạc, hoặc nhóm bộ lạc thân thuộc phân bố gần khắp miền Bắc Việt Nam ngày nay.
Mối quan hệ giữa các bộ lạc, giữa các nhóm bộ lạc thân thuộc ngày càng khăng khít, sự giao lưu văn hóa càng được đẩy mạnh nhất là ở vùng trung du, đồng bằng và ven biển Bắc Bộ, làm cho bộ mặt văn hóa khảo cổ ở giai đoạn này có phong cách khác trước. Sự thống nhất văn hóa được thực hiện trong từng khu vực rộng lớn hơn.
Kết quả của quá trình giao lưu hòa hợp dẫn đến tình hình là vào khoảng những thế kỷ cuối thiên niên kỷ thứ 2 và đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, trên miền Bắc Việt Nam hình thành các văn hóa khảo cổ mà phong cách có tính chất tổng hợp hơn, phạm vi phân bố và phạm vi ảnh hưởng rộng lớn hơn. Không kể vùng núi, ít nhất cũng đã hình thành 2 khu vực khá rõ, lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Mã.
Bắc Bộ, từ giai đoạn trước đã là nơi tụ cư của nhiều nhóm người, cũng là nơi dễ dàng tiếp xúc với các văn hóa vùng đông nam và tây nam Trung Quốc. Kết quả của quá trình giao lưu giữa các miền trong vùng và với các vùng chung quanh cũng như sự thay đổi trong đời sống kinh tế và xã hội làm cho phong cách văn hóa ở Bắc Bộ có nhiều thay đổi lớn. Từ phong cách cân đối, nhịp nhàng, hài hòa, đối xứng trên các đồ án hoa văn gốm Phùng Nguyên, qua hoa văn làn sóng các kiểu trên gốm văn hóa Đồng Đậu, đến hoa văn hình học trên gốm văn hóa Gò Mun. Song chính sự giao lưu mạnh mẽ này đã dẫn đến sự thống nhất văn hóa sớm ở vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ.
Do hoàn cảnh tự nhiên và hình thái sinh hoạt kinh tế giữa các vùng khác nhau nên trình độ phát triển giữa các nhóm người không đồng đều. Chủ nhân văn hóa Phùng Nguyên, trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp ruộng nước, với trình độ kỹ thuật cao hơn đã thu hút tinh hoa văn hóa ở các vùng chung quanh mà hình thành văn hóa khảo cổ có phong cách riêng: văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun. Hai văn hóa này chủ yếu vẫn phân bố ở vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, song rộng lớn hơn văn hóa Phùng Nguyên ít nhiều. Về phía Bắc, nó đã vượt quá sông Cầu, về phía nam nó cũng đã có mặt ở phía Tây Nam tỉnh Hà Tây. Phạm vi ảnh hưởng của văn hóa Gò Mun cũng đi xa hơn. Bằng chứng là sự có mặt của rìu đồng tứ giác ở lớp trên di chỉ Ngọc Vừng (tỉnh Quảng Ninh), những mảnh miệng gốm kiểu Gò Mun ở lớp dưới di chỉ Đông Sơn (Thanh Hóa).
Cũng phải nhận rằng, tuy sự thống nhất văn hóa đã được thực hiện trong vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, song những nét đặc trưng văn hóa có tính chất truyền thống giữa các miền vẫn tiếp tục tồn tại, nhất là đối với những vùng xa trung tâm.
Trong giai đoạn này, ở miền bắc Trung Bộ, dấu vết sinh hoạt của con người được giữ lại trong tầng văn hóa và lớp mộ sớm ở Đông Sơn và Thiệu Dương (Thanh Hóa). Ở Đông Sơn, tuy có tìm được khoảng 10 mảnh gốm, 1 mũi giáo, 2 lưỡi dao xéo đồng giống ở văn hóa Gò Mun, song toàn bộ chất liệu, hình dáng hoa văn đồ gốm ở đây không giống với đồ gốm trong văn hóa Gò Mun ở Bắc Bộ (1).
(1) Gốm ở đây là loại thô, thành mỏng, độ nung thấp, gốm mềm, màu gạch non, hoa văn trang trí giản đơn, chủ yếu là văn thừng và văn đắp nổi, dễ dàng phân biệt với loại gốm thành dày, độ nung cao, màu xám, gốm cứng, miệng gãy trang trí hoa văn hình học phía trong thành miệng điển hình của văn hóa Gò Mun.
Việc tìm thấy những mảnh gốm kiểu văn hóa Gò Mun ở đây không những nói lên niên đại tương đương mà còn nói lên phong cách khác nhau cùng mối giao lưu giữa 2 vùng.
