Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Phú Thượng viết: Phú Thượng cần xét thêm Dương khí ở đây rất vượng.
  2. Nếu bà ta trả lời thế này theo tôi vẫn xứng đáng Tiến sĩ Phó trưởng khoa: Gia các ta - thủ đô Indonesia, Los Angeles - Nam Hoa Kỳ...Đại ý là những thành phố này vẫn ở Miền Đông so với Nam Bộ. Tức là không sai tỉnh thần câu hỏi. Còn trả lời như vậy, chắc bà này không chuyên môn về Địa Lý rồi.
  3. Vai trò của nước lớn trong Hội nghị Geneva 20/07/2009 15:30 (GMT + 7) (TuanVietNam) - “Tôi chưa từng biết tới một hội nghị nào như thế. Các bên tham gia đều không liên hệ trực tiếp, và tất cả chúng tôi đều luôn luôn ở trong tình trạng có thể một bên nào đó sẽ sập cửa bỏ về” - cựu Ngoại trưởng Anh Anthony Eden, chủ tọa các phiên họp tại Hội nghị Geneva 1954, hồi tưởng về một trong những hội nghị lịch sử của thế kỷ 20. LTS: Không có gì phải bàn cãi, Hiệp định Geneva là một thắng lợi lớn của dân tộc ta lúc bấy giờ. Mặc dù 55 năm đã trôi qua, nhiều người vẫn muốn quan tâm tìm hiểu sâu sắc hơn về giai đoạn lịch sử bi hùng này của dân tộc. Đã có rất nhiều những bài viết, hội thảo về Hiệp định Geneva. Nhiều quan điểm trong các bài viết có thể gây tranh cãi hoặc cần được thảo luận thêm. Tuy nhiên, việc đăng tải chuyên đề này của Tuần Việt Nam không ngoài mục đích cung cấp cho bạn đọc một số chi tiết lịch sử có thể còn ít người biết, đồng thời, cũng để khẳng định rằng: Chỉ có huy động được tinh thần dân tộc và lòng yêu nước trong mỗi người Việt Nam, đoàn kết một lòng, chúng ta mới có thể tập trung được sức mạnh của cả dân tộc để tiến lên, đặc biệt trong những giai đoạn khó khăn của đất nước. Ông Eden không nói quá, vì hội nghị mà ông làm Chủ tịch đó thật sự là một hội nghị “ba bè bảy mối”, diễn ra trong một bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp: Chiến tranh Lạnh đang ở thời kỳ đầu, chiến tranh Triều Tiên - hay là cuộc đụng đầu trực tiếp giữa Mỹ và Trung Quốc trên bán đảo này - vừa kết thúc. Thế giới đã thực sự chia thành hai phe, và bản thân mỗi phe cũng không đồng nhất. Các nhà ngoại giao và chính trị Mỹ được lệnh phải giữ khoảng cách với Trung Quốc, đề phòng một nụ cười cũng có thể bị diễn giải thành một sự thừa nhận chính thức. Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles thậm chí còn từ chối bắt tay với Thủ tướng Chu Ân Lai, và giễu cợt rằng họ có thể gặp nhau khi chẳng may đụng xe ngoài đường. Nhà báo Mỹ Stanley Karnow, người từng có mặt ở miền Nam Việt Nam từ tháng 7/1959, cũng nhận xét rằng “phái đoàn của Việt Nam DCCH tránh gặp các đại diện của Bảo Đại” (tức phái đoàn Quốc gia Việt Nam - TVN), và tỏ thái độ tẩy chay Pháp. Không khí đó khiến Hội nghị được Stanley Karnow mô tả như “một căn nhà xây bằng các lá bài”, và khiến cựu Ngoại trưởng Anh Anthony Dulles phải thốt lên rằng ông “chưa từng biết tới một hội nghị nào như thế”. Để mô tả sự căng thẳng trong cuộc đàm phán lịch sử này, xin trích lời ông Trần Văn Tuyên - một trong những người từng tham gia Hội nghị, thành viên phái đoàn của chính quyền Bảo Đại: “16h chiều ngày 8/5, Hội nghị chính thức khai mạc. Bầu không khí nặng nề tang tóc vì Điện Biên Phủ vừa thất thủ được 24 giờ. Những phái đoàn các nước tự do lục tục tới, hỗn độn tới. Kẻ đến trước, người đến sau, không có trật tự, không có hàng ngũ, không có thể thức. Giờ họp đã sắp tới, dãy ghế khu cộng sản vẫn trống, không thấy một bóng người nào. Đúng 4 giờ kém 2 phút, người ta thấy Ngoại trưởng Liên Xô Molotov bước vào phòng họp, sau ông là phái đoàn Nga trịnh trọng nghiêm trang… 4 giờ đúng, Chủ tịch phiên họp là Ngoại trưởng Eden tuyên bố khai mạc”. Quang cảnh Hội nghị Geneva 1954. (Nguồn ảnh: n1asphost.com) Chuyện ăn ở và ý đồ chính trị Sự căng thẳng đã bắt đầu từ trước khi Hội nghị bắt đầu. Tại Hội nghị Geneva, mỗi nước lớn đều coi trọng từng hành vi ứng xử của mình, xem đó như thông điệp ngầm gửi tới đối phương và công luận. Điều này thể hiện ngay trong chuyện ăn ở. Trong khi tất cả các đoàn đến dự Hội nghị Geneva đều thuê biệt thự, thì phái đoàn Mỹ lại thuê khách sạn (L’Hôtel du Rhône) và đăng ký ở chỉ một tuần. Hành động của của Ngoại trưởng Foster Dulles tất nhiên không nhằm “chơi trội”, mà nó cho thấy thái độ mà họ muốn thể hiện: không cam kết gì với Hội nghị, sẵn sàng đến và đi bất cứ lúc nào. Ngược với tâm thế đó của Mỹ, phái đoàn Trung Quốc do Chu Ân Lai làm trưởng đoàn, kéo tới Geneva với hơn 200 người, gồm cả đầu bếp riêng. Họ ngụ tại một biệt thự lớn, cực kỳ sang trọng, Grand Mont-Fleuri, và mang theo đến đây cả đèn lồng, thảm, đồ cổ Trung Hoa để trang trí. Điều gì nằm sau sự lựa chọn xa hoa ấy? Đó là hàm ý: Trung Quốc sẵn sàng ở lại Geneva thật lâu để theo đuổi hội nghị đến cùng. Thêm nữa, dẫu sao đây cũng là lần đầu tiên những đại diện cho chính quyền Trung Hoa của Mao Trạch Đông xuất hiện tại một hội nghị quốc tế lớn, ngang hàng với tứ cường Mỹ, Nga, Anh, Pháp. (Với tâm cảm của một nước lần đầu ra mắt thế giới, thậm chí phái đoàn Trung Quốc còn mang cả… chuột bạch theo để thử thức ăn. Chuyện này được tài liệu của chính phía Trung Quốc ghi lại). Anthony Eden cũng xa hoa không kém khi thuê Reposoir, biệt thự thế kỷ 18, nằm trong công viên. Nga thuê một biệt thự khá lớn bên hồ là Village Blange. Trưởng đoàn Pháp Georges Bidault ngụ tại biệt thự Joli-Port, kế bên nơi ở của Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Đoàn Việt Nam DCCH thuê một villa nhỏ xinh là Le Cèdres. Nhưng “74 ngày ở gần nhau trong cái thành phố Thụy Sĩ yên ả này không làm cho các nhà ngoại giao phá bỏ được không khí căng thẳng và nghi kỵ lẫn nhau” – Stanley Karnow viết. (*) Ông Karnow còn chưa đề cập tới khía cạnh ngược lại, đó là sự tin cậy và phụ thuộc quá mức đối với đồng minh, trong một số trường hợp. Đoan Trang (*) Trích dịch từ cuốn Vietnam: A History, Stanley Karnow, 1983 Ngoài ra, tác giả có tham khảo tư liệu từ cuốn HIệp định Geneva 50 năm nhìn lại (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ).
