-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Anmay nếu tự thấy mình đủ khả năng thì hãy mở hẳn một topic để diễn giải cái hiểu của mình trên tinh thân học thuật và phạm vi nội qui của diễn đàn. Đặt cục gạch thì cũng được thôi. Tôi chỉ e rằng hãy xem lại cái cộng nghiệp ấy như thế nào đi đã. Vậy hãy chờ tôi viết xong chủ đề về tính thấy đã chứ nhỉ.Nếu ănmay thích thì lấy nguyên câu: Biết Phật tánh vẫn là bệnh, phải thấy Phật tánh mới hết bệnh" ra làm một chủ đề mới đi. Tôi xin mời anmay và cả Thích Nhất Hạnh vào để tham luận.
-
Chủ đề của bài viết là : Từ Việt và văn mình Việt. Nếu Amate cảm thấy sai thì phân tích thẳng vào chủ đề. Còn chuyện nọ sang chuyện kia thì xin mở một chủ đề khác.
-
Anmay viết: Híc! Tôi đang nói về Phật tánh đấy! Ngài Annan và đại chúng thời Đức Phật tại tiền mà còn chưa hiểu, nay Anmay tự cho rằng hiểu thì giỏi quá thật. Ca ngợi Đức Phật thì ra chùa thấy tha nhân không những ca ngợi mà còn sì sụp tôn kính. Người hiểu được Phật pháp thật hiếm lắm thay! Nếu thế nhân hiểu cả thì đâu đến nỗi khốn khổ như vậy. Còn nói giống như trong kinh thì ai mà chẳng nói được, nếu bộ nhớ tốt. Cái mà Anmay hiểu là cái mà Đức Phật đã nói và tôi đã trình bày rồi. Hãy suy ngẫm lại đi. Nhưng thôi! Đợi tôi viết xong cái đã chứ nhỉ?
-
ĐỨC PHẬT KHAI NGỘ VỀ TÍNH THẤY Tiếp theo Fritjof Capra – nhà vật lý lý thuyết được giải Nobel – viết trong tác phẩm “Đạo của vật lý” nổi tiếng của ông: Vật chất có lớn nhỏ, đứt nối, có liên tục và phi liên tục, có đối đãi phân biệt. Đó là những hiện tượng nằm trong phạm trù Âm Dương. Nhưng Đức Phật xác định rằng: Tính thấy không có lớn nhỏ, không có đứt nối. Đoạn kinh văn sau đây xác định điều này: Trong đoạn này, ngài Anan cho rằng tính thấy trong ngài bị tuỳ thuộc vào hoàn cảnh mà thấy. Vì thực tế ngài và cả thế nhân đều thấy như thế, nên hỏi Phật. Ngài Anan đã chấp vào cái ngài nhận thấy là tính thấy. Đức Phật lấy hư không làm hình tượng để ví dụ cho tính thấy. Xin lưu ý là: Tính thấy không phải hư không với nghĩa “không có”. Trong ví dụ này Đức Phật xác định hình thế đồ vật tạo ra nhận thức đồ vật, chứ tính thấy không lệ thuộc vào hình thức đó. Như hư không vốn không vuông , không tròn - dù nó ở trong hộp vuông hay tròn. Đức Phật lấy hư không làm hình tượng thí dụ cho thấy thể tính tiền trần là nguyên nhân ngăn ngại của phương tiện nhận biết - thời xưa thì là các giác quan hoặc kinh nghiêm (Mây đen thì mưa chẳng hạn..) và khả năng tư duy vốn có thuộc tính vật chất như đã tường ỏ trên - chứ tính thấy không có ngăn ngại. Hư không trong trường hợp này chỉ là thí dụ cho tính thấy và không phải tính thấy (Đã tường ở trên: Nếu tính thấy là cái không so với cái có thì khi cái có không còn; cái không cũng không tồn tại. Điều này đã tường ở trên: Tính thấy là một thực tại, riêng có tự tính). Câu “Trên đầu một mảy lông có thể chứa đựng cả mười phương cõi nước” là một câu nói nổi tiếng của Đức Như Lại. Tính thấy vô lượng, vô biên, không không gian, không thời gian, không lượng số. Đó chính là Thái Cực; chính là Đạo -”Đón không thấy đầu; theo không thấy đuôi; ở trên không sáng ở dưới không tối” (Đạo Đức Kinh), chính là sự khởi nguyên của vũ trụ với giá trị =|0|. So với cái vô cùng (|0|) mọi cái hữu hạn – ”mười phương cõi nước” – đều nhỏ bé. Thái cực là một khái niệm giải thích sự khởi nguyên của vũ trụ theo thuyết Âm Dương Ngũ hành. Đó là giây |O| trước bicbang chính là chiếc bánh Dầy của văn minh Lạc Việt; chính là “Mẹ tròn” trong câu tục ngữ nổi tiếng “Mẹ tròn con vuông”, là “Lưỡng nghi” của người Việt Nam. Trong đoạn kinh văn này Đức Phật xác định rằng: Phương tiện nhận biết và đối tượng nhận biết có hình thể có ngăn ngại, đứt nối. Nhưng tính thấy không to nhỏ, đứt nối và không lệ thuộc vào đối tượng và phương tiện. Riêng có tự tính.
