-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Anh chị em thân mến. Đây là một bài tập cảm ứng để luận về một đề tài tầm cỡ thời sự quốc tế mà lịch sử hiện đại đang quan tâm. Nhưng tôi thật sự không thấy một bài luận nào hợp lý trong việc này. Bởi vậy, tôi giải bài tập này như sau: Chung ta xem lại bài tập này dưới đây: Hính ảnh một người lính đi trên một vùng đất rộng mênh mông và không đi trên đường cho thấy cuộc chiến đang hồi bế tắc trong việc định hướng chiến lược cho tương lai của cuộc chiến. Nhưng cũng chính vì sự mênh mông của giải đất và không có vật cản gần trước mặt và chung quanh, nên Hoa Kỳ và Đồng minh sớm muộn cũng tìm ra lối đi của mình để kết thúc cuộc chiến này. Trước mặt người lính là một con đường rẽ từ trái sang phải và đi về phái chân trời không có vật cản. Phia trước con đường đó có một nhánh rẽ trái và đi thẳng về nơi có núi che chắn. Như vậy, trong tương lai gần, cuộc chiến còn gian nan và sẽ có một cuộc tranh luận về phương pháp kết thúc chiến tranh. Nếu đi đúng phương pháp thì sẽ thắng và sai thì sẽ thua. Điều này cho thấy sẽ chỉ có một hướng đúng. Người lính quay lưng trở lại, không thấy mặt mũi họ đâu cả, cho thấy giải pháp tốt nhất là: Để chiến thắng trong cuộc chiến tranh này, thay vì tăng quân thì tốt nhất những chi phí trả cho người lính hãy trả cho mật vụ. Hoa Kỳ sẽ là người chiến thắng - hình ảnh người lính Mỹ duy nhất trên chiến trường xác định điều này và cuộc chiến này sẽ kết thúc sau không quá hai năm sau. Hãy chờ xem.
-
Nếu đang cấn bầu sinh năm nay thì rất tốt. Còn các năm khác nếu sinh con gái thì tốt, nhưng con trai thì chưa được thật tốt. Đưa thứ hai còn tùy vào đưa thứ nhất. Cặp này khó tinh toán quá. Theo tôi sinh đứa đầu vô tư đi, nhưng tránh năm Canh Dần. Căn cứ vào đấy tính đứa sau. Vợ chồng cùng tuổi, sinh năm nào cũng được. Năm hợp thì nên sinh con trai, năm xung con gái. Năm hợp là: Nhâm Thìn 2012, Quý Tỵ 2013. Sinh Năm Quý Tỵ 2013 tốt hơn Nhâm Thìn 2012. Sinh Năm Nhâm Thìn 2012 hoặc Ất Mùi 2015 đều được. Con út nên là Quý Tỵ 2013.Tôi trả lời một loạt trong bài trên. Còn ai thiếu sót xin lặp lại câu hỏi.
-
Có thể chọn một trong hai năm sau đây:Canh Dần 2010, hoặc Quý Tỵ. Nền sinh năm Canh dần 2010 con đầu và con thứ II là Canh Tý 2020.
-
Anh Ninh Song và quí vị quan tâm thân mến. Tôi có một quan điểm cội nguồn Việt sử của riêng tôi - một minh tôi và nhân danh cá nhân tôi khi nói tới quan điểm lịch sử này: Lịch sử dân tộc Việt trải gần 5000 văn hiến và một thời huy hoàng ở miến nam sông Dương Tử. Những luận điểm của tôi nhằm chứng minh cho quan niệm truyền thống và chính sử đã ghi nhận. Với tôi tất cả những luận điểm nhằm chứng minh cho một thời huy hoàng của Việt sử thì tôi đều cảm phục vì tấm lòng nhiệt tình với cội nguồn văn hiến Việt, cho dù có thể nó đúng, hoặc sai - Trong đó kể cả những luận điểm và những hành động có thể gọi là "Nhiệt tình cộng với ngu dốt thành phá hoại" (Nhưng không ai nhận mình là ngu cả, mà chỉ thấy cái nhiệt tình trong tim - trong đó có cả tôi đấy). Và tôi không phê phán, phản biện họ ít nhất trong lúc này. Nhưng điều đó, không có nghĩa tôi ủng hộ luận điểm và kết luận của họ, nhân danh chân lý và khoa học. Những bài viết của anh Nhatnguyen có nhiều bài phân tích về những hiện tượng cục bộ rất sắc nét và rất đáng trân trọng. Nhưng về quan điểm và kết luận tổng quát của anh về Việt sử thì có nhiều v/d cần bàn , mà tôi không có thời gian. Bởi vậy, nếu anh Ninh Song chưa tán thành luận điểm của anh Nhatnguyen thì không nên gắn cả tên tôi vào các bài viết thuộc những topic của anh Nhatnguyen. Luận điểm và phương pháp chứng minh của chúng tôi hoàn toàn khác nhau về kết luận diễn tiến cội nguồn Việt sử. Anh Nính Song nếu chưa vừa ý với những luận điểm của tôi thì có thể vào những topic của tôi để chỉ ra những mâu thuẫn và bất hợp lý trong chuỗi hệ thuống luận cứ của nó và phân tích phản biện. Anh cũng đã thể hiện điều này, nhưng không nên gán ghép tên tôi vào chung với anh Nhatnguyen trong một topic mà anh Nhat nguyen thể hiện quan điểm của mình. Điều này sẽ dẫn đến cảm tưởng nếu anh Nhatnguyen sai thì Thiên Sứ cũng sai. Anh Ninh Song hãy thông cảm. Tôi va chạm quá nhiều với các dạng phản ứng từ đơn giản đến phức tạp với luận điểm cua 3tôi về Việt sử. Nên tôi rất nhạy cảm. Trong topic của nha Nhatnguyen thì đối tượng chỉ nên là anh Nhatnguyen. Không nên có cả tôi vào đấy! Luận điểm của tôi và Nhatnguyen khác nhau. Còn về v/d tuổi tác , tôi nghĩ không quan trọng. Chỉ cần sự tôn trong nhau là điều căn bản trong hành xử. Tôi sang Hoa Kỳ, cháu gọi tôi bằng bác , hai muơi mấy tuổi đầu, không biết tiếng Việt nó cũng chỉ gọi tôi là "You" - dịch ra tiếng Việt không biết nên dịch thế nào. Tiêu chí khoa học phát biểu rằng: Một lý thuyết khoa học bị coi là sai, nếu như người ta phát hiện ra tính bất hợp lý chỉ trong một mắt xích thuộc về chuỗi hệ thống những luận cú của nó mà nó không tự biện minh được. Tôi đã chỉ ra không chỉ "một" mà hàng trăm điểm sai lầm của cái "hầu hết" và "cộng đồng" có quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt. Còn tôi, tôi đang chờ ai đó chỉ ra một điểm sai trong chuỗi luận cứ của tôi, mà tôi không biện minh được. Trong tiêu chí khoa học trên thì vế cuối cùng là "không biện minh được" - rất khác với "không được phép biện minh". Bởi vậy, nếu chỉ phản biện phía sau thì chính là "tước quyền biện minh" theo tinh thần khoa học.
-
Tôi xin được tham gia bình về lá số của Ngài Obama. Dữ kiện năm Dần 2010. Lưu Đại Hạn: Cung Phụ Mẫu. Lưu Tiểu hạn: Cung Huynh đệ. Lưu Thái Tuế: Cung Nô Bộc. Mặc dù xem xét các yếu tố liên quan thì quả là ngài Obama có những việc cần phải lo lắng cho bản thân. Nhưng tôi nghĩ vị Tổng thống này sẽ qua được và không đến nỗi phải chết. Tôi cho rằng: Ngài Tổng thống chỉ thật sự cần đề phòng vào hai tháng 5/ 6 Âm lịch năm Tân Mão. Sinh mạng của Tổng Thống Hoa Kỳ là vấn đề rất nhạy cảm, ảnh hường đến nhiều mặt, tốt hoặc xấu trong tương lai. Bởi vậy tôi xin phép không bình luận sâu thêm. Nhưng tôi tin rằng: Thiên nhiên còn nhiều điều huyền bí cần khám phá, mà tri thức hiện đại chưa biết được.
-
Anh chị em thân mến. Có thể nói rằng: Từ khi ông Obama lên làm tổng thống, có rất nhiều chiêm tinh gia trên khắp thế giới và cả trong trang web này đều tiên tri về ông không thể lãnh đạo nước Mỹ qua hết nhiệm kỳ. Nhưng trong một topic nào đó, có một bạn có cảm tình với ông ta, và tôi đã thuận theo tình cảm của bạn này mà cho rằng ông Obama sẽ thoát hiểm. Tôi cũng không dám tự cho là mình đúng. Nên hy vọng anh chị em cho một đường link. hoặc giới thiệu ngày giờ tháng năm sinh của ông Obama để tôi có điều kiện tham gia xem lá số của ông thì tôi rất cảm ơn.
-
BBW vừa add nick của Walibi vào lớp cách đây một phút. Sáng nay nói Bá Kiến, tưởng add rồi hóa ra hôm nay Chủ Nhật, Bá Kiến nghỉ. Híc!
