-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Với bài báo này, tôi thật sự ngạc nhiên. Tôi không hiểu người phóng viên này viết với mục đích gì. Nhưng đây là những gì tôi chứng kiến với cô Phương - Cầu Hàm Rồng Thanh Hóa. Ngày ấy - Tôi cùng Laviedt có công việc phải xuống Thanh Hóa. Do chỗ quen biết với một số người ở địa phương này, tôi và Laviedt được đặc cách vào ngồi cạnh cô Phương xem cô gọi hồn và chở đến lượt hồn người nhà mình. Tôi cầu gặp mẹ là Nữ Sĩ Ngân Giang và em tôi là Phạm Thế Long. Laviedt cầu xin gặp cha. Chúng tôi chở rất lâu và chứng kiến nhiều voing liệt sĩ về gặp người bạn chiến đấu của mình. Chúng tôi chứng kiến, người bộ đội năm xưa đã khóc vì các vong hồn bạn cũ nhắc lại kỷ niệm - tôi nhớ không nhầm thì anh này bây giờ làm ở ban Thương Binh xã hội - tình nào thì không nhớ. Mẹ tôi - Nữ sĩ Ngân Giang và em tôi đã không về. Nhưng đây là hiện thực của Laviedt mà tôi chứng kiến: Cô Phương gọi Laviedt đến gần và nói" Hoàng ơi! Cha đây! Nhưng cha không thể đến với con lâu hơn. Cha báo cho con biết cha đã về!". Xong hồn xuất khỏi cô Phương. Thành thật mà trình bày với quí vị xem topic này. Tất nhiên tôi biết Laviedt tên là Hoàng. Nhưng tôi không nhớ vì quen gọi theo nick trên diễn đàn. Tất nhiên cô Phương không thể biết Laviedt tện là Hoàng. Bởi vậy, tôi cho rằng bài báo này đã miêu tả không khách quan.
-
"Hồng phạm cửu trù" - Nghĩa đen là: Chín phạm trù của họ Hồng Bàng - tổ tiên của người Lạc Việt trong việc trị quốc. Hồng phạm cửu trù chính là bản hiến pháp đầu tiên của Văn Lang. Để bác nghĩ xem nên diễn tả thế nào với cách hiểu thông thường từ trước đến nay, nhưng vẫn hướng tư duy người đọc tới nguyên nghĩa trên.
-
Xuất sắc! Đào Hoa thân mến. Nhưng màu trắng chính là màu thứ 5.Tôi không tính màu đen là đường viền biên giới lãnh thổ các quốc gia.,
-
Chủ Nhật, 27/09/2009 - 11:14 AM Philippines: Ít nhất 50 người thiệt mạng vì bão Ketsana (Dân trí) - Cơn bão Ketsana với sức gió 85km/h đã càn quét Philippines hôm qua, gây ra lũ lụt trên diện rộng, làm ít nhất 50 người thiệt mạng và 21 người khác mất tích. Đường phố ở thủ đô Manila biến thành sông. Giới chức địa phương cho hay, cơn bão Ketsana đã đổ bộ vào đảo Ludon thuộc phía đông bắc Philippines trưa ngày 26/9. Cơn bão đem theo trận mưa lớn kéo dài suốt 12 tiếng, tương đương lượng nước mưa của cả tháng, tại thủ đô Manila và các khu vực lân cận, tạo nên trận lụt lịch sử trong hơn 42 năm. Bộ trưởng Quốc phòng Gilberto Teodoro, người đứng đầu Uỷ ban điều phối thảm hoạ quốc gia, cho hay Chính phủ đã tuyên bố "tình trạng thiên tai" tại Manila và 25 tỉnh bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi cơn bão Ketsana. Điều này cho phép các quan chức có thể sử dụng khoản tiền khẩn cấp cho công tác cứu trợ và cứu hộ. Manila đang trải qua trận lụt nghiêm trọng nhất trong 42 năm. Theo Cơ quan dự báo khí tượng quốc gia Philippines, lượng mưa đo được tại thủ đô Manila hôm qua là 424mm, phá vỡ lượng mưa kỷ lục 334mm xảy ra vào tháng 6/1967. Hình ảnh được chiếu trên truyền hình cho thấy toàn bộ một ngôi