-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Chủ Nhật, 28/06/2009 - 11:28 AM Chùm ảnh: Kinh hoàng tòa nhà 13 tầng ở Thượng Hải “bật móng” (Dân trí) - Một tòa nhà chung cư cao 13 tầng đang trong quá trình hoàn thiện tại Thượng Hải đã bị “bật móng” và đổ sập cả khối xuống, làm một công nhân thiệt mạng. Các nhân chứng cho hay tòa nhà bị đổ vào khoảng 5h30 sáng ngày thứ bảy. Một công nhân 28 tuổi đến từ tỉnh An Huy đã bị thiệt mạng. Tòa nhà chung cư nằm ở ngoại ô của thành phố Thượng Hải, phía đông Trung Quốc. Sau khi bị “bật móng”, cả nguyên khối tòa nhà nằm “sấp” xuống khuôn viên xây dựng đầy bùn đất. Tòa nhà có vẻ như sắp hoàn thành, với cửa sổ đã được lắp và mặt tiền của tòa nhà đã được ốp gạch. Xung quanh tòa nhà bị đổ còn có nhiều tòa nhà khác. Theo Tân Hoa xã, người công nhân có tên Xiao vào trong tòa nhà để lấy dụng cụ và đã cố gắng nhảy qua cửa sổ khi tòa nhà bị đổ. Giới chức thành phố ngay lập tức cho ngừng xây dựng và yêu cầu điều tra kỹ vụ việc. Cả nguyên khối của tòa nhà bị bật móng. Người công nhân đã cố gắng nhảy qua cửa sổ khi tòa nhà đang đổ, nhưng không được. Xung quanh còn có nhiều tòa nhà khác. Phan Anh Theo CCTV, Xinhua Tòa nhà thì cao ngỏng cao ngòng, móng thì bé xíu so với tòa nhà. May mà nó sập bây giờ, chứ vào ở rồi mới sập thì cũng ....vài thằng đi tù rồi...hòa cả làng.
-
Công trình “đậu phụ” ở Trung Quốc Nguồn: Thannien Online 30/06/2009 10:41 Toà nhà 13 tầng bị bật gốc... - Ảnh: Reuters Cuộc chạy đua đô thị hóa trong bối cảnh tăng trưởng nóng đã khiến nhiều công trình nhà ở và hạ tầng cơ sở lớn tại Trung Quốc không đạt chất lượng đúng chuẩn. Đã xảy ra những trường hợp công trình vừa xây xong đã sụp đổ vì mềm và yếu như bìa đậu phụ! Cơ quan chức năng Thượng Hải đã tạm giữ chín người liên quan đến vụ tòa nhà 13 tầng trong cụm tòa nhà “Hoa sen ven sông” ở quận Mẫn Hàng, TP Thượng Hải bật ngả ngày 27-6. Tai nạn làm một công nhân thiệt mạng. Dù kết luận như thế nào vẫn không loại trừ nguyên nhân chất lượng xây dựng kém. Không dám về nhà Nhật báo Thượng Hải cho biết ngày 28-6, hơn 400 cư dân tại các tòa nhà khác trong cụm tòa nhà “Hoa sen ven sông” đã bao vây trụ sở của chủ đầu tư chính - Công ty bất động sản Mỹ Đô - để đòi lại tiền mua căn hộ mà họ đang sống do lo sợ không an toàn. “Chúng tôi không dám về ở trong khu nhà nữa, chúng tôi yêu cầu nhà đầu tư trả tiền và đền bù trượt giá để có thể mua nhà khác” - bà Châu Học Quân, một khách hàng, bức xúc. Phía sau bà là hàng trăm người khác cũng có nguyện vọng tương tự. Họ đã thuê luật sư để thương lượng với chủ đầu tư nhưng khả năng thành công rất thấp, bởi theo luật pháp chỉ những người đã bỏ tiền mua căn hộ trong tòa nhà bị sập mới được nhận tiền hoàn trả và bồi thường. Nhật báo Thượng Hải cho biết hiện nhóm điều tra thường xuyên có mặt trong 10 tòa nhà còn lại để chắc chắn mức độ an toàn và thuyết phục cư dân trở về căn hộ của mình. Nhóm điều tra gồm các chuyên gia về xây dựng thuộc quận Mẫn Hàng được thành lập ngay sau tai nạn. Kết quả điều tra sơ bộ cho thấy tòa nhà bật ngả như một bìa đậu phụ do một khối đất khổng lồ dưới chân tòa nhà bị dịch chuyển trong quá trình thi công hầm ngầm đậu xe, khiến cả tòa nhà bị hổng cẳng. Nhóm điều tra cũng đã thu mẫu bêtông để kiểm tra bởi không loại trừ nhà đầu tư sử dụng vật liệu kém chất lượng. Còn người dân trong khu vực cung cấp thêm chi tiết: bờ đê chống lũ ở một cái hồ gần khu nhà đã bị vỡ sau nhiều ngày mưa liên tục. Đây cũng có thể là một trong những nguyên nhân chính làm ngôi nhà bật gốc dễ dàng. Kết quả điều tra cho biết thêm điều bất ngờ: Công ty Mỹ Đô hoạt động trái phép hơn bốn năm qua. Vậy mà công ty này còn là chủ đầu tư hai tòa nhà khác trong quận Mẫn Hàng với 243 căn hộ đã được bán ra gần hết. Không ít công trình “đậu phụ” “Vấn nạn xây dựng kém chất lượng” do bớt xén vật tư, tráo nguyên vật liệu kém chất lượng... đã xuất hiện cùng lúc với yêu cầu cơ sở hạ tầng phải đáp ứng tốc độ phát triển quá nhanh của kinh tế. Từ lâu, Trung Quốc đã báo động về những công trình “đậu phụ”, nghĩa là những công trình xây dựng đã bị rút ruột bởi cách làm gian dối, cẩu thả, không đảm bảo chất lượng. Những công trình này không chỉ là nhà ở mà còn ở những công trình dân sinh quan trọng khác. Năm 2006, 12 công nhân ở huyện Bảo Đức, Sơn Tây in dấu vân tay vào đơn tố giác Công ty Cầu đường Sơn Tây đã dùng vật liệu kém chất lượng để tu sửa đường hầm. Sự kiện này đã gây choáng váng dư luận bởi chính những người trong cuộc nói ra. Theo đơn tố giác, lãnh đạo công ty đã dùng bột thạch miên thay vì ximăng để xây bên trong đường hầm nhằm rút ruột công trình. Khi trát mặt trong của đường hầm, công nhân chỉ dùng tay chứ không dùng kỹ thuật chuyên dụng khác. 12 công nhân tố giác sau đó đã phải trốn khỏi nơi làm việc và nhờ cơ quan luật pháp bảo vệ do bị đe dọa đến tính mạng. Xa hơn nữa là sự kiện sập cầu ở Trùng Khánh năm 1999. Cây cầu xây dựng chưa được ba năm đã bất ngờ đổ sập làm hơn 40 người thiệt mạng chỉ trong tích tắc. Kết quả điều tra cho biết công trình đã bị thay thế bằng vật liệu không đảm bảo chất lượng. Thời gian đưa vào sử dụng ngắn kỷ lục do chất lượng xây dựng cực kém phải kể đến công trình tu sửa đường Côn Lộc ở thành phố Côn Minh, với vốn đầu tư hơn 38 triệu nhân dân tệ (5,56 triệu USD). Sau khi đưa vào sử dụng chưa đầy 18 ngày, công trình đã bị sụt lún, mặt đường xuất hiện những vết nứt rất to. Khủng khiếp hơn, công trình sửa chữa cầu Tế Chúng ở TP Từ Châu, tỉnh Giang Tô tiêu tốn hết 7,6 triệu nhân dân tệ (1,12 triệu USD) nhưng đã bị sập ngay trước ngày khánh thành chỉ một ngày (28-6-2004). Vấn đề bức xúc của người dân Trung Quốc hiện nay, theo báo mạng Kim Dương của Quảng Châu, chính là còn bao nhiêu công trình “đậu phụ” khác chưa bị phát hiện. Mỹ Loan/ Tuổi Trẻ
-
Wildlavender đã nhiều lần nói rằng: Còn tùy duyên. Đến nay thì chắc Crescent đã hiểu tại sao chị Wildlavender nói như vậy. Ngay khi Crescent đã trực tiếp gặp thì gia đình anh Huỳng Phúc Điền và bản thân vẫn chưa tin, mà chỉ tin ông thày chùa kia. Hoặc giả họ có tin cũng chưa chắc giúp được vì quá muộn.