-
LỜI TIÊN TRI 2009 Chìm tàu chở gần 1.000 người ở Philippines (Dân trí) - Ít nhất 3 người bị chết đuối; hơn 80 người mất tích khi con tàu chở gần 1.000 người bị nghiêng rồi sau đó đắm ở miền nam Philippines. Hơn 800 người khác đã được cứu vào sớm nay. Tàu Superferry 9. Người đứng đầu cơ quan bảo vệ bờ biển, Đô đốc Wilfredo Tamayo cho hay 880 trong tổng số 968 hành khách và thủy thủ đoàn trên tàu Superferry 9 đã được chuyển sang hai chiếc tàu thương mại gần đó và một tàu chiến hải quân nhiều giờ sau khi tàu bắt đầu nghiêng ở ngoài khơi tỉnh Zamboanga del Norte trước bình minh. Hiện đội cứu hộ đang tìm kiếm hơn 80 người vẫn bị mất tích. Tuy nhiên theo ông Tamayo, nhiều người có thể đã mặc áo phao hoặc được cứu nhưng chưa được đếm. Theo Bộ trưởng Quốc phòng Teodoro, tàu hải quân và 3 máy bay quân sự đã được triển khai để rà soát vùng biển quanh chiếc tàu bị đắm. Ngoài ra, quân đội Mỹ, hiện đang huấn luyện chống khủng bố cho binh lính Philippines ở khu vực, cũng triển khai một máy bay trực thăng dân sự và 5 tàu nhỏ, một số mang thuốc men, để hỗ trợ công tác cứu nạn. Ông Teodoro cho biết 3 hành khách, trong đó có một trẻ em và một người đàn ông, đã bị chết đuối khi cố gắng thoát khỏi tàu. 3 hành khách khác bị thương. Nguyên nhân khiến tàu bị nghiêng vẫn chưa rõ. Nhưng thuyền trưởng mới đầu đã yêu cầu tất cả mọi người rời tàu để đề phòng bất trắc. Có thông tin cho rằng tàu bị nghiêng về bên phải là do bị thủng một lỗ ở phần thân. Khi con tàu nặng 7.268 tấn bị nghiêng, một số hành khách hoảng sợ đã nhảy xuống nước. Một hành khách cho biết trên đài phát thanh DZMM qua điện thoại rằng anh cảm thấy tàu bị nghiêng vào khoảng giữa đêm, nhưng một thủy thủ khi đó chấn an anh rằng mọi thứ vẫn ổn. Khoảng 2 tiếng sau, anh chợt tỉnh giấc khi có âm thanh như va đập ở bên dưới cabin. “Mọi người bắt đầu hoảng loạn bởi con tàu đang thực sự bị nghiêng”, anh cho biết. Được biết, con tàu rời cảng General Santos ở miền nam vào hôm thứ bảy và dự định tới thành phố Iloilo ở miền trung vào cuối ngày hôm nay. Nhưng nó đã gặp trục trặc khi đang đi được nửa đường và bắt đầu nghiêng khi cách bờ gần nhất 15km. Theo ông Tamayo, không có dấu hiệu của khủng bố. Phan Anh
-
Mỹ: Máy bay rơi tại công viên làm 5 người thiệt mạng VIT - Các quan chức điều tra Mỹ cho biết, ngày 05/9 một chiếc máy bay hạng nhẹ đã đâm xuống một công viên ở Oklahoma và bốc cháy sau khi đâm vào cột tín hiệu của một tháp thông tin liên lạc, làm tất cả 5 người trên máy bay thiệt mạng. Chiếc máy bay 6 chỗ ngồi đang trên đường đến thành phố Dallas thì gặp nạn do sương mù dày đặc gần một sân bóng chày ở Tulsa, ông George Brown, cảnh sát tuần tra Oklahoma, cho biết. “Hai cánh và động cơ của máy bay gãy rời khỏi máy bay,” ông Brown cho biết. “Khi máy bay rơi xuống đất, nó đã lăn ít nhất 2 vòng, bốc cháy và làm văng toàn bộ người trong máy bay ra ngoài.” Ông Brown cho biết các nạn nhân chết ngay tại hiện trường, gồm phi công, bác sĩ Stephen Lester, 48 tuổi; Dana, vợ ông, 48 tuổi; hai con gái Laura, 16 tuổi, và Christina, 13 tuổi; và bác sĩ Ken Veteto, 50 tuổi. Không ai ở dưới mặt đất bị thương. Chiếc máy bay PA-32 này đã cất cánh từ Sân bay Jones Riverside ở Tulsa lúc 10h37 a.m (giờ địa phương) đến sân bay Dallas Love. Nó đã gặp nạn khoảng 30 phút sau đó tại công viên Chandler, một khu vui chơi có sân điền kinh và các cơ sở vui chơi giải trí. Tháp thông tin liên lạc trong công viên cao khoảng 50-60 mét. Có thể do sương mù dày đặc nên phi công đã không nhìn thấy tháp thông tin liên lạc này. Hồ sơ của Hiệp hội Hàng không Mỹ cho thấy chiếc máy bay này được sản xuất năm 1976 và được đăng ký tên Stephen Lester ở Tulsa. Stephen Lester là một bác sỹ gây mê, ông đang đưa gia đình tới Dallas để xem trận đá bóng khai mạc của Trường đại học Oklahoma với BYU tại Sân Vận động Cowboys ở Arlington, Texas. Nguồn tin Quyết Thắng (Theo AP)
-
Thực ra chắc cũng không đến nỗi nào như vậy. Nhưng người ta đã nhầm lẫn giữa tình yêu và sự ham muốn tình dục.
-
Cấu trúc thì độc đáo thật. Nhưng không biết địa hình thế nào? Con đường xuyên giữa tâm không biết hướng nào? Không biết có phải Đông Bắc - Tây Nam không (Vào Sinh ra Tử). Duy có hình gọi là Bát quái không thấy có hai chấm gọi là "Thiếu Âm" "Thiếu Dương". Nó na ná như Bát Quái Việt trong các di sản còn lại.
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Bãi đá cổ Sapa hiện vẫn còn là một bí ẩn và là mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Bởi vậy tôi mở mục này, hy vọng được sự quan tâm, chú ý của quí vị và cho những ý kiến của mình về hiện tượng này. Xin chân thành cảm ơn. * PHẢI CHĂNG MỘT BÃI ĐÁ KHẮC MỚI ĐƯỢC PHÁT HIỆN Ở SA PA? Nguồn: http://diendan.nuocnga.net/showthread.php?t=1747 Năm 1925, một người Pháp gốc Nga tên là Goloubew đã tình cờ phát hiện những tảng đá khắc hình kì dị tại thung lũng Mường Hoa thuộc huyện Sa Pa (Lao Cai). Sau này người ta tìm được tất cả 159 tảng đá granit có hình khắc nằm rải rác trên một diện tích khoảng 8 km2 thuộc địa phận các xã Lao Chải, Tả Van, Hầu Thào. Những hình khắc đẹp nhất tập trung ở Bản Pho. Tại đây có những tảng đá granit lớn – thứ đá xâm nhập cứng rắn rất phổ biến trên dãy Hoàng Liên Sơn, cũng là thứ đá tạo nên đỉnh Fan Si Pan – nóc nhà Đông Dương. Cần lưu ý “Bãi đá cổ Sa Pa” là một cách gọi không chính xác, vì so với đá trong vùng thì niên đại của những tảng đá này thuộc loại trẻ. Còn nếu chỉ vì có vết tích của người xưa trên đó mà gọi là đá cổ thì rõ ràng không đúng. Những hình thù bí ẩn trên bãi đá Sa Pa đã từng được các nhà khoa học Việt Nam, Nga, Pháp, Auxtrâylia nghiên cứu.. Người ta thấy hệ thống những đoạn thẳng dài ngắn, song song hoặc bắt chéo nhau, những đường cong uốn lượn hoặc hình tròn có các vạch khấc. Sơ bộ bước đầu người ta nhận ra đó là những bức tranh hoặc những bản lược đồ khu vực. Trên những "bức tranh" ấy ta có thể thấy sông suối, ruộng bậc thang, mặt trời, núi non, bản làng và con người. Trên những phiến đá mỏng có cả những bức tranh mô tả cảnh chiến trận. Nhiều tảng đá mang những hoạ tiết giống như cổ tự. Có bức tranh còn hàm chứa những nội dung chính của Bát Quái - một nỗ lực của người xưa nhằm khái quát mọi sự vật trong vũ trụ không cùng. Trong số các hình thù kể trên, đặc biệt thú vị là những hình người được thể hiện ở nhiều tư thế - dang tay, tay nắm tay, lộn đầu, đầu toả hào quang v.v... Người ta nhận ra có tới 11 kiểu dáng người khác nhau. Có nhà nghiên cứu cho rằng, về tổng thể các hình khắc trên bãi đá Sa Pa có thể coi là một bộ sách khổng lồ được khắc bằng văn tự đồ hoạ cổ. Có người cho rằng những hình khắc đó không đồng niên đại. Có người lại cho rằng chủ nhân của những hình khắc này phải là những người Việt cổ từ thời Đông Sơn, cách nay 2.300 đến 3.000 năm. Mặc dù đã được chú ý nghiên cứu, nhưng cho đến nay những hình khắc trên đá ở Sa Pa vẫn tiềm tàng bao bí ẩn. Người ta chưa xác định được chính xác niên đại của những vết khắc đó. Chưa biết ai là tác giả của những hình khắc công phu được thực hiện trên loại đá vô cùng cứng rắn này. Họ khắc bằng công cụ gì? Với mục đích gì? Có cổ tự xen trong các bức tranh hay chỉ là những hoạ tiết và hoa văn trang trí? Hình tượng Bát Quái trên mặt đá ở Sa Pa xuất nguồn từ đâu? Chưa có câu trả lời nào đủ sức thuyết phục cho những câu hỏi trên và những trang sử đá ấy giờ đây vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt", vẫn chờ đợi những công trình nghiên cứu công phu về khảo cổ học và các ngành liên quan để làm sáng tỏ về một hình loại văn hoá từng đi qua trên mảnh đất Sa Pa. Trong Hội nghị khoa học về những phát hiện khảo cổ do Viện Khảo cổ tổ chức vào cuối tháng 9 - 2000, GS Phan Trường Thị (Đại học Quốc gia Hà Nội) và đồng nghiệp đã công bố một phát hiện quan trọng. Trong một chuyến đi khảo sát địa chất tại huyện Phong Thổ (Lai Châu) ông cùng đồng nghiệp đã tình cờ phát hiện những vết khắc tương tự tại bãi đá khắc Sa Pa, cũng trên mặt những tảng đá granit lớn nhỏ. Những hình khắc trên đá tại Phong Thổ có nhiều nét tương đồng với hình khắc tại Bãi đá khắc Sa Pa. Đặc biệt tại bãi đá khắc Phong Thổ phổ biến loại vạch khắc hình cung song song, có khi đối xứng. Có thể phát hiện mới này sẽ giúp các nhà khảo cổ học tìm hiểu thấu đáo hơn về một hiện tượng văn hoá độc đáo từng để lại dấu ấn trên các huyện rẻo cao của Lao cai, Lai Châu. Vấn đề trở nên lý thú hơn ở chỗ các Bãi đá khắc Sa Pa và Phong Thổ nằm ở hai bên dãy Hoàng Liên Sơn, thuộc hai lưu vực sông khác nhau - lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Đà. Vừa qua, trong một chuyến đi về một bản người Dao Đỏ ở phía bắc Sa Pa, Geo lại tình cờ nhìn thấy những tảng đá khắc. Số lượng những tảng đá không nhiều, chỉ 5 tảng, kích thước to nhỏ khác nhau. Kiểu khắc đơn điệu, có vẻ như