Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Tích hợp Vật lý & Phật học? GS.TS. Cao Chi Nguồn: Chungta.com 09:01' AM - Thứ bảy, 26/04/2008 Liệu có thể tìm một dạng học thuyết mô tả được thống nhất các hiện tượng vật lý và những hiện tượng thuộc phạm vi tâm linh. Đó sẽ là một dạng lý thuyết thống nhất lớn mà con người có thể nghĩ đến. Trong hiện trạng những vấn đề tâm linh vẫn đang ở trong trong phạm trù triết học thì lý thuyết thống nhất đó có thể là một sự tích hợp giữa vật lý và triết học. Theo Einstein thì Phật học có thể là tiền thân của một sự tích hợp như vậy. Ông nói: "Nếu có một tôn giáo nào thích nghi được với những nhu cầu khoa học tiền tiến thì đó là Phật giáo". (If there is any religion that would cope with modern scientific needs it would be Buddhism). Trong vòng hơn 2500 năm Phật học đã tích lũy quá trình suy tư của nhiều tu sĩ minh triết để hình thành một học thuyết sâu sắc về thế giới khách quan lẫn thể giới tâm linh. Có thể nói Phật học là một học thuyết về nguyên lý đã bao trùm cả vật lý học (chuyên nghiên cứu thế giới khách quan) và cả tâm linh học (chuyên nghiên cứu những vấn đề thuộc tâm linh - theo Phật học thì tâm linh là một phạm trù song đối với thể xác), vậy thì Phật học có thể nói là một học thuyết có tính thống nhất cao hơn cả vật lý. Tuy nhiên chúng ta cũng cần phân biệt hai phương thức nghiên cứu giữa Vật lý và Phật học. A. Phương thức nghiên cứu của Phật học là hướng nội vào tâm linh con người Theo lịch sử Phật giáo thì Thái tử Tất Đạt Đa sau nhiều năm tu khổ hạnh trong rừng già đã tìm thấy chân lý của kiếp sống của con người, của các quy luật trong vũ trụ. Liệu có một cơ sở khoa học nào cho phương thức hướng nội này chăng? Phương thức này có thể dựa trên cơ sở của nguyên lý vị nhân. Nguyên lý vị nhân [1] là nguyên lý theo đó ta thấy vũ trụ như thế này bởi vì nếu vũ trụ khác đi thì ta không thể tồn tại được để mà quan sát nó. Nguyên lý vị nhân có thể là sự cộng hưởng, sự hòa âm, sự giao cảm giữa vũ trụ và con người. Nếu như nguyên lý vị nhân (anthropic principle) là đúng thì rất có thể tâm linh con người có một mối liên hệ mật thiết với vũ trụ, như thế biết khai thác tìm tòi trong tâm linh người ta có thể khám phá ra vũ trụ (so sánh với Socrate: biết bản thân con người sẽ biết được cả vũ trụ). Phương thức hướng nội vào tâm linh thực hiện qua thiền (meditation). Thiền có nhiều dạng thức tùy theo môn phái và lộ trình, giúp đạt nhiều mục tiêu: giác ngộ về lẽ sống, tư duy về quy luật của vũ trụ, kỹ thuật khí công, khơi dậy những tiềm năng kỳ lạ của con người,... Thực tế với phương thức nghiên cứu này Phật học đã đạt những thành quả về cả hai mặt liên quan đến con người và vũ trụ. Riêng về phần con người Phật học đã đi sâu vào những phần sâu thẳm của tâm linh, vượt xa giới hạn của tâm lý học, của học thuyết Freud. Hiện nay khoa thần kinh học (neuroscience) cho rằng các phát hiện sinh học của bộ não có thể tương hợp với nhau nếu được tích hợp với lý thuyết Freud [3], song điều đó cũng chưa thể giải thích được các khía cạnh sâu thẳm của tâm linh, các công năng của thiền. B. Phật học ngoài tâm linh con người còn phát hiện ra nhiều bản chất quan trọng của vũ trụ của thế giới bên ngoài nhờ sử dụng cộng hưởng của tâm linh với vũ trụ. 1. Vấn đề chân không Như chúng ta biết trong lý thuyết lượng tử có thể nói vấn đề chân không là vấn đề quan trọng số một. Chân không không phải là một "môi trường", trong đó không có gì cả, trái lại chân không là một loại "ether" đặc biệt chứa những thăng giáng phần lớn của trường lượng tử điện từ. Chân không có thể chứa 3 khả năng đối với vật lý hiện đại : - Vì chứa những thăng giáng điện từ, cho nên có thể tính được năng lượng chân không theo phương pháp phân tích Fourier ( dao động tử )và thấy rằng chân không có một năng lượng khổng lồ. Một hiện tượng quan trọng xảy ra trong chân không là lực Casimir và công nghệ nanô không thể không tính đến lực Casimir. - Năng lượng chân