Sống trên vùng đồng bằng sông Mã phì nhiêu, nhóm người ở Đông Khối có trình độ kỹ thuật cao cùng với nền kinh tế nông nghiệp làm ruộng nước, đã đẩy mạnh quá trình đồng hóa, hòa hợp với các vùng chung quanh mà hình thành một văn hóa chung mà tiêu biểu là lớp dưới Đông Sơn và Thiệu Dương. Quá trình thống nhất văn hóa được thực hiện dần từng bước. Lúc này ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh phát triển chậm chạp hơn và vẫn có sắc thái riêng.
Quá trình giao lưu hòa hợp văn hóa, dẫn đến hình thành văn hóa ở 2 khu vực Bắc Bộ và bắc Trung Bộ phải chăng phản ánh quá trình hình thành các liên minh bộ lạc hoặc bộ tộc lúc bấy giờ. Chủ nhân văn hóa Gò Mun là hạt nhân của liên minh bộ lạc hay bộ tộc ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Chủ nhân của văn hóa lớp dưới Đông Sơn là trung tâm của liên minh bộ lạc hay bộ tộc miền bắc Trung Bộ. Trong mỗi khu vực, bộ mặt văn hóa giữa các miền gần gũi những nét riêng trong phong cách chung, phải chăng phản ánh tính chất bảo lưu lâu dài của văn hóa vật chất, mặt khác nói lên tính chất độc lập tương đối của các bộ lạc, các nhóm bộ lạc thân thuộc trong liên minh bộ lạc hay bộ lạc lúc bấy giờ.
Tài liệu dân tộc học cho biết, các dân tộc phía nam nước ta như Chăm-pa. Khơ-me, Ê-đê… gọi người Việt là người Doan, Yoan, Im, De; các dân tộc phía bắc như Tày, Thái, Dao, người ở Quảng Tây gọi người Việt là Keo (1). Nguồn gốc chữ Keo và Doan, Dẹ,… hiện nay chưa rõ. Phải chăng, nếu đây không phải là địa danh cổ, có thể là tên bộ lạc, liên minh bộ lạc, hay bộ tộc lớn mạnh ở phía bắc và nam nước ta trước kia. Và người Keo, người Doan phải chăng là 2 liên minh bộ lạc hay bộ tộc chủ yếu hình thành nên lãnh thổ Văn Lang của các vua Hùng.
(1) Nguyễn Đổng Chi: Vài nét về thể chế gia đình, công xã và cộng đồng người thời Hùng Vương – Bài phát biểu trong cuộc tọa đàm khoa học về các vấn đề mấu chốt về thời kỳ Hùng Vương, Hà Nội, tháng 7-1970 – Tài liệu đánh máy, lưu tại Phòng tư liệu Viện Khảo cổ học.
Sử cũ như Giao Châu ngoại vực ký, Hậu Hán thư cũng có nhiều đoạn ghi chép về sự khác nhau về phong tục tập quán cùng trình độ giữa 2 vùng Giao Chỉ và Cửu Chân, song lại có quan hệ gần gũi, trao đổi với nhau ở thời nhà Hán thống trị cũng phần nào phản ánh sự khác nhau và gần nhau giừa vùng trước lúc bị nhà Hán thống trị.
Từ các nguồn tư liệu nói trên, chúng ta có thể hình dùng là vào khoảng vài thế kỷ cuối thiên niên kỷ thứ 2 và đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Mã đã là hạt nhân hình thành 2 liên minh bộ lạc hay bộ tộc lớn phân bố ở trung du và đồng bắng Bắc Bộ ở phía bắc và vùng đồng bằng sông Mã, sông Lam ở phía nam. Đó là 2 nhân tố chủ yếu hợp thành đất nước thời Hùng Vương. Ngoài ra cũng cần kể đến những nhóm người sinh sống ở vùng núi quanh 2 trung tâm trên cũng đã tham gia vào trong khối hợp thành ấy.
Đồng thời với mối giao lưu đồng hóa trong nội bộ các liên minh, sự trao đổi với các liên minh cũng không ngừng mở rộng. Từ 2 lưu vực sông Hồng và sông Mã quá trình hòa hợp đồng hóa diễn ra ngày càng mạnh. Kết quả là vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, quá trình hòa hợp văn hóa giữa 2 khu vực được thực hiện, hình thành văn hóa Đông Sơn.