-
Triều Tiên đẩy mạnh tập trận quân sự sát biên giới Hàn Quốc Thứ tư, 27-05-2009 Ảnh minh hoạ VIT - Gần đây, Triều Tiên đã đẩy mạnh các cuộc tập trận quân sự phối hợp tại những khu vực sát Hàn Quốc, đồng thời tăng cường giám sát khu vực biên giới, một nguồn tin hôm 27/5 cho biết. <font face="Verdana"><font size="2"> Theo nguồn tin giấu tên trên, lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-il đã thị sát một cuộc tập trận đặc biệt tại thành phố ven biển phía đông hồi giữa tháng 4, trong khi lực lượng hải quân và không quân nước này lại tăng cường huấn luyện chung với kịch bản là cuộc chiến tranh ngoài khơi phía tây. Căng thẳng gia tăng trên bán đảo Triều Tiên sau khi Bình Nhưỡng tuyên bố đã tiến hành một vụ thử hạt nhân dưới lòng đất hôm 25/5, đây là lần thứ 2 Triều Tiên bất chấp lên án của cộng đồng quốc tế thử hạt nhân. Tháng 10/2006, Bình Nhưỡng thử hạt nhân lần đâu tiên, ngay sau đó, cộng đồng thế giới đã lên án kịch liệt và Liên Hợp Quốc đã ban lệnh trừng phạt cấm quốc gia này tiến hành các hoạt động liên quan đến đạn đạo. Hôm 05/4, bất chấp những cảnh báo liên tiếp từ Hàn Quốc, Mỹ, Nhật và các quốc gia khác, Triều Tiên đã tiến hành phóng rocket tầm xa, khiến Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đưa ra tuyên bố lên án rằng hành động này đã vi phạm nghị quyết của HĐBALHQ - cấm Triều Tiên tiến hành các hoạt động đạn đạo. Seoul và các nước đồng minh nghi ngờ, vụ phóng rocket là vỏ bọc cho một vụ thử công nghệ tên lửa đạn đạo. “Triều Tiên đang tăng cường huấn luyện quân sự bất chấp tình hình kinh tế khó khăn”, nguồn tin quân sự trên của Hàn Quốc cho biết, đồng thời nhấn mạnh, hôm 15/4 Chủ tịch Kim đã thăm thành phố Wonsan để kiểm tra cuộc tập trận của quân đội. Nguồn tin trên cũng cho biết, hải quân và không quân Triều Tiên cũng tăng cường “huấn luyện thực hành” tại bờ biển phía tây. “Hải quân Triều Tiên dường như tăng cường tập trận bên ngoài hòn đảo Chodo với mục tiêu giả định”. Chodo là hòn đảo lớn nhất của Triều Tiên dọc bờ biển phía tây nam của nước này. Hòn đảo trên có diện tích tương đương với đảo Baekryeongdo ở cực bắc Hàn Quốc. Đường biên giới trên biển phía tây của hai miền Triều Tiên từng là chiến trường của hai vụ xung đột vũ trang đổ máu vào năm 1999 và 2002, và được cho là điểm nóng có thể bùng phát thành xung đột nếu quan hệ đôi bên tiếp tục căng thẳng. Theo nguồn tin trên, Triều Tiên - quốc gia liên tiếp cảnh báo xung đột vũ trang trên biển Hoàng Hải năm nay – đã tăng gấp đôi số lần xuất kích tại phía tây. “Lực lượng không quân và hải quân đang huấn luyện chung theo một kế hoạch tác chiến. Dường như Triều Tiên đã sẵn sàng chiến đấu”, nguồn trên nhận định. Cũng theo nguồn tin trên, Triều Tiên cũng đã tăng cường giám sát Khu vực Phi quân sự - k
-
Cảm ơn anh Liêm Trinh. Đúng là như vậy! Lúc tôi ngất nghểu ở nhà hàng đệ nhất Giang Nam, nhậu lưỡi chim sẻ với rượu Mao đài; hoặc đang uống bia với con lobster ở Hoa Kỳ, hay ăn rau muống chấm nước mắm ở Việt Nam tôi cũng nghĩ đến 5000 năm văn hiến Việt. Không phải vì tinh thần dân tộc cực đoan - như thế nhân ác miệng gán cho tôi - mà vì chân lý.
-
Tiết 3 – CHỈ TÍNH THẤY KHÔNG CHỔ TRẢ VỀ A - Hỏi chỗ không trả về. Ông Anan thưa : - Nếu tâm tánh của con đều có chổ trả về, thì tại sao Đức Như Lai dạy tâm diệu minh sẵn có không trả về đâu? Cúi mong Phật thương xót chỉ cho điều ấy.” Ông Anan hỏi rõ hơn về bản tính chân như – tính thấy - và khả năng nhận thức trong con người. B - Chỉ tính thấy không phải bóng. Phật bảo Anan: - Vả lại, cái tánh thấy vốn sáng suốt của ông thấy tôi, thì cái tánh thấy này tuy chẳng phải là cái diệu tinh minh tâm, nó như mặt trăng thứ hai, không phải bóng mặt trăng.” Đức Phật so sánh khả năng nhận biết trong một con người và bản tính chân như – tính thấy trong con người qua hình tượng mặt trăng. C - Nêu tám thứ trần tướng. Ông hãy nghe cho kỹ, nay tôi sẽ chỉ cho ông chỗ không thể trả về. Anan, cửa đại gIảng đường này, mở rộng về phương Đông, khi mặt trời lên thì chiếu sáng; giữa đêm không trăng mây mù mờ mịt thì tối tăm; chỗ có các cữa thì thấy thông suốt ; khoảng tường ngắn thì thấy bít lấp, chỗ phân biệt được thì thấy cảnh sắc duyên, trong chỗ trống rỗng toàn là hư không, cảnh tượng mịt mù là bụi tối, mưa tạnh trời thanh lại thấy trong. Đức Phật nói về các đối tượng nhận biết tiêu biểu và các tính chất của đối tượng nhận biết mà khả năng con người nhận biết được. D - Chỉ tám thứ trả về. Anan , ông hãy xem các tướng biến hóa này, nay tôi đều trả về bản nhơn của nó. Thế nào là bản nhơn? Anan, các tướng biến hóa này, sáng trả về cho mặt trời. Nguyên nhơn cái sáng thuộc về mặt trời. Vì sao? Vì nếu không mặt trời thì không sáng. Nguyên nhơn cái sáng thuộc về mặt trời. Cái tối trả về cho đêm không trăng; thông suốt trả về cho cửa ; ngăn bít trả về cho tường vách ; sắc duyên trả về cho phân biệt; rỗng trống trả về cho hư không; mù mịt trả về cho bụi; trong sáng trả về cho trời tạnh. Tất cả vật có ra trong thế gian đều không ngoài các thứ này. Đức Phật cho thấy vật nào có tính chất của vật đó. Những thuộc tính này con người có khả năng nhận biết và cho thấy nếu những thuộc tính này không tồn tại thì khả năng nhận biết trong con người vẫn tồn tại. Thí dụ, không nhìn thấy bụi, nhưng vẫn biết bụi là mờ mịt, sống ở ban ngày nhưng vẫn biết ban đêm là tối. Khả năng nhận biết này - khả năng tư duy trừu tượng - được coi là mặt trăng thứ hai và không phải bản tính chân như - không phải tính thấy. E - Chính chỉ cái không thể trả về. Còn tánh thấy sáng suốt của ông thấy tám thứ kia, ông muốn trả nó về đâu? Vì sao? Vì nếu trả về cho sáng, thì khi tối đến cũng không thấy tối. Tuy sáng tối mỗi mỗi đều sai khác, nhưng cái thấy không sai khác, các thứ có thể trả về được, tự nhiên chẳng phải ông. Cái ông không thể trả về được, chẳng phải ông thi là gì ? Ắt biết tâm ông vô nhiệm mầu thanh tịnh sáng suốt mà ông tự mê muội, bỏ mất tánh bản nhiên, đành chịu luân hồi, thường bị trôi nổi chìm, đắm trong sanh tử.Thế nên, Như Lai nói là đáng thương xót vậy!”