-
Có ba người tỏ ra xúc động trước đau khổ của đồng loại trong tai nạn máy bay rơi: Hoàng Triều Hải, Thiên Phúc, Nguyên Anh và một người quan tâm đến lời tiên tri liên quan đến tai nạn máy bay của tôi là Văn Lang.Có thể còn nhiều người khác cũng thể hiện sự chia sẻ nỗi đau này, một cách thầm lặng. Nhưng công khai có 4 vị nói trên. Sự xúc động và quan tâm của họ dẫn đến một cảm ứng giới hạn tại nạn máy bay với mật độ dày - so với bình thường - chỉ đến hết tháng 8 Âm lịch năm nay. Nhưng sự giới hạn về thời gian chưa nói lên được mức độ thảm khốc và số người chết. Nay nhờ 4 vị có lòng nhân hậu trên dùng quẻ bói - bất cứ phương pháp nào - để định lượng số người chết liên quan đến tai nạn máy bay, từ hôm nay - sau vụ tai nạn trên - đến hết tháng 8 Âm lịch. Con số hợp lý nhất và nhân đạo nhất sẽ được tôi lựa chọn và chịu trách nhiệm về mức độ chính xác. Xin lưu ý rằng: 1 - Con số hợp lý và nhân đạo. 2 - Chỉ một trong 4 vị nói trên mới có khả năng dự báo chính xác trường hợp này. Mong quí vị một lần nữa không cho là Thiên Sứ lẩm cẩm vì tuổi già.
-
Cảm ơn anh Thiên Nhơn có lời nhận xét. Tôi sẽ suy nghiệm lại.
-
Nếu chỉ thả vài con chim mà đổi được nghiệp thì thế gian này toàn người sung sướng cả. Phale hãy thứ nghe sư phụ một lần, để dành tiền, đến một chợ chim phóng sinh nào đó, mua hết và thả hết, không chừa lại một con nào. Cấu chúc cho Phale vạn sự an lành.
-
Nếu lá trên đã đúng thì không cần phải xem lá số này. Một con người không thể có hai số phận được. Sự nhờ vả cũng nên biết tự giới hạn.
-
:rolleyes: :lol: :lol: :rolleyes: :rolleyes: :rolleyes:
-
Anh Khiaphamkhac nên copi bài từ cảm xạ học vào đây và ghi rõ trích nguồn. Nội qui diễn đàn cần tuân thủ.
-
Theo tôi vấn đề còn là niên đại được kiểm tra của hai loại gạch này. Không loại trừ lúc xây thành có từ lâu dùng loại Giang Tây quân, sau đó nhiều năm hư hỏng trùng tu lại, hoặc nâng cấp thì dùng gạch Đại Việt quốc. Nếu có điều kiện xác minh niên đại bằng kỹ thuật tiên tiến sẽ giúp giải quyết v/d. Nhưng tôi nghĩ kỹ thuật xac 1minh ngày nay sai số cũng rất lớn. Thí dụ như tượng nhân sư. Chênh nhau là 5000 năm.
-
Ai rảnh thì cứ việc tư vấn. Nhưng chỉ nói kết quả nhận định. Không giải thích tại sao. Thí dụ: Bếp đặt tai....Cửa sau đặt tại... Còn tại sao đặt ở đó thì không phân tích.
-
Vấn đề cũng không chỉ ở những hiện tượng tâm linh. Một trong những phát kiến mới nhất của khoa học được giới thiệu sau đây: Trong cuốn: "Những con đường của ánh sáng" trang 208 tập I của Trịnh Xuân Thuận, viết: Người viết thừa nhận điều này và cũng không cần phải tư duy sâu. Hoàn toàn chính xác! Trong sự khởi nguy6en của vũ trụ - Thái Cực theo thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt thì chỉ cần một sự xuất hiện vô cùng nhỏ - như ông Trịnh Xuân Thuận nói - hoặc nhỏ hơn với 10 - 1000 thì cũng là sự tương tác với trạng thái khởi nguyên vô lượng vô biên của nó để tạo ra vũ trụ hiện nay. Nhưng ông Trịnh Xuân Thuân mới chỉ phản ánh được một nửa vấn đề . Chính vì chỉ có một nửa v/d, nên đó là lý do mà anh Votruoc nghi ngờ qui luật bảo toàn năng lượng bị sai. Nhưng Thiên Sứ tôi xác định rằng: Định luật bảo toàn năng lượng không sai. Nếu tri thức khoa học hiện đại thừa nhận một trạng thái khởi nguyên của vũ trụ - Thái Cực - vô lượng vô biên và đang hiện hữu. Chứ không phải là một cục gạch mà các nhà khoa học gọi là vật chất cô đặc trước Bicbang. Kính thưa quí vị quan tâm. Nhà tiên tri Vanga đã phát biểu: Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại... Đây là vế thứ nhất của lời tiên tri. Điều này người viết đã chứng minh với quí vị quan tâm là: Đó chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành - Lý thuyết thống nhất vũ trụ nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Người viết nhân danh cá nhân xác định rằng: Vế thứ nhất của lời tiên tri này hoàn toàn chính xác. Vế thứ hai của lời tiên tri là: Nhưng không phải bây giờ..... Người viết nhân danh cá nhân xác định rằng: Điều này có thể xảy ra, vì con người hiện đại chưa cần đến lý thuyết thống nhất, mặc dù họ đã đặt vấn đề cho nó. Một phát minh khoa học dù là ứng dụng hay lý thuyết, nó phải đồng bộ với điều kiện xã hội và nền tảng tri thức phổ biến liên quan với nó. Một giai thoại lịch sử nói rằng: Khi ông Nguyễn Trường Tộ sang Pháp về nói bên đó đèn treo ngược và người ta đi xe có hai bánh. Các quan đã cười ồ lên và cho rằng ông Tộ bị dở hơi. Một hiện tượng nữa là những người nông dân ở Châu Âu vào thế kỷ XV không quan tâm đến trái Đất tròn. Nó vuông cũng không sao. Và có thể nói, nếu ngay bây giờ bạn không tin trái Đất tròn thì bạn vẫn có thể là một người giàu có. Tất nhiên, điều này cũng minh xác răng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành - Lý thuyết thống nhất vũ trụ - không thể do Chu Văn Vương trực ngộ tâm linh phát minh ra cái Bát quái Hậu thiên ở vào cái thời mà có lẽ cũng "Ở trần đóng khố" và là "liên mình nhiều hơn 15 bộ lạc được". Híc! Vế thứ ba của lời tiên tri này là: Chỉ khi dân tộc Xyri bị tiêu diệt. Vế thứ ba này có xảy ra hay không tùy thuộc vào trí thông minh của những người có quyền quyết định vận mệnh từ những siêu cường. Người viết xin lấy câu sấm của Trạng trình kết thúc tiểu luận này: Nhược đài sư tử thượng. Thiên hạ thái bình phong. Xin cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
-