làng ở tỉnh Rizal bị ngập chìm trong nước. Phát ngôn viên chính quyền tỉnh Rizal cho hay, lở đất và cơn lũ đột ngột đã khiến 35 người thiệt mạng, hầu hết là bị chết đuối, và hơn 20 khác hiện đang mất tích. Ít nhất 50 người đã thiệt mạng do bão Ketsana. Tại Manila, 2 người được thông báo là đã chết và 3 người khác thiệt mạng tại tỉnh Quezon. Báo chí địa phương cũng đưa tin rằng ít nhất 10 người khác đã thiệt mạng trong và quanh thủ đô. Uỷ ban điều phối thảm hoạ quốc gia cho biết, 45 ngôi làng ở khu vực thủ đô và 69 ngôi làng khác tại 2 tỉnh lân cận đã chứng kiến cảnh ngập lụt nghiêm trọng, trong khi lở đất xảy ra tại ít nhất 7 khu vực ở khắp miền trung và nam của đảo Luzon. Người dân được sơ tán lên nóc nhà. Các nhân viên cứu hộ đã giải cứu được hơn 4.000 người và đưa ít nhất 41.205 người từ những khu vực bị ngập lụt tới các trung tâm sơ tán tạm thời. Tuy nhiên, nhiều người được cho là vẫn bị kẹt trên các nóc nhà cần được sơ tán. Truyền hình địa phương quay cảnh đường sá ở Manila bị biến thành sông và người lớn, trẻ em bơi trên đường phố. Hàng trăm xe cộ bị kẹt giữa dòng nước quanh thủ đô. Nhiều khu vực ở thủ đô Manila bị cắt điện. Hàng nghìn hành khách bị mắc kẹt khi các sân bay nội địa và quốc tế phải đóng cửa. Hàng nghìn xe cộ bị mắc kẹt. Tổng thống Gloria Arroyo đã ra tuyên bố kêu gọi người dân sống trong đường đi của Kestana bình tĩnh, đồng thời kêu gọi người Philippines trên khắp cả nước tài trợ quần áo, chăn màn, lương thực và thuốc men cho các nạn nhân não. An Bình Theo AP, Reuters
-
Wildlavender thân mến. Tôi sẽ giúp người này khòi bị nhiễm trùng và mủ còn trong cơ thể. Tôi đang ở Hanoi. Nhưng sẽ về sớm để giúp họ. Tôi giúp anh này 500. 000 VND. Nếu tôi chưa kịp về, W cứ ứng trước, tôi sẽ thanh toán. hoặc bảo bà xã tôi đưa. Cầu chúc những điều kỳ lạ sẽ đến với anh ta.
-
Cảm ơn Thế Trung cho ý kiến. Chúng tôi sẽ nghiên cứu nghiêm túc đề nghị này.
-
Xung quanh đề án mở bể than 210 tỉ tấn đồng bằng sông Hồng 26/09/2009 0:22 Khai thác than như thế nào để không ảnh hưởng đến môi trường và cuộc sống người dân? - Ảnh: Lưu Quang Phổ Hôm qua 25.9, ông Nguyễn Mạnh Quân - Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng (Bộ Công thương) cho biết, Hội đồng thẩm định đề án phát triển bể than đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) đang tiếp tục tổng hợp ý kiến của các bộ ngành, các nhà khoa học để soạn thảo báo cáo gửi Chính phủ. Dự kiến giữa tháng 10, Hội đồng thẩm định sẽ họp một lần nữa rồi thống nhất hoàn chỉnh báo cáo gửi Chính phủ. 4 dự án thử nghiệm Dư luận hiện đang quan tâm đặc biệt đến việc Tập đoàn công nghiệp than -khoáng sản Việt Nam (TKV) đang chuẩn bị cho 4 dự án thử nghiệm công nghệ khai thác than ngầm tại hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên. Theo đề án của Công ty năng lượng Sông Hồng (SHE - một đơn vị thuộc TKV), công ty này sẽ khai thác than ngầm dưới lòng đất (sâu từ -350m trở xuống) theo hai công nghệ: công nghệ khí hóa than ngầm (biến than từ dạng rắn thành dạng khí trong lòng đất) và khai thác than hầm lò theo