. Khả năng nhận biết trong con người – tư duy trừu tượng - mà Đức Phật ví là mặt trăng thứ hai – chính là khả năng tư duy trừu tượng trong mỗi con người cụ thể, là đặc trưng cho khả năng của con người đó – nhưng không phải bản tính chân như (Tính Thấy). Nó giống như cấu trúc khác nhau của các bộ nhớ điện toán. ĐOẠN XI - LỰA RIÊNG TRẦN CẢNH ĐỂ NÊU RA TÁNH THẤY Tiết 1 - Vật không phải ta. Anan thưa: - Con tuy biết tánh thấy này không thể trả về đâu, nhưng làm sao biết nó là Chơn tánh của con?”. Phật bảo Anan: - Nay tôi hỏi ông, hiện nay ông chưa đươc quả Vô Lậu Thanh Tịnh, do nương theo oai thần của Phật mà thấy được cõi Sơ Thiền không bị chướng ngại; ông A Na Luật Đà thì thấy cõi Diêm Phù Đề như xem trái yêm ma la để trong bàn tay; các vị Bồ Tát v.v… thấy cả trăm ngàn cả thế giới. mười phương Như Lai đều thấy cùng tận các cõi nước thanh tịnh như số vi trần không sót chỗ nào; còn chúng sanh xem chẳng quá gang tấc. Anan, lại tôi với ông cùng xem cung điện của Tứ Thiên Vương, ở khoảng giữa xem những vật dưới nước, trên mặt đất và trong hư không (thuỷ lục không hành) , tuy có nhiều hình tượng tối sáng khác nhau, nhưng đều là cảnh tiền trần phân biệt ngăn ngại. Ông hãy ở nơi đó phân biệt cái gì là mình, cái gì là vật? Nay tôi cho ông lựa trong cái thấy, cái gi là Tâm Thể của ông (ngã thể), cái gì là hình tượng của sự vật? Anan, cùng tột sức thấy của ông từ mặt trời mặt trăng, chính là vật chẳng phải ông; cho đến Thất Kim sơn xem xét cùng khắp, tuy có những thứ hào quang cũng là vật chẳng phải ông, lần lần xem đến mây kéo; chim bay, gió động,bụi dấy, cây cối , núi sông, rau cỏ, người, thú thảy đều là vật chứ chẳng phải ông. Đức Phật diễn giảng khả năng nhận biết trong từng con người với phương tiện nhận biết khác nhau thì sẽ tạo nên sự nhận biết khác nhau và làm nên bản ngã - mặt trăng thứ hai. Nhưng tất cả khả năng nhận biết ấy, dù với bất cứ phương tiện nhận biết nào cũng không phải tính thấy. Tiết 2 - Hiển bày tính thấy chẳng phải vật. - Anan, tánh chất của các vật xa gần tuy có sai khác, nhưng đều là vật do tánh thấy trong sạch của ông xem thấy. Vậy các vật kia tự có sai khác, mà tánh thấy của ông không sai khác. Tánh thấy sáng suốt nhiệm mầu này quả thật là tánh thấy của ông. Nếu tánh thấy là vật, thì ông cũng có thể thấy được cái thấy của tôi, vậy khi tôi không thấy, sao ông không thấy chỗ không thấy của tôi? Nếu ông không thấy được cái không thấy, thì tự nhiên nó không phải là tướng của cái không thấy kia.Nếu ông không thấy được chỗ không thấy của tôi, thì cái thấy bản nhiên không phải là vật, sao lại không phải là ông? Trong đoạn này, Đức Phật chỉ rõ vạn vật trong thế gian và cả vũ trụ mà mỗi con người thấy được, hoặc có khả năng thấy được đều có thuộc tính vật chất mà tính thấy phân biệt được. Nhưng đều không phải tính thấy. Bản thể của tính thấy không tự nhận thấy nó. Bởi nó không phải là vật - "Nếu tánh thấy là vật, thì ông cũng có thể thấy được cái thấy của tôi". Trong đoạn trên, Đức Phật đã chỉ ra rằng: 1) Tất cả mọi trạng thái ý thức – suy nghĩ; tiềm thức… đều có thuộc tính vật chất (vận động tương tác). Tính thấy là cái nhận thức được tất cả những cái đó. Vấn đề còn lại là phương tiện nhận biết (khả năng tư duy hay phương tiện tự tạo hoặc sẵn có như giác quan..vv....) tạo nên khả năng nhận biết cá nhân - Bản ngã. 2)Tính thấy là một thực tại có từ vô thuỷ đến vô chung, không sanh diệt; không không gian, không thời gian (Không ở trong ông Anan và cũng không ở trong Đức Thích Ca …. Tất cả chúng sinh đều có Phật tính. (Đoạn sau Đức Phật chỉ rõ hơn về điều này). Tính thấy là một thực tại vì có khả năng phân biệt: “.. Như thế cho đến cái phân biệt đều không; chẳng phải sắc, chẳng phải không" Tính phân biệt Đức Phật nói ở đây là một thuộc tính của tính thấy, chứ không phải là sự phân biệt trong tính thấy. Tính thấy là một thực tại không có phân biệt: Không Âm, không Dương; tự nhiên như nhiên có từ vô thuỷ, chính là cái có trước Âm Dương - Trước Bicbang - Đó chính là Thái Cực trong thuyết Âm Dương Ngũ hành vậy. Trong thuyết Âm Dương Ngũ hành - lý thuyết thống nhất nhân danh nền văn hiến Việt không có phân biệt vật chất và phi vật chất, mà chỉ có khái niệm Âm Dương. Khái niệm "tịnh" - "động". Khái niệm Dương tịnh - Âm động - nhân danh nền văn hiến Việt chính là sự xác định tính thấy trong Phật pháp chí tịnh và phân biệt với khái niệm động là thuộc tính của Âm - tương đương với khái niệm vật chất trong nhận thức phổ biến hiện nay. Tiết 3 - Chỉ rõ vật và ta không lẫn lộn. Đức Phật nói: ” Lại như cái thấy là vật thì đương khi ông thấy vật đó, ông đã thấy được vật, thì vật cũng thấy được ông. Thế thì thể tánh xen lộn, ông và tôi cùng các thế gian không thành lập được. Anan, nếu khi ông thấy thì chính ông chứ chẳng phải tôi, tánh thấy trùm khắp đó chẳng phải ông chứ là ai ? Tại sao tự nghi Chơn Tánh của ông. Tánh của ông mà ông chẳng tự nhận lấy, lại cầu tôi chỉ dùm cho ông ?”