chỉ mô phỏng cảnh ruộng bậc thang ở xung quanh. Những nét khắc đã bị thời gian làm mờ bớt, song còn khá rõ nét. Điều đáng lưu ý là vị trí bãi đá khắc này nằm cách bãi đá khắc ở thung lũng Mường Hoa khoảng 16 km về phía bắc. Và các hình khắc được thực hiên trên đá hoa (loại đá biến chất từ đá vôi) chứ không phải trên đá granit như ở Mường Hoa và Phong Thổ. Chúng tôi chưa được đọc những thông tin về bãi đã khắc thứ ba này. Phải chăng đây là một phát hiện mới? (Bề mặt những tảng đá khắc hầu như chưa bị tác động của người đời sau kiểu như ở Bãi đá khắc Mường Hoa). Và nếu đúng vậy, hẳn phát hiện này sẽ có ý nghĩa nhất định trong việc nghiên cứu chung về đá khắc (cổ) ở Tây Bắc Bắc Bộ. This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 1000x671. Tảng đá khắc lớn tại điểm mới tại phia bắc Sa Pa (ảnh Geo) This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 1000x671. Tảng đá khắc nhỏ tại điểm mới ở phía bắc Sa Pa, mô phỏng hình ruộng bậc thang ở phía sau. (ảnh Geo) Thiết nghĩ các điểm đá khắc cần được nghiên cứu toàn diện hơn và được khai thác có hiệu quả trong hoạt động du lịch của Lao Cai. Vấn đề bảo vệ các bãi đá khắc, như một hình loại di sản văn hoá độc đáo, cần được coi là nhiệm vụ tối quan trọng. Bởi nếu không có biện pháp bảo vệ hữu hiệu, thì trong quá trình khai thác phục vụ du lịch, những tảng đá mang hình khắc vô giá này từng ngày một đã và đang bị thiên nhiên và con người huỷ hoại. 6-2009 (Đăng đầu tiên trên forum NNN)
-
Bãi đá cổ Pá Màng trước ngày chìm trong nước Nguồn: http://tintuc.xalo.vn/00-1838053965/bai_da...trong_nuoc.html Hà Nội Mới - 24/10/2005 Những người dân bản địa nói bãi đá cổ Pá Màng là vật thiêng từ trên trời rơi xuống... Nhưng tháng 11 năm nay, thuỷ điện Sơn La bắt đầu đắp đập, be bờ, con sông Đà cuồn cuộn kia sẽ dồn nước lên và nhấm chìm tất cả! Những vết khắc cổ chưa có lời giải Khi ấy, sẽ có rất nhiều di chỉ khảo cổ quý giá rồi vĩnh viễn biến mất nếu như không có biện pháp khai quật kịp thời. Tôi đã ngược sông Đà nửa tháng trời để tìm các di chỉ khảo cổ, trong đó, ấn tượng nhất là bãi đá cổ Pá Màng (xã Liệp Tè, Thuận Châu, Sơn La) Bãi đá cổ Pá Màng ở . Con đường từ xã Chiềng Khoang (Quỳnh Nhai) vào xã Liệp Muội quanh co, dốc ngược, khủng khiếp như đường lên giời. Con đường từ Liệp Muội vào xã Nậm ét chỉ rộng chưa đầy một mét, hun hút trong rừng thẳm. Đá hộc ngổn ngang, những cơn lũ quét mới đây đã hất văng mấy đoạn đường xuống vực thẳm. Tôi phải gửi xe ở xã Liệp Muội và cuốc bộ suốt 4 tiếng đồng hồ mới vào đến bến đò xã Nậm Ét. Từ đây phải thuê thuyền xuôi sông Đà gần 2 tiếng nữa mới đến trung tâm xã Liệp Tè. Trung tâm xã Liệp Tè hiện ra giữa ngọn đồi nằm ngay bên dòng sông Đà mùa lũ mênh mông cuồn cuộn. Trung tâm xã buồn tẻ đến mức chỉ có 3 ngôi nhà gỗ, mái gianh nằm ngay bên sông, là nơi những người lái đò dọc sông Đà trú chân. Trụ sở UBND xã là ngôi nhà 3 gian tuềnh toàng và một trường học tường gỗ, mái gianh thủng loang lổ. Đã 3h chiều mà các cán bộ chủ chốt của xã vẫn ngồi bên hiên trụ sở uống rượu suông. Chủ tịch xã Tòng Xuân Sáng phân bua: Hầy dà! Cả ngày trực trụ sở mà chả có việc gì làm nên đành lấy chén rượu làm bạn thôi à. 10 năm nay sống trong cảnh phấp phỏng chờ nước ngập sao mà dài thế, giờ sắp phải đi lại thấy nhớ nhớ cái mảnh đất buồn tẻ này lắm à. Tôi ngỏ ý muốn tìm hiểu về những di chỉ khảo cổ ở Liệp Tè, ông Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Lò Văn Sáy hiểu biết hơn cả: Cán bộ cứ ngồi đây làm chén rượu đã. Ở đây di chỉ khảo cổ nhiều lắm, tìm hiểu cả ngày không hết đâu à. Phải uống hết chai rượu sắn cay cay, nồng nồng ông Sáy mới dẫn tôi men theo con đường mòn ra hướng thềm sông bản Pá Màng. Ông Sáy chỉ tay vào vách một doi đất màu nâu cổ dường như mới bị đào xới rồi ông ra những mảnh gốm cổ có màu gạch nung và màu nâu mà theo ông thì còn rất nhiều ở khu vực này. Khắp khu vực này, ngay cả móng những ngôi nhà đắp bằng đất cũng tìm ra được mảnh gốm. Có thể nơi đây là xưởng gốm của người xưa. Rồi ông Sáy kể, hồi năm 1996, mấy hộ dân đào móng dựng nhà ở khu vực Pá Màng đã đào được khá nhiều rìu đá, rìu đồng, giáo đồng, đặc biệt là những lọ gốm cổ, có khi đến vài trăm chiếc. Tin đồn về một khu vực có nhiều đồ cổ đã khiến dân đào đồ cổ khắp nơi đổ về, họ đào bới cả ngày lẫn đêm và đem đi không biết bao nhiêu đồ cổ. Những hộ dân ở đây đào được đồ cổ cũng đã bán hết cho dân buôn rồi. Tuy nhiên, theo ông Sáy, hiện tại ông Nguyễn Ón là người còn lưu giữ rất nhiều đồ cổ. Ông Ón là thầy mo của người Thái đen ở xã Liệp Tè. Các thầy mo ở đây đều còn lưu giữ một số món đồ cổ như rìu đá, bôn đá, đục đá, rìu đồng, giáo đồng, búa đồng, qua đồng và họ coi đó là những vật thiêng dùng để cúng bái, làm ma, chữa bệnh. Hầu hết người dân nơi đây, và ngay cả ông Lò Văn Sáy cũng tin rằng những vật thiêng mà thầy mo giữ là do thần sét nhà trời đánh xuống mà có. Các thầy mo cất giữ trong nhà như những bảo vật, dù có trả giá bao nhiêu các thầy mo cũng không bán vì họ cho rằng, nếu bán vật thiêng sẽ bị ông trời trừng phạt. Người trong bản ốm thì mời thầy mo đến cúng, cúng xong thầy mo đem những vật thiêng này ra mài lấy nước cho người ốm uống để xua đuổi con ma làm bệnh trong người. Thầy mo nhất quyết không cho người lạ xem vật thiêng, người quen cũng chỉ được nhìn từ xa chứ không được đụng vào. Nhà thầy mo Nguyễn Ón nằm sau dãy núi khổng lồ sừng sững giữa trời, phải đi bộ 4 tiếng mới vào đến nên tôi không có điều kiện để chiêm ngưỡng bộ sưu tập vô giá đó. Năm 1997, khi nghe tin di chỉ khảo cổ Pá Màng bị dân chúng đào bới tìm kiếm cổ vật, các nhà khảo cổ học đã đi thuyền từ Mường La lên xem xét tình hình. Ông Sáy xem họ đào bới, tìm kiếm suốt một tuần. Ông Sáy buồn rầu kể lại: Trước khi về, một nhà khảo cổ đã phát biểu với chúng tôi rằng, di tích khảo cổ Pá Màng rất quý, nhưng đã bị đào bới rất thảm hại, cổ vật bị mất rất nhiều, chúng tôi sẽ khai quật chữa cháy trong thời gian tới... Trước khi lên đây, tôi đã vào Sở VH-TT tỉnh Sơn La và tìm hiểu các tài liệu thì được biết rằng nhóm khảo cổ đó từ Viện Khảo cổ học Việt Nam lên. Trong một báo cáo ngắn gọn, TS Nguyễn Khắc Sử đánh giá về di chỉ khảo cổ này như sau: Di chỉ khảo cổ Pá Màng là một di chỉ cư trú thềm sông có hai mức phát triển khác nhau. Một lớp văn hoá trong số này thuộc sơ kỳ thời đại kim khí, cách ngày nay trên dưới 4.000 năm.... Và ông cũng coi việc khai quật nghiên cứu di chỉ Pá Màng trước khi đắp đập thuỷ điện Sơn La là rất cần kíp, phải được thực hiện gấp vào cuối năm nay. Ông Sáy dẫn chúng tôi đi tiếp ra phía bờ sông. Ông xắn quần bì bõm lội ra giữa dòng nước đỏ ngầu. Chúng tôi cũng lò dò lội ra theo. Thềm sông thoai thoải, nước lũ còn chưa lên cao nên không nguy hiểm lắm. Ông Sáy chỉ tay lên mặt những hòn đá, quan sát kỹ tôi mới thấy đó là những hình vẽ cổ xưa. Thầy mo trong các bản đều bảo nó là vật thiêng từ trên trời rơi xuống. Theo lời ông Sáy, già bản Lò Văn Hâu kể, cách đây khoảng 100 năm, khu vực thềm sông Pá Màng có tới 40 hòn đá đen bóng xếp gần nhau. Trong các huyền thoại của người Thái nơi đây thì một vị thần đã xuống bãi Pá Màng tắm rồi để lại những hình vẽ và những hình vẽ này sẽ mang lại tốt lành cho người dân quanh vùng. Đồng bào tin huyền thoại này là vì ở khu vực Pá Màng, xưa nay người Thái săn được rất nhiều cá. Những con cá Chiên nặng đến 60 kg, lừ đừ như quả bom ở dưới nước. Giờ đây cũng vậy, khu vực này vẫn dồi dào cá nhất sông Đà. Người Thái ở Liệp Tè, Nậm ét và những xã lân cận thường dong thuyền đến khu vực Pá Màng săn cá. Mùa lũ lớn, nước sông Đà đặc quánh bùn đất, các loài cá cứ trương bụng nổi lều phều và người dân Liệp Tè chỉ việc mang rổ ra xúc. Có ngày xúc được cả tạ cá. Ông Hâu là người nắm rõ truyền thuyết về những tảng đá có hình vẽ này nhất, nhưng sau khi ông chết giờ chẳng còn ai hiểu biết về những hòn đá cũng như những hình vẽ này nữa. Trong một số tài liệu còn lưu trữ ở Bảo tàng Sơn La thì lần thám sát dọc sông Đà vào năm 1977, các nhà khảo cổ học phát hiện được 18 hòn đá ở Pá Màng có hình khắc. Tuy nhiên, hiện tại chúng tôi đếm mãi mà chỉ còn thấy 5 hòn, trong đó 4 hòn đã sắp ngập hết dưới nước lũ, một hòn nằm gần bờ thì nước mới ngập đến chân. Ông Sáy cũng khẳng định giờ chỉ còn 5 hòn đá ở thềm sông bản Pá Màng. Những hòn đá này đều rất to, cứng, có chân vững chắc ăn sâu xuống đất nên việc vận chuyển không phải dễ dàng. Việc biến mất của những hòn đá này vẫn còn là một ẩn số. TS Nguyễn Khắc Sử đã dành trọn 2 ngày để đo đạc, vẽ, dập và chụp ảnh các bức hoạ đem về Hà Nội nghiên cứu, ông mô tả những hình vẽ trên các tảng đá cổ như sau: Hều hết các vết khắc tập trung ở mặt phía tây bắc của hòn đá, tức là hướng ra phía sông Đà, có những hòn đá hình vẽ ở mặt quay lên trời. Các hình khắc chủ yếu được