Kết luận Như vậy, qua những lời khai ngộ của Đức Phật từ những đoạn kinh văn trong "Thần Chú Phật đỉnh thủ lăng nghiêm", người viết đã xác định với quí vị rằng: Tính thấy trong mỗi còn người chính là cái "tâm" đích thực mà chính con người đang tìm cách hướng đến. Tính thấy - Thức tinh nguyên minh thanh tịnh từ vô thủy - Theo cách nói của Đức Phật - có trong muôn vật từ hạt vật chất nhỏ nhất cho đến Thiên hà khổng lồ, trong muôn sinh vật trên thế gian. Đó cũng chính là dạng tồn tại khởi nguyên của vũ trụ mà thuyết Âm Dương Ngũ hành nói đến - chính là Thái cực. Thái cực - chân lý tuyệt đối theo thuyết Âm Dương Ngũ hành - chính là sự vô lượng, vô biên, không không gian, không thời gian, không lượng số. Với cái vô cùng thì tất cả vật chất trong vũ trụ hữu hạn này rất nhỏ bé. "Mười phương cõi nước chỉ trên đầu một mảy lông" . Thái cực - sự khởi nguyên vô lượng, vô biên này vẫn đang tương tác với muôn vật trong vũ trụ và là tính thấy trong muôn loài, khi mà mọi sự tồn tại mang thuộc tính vật chất - kể cả tư duy - đều là những nhân duyên giả hợp. "Tất cả chúng sinh đều có Phật tính" - Phật pháp đã nói như vậy. "Vạn vật đồng nhất thể" - lý học Đông phương đã xác định như vậy. Đây chính là cơ sở của lòng nhân ái bao trùm muôn loài - nguyên nhân của Đại từ, Đại bi của Phật Pháp vi sự cảm thông với muôn loài trong tính thấy. Là cơ sở của chữ Nhân trong Ngũ Đức của Lý học Đông phương . Đó là cơ sở trí huệ mà nền văn minh cổ địa đã nhận thức được, chứ không phải một thứ tín ngưỡng làm hàng trang cho con người đi vào kiếp sau. Từ đó có thể xác định rằng: Lòng nhân ái càng cao, tính vị tha càng lớn thì con người càng gần với thể tính và trí huệ càng phát triển. Đó cũng là lý do mà những câu chuyện cổ tích trong dân gian Việt và của cả thế giới - cái thiện luôn thắng cái ác - vì đó là chân lý cuối cùng. Là sự minh triết của một lý thuyết thống nhất vũ trụ. Phật pháp chỉ con người trở về với bản tính chân như diêu minh thoát khỏi luân hồi, chính là trở về với trạng thái tuyết đối của vũ trụ, không còn chịu sự tương tác bởi những qui luật vật chất. Đây chính là cơ sở lý thuyết của Phật pháp, của phương pháp luyện tâp cổ địa Yoga và thiền định. Đạt được điều này chính là giải thoát, là tự do cuối cùng của con người. Đó là khi nhận thức được và trở về với cội nguồn nguyên thủy của vũ trụ - Thái cực - Trong thuyết Âm dương Ngũ hành. Đó chính là vòng tròn phía trên cây Nêu trong những ngày lễ Tết của Việt tộc. Một giáo sư Việt nào đó đã phát biểu rằng: Một lý thuyết thống nhất vũ trụ phải có khả năng giải thích cả những vấn đề tâm linh. Hoàn toàn chính xác! Thiên Sứ tôi xác nhận ngay điều này mà không cần phải tư duy. Không những Thuyết Âm Dương Ngũ hành lý giải những bế tắc của khoa học hiện đại - giây O trước Bicbang, mà còn chứng tỏ được sự nhất quán với giáo Lý Phật về thể tính của Thái Cực và tính thấy. Chưa hết, nó còn tìm thấy những dấu ấn được mặc khải trong Thiên Chúa giáo. Thái Cực chính là hình ảnh của đức Chúa Cha, của Thượng Đế. Chỉ có khác là Thái Cực là một khái niệm phi ý thức, còn Thượng Đế và Đức Chúa Cha là một hình ảnh có ý thức trong khởi nguyên vũ trụ. Đức Jesu nói: "Cha ta sinh ra ta và ta ở trong Cha Ta". Đây là hình tượng của Thái Cực sinh Lưỡng Nghi. Lời chúc lành của Cha xứ với con chiên và ngược lại trong các buổi lễ là: "Chúa ở cùng anh chị em - và ở cùng cha" . Đó là biểu tượng của tính thấy - sự khởi nguyên vũ trụ có trong muôn loài. Phải chăng - tôn giáo cổ xưa này - có nguồn gốc từ kinh Cựu Ước, trước khi Chúa giáng sinh - đã ghi dấu ấn của một lý thuyết thống nhất vũ trụ tồn tại trước khi nền văn minh toàn cầu bị hủy diệt. Giả thiết là 10. 000 năm BC. Về những vấn đề quen gọi là tâm linh như ngoại cảm, cảm ứng dự báo tiên tri như bà Vanga ...vv...Đó là những hiện tượng mà tri thức khoa học hiện đại chưa kiểm chứng được. Không thiếu gì những nhà khoa học phủ nhận hiện tượng này, coi đó là sự mê tín dị đoan. Chính vì họ đã không thể giải thích được những hiện tượng đó. Sinh thời Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng - Chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học, kỹ thuật Việt Nam - có nói với tôi: Chúng tôi đã tốn kém ngót 700. 000. 000 Đ cho Trung Tâm nghiên cứu tiềm năng con người để tìm hiểu vấn đề này. Nhưng họ chỉ làm được mỗi việc là tổng kết hiện tượng và không có một công trình nào đủ để lý giải hiện tượng đó. Tôi trả lời: Em rất tiếc không nằm trong Liên hiệp Hội của thày. Nếu không em sẽ xin lý giải việc này. Trung Tâm của em cũng không có chức năng này. Và điều này cũng không phải mục đích làm việc của người viết. Hậu quả hiện nay - khi có một số nhà khoa học lên tiếng thì gần như đến nay chúng ta không hề thấy thông tin đại chúng nhắc tới v/d này. Nhưng người viết có thể giới thiệu với quí vị rằng: Sự giải thích điều này nằm ngay trong tiểu luận mà quí vị đang quan tâm - "Đức Phật khai ngộ về tính thấy". Khi tính thấy chính là bản thể của sự nhận biết và mọi cấu trúc vật chất chỉ là phương tiện nhận biết, thì với những cấu trúc vật chất có sự biến đổi ở mức tế vi thì sẽ tạo ra những khả năng nhận biết vượt trội so với cấu trúc vật chất phổ biến cùng loài. Đây cũng là một trong những nguyên nhân của sự tiến hóa.
-
Quan điểm của tôi về nghiên cứu cổ sử cho rằng: Thời cổ sử của nhiều dân tộc - không riêng gì Việt tộc thiệt thòi hơn nhiều vì bị đô hộ cả hàng ngàn năm - hầu hết là khuyết sử và được truyền lại với hình thức truyền thuyết. Nhưng không thể vì thế mà không có một thực tế lịch sử đã tồn tại. Bởi vậy, những người quan tâm có thể đặt ra nhiều giả thuyết. Thâm chí nếu nói quá đáng một chút là có thể đặt giả thuyết nhân danh Thượng Đế. Nhưng một giả thuyết chỉ được coi là đúng nếu nó đáp ứng nhưng tiêu chí khoa học khi nó nhân danh khoa học. Bản văn lịch sử, di vật khảo cổ, di sản văn hóa phi vật thể và các công cụ kỹ thuật khác ...vv....chỉ là phương tiện để minh chứng cho một giả thuyết hay là điều kiện để đặt ra cho một giả thuyết. Chứ tự thân nó không phải là yếu tố duy nhất minh chứng cho lịch sử. Trên cơ sở tiêu chí khoa học - thì dứt khoát quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt trải gần 5000 năm văn hiến là một sai lầm. Tôi đã chứng minh điều này.