không có thể là năng lượng tối gây nên quá trình giãn nở có gia tốc của vũ trụ. - Cuối cùng là một khả năng quan trọng, có thể đó là nguồn gốc để giải quyết bài toán thống nhất. Nhàvật lý người Nga Andrei Sakharov đã đưa ra một cách nhìn táo bạo vào năm1967: nguồn gốc của hấp dẫn có thể là những thăng giáng của chân không với sự hiện diện của vật chất, như vậy từ chân không ta có hấp dẫn và các tia sáng sẽ bị cong vì hiện tượng khúc xạ của chân không? Hiện nay nhiều nhà vật lý quan niệm rằng không - thời gian được hình thành từ những thăng giáng lượng tử của chân không ( hình 1). Như vậy từ chân không chúng ta có tất cả. Một điều kỳ diệu là Phật học cũng đi đến một kết luận như thế! Phật học cũng xem chân không như nguồn gốc của mọi hiện tượng và không phân biệt chân không với hiện tượng qua luận thuyết nổi tiếng "Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc". Trong Bát nhã Tâm kinh, Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: "Này Xá Lợi Phất! Thế giới hiện tượng hay Sắc này là Không, và Không quả thực là thế giới hiện tượng. Không không khác với thế giới hiện tượng hay Sắc, thế giới hiện tượng hay Sắc không khác với Không. Cái gì là thế giới hiện tượng thì cái đó là Không, cái gì là Không thì cái đó là thế giới hiện tượng". 2. Vấn đề đa vũ trụ: Trong Vật lý học người ta nói đến những vũ trụ song song cấu thành đa vũ trụ. Người ta phân các vũ trụ song song thành 4 mức, ứng với 4 góc ở hình vẽ 1. Hình 1. Hình này có 4 góc I / Góc trái trên: các vũ trụ song song mức I, cư trú trong cùng một bong bóng (bubble), quy luật vật lý giống nhau, các điều kiện ban đầu có thể khác nhau, sự tồn tại của chúng dựa trên CMB Þ vũ trụ vô cùng, vật chất phân bố đều trong vũ trụ. II / Góc trái dưới: các vũ trụ song song mức II, cấu thành bởi nhiều bong bóng, có cùng những phương trình cơ bản vật lý song các hằng số vật lý, các hạt cơ bản, số chiều không gian có thể khác, sự tồn tại của chúng dựa trên lý thuyết lạm phát hỗn độn vĩnh cửu. III / Góc phải dưới: các vũ trụ song song mức III: có các tính chất như ở mức I&II, có nguyên lý unitarity, nguyên lý này đúng ngay cả đối với hấp dẫn lượng tử; theo mối tương quan AdS / CFT có thể hiểu được rõ ràng hơn nghịch lý thông tin trong lỗ đen. Trạng thái sống, chết của con mèo Schrodinger thuộc 2 vũ trụ cổ điển song song. IV / Góc phải trên: nhiều cấu trúc toán học khác nhau (với những phương trình vật lý khác nhau) sẽ cho những vũ trụ song song khác nhau, sự tồn tại mức IV dựa trên phỏng thuyết thực tại toán học º thực tại vật lý, có thể kiểm nghiệm nhờ một lý thuyết TOE. Trong Phật học, vũ trụ cũng mang tính đa nguyên. Phật giáo phân thế giới thành 3 loại: Tiểu thiên, Trung thiên & Đại thiên. Đại thiên thế giới gồm khoảng một tỷ thế giới. Cách đây hơn 2500 năm Phật học đã biết ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có hằng hà sa số thể giới khác. Tuy giữa các thế giới song song trong vật lý học và các thế giới Phật học chúng ta chưa thể thiết lập một mối tương hợp đồng cấu hoặc đẳng cấu. Điều đáng nói ở đây là khái niệm đa vũ trụ là quan điểm tạo nên sự thống nhất giữa vật lý học và Phật học trong nhận định về vũ trụ. Một điểm đáng chú ý nữa là trong vật lý học cũng như trong phật học người ta đều nói đến nhiều dạng hình học của vũ trụ 3. Tính vô thường: Các thăng giáng của chân không lượng tử (phóng theo tranh Bọt thời gian của hoạ sĩ Jean-Michenl Joy, L'Ecume du temps, Saint Etienne, 1990). Từ những thăng giáng đó đã hình thành vũ trụ Trong vật lý học người ta quan niệm rằng mọi vật đều luôn biến động. Ví như vũ trụ cũng luôn thay đổi, hiện nay vũ trụ đang giãn nở, xuất phát từ một bigbang. Lúc vũ trụ được 10-35 giây xảy ra quá trình nở lạm phát (inflation) và kết thúc vào thời điểm 10-32 giây. Đây là một quá trình giãn nở bột phát của vũ trụ: trong một thời đoạn ngắn ngủi, kích thước của vũ trụ đã tăng lên 1050 lần. Quá trình nở lạm phát có thể bắt nguồn với một dạng năng lượng tối. Sau Bigbang 10-33 giây vũ trụ ở vào trạng thái plasma của quark và gluon (PQG ). Trong trạng thái này quark chuyển động tự do và tương tác với nhau bằng trao đổi gluon. Lúc vũ trụ được 10 - 6 giây thì hình thành các hadron. Lúc vũ trụ được 100 giây thì các hạt nhân nguyên tử được hình thành. Lúc vũ trụ được 300. 