. Đến đấy cho thấy – Đức Phật đã chỉ ra rằng: Tất cả mọi sự tồn tại của - tạm gọi là "vật chất", thực ra trong thuyết Âm Dương ngũ hành không có khái niệm này - nhỏ như hạt quak hoặc nhỏ hơn mà nhân loại có thể tìm ra trong tương lai và mọi thể tính của nó, đều là Âm và là đối tượng của tính thấy và không phải tính thấy. Tính thấy thuộc Dương - ở trạng thái khởi nguyên của vũ trụ - Thái cực chí tịnh - tạm gọi là phi vật chất - nhưng là một thực tại. Nếu tính thấy có thể tính và là một thực thể thì sẽ phải có cái thấy được nó. Bởi vậy; Đức Như Lai nói: “Thể - tính xen lộn, ông và tôi cùng các thế gian không thành lập được”. Bởi vậy, với quan niệm Âm tịnh - Dương động, chính là điều mà Đức Thích ca nói: "Thể - tính xen lộn" và là tính bất hợp lý của sự suy nghiệm. Sai lầm này có từ thời Tông do Chu Hy đề xướng và nó chứng tỏ rõ nét rằng: Văn hóa Hán không phải cội nguồn của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Khi nó không có nền tảng tri thức xã hội cho sự hình thành học thuyết đó. Sự tiếp thu không hoàn chỉnh đã dẫn đến sai lầm của Chu Hy. Sai lầm này là một trong những nguyên nhân quan trọng đẩy nền lý học Đông phương vào trạng thái huyền bí và không thể phát triển trải hàng ngàn năm. Ngược lại với quan niệm nhân danh nền văn hiến Việt - Dương tịnh Âm động - đã và đang giải thích hầu hết những vấn đề liên quan đến nó và mở ra một khả năng khám phá sự huyền bí Đông phương - và xác dịnh một lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại đang mơ ước. Vũ trụ đã hình thành và phát triển một cách khách quan, nhưng sự nhận thức của con người phải phù hợp với thực tế khách quan của lịch sử vũ trụ. Tính khách quan của nhận thức càng cao thì khả năng nhận biết mới phát triển đến chân lý cuối cùng. Ngưới ta không thể tìm ra cái đúng từ một cái sai. Bạn sẽ không thể tự chứng được bản ngã (Nếu bạn tu tập), hoặc không thể có một lý thuyết khoa học nào có thể tồn tai trên tính phi lý, nếu bạn là nhà nghiên cứu khoa học. Nhưng khi chứng tỏ rằng: tính hợp lý là điều kiện nhận biết thì chúng ta đã thừa nhận tính quy luật của tất cả mọi sự kiện, kể cả trong lĩnh vực tiên tri. Khi nền khoa học thực nghiệm phát triển đến giới hạn của nó và buộc con người phải nghĩ lại chính mình - khi mà con người đã tạo ra những robot giống người - thì khoa học lý thuyết sẽ là sự tiếp tục bởi tính minh triết trên cơ sở tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học. Tiếc thay! Có vẻ như nhu cầu hiện tại chưa cần đến một lý thuyết thống nhất. Cũng như vào thế kỷ XV, nhu cầu của con người chưa cần biết trái Đất quay hay không. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà nhà tiên tri Vanga xác định rằng: Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay lại với nhận loại. Nhưng chưa phải bây giờ.
-
Đoạn trên Đức Phật chứng tỏ bản tính (tính thây) có khả năng phân biệt: Nhận thấy sáng, tức là biết tối. Nhận thấy hay, tức là biết dở. Nghe được tiếng nói Pháp thì sẽ có chỗ không nghe. Bởi vậy, nghe được tiếng nói Pháp và tri kiến Pháp không phải bản tính. Nên Đức Phật nói “tâm ấy tự phải rời cái phân biệt tiếng nói Pháp vẫn có tính phân biệt”. Tức là Phật nói một thuộc tính của tính thấy là khả năng phân biệt. Đoạn sau Đức Phật chứng minh điều này.
-
Hi. Không có phá. Nhưng thông minh chỉ là một yếu tố tốt trong cuộc đời. Tha nhân còn cần nhiều yếu tố khác để được coi là tốt.
-
Nhưng năm thuộc Mộc sinh vào mùa xuân Hạ và Đông đều tốt. Tránh các tháng 3 - 6 - 9 - 12 Âm lịch.
-
Đoạn này ngài Anan hỏi rõ thêm vấn đề: Những phương tiện nhận biết (Gồm cả não bộ) nhận thức được lời dạy của Đức Phật. Ngài hiểu được rằng trong ngài và cả mọi người đều có tính nhận biết. Nhưng ngài chưa biết được giữa điều kiện nhận biết (“Song con nghe được pháp âm của Phật cũng dùng tâm phan duyên mà thoả mãn..”) và bản tính chân như - tính thấy - khác nhau ở chỗ nào? (“…chưa dám nhận là bản tâm vốn sẵn có”). Tiết 2):Trách nhận ngón tay dùng để giản trạch tâm phân biệt đều có chỗ trả về. Đoạn này Đức Phật chỉ ra sự khác nhau giữa cái nhận biết được từ điều kiện nhận biết - thí dụ giống như bây giờ người ta nạp thông tin vào bộ nhớ của nhà khoa học máy - và bản tính chân như, tính thấy. Đoạn kinh văn trên là một trong những đoạn nổi tiếng của Phật pháp. Ngón tay thì không phải mặt trăng; điều đó đã rõ ràng. Ở đây Đức Phật ví ngón tay là sự nhận thức được Pháp lý, là sự tiếp thu tri kiến chứ tự nó không phải là Tính nhận biết – chân tính. Do đó, nếu nhầm lẫn giữa sự tiếp thu tri thức và tính nhận biết (Bản chất của hiện tượng) thì luôn luôn sẽ là sự sai lầm. Sai lầm nay có thể dẫn đến: Hoặc là phủ nhận chính tri kiến tiếp thu được do không hiểu bản chất của hiện tuơng; hoặc là dẫn đến niềm tin không từ trí huệ mà đời thường gọi là mê tín dị đoan. Những phương pháp bói toán của chúng ta hiện nay – một thời bị coi là mê tín dị đoan – chính vì chưa ai giải