-
MỤC IV : BÁC THUYẾT NHƠN DUYÊN, TỰ NHIÊN ĐỂ HIỂN BÀY NHẬN THẤY THẬT TƯỚNG CỦA TÁNH THẤY ĐOẠN I NGHI TÁNH GIÁC ĐỒNG VỚI TỰ NHIÊN NHƯ THẦN NGÃ Ông A Nan bạch Phật rằng: - Bạch Đức Thế Tôn! Thật như Đấng Pháp Vương đã nói, tánh Giác duyên khắp mười phương cõi nước vắng lặng thường trụ, tánh Giác ấy chẳng sanh chẳng diệt. (Điều ấy) so với thuyết của Phạm Chí Ta Tỳ Ca La ngày xưa nói về Minh Đế, hay các thuyết ngoại đạo như Đầu hôi v.v… nói có chơn ngã đầy khắp cả mười phương, có gì sai khác ? Ở núi Lăng Già, Thế Tôn cũng từng vì ngài Đai Huệ v.v… giảng rộng nghĩa nầy: “Bọn ngoại đạo kia thường nói tự nhiên, còn tôi (Phật) nói nhân duyên chẳng phải cảnh giới của ngoại đạo kia”. Nay con xét kỹ tánh giác này tự nhiên, chẳng sanh, chẳng diệt, xa lìa tất cả hư vong, điên đảo, in tuồng chẳng phải nhân duyên mà cùng với thuyết tự nhiên của ngoại đạo kia. Xin Thế Tôn chỉ dạy thế nào để chúng con khỏi rơi vào các tà kiến, được Tâm Tánh Chơn Thật Giác Ngộ trong sạch nhiệm mầu sáng suốt”. Ông Anan so sánh lời dạy của Đức Phật với giáo lý của các giáo phái khác có hiện tượng giống nhau. Ngài đưa hiện tương được coi là giống nhau này thỉnh cầu Đức Phật chí cho thấy chỗ khác nhau. ĐOẠN II - CHỈ RA CHẲNG PHẢI TỰ NHIÊN Phật bảo A Nan: - Nay tôi dùng phương tiện chỉ dạy như thế, chơn thật bảo ông mà ông còn chưa ngộ, là cho là tự nhiên. A Nan, nếu nhất định là tự nhiên, thì ông phải tự xét rõ cái thể tự nhiên. Này Anan! Ông hãy xét trong tánh thấy sáng suốt nhiệm mầu nầy, lấy cái gì làm tự thể, hay lấy tối làm tự thể? Lấy hư không làm tự thể, hay lấy ngăn bít làm tự thể? Anan! Nếu lấy sáng làm tự thể thì đáng lẽ (khi tối đến) chẳng thấy tối. Nếu lại lấy hư không làm tự thể, thì đáng lẽ chẳng thấy ngăn bít. Như thế cho đến lấy các tướng tối v.v… làm tự thể, thì khi sáng Tánh thấy phải diệt mất, làm sao thấy sáng?”. Trong thế giới tương đối này luôn có sự phân biệt: Sáng - Tối, Có – Không …do đó, nếu coi tính thấy là tự nhiên như các hiện tượng tồn tại sinh thành trụ diệt của vạn hữu thì là một sai lầm. Tính Thấy có trong thế giới tự nhiên của vạn hữu và không phải tự nhiên của vạn hữu. Khi Thái Cực (Tính Thấy/Tính nhận biết - Mẹ tròn - Bánh Dầy: Cái có trước). Đó là một thực tại viên mãn, thuần khiết. Thái Cực/ Tính Thấy vốn Không phải không/ Không phải có; Không Động/ Không tịnh: “Trong đó không thể tự chỉ ra cái phải hay không phải” .Tức là không có phân biệt. Khi cái động Âm ra đời (Con vuông - bánh Chưng). Khi Đông/Tịnh: Âm Dương phân biệt tương tác / đốí đãi thành vũ trụ như hiện nay. Sự vận động, tương tác của vật chất – tương tác Âm Dương - tạo nên thế giới tự nhiên. Bởi vậy, tất cả những cái gì chúng ta đã thấy hoặc sẽ thấy đều chỉ nằm trong thế giới tự nhiên đối đãi /tương đối này và thuộc Âm. Cho nên, nếu chúng ta lấy bất cứ một thực thể nào trong tự nhiên làm tự thể (Cái thấy/Tính thấy) sẽ là sự phủ định cái đối đãi với nó - Dương - Thái Cực - Tính thấy. Chỉ có tính Thấy/ Thái cực - thể khới nguyên của vũ trụ chính là bản thể nguyên thuỷ và chính là Tính thấy mà Đức Phật nói tới. ĐOẠN III - NGHI NHƠN DUYÊN. Ông A Nan thưa - Tánh thấy nhiệm mầu này chắc chẳng phải là tự nhiên. Nay con xét thấy là nhân duyên sinh, nhưng tâm vẫn còn chưa rõ. Xin hỏi Đức Như Lai nghĩa ấy thế nào cho hợp với tánh nhân duyên? Ông Anan thừa nhận tính Thấy phi tự nhiên. Nhưng cho rằng sự tương tác khởi nguyên của vũ trụ là do nhân duyên sinh. ĐOẠN IV CHỈ RA TÁNH THẤY KHÔNG PHẢI NHÂN DUYÊN VÀ KẾT LUẬN TÁNH THẤY RỜI DANH TƯỚNG. Phật bảo: - Ông nói nhân duyên tôi lại hỏi ông: Nay ông nhơn thấy, Tánh thấy hiện tiền. Vậy cái thấy này nhơn nơi sáng mà có thấy, hay nhơn nơi tối mà có thấy, nhơn nơi hư không mà có thấy, hay nhơn nơi bít lấp mà có thấy? Này Anan, nếu nhơn nơi sáng mà có, thì đáng lẽ chẳng thấy được tối. Như nhơn nơi tối mà có, đáng lẽ chẳng thấy được sáng. Như thế cho đến nhơn nơi hư không, nhơn nơi ngăn bít cũng đồng như sáng và tối. Lại nữa Anan! Cái thấy này lại duyên nơi sáng mà có thấy, hay duyên nơi tối mà có thấy? Duyên nơi hư không mà có thấy, hay duyên nơi bít lấp mà có thấy? Anan! nếu duyên nơi hư không mà có, đáng lẽ chẳng thấy chỗ bít lấp. Nếu duyên chỗ bít lấp mà có, đáng lẽ chẳng thấy hư không. Như thế, cho đến duyên nơi sáng, duyên nơi tối cũng đồng như hư không và bít lấp. Phải biết tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt này chẳng phải nhơn, chẳng phải duyên, cũng chẳng phải tự nhiên, chẳng phải chẳng tự nhiên, không có cái chẳng phải (phi) và chẳng chẳng phải (bất phi, không có cái phải (thị) và không phải (phi thị), rời tất cả tướng, tức tất cả pháp (sự vật). Nay ông làm sao ở trong ấy lầm đem các danh tướng hý luận thế gian mà dùng tâm phân biệt được? Như lấy tay chụp bắt hư không chỉ thêm tự nhọc, hư không làm sao để cho ông nắm bắt!”