  4. Hy sinh lợi ích nước nhỏ 21/07/2009 05:25 (GMT + 7) (TuanVietNam) - Mặc dù là những cuộc họp bàn về vấn đề Đông Dương, nhưng Hội nghị Geneva ban đầu không hề có tên các nước Đông Dương trong thành phần tham dự. Bước vào Hội nghị, nhiều cuộc đàm phán cũng được tách khỏi diễn đàn đa phương, để rồi một số quyết định được đưa ra trong các cuộc họp kín đó mà không có sự tham gia của bên có số phận liên quan. Kỳ 1: Vai trò của nước lớn trong Hội nghị Geneva LTS: Không có gì phải bàn cãi, Hiệp định Geneva là một thắng lợi lớn của dân tộc ta lúc bấy giờ. Mặc dù 55 năm đã trôi qua, nhiều người vẫn muốn quan tâm tìm hiểu sâu sắc hơn về giai đoạn lịch sử bi hùng này của dân tộc. Đã có rất nhiều những bài viết, hội thảo về Hiệp định Geneva. Nhiều quan điểm trong các bài viết có thể gây tranh cãi hoặc cần được thảo luận thêm. Tuy nhiên, việc đăng tải chuyên đề này của Tuần Việt Nam không ngoài mục đích cung cấp cho bạn đọc một số chi tiết lịch sử có thể còn ít người biết, đồng thời, cũng để khẳng định rằng: Chỉ có huy động được tinh thần dân tộc và lòng yêu nước trong mỗi người Việt Nam, đoàn kết một lòng, chúng ta mới có thể tập trung được sức mạnh của cả dân tộc để tiến lên, đặc biệt trong những giai đoạn khó khăn của đất nước. Căng thẳng, đàm phán và thỏa hiệp 4h chiều ngày 8/5/1954, gần một ngày sau khi tập đoàn cứ điểm của Pháp tại Điện Biên Phủ thất thủ, Hội nghị Geneva khai mạc. Phái đoàn Pháp mặc đồ đen tang tóc. Đoàn Việt Nam DCCH đến dự với tư thế người vừa thắng trận vẻ vang. Suốt một tháng đầu, Trưởng đoàn Việt Nam DCCH, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng, cương quyết yêu cầu Pháp phải rút quân khỏi Việt Nam và để nhân dân Việt Nam tự giải quyết các mâu thuẫn. Phía Pháp từ chối, ông Phạm Văn Đồng không nhượng bộ. Hội nghị sa vào bế tắc. Ngày 20/6, Thủ tướng mới của Pháp Mendès-France nhậm chức, tuyên bố sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong thời hạn 1 tháng, nếu không nội các sẽ từ chức. Và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã chứng tỏ mình là một trong những nhà ngoại giao xuất sắc của thế kỷ 20 khi ngay lập tức nhận về cho Trung Quốc vai trò đàm phán đại diện cho các nước Đông dương, nhằm phá vỡ thế bế tắc ở hội nghị. Toàn cảnh Hội nghị Geneva 1954. (Ảnh: Freddy Bertrand) Chu Ân Lai và Mendès-France đã tiến hành nhiều cuộc hội đàm kín, mà những phát biểu, diễn văn chính thức tại Hội nghị sau đó đều chỉ còn mang tính chất “trình diễn”. Ngày 23/6, Chu Ân Lai bí mật thu xếp gặp Mendès-France tại ĐSQ Pháp ở Thụy Sĩ. Chu thay bộ quân phục màu xám thường lệ để mặc Âu phục complet. Ông nói với người đồng nhiệm Pháp rằng Trung Quốc muốn trước hết là ngừng bắn ở Đông Dương, sau đó mới bàn đến giải pháp chính trị cho khu vực này. (Đây là luận điểm hoàn toàn khác với mong muốn độc lập cho toàn Việt Nam của cả Việt Nam DCCH lẫn Việt Nam Quốc gia). Chu Ân Lai tán thành khả năng có “hai nước Việt Nam”, và nhấn mạnh mục tiêu duy nhất của Trung Quốc là hòa bình trong khu vực, Trung Quốc “không có tham vọng gì hơn và không áp đặt điều kiện nào khác”. Chia cắt Việt Nam chỉ là tạm thời trước khi có hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất hai miền. Các cuộc đàm phán bắt đầu biến chuyển theo hướng thương lượng để xác định giới tuyến phân cách Việt Nam và thời điểm tiến hành tổng tuyển cử. 3h30 sáng 21/7/1954, Hội nghị Geneva kết thúc với một bản Tuyên bố cuối cùng chia cắt Việt Nam tại vùng vĩ tuyến 17, thời hạn tổng tuyển cử là hai năm kể từ ngày ký. Tối 22/7, Chu Ân Lai tổ chức dạ tiệc chia tay các đoàn. Trong số khách mời có cả Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng lẫn Ngô Đình Luyện, em trai Thủ tướng Ngô Đình Diệm của phía Việt Nam Quốc gia. Trong bữa tiệc, Chu làm như ngẫu nhiên, đề nghị chính quyền Sài Gòn mở cơ quan đại diện ngoại giao ở Bắc Kinh: “Tất nhiên, về mặt ý thức hệ thì Phạm Văn Đồng gần gũi chúng tôi hơn, nhưng điều đó không loại bỏ việc có đại diện từ miền Nam. Suy cho cùng, chẳng phải tất cả các đồng chí đều là người Việt Nam, và chẳng phải tất cả chúng ta đều là người châu Á hay sao?”. Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng - Trưởng đoàn Việt Nam DCCH - tại Hội nghị Geneva. (Ảnh: Freddy Bertrand) Đông Dương hay “chiến trường ý thức hệ” Hội nghị Geneva 1954 được tổ chức theo quyết nghị giữa Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp tại Hội nghị tứ cường ở Berlin đầu năm 1954. Sau đó Liên Xô đã thuyết phục phương Tây để CHDCND Trung Hoa cũng được tham dự. 5 nước đã họp tại Geneva từ ngày 26/4 để bàn về các vấn đề tranh chấp trên thế giới, trong đó Đông Dương chỉ là một nội dung trong chương trình nghị sự, và các nước nhỏ có quyền lợi liên quan đều không được mời dự. (Nguồn ảnh: casahistoria.net) Mãi đến ngày 2/5, Hội nghị mới chấp thuận đề nghị của Liên Xô mời thêm các phe lâm chiến tại Đông Dương (Việt Nam DCCH, Việt Nam Quốc gia, Lào, Campuchia). Như vậy, xuất phát điểm Hội nghị Geneva đã chỉ là cuộc họp của các nước lớn. Trước đó, cuộc kháng chiến chống Pháp, giải phóng dân tộc của Việt Nam đã bị quốc tế hóa: Từ năm 1950 (tức là ngay sau năm 1949 thành lập nước CHDCND Trung Hoa), quân đội và nhân dân Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ và viện trợ từ Trung Quốc và Liên Xô. Trong khi đó, phía Pháp cũng được Mỹ cung cấp tài chính và vũ khí. Viện trợ từ năm 1950 là 10 triệu USD, đến năm 1954 đã tăng lên trên 2 tỷ USD, chiếm 70% chi tiêu quân sự của Pháp ở Đông Dương. Nghĩa là chiến trường ở Việt Nam tuy không có sự giao tranh trực tiếp giữa quân Trung Quốc và quân Mỹ như ở bán đảo Triều Tiên, nhưng cuộc chiến cũng đã bị quốc tế hóa. Và hội nghị bàn về nó – Hội nghị Geneva – là nơi các nước lớn gặp nhau để mặc cả và kiếm phần lợi nhất về cho mình. Mỹ đến với Hội nghị Geneva nhằm ngăn cản một giải pháp có lợi cho “phe cộng sản”. Chiến tranh Lạnh đang dâng cao: ở châu Âu, Mỹ chống Liên Xô; ở châu Á, Mỹ phải bằng mọi cách kiềm tỏa Trung Quốc và Việt Nam DCCH. Liên Xô mặc dù đã thuyết phục phương Tây chấp thuận đưa Trung Quốc và các nước nhỏ ở Đông Dương vào bàn đàm phán, nhưng đằng sau tinh thần quốc tế vô sản, Liên Xô cũng mong muốn ngăn cản Mỹ và cả Trung Quốc có ảnh hưởng tại Đông Dương, nhất là không để Mỹ và Trung Quốc biến nơi đây thành căn cứ quân sự. Pháp lúng túng trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Phong trào phản chiến trong công luận Pháp đang dâng lên. Sau