thể hiện bằng các đường tròn tiếp giáp nhau, hoặc được nối với nhau bằng một gạch nối có thể thẳng, có thể cong. Có những hình gần như hình người gồm một hình tròn làm đầu, một vạch thẳng làm thân nối với hai chân choãi cong ở dưới. Hình vẽ không thể hiện tay. Có những hình khắc con thú 4 chân. Có những hình tròn hay bầu dục có vết lõm ở giữa hay một vạch phân đôi. Phần lớn các hình khắc này không tuân theo một trật tự nào. Các nét khắc rộng, hẹp và nông, sâu khác nhau, chỗ rộng nhất tới 3cm, chỗ hẹp nhất 1cm, chỗ sâu nhất 1cm, chỗ nông chỉ 0,2cm. Những nét khắc này được khắc từ một dụng cụ cứng và có đầu nhọn sắc kiểu lưỡi đục hơn là mũi rìu, bởi vì phần nhiều chiều ngang vết khắc là ổn định trong kích thước 1,5cm và sâu 0,3cm. Điều đặc biệt là người tạc đá có tận dụng các đường nét tự nhiên của hòn đá như các lỗ lõm, các vết nứt tự nhiên để thể hiện đề tài. Về nội dung hình khắc, có những hình thể hiện ý tưởng vô cùng phức tạp, kỳ dị. ở viên đá mà các nhà khoa học đặt tên theo thứ tự là hòn đá số 1 có hình khắc liên tục, trải dài từ thân bên này, vắt qua mặt rồi tràn xuống phần thân bên kia. Nhìn toàn thể, hình khắc đó giống con thú có một sừng, hai mắt, một tai. Tuy nhiên, theo tụng truyền của những người già trong bản thì đó là hình khắc thể hiện mình và đầu con rồng. Ngoài ra, nhìn vào phần thân con rồng thì lại thấy được hình tượng của dòng sông Đà đoạn từ xã Chiềng Bằng qua Liệp Tè với những khúc uốn lượn quanh co rất phù hợp. Riêng TS Nguyễn Khắc Sử đưa ra quan điểm đây có thể là một thứ chữ cổ, dạng tượng hình. Đã có một số nhà khoa học cắt rừng lội bộ vào Liệp Tè để nghiên cứu, song đều chưa giải nghĩa được các hình khắc kỳ dị này. Tháng 11 này sẽ ngăn sông để xây dựng thuỷ điện Sơn La, những di chỉ nằm dưới thềm sông Pá Màng và những tảng đá có hình khắc sẽ vĩnh viễn chìm sâu dưới dòng nước và những lớp phù sa bồi đắp. Xin đừng để bức thông điệp mà tổ tiên ta gửi lại cho thế hệ mai sau chưa được giải nghĩa vĩnh viễn biến mất dưới dòng nước bạc. Chủ Nhật, 16/08/2009, 08:11 (GMT+7) Nguồn: http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.as...mp;ChannelID=89 Theo chân những nhà khảo cổ - Kỳ 2: Mỗi phiến đá như có linh hồn TT - Nhằm kịp tiến độ cho hồ thủy điện Sơn La chứa nước, đoàn khảo cổ phải chia thành nhiều nhóm để khai quật. Tôi theo chân tiến sĩ Bùi Văn Liêm xuôi dòng sông Đà để khai quật bãi đá cổ Pá Màng (xã Liệp Tè, huyện Thuận Châu, Sơn La). Sau những câu chuyện về các ký tự cổ còn sót lại trên phiến đá đã xanh màu rêu phong là những bí mật về nghề, về đời của những người khảo cổ mà ít ai biết được. >> Kỳ 1: Hành trình ngược thời gian Lời của đá Nằm sát mé sông, bãi đá cổ Pá Màng chỉ nổi lên khi sông Đà vào mùa khô. Pá Màng nằm sâu trong vách núi, gần như tách biệt với thế giới bên ngoài. Theo tiến sĩ Liêm, khi đi khảo sát di chỉ này vào những năm cuối thập niên 1980, họ phải đi bộ mất mấy ngày trời mới đến. Người dân ở đây gọi đó là bãi đá thiêng, vì theo truyền thuyết của người Thái đó là nơi trú ngụ của những hồn ma, quỷ dữ. Vì thế ít ai dám lui tới, trừ những thầy cúng và đoàn khảo cổ. Hàng ngàn năm nay bãi đá rêu phong vẫn nằm đó, mang trên mình những bí ẩn mà người xưa truyền lại. Rồi đây cả một vùng rộng lớn này sẽ bị nhấn chìm trong nước mà hậu thế vẫn chưa đọc được lời cổ nhân, vì vậy nó được di dời để tiếp tục được giải mã như một lời tạ tội với cha ông. Ít ai biết được để có thể đưa những cổ vật từ lòng đất đặt đúng giá trị của nó, những nhà khảo cổ phải vượt qua nhiều thử thách rất đỗi đời thường. Tiến sĩ Bùi Văn Liêm tâm sự: “Buồn nhất là những chuyến đi dài ngày, nhớ con lắm. Như hồi sinh đứa đầu lòng, con vừa được sáu ngày thì tôi phải lên đường đi khai quật. Thời đó khó khăn lắm, người ta đi về có tiền đưa vợ, còn tụi tôi nhiều chuyến đi về chỉ có măng rừng làm quà. Thấy con đói sữa khóc la mà xót cả ruột. Rồi khi con lớn, mình vẫn đi biền biệt nên bọn nhỏ cũng chẳng mến cha, về cũng thế, không về cũng thế. Buồn nhất là có lần tôi đi họp phụ huynh cho cháu, sau buổi họp cô chủ nhiệm kéo tôi ra hỏi riêng: Anh có phải là phụ huynh của cháu không? Không kìm nén được tôi phát cáu. Nhưng khi bình tâm nghĩ lại thấy mình có lỗi quá, đã hơn mười năm nay đó là lần đầu tiên tôi đi họp phụ huynh”. Với những nhà khảo cổ, còn rất nhiều việc phải làm với bãi đá này. Tiến sĩ Bùi Văn Liêm cho biết: “Hiện chúng tôi chưa thể khẳng định được gì nhiều, bởi khảo cổ là một quá trình lâu dài, từ tìm kiếm hiện vật đến khi đọc được nó, có khi phải mất cả một đời người. Tôi chỉ có thể nói rằng bãi đá cổ này là rất quý hiếm, có từ hàng ngàn năm trước. Chủ nhân của nó là một nền văn minh lớn, điều đó thể hiện qua chữ viết. Tôi rất lấy làm tự hào vì chính điều này nói lên rằng người Việt cổ đã sinh sống và định cư ở đây rất lâu chứ không phải di dân từ nơi khác đến. Đó là một minh chứng giúp thổi lên ngọn lửa dân tộc cho những đời sau”. Sau vài ngày khai quật, phiến đá dần được hiện hình sau những lớp phù sa bồi đắp hàng ngàn năm. Những vết hằn sâu trên đá, những họa tiết sắc nét nói lên rằng những người tạo ra chúng đã nắm giữ một công nghệ chế tác đáng được kính nể. Người dân quanh bản thỉnh thoảng ra xem, ai cũng tròn mắt ngạc nhiên nhưng ít biết rằng đó là bút tích còn sót lại của chính tổ tiên mình. Tiến sĩ Liêm nói mà như tự nhủ với lòng mình: “Phải sớm đọc cho được những dòng chữ bí ẩn kia để hậu thế hiểu rằng đó là những gì còn sót lại của cha ông. Mảnh đất này cha ông đã kiên cường chống chọi với thiên nhiên từ hàng ngàn năm trước để khai khẩn, nay con cháu phải biết giữ gìn và yêu mến”. Phải chăng đó cũng là lời từ những phiến đá rêu phong kia muốn nhắn gửi hậu thế? Tâm sự của người Ngày ở Liệp Tè rất nóng nhưng đêm lại rét thấu xương. Đó là chưa kể đến những trận lốc cát, mưa đá bất chợt giữa núi rừng. Nhìn phiến đá trần mình giữa nắng gió, tiến sĩ Bùi Văn Liêm thở dài: “Có theo nghề này mới hiểu mỗi phiến đá, mảnh vỡ như có linh hồn, có đời sống riêng. Nếu hiểu được điều này sẽ cảm nhận được nỗi buồn vui, đau đớn của những phiến đá kia”. Nói rồi ông đưa tay chỉ một vết sẹo trên tảng đá lớn với nhiều cổ tự đẹp: “Đây là vết sẹo do một máy cạp của dân đào vàng để lại. Hàng ngàn năm nay phiến đá đã phải chịu nhiều đớn đau từ thiên nhiên, chiến tranh để tồn tại như một phép mầu. Vậy mà bây giờ người ta lại đang tâm làm nó hư hao, may mà chúng tôi còn lưu giữ được hình ảnh trong mấy lần khảo sát trước chứ không thì biết lấy gì để phục chế. Mỗi lần chứng kiến di chỉ bị tàn phá là những người trong nghề chúng tôi cảm thấy đau lòng và bị xúc phạm vô cùng!”. Ông kể đã có lần bật khóc khi xảy ra mâu thuẫn nhỏ giữa nhân công các làng do họ phóng uế lên cả những hiện vật đang khai quật. Sau những lần như thế, ông và những thành viên trong đoàn cứ mặc cảm tội lỗi với tổ tiên. Ông nói đó là nỗi đau lớn nhất mà những người làm nghề khảo cổ phải đối diện. Đêm về khuya, nước sông Đà rì rào. Trằn trọc mãi vẫn không ngủ được, tiến sĩ Liêm bật dậy, ngồi nhìn ra sông như tìm kiếm mông lung. Ông nói ông đã đi nhiều, khai quật nhiều nhưng Liệp Tè đối với ông có một điều gì đó cuốn hút kỳ lạ. Ông kể: “Nó gắn bó với tôi từ những ngày đầu về viện khảo cổ, đi gần cả một đời người rồi mà những bí ẩn từ phiến đá kia vẫn chưa được sáng tỏ. Cái nghiệp này nặng lắm, khi gắn mình với một di chỉ nào rồi thì như nợ với tiền nhân một lời hứa. Nhiều lần những người buôn bán đồ cổ liên hệ với chúng tôi nhưng đều bị từ chối, bởi chúng tôi không đánh giá giá trị của cổ vật theo sức nặng đồng tiền. Sức nặng của cổ vật nằm ở giá trị văn hóa, mà nói về văn hóa thì vô giá, không thể đo đếm được. Những ai xem nghề này là nghiệp luôn tâm niệm rằng cái gì thuộc về lòng đất thì trả về cho lòng đất, không được tơ hào dù là một viên cuội nhỏ. Có chuyến tôi được điều gấp đi khai quật những ngôi mộ cổ để chống lại vấn nạn đào trộm. Vừa đến nơi, chẳng biết do hiểu nhầm làm sao mà chính quyền lại giam lỏng mấy ngày, phải đợi cơ quan đến bảo lãnh mới được ra. Đó là lần tôi suýt bị gán cho cái tội đào trộm mộ cổ”. Tiến sĩ Liêm nói sau gần một đời người gắn bó với nghề, đến nay như bao nhà khảo cổ khác ông chỉ ước một điều: đó là những di chỉ, di tích của cha ông để lại được tôn trọng một cách xứng đáng hơn, bởi đó là báu vật vô giá mà thế hệ hôm nay phải biết gìn giữ và tôn tạo cho con cháu mai sau. THẾ ANH ______________________ Không chỉ tìm đến di chỉ rồi đào đào, bới bới mà những nhà khảo cổ còn phải ghi chép lại bằng hình ảnh của di chỉ từng lớp một trong suốt quá trình khai quật, tiếp theo họ phải thổi hồn cho từng viên cuội, mảnh gốm để nó có thể thốt lên lời trên những trang tư liệu lịch sử. Kỳ tới: Thổi hồn vào cổ vật
-
Hai lá số cùng giờ Ngọ, có gì khác nhau đâu?