. Đức Phật nhắc lại tính thấy là sự khởi nguyên, là thường hằng. Không sinh không diệt. Không phải do nhân duyên mà có như cấu trúc vật chất. “Trong đó không thể tự chỉ ra cái phải hay không phải” . Bởi vậy, không thể nói đến tính nhân duyên trong đó . Điều này giống như Lão Tử bàn về Đạo: “Đạo khả đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh”. Nên Đức Phật nói: Nay ông làm sao ở trong ấy lầm đem các danh tướng hý luận thế gian mà dùng tâm phân biệt được? ĐOẠN V - LẠI NGHI NHƠN DUYÊN Ông A Nan bạch Phật rằng : “Bạch Đức Thế Tôn, Tánh Giác nhiệm mầu này nhất định chẳng phải nhơn, chẳng phải duyên. Tại sao Đức Thế Tôn thường chỉ dạy các thầy Kỳ Kheo: Tánh thấy có đủ bốn thứ nhơn duyên, nghĩa là nhơn hư không, nhơn ánh sáng, nhơn tâm, nhơn mắt. Nghĩa ấy thế nào? ĐOẠN VI - PHẬT LẠI BÁC NHÂN DUYÊN TỰ NHIÊN ĐỂ NÊU RA TÁNH THẤY RỜI CẢ BỐN TƯỚNG. Phật bảo: “A Nan! Tôi nói các tướng nhơn duyên trong thế gian, chứ chẳng phải nghĩa đệ nhất. A Nan! Nay tôi lại hỏi ông, các người trong thế gian nói “Tôi hay thấy”, thế nào gọi là thấy? Thế nào là chẳng thấy?”. A Nan thưa : “Bạch Đức Thế Tôn! Người trong thế gian nhơn có ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn mà thấy các tướng; gọi là thấy. Nếu lại không có ba thứ ánh sáng này thì không thể thấy”. “Này A Nan! Nếu khi không có ánh sáng gọi là không thấy, thì đáng lẽ không thấy tối. Nếu thấy tối thì chỉ là không có ánh sáng, sao gọi là không thấy? A Nan, nếu khi tối vì không thấy sáng mà gọi là không thấy, vậy nay trong lúc sáng không thấy tướng tối, lại cũng phải gọi là không thấy. Như thế thì hai tướng sáng tối đều gọi là không thấy. Nếu hai tướng sáng tối tự lấn át nhau, thì tánh thấy của ông ở trong ấy không phải tạm không. Như thế, ắt biết cả hai đều gọi là thấy, tại sao nói là không thấy? - Thế nên! Anan! Nay ông phảI biết: Khi thấy cái sáng (thì) cái thấy không phải là sáng; khi thấy tối (thì)cái thấy không phải là tối, khi thấy hư không cái thấy không phải hư không, khi thấy bít lấp cái thấy không phải bít lấp. ĐOAN III - CHỈ THẲNG THẤY ĐƯỢC THẬT TƯỚNG CỦA TÍNH THẤY Bốn nghĩa đó thành tựu; ông lại nên biết khi nhận thấy tánh thấy thì tánh thấy chẳng phải là cái thấy. Tánh thấy còn rời cái thấy và cái thấy còn không đến nơi cái thấy đươc - Đoạn kinh văn trên lời dịch hơi trúc trắc thành khó hiểu. Có thể diễn đạt nội dung trên theo một lẽ khác như sau: Bốn nghĩa đó (Hư không; ánh sáng; tâm; mắt) kết hợp thì đó là điều kiện và phương tiện nhận biết. Nhưng Tính Thấy không phải sự nhận biết (Cái Thấy mà người viết coi là tương đương khái niệm của thuật ngữ "trực quan sinh động"). Từ sự nhận biết đến chứng ngộ được Tính Thấy còn là một khoảng cách lớn lao – Người viết. - Làm sao ông còn nói nhân duyên tự nhiên và tướng hoà hợp. Các ông là hàng Thanh Văn hẹp hòi không biết, chẳng thể nào thông đạt được tướng thanh tịnh. Nay tôi dạy bảo, ông phải khéo suy nghĩ, không nên trễ nải trên đường giác ngộ nhiệm màu. Đoạn kinh văn này Đức Phât giảng rõ hơn những yếu tố tương thích tác hợp (Nhân Duyên) để dẫn tới sự nhân thức (Cái Thấy) và TÍNH THẤY. Nhân duyên để có sự nhận biết gồm: Phương tiện nhận biết - các giác quan và điều kiện nhận biết tương thích với phương tiện nhận biết và đối tượng nhận biết, mà Đức Phật biểu tượng bằng bốn tướng phổ biến trong cuộc sống của gần 3000 năm trước là: Hư không -để có sự phân biệt, ánh sáng - điều kiện nhận biết, tâm - khả năng tư duy và nhận thức, mắt (giác quan) - phương tiện nhận biết (Thời hiện đại phương tiện nhận biết còn là các sản phẩm kỹ thuật hiện đại phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học). Tất cả những yếu tó này có thuộc tính vật chất và là đối tượng của tính nhận biết (Tính Thấy). Bởi vậy, Đức Phật khẳng định không phải tính thấy. Tính Thấy: Là một thực tại có tự tính từ vô thuỷ đến vô chung, không không gian không thời gian; không phải CÓ; không phải KHÔNG; là sự tính tuyệt đối|O|. Tính thấy bao trùm vũ trụ - xa thì đến vô cùng, gần thì ngay trong con người, có trong muôn vật từ hạt vật chất nhỏ nhất đến các thiên hà khổng lồ. Tất cả mọi sự vận động tương tác trong vũ trụ có thể tính đều là đối tượng của Tính Thấy và không phải Tính Thấy. Trong cổ học Đông phương; cụ thể là trong Kinh Dịch cũng nói đến hiện tượng khởi nguyên của vũ trụ là Thái Cực. Hoặc trong Đạo Đức Kinh nói đến sự khởi nguyên của vũ trụ là Đạo. Tất cả chỉ là những danh từ khác nhau chỉ một thực tại mà Đức Thích Ca đã minh giảng: Đó chính là Tính Thấy. Tinh thấy chính là Thái Cực , là bản tính Chân như và là Tâm trong mỗi con người và trong muôn vật. Mọi chúng sinh đều có Phật tính - chính là tính Thấy có trong muôn vật. Chính sự tương tác giữa động Âm - thuộc tính vật chất với cái tịnh Dương khởi nguyên vô lượng, vô biên tạo ra sự nhận biết: Xa thì đến vô cùng, gần thì tĩnh mà chính. Vi diệu thay một hình tượng tuyệt vời của trí tuệ Lạc Việt trong “truyện cây Nêu”: Cây Nêu là một biểu tượng độc đáo của nền văn hiến Lạc Việt (Tất cả các nền văn hoá cận Lạc Việt về không/ thời gian lịch sử đều không có Cây Nêu). Hình tượng cây nêu phủ áo cà sa của Đức Phật che bóng khắp thế gian - Hình ảnh của lòng nhân ái và trí tuệ, Hình ảnh của sự vươn lên (cây tre) để đạt tới sự viên mãn, tuyết đối (Vòng tròn biểu tượng Thái Cực phía trên cây tre). Nhưng chính hình ảnh chiếc áo cà sa của Đức Phật phủ trên cây Nêu là một hình tương vi diệu của tiền nhân Lạc Việt, nhắn nhủ cho hậu thế biết rằng: Hãy tìm thể tính của Thái Cực và sự vi diệu huyền vĩ của vũ trụ trong Phật pháp. Một lý thuyết thống nhất vũ trụ sẽ không thể hoàn chỉnh nếu nó không thể phân biệt được con người và muôn sinh vật với một bộ nhớ điện tử. Còn tiếp
-
Giờ Mùi - New York - Đỗ Vô vong.Tháng 6 Âm lịch sẽ có việc làm. Cứ việc có con năm Canh Dần. Mọi việc sẽ tốt đẹp. Nên sinh trọn năm - vào cuối năm Dần tháng 10 - 11 Âm lịch. Chúc vạn sự an lành.