000 năm tuổi thì bức xạ tách khỏi vật chất và dẫn đến CMB (Cosmic Microwave Background - bức xạ tàn tư của vũ trụ). Sau đó vũ trụ nguội dần và nhiều quá trình chuyển pha đã xảy ra. Vậy vũ trụ luôn biến đổi. Thậm chí các hằng số vật lý có thể thay đổi theo không gian và thời gian. Các phương trình vật lý đều chứa những hằng số như c-vận tốc ánh sáng, h-hằng số Planck, G-hằng số hấp dẫn. Người ta vẫn cho rằng đó là những đại lượng không thay đổi theo không gian và thời gian. Hai màng chuyển động trong một không gian nhiều chiều và va chạm nhau Theo nhiều kịch bản vũ trụ luôn tồn tại. Trước Bigbang vũ trụ có kích thước lớn vô cùng, sau đó co lại và vào thời điểm Bigbang trở thành nhỏ như để chui qua một lỗ kim xong giãn nở trở lại. Theo kịch bản của Gabriele Veneziano, vũ trụ nguyên thuỷ đã co lại từ những thăng giáng và tạo nên những lỗ đen, trong những lỗ đen này đã xảy ra những bigbang, trong số đó có Bigbang của chúng ta. Như vậy mỗi lỗ đen có thể tạo ra những vũ trụ riêng của đa vũ trụ. Một điều có thể khẳng định: quá trình chuyển tiếp giữa "tiền" và "hậu" bigbang vẫn là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Người ta cho rằng có thể có thông tin về thời kỳ tiền bigbang nhờ thu các sóng hấp dẫn phát sinh từ thời kỳ này, dấu tích của chúng sẽ là những thăng giáng trên phông của bức xạ tàn dư. Phật học có quan điểm vô thường khẳng định sự biến đổi thường trực của vũ trụ như trong vật lý học. Vô thường có nghĩa là không thường, không mãi mãi ở trong một trạng thái nhất định mà luôn thay đổi hình dạng. Đi từ trạng thái hình thành, cao to, thấp nhỏ, tan rã v.v.. Đạo Phật gọi đây là những giai đoạn thay đổi: thành, trụ, hoại, không. Tất cả sự vật trong vũ trụ, từ nhỏ đến lớn như hạt cát, thân con người, đến lớn như trái đất, mặt trăng, mặt trời, đều nằm trong định luật vô thường. Mọi vật trên đời này đều phải thay đổi và hoại diệt, không vật gì thường hằng dù chỉ trong phút giây (birth, maturity, transformation and destruction). Quan điểm vô thường của Phật học trùng hơp một cách chính xác với quan điểm mọi vật đều biến đổi trong vật lý học. C. Kết luận Phật học không những có những mối tương đồng với vật lý trong các lĩnh vực vũ trụ học, các hạt cơ bản, mà còn nhiều mối tương đồng khác với sinh học, tâm lý học, phân tâm học (psychoanalysis), tâm lý trị liệu (psychotherapy),... Tư tưởng Phật học có thể là suối nguồn dồi dào cho khoa học nói chung. Tích hợp các lý thuyết lớn trong vật lý với những tư tưởng Phật giáo hy vọng sẽ dẫn đến một " lý thuyết thống nhất" bao trùm vũ trụ và tâm linh con người. Tài liệu tham khảo: [1] Fritjof Capra, The Tao of Physics [2] S. Hawking, Lược sử thời gian, bản dịch của Cao Chi & Phạm Văn Thiều [3] Mark Solms, Scientific American, tháng 5 năm 2004 [4] Edward Conze, A short history of Buddhism
  2. Nổ lớn tại nhà máy thủy điện ở Nga Cập nhật lúc 12:12, Thứ Ba, 18/08/2009 (GMT+7) -Vào khoảng 5h sáng ngày 17/8 theo giờ Moscow đã xảy ra một vụ nổ tại nhà máy thủy điện lớn nhất của Nga-Sayano-Shushenskaya khiến 65 người mất tích ,11 người chết và 14 công nhân bị thương.
  3. Lại thêm một sự chứng tỏ tư duy đơn giản hơn khi anmay nhìn về bản chất Lý học Đông phương. Vì tính thất truyền nên chỉ còn phương pháp ứng dụng có hiệu quả mà ngươi ta không hiểu tại sao. Nên cứ tưởng nó được duy trì bằng niềm tin.
  4. Cách nhìn của anmay về việc hòa huyết đơn giản nhỉ? Như vậy Hoa Kỳ một nhà nước đa chủng tộc thì sau này thành dân tộc da màu xám tro chăng? Úc do hòa huyết giữa da trắng và da nâu thành chủng tộc nâu nhạt chăng? Đấy là tư duy đơn giản không phải lá y kiến sắc sảo.