mã được nguyên nhân nào để có những phương pháp bói toán này (Bản chất của hiện tượng). Do đó; những người có chút kiến thức khoa học (Họ cũng chỉ nhìn thấy ngón tay chỉ vào khoa học) để phủ nhận các phương pháp bói toán. Trường hợp này có thể lấy làm ví dụ cho ngón tay chỉ và mặt trăng. Những người phủ nhận phương pháp bói toán thường nhân danh khoa học. Họ cho rằng bói toán là mê tín dị đoạn, là không có cơ sở khoa học. Nhưng chúng ta thử nghĩ lại: Có một lý thuyết khoa học nào lại không có khả năng dự báo? Hay nói một cách khác: Một lý thuyết khoa học phải có khả năng tiên tri. Sự tồn tại của các phương pháp tiên tri hàng thiên niên kỷ ở Đông phương – có phương pháp luận hẳn hoi - cho thấy một lý thuyết khoa học đứng đằng sau nó mà con người chưa phát hiện được. Điều này chứng tỏ đã có một lý thuyết khoa học bị thất truyền. Đây mới là bản chất của hiện tượng của các phương pháp bói toán Đông Phuơng. Sự nhận thức khoa học chỉ là thực nghiệm và căn cứ vào những lời dự báo sai hoặc đúng thì cũng chỉ là nhận thức ngón tay (tính thực nghiệm và chứng nghiệm của khoa học), chứ không phải một tinh thần khoa học thật sự. Cũng không thể lấy tính thực nghiệm dự đoán sai của người ứng dụng phương pháp để phủ nhận (Người dự đoán sai và phương pháp sai là hai v/d khác nhau. Bói toán có phương pháp và quy tắc với mê tín dị đoan cũng là hai v/d rất khác nhau). Chính vì chỉ nhận thấy ngón tay khoa học chứ không phải bản chất của khoa học, nên khi có những hiện tượng bất thường: Nhỏ thì như quả trứng đứng trên cái đũa khi tìm mộ huyệt ; hoặc lớn thì như sự tiên tri thần khốc quỷ sầu của bà Vanga… Những người này sẽ hoang mang và dẫn đến trạng thái: Hoặc Không còn tin vào khoa học; hoặc phủ nhận tất cả những gì ngoài tri kiến của họ. Bởi vậy - trong trường hợp này - Đức Phật nói : Như vậy, tiếp thu tri thức chỉ là sự tương tác có điều kiện của thể tính và không phải tính nhận biết. Tiếp thu tri thức - từ đơn giản đến phức tạp - cũng chỉ như nạp thông tin vào bộ nhớ của máy điện toán - dù cho đó là bộ nhớ của khoa học gia máy siêu đẳng. Những điều minh giảng của Đức Thích Ca - rất quan trọng trong việc chỉ ra một bí ẩn của vũ trụ mà thuyết Âm Dương Ngũ hành do tính thất truyền khi nền văn minh Việt sụp đổ ở miến nam Dương tử cũng dù có phục hồi lại và được thừa nhận là lý thuyết thống nhất cũng sẽ chưa hoàn hảo. Không phải ngẫu nhiên mà Anhxtanh cho rằng: Phật giáo chính là tôn giáo của tương lai. Một hình tượng nghệ thuật tuyệt vời nhất và minh triết nhất trong văn hiến Việt liên quan đến đoạn minh giảng này của Đức Thích Ca Mâu Ni, chính là bức tranh Lý Ngư vọng nguyệt. Một bức tranh đưa sự suy tưởng của con người đến cõi vô cùng trong nhận thức chân lý cuối cùng.
-
Đoạn trích dẫn trên có hai phần được phân bằng dấu hoa thị. Phần thứ nhất ngài Anan phản biện cho rằng: Nếu tính thấy đã thường hằng thì con người không thể gọi là bỏ mất chân tính. Đức Phật dùng cách tay để dẫn dụ về tính qui ước của thế nhân và con người chấp vào đấy. Chấp vào hiện tượng mà không nhận thấy bản chất của hiện tượng. Bản chất của hiện tượng chính là vấn đề được đặt ra trong tiểu luận này: Đời người ngắn ngủi so với tuổi thọ của những vật thể hoặc sinh vật khác. Bởi vậy, tính chấp của thế nhân vào sự vật, sự việc sẽ cản trở một sự suy nghiệm đạt tới chân lý tuyệt đối vốn thường hằng. Cái vô thường thì coi là tuyệt đối. Cái tuyệt đối thì không nhận ra, nên Đức Phật dạy là tính điên đảo: “Cái điên đảo là như thế. Chỉ là đầu đuôi thay đổi lẫn nhau; mà các người trong thế gian đều xem thấy thế ấy”. Hay nói rõ hơn, tha nhân thường coi những nhận thức trực quan sinh động là chân lý mà bỏ mất cái bản tính của sự việc. Ở phần hai, Đức Phật chỉ ra rằng: Ngay cả những cái mà thế nhân thường nhận là tâm (Tư duy, ý thức .v.v..) đều là vật ở trong chân tâm diệu minh. Tức là: Sự nhận biết: Sắc tâm. Sự tương tác giữa nhận thức tức là suy nghĩ tư duy: Các duyên. Khả năng tư duy: các tâm sở sử đều có thuộc tính vật chất và không phải chân tính – không phải tính nhận biết. Bởi vì đã là vật thì có sinh diệt, phân biệt và không phải bản tính nhận biết tất cả những sự vận động có thuộc tính vật chất đó. Hay diễn đạt một cách giản dị hơn: Khi chúng ta tự biết chúng ta đang nghĩ gì, đang cảm giác gì...vv... thì cái mà chúng ta đang nghĩ, đang cảm giác..vv...chỉ là đối tượng nhận biết, không phải tính nhận biết, tính thấy, không phải "tâm". Những suy tư, cảm giác ...vv....của chúng ta đều có sinh, thành, trụ, diệt -tức có thuộc tính vật chất và không thường hằng.
-
Qua phần trích dẫn trên, chúng ta thấy rằng: Bằng dẫn dụ cụ thể về sự thường hằng của tính thấy trong mỗi con người so với sự thành trụ hoại diệt của thân xác tha nhân, Đức Phật đã chỉ ra rằng: Tính thấy luôn thường hằng và không thay đổi không chỉ trong một kiếp người mà còn từ "vô thủy của sinh từ" - không sinh diệt. Bởi vì; nếu tính thấy sinh diệt thì cái gì nhận biết tính sinh diệt của nó. Nếu có một thực tại khác nhận biết - thấy - được cái sinh diệt của tính thấy thì cái tính thấy sinh diệt đó không còn là cái thấy nữa. KHÔNG SINH – KHÔNG DIỆT, như vậy nó phải tồn tại từ vô thuỷ đến vô chung. Hay nói theo cách khác – theo ngôn ngữ khoa học hiện đại – Nó phải có trước Bic bang và chính là giây |O| của vũ trụ.