Văn hóa Đông Sơn hình thành không chỉ là sự mở rộng phát triển của văn hóa Gò Mun hay của văn hóa lớp dưới Đông Sơn, Thiệu Dương, mà là kết quả của sự hòa hợp nhiều yếu tố văn hóa trước đó mà hạt nhân là văn hóa Gò Mun ở phía bắc và văn hóa lớp dưới Đông Sơn, Thiệu Dương ở phía nam. Do đó văn hóa Đông Sơn không chỉ đóng khung ở Thanh Hóa và một phần trung du và đồng bằng Bắc Bộ mà còn mở rộng ra cho đến vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và ảnh hưởng của nó còn sâu rộng ở vùng Tây Bắc và Việt Bắc và xa hơn nữa ngoài biên giới nước ta ngày nay (1). Song có di chỉ và khu mộ thuộc văn hóa Đông Sơn chủ yếu vẫn tập trung ở vùng trung du và đồng bằng thuộc lưu vực các sông Hồng, sông Mã là khu vực tụ cư chủ yếu của người Việt ngày nay, phải chăng cũng là khu vực sinh sống chủ yếu của người Việt cổ, và là vùng đất chủ yếu, là trung tâm của nước Văn Lang của các vua Hùng. Những di vật điển hình của văn hóa Đông Sơn tìm thấy ở khu Tây Bắc, Việt Bắc không những phản ánh sức sống của văn hóa Đông Sơn mà cùng với những phong tục, những chỉ số nhân chủng gần giống nhau giữa cư dân vùng núi ở đây với người Việt thể hiện mối quan hệ gần gũi giữa những nhóm người vùng núi với người Việt cổ lúc bấy giờ.
(1) Vùng đất Phong Châu và Thanh Hóa vẫn là nơi phát hiện được nhiều di chỉ và khu mộ văn hóa Đông Sơn cùng những chiếc trống đồng loại 1 Hê-gơ nổi tiếng như Vạn Thắng, Việt Trì (Vĩnh Phú), Hoàng Hạ, Miếu Môn, Vinh Quang, Nam Chính, Đường Cồ, Chiềng Vậy, Đại Án (Hà Tây), Đường Mây, Đình Chàng, Trung Mầu, Chùa Thông (Hà Nội), Quả Cam (Hà Bắc), Đông Sơn, Thiệu Dương, Núi Nấp, Núi Soi, Hoằng Lý, Hoằng Quỳ, Phà Công (Thanh Hóa).
Vượt ra ngoài vùng Phong Châu và Thanh Hóa, văn hóa Đông Sơn phân bố rộng khắp các miền. Ngược dòng sông Hồng văn hóa Đông Sơn phân bố dày đặc ven sông từ Yên Bái đến Lào Cai như Yên Hợp, Yên Hưng, Đào Thịnh, Đại Thắng, Kim Sơn (Yên Bái), Phố Lu, Bản Lầu, thị xã Lào Cai (Lào Cai). Theo dòng sông Hồng, sông Thái Bình, sông Kinh Thầy, sông Đáy về xuôi, văn hóa Đông Sơn cũng phát hiện được ở Cửu Cao, Liên Nghĩa, La Đôi (Hải Hưng), Việt Khê, Núi Đèo, Núi Voi, Tràng Kênh (Hải Phòng), Ngọc Lũ, Đại Vũ (Nam Hà), Quỳnh Xá, Diêm Điền (Thái Bình). Tuy chưa phát hiện được di chỉ, song vùng núi đá vôi Hòa Bình cũng phát hiện được nhiều di vật văn hóa Đông Sơn như rìu xéo, mũi qua, mũi giáo, lao và cả những chiếc trống đồng loại 1 nổi tiếng như trống Mu-liê, trống Đồi Ro. Từ Thanh Hóa vào Nam văn hóa Đông Sơn cũng phát hiện được ở nhiều nơi như Nghệ An tìm được trống đồng, trìu xéo, mũi giáo ở Nghĩa Đàn, Con Cuông, Yên Thành; Hà Tĩnh có rìu xéo, dao găm ở Xuân An, Thạch Đài; Quảng Bình tìm thấy rìu đồng, kiếm ở Cương Hà.
Số hiện vật bằng đồng ở địa điểm Cương Hà hiện nay không biết ở đâu. Nghiên cứu các bản vẽ trong Tạp chí Ban Huế cổ tháng 1 – 1936 (tiếng Pháp) có 6 lưỡi rìu đồng và 1 thanh kiếm lưỡi sắt cán đồng. Trong số đồ đồng này, theo chúng tôi có 2 chiếc rìu đồng gần gũi phong cách văn hóa Đông Sơn. Những chiếc còn lại, nhất là những chiếc rìu có trang trí văn đan chúng tôi chưa gặp trong các sưu tập văn hóa Đông Sơn ở Bắc Bộ và Thanh Hóa. Đây là những hiện vật thuộc văn hóa Đông Sơn hay chỉ chịu ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn cần được nghiên cứu cẩn thận hơn.