-
Trong tiểu luận này, người viết cùng quí vị đi tìm bản tâm bên trong con người, nhưng qua những dẫn dụ của Đức Phật, đến lúc này chúng ta lại thấy tính thấy có trong muôn vật từ ngoại cảnh bên ngoài con người. Vậy bản tính chân như mà con người cần hạnh ngộ ấy ở đâu. Đây là nguyên nhân làm mọi người hoang mang. Qua đoạn trên; Ngài Văn Thù Sư Lợi đã chỉ ra tính biểu kiến/ qui ước của thế nhân quán xét tiền trần là thực tại đang hiện hữu trong nhận thức của thế nhân: Ngài Văn Thù không phải là Văn Thù thì còn ai vào đây? Cũng như tôi thì đúng
-
Quí vị quan tâm thân mến. Tôi đưa lên đây bài nghiên cứu của ông Nguyễn Quang Nhật để mọi người tiện tham khảo. Nguồn: http://nguyenquangnhat.page.tl/Bi%EAn-c%26...23803%3Bt-2.htm Biên cương nước Việt 2 6. Lĩnh Địa Về Thời Vua Trưng: Trong những năm 1978-1979 khi dẫn phái đoàn y khoa nghiên cứu tại các tỉnh cực nam Trung-quốc như Quảng Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quý-Châu, tôi tìm ra khắp các tỉnh này, không ít thì nhiều đều có đạo thờ vua Bà. Nhưng tôi không tìm được tiểu sử vua Bà ra sao. Ngay những cán bộ Trung-quốc ở địa phương, họ luôn đề cao vua Bà, mà họ cũng chỉ biết lờ mờ rằng vua Bà là người nổi lên chống tham quan. Khắp bốn tỉnh, tôi ghi chú được hơn trăm đền, miếu thờ những tướng lĩnh thời vua Bà. Bây giờ tôi lại tìm thấy ở Hồ-Nam nhiều di tích về đạo thờ vua Bà hơn. Tại thư viện bảo tồn di tích cổ, tôi tìm thấy một cuốn phổ rất cổ, soạn vào thế kỷ thứ tám chép sự tích nữ vương Phật-Nguyệt như sau: "Ngày xưa, Ngọc-Hoàng thượng đế ngự trên điện Linh-tiêu, có hai công chúa đứng hầu. Vì sơ ý, hai công chúa đánh vỡ chén ngọc. Ngọc-Hoàng thượng đế nổi giận lôi đình, truyền đầy hai công chúa xuống hạ giới. Hai công chúa đi đầu thai được mấy ngày, thì tiên-lại giữ sổ tiên giới tâu rằng có 162 tiên đầu thai xuống theo hai công chúa.Ngọc-Hoàng thượng đế sợ công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh-Y đồng tử đầu thai theo để dẹp loạn. Thanh-Y đồng tử sợ địch không lại hai công chúa, có ý ngần ngừ không dám đi. Ngọc-Hoàng thượng đế truyền Nhị-thập bát tú đầu thai theo. Thanh-Y đồng tử đầu thai, sau là vua Quang-Vũ nhà Hán, Nhị-thập bát tú đầu thai thành hai mươi tám vị văn thần võ tướng thời Đông-Hán. Còn hai công chúa đầu thai xuống quận Giao-Chỉ, vào nhà họ Trưng. Chị là Trưng-Trắc, em là Trưng-Nhị. Lúc Trưng-Trắc sinh ra có hương thơm đầy nhà, lớn lên thông minh quán chúng, có sức khỏe bạt sơn cử đỉnh; được gả cho Đặng-thi-Sách. Thi-Sách làm phản, bị thái thú Tô-Định giết chết. Trưng-Trắc cùng em là Trưng-Nhị phất cờ khởi nghĩa, được 162 anh hùng các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận Trung-quốc ở phía nam sông Trường-giang: Cửu-Chân, Nhật-Nam, Giao-Chỉ, Quế-Lâm, Tượng-quận, Nam-Hải. Chư tướng tôn Trưng-Trắc lên làm vua, thường gọi là vua Bà. Vua Quang-Vũ nhà Đông-Hán sai Phục-Ba tướng quân Tân-tức hầu, Long-nhương tướng quân Thận-hầu Lưu-Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ vương Phật-Nguyệt tổng trấn hồ Động đình. Mã-Viện, Lưu-Long bị bại. Vua Quang-Vũ truyền Nhị-thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật-Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga-mi, một tay nhổ núi Thái-sơn, đánh quân Hán chết xác lấp sông Trường-giang, hồ Động-đình, oán khí bốc lên đến trời. Ngọc-Hoàng thượng đế sai thiên binh, thiên tướng trợ chiến, cũng bị bại. Ngài phải sai thần Du-Liệt sang Tây-phương cầu cứu Phật Như-Lai. Đức Phật sai mười tám vị Kim-Cương, ba nghìn La-Hán trợ chiến cũng bị bại. Cuối cùng ngài truyền Quan-Thế-Âm bồ tát tham chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt với Quan-Thế-Âm đấu phép ba ngày ba đêm, bất phân thắng bại. Sau Quan-Thế-Âm thuyết pháp, nữ vương Phật-Nguyệt giác ngộ, bỏ đi tu." Ta nhân ngày lành, viết lại chuyện xưa, xin dâng đôi câu đối: Tích trù Động đình uy trấn Hán, Danh lưu thanh sử lực phù Trưng. (Nghĩa là: Một trận Động-đình uy rung Hán tên còn trong sử sức phò Trưng) Như thế, tôi đã tìm ra được: Đạo thờ vua Bà tại năm tỉnh Nam Trung-quốc là di tích của lòng tôn kính thờ anh hùng dân tộc của tộc Việt trên lãnh thổ cũ của người Việt còn sót lại. Vua Bà, mà người Trung-hoa thờ như một thứ tôn giáo, chính là vua Trưng. Kết luận: Quả có nữ vương Phật-Nguyệt đánh trận Trường-sa hồ Động đình. Mà có trận hồ Động-đình thì lãnh thổ thời Lĩnh-Nam quả tới phía Nam sông Trường-giang. Huyền sử nói rằng: Khi bà Trưng-Nhị cùng các tướng Trần-Năng, Hồ-Đề, Phật-Nguyệt, Lại-thế-Cường đánh Trường-sa vào đầu năm Kỷ-Hợi (39 sau Tây-lịch), thì nữ tướng Trần-thiếu-Lan tử trận, được mai táng ở ghềnh sông Thẩm-giang (8). Thẩm-giang chính là đoạn sông ngắn ở Bắc tiếp nối với hồ Động-đình. Một cuốn phổ khác, chép vào thời Nguyễn nói rằng: Các sứ thần Lý, Trần, Lê khi qua đây đều có sắm lễ đến cúng miếu thờ bà Trần-thiếu-Lan. Cho nên năm 1980, tôi đã đến đây tìm hiểu. Không khó nhọc, tôi tìm ra trong cuốn địa phương chí, do sở du lịch Trường-sa cung cấp, một đoạn chép "Miếu thờ liệt nữ Trần-tiểu-Lan ở đầu sông Tương. Hồi cách mạng văn hóa bị phá hủy. Tượng đồng bị nấu ra. Vệ binh đỏ phá luôn cả bia đá". Tôi tìm tới nơi thì miếu chỉ còn lại cái nền bằng đá ông, mộ vẫn còn. (9) 7.Nghiên Cứu Những Khai Vật: Vào những năm 1964-1965, giáo sư thạc sĩ luật khoa Vũ-văn-Mẫu đang soạn thảo tài liệu về cổ luật Việt Nam. Người giúp giáo sư Mẫu đọc sách cổ là Hoàng-triều tiến sĩ Nguyễn-sỹ-Giác. Cụ Giác tuy thông kinh điển, thư tịch cổ nhưng lại không biết ngoại ngữ, cùng với phương pháp phân tích, tổng hợp