kiểu truyền thống (phần lớn hầm lò đi ngầm dưới lòng đất) . Ban đầu, công ty này sẽ liên kết với đối tác Úc, Nhật đầu tư 6,5 triệu USD cho việc thăm dò và thử nghiệm. Việc thử nghiệm được dự định tiến hành với 4 dự án, mỗi dự án chiếm đất khoảng 150 ha. 3 dự án triển khai tại Hưng Yên, trong đó 2 dự án thử nghiệm công nghệ hầm lò (hầm lò nông -450m trở xuống, và hầm lò sâu -600m trở xuống), 1 dự án áp dụng công nghệ khí hóa than ngầm ở mức nông (độ sâu -300m). Dự án còn lại ở Thái Bình (khí hóa than ngầm ở độ sâu -450m). Nếu được chấp thuận, ngay trong năm 2010, SHE sẽ tiến hành khoan, đào hầm lò để khai thác thử nghiệm. Sau 6 tháng sẽ cho kết quả về công nghệ khí hóa than ngầm. Việc khai thác theo phương án hầm lò truyền thống thì phải sau khoảng 10 năm mới cho kết quả. Kết quả thử nghiệm nếu được đánh giá tốt, sau năm 2025, dự kiến phía TKV sẽ phát triển hàng loạt dự án, tối đa là 26 dự án (Hưng Yên 6, Thái Bình 19, Nam Định 1). Tổng diện tích chiếm đất của các dự án trên là khoảng 3.900 ha (Hưng Yên 900 ha, Thái Bình 2.850 ha, Nam Định 150 ha). Tổng số diện tích chiếm đất nông nghiệp của các dự án khai thác tại ĐBSH chiếm hơn 0,7% diện tích ĐBSH. Theo tài liệu SHE báo cáo cơ quan chức năng từ tháng 7.2009, trong giai đoạn đầu (từ nay đến 2025, giai đoạn thử nghiệm công nghệ), phía TKV sẽ đề nghị được nhận quyền sử dụng đất và chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang công nghiệp khoảng 600 ha, trên địa bàn hai tỉnh Hưng Yên (450 ha) và Thái Bình (150 ha). Nước, đất và lúa Vấn đề đáng lo ngại nhất mà dự án này gặp phải là sụt lún, tác động đến môi trường, ảnh hưởng đến đời sống người dân. Có thể tóm gọn những trở ngại này trong ba vấn đề: nước, đất và lúa. Liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã chỉ đạo thành lập một ban phản biện gồm các chuyên gia đầu ngành về môi trường, địa chất, thủy văn để đánh giá đề án này. Trong đó, các nhà khoa học cho rằng: "Khi khai thác phải đặc biệt chú ý đến vấn đề sụt lún bao gồm sụt lún tức thời, sụt lún lâu dài, sụt lún tại chỗ và sụt lún lan tỏa có thể biến đồng bằng phì nhiêu này thành hồ chứa nước nhiễm mặn; Khi tháo khô mỏ để khai thác than phải đặc biệt chú ý đến sự nhiễm mặn, sự xâm lấn của nước biển, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sự sống của con người, động thực vật vùng ĐBSH ". Ban phản biện đánh giá chất lượng của đề án còn chưa tốt. Cụ thể phương án thử nghiệm công nghệ khai thác hầm lò đã dẫn ra ví dụ ở một số mỏ ở các nước Nga, Úc, Trung Quốc, Banglades, Nhật,... nhưng chỉ nêu mà không so sánh với công nghệ của đề án; phương án thử nghiệm khí hóa than ngầm mỏ Tiên Dung phần thuyết minh có 125 trang, thì có 103 trang là giới thiệu công nghệ khí hóa than so với ở nước ngoài và có 22 trang giới thiệu một cách sơ lược phần thiết kế khí hóa than ở ĐBSH. Ban phản biện cho rằng, chỉ nên tiến hành thử nghiệm công nghệ khí hóa than và công nghệ hầm lò mỗi loại một mỏ. Sau khi có kết quả thử nghiệm mới tiến hành tiếp công tác khác thử nghiệm. Báo cáo phản biện viết: "Đề án phát