-
-
ĐỨC PHẬT KHAI NGỘ VỀ TÍNH THẤY. Tiếp theo Kính thưa quí vị quan tâm. Như vậy, trong đoạn IV đến tiết 3 của tạng kinh Thủ Lang nghiêm, có tựa là: "HIỂN BÀY TÍNH THẤY CHẲNG PHẢI MẮT", Đức Thích Ca đã xác định đối tượng nhận biết và phương tiện nhận biết - kể cả trí não của con người - đều không phải là "tính Thấy" không phải "tâm". Bặt đầu từ đoạn kinh sau đây, Đức Phật minh giảng những thuộc tính của tính thấy từ đó chỉ ra bản chất của "tính thấy". Qua đoạn trích dẫn ở trên cho thấy Đức Phật dùng nắm tay xỏe nắm - tượng cho sự vận động của vật chất của đối tượng nhận biết. Ngài dùng thí dụ này để xác định một trong những thuộc tính của tính thấy là “không động”. Qua đoạn trích dẫn trên, cho thấy: Đối tượng nhận biết là luồng sáng và phương tiện nhận biết là cái đầu và các bộ phận liên quan đều động. Nhưng tinh thấy là liên tục không động. Với câu”... tính thấy của con không có dừng, huống chi có động!” diễn tả hai trong nhiều thuộc tính của “tính thấy”: * Tính liên tục không ngừng nghỉ, không chia cắt, luôn luôn thấy. Cho nên nói “Tính thấy không dừng”. * So với cái động (Động là thuộc tính của vật chất) thì Tính thấy, tính nhận biết không động so với cái động. Trong bối cảnh tri thức 2500 năm trước, chưa có khái niệm tốc độ vũ trụ, chúng ta có thể xác định rằng - trong hoàn cảnh tri thức hiện nay thì: Với bất cứ tốc độ vũ trụ nào mà khoa học có thể tìm thấy hoặc sẽ thấy trong tương lai - tính thấy vẫn không động và không dừng. Điều này được Đức Phật xác định trong phần dưới đây: Động là một thuộc tính của vật chất. Bởi vậy sự vận động của tư duy mang thuộc tính vật chất. Tất yếu nó phảI chịu sự tương tác của các vật thể dù lớn như các Thiên hà hoặc nhỏ hơn cả siêu hạt Quak; dù xa đến tận cùng vũ trụ hoặc dù gần đến ngay trong ta. Sự vận đông này mang tính quy luật, dẫn đến khả năng tiên tri khi con người nhận thức được quy luật đó. Nhưng con người không phải robot của tạo hóa - mà theo cách diễn tả của ngài Anan “Đồng như cây đất” - Từ chính vấn đề đặt ra trong tiểu luận này: "Cái gì nhận biết tất cả sự vận động của vật chất?" Đức Thế Tôn đã chỉ ra tính nhận biết - tất cả sự vận động và tồn tại của vật chất. Ngài đã nhắc nhở: Tính thấy không phải là cái “KHÔNG” đối đãi vớI cái”CÓ”. Vì với quan niệm đối đãi "Có" và "Không" như vậy thì khi “cái có” tự hoại, khi “cái không” sẽ không còn. Tính thấy thường hằng, nên không phải không. Tính thấy không phảI “TĨNH” so với “ĐỘNG”, mà "tính thấy" chỉ "không dừng”. Không động mà cũng không dừng thì chính là cái tuyệt đối. Nói theo ngôn ngữ toán học đây chính là vận tốc = |O|. Tính thấy có từ khi vô thuỷ và có trong những sinh thể đầu tiên tồn tại cho đến nay. Vậy nó phải có từ khởi nguyên vũ trụ, từ vô thuỷ đến vô chung. Không không gian, không thời gian, không lượng số. Dịch viết: ” Ở xa thì nói tới cái vô biên của vũ trụ, ở gần thì tĩnh mà chính, ở giữa thì bao trùm tất cả”. Trong tang kinh "Thần chú Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm", Đức Phật đã chỉ thẳng chân tính để thoát khỏi luân hồi. Đây chính là tạng kinh mà thế nhân thường ghi nhận trong bộ nhớ câu: “Trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật” . Luân hồi nếu nói theo ngôn ngữ hiện đại gần đồng nghỉa với khái niệm “quy luật” - “Luân”: sự tiếp nối, vận đông; “hồi”: quay trở lại. Cũng như Chu Dịch, chu: Vòng tròn; dịch: sự vận động theo vòng tròn. Đây là khái niệm mang tính tất yếu, tính quy luật. Những lời chỉ dạy của Đức Thích Ca về một thực tại có khả năng nhận biết (Tính thấy – tính nhận biết) tất cả mọi sự luân hồi, nhân quả - mà có thể diễn dịch bằng ngôn ngữ khoa học hiện đại là tính quy luật. Nhưng "tính thấy" phải chăng chỉ là một ”thực tại khác” mà nhà vật lý Fritjof Capra nói đến. Có thể hiểu như thế cũng được, nhưng không rốt ráo. Bởi vì một thực tại khác là gì - khi cho đến nay ý niệm về sự tồn tại của vật chất vẫn chưa vượt quá khái niệm về sự tồn tại của những siêu hạt? Thật may mắn thay! Những lờI chỉ dạy của Đức Phật trong kinh Lăng Nghiêm đã tiếp tục chỉ rõ điều này.
-
Art đưa bài này ra trang chủ của diễn đàn.
-
Thanhdc thân mến.Thanhdc viết: 1 - Điều này chỉ có thể khi khoa học lý thuyết thay thế khoa học thực nghiệm. Còn với khả năng hiện nay, triết học cũng chỉ là một bộ môn khoa học như các bộ môn khoa học khác, nó cũng cần sự tìm tòi, sáng tạo và phát triển. Nếu triết học là khoa học của mọi khoa học thì nó chính là lý thuyết thống nhất. 2 - Trong cuốn "Biện chứng pháp" - Nxb Sự Thật - khoảng những năm 60 - viết:"Triết học Mác Lê Nin là những thành tựu cuối cùng, chứ không phải kết luận cuối cùng". Lê Nin viết: "Để xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản phải có kho tàng tri thức của cả nhân loại". Trên cơ sở này thì mọi tri thức của con người nói chung đều cần tìm tòi, bổ sung và phát triển. Ngay cả khi một lý thuyết thống nhất được con người thừa nhận. 3 - 1 Tính quyết định căn bản của triết học Mác là quan niệm duy vật trong việc giải thích mọi hiện tượng, chứ không phải ở những khái niệm cụ thể.3 - 2 Trong lịch sử hình thành triết học Mác Lê Nin đã hiệu chỉnh lại định nghĩa về vật chất. Định nghĩa của Mác trước đây và của Lê Nin sau này. Điều này chứng tỏ rằng: Khái niệm cụ thể trong một lý thuyết triết học phải thay đổi phù hợp với sự nhận thức của tri thức nhân loại, mặc dù nó có thể kế thừa trên nền tảng cũ. Quan niệm "triết học là khoa học của mọi khoa học" là một sai lầm. Điều này đã bị chính các nhà lý luận Mácxit - Leninnit bác bỏ từ hồi tôi còn nhỏ. Thanhdc có thể tự tìm hiểu những vấn đề tôi nêu lên liên quan đến triết học Mac.