Tây-phương. Cụ giới thiệu tôi với giáo sư Mẫu. Tôi với cụ đã giúp giáo sư Mẫu đọc, soán các thư tịch liên quan đến cổ luật. Chính vì vậy tập tài liệu "Cổ-luật Việt-Nam và tư -pháp-sử" có chương mở đầu "Liên hệ giữa nguồn gốc dân tộc và Cổ-luật Việt-Nam"(10). Bấy giờ tôi còn trẻ, lại không có đủ tài liệu khai quật của Trung-quốc, của Bắc Việt-Nam, nên có nhiều chi tiết sai lầm nhỏ. Hôm nay đây, tôi xin lỗi anh linh Hoàng-triều tiến sĩ Nguyễn-sỹ-Giác, anh linh giáo sư Vũ-văn-Mẫu, xin lỗi các vị đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi các vị sinh viên về những sai lầm đó. Triều đại Hồng-Bàng của tộc Việt xuất phát từ năm 2879 trước Tây-lịch, tương đương với thời đại đồ đá mài (le néolithique), tức cuối thời đại văn hóa Bắc-sơn (11). Trong những khai quật về thời đại này tại Bắc Việt, Đông Vân-Nam, Quảng Đông, Hồ-Nam, người ta đều tìm được những chiếc rìu thiết diện hình trái xoan, trong khi tại Nhật, Bắc Trường-giang lại chỉ tìm được loại rìu thiết diện hình chữ nhật, chứng tỏ vào thời đó, có một thứ văn hóa tộc Việt giống nhau. Sang thời đại văn hóa Đông-sơn (12) hay đồ đồng (age du bronze): Trong thời gian này đã tìm được trống đồng Đông-sơn bên bờ sông Mã (Thanh-Hóa) Sự thực trống đồng đã tìm thấy ở toàn bộ các tỉnh Nam Trường-giang như Hồ-Nam, Quý-Châu, Vân-Nam, Quảng-Đông, Quảng-Tây; Nam-Đương, Lào (13), Bắc và Trung-Việt. Nhưng ở Nam-Đương, Lào rất ít. Nhiều nhất ở Bắc Việt rồi tới Vân-Nam, Lưỡng-quảng. Phân tích thành phần, gần như giống nhau: Đồng 55%, thiếc 15-16%, chì 17-19%, sắt 4%. Một ít vàng, bạc. Khảo về y phục, mồ mả, cùng xương trong các ngôi mộ, qua các thời đại, cho đến hết thế kỷ thứ 1 sau Tây-lịch, tôi thấy trong các vùng Nam Trường-giang cho đến Trung, Bắc-Việt, cùng Lào, Thái đều giống nhau. Tôi đi đến kết luận: Tộc Việt quả có lĩnh địa Bắc tới hồ Động đình, Tây tới Tứ-xuyên như cổ sử nói. E. Tổng Kết Các bạn đã cùng tôi đi vào những chi tiết từ huyền thoại, huyền sử, cổ sử, cùng triết học, suy luận để tìm về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trong chính sử Việt đều ghi rõ ràng về nguồn gốc tộc Việt. Hồi thơ ấu, tôi sống bên cạnh những nhà nho, chỉ đọc sách chữ Hán của người Hoa, người Việt viết. Mà những sách này đều chép rằng tộc Việt gồm có trăm họ khác nhau, mang tên Bách-Việt. Những tên như Âu Việt, Lạc Việt, Đông Việt, Nam Việt, Việt Thường đều thuộc Bách Việt cả. Cái tên trăm họ, hay trăm Việt (Bách Việt) phát xuất từ huyền thoại nói vua Lạc Long sinh ra trăm con. Trăm có nghĩa là toàn thể, tất cả, chứ không hoàn toàn là con số như ta tưởng ngày nay (14).Các vị cổ học học sổ sử, rồi coi lĩnh địa tộc Việt bao gồm phía Nam sông Trường-giang, lấy mốc là hồ Động-đình, với sông Tương, núi Ngũ-lĩnh là đương nhiên.
-
MỤC III: NÊU TÁNH THẤY RA NGOÀI NGHĨA PHẢI VÀ CHẲNG PHẢI ĐOẠN I - NGHI CÁI THẤY HIỆN Ở TRƯỚC MẮT Ông Anan cho rằng: Tính thấy ở bên ngoài thân tâm (Vì nhìn thấy vật thể bên ngoài thân tâm: Trời, trăng, mây, nước…). Sự sai lầm trong nhận thức này khiến ông thắc mắc: Cái thấy trong tâm ông và cái thấy - mà ông cho rằng ở bên ngoài – cái nào là thật tính? Khái niệm thân tâm mà ngài Anan dùng ở đây có thể hiểu là tâm ở trong thân; đối đãi với Tính thấy mà ngài cho ở ngoài thân. Ngài Anan đã nhầm lẫn giữa phương tiện nhận biết và những điều kiện nhận biết có thuộc tính vật chất, trong đó gồm cả sự tương tác vận động của tư duy, khả năng nhận thức…được cấu tạo và vận động tương tác trong thân thể con người và sinh vật với tính thấy. Bởi vậy, ông cho rằng: Tính thấy – tính nhận biết ở bên ngoài thì phải nhận biết thân tâm của ông. Thực ra tính thấy hằng có thường tồn, bao trùm tất cả; không ở trong không ở ngoài. Nhưng trong cơ thể sinh vật nó hiển thị qua phương tiện nhận biết có trong cấu trúc cơ thể. Riêng ở con người thì phương tiện nhận biết còn do tự tạo. Đoạn sau Đức Phật nói rất rõ về điều này. ĐOẠN II CHỈ RA “KHÔNG CÓ CÁI GÌ TỨC LÀ CÁI THẤY”(*) * Chú thích:Tựa trên cho đoạn II là sự sao chép nguyên văn trong cuốn:”Kinh Thủ Lăng Nghiêm trực chỉ” do Hoà thượng Thích Thiện Hào dịch từ bộ ”Lăng Nghiêm Trực chỉ “ của ngài Hàm Thị sớ giải. Tựa trên – và tất cả các tựa trong các đoạn trích dẫn – là do ngài Hàm Thị đặt hoặc do dịch giả thêm vào, không phải chính kinh văn của Đức Thích Ca. Tôi cho rằng lời dịch hoặc lời tựa trong nguyên văn này sai với ý chỉ của Đức Phật. Cái thấy không phải là “không có cái gì”. Vì cái không là sự đối đãi với cái có. Cái có là do nhân duyên giả hợp, nhân duyên hết, cái có cũng không còn và tất nhiên không có cái có thì cái không cũng không còn. Cái không – không phải là tính thấy và cũng chẳng phải cái thấy. Điều này Đức Thích Ca đã minh giảng ở trên. Nhưng vì sự trích dẫn nên tôn trong nguyên văn. Những đoạn minh giảng của Đức Thích Ca trích dẫn sau đây không hề có nội dung:”Không có cái gì tức là cái thấy”. Những tựa trong đoạn trích dẫn sau này, nếu có sự hiệu chỉnh, tôi sẽ để trong ngoặc đơn; chữ thường nghiêng và kèm tên người viết bên cạnh. Thí dụ: Tựa trên cần đổi là (Tính thấy không phải vật –Người viết) TIẾT 1 - Nêu tướng để gạn hỏi cái thấy. Phật bảo A Nan : “ Nay ông nói cái thấy ở trước mặt ông, nghĩa ấy không đúng! Nếu thật ở trước mặt ông và ông thật thấy, thì tánh thấy nầy đã có chỗ nơi đều chỉ ra được. Vậy nay tôi cùng ông ngồi trong rừng Kỳ Đà xem khắp rừng suối , nhà cửa, phía trên đến mặt trời mặt trăng, phía trước là sông Hằng, nay ông ở trước tòa sư tử của tôi, hãy đưa tay chỉ rõ các thứ tướng ấy : chỗ mát là rừng cây, chỗ sáng là