triển bể than ĐBSH còn nhiều chỗ sơ sài, trùng lặp, thiếu cơ sở chưa đạt yêu cầu của đề án theo các quy định hiện hành". Giải pháp nào chống sụt lún? Trao đổi với Thanh Niên, tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn - Giám đốc SHE cho biết: "Nếu phải di dời hàng triệu người dân ở ĐBSH để khai thác than thì nên quên đi dự án này. Chúng tôi sẽ khai thác than ngầm dưới lòng đất, chỉ sử dụng một diện tích nhỏ đất nông nghiệp để làm nhà xưởng, đào giếng khai thác. Dù ở dưới khai thác than, ở trên bà con vẫn cấy lúa, sinh hoạt bình thường”. * Thưa ông, ngày 23.9, tại Bộ Công thương, Hội đồng thẩm định đã đánh giá như thế nào về đề án này? - Hội đồng thẩm định đã đánh giá đây là đề án công phu, nhiều thông tin có giá trị. Chúng tôi được biết, cơ quan quản lý nhà nước sẽ có báo cáo xin ý kiến của Chính phủ về việc cho phép làm các dự án thí điểm. * Nhiều nhà khoa học cho rằng thách thức lớn nhất với dự án này là chống sụt lún, chống nước tràn vào khu mỏ? - Để chống sụt lún, chúng tôi sẽ áp dụng biện pháp bù cát, phù sa vào khoảng không đã khai thác; để lại các trụ bảo vệ vĩnh cửu cùng nhiều giải pháp khác. Quan điểm chung của chúng tôi là phải giữ lại tầng đất từ bề mặt đến độ sâu -150m. Đây là tầng đất cần được bảo vệ. Khi tầng đất từ -150m lên phía trên được bảo vệ tốt, sẽ tránh được nguy cơ sụt lún, nước tràn vào hầm lò. * Trước mắt, 4 dự án thử nghiệm (trên diện tích 600 ha) sẽ ảnh hưởng như thế nào đến đời sống người dân ? - Chúng tôi đã tính toán những phương án tốt nhất để tiến hành thử nghiệm nhằm đảm bảo an toàn, ổn định đời sống cho người dân. Tác động của các dự án thử nghiệm sẽ được theo dõi thường xuyên để có các biện pháp xử lý kịp thời. * Nếu trong quá trình triển khai các dự án thử nghiệm gặp phải vấn đề kỹ thuật không giải quyết được thì sao? - Đây là dự án lớn, có tầm quan trọng đặc biệt, do đó tiêu chí đầu tiên là đảm bảo an toàn cho người dân. Nếu việc thử nghiệm gặp các vấn đề phức tạp không thể giải quyết được, chúng tôi sẽ phải dừng dự án và thế hệ mai sau sẽ tiếp tục nghiên cứu, khai thác. * Trường hợp dự án thử nghiệm thành công, theo ông, chúng ta có thể lấy lên khoảng bao nhiêu tấn trong tổng số hơn 210 tỉ tấn than theo dự báo? - Theo tôi, khai thác được khoảng hơn 35 tỉ tấn đã là thành công. Nếu mỗi năm khai thác 10 triệu tấn thì việc khai thác sẽ diễn ra trong 350 năm. Lượng than này sẽ giúp giải quyết vấn đề an ninh năng lượng của đất nước. Thanh Phong (thực hiện)
-
Vũ điệu hồng hạc Cập nhật lúc 09:02, Thứ Bảy, 26/09/2009 (GMT+7) , Bộ phim “Đôi cánh đỏ thắm” của hãng Disney sẽ bấm máy ngày 25/9, bộ phim chứa đựng những đặc tả sinh động về quần thể loài hồng hạc ở hồ Natron, phía bắc Tanzania. “Đôi cánh đỏ thắm” là bộ phim tự nhiên đầu tiên của hãng Disney, bộ phim thể hiện đời sống của quần thể hồng hạc hàng triệu con ở hồ Natron, phía bắc Tanzania. Quần thể hồng hạc này đang bị đe dọa bởi những kế hoạch của một nhà máy mới trong vùng. Hãng phim đã trải qua 14 tháng ở hồ Natron, một hồ nước mặn xa xôi nơi loài hồng hạc tập trung sinh sống. Những chú hồng hạc con biết nói chuyện với bố mẹ từ khi còn trong trứng Hồng hạc trưởng thành phải tăng tốc độ của mình mới có thể cất cánh Nhiệt độ trong bùn có thể tới 50oC Loài chim này luôn bị đe dọa bởi thú ăn thịt Số lượng hồng hạc có thể đạt hơn 1 triệu trong suốt thời kì sinh trưởng của tảo – một nguồn thực phẩm tốt đối với loài chim này. Những chú chim non tụ tập thành nhóm khi chúng được 2 tuần tuổi Chi Giao (theo Dailymail)