-
ĐỨC PHẬT KHAI NGỘ VỀ TÍNH THẤY Tiếp theo Qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta cũng nhận thấy Đức Phật dùng bàn tay và nắm tay để hiển thị mối nhân duyên giữa bàn tay và nắm tay làm thí dụ về mọi sự tồn tại của vật chất đều do nhân duyên mà có - có bàn tay mới có nắm tay. Ngài Anan cho rằng nắm tay là đối tượng nhận biết và con mắt là phương tiện nhận biết đều có thuộc tính vật chất - qua câu: “Lấy con mắt của con đem so sánh với nắm tay của Đức Như lai nghĩa ấy đồng nhau”. Ngài Anan chưa nhận biết được giữa đối tượng nhận biết là bàn tay và phương tiện nhận biết là con mắt thì đâu là "tính thấy". Phương tiện nhận biết vốn không phải "tính thấy" - không phải "tâm". Bởi vậy, Đức Phật phản bác. Qua đoạn trích dẫn này Đức Phật dùng thí dụ là “con mắt” để phân biệt phương tiện nhận biết có thuộc tính vật chất do nhân duyên tạo thành – và tính nhận biết - tính thấy - tâm. Đoạn này cho thấy ngài Anan chấp vào việc không nhìn thấy vật thể thì “thấy tối” không phải là thấy. Qua đoạn trích dẫn trên, cho thấy Đức Phật đã chỉ ra rằng: Có sự phân biệt giữa điều kiện nhận biết và phương tiện nhận biết với tính nhận biết. Điều kiện nhận biết mà Ngài thí dụ ở trên gồm: phương tiện nhận biết (con mắt, ngọn đèn…) và đối tượng nhận biết: Nắm tay của Ngài…. Phương tiện nhận biết và đối tượng nhận biết có thể thay đổi (Cảnh giới tiền trần trụ diệt). Nhưng tính nhận biết không thay đổi khi có đầy đủ điều kiện nhận biết. Bởi vậy, nếu chúng ta đặt v/d: "Vật thể đi với tốc độ ánh sáng; con người có thấy không?” . Câu hỏi này có nội dung giống như: Với cuộc sống con người cách đây 100 năm, nếu có người hỏi: “Ở khoảng cách 100 cây số, con người có nhìn thấy nhau được không?”. Vào thời điểm không - thời gian cách đây 100 năm, câu trả lời sẽ là;”Không!”. Vì thiếu phương tiện nhận biết. Nhưng ở thời điểm không - thời gian hiện tại, câu trả lời sẽ là “Có!”. Vì con người có đầy đủ phương tiện nhận biết. Do đó, khi đặt v/d về một vật thể đi với tốc độ lớn hơn tốc độ ánh sáng (Đối tượng nhận biết) thì ở những trường hợp không có phương tiện nhận biết cấu trả lời sẽ là “Không thể thấy!”. Như vậy v/d: Có hay không nhận biết được (Thấy được) chỉ phụ thuộc vào phương tiện nhận biết. Còn vấn đề mà Đức Thích Ca chỉ dạy trong Kinh Lăng Nghiêm là “Tính Nhận biết”. Tức là Đức Phật chỉ ra bản chất thật của thể tính. Hay nói cách khác: Đức Phật khai ngộ về tính nhận biết khi ý thức có thuộc tính vật chất . Những đoạn trích dẫn tiếp theo đây chứng tỏ điều này.
-
Đây là phần kết luận mang tính minh họa chủ đề, không phải chủ đề của bài viết. Phần lãnh thổ Việt rộng lớn các bài khác và các tác giả khác đã chứng minh - thí dụ: "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại". Trong khoa học được quyền kế thừa thành tựu.
-
ĐỨC PHẬT KHAI NGỘ VỀ TÍNH THẤY Tiếp theo Đoạn trích dẫn trên là một trong những đoạn nổi tiếng của Phật pháp với quan niệm cho rằng “Vạn pháp duy tâm biến hiện” qua câu: “Tất cả nhân quả thế giới vi trần nơi tâm mà thành thể”. Nhưng khái niệm “tâm” trong Phật pháp lại là một thực tại có thuộc tính vật chất, chứ không phải là một sự tồn tại phi vật chất như nhiều người lầm tưởng và gán Phật pháp vào lĩnh vực duy tâm. Điều này sẽ được minh chứng ngay bây giờ. Đức Phật nói – qua đoạn trích dẫn trên - "Huống chi tâm thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu này là tâm tính của tất cả mà không có thể tánh hay sao?". Như vậy, chứng tỏ Đức Phật đã xác định “Tâm” là một thực tại có thể tánh – tức là nó thuộc về dạng tồn tại của vật chất. Đức Phật cũng xác định rằng – nói theo ngôn ngữ hiện đại - nhận thức trực quan không phải là “tâm”, mà đó chỉ là sự tương tác vi mô của vật chất. Bởi vậy, khi những tương tác không còn thì cái tâm – mà lầm tưởng từ nhận thức trực quan đó – cũng biến mất. Điều này được xác định qua lời Đức Phật trong đoạn trên: “Nếu ông chấp nhặt cái phân biệt hiểu biết quyết cho là tâm, thì tâm này khi rời tất cả các trần sắc, hương, vị, xúc riêng có toàn tánh”. Ngay cả ý thức, trí nhớ, tiềm thức cũng không được coi là tâm. Đức Phật nói: “Dầu cho dứt hết tất cả thấy nghe hiểu biết, giữ cái thầm thầm lặng lẽ bên trong vẫn còn là việc phân biệt bóng dáng của pháp trần”. Mà muôn vật trên thế gian và vũ trụ này không nằm ngoài qui luật thành, trụ, hoại, diệt thì cái nhận thức trực quan và cả tiềm thức cũng không nằm ngoài qui luật này. Đức Phật xác định: “Trần thì chẳng phải thường trụ, nếu khi nó biến diêt thì tâm này đồng với lông rùa sừng thỏ, ắt pháp thân của ông cũng đồng với đoạn diệt. Vậy ông lấy gì để tu chứng Vô sanh pháp nhẫn?”. Vậy, đâu là cái tâm thật có trong mỗi con người và cả trong muôn vật trong vũ trụ này? Còn tiếp
-
Tôi đang ở xa. Nhưng tôi ủng hộ cháu bé 1000. 000 VND. Wildlaveder tổng kết quỹ từ thiện trợ giúp cháu bé này. Wildlavender cứ ứng tạm xuất của tôi, về tôi sẽ thanh toán. Sống chết bởi trời, còn lòng nhân là từ con người. Thằng bé này có 4 răng nanh mọc sớm, nhưng hy vọng sự từ thiện sẽ hóa giải được số phận khắc nghiệt này.