mặt trời, chỗ ngăn lại là vách, chỗ thông suốt là hư không, như thế cho đến cỏ cây mảy mún lớn nhỏ tuy có sai khác, nhưng đã có hình tướng đều có thể chỉ ra được. Nếu nhất định cái thấy kia hiện trườc mắt ông, ông nên lấy tay chỉ rõ cho chính xác cái nào là cái thấy? A Nan, ông nên biết, nếu như hư không là cái thấy, đã thành cái thấy rồi, cái gì là hư không? Nếu vật là cái thấy, đã là cái thấy thì cái gì là vật? Ông nên chín chắn phân tích trong muôn vật lựa ra tánh thấy sẵn có sáng suốt thanh tịnh nhiệm mầu để chỉ rõ cho tôi, cùng các vật kia một cách rõ ràng không lầm lẫn”. TIẾT 2 - Đáp không phải cái thấy. (Đáp: Vật không phải cái thấy/ Người viết) A Nan thưa : “Nay con ở trong giảng đường này, nhìn xa thấy sông Hằng, trên thấy mặt trời mặt trăng, đưa tay chỉ ra, dẫu dùng mắt nhìn xem chỗ chỉ ra được đều là vật không phải là cái thấy. Bạch Thế Tôn, đúng như lời Phật vừa dạy, chẳng những hàng Thanh Văn sơ học hữu lậu chúng con, cho đến Bồ Tát cũng không thể đối trước hiện tượng của muôn vật vạch ra được cái thấy, rời tất cả vật riêng có Tự tánh”. Phật nói : “Đúng thế ! Đúng thế !”. Qua đoạn trên cho thấy Đức Phật chỉ ra rằng: Cái thấy không phải vật (Tất cả dạng tồn tại của vật chất từ siêu hạt đến thiên hà khổng lồ; mà nhân loại đã tìm ra hoặc sẽ tìm ra trong tương lai, cùng với những thuộc tính của nó, không phải tính thấy). Tính thấy là một thực tại, Riêng có tự tính. ĐOẠN III - CHỈ RA KHÔNG CÓ CÁI GÌ NGOÀI CÁI THẤY (Vạn vật trong tính thấy/ Người viết) Đoạn trước, ngài Anan chấp cái thấy – tính thấy ở ngoài thân thể ngài, Đức Phật đã phản bác. Nay Đức Phật lại hỏi có cái gì không có cái thấy trong muôn vật ở trước mặt. Ngài Anan ngộ ra rằng:Cái thấy – Tính thấy có trong muôn vật , kể cả hư không. Bởi vì Tính thấy phải bao trùm vạn vật, có trong vạn vật, nhỏ như vi trần, lớn như thiên hà thì các phương tiện mới thấy được. Nếu cái thấy không bao trùm tất cả thì mọi sự tương tác có thuộc tính vật chất đều vô nghĩa. Đây cũng là điều đã được nhắc tới trong Kinh Dịch: ”Dịch lớn thay! Rộng thay! Ở xa thì đến tận cùng vũ trụ. Ở gần thì tĩnh mà chính. Trong khoảng trời đất thì bao trùm tất cả”. ĐOẠN IV - NGÀI VĂN THÙ THỈNH PHẬT PHÁT MINH HAI NGHĨA. Sở dĩ mọi người sợ hãi chính vì chưa chứng quả vô học. Nói theo ngôn ngữ hiện đại tức là không có tinh thần khoa học thực sự. Chưa thực sự ngộ ra rằng những điều ta biết rất nhỏ bé trong biển trí mênh mông. Cho nên gặp một cái khác thường với tư duy cố hữu thì hoang mang sợ hãi. Điều này giống như người phát minh ra trái đất tròn thì bị phản đối. Bởi vì trái đất vuông đã trở thành tư duy cố hữu và nó cân đối với tri thức hạn hẹp, nhưng phổ biến thời bấy giờ. Nay có người bảo trái Đất tròn thì người ở phía dưới rơi đi mất thì sao? Nhưng thực tại trái đất tròn – trong điều kiện kiến thức thời trái đất vuông – có cái hợp lý với chính nó. Đó là lực hút của trái đất và lực hấp dẫn của các thiên thể, mà người thời đó không nhận ra được. Cái không nhận ra được những tính chất hợp lý liên quan mà chỉ thấy hiện tượng khác biệt với tư duy cố hữu mà “lo sợ mất chỗ bình thường” chính là “quả vô học”. Cũng như bây giờ Thiên Sứ tôi xác định Hậu Thiên Lạc Việt đổi chỗ Tốn Khôn phối Hà Đồ – không ít người lo sợ mất cái bình thường vậy. Đức Như Lai đã dạy: Những điều ta nói chỉ như nắm lá trên bàn tay của ta. Nhưng tri kiến như lá cây trong rừng.
-
Tôi nghĩ trước khi triều Lý lấy Thăng Long làm Kinh đô thì tại đây đã có thành được xây dựng từ lâu. Thí dụ như thành Đại La của Cao Biền.
-
Tôi thây amato không phải là người phản biện học thuật - có thể chưa hiểu thế nào là học thuật - nên có lời lẽ mang tính bắt bẻ. Lưu ý Amato là đây là một diễn đàn học thuật. Bởi vậy muốn chứng minh người khác sai thì phải có luận cứ. Bây giờ thí dụ anh nhấtnguyen nói không có cơ sở ở đoạn kết luận thì phải đưa bằng chứng chứng minh chứ không phải là bắt người ta phải chứng minh cái không phải chủ đề bài viết.
-
Ok. Vậy anmay nên mở một topic riêng với đề tài: Thế nào là Chân lý và nếu ý kiến của mình làm chủ đề tranh luận học thuật. Còn nếu không nêu ý kiến của mình thì là một câu hỏi, nên đưa vào mục tư vấn. Khi rảnh tôi sẽ tham gia. Còn bây giờ tự nhiên lại định nghĩa chân lý ở đây - thì không hợp nội qui. Tôi nhắc lại là nếu anmay sợ ở đây qui tụ một số kẻ nhảy zdo thì cứ việc sang web tuvilyso thể hiện - đây là trang web mà tôi có nick - còn trang khác thì tôi ko tham gia . Tôi sẽ tham gia mà. Nhắc lại làm gì.
-
Oh. Chúc mừng Bunny! Còn một việc nữa : Lên xe tăng nữa là hoàn hảo. Chúc mừng Bunny luôn. Cái này Phạm Cương lo Đào Hoa trận :lol: .
-
Vậy thì huề nhỉ? Ai nấy cứ việc giữ ý kiến của mình. Tất nhiên sẽ có một người đúng hoặc cả hai đều sai. Nhưng như vậy thì đừng cho là tranh luận ở đây ko được vì Thiên Sứ có nhiều người ủng hộ nữa nha.Tôi sẽ để những bài sì bam này vài ngày thể hiện tính ...dân chủ. Xong đó sẽ xóa.
-
Tôi cũng đang rảnh sau khi post bài. Lập luận của anmay giồng như một số người trước đây cho rằng tôi độc tài, xóa bài bịt miệng không cho họ phát biểu chân lý phản biện tôi, mà họ cho là đúng. Thí dụ như tubinhgiagia. Nhưng rất tiếc cho cái tri kiến hẹp hòi của họ là: Tôi chứng minh cho chân lý không phải để chí cho nó đúng trong diễn đàn này. Nếu anmay cảm thấy mình bị sức ep thí hãy sang một diễn đàn khác - thí dụ như tuvilyso.net chẳng hạn - tôi cũng có nick ở bên đó đấy - và dẫn đường link sang đó tôi xin hân hạnh mời anmay và cả ông Thích Nhất Hạnh cùng tranh luận - có thể ông ta làm trọng tài. Được chưa?