  5. Thiên Đồng xem lại hình, không thì bảo Art nó làm lại. Tôi cũng không thấy hình.
  6. Kính thưa quí vị quan tâm. Tôi đã rất nhiều lần trình bày trên các diễn đàn rằng: Di vật khảo cổ, cũng như các tài liệu tham khảo khác liên quan đến lịch sử và cả phương tiện nghiên cứu, như thẩm định carbon phóng xạ, phân tử di truyền...vv...Đều chỉ là phương tiện nghiên cứu để biên minh cho một giả thuyết khoa học về lịch sử. Bản thân di vật khảo cổ không phải là bằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử mà chỉ là một hiện tượng tồn tại khách quan - một phương tiện - minh chứng hoặc bác bỏ một giả thiết, hay những luận cứ về lịch sử. Bởi vì, di vật khảo cổ tự thân nó không nói lên điều gì. Nói cụ thể hơn là: Những di vật khảo cổ được người ta gán cho Thời Hùng Vương, hay nguồn gốc dân tộc Việt; như: những hộp sọ người tiền sử, di vật đồ đá, đồ đồng, sắt ...vv...không hề có dấu ấn xác định của triều đại Hùng Vương - Nhưng nó là hiện tượng khách quan, biện minh, hoặc bác bỏ một giả thuyết, hoặc luận cứ lịch sử. Bản thân di vật khảo cổ không phải là phương tiện duy nhất chứng minh cho lịch sử. Khiếm khuyết của việc sử dụng phương tiện này là những di sản không tìm thấy, hoặc không thể tìm thấy. Từ đó chúng ta thấy rằng: Bản chất của một quan điểm lịch sử phải xuất phát từ một hệ thống luận cứ hợp lý và khoa học trên cơ sở tiêu chí cho một giả thiết khoa học. Hay nói cách khác: Một quan điểm lịch sử được gọi là khoa học hay không - là căn cứ vào tiêu chí khoa học cho một giả thiết khoa học, chứ không phải căn cứ vào phương tiện sử dụng. Cái áo blu trắng, kính hiển vi điện tử và máy vi tính cao cấp không làm nên một giả thuyết khoa học. Từ đó cho thấy rằng: Nhưng di vật khảo cổ có niên đại tương đương thời Hùng Vương không thể xác minh tính tự thân của nó là sản phẩm của lịch sử văn hóa xã hội phổ biến của Thời Hùng Vương, nếu như không có luận cứ minh chứng điều đó. Thí dụ như: Không thể lấy hình ảnh của con trâu đang cày trên đồng ruộng hiện nay để xác định rằng: Xã hội Việt Nam ở thế kỷ 21 đang ở tình trạng từ thế kỷ II BC. Đó chính là nguyên do để tôi khẳng định rằng: Tất cả những di vật khảo cổ tìm thấy có niên đại tương đương Thời Hùng Vương phải được chứng minh bằng những luận cứ xác đáng, có hệ thống để xác định nó ở vị trí nào trong một thời đại có niên đại tương đương và không gian lịch sử của nó. Nhưng họ không hề có một luận cứ nào cho điều này. Sai lầm của "hầu hết các nhà sử học trong nước" và của "cộng đồng khoa học lịch sử thế giới" (Thực ra chỉ thấy có vài người), chính là họ đã tuyệt đối hóa sự tương đương niên đại - (ngay cả việc này cũng phải được xác minh tính đúng tuyệt đối của phương pháp xác minh niên đại) - và gán cho nó thuộc về thời đại Hùng Vương, mà không hề đếm xỉa gì đến không gian lịch sử và những mối quan hệ lịch sử, văn hóa xã hội khác liên quan. Đây chính là một trong những cơ sở để tôi xác quyết và khẳng định rằng: Quan điểm phủ nhận giá trị văn hiến lịch sử truyền thống của dân tộc Việt trải gần 5000 năm văn hiến hoàn toàn không có cơ sở khoa học. Cho dù quan điểm đó được "Hầu hết các nhà nghiên cứu lịch sử trong nước ủng hộ" và được "cộng đồng khoa học thế giới thừa nhận" so với một cá nhân tôi. Chân lý không lệ thuộc vào số đông.
  7. Nhời bàn của Thiên Sứ Những thứ tìm thấy gọi là "Di vật khảo cổ" này - cho rằng sự kiểm tra Carbon C14 là hoàn toàn chính xác - thì cũng chỉ có thể kết luận là có niên đại tương đương với Thời Hùng Vương của Việt sử. Còn bào rằng thì nà mà ló chính là di vật thời Hùng vương thì thật buồn cười quá. Không thể vì có niên đại tương đương thì bảo nó là của thời Hủng Vương được. Muốn nói vậy thì phải chứng minh. Chẳng có một luận thuyết chứng minh mà cứ gán đại, rồi la toáng lên là "pha học" .Híc!
  8. Cần phải cho ý kiến của gia chủ:- Mấy tầng? Mỗi tâng gồm các phòng với chức năng ra sao?...vv.....
  9. Cô có thể chụp hình / ảnh ngôi mộ đưa lên đây không? Nếu có bản đồ vị trí ngôi mộ từ bản đồ vệ tinh càng tốt.
  10. Wildlavender thân mến. Em ghé nhà anh, lấy Bach Hoa xà ngâm rượu - một xị, ghé hai anh chị này, hoặc bảo Thiên Đồng đi cũng được - đưa cho anh chị loc da cứu con đó, bảo họ xức vào vế sẹo mỗi buổi tồi, sẹo sẽ liền. Kể cả cô con gái.