-
Nếu phải coi một giả thiết nào lộn xộn và lủng củng nhất về cội nguồn dân tộc Việt thì có thể chọn giả thuyết của ông Hà Văn Thùy. Ông ta đã nhầm lẫn giữa lịch sử tiến hóa và lịch sử của một dân tộc. Giả thuyết của ông này được BBC và các phương tiện thông tin hải ngoại và một số báo trong nước tung hê chính vì điều này: Giả thuyết này đã ủng hộ quan điểm của cái "hầu hết " và "cộng đồng" khi cho rằng: Lịch sử của dân tộc Việt chỉ bắt đầu ở đồng bằng sông Hồng. Nếu như có một cuộc hội thảo chính thức thì tôi đề nghị ông Hà Văn Thùy tham gia phía phản biện Thiên Sứ, cho cái "hầu hết" và "cộng đồng" thêm trọng lượng.
-
Sau 10 tiếng sẽ đưa Walibi vào lớp.
-
Ngắm tượng chuyển động (Dân trí) - Một nghệ sĩ người Hà Lan đã khiến người xem phải trầm trồ, thán phục trước những bức tượng tái hiện hình ảnh quay chậm các động tác của con người. Các động tác của vận động viên điền kinh, vận động viên môn thể dục, cầu thủ bóng đá, võ sĩ karate đã được tái hiện thông qua những bức tượng. Những bức tượng được tạc vô cùng khéo léo. Chủ nhân của bộ sưu tập tượng này đã đam mê điêu khắc các chuyển động của con người từ 20 năm về trước... ... vì ông tò mò trước hình dạng tổng thể của con người khi chuyển động. Peter Jansen - tác giả của những bức tượng tuyệt đẹp. Ninh Nhi Theo TG
-
Các loại rau, củ, quả hình thù kỳ quặc (1) (Dân trí) - Loài cây có quả giống hệt thân hình người phụ nữ ở Thái Lan; Những quả táo có biểu tượng của hãng Apple Mac được lai tạo ở Nhật; Dưa hấu hình trái tim... Trái lê hình em bé là sản phẩm do ông nông dân Gao Xianzhang, tại làng Hexia, tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc) lai tạo. Các loại dưa hấu hình thù khác lạ được lai tạo ở Nhật. Dưa hình trái tim... ... hình mặt người. Những quả táo có biểu tượng của hãng Apple Mac do một người trồng táo và cũng là "fan" của Apple Mac tại Fuji, Nhật Bản lai tạo. Dưa chuột hình ngôi sao, trái tim giúp món salad thêm phần hấp dẫn. Giống cây kỳ lạ cho ra quả tự nhiên giống hệt thân hình người phụ nữ ở Petchaboon, Thái Lan. Loài cây này có tên gọi Nareepol. Trong tiếng Thái Naree có nghĩa là cô gái hoặc phụ nữ và pol có nghĩa là cây. Những củ cà rốt hình thù kỳ quặc. Cà rốt ngắn ngủn có tên gọi cà rốt Parisienne được trồng ở Pháp và Scotland. Cà chua hình mặt người. Cà chua có... sừng. Quả bầu hình con rắn tại Montreal, Canada. Ninh Nhi Tổng hợp
-
Về nguyên tắc đất nào cũng xây nhà được tất, miễn là có sinh khí. Tùy theo hình thể miếng đất mà xây hình tượng nhà thích hợp. Nhưng với những hình thù lạ thì đất phải rộng mới xoay trở được.
-
Tin vắn 5.9.2009 Nguồn Thanh Niên Online. 05/09/2009 0:14 * Theo Tân Hoa xã, không khí bất ổn vẫn đang lan tràn trên đường phố Urumqi thuộc Khu tự trị Tân Cương của Trung Quốc vào hôm qua bất chấp lực lượng an ninh dày đặc và máy bay trực thăng tuần tra trên bầu trời sau hàng loạt vụ tấn công bằng kim tiêm. * Tổ chức Y tế thế giới hôm 4.9 thông báo ít nhất 2.837 người trên thế giới đã thiệt mạng vì cúm A/H1N1, tăng thêm 652 trường hợp so với số liệu công bố trước đó 1 tuần. * Hãng sản xuất máy bay Airbus hôm qua cho biết họ đang nghiên cứu việc thay thế hộp đen bằng một hệ thống truyền dữ liệu về chuyến bay thông qua vệ tinh. * Ngày 4.9, 3 cảnh sát thiệt mạng và 2 người khác bị thương trong vụ nổ bom bên vệ đường gần làng Dattykh ở nước Cộng hòa Ingushetia thuộc Nga. * Hôm qua, một máy bay Boeing 747 của hãng hàng không quốc gia Ấn Độ Air India với 229 hành khách và phi hành đoàn đã bốc cháy khi đang chuẩn bị cất cánh từ sân bay Mumbai. Tất cả hành khách được sơ tán an toàn. T.Q (Theo AFP, Reuters)
-
Dù chẳng yêu, em vẫn lấy chồng.Anh về lấy vợ thế cũng xong. Tình đời tan tác, như ly vỡ. Thôi thế còn đâu, chén rượu nồng.
-
Chú có thể kết luận thế này:"Quân tử vấn dịch để biết lẽ tiến thoái, nhưng không thay đổi ý chí của mình" Biết số phận như vậy, nhưng vẫn cần cố gắng để đạt mục đích. Chú haithienha nói năm tới có sự va chạm pháp luật. Nhưng chú e rằng nếu không xảy ra trong năm nay thì mầm mống cũng từ năm nay: Thái Tuế, Thiên Hình, Tuế phá, quan phù. Bởi vậy, cần thận trong trong những hành vi có thể phạm pháp nơi mình ở. Trong trường hợp người ta phạm pháp với mình - thí dụ đụng xe chẳng hạn - thì mình phải, người ta trái.
-
Có một trường hợp tương tự: Một em bé mồ côi mẹ, nuôi cha tâm thần ở Thanh Hóa, tôi và Laviedt, Kim Phong và HTV xuống trao tiền từ thiện. Tổng số từ thiện đóng góp các nơi cho gia đình em bé rất lớn - lên đến vài trăm triệu. Nhưng vì cha tâm thân, em lại còn nhỏ, nên chúng tôi trao cho quỹ tín dụng xã đứng tên em. Chuyện này còn chấp nhận được. Nhưng nay trao cho một tổ chức, hoặc một cá nhân thì tôi nghĩ hãy gửi tiết kiệm tên em bé và em muốn rút lúc nào thì rút. Theo cái nhìn của tôi thì ý nghĩa của việc làm từ thiên - ngoài niềm tin vào Âm Đức ra - thì nó còn là hình ảnh rất nhân văn trong tâm thức của con người. Hành vi từ thiện còn làm cho mỗi con người trên thế gian hy vọng vào cuộc sống của mình trong đường đời nhiều bất trắc. Những hình ảnh từ thiện và kết quả của nó sẽ làm cho con người sống nhân bản hơn với tình yêu con người. Bởi vậy, kết quả từ thiện cần được mỹ mãn. Tức là phải có hiệu quả: Ít thì như một chén cơm mà người ta no lòng. Nhiều thì phải thay đổi được số phận bi đát của con người. Còn nếu không có kết quả, hoặc ngược lại bị tham nhũng tiền từ thiện, hoặc chỉ quăng tiền cho những người cơ nhỡ thì chính việc làm này sẽ khiến con người thiếu niềm tin vào nhau. Hậu quả sẽ rất xấu. Chúng ta không có chức năng thông tin và không đủ khả năng thông tin kết quả những việc làm từ thiện - thí dụ như: Một em bé mồ côi mẹ nuôi cha tâm thần, được hàng trăm triệu đã sử dụng số tiền đó như thế nào và cuộc sống em đó ra sao. Từng cá nhân làm từ thiên thì vì sự cao thượng có thể ẩn danh và không muốn kiểm soát số tiền đã cho. Nhưng xã hôi - qua báo chí - cần có trách nhiệm thông tin những kết quả từ thiện. Chính vì không có chức năng đó, nhưng lại có duyên làm từ thiên, nên chúng ta cần phải minh bạch, rõ ràng và cố gắng đạt hiệu quả cao nhất với số tiền mà chúng ta đã trao. Điều này sẽ chứng tỏ sự tôn trọng những nhà hảo tâm và tôn trong con người mà chúng ta trao tiền với mục đích giúp họ vượt lên trên số phận. Trong giới hạn của chúng ta, thì ít nhất phải có niềm tin rằng: Số tiền đó được trao một cách minh bạch - đây là điều kiện tối thiểu. Ngoài ra nó phải có một niềm tin rằng: Số tiền ấy được đối tượng sử dụng cho chính cuộc sống của họ, góp phần làm tương lai họ sáng sủa hơn - khi mà chúng ta không có khả năng thông tin cuộc sống của họ sau từ thiện. Bởi vậy, nếu nuôi gà không ổn, thì cách tốt nhất là cùng em bé đó, gửi tiết kiệm tên em, hoặc sẽ mua những gì em yêu cầu, có hóa đơn, chứng từ rõ ràng. Vài lời lạm bản.
-
moonlover thân mến. Hấp dẫn quá! Nguồn bài viết trên ở đâu vậy?