-
10 loại chim đẹp nhất hành tinh Cập nhật lúc 08:28, Chủ Nhật, 27/09/2009 (GMT+7), Chim là loài duy nhất có lông vũ, và tuyệt đại đa số loài lông vũ đều biết bay. Đó là đặc điểm để phân biệt chim với các loài khác. Thế giới có 10.000 loài chim, trong số này người ta đã bình chọn 10 loài có bộ cánh sặc sỡ nhất, tô điểm cho vẻ đẹp của thiên nhiên. 1. Trĩ vàng (Chrysolophus pictus) Trĩ vàng châu Á được nuôi như một loại chim cảnh. Quê hương của chúng ở vùng rừng núi miền Tây Trung Quốc, nhưng ở Anh và vài nơi khác còn có những quần thể hoang dã. 2. Hồng hạc (Phoenicopteridae) Hồng hạc sống cả ở Bắc và Nam bán cầu. Chúng thường chỉ đứng trên một chân thôi. Người ta cũng chưa rõ vì sao chúng có thói quen này. Lưỡi của chúng được xem như một món ăn trân quý của người La Mã cổ. Còn những người thợ mỏ làm việc trên dãy Ande lại săn lùng hồng hạc vì họ tin rằng mỡ của chúng chữa được bệnh lao. 3. Hoàng oanh phương Bắc (Icterus galbula) Hoàng oanh phương Bắc là một loài chim không to lắm với bộ lông đen và vàng xen kẽ, chỉ nặng chừng 34g và dài 18cm. Là một trong những loài chim màu rực rỡ, hoàng oanh không chỉ đẹp mà còn hót rất hay. Chẳng thế, người ta thường dùng thành ngữ “thỏ thẻ giọng oanh vàng” để chỉ người phụ nữ. 4. Chào mào Hồng y giáo chủ (Cardinalis cardinalis) Chắc bạn đã biết vì sao người ta mệnh danh loài chim này là Hồng y giáo chủ rồi chứ? Chú chim mang bộ cánh đỏ rực rỡ có cả chiếc mũ đỏ đội đầu, thân hình cũng nhỏ bé, chiều dài chừng 21-23cm. Chúng lại có chiếc mặt nạ đeo trước mặt, chim trống mặt nạ đen, chim mái mặt nạ xám. 5. Uyên ương (Aix sponsa) Uyên ương thực ra chỉ là một loài chim di trú, thuộc gia đình vịt trời. Chúng luôn luôn có đôi và hình ảnh ấy được người ta ví với những cặp vợ chồng hạnh phúc. Chim trống đẹp hơn chim mái, bộ lông nhiều màu, chuyển từ màu nọ sang màu kia rất hài hoà, mắt đỏ. Chim mái không sặc sỡ như chim trống, vòng quanh mắt và cổ màu trắng. 6. Bói cá (Halcyonidae) Có đến 90 loại bói cá cả thảy. Hình dáng bói cá không cân đối lắm: đầu to, mỏ dài, nhọn, chân ngắn, đuôi cộc. Chỉ được bộ áo là đẹp. Mắt bói cá rất tinh và tốc độ bổ nhào thì nhanh phi thường. Bói cá có mặt trên toàn thế giới. 7. Sẻ đất màu (Passerina ciris) Sẻ đất màu được xem như loài chim đẹp nhất Bắc Mỹ, trông như tấm bảng pha màu của các họa sĩ, khiến có người nghĩ rằng chúng bị sơn vẽ chư không phải “tácphẩm” của thiên nhiên. Toàn là những màu tươi. Chính vì thế, sẻ đất dễ bị phát hiện và săn đuổi vì không “hội nhập” vào đâu được. 8. Tucan mỏ lục (Ramphastos sulfuratus) Loài chim này sống trong các rừng Nam Mỹ, từ nam Mehico