  11. Thứ Hai, 17/08/2009 - 1:21 PM Phát hiện loài cây ăn thịt chuột (Dân trí) - Chuột đã trở thành miếng mồi cho béo bở cho một loài cây được tìm thấy trên một đỉnh núi ở Philippines, các nhà khoa học Anh cho hay. Cây nắp ấm có tên khoa học là Nepenthes northiana. Loài cây nắp ấm khổng lồ - có tên khoa học là Nepenthes northiana - nhử chuột vào trong miệng hình chiếc giày bệt và phân huỷ con mồi bằng các enzym dạng axit. Nepenthes northiana cũng được tin là thực vật ăn thịt lớn nhất thế giới. Nhóm chuyên gia, dẫn đầu là 2 nhà thực vật học Stewart McPherson và Alastair Robinson, đã phát hiện ra cây nắp ấm ăn loài gặm nhấm trên đỉnh núi Victoria ở Philippines sau khi nghe tin nhiều người đã nhìn thấy những con chuột lành lặn bị chúng ăn thịt. Ông McPherson, từ Dorset thuộc miền nam nước Anh, nói: "Loài thực vật này có khả năng tạo ra những cái bẫy rất đẹp không chỉ hấp dẫn côn trùng mà cả loài gặm nhấm. "Phát hiện này rất quan trọng vì nó không được biết tới cho tới tận thế kỷ 21", ông nói. Loài cây nắp ấm ăn thịt có hai màu đỏ và xanh và thân cây có thể cao 1,2m. Chúng chỉ được tìm thấy trong vùng bụi rậm trên đỉnh núi Victoria. Hai nhà thực vật học McPherson và Robinson đã phát hiện ra cây nắp ấm ăn thịt trong chuyến thám hiểm năm 2007 nhưng mới công bố gần đây sau khi hoàn thành 3 năm nghiên cứu tất cả 120 loài cây nắp ấm. Chiêm ngưỡng số loài cây nắp ấm khác tồn tại ở nhiều vùng trên khắp thế giới: Ninh Nhi Theo The Sun
  12. Động đất mạnh ở ngoài khơi Nhật Bản (Dân trí) - Một trận động đất mạnh 6,8 độ richter đã làm rung chuyển đảo Ishigaki ở miền nam Nhật Bản và bờ biển lãnh thổ Đài Loan, gây ra cảnh báo sóng thần nhưng đã được dỡ bỏ. Trận đông đất sáng nay đã làm rung chuyển Nhật Bản và Đài Loan. Trận động đất xảy ra vào lúc 9h06 phút giờ địa phương với tâm chấn nằm ở độ sâu khoảng 10km và cách đảo Ishigaki của Nhật Bản 130km về phía tây nam. Trung tâm khí tượng CWB của Đài Loan cho hay trận động đất cũng được cảm nhận tại bờ biển phía đông của vùng lãnh thổ này. Hòn đảo nghỉ dưỡng nổi tiếng Ishigaki của Nhật Bản nằm cách thủ đô Tokyo khoảng 1.600 km về phía nam và cách bờ biển Đài Loan khoảng 200 về phía đông. Cơ quan khí tượng Nhật Bản đã đưa ra cảnh báo về sóng thần ngay sau trận động đất nhưng dỡ bỏ lệnh này sau 50 phút. Naoto Otake, quan chức cảnh sát của đảo Ishigaki, cho biết hiện chưa có thông tin về thiệt hại và thương vong trên hòn đảo có dân số 40.000 người. Nhật Bản là một trong những nước thường xuyên hứng chịu các trận động đất mạnh. Trận động đất nghiêm trọng nhất xảy ra thành phố cảng Kobe tháng 1/1995, làm hơn 6.400 người thiệt mạng. An Bình Theo AP Cảnh báo của Thiên Sứ: Một lần nữa nhắc lại để được lưu ý rằng: Tất cả những gì mà thiên tai đã xảy ra trong năm 2009 cho đến ngày hôm nay 17 - 8 2009 , chỉ là khúc nhạc dạo của bản giao hưởng. Khúc dạo đầu đã hoàn tất.
  13. Vào phần tư vấn Tử Vi (Nhớ cho đường link) hoặc Lạc Việt độn toán và số mệnh. Nhờ anh chị em giúp.Lúc này tôi bận quá.
  14. LỜI TIÊN TRI 2009 Lại có thêm một vụ phá sản lớn nhất nước Mỹ Thứ hai, 17-08-2009 Ngân hàng Colonial, Mỹ VIT - Ngân hàng Colonial, cơ quan tín dụng bất động sản lớn tại bang Alabama ngày 14/8 vừa qua đã tuyên bố phá sản, trở thành một trong những vụ phá sản "đình đám" nhất trong ngành ngân hàng Mỹ. Ngân hàng Colonial là chủ nợ lớn trong lĩnh vực bất động sản và cũng là ngân hàng lớn nhất nước Mỹ phá sản trong năm nay, với tài sản khoảng 25 tỉ USD. Đây cũng là vụ phá sản ngân hàng lớn thứ 6 trong lịch sử nước Mỹ. Cùng ngày hôm đó, 4 ngân hàng khác lần lượt tại các bang Arizona, Nevada và Pennsylvania cũng tuyên bố đóng cửa, khiến cho tổng số ngân hàng phá sản toàn nước Mỹ từ đầu năm tới nay tăng lên 77 ngân hàng. Số liệu cho biết, cho đến cuối tháng 6, Ngân hàng Colonial sở hữu tổng tài sản là 25 tỷ USD và tiền gửi là 20 tỷ USD, có tới 346 chi nhánh. Cơ quan bảo hiểm tín dụng liên bang (FDIC) hôm 14/8 tuyên bố, đã phê chuẩn việc bán 20 tỷ USD tiền gửi của Colonial cho BB&T - một ngân hàng có trụ sở tại Bắc Carolina, BB&T cũng sẽ mua 22 tỷ USD tài sản của ngân hàng đã phá sản này, phần còn lại sẽ do FDIC tiếp quản, dự tính sự tiếp quản này sẽ tiêu tốn khoảng 2,8 tỷ USD quỹ bảo hiểm tiền gửi liên bang. Ngoài ra, FDIC và BB&T còn đạt được thỏa thuận phân chia tổn thất trị giá 15 tỷ USD. Theo các nhà phân tích, tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ không ngừng tăng lên và giá nhà đất không ngừng trượt giảm đã khiến cho tình cảnh kinh doanh tài khoản cho vay thế chấp nhà đất của Ngân hàng Colonial càng gặp khó khăn hơn. FDIC cho biết, nếu kinh tế Mỹ suy thoái nặng nề hơn, việc khất nợ cho những khoản vay đầy rủi ro sẽ khẩn cấp hơn. Việc này sẽ càng khiến các ngân hàng Mỹ chịu ảnh hưởng nặng nề hơn. Nguồn tin T. H (Theo CE)