-
Khái Quát Về Phong Thuỷ Nguồn: vuiveclub.net Một dòng họ vượng phát bởi hai cuộc đất một âm (mộ Tổ) một dương (nhà thờ họ) như một cặp "thư hùng". Ai qua Hải Dương nhiều lần chắc không thể không biết câu chuyện về dòng họ Vũ nổi tiếng khoa bảng trong các giai đoạn phát triển của lịch sử Việt Nam 1200 năm qua. Là một người họ Vũ tác giả không muốn đi quá sâu phân tích phong thuỷ của hai cuộc đất này mà chỉ muốn nhắc đến nó như là một chứng nghiệm mà thôi. Ngược dòng lịch sử khoảng 1200 năm về trước nước Việt khi đó đang bị đô hộ bởi nhà Đường Gia phả của dòng họ còn chép lại : Trải bao đời thanh bạch có nhau Cụ Vũ Huy ở bên tàu Thuộc tỉnh Phúc Kiến - Thường Châu là nhà Vốn nho gia lại là nhà địa lý Sang Việt Nam chủ ý tầm long Đi đến Nam Sách tỉnh Đông Thấy đất bách nhạn bay trông hồi sào Đem mộ tổ táng vào chính huyệt Đất công khanh phát tiếp muôn đời ……. Một miếng đất như chìm như nổi Trăm nhạn bay tụ hội hồi sào Giữa đồng gò đống nổi cao Địa danh Nam Sách huyệt giao toàn tài Qua ngày một ngày hai ấn định Đưa tổ về chính huyệt tang treo Rằng như sách dạy mang theo Đất này mãi mãi phát nhiều công khanh Những Làng khoa bảng nổi tiếng Việt Nam : Xin được trích dẫn một số bài viết của các tác giả khác để làm dẫn chứng : a- Thôn Linh khê, Xã Thanh Quang huyện Nam Sách Thật khó có thể tìm được một làng quê có vẻn vẹn 1075 nhân khẩu, với 300 hộ gia đình, mà trong đó có đến 150 cử nhân các ngành, 7 thạc sĩ, hơn 80 giáo viên các cấp, 50 sinh viên đại học, 1 tiến sĩ tương lai đang làm luận án tại Nhật Bản. Đó là thôn Linh Khê, xã Thanh Quang (Nam Sách - Hải Dương). Linh Khê, một làng quê bé nhỏ nằm nép mình bên dòng sông Kinh Thầy, nơi cách đây mấy chục nǎm đã ghi nhận sự trưởng thành của thầnđồng thơ Trần Đǎng Khoa; và cách xa hơn 7 thế kỷ là sự xuất hiện lừng lẫy của Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi. Cạnh tấm bia cổ của di tích, ông Đỗ Minh Hoàng, một nhà giáo về hưu cho biết, từ xa xưa dân làng Linh Khê đã có ước muốn được đem cái chữ, kiến thức của đạo làm người dạy bảo học sinh. Chính vì thế, hết thế hệ này nối tiếp thế hệ kia mà đến nay trong cả thôn đã có tổng cộng 85 người làm nghề dạy học ở mọi cấp, mọi nơi. Lướt nhanh ngón tay, nhà giáo Đỗ Minh Hoàng đã bấm được sơ sơ gần chục gia đình có tới ba đời làm nghề dạy hoc như gia đình cụ Lương Quang Diễn, những gia đình có từ hai giáo viên trở lên thì không thể nhớ hết.... Cá biệt có gia đình cụ Đỗ Vǎn Dần có tổng cộng 10 người làm nhà giáo. Nǎm nay, cả thôn có hơn mười người đi thithì có tới 7 em đỗ đại học với số điểm cao vào các trường “rắn” như: ĐH Bách Khoa, ĐH Xây Dựng, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền,... Làng Linh Khê đã chứng kiến rất nhiều câu chuyện cảm động đến chảy nước mắt về các gia đình nuôi con học đại học. Nào thì nhà bán ruộng, bán đất; nào thì nhà bố mẹ làm lụng vất vả, bữa cơm chỉ có quả cà bát canh để còn dành dụm từng đồng, tháng tháng gửi cho các con; có nhà thì ông bố sẵn sàng đi đào mộ thuê vào dịp cuối nǎm cũngchỉ với một mục đích duy nhất là để kiếm tiền cho con ǎn học. Khó khǎn là vậy, nhưng dân làng Linh Khê cũng vì thế mà ngày càng toả sáng hơn với thế hệ trẻ hôm nay. Những tấm bằng kĩ sư, cử nhân mà con em quê hương đạt được ngày một nhiều. b- Bắc Cổ Am nam Hành Thiện Quê hương Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Quê hương Vương Quốc Chính, thủ lĩnh Tín nghĩa hội 1879 chống Tây cứu nước. Tôi cùng kiến trúc sư Phạm Vũ Hội về Cổ Am, theo con đường mà có lẽ ngày xưa Trạng Trình đã đi từ kinh đô về quê để ở ẩn, khi ông chán ngấy cái triều đình nhà Mạc suy đốn. "Thôi thôi mặc lũ thằng hề/Gió mây ta lại tìm về gió mây" (Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm - NBK). Phạm Vũ Hội là một người đa tài. Anh thiết kế kiến trúc, làm thơ, soạn nhạc và nặn tượng. Anh nặn tượng, danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm và nghiên cứu về Trạng Trình với lòng sùng kính một thiên tài. Phạm Vũ Hội còn là tác giả của dự án tôn tạo khu di tích Trạng Trình thuộc vực Cổ Am - Lý Học. Chúng tôi đến bến phà Khuể. Con sông Văn Úc sóng cuồn cuộn đổ ra biển Đông. Lòng sông rộng, nước vàng đục màu phù sa diễu quanh thân phà - Thuỷ sắc ngưng hoàng lục nhiễu hàng (Quá thao Giang – NBK). Cứ theo thơ vãn của Trạng Trình mà suy thì có lẽ khi qua sông này cũng đã cảm khái nhớ tới Xích xích tuyệt xướng của Tô Đông Pha với câu mở đầu: "Đại Giang Động Thứ, lãng đào tận, thiến cổ phong lưu nhân vật..."- Sông lớn chảy về Đông, cuốn trôi hào kiệt nghìn đời...". Bên kia sông Vãn Úc là huyện Tiên Lãng, có làng An Tử Hạ, quê vị khoa bảng Nhữ Văn Lan, ông ngoại Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là vị tố của họ Nhữ, đỗ tiến sĩ năm 1463, đời Lê, làm đến chức Thượng thư bộ Hộ; sau được thờ ở đình miếu làng An Tử Hạ. Họ Nhữ còn có nhiều người đỗ đại khoa. Ngôi đền An Tử Hạ thờ Nhữ Văn Lan đã bị giặc Pháp đốt phá, nhưng tượng và biển tiến sĩ của ông vẫn còn. Một người con của Nguyễn Bỉnh Khiêm sang quê ngoại lập nghiệp, thành một chi họ Nguyễn lớn ở Tiên Lãng. Ở đây còn có khu Mả Nghè, nơi an táng vợ chồng Nhữ Văn Lan và con gái Nhữ Thị Thục (mẹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm). Qua thị trấn Tiên Lãng, đến bến Hàn, nhưng không phải đi đò như ngày xưa mà có cây cầu phao bắc qua sông. Sông Hàn còn gọi là Tuyết Giang. Xưa, bên sông này có quán Trung Tân, nơi Trạng Trình ngồi ngâm vịnh, viết những bài Ngụ hứng và nghiền ngẫm thế cuộc, thiên cơ, quốc vận. Chợt nhớ câu thơ của Tuyết Giang phu tử (NBK): "...Phong ổn phàm quy hàn phố nguyệt/Thiên tình long hiện viễn sõn vân..." (Gió lặng buồm xuôi về bến lạnh/Trời mây rồng hiện đỉnh non xa. - Trung Tân quán ngụ hứng). Qua sông Hàn, chúng tôi đi dọc theo đường số 354 đến địa phận Lý Học - Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, vùng đất nổi danh. Phạm Vũ Hội bảo tôi: - Cụ Trạng tiên lượng việc vị lai như thần. Cái câu ''Bao giờ Tiên Lãng chia đôi, sông Hàn nối lại thì tôi lại về", đến bây giờ mới rõ. Cái năm cầu phao sông Hàn được bắc nối hai huyện Tiên Lãng - Vĩnh Bảo; con sông đào cổ xưa chảy ngang qua Tiên Lãng bị bỏ lấp từ lâu được khơi lại; thì ngay sau đó rộ lên hội thảo, sưu tầm khảo cứu về danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm. Rồi văn thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được in ra, cả ''Sấm Ký Trạng Trình'' nữa. Thiên tài của Người đã được công nhận và tôn vinh. Thế là Người đã về đúng với ngôi vị của mình. Một thời Sấm Ký bị coi là sách mê tín dị đoan. Bây giờ dùng Lý học mà suy thì có nhiều việc đã xảy ra rất linh nghiệm. Phạm Vũ Hội giao thiệp với hoạ sĩ Giang Phiếm, là cháu đời thứ mười sáu của Trạng Trình đã đổi thành họ Giang. Một thời cả dòng tộc Nguyễn Bỉnh Khiêm phải thay tên đổi họ, ly tán thập phương. Cổ Am nổi tiếng vì vùng đất này sinh nhiều bậc tài danh ở mọi thời. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người mà khi ra đời, theo giai thoại, quan chiêm bốc chuyên theo dõi thiên tượng của triều đình Bắc phương đã dâng biểu tấu: ''Có ngôi sao lạ to bằng cái đấu xuất hiện ở phương Nam, ứng với một chân nhân đã ra đời''. Sau này, Nguyễn Bỉnh Khiêm được phong tước Trình Tuyền hầu (nên mới gọi là Trạng Trình), Chu Sán, danh sĩ đời nhà Minh nhận xét: ''An Nam Lý học hữu Trình Tuyền'' - Nước Nam có Trình Tuyền hầu thông hiểu Lý số. Có lẽ vì thế mà đất Trung Am, nơi có Đền Trạng bây giờ được gọi là Lý học. Cổ Am trước khi Trạng Trình xuất thế, có nhiều địa danh mang những tên nôm na để quy ước, chỉ dùng cho mỗi việc định vị địa điểm, như ở nhiều các làng quê khác. Vậy mà khi Trạng Trình về quê ở ẩn thì xuất hiện những tên văn chương: quán Trung Tân, Am Bạch Vân, sông Tuyết Giang, gò Bút Kình Thiên, Nghiên Long Đồ, bãi Lý Ngý Quần Ngọc, cầu Trường Xuân... Về cây cầu Trường Xuân, Phạm Vũ Hội kể: Trước khi phong Trạng nguyên cho thí sinh đỗ đầu khoa thi Đình, vua Tự Đức sát hạch thêm; Ngài hỏi về cầu Trường Xuân. Thí sinh này quê đất Vĩnh Lại, Đông Hải, kinh sử thuộc làu làu, nhưng lại không biết gì về cầu Trường Xuân. Vua hỏi thí sinh đỗ thứ hai quê ở miền Trung. Người này thưa rằng cây cầu đá ấy ở Cổ Am do Trạng Trình cho xây cất để dân đi làm đồng áng đỡ vất vả, trên thân cầu có chữ ''Thường Xuân Kiều'' do chính tay Trạng viết. Sĩ tử đỗ đệ nhất khoa bị giáng xuống thứ ba vì không thâm hiểu về bản quán của mình và về Trạng Trình, phải nhường lại danh khôi nguyên cho anh chàng miền Trung nọ. Vua không vui, cho rằng làm quan mà không thấu hiểu quê hương đất nước thì trị dân sao được. (Phiến đá khắc chữ 'Trường Xuân Kiều'' nay vẫn còn). Phạm Vũ Hội nói tiếp: - Cả vùng đất này xưa là Cổ Am thuộc huyện Vĩnh Lại tỉnh Hải Dương. Thập bát trang Am, có mười tám trang mang tên Am. Thượng Am, Hạ Am, Trung Am, Đông Am, Nam Am, Lạng