thất thủ tại Điện Biên Phủ, tướng Navarre xin thêm hai sư đoàn viện binh nhưng bị từ chối. Đối với Pháp, Hội nghị Geneva là một diễn đàn đa phương để Pháp tìm cách rút lui khỏi Việt Nam trong danh dự, tránh phải đàm phán trực tiếp với Việt Nam DCCH. Anh lo duy trì quyền lợi ở Hong Kong và đại lục nên muốn duy trì quan hệ bình thường ở mức độ nào đó với CHDCND Trung Hoa. Tuy nhiên, là đồng minh của Mỹ, Anh cũng lo ngại ảnh hưởng lan rộng của “phe cộng sản” tại châu Á. Lợi ích quốc gia là trên hết Cuối cùng là Trung Quốc. Theo ông Trần Quang Cơ, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam, “việc giải quyết vấn đề Đông Dương không phải là mục tiêu duy nhất mà Chu Ân Lai theo đuổi ở Geneva. Trung Quốc còn có hai mục tiêu khác không kém quan trọng”. (**) Đó là đi tới thiết lập quan hệ với các nước Tây Âu để có một nước CHDCND Trung Hoa được công nhận như một trong các cường quốc thế giới; trấn an và gây ảnh hưởng chính trị đối với các nước châu Á. Từ góc độ của người Mỹ, nhà báo - sử gia Stanley Karnow cho rằng mục tiêu chính của Trung Quốc là gạt bỏ mọi cớ để Mỹ can thiệp vào Đông Dương và một lần nữa đe dọa Trung Quốc. Vì thế, Chu Ân Lai phải tìm ra một giải pháp giúp Pháp ít nhất là duy trì được một phần chỗ đứng ở Đông Dương, ngăn cản khả năng Mỹ can thiệp ồ ạt vào khu vực. Những sĩ quan Pháp cuối cùng rời Hà Nội theo Hiệp định đình chiến (một trong các văn kiện của Hội nghị Geneva 1954). (Nguồn ảnh: ttvnol.com) Để làm như thế, không thể không hy sinh mục tiêu giành độc lập hoàn toàn của Việt Nam DCCH. “Nhưng Chu đã đặt các ưu tiên của Trung Quốc lên trước” – Stanley Karnow nhận định. “Chính sách ngoại giao của Trung Quốc, qua hàng thế kỷ, luôn là chia nhỏ Đông Nam Á để có thể gây ảnh hưởng lên từng nước… Một nước Việt Nam chia cắt sẽ tốt cho Trung Quốc hơn là một quốc gia láng giềng thống nhất”. Nhìn lại lịch sử, nhiều người có thể có thái độ trách móc khi nghĩ về một nền độc lập, thống nhất bị đổ vỡ; họ cho rằng khả năng thống nhất được hai miền Việt Nam là khả thi nếu không có sự can thiệp của những nước lớn. Bản thân Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng – người đã chứng kiến việc Chu Ân Lai mời đại diện chính quyền Sài Gòn tới dự tiệc và gợi ý mở cơ quan ngoại giao tại Bắc Kinh – cũng đã cay đắng nói với một trợ lý về sự “hai mặt” của Chu Ân Lai. Nhưng suy cho cùng, mỗi nước lớn đều đã đến dự Hội nghị Geneva với toan tính riêng của họ (chỉ có một điểm chung là sự cần thiết phải ngừng bắn ở Đông Dương). “Tất cả đều đã lấy những lợi ích quốc gia của họ làm phương hướng chỉ đạo hoạt động ngoại giao khi đến Hội nghị” – ông Trần Quang Cơ nhận định. “Tính chất và những giới hạn của chủ nghĩa quốc tế vô sản là một trong những điều có thể rút ra từ đó”. Hội nghị Geneva thực chất đã là cuộc đàm phán của các nước lớn, và là nơi chứng minh một sự thật: Nước nào cũng chỉ quan tâm đến lợi ích của chính họ và luôn đặt lợi ích đó lên hàng đầu khi cần thương thảo. Như Talleyrand đã nói một câu nổi tiếng, các quốc gia không có bạn bè hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích là vĩnh cửu. Kỳ sau: Bài học từ nỗi đau chia cắt Đoan Trang (*) Tư liệu trong cuốn Vietnam: A History, Stanley Karnow, 1983(**) Tư liệu trong cuốn Hiệp định Geneva - 50 năm nhìn lại, Bộ Ngoại giao và NXB Chính trị Quốc gia, 2008 Ngoài ra tác giả còn tham khảo tư liệu trong cuốn Genève Ville de Paix, 2004
  5. Bài học độc lập-tự chủ: Ta phải tự quyết định số phận của mình 21/07/2009 05:56 (GMT + 7) (TuanVietNam) - Nhìn lại Hiệp định Geneva, nhà ngoại giao lão thành Võ Văn Sung cho rằng: “Đây là trang sử bi hùng của dân tộc. Bài học lớn cho hậu thế là giữ vững độc lập - tự chủ: Chúng ta phải tự quyết định số phận của mình”. Ngày 20/7/2009 là đúng 55 năm ký kết Hiệp định Geneva, Tuần Việt Nam đã có cuộc trò chuyện với ông Võ Văn Sung- đại sứ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà tại Pháp. Ông cũng là người đã từng tham gia Ban Liên hiệp đình chiến Chiến trường Liên khu Năm cuối năm 1954 trong quá trình thực hiện Hiệp định Geneva, sau này ông là thành viên đoàn đàm phán bí mật Lê Đức Thọ-Kissinger trong thời kỳ Hội nghị Paris. Nhìn lại Hiệp định Geneva, nhà ngoại giao lão thành Võ Văn Sung cho rằng: “Đây là trang sử bi hùng của dân tộc”. Bài học lớn cho hậu thế là giữ vững độc lập-tự chủ: chúng ta phải tự quyết định số phận của mình”. “Hiệp định Geneva là thắng lợi lớn của dân tộc” - Thưa ông Võ Văn Sung, 55 năm đã trôi qua, từ ngày Hiệp định Geneva được ký kết, nhiều người có mong muốn tim hiểu kỹ lưỡng hơn về một giai đoạn lịch sử bi hùng của dân tộc và đặt câu hỏi: Geneva có thật sự là một thắng lợi ngoại giao? Đây là trang sử bi hùng của dân tộc! Bởi vì câu chuyện bộ đội và đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc, mong ước hai năm sau có tổng tuyển cử thống nhất nước nhà, nhưng hai năm đã biến thành 20 năm chờ đợi và tranh đấu. Bi kịch đó gắn vào từng gia đình Việt Nam cả trong Nam, ngoài Bắc. Nhưng 20 năm là trang sử hào hùng nhất trong lịch sử xây dựng và giải phóng đất nước. Có người không hiểu, cho rằng Hiệp định Geneva là văn bản được ký kết để chia cắt đất nước Việt Nam. Để hiểu đúng, trước hết không thể tách rời bản Hiệp định với những việc khác. Nếu nhìn tổng thể cả Hội nghị Geneva và bối cảnh thời đó, thì Hiệp định là một thắng lợi lớn của chúng ta về quân sự, chính trị và ngoại giao. Cụ thể trong các văn kiện đã ký có 3 văn kiện quan trọng nhất là: 1. Hiệp định quân sự chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình, ký giữa Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam và Tổng tư lệnh Quân đội Liên hiệp Pháp tại Đông Dương (*). Đó là về quân sự. 2. Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị khẳng định đây là Hiệp định mà Pháp thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của cả ba nước Đông Dương. Theo đó, năm 1955 Campuchia và Lào sẽ tổ chức tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu. Chính phủ được bầu ra là chính phủ của nước Campuchia độc lập và nước Lào độc lập. Riêng với Việt Nam, là một nước được công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, nhưng trong lúc chờ tổng tuyển cử, tạm thời chia làm hai miền. Quy định ghi rõ ràng, tổng tuyển cử sẽ tiến hành vào 20/7/1956. Trong đó có một nội dung rất quan trọng: giới tuyến quân sự không được xem là biên giới lãnh thổ hay quốc gia, mà chỉ có ý nghĩa tạm thời. Vì vậy không phải vì giới tuyến này mà hiểu nhầm rằng Hiệp định Geneva có tính chất chia cắt đất nước. Đây là một nội dung lớn quan trọng của Tuyên bố chính trị. 3. Trao đổi thư giữa thủ tướng Pierre Mendes-France và Phạm Văn Đồng về mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam DCCH và CH Pháp. Trong đó nêu vấn đề quan hệ kinh tế, văn hóa giữa hai nước; về việc đặt cơ quan Tổng đại diện của Chính phủ CH Pháp tại Hà Nội và sau đó phía Pháp cử ông Sainteny sang làm Tổng đại diện. Quang cảnh phiên đàm phán. (Ảnh: Freddy Bertrand) Với những gì đạt được trên bàn đàm phán, Hiệp định Geneva cũng mở ra cho chúng ta thêm một khả năng thống nhất đất nước bằng biện pháp hòa bình thông qua tổng tuyển cử. Lãnh đạo ta biết khả năng này không lớn, bởi vì đứng sau lưng Pháp là Mỹ sẵn sàng nhảy vào Đông Dương thế chỗ. Mỹ không chịu ký bản Hiệp định và ngay sau khi các bên khác ký kết, Tổng thống Mỹ Eisenhowr lúc bấy giờ tuyên bố rằng nếu tổng tuyển cử thì ít nhất có 80% nhân dân Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh, có nghĩa là Mỹ không muốn có tổng tuyển cử. Vì vậy đồng chí Lê Duẩn đã ở lại miền Nam để nghiên cứu đường lối giải phóng miền Nam một khi tổng tuyển cử không thành. Hiệp định Geneva đã đánh dấu một nửa nước được hoàn toàn giải phóng, có thời cơ hoà bình xây dựng. Nhờ vậy, miền Bắc được củng cố để làm hậu phương lớn vững chắc chuẩn bị cho khả năng phải tiếp tục chiến đấu lâu dài giải phóng miền Nam, vì hậu phương là yếu tố thường xuyên quyết định thắng lợi trong chiến tranh. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước tiếp theo đã khẳng định điều đó. Với kết quả như vậy, một lần nữa tôi khẳng định Hiệp định Geneva là một thắng lợi lớn của dân tộc ta lúc bấy giờ. - Vâng, mục tiêu của chúng ta là thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, nhưng Hiệp định Geneva chỉ giúp chúng ta dành được một nửa đất nước. Điều mà chúng tôi- những người thuộc thế hệ ngày nay, cứ thắc mắc mãi là: Với những gì đã đạt được ở Điện Biên Phủ, lẽ ra thắng lợi của chúng ta trên bàn đàm phán phải to lớn hơn rất nhiều? Trong văn kiện quân sự, trong tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneva, tất cả đều khẳng định: nước Việt Nam độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Chúng ta muốn thống nhất đất nước sau hai năm, vậy mà kéo dài tới 20 năm. Để trả lời câu hỏi trên, nhìn lại 55 năm qua, chúng ta hãy tự hỏi lại rằng, sức ta khi đó có thể làm được đến đâu? Trải qua cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước ác liệt kéo dài, chúng ta có thể nói rằng vào thời điểm ký Hiệp định Geneva quả thật sức ta khi đó không thể làm hơn được nữa. Tôi nhớ, trong một hội nghị, Bác Hồ đã phê phán có nhiều người chủ quan, nghĩ rằng ta đang thắng ở Điện Biên Phủ, thì ta có thể đánh tuốt luôn. Những người đó chỉ thấy thực dân Pháp, mà không thấy sau lưng Pháp là Mỹ. Nếu đánh Pháp tiếp thì ta có thể, nhưng nếu Mỹ - Pháp cùng hợp tác thì sức ta không đánh tiếp được. Pháp chịu thua Việt Minh, nhưng vẫn hy vọng giữ miền Nam. Khi đó, Mỹ cũng đã chuẩn bị điều kiện để nhảy vào cuộc. Do vậy, ý nghĩa thắng lợi của Hiệp định Geneva không thuần tuý là ta thống nhất được bao nhiêu phần lãnh thổ. Điều quan trọng hơn là Hiệp định ký kết không dừng lại ở những gì chúng ta đạt được, mà nó tạo tiền đề cho chúng ta chuẩn bị bước tiếp lên chặng đường dẫn đến mục tiêu cuối cùng. “Không có gì cao hơn lợi ích dân tộc” Nhà ngoại giao lão thành Võ Văn Sung. Ảnh: vietnamnet - Nếu đằng sau Pháp là Mỹ thì đằng sau chúng ta cũng có những người bạn lớn. Một trong số những người bạn của chúng ta còn thuộc nhóm Tứ-cường kia mà? Tất nhiên, chúng ta có chính nghĩa nên xét về đạo lý thì các đồng minh của ta là Liên Xô, Trung quốc và các nước thuộc phe Xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ phải ủng hộ cuộc đấu tranh của chúng ta, coi đó là nghĩa vụ không thể thoái thác. Mà thật sự các bạn cũng đã giúp chúng ta rất nhiều. Nhưng mặt khác, cũng phải thấy rằng, mỗi nước có cái chung nhưng mỗi nước bao giờ cũng có vị trí riêng, có lợi ích riêng nên việc giúp đỡ chúng ta còn phụ thuộc vào lợi ích riêng của từng nước. Trong giai đoạn đó, các bên đều có nhu cầu ổn định hoà bình, đều mong muốn xây dựng đất nước. Chẳng hạn, Trung Quốc muốn có hòa bình ở Đông Dương, nhưng phải là một nền hòa bình có lợi nhất đối với lợi ích quốc gia của họ, vừa tạo được một khu đệm ở Đông Dương với nhiều vùng lãnh thổ riêng biệt và tránh đối đầu trực tiếp với Mỹ, vừa ngăn chặn bất cứ nước nào có thể tạo lập ảnh hưởng ở khu vực này. Trung Quốc muốn trở thành nước lớn thứ 5, nên muốn nhân dịp này chen vai thích cánh với Tứ-cường. Vì vậy, trong vấn đề Triều Tiên, do "kháng Mỹ, viện Triều" mà Trung Quốc có tiếng nói với Bắc Triều Tiên. Trong vấn đề Việt Nam, Trung Quốc có giúp Việt Nam, nhưng cuộc kháng chiến là do nhân dân Việt Nam tự tiến hành. Làm thế nào để tham gia và có vai trò góp phần thúc đẩy Việt Nam đi đến một giải pháp? Liên Xô cũng muốn hoà hoãn với Mỹ và tất cả các nước phương Tây, trong đó tăng cường quan hệ với Pháp, nhằm tranh thủ Pháp trong các vấn đề ở châu Âu, vốn là một ưu tiên của nước này vào thời điểm đó. Trong bối cảnh như vậy, Hội nghị Geneva nhóm họp do sáng kiến và yêu cầu của các nước lớn nhằm thảo luận và tìm giải pháp cho hai cuộc chiến tranh nóng là chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Đông Dương. Vì vậy sau trận Điện Biên Phủ, nếu ta tiếp tục đánh tới thì cả Liên Xô và Trung Quốc sẽ không giúp ta nữa. Xuất phát từ những tính toán chiến lược như vậy, trong đàm phán về giải pháp cho Việt Nam và Đông Dương, Liên Xô và Trung Quốc một mặt đấu tranh bảo vệ lợi ích của ta, mặt khác có những thỏa hiệp và đồng thời thúc đẩy chúng ta nhân nhượng, nhằm đưa Hội nghị đạt đến kết quả họ mong muốn. Chắc chắn chúng ta mong đạt được nhiều hơn, nhưng ta phải biết nắm cơ hội và biết điểm dừng. - Vậy với những gì đã diễn ra trong lịch sử, thưa ông, khi đàm phán Hiệp định Geneva, chìa khóa của vấn đề Việt Nam nằm ở đâu, ở Bắc Kinh hay Moskva? Trong thời kỳ Hội nghị Paris, cũng có người đặt câu hỏi tương tự như trên, và tôi đã giải thích cho người ta hiểu, thực chất là chìa khóa phải nằm ở Hà Nội. Bác Hồ, rồi thông qua bài học Hiệp định Geneva và Hiệp định Paris đều dạy cho chúng ta một điều là chúng ta phải làm chủ sự nghiệp và vận mệnh của mình. - Có vẻ như một số học giả đã đúng khi cho rằng, một số người bạn lớn đã vì lợi ích dân tộc của họ để ép Việt Nam phải nhân nhượng nhiều! Phải chăng đó là giới hạn của chủ nghĩa quốc tế vô sản lúc bấy giờ? Không nên ảo tưởng vào cái gì cao hơn lợi ích của dân tộc, trừ lợi ích duy nhất mang tính trách nhiệm của toàn nhân loại, như là một nền hòa bình đích thực. Trong quan hệ giữa các quốc gia, ai cũng vậy, giúp người khác cũng vì lợi ích của chính mình. Không có cái gì là cho không, biếu không. Ký Hiệp định đình chiến 1954. (Ảnh: Freddy Bertrand) Trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh - Quả là một bài học thấm thía. Một bài học lớn về bang giao! Chúng ta thường nghe nói chính nghĩa là tất thắng. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Lịch sử nước ta và cả thế giới không thiếu những ví dụ khi chính nghĩa phải chờ đợi. Vì vậy tôi muốn nói thêm rằng chúng ta phải biết tạo điều kiện để chính nghĩa thắng lợi. Trong hoàn cảnh Việt Nam, điều kiện để chính nghĩa toàn thắng chính là phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, trong đó có phương pháp ngoại giao. Cái mà tôi tâm đắc qua Hiệp định Geneva và Hiệp định Paris sau này là bài học về trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh. - Ông có thể mô tả thế nào về trường phái ngoại giao của Hồ Chí Minh? Bài học thứ nhất, vì nước ta là nước nhỏ phải đương đầu với các đế quốc hùng mạnh nhất, mà chỉ đem sức quân sự ra đấu thì không thể thắng nổi. Vì thế chúng ta phải dùng sức tổng hợp, tất cả gắn kết với nhau, quân sự - chính trị - ngoại giao. Tôi nghiên cứu nhiều tài liệu, nhưng không thấy có nước nào vừa đánh - vừa đàm như ở nước ta. Kết hợp quân sự - ngoại giao, lấy quả đấm quân sự đi đôi với đàm phán ngoại giao, vận động chính trường quốc tế, động viên nhân dân bạn bè trên thế giới, tất sẽ dẫn đến thắng lợi. Đó là nghệ thuật ngoại giao của Bác Hồ. Thành quả lịch sử trong cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân ta là một trận Điện Biên Phủ trên mặt đất đưa đến Hiệp định Geneva tại bàn đàm phán và một trận Điện Biên Phủ trên không đưa đến Hiệp định Paris. Tôi gọi đó là sự trùng hợp kỳ tác lịch sử, có một không hai trên thế giới, là thể hiện chói lọi của trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh. Thứ hai, bài học “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Bác Hồ nghĩ ra cách sáng tạo trong ngoại giao, với cách làm của người biết lượng sức mình, lượng sức người. Đi bước nào chắc bước ấy. Bước trước chuẩn bị điều kiện cho bước sau. Đi từ thắng lợi từng bước đến thắng lợi hoàn toàn. Thứ ba, Bác Hồ luôn nhắc nhở đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, tạo sức mạnh cho dân tộc. Lấy sức mạnh đó để làm nên sự nghiệp lớn. Hơn nữa trong thời đại ngày nay để đối mặt với thực tế và giành thắng lợi trong đấu tranh và xây dựng, chúng ta phải gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại bằng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh. Thứ tư, Hội nghị Geneva dạy cho chúng ta một bài học là “bạn có lợi ích của bạn”. Ta phải hiểu điều đó để luôn chủ động. Có khi đối với hai người bạn của ta, nhưng lợi ích của bạn này với bạn kia khác nhau. Vậy thì ta có thể dùng lợi ích bạn này để thuyết phục bạn kia. Nhưng có một điều phải khẳng định, bạn có lợi ích và vị trí riêng của bạn, có thể khác nhau và khác ta. Phải hiểu điều đó một cách tỉnh táo. Đó là quy luật cuộc sống, không nên vì tình cảm nhất thời, dẫn đến chủ trương hành động thái quá, gây nên chuyện không tốt. Người hiểu biết thì đại sự biến thành trung sự, trung sự biến thành tiểu sự, tiểu sự biến thành vô sự. Và một bài học lớn là ta phải biết độc lập-tự chủ, quyết định cuối cùng phải là của chúng ta. Chúng ta phải tự quyết định số phận của mình, không được phó thác cho bất kỳ ai khác. - Vậy “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong Hiệp định Geneva đã được vận dụng ra sao? Trong Hiệp định Geneva, cái “bất biến” là Việt Nam độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đến Hiệp định Paris sau này. Còn “vạn biến” là trong lúc chưa thực hiện được mục tiêu đầy đủ, có thể nghĩ ra hàng vạn cách, kể cả để một nửa nước tạm thời chưa được giải phóng, rồi từng bước, từng bước tiến tới đạt được mục tiêu bất biến. Đó là một phương pháp ngoại giao, trong trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh. - Và trong bối cảnh khu vực đang có nhiều tranh cãi như hiện nay, theo ông "ứng vạn biến" phải nên thực hiện như thế nào để chúng ta có thể bảo vệ tốt nhất độc lập, chủ quyền lãnh thổ? Thứ nhất, phải biết chung sống hòa bình. Còn cách làm thế nào thì tùy từng ngày, từng tháng, từng năm, tùy từng động thái. Cơ bản là chung sống hòa bình. Ta không thể bê họ đi chỗ khác, cũng không thể chạy đi chỗ khác ở. Do vậy chung sống hòa bình là thượng sách. Thứ hai, chúng ta phải có thêm bạn, thêm người ủng hộ trên thế giới. Thứ ba, phải áp dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh. - Xin trân trọng cám ơn nhà ngoại giao lão thành Võ Văn Sung đã dành thời gian trò chuyện với Tuần Việt Nam. Thu Hà – Linh Thuỷ (thực hiện) (*) Gọi tắt là Hiệp định đình chiến, ký giữa hai người thay mặt Tổng tư lệnh quân đội hai bên là Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam Dân chủ cộng hoà Tạ Quang Bửu và Thiếu tướng Pháp Delteil.
  6. Được tin Trưởng nữ của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp - bà Võ Thị Hồng Anh từ trần. Thay mặt Trung Tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương và cá nhân. XIN THÀNH KÍNH PHÂN ƯU VỚI ĐẠI TƯỚNG VÀ GIA ĐÌNH. Trung Tâm Nghiên cứu Lý học Đông phương Nguyễn Vũ Tuấn Anh
  7. Vụ này để nghĩ đã. Bởi vì một phương pháp này chưa giải quyết được. Những năm có thể sinh con là Tân Mão, Nhâm Thìn, hoặc Giáp Ngọ, nhưng phải kết hợp với Tử Vi thì mới chắc ăn. Đứa sau Đinh Dậu 2017.
  8. Con út là Bình Thân - phải nhớ lấy nha. Không thì đến năm ấy 2016 wên thì hơi phiền. Con đầu để chú nghĩ đã. Hai vợ chồng đã có đứa nào chưa? Cưới năm nào vậy?
  9. Gia đình này thuộc hàng khá giả, dân có chiền, tuy chẳng phải giầu theo ý muốn. Nếu sinh con 2007 thì mạt. Sinh Tân Mão 2011. Không bàn tới Tử Vi ở đây.
  10. Rất tốt, không có vấn đề gì. Từ từ sẽ phát. Việc bà nội mất không liên quan đến thằng bé. Nếu thích thì sinh năm Tân Mão, không thể khẳng định trai hay gái.
  11. Sinh năm Canh Dần thì "dở hơi biết bơi". Sao ko sinh năm Kỷ Sửu? Muộn rùi! Đứa con dự sinh này là đầu hay thứ mấy? Cưới năm nào?