đến Honđuras. Chúng dài chừng 50cm, quanh mắt màu xanh lá cây. Mỏ lớn, cũng xanh lá cây nhưng mép mỏ màu da cam và đầu mỏ màu đỏ. Mỏ tucan trông to thế nhưng lại nhẹ vì xốp. 9. Vẹt Macao (Ara macao) Vẹt Macao to và lông pha trộn các màu rực rỡ. Quê hương chúng ở vùng nhiệt đới Nam Mỹ, nhiều nhất là ở Braxin và Peru. Chắc chúng chỉ được các nhà sinh học biết đến khi người Bồ Đào Nha bắt về Macao nuôi nên mới có tên gọi này. 10. Công (Pavo) Công là loài chim lớn, thuộc họ trĩ. Công trống có bộ lông rất đẹp. Khi công trống múa (để quyến rũ công mái), đuôi xoè to như một chiếc quạt và cực đẹp. Ở châu Á nhiều nước nuôi công trong gia đình giống như nuôi gà để lấy thịt và trứng. Bảo Châu (Theo Scienceray.com)
-
Bão Ketsana gây mưa lụt tồi tệ ở Manila Cập nhật lúc 17:38, Thứ Bảy, 26/09/2009 (GMT+7), Hôm nay (26/9), bão nhiệt đới Ketsana đã đổ bộ vào Phlippines gây ra trận mưa tồi tệ nhất trong gần một tháng nay, kéo dài suốt sáu giờ đồng hồ tại Manila, khiến hàng nghìn người mắc kẹt trên mái nhà. Chính quyền đã tuyên bố “thảm hoạ” tại Manila và hàng chục tỉnh khác chịu ảnh hưởng của bão. Tuyên bố thảm hoạ giúp quan chức địa phương nhanh chóng sử dụng tiền khẩn cấp cho nỗ lực cứu hộ, viện trợ. Gần 2.000 người đã sơ tán tại Manila và các khu vực phụ cận. Thị trưởng Cainta gần tỉnh Rizal cho hay, có những nơi nước ngập sâu gần tới cổ, rất nhiều người dân phải trèo lên mái nhà lánh nạn. “Toàn bộ thị trấn ngập trong nước”, ông Mon Ilagan nói. Lượng mưa 34,1 cm đổ xuống Manila chỉ trong vòng sáu tiếng đồng hồ, xấp xỉ bằng lượng mưa 39,2 cm trung bình cả tháng 9. Theo cục khí tượng thành phố, những đám mây gây mưa dày đặc là do bão nhiệt đới Ketsana gây ra khi đổ bộ vào đất liền vào sáng nay tại khu vực cách đông bắc Thủ đô của Philippines khoảng 80km. Hiện cơn bão đang di chuyển nhanh chóng về phía tây sang khu vực sản xuất lúa gạo Luzon. Hàng chục chuyến bay ra vào khu vực trung và bắc Philippines phải hoãn lại do tầm nhìn thấp. Hàng trăm xe cộ chết máy trên những con phố lụt quanh thủ đô và gần 2.000 hành khách mắc kẹt ở các hải cảng tại một số tỉnh phía nam Manila khi lực lượng phòng vệ bờ biển ngừng hoạt động chuyên chở tàu phà. Nhà cung cấp điện Meralco cắt điện ở một số nơi lụt lội tại Manila phòng tai nạn xảy ra. Cố neo thuyền giữa mưa bão (Ảnh AP) Túm tụm dưới một chiếc ô trong lụt (Ảnh AP) (Ảnh AP) Hò nhau đẩy xe trong dòng nước giữa phố (Ảnh AP) Dắt díu dưới trời mưa (Ảnh AP) Kỳ Thư (Theo AP, Reuters)
-
TRANH LUẬN VỚI FRANÇOIS JULLIEN Hà Văn Thùy Bài “Bàn về minh triết”* ghi lại buổi nói chuyện của Giáo sư F. Jullien tại Trung tâm Minh triết Việt Nam ngày 8.9.2008 gồm 3 phần. Tôi xin có đôi lời thưa lại với Giáo sư về phần thứ 3: “Minh triết và thời đại.” 1. Quan niệm về minh triết Dẫn từ “sagesse” (minh triết) của Pháp ngữ và nhiều tác giả khác, F. Jullien cho ta thấy, văn hóa phương Tây có quan niệm tiêu cực về minh triết: “Minh triết là một cái gì nguội lạnh và lẩn thẩn”. “Một khi Minh triết là như vậy thì nó thiếu lửa, thiếu sức sống, thiếu sức nóng, thiếu nhiệt, mà