  15. DÂN TỘC VÀ VĂN HÓA Khi ra Hà Nội chơi, lang thang ở Hồ Tây, một cảnh quan đẹp và thơ mộng ở Hanoi với một cô gái trẻ - tiến sĩ ngôn ngữ học làm việc ở một Bộ quan trọng - bất chợt nàng hỏi tôi: - Tại sao dân tộc Việt Nam trong lịch sử bị nhiều kẻ đô hộ, nhưng họ lại nhạy cảm với sự đô hộ của dân tộc này hơn so với các kẻ xâm lược khác của dân tộc khác như Nhật, Pháp...? Tôi trả lời: - Vấn đề là sự xâm lược đó có kèm theo sự hủy diệt văn hóa của dân tộc bị đô hộ hay không? Nếu một dân tộc bị xâm lược và đồng thời bị xóa sổ về văn hóa thì sự căm thù sẽ mãnh liệt hơn nhiều. Từ sau câu chuyện đó, tôi đã giành thời gian của minh suy nghĩ về khái niệm dân tộc và văn hóa. Đó cũng chính là tựa của bài viết này. Sự hình thành một dân tộc luôn luôn kèm theo sự hình thành những giá trị văn hóa truyền thống với dân tộc đó. Và đó là một trong những yếu tố quan yếu để làm nên bản sắc của một dân tộc phân biệt với dân tộc khác. Bởi vậy, việc bảo vệ những giá trị văn hóa của một dân tộc và sự phá hủy những giá trị văn hóa chính là sự quyết định cho tính tồn vong của một dân tộc. Nhưng thế nào là nội dung của khái niệm "văn hóa" và "dân tộc". Về nội dung của khái niệm văn hóa, hiện nay trên thế giới có gần 400 định nghĩa khác nhau. Chúng ta sẽ bàn sau trong bài viết này. Nhưng định nghĩa thế nào là một dân tộc là một vấn đề đã được đặt ra. Trước đây - hay nói chính xác hơn là từ lâu, những nhà nghiên cứu dân tộc học Việt Nam đã đưa ra một định nghĩa về khái niệm "dân tộc" như sau: Hao Kim Anh - (Theo Nhân Dân) Bài viết: Hội thảo về người Nguồn: Có nên xác định lại thành phần dân tộc? http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...amp;#entry40305 Bài số 8 do Trần Phương đăng. Có thể định nghĩa trên đã có từ lâu, từ lâu lắm. Có thể từ hàng 30 - 40 năm trước, khi mà khái niệm về thuyết di truyền bắt đầu được giảng dạy chính thức ở Việt Nam thay cho học thuyết Mit su rin do Lư Sen cô đề xướng. Bởi vậy, nó không hoàn chỉnh. Nhưng sự định nghĩa một khái niệm đã cho thấy những nhà nghiên cứu dân tộc học ngày xưa ấy rất chính danh. Tức là họ đã đưa ra một tiêu chí để xem xét vấn đề mà họ đặt ra. Sự phát triển của tri thức có thể sẽ đặt lại vấn đề những tiêu chí của họ. Nhưng tính chính danh đã chứng tỏ tinh thần nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, những tiêu chí đó phải giải thích được những vấn đề liên quan thì mới chứng tỏ được tính khách quan của nó. Sự phát triển của cuộc sống và những mối quan hệ xã hội , khiến cho các tiêu chí đó phải xem xét lại. Chúng ta lần lượt xem xét từng tiêu chí và so sánh với các hiện tượng liên quan trong cuộc sống hiện đại. Tiêu chí thứ nhất: 1- Sự cộng đồng về mặt ngôn ngữ (đã là một dân tộc phải hiểu được tiếng nói của nhau). Tiêu chí này không giải thích và phân biệt được tính đa sắc tộc trong một quốc gia , có ngôn ngữ thống nhất. Thí dụ: Tại một số quốc gia Châu Phi hiện nay, trước đây là thuộc địa Pháp, họ chỉ nói tiếng Pháp. Tất nhiên họ không thuộc chủng tộc Gaulois. Hoặc như ở Hoa Kỳ, Tiếng Anh được dùng phổ biến cho tất cả các sắc tộc trên Hợp Chủng Quốc thì điều đó không hình thành dân tộc Mỹ. Do đó, tiêu chí thứ nhất là không hợp lý. Tiêu chí thứ hai: 2- những nét tương đồng về văn hoá (đây là một cái khó-vì cũng có khi cùng một dân tộc nhưng khi tách ra khỏi cộng đồng mấy chục năm sẽ khác đi). Tạm thời chung ta chưa bàn về tiêu chí này vì liên quan đến khái niệm văn hóa chính là một vấn đề được đặt ra cho bài viết này. Bởi vì, chỉ khi xác định được khái niệm văn hóa thì chúng ta mới bàn được về "những nét tương đồng về văn hoá" để xác định tính dân tộc.Tiêu chí thứ ba: 3- ý thức tự giác tộc người Ý thức tự giác tộc người được hình thành và xác định khi con người của dân tộc đó và sống trong một cộng đồng dân tộc nào đó, thì mới hình thành ý thức tự giác tộc người. Chúng ta giả thiết rằng: Nếu một con người