Am, Tiền Am, Liên Am, Ngãi Am, Hội Am v.v... Trạng Trình về quê ở ẩn, xây quán Trung Tân ở bến Trung Lệ bên bờ Tuyết Giang, dựng Am Bạch Vân. Người làm hàng nghìn bài thơ Hán, Nôm và Bạch Vân thí tập, Trình Quốc công thi tập... Người còn chủ trương xây chùa tôn thờ các danh nhân; bắc cầu giúp dân. Cổ Am khi ấy rất nghèo. Trạng mở trường dạy học. Người đọc sách thánh hiền đều biết: Kiệt, Trụ ác vương vô đạo ngược đãi trung thần, chí sĩ; chà đạp lễ nghĩa khiến trăm họ ngu hèn để dễ bề cai trị, muôn đời sau còn oán hận. Nghiêu, Thuấn khuyến nông, huấn học làm cho thiên hạ được sống trong thái bình thịnh trị, tiếng thơm ngàn nãm. Nhân tài chẳng tự nhiên mà có như hoa dại bên đường. Để khuyến học, Trạng Trình cho dựng một trụ đá cao trên đỉnh cái gò đầu làng, đặt tên là Bút Kình Thiên. Chúng tôi đứng lặng ngắm gò đất có những cây sà cừ, bạch đàn đứng thẳng tắp với dáng những ''quản bút chống trời". Trụ đá nay không còn nữa nhưng vẫn còn ngôi miếu cổ tôn nghiêm. Những cái tên ở Cổ Am thoạt nghe thấy có vẻ chữ nghĩa quá; không nôm na cụ thể như những vùng quê khác để dân quê dễ nhớ. Nhưng ngẫm ra Trạng đâu phải là người khoe chữ. Cổ Am đáng được đặt những tên như thế lắm vì đất này có không ít các bậc khoa bảng đỗ đạt cao ở mọi thời. Trần Lương Bật đỗ tiến sĩ năm 1664, đời Hậu Lê, làm đến chức Hữu thị lang bộ Binh, khi mất còn được truy phong chức Tả thị lang. Trần Công Hân đỗ tiến sĩ năm 1733, thời Hậu Lê; giữ chức Đãi chế Viện Hàn lâm; đi dẹp giặc bị tử trận, được truy phong Đông Các Đại học sĩ. Lê Huy Thái đỗ Phó bảng năm 1846, đời nhà Nguyễn.. . Sau này Cổ Am còn có hai nhà văn nổi tiếng trên vãn đàn Việt Nam một thời, đó là hai anh em Trần Tiêu, Trần Khánh Dư (tức Khái Hưng trong Tự Lực văn đoàn). Chùa Đông A ở đây do Trần Mỹ, phụ thân của hai nhà văn bỏ công tạo dựng. Theo các thần phả, thần tích và Từ đĩển Bách khoa Địa danh Hải Phòng thì, cùng với những làng xã thuộc Vĩnh Bảo, Cổ Am thờ nhiều vị thần làm thành hoàng vì có công chống giặc ngoại xâm trong các cuộc bình Chiêm, chinh Man, cự Nam Hán, phá Tống, diệt Nguyên - Mông. Dân Cổ Am dù nghèo nhưng cũng lập đền miếu khang trang để tôn thờ những người bảo hộ dân, những vị quan thương dân như con. Đình, miếu Cổ Am thờ bốn vị thành hoàng trong đó có Không Hoàng đại vương, một vị quan đời Lý, bỏ của riêng phát chẩn cho dân vào năm mất mùa. Nam Hải đại vương tức quan Thái uý Tô Hiến Thành đời Lý, đi tuần qua làng đã ban ơn cho dân chúng. Cổ Am có chùa Mét là công trình kiến trúc đẹp do Trần Khắc Trang chủ xưởng xây cất Hai nhà văn Trần Tiêu và Khái Hýng đều là di duệ của Trần Khắc Trang. Cổ Am có những dòng họ nổi tiếng. Ngoài họ Nguyễn với Trạng Trình Lưỡng quốc anh hùng không đối thủ, như các môn đệ tôn vinh ông sau này; còn có họ Trần, một họ lớn vốn ở Tức Mạc (Nam Hà) di đến đây khai hoang lập ấp. Theo gia phả họ Trần ở Cổ Am, một vọng tộc có nhiều nhà khoa bảng, thì thủy tổ họ Trần là một vị tướng chỉ huy cánh quân phía Bắc trong trận Hàm Tử nổi tiếng năm 1407, bị trọng thương, được đưa về Cổ Am dưỡng thương rồi sinh cơ lập nghiệp ở đây. Cổ Am vào thời nào cũng có hào kiệt. Vương Quốc Chính, đời nhà Nguyễn năm 1879 lập Tín nghĩa Hội, chủ trương bình Tây phục quốc, từng đem nghĩa quân đến tận thành Hà Nội tiến công tập kích quân Pháp. Đầu năm 1930, Trần Quang Diệu, Đào Vãn Thê khởi nghĩa chống Pháp, giết tri phủ, đánh chiếm huyện lỵ, khí thế ngùn ngụt. Robin, thống sứ Bắc Kỳ đã cho máy bay ném xuống Cổ Am đến nãm mươi bảy quả bom (một con số đáng kinh hoàng vào thời đó), rồi dàn quân càn quét, đốt phá; nhưng đã không khuất phục được vùng đất phát tích những bậc kiệt hiệt song toàn văn võ. Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, nếu ở quê ngoại của Trạng Trình nổi danh "Tiên Lãng chống càn", thì Vĩnh Bảo - Cổ Am quê nội của Người cũng lừng lẫy với những chiến công diệt giặc trên đường số 10. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi không thể thống kê những chiến tích, những hy sinh của người Cổ Am trong hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc sau này bằng những con số đáng thán phục được viết bởi những bàn tay chuyên cửi canh dệt vải, dệt chiếu, trồng trọt và làm sơn mài... Nghề dệt chiếu ở đây đã có từ lâu đời và rất phát đạt. Cho dù chiếu ni-lông, chiếu tre, chiếu gỗ đã từng được coi là thời thượng, thì rồi người ta vẫn cứ nằm chiếu gon dệt cói. Biết đâu cái cô gái bán chiếu gon xưa ở Tây Hồ đã làm Ức Trai tiên sinh cảm động sinh tình ở tuổi bảy mươi lại có dây mơ rễ má với đất Cổ Am này? Tôi đã nhìn thấy cảnh những cô gái dệt chiếu. Động tác luồn cói, giật khung, rồi đặt khuôn hoa phết màu; cứ thoăn thoắt nhịp nhàng, mạnh mẽ mà uyển chuyển; bền bỉ thường nhật, nên thân hình các cô rất thẩm mỹ. Khi một mẻ chiếu hoa được đồng loạt phơi dưới nắng, màu sắc rực rỡ bừng lên như ngày hội. Kiến trúc sư Phạm Vũ Hội nói với tôi về cái dự án tâm huyết của anh: - Tôi muốn tu tạo những di tích Trạng Trình ở vùng Cổ Am và bên quê ngoại của Người như nó đã từng có theo cảnh sắc của một vùng quê đồng bằng Bắc Bộ, và phải giữ vững "chân long'' với những nguyên tắc về Phong thủy. Nên đầu tư một cách tinh tế vào khu Đền Trạng. Thế nhưng người ta đã mở ra một quy hoạch bề rộng, dùng hệ thống giao thông bàn cờ; lại thêm những cột đèn cao áp hình tàu chuối. Nhiều cây cối bị chặt quang làm mất đi vẻ u tịch. Lại còn đào một cái hồ rất lớn, xây kè bờ, lát gạch lá dừa lối đi quanh hồ như một công viên thành phố, theo xu hướng ''đô thị hoá'' hiện nay. Có lẽ lại phải chờ cho đến khi người ta hiểu ra được rằng phải giữ lấy cái tinh thần đạm bạc mà thanh cao của Tuyết Giang phu tử. * Chúng tôi đi qua cánh đồng trồng thuốc lào. Những cây thuốc thân thấp mập mạp lá to đang kỳ bánh tẻ, mùi thuốc lá thoảng lẫn trong vị ngọt ngào của ngô non và đòng đòng quanh đấy, như một sự tẩm ướp tinh tế. Tôi sực nhớ: Cổ Am thuộc xứ thuốc lào. Ai cũng biết câu ca dao: ''Nhớ ai như nhớ thuốc lào/ Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên". Một hơi thuốc rút đến kiệt lửa đóm, rồi phả khói mù mịt làm cảnh vật trước mắt chập chờn ẩn hiện như thực như ảo: ''Thoáng bóng ai về trong khói thuốc/Mắt cười lúng liếng lá răm tươi...” Sách Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn và tập Đồng Khánh dư địa chí lược gọi cây thuốc lào là Tương tư thảo. ''Tương tư thảo'' - Cổ Am, vùng đất văn nhân hào kiệt có Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - bậc kỳ tài, và có một loài cây kỳ thú mang cái tên gợi thương nhớ như vậy. c- Nam Hành Thiện Từ huyện lỵ (mới) huyện Xuân Trường, Nam Định đi qua giáo phận Bùi Chu, mất khoảng mười phút xe ô tô là đến làng Hành Thiện. Hành Thiện là ngôi làng cổ thuộc hành lang phủ Thiên Trường, cái tên Hành Thiện có từ đời Lê Trung Hưng thứ nhất, năm 1454. Hành Thiện, tạm giải nghĩa là nơi chỉ làm những điều lành, điều thiện. Bản đồ làng Hành Thiện mang hình một con cá chép: đầu hướng Nam, đuôi hướng Bắc, bụng hướng Tây, lưng hướng Đông. Nơi đầu cá có miếu thờ thần Tam giáp, người có công đầu tạo lập làng. Nơi bụng cá là chợ Hành Thiện, một cái chợ quê rất đông đúc. Khu dân cư ở từ mang cá đến rốn cá, được chia thành 14 khúc, mỗi khúc cách nhau 60 mét. Chiều sâu của khúc dài nhất là 600 mét, khúc ngắn nhất là 200 mét. Mỗi khúc gọi là một dong. Dong dài được chia làm hai xóm, dong ngắn là một xóm. Từ rốn cá đến đuôi cá là ưng điền (ruộng gieo mạ) và nghĩa trang nhân dân của làng. Đuôi và vây sau của "con cá" có ngôi chùa Keo, xây dựng năm 1588. Theo xã chí của làng thì Hành Thiện xưa là vườn kim quất của vua Trần. Chạy dọc từ đầu tới đuôi Cá, sâu chuỗi 14 nãm là một con đường trục của làng lát gạch nghiêng. Đã hàng trăm năm con đường này hình thành nên hai dãy nhà hai bên như một đường phố, có các cửa hàng cửa hiệu buôn bán sầm uất. Theo cách nhìn của các nhà tử vi thì hình dáng của làng Hành Thiện ở thế cá hoá rồng. Phía ''bụng cá'' giáp làng Ngọc Tiên có hình giống một nghiên mực; phía "lưng cá'' giáp làng Hương Phúc có mảnh đất giống cái ngòi bút. Đầu cá Thành Hoàng ngự, làng sẽ giữ được bản sắc thuần phong. Đuôi cá Nguyễn Minh Không vừa là Thiền sư vừa là thi nhân ngự. Vậy luận theo Phong Thủy và Kinh Dịch thì Hành Thiện là đất phát tiết cho cả chính khách và thi nhân. Từ xa xưa vùng này đã có câu ngạn ngữ ''Bắc Cổ Am, Nam Hành Thiện'' ngụ ý: làng Cổ Am thuộc tỉnh Hải Dương xứ Đông xưa (nay là Vĩnh Bảo - Hải Phòng) cùng với làng. Hành Thiện của Nam Định có nhiều người học hành đỗ đạt cao. Tại làng Hành Thiện còn có câu ''Trai học hành, gái canh cửi'' để nói rằng cái đáng trọng nhất của con trai Hành Thiện là chuyện đèn sách; cái đáng yêu nhất của con gái Hành Thiện là chuyện kéo tơ, dệt vải. Con gái canh cửi thường trắng nõn nà, khéo tay, chăm chỉ. Đọc thơ Sóng Hồng ta cũng đủ thấy cái