  12. Muốn có danh thì sinh con năm Dần, muốn có tiền thì Tân Mão.
  13. Thứ hai, 20-07-2009 Ảnh minh họa Nhật: trái phiếu Chính phủ Mỹ trước nguy cơ mất giá VIT - Theo thời báo tài chính Nhật, khủng hoảng tài chính nổ ra khiến người ta nghĩ đến con số thâm hụt ngân sách tràn lan của kinh tế Mỹ, có thể nói từ đó những trái phiếu Chính phủ Mỹ cũng bắt đầu xuất hiện những nguy hiểm. Chính quyền của Tổng thống Obama đã dùng 700 tỷ USD cho kế hoạch cứu trợ những tài sản xấu và kế hoạch kích thích kinh tế mới trị giá 780 tỷ USD. Chính phủ Mỹ đã bơm tiền vào các cơ cấu tài chính lớn như tập đoàn Citigroup, tập đoàn ô tô hàng đầu General Motors. Các tập đoàn lớn của Mỹ trong bão tố tài chính đều được quốc hữu hóa, tất cả đều dựa vào nguồn tiền mặt lớn từ Chính phủ để hồi sinh. Nguồn gốc cho những nguồn vốn này đều đến từ quốc trái. Với chính sách giảm thuế để ứng phó với khủng hoảng, năm 2009 (tính từ tháng 10/2008 đến tháng 9/2009) con số thâm hụt ngân sách của Mỹ đã lên mức kỷ lục là 1800 tỷ USD, tương đương với 13% của tổng thu nhập quốc nội (GDP). Theo dự tính đến năm 2010 và 2011 con số thâm hụt ngân sách của Chính phủ Mỹ sẽ vẫn bảo toàn ở mức cao là 1300 tỷ USD và 900 tỷ USD. Những hoài nghi của thị trường về con số thâm hụt ngân sách Mỹ quá lớn đều chủ yếu phản ánh trên giá cả của trái phiếu. Năm 2009, Chính phủ Mỹ đã phát hành số trái phiếu với tổng kim ngạch lên đến 1218,2 tỷ USD. So với trái phiếu của Chính phủ Nhật, trái phiếu của Chính phủ Mỹ có đặc điểm là khá linh động, hơn nữa chính phủ Mỹ có thể thông qua vị thế là đơn vị tiền quốc tế của đồng USD để "quảng cáo" cho trái phiếu chính phủ Mỹ. Nhưng từ năm ngoái tình hình đã thay đổi. Do những thua lỗ nặng từ thị trường cho vay thế chấp bất động sản, trái phiếu Chính phủ Mỹ lại trở thành nguồn vốn cứu tinh ban đầu cho các tổ chức tài chính và các doanh nghiệp lớn. Những rủi ro từ thị trường tăng cao Các nhà đầu tư bắt đầu chú ý đến những chính sách nhằm tránh nguy cơ trái phiếu chính phủ mất giá, nhanh chóng đưa ra hành động. Nếu như quan sát kỹ về phương thức phát hành trái phiếu chính phủ của Mỹ, so với trái phiếu dài kỳ, các nhà đầu tư càng quan tâm hơn đến trái phiếu ngắn hạn. Theo các dữ liệu được công bố bởi bộ Tài chính Mỹ, ít nhất trong khoảng thời gian một năm (từ tháng 4/2008), số trái phiếu ngắn hạn phát hành là 110,6 tỷ USD, trong khi trái phiếu dài kỳ phát hành là 309,2 tỷ USD. Theo nhận định của các chuyên gia phân tích, các nước bắt đầu áp dụng chính sách sử dụng nguồn dự trữ ngoại hối để mua trái phiếu chính phủ Mỹ và để tránh những rủi ro họ đã dần chuyển sang đầu tư vào trái phiếu ngắn hạn, trong đó Trung Quốc được coi là nước "chủ mưu". Trong các chính sách kích thích kinh tế của Tổng thống Obama, bảo toàn mức lãi suất là chính sách lâu dài, lợi dụng chính sách lãi suất thấp để phục hồi thị trường tài sản và chấn hưng nền kinh tế. Ba tháng qua, những chính sách này bắt đầu xuất hiện những bất thường. Chính phủ Mỹ đã phải có những hành động khẩn cấp mà hiếm khi sử dụng, đó là ngày 18/3 cục Dự trữ Liên bang Mỹ quyết định đến tháng 9 sẽ mua 300 tỷ trái phiếu Chính phủ và từ trung tuần tháng sáu đã mua 160 tỷ USD trái phiếu. Sau quyết định mua lượng lớn trái phiếu chính phủ của cục dự trữ Liên bang, mức lợi nhuận dài kỳ cũng bắt đầu giảm xuống, nhưng sau đó đã tăng trở lại. Nguồn tin Hải Hà (China5e) Nhời bàn của Thiên Sứ: :P
  14. HOA TRONG CÔNG VIÊN BATERY PARK - NEW YORK CITY Hoa trong công viên Chiều trên New york City Tượng Nữ Thần Tự Do ở New York Manhattan - Kinh đô tài chính Hoa Kỳ và quốc tế
  15. Tin vắn 21.7 Nguồn: Thanh Niên Online - trích 21/07/2009 0:09
  16. Chẳng bao giờ xã hội càng phát triển càng tàn bạo cả. Đây là sự hiểu sai vấn đề. Con người càng phát triển, càng nhìn thấy sai lầm của mình, nên tưởng vậy thôi. Nếu những phương tiện hiện đại như ngày nay mà ở trong thời hoang sơ thì cái gì xảy ra? Vấn đề là sự phổ biến những tư tưởng văn minh đến những tư tưởng hoang sơ còn tồn tại bằng giáo dục và pháp luật.
  17. Ối giời ơi - Công Minh ơi! Sư phọ chính là người hay vi vu đây.Rớt đâu thì rớt trừ những chiếc máy bay chở sư phọ đang vi vu ra. Có lần sợ ông đệ tử Phạm Cương gầy gò một mình lần đầu tiên vào Sè Gòong, tôi đổi vé máy bay bay trước một giờ để đi cùng chuyến với ông P. Cương. Máy bay bay vào đến Đà Nẵng rồi còn quay trở lại Hanoi, đổi máy bay khác rồi lại bay vào. Hú vía.
  18. LỜI TIÊN TRI 2009 Bài dưới đây trên Vitinfo chỉ là một thí dụ cho lời dự báo trên. Trong 1/ 2 đầu năm 2009 đã có nhiều sự kiện như dưới đây xảy ra trên thế giới và còn tiếp tục đến cuối năm.Thứ hai, 20-07-2009 Tổng thống bị lật đổ Manuel Zelaya Bạo loạn lại sắp nổ ra tại Honduras? VIT - Mâu thuẫn giữa các đảng phái chính trị đối lập tại Honduras đang ngày càng dâng cao sau khi cuộc đàm phán tại Costa Rica đi vào bế tắc và Tổng thống bị phế truất Manuel Zelaya tuyên bố sẽ trở về nước bất chấp những đe dọa từ phía chính phủ lâm thời sẽ bắt ông ngay khi ông đặt chân về nước. Tình hình căng thẳng hiện nay được cho là sẽ châm ngòi cho những cuộc biểu tình mới. Ông Zelaya cho biết, những trợ lý của ông ở trong nước đang “dọn đường” cho ông trở về vào cuối tuần này, và không ai có thể ngăn cản ông. Chính phủ lâm thời được thành lập sau ngày 28/6 – ngày quân đội Honduras tiến hành đảo chính – thì tuyên bố, họ sẽ trừng phạt bất kì phần tử phản kháng nào cố tình gây rối. Efrain Diaz – nhà phân tích chính trị tại Trung tâm phát triển con người, một tổ chức phi chính phủ tại Honduras – nhận định: “Không còn nghi ngờ gì nữa, căng thẳng sẽ ngày càng dâng cao. Chắc chắn chúng ta sẽ phải chứng kiến bạo loạn nếu ông Zelaya cứ quyết quay trở về”. Những người ủng hộ ông Zelaya đã lên kế hoạch kéo đến tòa nhà Quốc hội tại thủ đô Tegucigalpa vào thứ Hai (20/7) và kêu gọi 2 ngày biểu tình trong cả nước vào thứ Năm và thứ Sáu tới. Ngày 20/7, phát ngôn viên lực lượng cảnh sát đã cảnh báo người già và trẻ em không nên tham gia vào hoạt động biểu tình trong tuần này. Đồng thời, cảnh sát cũng đe dọa, họ sẽ không nhẹ tay với bất kì đối tượng nào có những hành động mang sắc thái khủng bố. Tại cuộc thảo luận tại Costa Rica - Tổng thống nước chủ nhà Oscar Arias, người từng đạt giải Nobel Hòa bình, cho rằng, căng thẳng như hiện nay tại Honduras sẽ gây ra đổ máu. Ông kêu gọi các đảng phái chính trị phục chức cho ông Zelaya và cho ông 72 giờ để giải quyết cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất tại Trung Mỹ kể từ thời kì Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, đáp lại lời kêu gọi của ông Oscar, chính phủ lâm thời Honduras cho hay, đề nghị phục chức cho Tổng thống bị phế truất Zelaya là “không thể chấp nhận được” và rằng ông Oscar đang can thiệp vào chuyện nội bộ quốc gia. Nguồn tin Tú Uyên (Theo Reuters)Tin dịch