Trong khu vực rộng lớn của người Thái, người Mèo, người Xá ở Tây Bắc, người Tày, người Nùng, người Dao ở Việt Bắc hiện nay, không những chưa phát hiện được các khu di chỉ. Khu mộ táng của văn hóa Đông Sơn, mà các di vật lẻ tẻ của văn hóa Đông Sơn phát hiện được cũng không nhiều. Cho đến nay chỉ phát hiện được trống đồng loại 1 ở Thuận Châu (Sơn La), rìu xéo ở Phù Yên (Nghĩa Lộ), khuôn đúc dao găm ở Lạng Sơn, dao găm ở Thái Nguyên, Hà Giang, rìu xéo ở Cao Bằng, Tuyên Quang. Vượt qua về phía bắc hay phía nam, chỉ thỉnh thoảng mới gặp vài chiếc trống đồng loại 1 văn hóa Đông Sơn, có thể do trao đổi mà có như trống Đác-Giao (Tây Nguyên), trống Bình Phú (Thủ Dầu Một), trống Khai Hóa, trống Thạch Trại (Vân Nam), trống U-Bông (Lào) và trống Mã-Lai, v.v…
Sơ đồ phân bố nền văn hóa Đông Sơn và các di vật văn hóa Đông Sơn. Phạm vi phân bố của văn hóa Đông Sơn từ lưu vực sông Hồng cho đến miền Hà Tĩnh, Quảng Bình ngày nay khắp các vùng đều phát hiện được những khu di chỉ, mộ táng chức hiện vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn.Ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn vượt ra ngoài vùng trung du và đồng bằng và còn vượt quá biên giới miền Bắc Việt Nam ngày nay nói lên trình độ cao của văn hóa Đông Sơn cùng ảnh hưởng vai trò của người Việt Cổ đang trong quá trình hình thành lãnh thổ Văn Lang.
Sự thống nhất văn hóa ở giai đoạn Đông Sơn cũng như phạm vi phân bố của văn hóa Đông Sơn có ý nghĩa lớn trong việc tìm hiểu người Việt cổ cùng đất nước Hùng Vương thời cực thịnh.
Quá trình hình thành văn hóa Đông Sơn phản ánh quá trình hình thành người Việt Cổ. Phải chăng từ 2 vùng đất màu mỡ, mối quan hệ giữa các liên minh bộ lạc ngày càng chặt chẽ, dẫn đến hình thành một khu vực thống nhất của người Việt cổ làm cơ sở cho sự hình thành lãnh thổ Văn Lang vào cuối thời Hùng Vương. Dựa trên sức mạnh của khối thống nhất bền vững này, Hùng Vương đã tập họp lại quanh mình những tộc người sinh sống ở các vùng núi mà xây dựng nên nước Văn Lang.
Đến lúc này, một cương giới hẳn hoi của đất nước mới hình thành. Văn hóa Đông Sơn là dấu tích của người Việt Cổ trong buổi bình minh của đất nước. Vùng trung du và đồng Bắc Bộ và đồng bằng sông Mã, sông Lam – địa bàn sinh tụ của người Việt cổ, là trung tâm của nước Văn Lang. Từ đây, các vua Hùng khống chế cả vùng núi rộng lớn phía bắc và tây bắc, và nước Văn Lang lúc cực thịnh có thể kéo dài từ Hoành Sơn cho đến biên giới Việt – Trung ngày nay (hoặc co giãn chút ít).
Cho đến giai đoạn Đông Sơn, sự thống nhất văn hóa trong khu vực cư trú của người Việt cổ đã được hiện, song những khác biệt trong phong cách văn hóa giữa các vùng vẫn tồn tại. Những khác biệt này dẫn đến hình thành các loại hình của văn hóa Đông Sơn: Chí ít cũng đã hình thành 2 loại hình: loại hình vinh quang tiêu biểu cho văn hóa Đông Sơn ở Bắc Bộ, loại hình Thiệu Dương tiêu biểu cho văn hóa Đông Sơn ở bắc Trung Bộ.
Sự hình thành những loại hình văn hóa Đông Sơn không làm lưu mờ sự thống nhất của văn hóa Đông Sơn, mà trái lại làm nổi rõ những tính chất địa phương của văn hóa Đông Sơn, phản ánh quá trình hình thành văn hóa Đông Sơn cùng mối giao lưu giữa các miền lúc bấy giờ (1).