-
Cảm ơn anh Khaiphamkhac có lời đóng góp. Theo tôi đứng về góc độ phong thủy thì không cần cầu kỳ vậy đâu. Nhưng dù có đúng thì cũng chỉ là bàn chơi để trau dồi kiến thức mà thôi, có góp ý thì cũng chẳng ai nghe. Chưa một quốc gia nào trên thế giới coi phong thủy là một tiêu chí bắt buộc. Bàn về tính sát của chiếc cầu nói chung thì có thể nói là cầu nào cũng có thế sát. Bởi vậy, nói chung trong lịch sử những chiếc cầu thì cầu nào cũng có vài em tự tử. Vì nhô cao thuộc Âm và chiếc cầu nào thì cũng nhô cao cả và là cô âm. Trong các nghĩa trang liệt sĩ, người ta hay dựng minh tinh cao vút nhọn ở đầu, chính là tuân thủ theo qui luật "Âm nhô cao" - Âm khí tụ lại , nên có tác dụng chiêu hồn. Cái cầu này , ngay giữa cầu có cột nhô cao nên âm khí cực thịnh. Lúc đầu tôi cũng nghĩ phải có một cái cột gì đó đâm xuyên vào lòng cầu, và không ngờ nó lại nằm ngay giữa cầu như vậy. Giả thiết của achau về một vùng xoáy nước là cũng rất chuẩn. Bởi có xoáy nước thì dương cực thinh mới tạo ra thế cô âm, cô dương bất tương. Nhưng đồng ý với anh là tất cả chỉ là những yếu tố được xem xét, có thể còn nhiều yếu tố khác nữa.
-
Muốn sinh đứa nữa thì được. Nhưng lại phải cụ thể là con gái mà lại phải hợp tuổi thì e rằng khó.Còn việc đổi Thủy Hỏa thì tôi có vài lời thế này: Chính Thiệu Vĩ Hoa - danh thủ Tàu còn chưa hiểu được bảng Lục thập Hoa giáp, nhưng mấy ông Việt theo Tàu cứ nhất định nhảy dựng lên bảo Lạc Thư hoa giáp (Đổi Thủy Hỏa ) là sai - vấn đề nó sai ở chỗ nào thì ....chịu. Thành thật chia buồn.
-
Căng thẳng quanh chiếc ô hạt nhân 26/06/2009 0:49 Nguồn Thanh Niên Online Viễn cảnh về chiếc ô hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên - Ảnh: Korea Times Chiếc ô hạt nhân tại bán đảo Triều Tiên đã trở thành chủ đề tranh cãi mới nhất giữa CHDCND Triều Tiên với Mỹ. Mời nghe đọc bài Nhân dịp kỷ niệm 59 năm ngày khởi đầu Chiến tranh Triều Tiên vào năm 1950, giới truyền thông CHDCND Triều Tiên hôm qua đã đồng loạt đăng bài chỉ trích dữ dội Mỹ, cáo buộc nước này đã xâm chiếm CHDCND Triều Tiên vào năm 1950, cho rằng hiện Washington vẫn không ngừng tìm cơ hội mới để tấn công Bình Nhưỡng một lần nữa. Theo báo Rodong Sinmun, CHDCND Triều Tiên sẽ vẫn tiếp tục mở rộng kho vũ khí hạt nhân và cảnh báo Mỹ về “trận mưa lửa của một vụ trả đũa hạt nhân” trong trường hợp Washington tấn công Bình Nhưỡng. Đây cũng là phản ứng mới nhất của chính phủ của Chủ tịch Kim Jong-il sau khi Mỹ hứa hẹn sẽ cung cấp chiếc ô hạt nhân mở rộng để bảo vệ Hàn Quốc trước mối nguy hiểm tiềm tàng về chương trình hạt nhân của miền Bắc. Trong mục xã luận, báo Minju Joson cùng ngày đã yêu cầu Mỹ rút toàn bộ lực lượng của nước này tại Hàn Quốc về nước và đồng thời từ bỏ ngay chính sách “thù địch” đối với Bình Nhưỡng. Tờ báo nhấn mạnh đây là những yêu cầu quan trọng giúp giải quyết tình trạng căng thẳng hiện nay trên bán đảo Triều Tiên chứ không phải là những lời đe dọa hay cấm vận. Trước đó một ngày, CHDCND Triều Tiên cảnh báo sẽ xóa Mỹ khỏi bản đồ thế giới, nhưng Lầu Năm Góc tỏ ra thờ ơ trước lời đe dọa này dù Bộ Quốc phòng đã triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa hiện đại đến Hawaii để “đón” tên lửa Taepodong-2 của Bình Nhưỡng. Không khó để hiểu tại sao “chiếc ô hạt nhân” bao trùm Hàn Quốc lại khiến CHDCND Triều Tiên có phản ứng dữ dội như vậy. Báo Korea Times dẫn lời giới chuyên gia quân sự cho hay với chiến lược chiếc ô hạt nhân mở rộng, quân đội Mỹ sẽ huy động mọi khả năng cần thiết để vô hiệu hóa những động thái khiêu khích hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Chẳng hạn, không lực Mỹ có thể triển khai các máy bay ném bom B-2 và B-52, cũng như các chiến đấu cơ mang theo bom nguyên tử, như là B-61, đánh thẳng vào các cơ sở hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. B-61 là loại bom nhiệt hạch, được biết đến với khả năng mặc định các vụ nổ dao động từ 0,3 đến 340 kiloton, đủ hủy diệt các cơ sở ngầm chủ chốt của Bình Nhưỡng. Bên cạnh đó, hạm đội tàu ngầm hạt nhân sẽ bắn các tên lửa hành trình Tomahawk vào các mục tiêu định trước. Còn các máy bay chiến đấu của Mỹ cũng trong tư thế sẵn sàng thực hiện các vụ tấn công với những loại bom có sức công phá cực mạnh, như là bom phá boong-ke. Trong lúc Mỹ và Hàn Quốc tiếp tục đưa ra các kế hoạch phòng bị, tranh luận vẫn tiếp tục nổ ra về khả năng Lầu Năm Góc có thể tái triển khai vũ khí hạt nhân chiến thuật đến Seoul sau một thời gian dài vắng bóng. Dù hành động trên có thể đẩy quan hệ hai miền đến bờ vực, một số ý kiến cho rằng đây là sự lựa chọn tốt nhất để bảo vệ Hàn Quốc trong thời điểm hiện nay, theo Korea Times. Thụy Miên Nhời bàn của Thiên Sứ Xin vay tiền bà Chúa Kho có nghèo nàn lắm thì cũng phải có nén nhang làm mầu. Vay được hay không thì còn xét, có khi mất toi cả lễ vật mà chả vay được đồng nào. Ấy là hủ tục vay tiền bà Chúa Kho còn đơn giản hơn vay ngân hàng. Đằng này cả chuyện hòa bình thế giới, liên quan đến vận mạng của hàng trăm triệu con người, mà chỉ toàn thấy các hãng thông tấn dành chính nghĩa về mình bằng nước bọt. Chán wé. Mọi việc sắp quá đà vì cái bệnh sĩ.
-
Được cái này thì mất cái kia. Thế gian này rất cân bằng. Sinh năm Nhâm Thìn thì cực tốt về nhiều phương diện - trừ tuổi thọ của cha mẹ.