  19. Đúng vậy! Chú cũng hay phát biểu trên diễn đàn rằng: Cách tốt nhất cho một tư duy khoa học thiển cận trước một hiện tượng cần giải quyết là chụp cho nó cái mũ "Mê tín dị đoan" và như vậy họ sẽ đỡ phải tư duy. Họ vẫn giữ được địa vị cho đến khi họ qua đời, hoặc nhận ra sai thì tìm cách biện minh sau. Còn nếu không như vậy thì khi không giải thích được không khác gì họ tự nhận mình dốt. Chỉ có sự phát triển của tư duy công đồng bị chối bỏ bời chính họ. Sự phổ biến của hiện tượng này rất nguy hiểm, nó làm trì trệ sự phát triển của cả một quốc gia, hoặc cộng đồng xã hội. Tại sao lại như vậy? Để chứng minh điều này, tôi đưa những hiện tượng và v/d sau: 1 - Khi thuyết di truyền mới xuất hiện - nó mới chỉ là giả thuyết chưa hoàn chỉnh. Nội dung của giả thuyết này là phải có một cơ chế di truyền tồn tại trong mọi sinh vật để bảo đảm sự duy trì nòi giống của muôn loài. Giả thuyết khoa học này ra đời trong bối cảnh học thuyết tiến hóa của Dac Uyn đã trở thành phổ biến khi nội dung của học thuyết này cho rằng: Mọi sinh vật đều có khả năng tự tiến hóa thích hợp với môi trường. Khối tôn giáo cho rằng: Thuyết di truyền đã xác minh rằng Thượng Đế sinh ra muôn loài theo ý của Ngài và thuyết di truyền chứng minh điều đó. Vì ý muốn của Thượng Đế nên mọi sinh vật đã duy trì nòi giống qua di truyền. Bởi vậy, thuyết di truyền đã có lý do để bị loại trừ và nó bị cấm lưu hành ở nhiều quốc gia. Sai lầm của việc cấm này là đã triệt tiêu và mất cân đối trong sự phát triển khoa học kỹ thuật của những quốc gia đó. Tất nhiên khi mất cân đối thì không thể phát triển khoa học kỹ thuật được. Người ta không thể làm ra tên lửa vũ trụ khi không nghĩ ra cơ chế kích hoạt nhiên liệu. Ngay cả cái hộp quẹt ga của bạn cũng sẽ không thể hình thành, nếu người ta không chế ra được cái vỏ hộp quẹt bằng nhựa. Những nhà khoa học nửa mùa khoác áo viện sĩ viện Hàn Lâm này đã quên đi mất rằng: Mọi sinh vật trên thế gian này duy trì nòi giống bằng cách sinh ra những thế hệ giống nó - đấy là hiện tượng khách quan và hiển nhiên Trứng rồng lại đẻ ra rồng Liu điu lại đẻ ra dòng liu điu. Thuyết Tiến hóa giải thích sự phát triển của sinh vật trên cơ sở thực tế tồn tại và phát triển của muôn loài. Thuyết di truyền giải thích cơ chế duy trì sự tồn tại đó. Đây là sự cân bằng Âm Dương theo cách lý giải của Lý học Đông phương trong việc duy trì tồn tại (Dương) và phát triển (Âm). Đó là những lý thuyết giải thích những hiện tượng khách quan. Ngăn cản sự phát triển của một giả thuyết giải thích hiện tượng khách quan tự bản thân nó đã phi khoa học. Hậu quả thực tế quan trong nhất - cho dù nhận thức được hay không - chính là mất cân đối trong phát triển. 2 - Ở những nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất, như Âu Mỹ thì người ta thấy rằng: Tỷ lệ người dân ở đây xem bói - "mê tín dị đoan" - rất cao. Vậy tại sao những nước đó lại có một nền khoa học tiến tiến. Cứ theo lý thì những nước đó phải chậm phát triển chứ? Vậy bản chất v/d ở đâu? Bản chất v/d của hiện tượng này chính là thừa nhận sự tồn tại khách quan của tính phát triển xã hội trong lịch sử. Bởi vậy nó tạo ra sự cân đối để phát triển của khả năng tư duy giải thích mọi hiện tượng và là tiền đề cho tư duy khoa học phát triển. Người ta không thể cắt đuôi con nòng nọc vì đằng nào nó cũng không cần cái đuôi đó, để nó giúp nó phát triển nhanh hơn. Một hiện tượng đáng chú ý là: Nước Trung Hoa phát triển rất nhanh trong thời gian gần đây do đổi mới tư duy và trong sự đối mới đó họ cho phép phục hồi những vấn đề thuộc về sự tốn tại khách quan của lịch sử, chính là Kinh Dịch, phong thủy...vv...Chúng ta thử tưởng tượng rằng: Nếu họ vẫn cấm những hiện tượng này thì sự phát triển lập tức mất cân đối trên bình diễn xã hội và những tư duy khám phá sẽ buộc phải hoàn chỉnh và hoàn thiện trước khi công bố, nếu muốn tồn tại. Con cóc bắt buộc phải là con cóc chứ không thể là nòng nọc. Điều này là không tưởng. Nói rõ hơn là: Người ta có thể ngăn chặn hệ quả xấu của việc "mê tín dị đoan" thật sự bằng phương pháp khác, chứ không thể bằng chụp cho nó cái mũ "mê tín dị đoan" không có "cơ sở khoa học" và hủy bỏ sự tồn tại khách quan trong lịch sử. Gần đây, có một số nhà khoa học cả trong lẫn ngoài nước lớn tiếng phê phán hiện tượng ngoại cảm là "mê tín dị đoan', là không có cơ sở khoa học. Đây chính là sự phủ nhận hiện tượng khách quan một cách phi khoa học và không có một cơ sở khoa học nào cả. Sự phản đối này là cách tốt nhất để che đậy sự dốt nát. Mọi hiện tượng khách quan đều là đối tượng nghiên cứu khoa học. Một nhà ngoại cảm thể hiện khả năng của họ và được nghiệm đúng với hiệu xuất cao - cho dù chính người đó tự nhận là có thánh thần giúp đỡ - thì nó vẫn là một hiện tượng khách quan. Một tư duy khoa học thật sự phải tìm hiểu xem bản chất nó là cái gì và giải thích nó theo phương pháp luận khoa học. Nếu quả là có thánh thần - kể cả Thượng Đế - giúp thật thì đó là một dạng tồn tại khách quan cần quan tâm để phục vụ cho sự phát triển của con người. Giáo sư Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng - khi sinh thời phàn nàn với tôi rằng: Đã chi gần 700 triệu cho việc nghiên cứu hiện tượng ngoại cảm mà không có kết quả. Họ chỉ thống kê hiện tượng mà không có một giải thích thỏa đáng. Sự thất bại của việc nghiên cứu không phải là bằng chứng để phủ nhận tính khách quan của hiện tượng. Nhưng nó đã bị phủ nhận. Đáng nhẽ ra nó phải được nghiên cứu rất nghiêm túc để phát huy khả năng của con người phục vụ cho cuộc sống của chính con người. Vấn đề là phương pháp và định hướng nghiên cứu. Nếu "TT nghiên cứu tiềm năng con người" hợp tác với "TT nghiên cứu Lý Học Đông phương" thì vấn đề sẽ khác ngay. Khoa học là nhận thức hiện tượng khách quan. Nay nó sờ sở ra đấy mà bảo nó mê tín thì chẳng có cơ sở khoa học gì cả. Cụ thể như: Có hiện tượng Đức Mẹ khóc ở Nhà Thờ Đức Bà - hiện tượng khách quan là như vậy - còn nguyên nhân thì chưa biết. Có người hỏi tôi: "Nếu là anh thì anh xử lý thế nào?". "Nếu là tôi thì tôi coi đây là một cơ hội làm ăn của ngành du lịch - trường hợp Đức Mẹ khóc hoài. Còn Đức Mẹ chỉ khóc một thời gian ngắn thì nên qui định đường đi bộ. tạo một không gian trống để giáo dân chiêm bái, giữ an ninh tử tế và tạo điều kiện cho người nghèo giữ xe kiếm tiền". Trên thực tế đã xảy ra đúng như vậy, không có cấm đoán ngăn cản vì - mê tín dị đoan. Mọi người đều vui vẻ. Nhưng vui nhất là mấy người giữ xe. Lại hỏi tôi: "Anh giải thích hiện tượng này như thế nào?". "Ngay cả trường hợp Đức Mẹ hiển linh khóc thật thì cũng có thể do bụi bay vào mắt". Tính tôi cũng hay khôi hài. Nhưng trường hợp này thì phải hỏi Đức Mẹ xem Ngài khóc vì lý do gì đã. Ngài chưa trả lời thì mọi cách giải thích đều phải căn cứ vào tiêu chí khoa học để tìm cách giải thích đúng nhất. Bởi vậy, sự phát triển khoa học của những nước có tỷ lệ dân coi bói - mê tín dị đoan - cao như các nước Âu Mỹ bản chất vấn đề là thừa nhận sự tồn tại khách quan trong lịch sử xã hội của họ. Phong thủy, Tử Vi, Dịch bốc, Đông y....vv...chính là những tồn tại khách quan trong lịch sử phát triển xã hội Đông phương và nếu nói rộng ra thì bói toán là sự tồn tại khách quan trong xã hội loài người. Những phương pháp bói toán tồn tại khi nhân loại chưa có khái niệm khoa học như hiện nay và tất nhiên nó chưa được "khoa học công nhận" vì lúc ấy nhân loại chưa có. Trong sự phát triển của con người đã loại trừ những sai lầm. Nhưng sự tồn tại của phong thủy và các phương pháp dự báo này đã vượt không gian và thời gian lịch sử. Chẳng có một phương pháp khoa học hiện đại nào có thể có được khi vượt qua được một sự thử thách siêu đẳng như vậy, trong sự thay đổi không gian môi trường sống của nhân loại từ cổ sơ đến hiện đại - nếu như đằng sau nó không phải là một chân lý. Chân lý đó chính là vì nó là hệ quả quả một lý thuyết thống nhất vũ trụ - Thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử - vốn là sự kế thừa của một nền văn minh siêu việt đã tồn tại trên trái Đất này. Điều này sẽ được bàn tiếp sau đây. 11g 26 phút sáng tại Long Island, khuya rồi so với đồng hồ sinh học của chú Thiên Huy ạ.
  20. Tặng Phú Thương bức ảnh này. Đây chính là khu tài chính ở NY - chi phối mọi hoạt động tài chính Hoa Kỳ và Quốc tế. Ảnh chụp từ đảo: Nữ Thần Tự Do.