thuộc một chủng tộc khác về mặt di truyền sinh học, sinh ra và lớn lên trong một tộc người khác và không biết cội nguồn thì có thể được coi là chính chủng tộc đó không? Thí dụ: Những đứa trẻ làm con nuôi người nước ngoài, lớn lên trong cộng đồng dân tộc khác, văn hóa và tiếng nói khác. Chúng cũng không được biết xuất xứ dân tộc, hoặc mơ hồ về xuất xứ dân tộc thì liệu chúng có thể có ý thức tự giác dân tộc không - cho dù sau này chúng lớn lên và biết mình là dân Á Đông, không phải dân Tây. Tôi đã gặp một cô bé người da trắng, ngoại hình đặc chủng da trắng, nhưng mặc bộ quần áo dân tộc và cùng với những người phụ nữ dân tộc đi làm mương. Cháu cười đùa vô tư và vui vẻ. Cô bé đó là sản phẩm của chợ tình Sapa. Lớn lên, cô gái đó sẽ ý thức tộc người vì ngoại hình (gen di truyền sinh học) của mình không phải người dân tộc Tày Mường, nhưng cội nguồn sẽ ở đâu? Normandi, Xason hay Gaulois? Do đó, có thể nói rằng tiêu chí thứ ba không chặt chẽ và nó lại liên quan đến văn hóa là vấn đề sẽ trình bày sau đây. Còn tiếp
  16. LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG VÀ VẤN NẠN THAM NHŨNG TRONG XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI Kính thưa quí vị quan tâm. Thuyết Âm Dương Ngũ hành được đặt vấn đề và chứng minh là một lý thuyết thống nhất vũ trụ. Nhưng vậy về - nguyên tắc - nó phải thỏa mãn tiêu chí của một lý thuyết thống nhất và tiêu chí của một lý thuyết khoa học là: Thống nhất tất cả mọi quy luật vũ trụ. Một siêu công thức bao trùm mọi định luật của thiên nhiên, hoàn toàn có thể giải thích được từ sự hình thành vũ trụ, từ những hạt vật chất cực nhỏ đến những thiên hà khổng lồ và mọi hành vi bao quanh con người. Những vấn đề lý giải đến từng hành vi cá nhân đã được chứng tỏ qua các môn dự báo và đã được trình bày trong tiểu luận "Định mệnh có thật hay không?". Nhưng các qui luật chi phối cả lịch sử xã hội thì môn Thái Ất, Đôn giáp...vv...chính yếu nói về điều này - và chưa có điều kiện nghiên cứu chu đáo để kết luận về nội dung của nó. Tuy nhiên, ít nhất thuyết Âm Dương Ngũ hành phải giải thích được một vấn nạn được nhiều người quan tâm hiện nay. Đó chính là nạn tham nhũng. Vấn đề Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, chúng ta đều nhận thấy một vấn nạn của xã hội loài người chính là nạn tham nhũng. Tham nhũng xảy ra ở mọi thời gian và mọi không gian với các thể chế chính trị khác nhau. Tất nhiên, cả nhân loại đều lên án những hành vi tham nhũng và nó vẫn xảy ra. Nếu không tìm được bản chất đích thực - nguồn gốc của hiện tượng tham nhũng thì tất nhiên nó sẽ mãi mãi là một vấn nạn không thể triệt bỏ, dù đó là điều con người mong ước. Vấn đề được đặt ra trong tiểu luận này và sẽ được lý giải với cái nhìn của Lý học Đông phương - từ chủ quan của tôi - là: Sự phân biệt giữa "hiện tượng tham nhũng" và "sự phổ biến của hiện tượng tham nhũng". Về hiện tượng tham nhũng. Trong lịch sử nhân loại người ta đã đặt vấn đề về nguyên nhân của hiện tượng tham nhũng: Một kết luận được coi như đúng nhất là: Tham nhũng xuất phát từ lòng tham của con người. Nếu lý giải này đúng thì thực tế lại cho thấy rằng: Có lúc tham nhũng trở thành phổ biến, có lúc không. Vậy thì không lẽ có lúc con người ít tham lam và có lúc con người tham lam hơn chăng? Lòng tham của con người lúc nào cũng có và nó được thể hiện giữa nhiều hình thức trong quan hệ xã hội - trong tiểu luận này tôi chỉ bàn tới yếu tố tiêu cực của lòng tham và không bàn tới yếu tố tích cực của lòng tham - đó là: Trộm cắp, lừa đảo, tranh chấp, cướp giật....và hiện tượng tham nhũng cũng chỉ là một trong những hình thức thể hiện lòng tham tiêu cực mà thôi. Bởi vậy, lòng tham chỉ là một yếu tố cấu thành hiên tượng tham nhũng và không phải là yếu tố duy nhất cấu thành nên hiện tượng tham nhũng. Khi điều kiện thể hiện lòng tham trong tham nhũng hoàn toàn khác với các điều kiện khác - lừa đảo, trộm cắp....vv....Bởi vậy vấn đề đặt ra với hiện tượng tham nhũng là: Điều kiện nào để con người thể hiện lòng tham trong hành vi tham nhũng? Về sự phổ biến của hiện tượng tham nhũng Hiện tượng tham nhũng thường xuyên xảy ra, nhưng không phải lúc nào cũng phát triển và trở thành phổ biến. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, chúng ta thấy rằng: Có những giai đoạn lịch sử hiện tượng tham nhũng trở thành phổ biến, có những giai đoạn chỉ là những hiện tượng cá biệt. Chẳng một thể chế nào trong lịch sử phát triển của xã hội loài người thừa nhận hành vi tham nhũng cả. Nhưng nó vẫn xảy ra, có lúc trở thành phổ biến và thành một vấn nạn xã hôi. Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào làm sáng tỏ vấn đề này. Viết tiểu luận này, tôi hy vọng đưa một cái nhìn về nguyên nhân của hiện tượng tham nhũng và sự phổ biến hiện tượng tham nhũng trong xã hội loài người - từ phương pháp luận của lý học Đông phương được kiến giả trong xã hội hiện đại. Tham vọng của tiểu luận này là: Xóa bỏ nạn tham nhũng trong xã hội loài người không cần đến nhà tù. Xin cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
  17. ÂM ĐỘNG Nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Khi nền văn hiến huyền vĩ Việt sụp đổ ở miền Nam Dương Tử - Những phương pháp ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành và phương pháp luận của nó còn lưu truyền trong dân gian lần lượt bị Hán hóa trong hơn 1000 năm Bắc thuộc. Nhưng đó là sự Hán hóa sai lệch và không hoàn chỉnh. Bởi vậy cũng từ hàng ngàn năm giữa hiệu quả ứng dụng và một lý thuyết hoàn chỉnh cần có đã tạo ra một khoảng cách lớn, tạo nên một cảm nhận huyền bí và bị thần thánh hóa trong quá trình lưu truyền dưới dạng văn tự Hán. Một trong những sai lầm lớn nhất có tính nguyên lý lý thuyết trong phương pháp luận chính là quan niệm sai lệch từ cổ thư chữ Hán là "Âm Tịnh - Dương động". Từ sai lầm căn bản này, nên mặc dù được giải thích khi ứng dụng vào việc định chế hóa các mối quan hệ xã hội là "Cân bằng Âm Dương", nhưng - vì sai lầm có tính nguyên lý đó - nên người ta không thể xác định được đâu là Âm, đâu là Dương trong mối quan hệ xã hội. Cuối cùng, nó chỉ được xướng ngôn với những danh từ không có nội dung, như tôi đã trình bày qua Đại Việt Sử Ký Toàn thư - Kỷ nhà Trần. Nhưng với những nghiên cứu mới nhất - xuất phát từ một quan niệm nhất quán về Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến - Thuyết Âm Dương Ngũ hành được chứng minh chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà những nhà khoa học hàng đầu đang mơ ước. Sự phục nguyên của Lý học Đông phương trong mối tương quan hợp lý của nó chính là "Dương Tịnh - Âm động". Từ khái niệm có tính nguyên lý "Dương tịnh Âm động" ứng dụng vào sự suy nghiệm cúa sự vận động trong xã hội, chúng ta sẽ thấy tính hợp lý, tính nhất quán trong việc giải thích các mối liên quan và tương tác từ sự suy nghiệm này và tìm ra giải pháp khắc phục. Dương Tịnh - Hình thái ý thức xã hội Tôi nghĩ rằng chắc chẳng ai là người nghiên cứu Lý học mà lại xác quyết rằng: Hình thái ý thức xã hội là Âm cả. Sự liên quan với những khái niệm tương ứng và đồng đẳng trong nhiều phương diện đã tạo nên sự khẳng định này; thí dụ: Ý thức thuộc Dương so với vật chất thuộc Âm..... Vậy hình thái ý thức xã hội phải thuộc Dương. Đương nhiên mối quan hệ xã hội và sự phát triển của đời sống kinh tế tạo ra những mối quan hệ đó phải thuộc Âm. Trong những tiểu luận của người viết, có nhiều v/d mà người viết cho rằng đó là lẽ đương nhiên không cần phân tích thì đôi khi lại bị đặt vấn đề chất vấn về mặt học thuật. Bởi vậy, có lẽ trong tiểu luận này, người viết sẽ phải chu đáo hơn. Bài chưa hoàn chỉnh
  18. Mổ được. Nên chọn ngày tốt mổ., Tranh tháng năm xung và tam tai.
  19. Nên thay đổi công việc trong năm nay thì sau này sẽ tốt hơn.
  20. Phải sang năm vợ chồng mới tốt hơn. Sang năm có đầu tư thêm cho việc bên chồng.Năm nay sẽ có thay đổi công việc. Tuy có lăn tăn lúc đầu , nhưng sau đó thì tốt.
  21. Sức khỏe bố mẹ: Không thật tốt, nhưng cũng không có gì nghiêm trọng.Con 2008: Mạng bị cha khắc và sinh mẹ. Nên ốm yếu hồi còn nhỏ. Lớn sẽ khỏe. Con cái xinh xắn, thông minh. Sự nghiệp bình thường. Con trai tốt hơn con gái. Nhà: Năm nay làm nhà được. Công việc: Làm lớp mầm non được. Tốt.
  22. Xin đi làm tạm thì được.
  23. 1 - Mua đất hoặc nhà thì được. Nhưng không nên động thổ xây cất.2 - Năm canh Dần, rất tốt, nhất là về công danh, con trai tốt hơn con gái. Năm Mão cũng tốt, nhất là về tiền bạc. Con gái tốt hơn con trai. 3 - Khỏi, nhưng hay vị mắc lại vào mùa hè và Đông. Nhẹ. Liên lạc với Random trên diễn đàn, Ba anh ấy là giáo sư tiến sỹ chuyên tai mũi họng. Tôi bị viêm xoang mãn tính từ hồi còn trẻ. Được chú ấy chữa khỏi đấy.
  24. Đường link không xem được.
  25. Số cuối là 878.