(1) Hoàng Xuân Chinh và Chữ Văn Tần: Nội dung loại hình và niên đại văn hóa Đông Sơn – khảo cổ học, Hà Nội, số 3 – 4, tháng 12 – 1969.
Hai loại hình của văn hóa Đông Sơn phải chăng là dấu vết của 2 liên minh bộ lạc chủ thể hợp thành đất nước Văn Lang vẫn còn giữ những dáng dấp, những phong tục tập quán riêng khi quốc gia đã hình thành.
Không những thế, giữa các miền trong vùng Bắc Bộ,các di vật văn hóa Đông Sơn cũng có những sắc thái riêng. Những lưỡi giáo, lưỡi rìu, dao găm ở ven biển (Việt Kê, Núi Đèo, Núi Voi, Quỳnh Xá), ở trung châu Bắc Bộ (Vinh Quang, Nam Chính, Việt Trì,…) và thượng du sông Hồng (Yên Hợp, Yên Hưng, đào Thịnh, Phố Lưu,…) không hoàn thành giống nhau trong nhiều chi tiết hình dáng. Những khác biệt trong chi tiết này phải chăng là dấu vết những tập đoàn người khác nhau hợp thành quốc gia còn được giữ lại mờ nhạt trong khối cộng đồng quốc gia thống nhất.
Thế là, từ rất sớm, với sự hình thành văn hóa Đông Sơn, khối thống nhất dân tộc lấy người Việt cổ làm trung tâm được hình thành, tạo điều kiện thành lập nhà nước đầu tiên của dân tộc ta, đặt cơ sở cho sự tồn tại lâu dài của dân tộc ta, đủ sức chống chọi với sự xâm lược của phương Bắc.
*
* * Lịch sử hình thành lãnh thổ của các dân tộc vô cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ. Theo những quy luật chung của xã hội, con đường bước vào lịch sử văn minh của mỗi dân tộc cũng có những nét riêng của nó. Quá trình hình thành lãnh thổ của dân tộc ta cũng có cái chung và cái riêng của nó.Các nguồn tư liệu đều cho thấy phải từ rất sớm dân tộc ta đã bước vào ngưỡng cửa văn minh. Vào khoảng đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên, không phải chỉ ở vùng núi, mà hầu khắp lãnh thổ miền Bắc Việt Nam ngày nay đã có nhiều nhóm người có quan hệ gần xa với nhau sinh sống. Những nhóm người này đã sáng tạo nên những nền văn hóa rực rỡ ở khắp các miền, từ vùng núi đá vôi với văn hóa rìu có vai đến vùng trung du và đồng bằng với văn hóa Phùng Nguyên, Đông Khối, Tràng Kênh, cho đến vùng ven biển và hải đảo với văn hóa Hạ Long, Thạch Lạc, v.v… Giữa những nhóm người này, mối quan hệ giao lưu trao đổi, hòa hợp, đồng hóa không ngừng được tăng cường, hình thành những tập đoàn người đông đúc hơn, rộng lớn hơn với sự thống nhất văn hóa trong từng khu cực lớn hơn: Lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Mã.
Từ 2 lưu vực này, xu thế thống nhất ngày càng được đẩy mạnh. Cho đến nửa đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, với sự thống nhất và mở rộng của văn hóa Đông Sơn, khối thống nhất người Việt cổ được thực hiện, đặt cơ sở cho sự hình thành nước Văn Lang của các vua Hùng. Vào lúc thịnh, lãnh thổ của các vua Hùng có thể từ trung tâm sông Hồng, sông Mã đã vươn tới Hoành Sơn ở phía nam và biên giới Việt-Trung ở phía bắc (có thể co giãn chút ít).
Đó là những chặng đường lớn trong quá trình hình thành lãnh thổ thời Hùng Vương. Chắc hẳn, con đường đi trong buổi bình minh lịch sử của dân tộc ta còn phong phú phức tạp hơn nhiều.
Trong quá trình, từ những nhóm người có quan hệ gần xa với nhau sống trong từng khu vực riêng tiếng lên hình thành một quốc gia thống nhất ở thời các vua Hùng, mối quan hệ trao đổi, đồng hóa, hòa hợp bao trùm lên tất cả; song trong một giai đoạn nào đó, ở một vùng nào đó, những cuộc chiến tranh bộ lạc có thể không tránh khỏi. Đồng hóa hòa hợp hay chiến tranh bộ lạc cũng là biểu hiện của xu thế tập trung thống nhất quanh trung tâm người Việt cổ sinh sống ở vùng trung du đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Thanh Hóa.
Từ trung tâm này, người Việt cổ đã cùng các tộc anh em chung xây dựng nên nước Văn Lang của các vua Hùng.
Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học
Nguồn: Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974