  21. Cảm ơn anh Làng Xưa quan tâm giúp đỡ. Chúng tôi sẽ có chuyên gia Hán Nôm có văn bằng cao đi cùng. Chúng tôi sẽ sắp xếp và thông báo lên đây.
  22. Khoa học là một khái niệm phản ánh tư duy trừu tượng có khả năng tổng hợp những nhận thức thực tại khách quan để thành một nhận thức tổng quát có tính quy luật liên hệ một cách hợp lý giữa các hiện tượng khách quan nhận thức được. Tôi định nghĩa khoa học là như vậy. Khoa học không phải là những phương tiện nhận thức. Do đó nó cần có tiêu chí khoa học để kiếm chứng tư duy khoa học. Cũng như tôn giáo tín ngưỡng nó cần tiêu chí là "đức tin". Phong thủy có phải là một đức tin không? Nếu nó là một đức tin mơ hồ thì nó sẽ không có một cơ sở tồn tại hàng ngàn năm qua - ra đời trước cả tôn giáo và tồn tại ngay trong tư duy khoa học - nếu như nó không chứng tỏ được hiệu quả của nó trong việc thực hiện những phương pháp phong thủy cho cuộc sống con người. Phong thủy có phải khoa học không? Không thể lấy cái chưa hiểu biết của con người mà bảo nó phi khoa học. Nếu vì chưa hiểu biết thì là phi khoa học thì tư duy khoa học không có nhu cầu phát triển tiếp. Bởi vì bản chất của khoa học là tìm hiểu và nhận thức thực tại khách quan. Phong thủy là một hiện tượng tồn tại khách quan trong lịch sử phương Đông - một bộ phận quan trọng của lịch sử nhân loại. Nó tồn tại theo chiều dài lịch sử nhân loại bằng chính hiệu quả của nó, chứ không phải bằng đức tin. Nếu xét về bản chất nó có khoa học hay không thì phải lấy tiêu chí khoa học để phán xét, chứ không phải vì "chưa được khoa học công nhận". Tiêu chí khoa học phát biểu rằng: Một lý thuyết hoặc một giả thuyết khoa học được coi là đúng phải giải thích hợp lý hầu hết những hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó một cách hoàn chỉnh, nhất quán, có tính khách quan, tính quy luật và khả năng tiên tri. Phong thủy Tàu thì tồn tại nhiều trường phái rời rạc - không có tính nhất quán - bởi vậy, không thể trở thành một kiến thức hoàn chỉnh để đưa vào chương trình giáo dục. Nhưng Phong Thủy Lạc Việt thì hoàn toàn nhất quán và phản ánh đúng tiêu chí khoa học. Do đó, Phong Thủy Lạc Việt - phục hồi nhân danh quan điểm nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử - hoàn toàn khoa học, xét theo tiêu chí khoa học. Đấy là nói dai dòng văn tự thì vậy. Còn nói vắn tắt thì là thế này: - Căn cứ vào đâu để bảo phong thủy là mê tín, là tín ngưỡng? - Căn cứ vào người ta tin mới làm, còn không tin không làm. - Vậy xin hỏi: Giữa một anh thợ sửa máy vi tính bị chê và một anh thợ được tín nhiệm, anh nào là mê tín? * liệu người thuê sửa máy vi tính có biết về máy không? Nếu biết họ đã ko cần thuê sửa, vì họ không biết nên phải thuê thì là mê tín sao? - Phong thủy chưa được khoa học công nhận. - Cứ phải có khoa học công nhận nó mới tồn tại khách quan sao? Xin lỗi phong thủy có mặt trong loài người khi cả nhân loại chưa có khái niệm khoa học. * Hãy chỉ vào một con bò và yêu cầu nhà khoa học xác nhận đấy là con bò - một thực tại khách quan. Nhưng nó không thể nhập vào một bầy bò nào đó thì nó chỉ không là thành viên của bầy bò đó thôi, và nó vẫn là một con bò theo định nghĩa khách quan về loài bò. - Phương pháp luận phong thủy là mơ hồ. - Ơ! Thế vì anh không hiểu anh bảo nó phi khoa học à? * Là một nhà khoa học, hoặc chí ít anh cũng tự nhận là có tư duy khoa học để phê phán phong thủy là mê tín, là tín ngưỡng thì anh phải chỉ ra nó mê tín ở chỗ nào ngay trong phương pháp luận của nó - nhân danh tiêu chí khoa học chứ? Anh không thể nhân danh cái hiểu biết khoa học ít ỏi của anh để bảo nó phi khoa học được. Mà phải căn cứ vào tiêu chí khoa học để xác định. Nếu căn cứ theo tiêu chí khoa học thì không có cơ sở nào để bảo Phong Thủy là mê tín và là một tín ngưỡng cả. Tối rồi theo đồng hồ sinh học của tôi. Bây giờ là 12g đêm giờ Việt Nam. Còn tiếp
  23. Khi con người chỉ là một loài trong muôn loài của tự nhiên thì "gà ăn bọ, người ăn gà, bọ ăn người" hoàn toàn thuện theo quy luật thiên nhiên. Nhưng khi con người đã làm chủ thiên nhiên và chi phối thiên nhiên thì cần có ý thức về môi trường tồn tại. Không thể tàn sát thiên nhiên một cách vô thức mang tính sinh tồn như thời hoang sơ. Quan niệm "sống tự nhiên thuận theo đạo và lòng không hối hận" có tính cá nhân, không thể thành một hình thái ý thức chính thống như luật pháp, đạo đức được giáo dục chính thống liên quan đến những giá trị bảo tồn thiên nhiên. Ngay cả Phật giáo - một tổ chức tôn giáo có cộng đồng người ủng hộ đông đảo - cũng không thể đem giáo lý đó phổ biến trong con người cho việc bảo tồn thiên nhiên. Làm được điều này chỉ có luật pháp và giáo dục chính thống trong nhà trường.Luật cấm bắt tổ chim và săn bắt vào mùa Xuân - có từ thời Hùng Vương.
  24. Trực thăng rơi ở Afghanistan, 16 người chết Chiếc trực thăng bị rơi giống chiếc trong ảnh. Một chiếc trực thăng dân sự đã bị đâm ở miền nam Afghanistan làm ít nhất 16 nhân viên dân sự chết và năm người bị thương, các quan chức Nato xác nhận. Chiếc trực thăng đâm ở căn cứ không quân Kandahar trong lúc đang cất cánh. Nato bác bỏ khả năng có sự tham gia của quân nổi dậy. Tin tức cho hay chiếc trực thăng bị đâm là loại Mi-8 do Nga sản xuất Đây là vụ đâm thứ hai trong một tuần qua. Hôm thứ Ba sáu người đã chết khi trực thăng rơi ở tỉnh Helmand. 'Không bị bắn' Hãng tin Nga Interfax trích lời phát ngôn viên Cục Vận tải Hàng không Liên bang Nga nói chiếc trực thăng bị rơi, Mi-8, do công ty hàng không Nga Vertical-T sở hữu. Quốc tịch của những người thiệt mạng hiện vẫn chưa được công bố. Một tuyên bố của Nato cho biết: Máy bay đâm ở Kandahar nơi có căn cứ không quân lớn nhất của Nato ở miền nam ''Một chiếc trực thăng dân sự theo hợp đồng đã bị đâm khi cất cánh từ căn cứ không quân ở Kandahar. ''Các nhân viên cứu trợ khẩn cấp đã có mặt tại hiện trường. Hiện chưa rõ lý do dẫn đến tai nạn nhưng đây không phải là hành động của quân nổi dậy gây ra.'' Căn cứ không quân Kandahar là căn cứ lớn nhất của Nato ở nam Afghanistan nhưng có nhiều máy bay dân sự bay tới và đi từ căn cứ này. Phát ngôn viên của Nato, bà Sam Truelove nói với hãng AFP rằng tất cả những người thiệt mạng đều là nhân viên dân sự. Bà cũng nói tình trạng của những người bị thương giờ còn chưa rõ. Vertical-T được thành lập năm 1992 và bắt đầu làm việc ở nước ngoài từ năm 1998, khởi đầu ở Ý và sau đó là ở Đức, Đông Timor, Yemen và Hy Lạp, theo thông tin trên trang web của công ty. Theo BBC
  25. Đúng vậy! Nhưng đây chúng ta nói về cách giết có tính tàn sát với ý thức tận diệt phi nhân. Đến lúc nào đó, con người sẽ chỉ ăn thit vật nuôi và bảo tồn thiên nhiên. Ý thức bảo tồn thiên nhiên phải bắt đầu từ những giá trị nhân đạo.