không khí của Hành Thiện: Trăng xuống làm gương em chải tóc Làm đèn anh học suốt đêm dài Chẳng hiểu các thầy địa lý chủ quan và khách quan đến đâu nhưng bao đời nay không ai về thăm Hành Thiện lại không thừa nhận: Hành Thiện là một làng địa linh nhân kiệt, khoa danh vang lừng khắp nước. Thời Nho học, làng Hành Thiện có 419 người đỗ đạt. Trong đó: 7 đại khoa (3 tiến sĩ, 4 phó bảng), 97 cử nhân, 315 tú tài. Người khai khoa cho làng là cụ Nguyễn Thiện Sĩ sinh năm 1501. Năm 1522 đỗ cử nhân. Người có bằng cấp cao nhất trong làng là cụ Đặng Xuân Bảng sinh năm 1828; năm 1856 đỗ Tam giáp tiến sĩ đệ nhất danh. Làng có 4 người làm quan Thượng thư; 4 người làm quan Tuần phủ; 4 người làm quan Tổng đốc; 23 người làm quan giúp việc triều đình; 69 người làm quan Tri phủ, Tri huyện; còn lai số người đỗ đạt trên đi làm thầy giáo, thầy thuốc ở khắp nơi. Thời học chữ Pháp, làng có 51 người đỗ đạt từ tú tài đến cử nhân, trong đó có Đặng Xuân Khu tốt nghiệp cao đẳng Thương mại Đông Dương. Thời hiện đại, làng Hành Thiện vẫn là ngôi làng có nhiều người học hành giỏi giang thi cử đỗ đạt nhiều nhất so với mọi ngôi làng trong tỉnh Nam Định. Cụ thể là: 88 người được Nhà nước phong hàm giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ và trên 600 người có bằng cử nhân. Trong khi đó dân số của làng chỉ có trên 6000 người. Vậy nên thời hiện đại vẫn có câu ngạn ngữ ''Đậu phụ Thủy Nhai, tú tài Hành Thiện''. Làng Thủy Nhai, cách Hành Thiện không xa là một làng thiên chúa giáo rất có tài làm đậu phụ. Còn Hành Thiện, dường như gia đình nào cũng có người đỗ Tú tài. Làng có 4 tướng lĩnh quân đội là Đặng Quốc Bảo, Đặng Kinh, Đặng Quân Thụy, Nguyễn Sĩ Quốc; 2 Anh hùng Lực lượng vũ trang là Phạm Gia Triệu, Nguyễn Đăng Kính. Hàm Bộ trưởng có Đặng Hồi Xuân, Đặng Vũ Chư. Tương hàm giáo sư có: Đặng Vũ Khiêu, Đặng Xuân Kỳ, Đặng Vũ Minh. Nhà văn Đặng Vũ Khiêu là Anh hùng Lao động. d- LàngTiến Sĩ. Người dân vùng đất Hải Dương có câu: "Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Chằm". Đó là câu ca ca ngợi làng Đọc (làng Quan Tiền) là làng giàu nhất vùng, làng Nhữ nhiều thóc nhất vùng, còn làng Chằm (tên cúng cơm của làng Mộ Trạch) có nhiều người học giỏi đỗ cao nhất vùng còn được gọi là Làng tiến sĩ xứ Đông. Làng Mộ Trạch thuộc huyện Đường An, tỉnh Hải Dương nay là huyện Bình Giang - Hải Dương. Đây là một làng quê bình dị như bao làng quê khác vùng đồng bằng Bắc Bộ, lấy nghề nông làm trọng, ngoài ra còn có các nghề phụ như nghề mộc, dệt vải. Nhưng ở đây ta có thể tìm thấy một sự mẫu mực về tính hiếu học mà ít làng quê Việt Nam nào có được. Tiếng thơm của làng không những đi vào dân gian mà còn được chính các bậc Đế Vương thừa nhận. Dực Anh Tôn Hoàng đế (Vua Tự Đức) từng phải thốt lên rằng: "Mộ Trạch nhất gia bán thiên hạ" (một làng Mộ Trạch tài bằng nửa cả nước). Không phải ngẫu nhiên mà vua Tự Đức vốn thông minh hay chữ lại phải trầm trồ khen ngợi như vậy. Khởi nguồn để vua Tự Đức phải nhả "lời vàng" ấy chính là vào khoa thi năm Bính Thân năm 1656, Triều vua Lê Thần Tôn, cả nước chỉ chọn được 6 vị đỗ tiến sĩ thì làng Mộ Trạch đã chiếm 3 vị mà tuổi chỉ từ 21 đến 23 tuổi. Đó là Vũ Trác Lạc (21), Vũ Đăng Long (23) và Vũ Công Lượng (22). Kết quả được công bố, thấy làng Mộ Trạch đỗ nhiều, triều đình có sự ngờ vực nên bí mật rà xét lại việc thi cử. Triều đình chọn một quan giám khảo ra đề rất khó. Các thí sinh mỗi người phải ngồi trong một hố sâu làm bài thi. Trên mỗi hố úp một lồng để ngăn cách hoàn toàn giữa các thí sinh và quan giám khảo ngồi trên một lều cao quan sát. Chung cuộc các "sĩ tử" làng Mộ Trạch vẫn chiếm phân nửa số người đỗ, khiến Vua hết sức hài lòng, khâm phục và tin dùng. Có nhiều điều ngạc nhiên về bảng vàng khoa cử của làng Mộ Trạch, bởi vì làng Mộ Trạch chính là làng văn hiến nổi tiếng, là nơi "chôn nhau cắt rốn" của Trạng Cờ Vũ Huyến (người chỉ với 10 nước cờ giúp Vua thắng Xứ thần phương Bắc bằng mẹo đánh cờ giữa trưa nắng để chỉ nước đi cho Vua qua kẽ tia nắng của chiếc lọng), của Trạng Toán Vũ Hữu (người tính toán xây thành Thăng Long không thừa không thiếu một cân nguyên vật liệu và cũng là tác giả của cuốn sách "Lập thành toán pháp"), Trạng Vật Vũ Phong, Trạng Chạy Vũ Cương Trực và Trạng Chữ Lê Nai (đỗ Trạng Nguyên). Mộ Trạch cũng là quê hương của 36 tiến sĩ đại khoa (kể từ thời nhà Trần đến thế kỷ 18). Mở đầu trong "Bảng vàng tiến sĩ" của làng là hai anh em ruột Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi, cùng đỗ thái học sinh năm giáp thìn (1504) triều vua Trần Anh Tôn. Cha của hai ông chính là Vũ Nạp - phó tướng của Trần Quốc Bảo. Với chiến công đánh tan quân Nguyên trong trận Bạch Đằng, bắt sống tướng Ô Mã Nhi, Vũ Nạp được Vua ban bài vị và phong "Đồng giang hầu tả tướng quân". Có thể khẳng định trải suốt hơn 5 thế kỷ từ triều Trần qua triều Lê, Mạc đến thời Vua Lê, Chúa Trịnh, luôn luôn có các bậc anh tài làng Mộ Trạch mà trong đó đa phần là ruột thịt dòng họ Vũ, từng ra vào giáp mặt nhau như "cơm bữa" tại triều đình. Xin được đơn cử trường hợp cụ Vũ Quốc Sĩ, cụ là người có 5 con trai thì cả 5 người cùng làm quan to trong triều đình, trong đó có 3 người đỗ tiến sĩ. Trường hợp khác là Cụ Vũ Duy Chí - người đã làm quan tới chức Tể tướng qua hai triều Vua Lê. Cũng phải kể đến trường hợp 3 đời con trưởng cùng đỗ tiến sĩ và làm quan dưới triều Vua Lê Thánh Tôn, đó là Vũ Bạt Tụy (ông), Vũ Duy Đoán (cha), Vũ Duy Khuông (cháu). Những sự lạ ở mảnh đất Mộ Trạch nhỏ bé thì còn rất nhiều mà người viết không thể kể ra hết. Nhưng chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ tôn vinh Mộ Trạch là làng tiến sĩ, là làng tài "độc nhất vô nhị" ở đất Việt mình. Sở dĩ làng Mộ Trạch có nhiều người học giỏi đỗ cao như vậy bởi vì nơi đây là mảnh đất có truyền thống hiếu học, khuyến học hơn bất cứ nơi đâu. Tất cả con trai đều chăm chỉ dùi mài kinh sử để mong có ngày đỗ đạt chốn khoa trường. Điều thú vị là tất cả những thí sinh của làng muốn lên Kinh dự thi đều phải đăng ký vào sổ thi của làng và dứt khoát phải vượt qua kỳ thi thử tại quán Kỳ Anh nơi đầu làng. Những người có khoa bảng trong làng làm nhiệm vụ khảo xét bồi dưỡng lớp con em để họ có đủ năng lực và phẩm chất trước khi thi tài với thiên hạ. Nhờ truyền thống giáo dục tốt mà người làng Mộ Trạch đã chiếm bảng vàng rực rỡ trong các kỳ triều đình mở hội thi. Điều đặc biệt là người làng Mộ Trạch dù làm quan tới chức nào cũng không ham lo xây dựng dinh thự mà luôn một lòng phục vụ đất nước, chăm lo chúng dân. Noi gương truyền thống cha ông, ngày nay con cháu cụ tổ họ Vũ làng Mộ Trạch cũng hết sức chăm chỉ học hành, mong thành đạt để góp phần xây dựng quê hương đất nước. Ngôi trường cấp 1 - 2 được xây dựng trong xã mà số đông học sinh là con em của làng Mộ Trạch theo học. Còn tại trường cấp 3 Bình Giang, nếu cứ học sinh của 3 xã khác hợp thành một lớp thì chỉ riêng học sinh của xã Tân Hồng (làng Mộ Trạch chiếm hơn phân nửa) cũng đủ một lớp rồi. Nếu xưa kia bảng vàng khoa cử của các thế hệ cha ông đã tôn vinh làng Mộ Trạch thành "Làng tiến sĩ" thì ngày nay truyền thống hiếu học vẫn được duy trì và thành tích học tập, đỗ đạt của thế hệ con cháu Mộ Trạch cũng ít làng quê nào sánh kịp. Có thể kể ra đây gia đình bác Vũ Đăng Giáp - một gia đình nghèo đến mức phải ở nhờ nhà thờ nọ. Vợ mất sớm bác phải nuôi 4 người con trai đi học. Mấy bố con tần tảo nuôi nhau, đến nay cả 4 người con đều tốt nghiệp đại học và cao đẳng và được nhà nước trọng dụng. Gia đình bác Vũ Xuân Phổ hết lòng chăm lo con cái học tập, nay một người là phó tiến sĩ còn 3 người khác đều đã tốt nghiệp đại học. Số người làm nghề dạy học ở Mộ Trạch thì chắc chắn nhiều hơn bất cứ một làng quê nào vì Mộ Trạch có truyền thống từ lâu làm nghề này. Ngoài ra, có rất nhiều người con của Mộ Trạch vì những lý do khác nhau phải xa quê hương nay đã thành đạt và tìm về cội nguồn. Trong số đó có thể kể ra như Tiến sĩ vật lý nguyên tử Vũ Khắc Thinh hiện đang nghiên cứu tại Nhật Bản, Tiến sĩ văn học Đặng Vũ Phương Chi đang công tác tại Paris, Giáo sư - Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng, Giáo sư Vũ Khiêu... Tất cả đều là con cháu họ Vũ làng Mộ Trạch, tìm về quê hương với lòng thành thắp nén hương tưởng niệm người đã sinh ra dòng họ của mình. Nói về khoa cử, về tài năng của Mộ Trạch trước kia cũng như truyền thống hiếu hoc ngày nay thì còn rất nhiều điều thú vị. Nếu bạn muốn tìm hiểu rõ hơn, sâu hơn xin mời bạn xuôi quốc lộ 5 về xứ Đông - Hải Dương, đất lành Mộ Trạch luôn rộng lòng đón bạn. Ngày mồng 8 tháng giêng hàng năm là ngày hội làng, con cháu họ Vũ Mộ Trạch khắp mọi nơi sẽ tìm về với quê hương vui ngày lễ hội và thắp nén hương tưởng nhớ người đã sinh ra dòng họ Vũ và tưởng nhớ cả các thế hệ cha ông đã góp phần lưu danh thơm làng Mộ Trạch đến muôn đời sau. __________________ Thiếu Lâm