khi đã thiếu nhiệt thì nó chỉ che đậy cuộc sống, làm cho người ta không thấy được nó”, “Minh triết là một thứ tro nguội lạnh, xám xịt, phủ lên lò lửa là sự sống”. Một quan niệm như vậy hoàn toàn trái ngược với phương Đông. Nơi văn hóa phương Đông, minh triết ( ) thì Minh là sáng mà Triết cũng là sáng, có nghĩa hai lần sáng. Theo cach giải nghĩa khác thì Minh là sáng, còn Triết là triệt, là tận cùng, Minh triết có nghĩa cực sáng, sáng tới tận cùng! Triết còn nghĩa khác là trí tuệ. Như vậy, minh triết có nghĩa là trí tuệ sáng láng. Trong sự hiểu của tôi, Minh triết là “tinh chất bền vững của tâm hồn và trí tuệ dân tộc kết lắng trong chiều sâu nhất của văn hóa, luôn tỏa ánh sáng và sức nóng nuôi dưỡng nền văn hóa dân tộc.” GS F. Jullien cho rằng “Một khi Minh triết không có lịch sử thì nó đứng tại chỗ, nó trì trệ, do đó, nó chỉ đưa ra những kiến giải tầm thường và nó nói những ý kiến mà lương tri thông thường của con người cảm nhận được, nó chỉ dừng lại ở đấy.” Tôi cho rằng, nếu hiểu đúng theo như quan niệm phương Đông thì minh triết có lịch sử của nó. Lịch sử của minh triết phương Đông bắt đầu ít nhất khoảng 15000 năm trước, khi người Hòa Bình Việt Nam thuần hóa được cây lúa nước. Có ai đó nói rất đúng: “Không có nền văn minh nào xứng đáng với tên gọi đó cho tới khi phát hiện ra nông nghiệp trồng ngũ cốc.” Khi tự trồng ra cây lúa làm lương thực, con người không còn hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên, tự thấy mình tách khỏi thiên nhiên, đứng cao hơn thú vật và bắt đầu có ý thức về bản thân mình. Con người bắt đầu biết “Trông trời trông đất trông mây…”, biết “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, nghe thấy tiếng sấm phất cờ mà lên”, biết “Muốn ăn lúa tháng Năm, trông trăng Rằm tháng Tám” và biết “Thua trời một vạn không bằng thua bạn một ly”, biết “Tua rua thì mặc tua rua, mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền”, biết “Xanh nhà hơn già đồng”. Đồng thời cũng biết: “Khôn độc không bằng ngốc đàn” và “Một người lo bằng kho người làm”. Không chỉ vậy, Minh triết còn là “Người là hoa của đất”, là “Yêu em từ thuở lên ba, mẹ bồng ra ngõ hái hoa em cầm” là “Mình nói với ta mình hãy còn son, ta đi qua ngõ thấy con mình bò”… Minh triết được hình thành bởi những nhà hiền minh cổ xưa nhưng chủ yếu được sản sinh, chọn lọc và tích tụ bởi người vô danh trong dân gian, để nạp vào bộ nhớ dân gian và tạo thành văn hóa dân tộc. Lâu dần, với bề dầy thời gian, nó trở thành yếu tố bên vững, thành phẩm chất di truyền (phenotype) truyền lại cho con cháu qua hoạt động xã hội. Điều này được thấy rõ trong thí dụ sau. Khi nhà xã hội học nổi tiếng Levi Strauss phát hiện những sắc dân thiểu số ở Mỹ và Canada có tập quán rất giống với dân vùng Nam Trung Hoa như tôn trọng phụ nữ và sống hài hòa với thiên nhiên, người ta giải thích rằng đó là do hoàn cảnh sống giống nhau, đưa tới những cách sống tương đồng. Nhưng sau này, khi phát hiện rằng, tổ tiên những dân thiểu số châu Mỹ đó đã từ Đông Dương tới thì mọi người hiểu: những nét văn hóa đó được mang theo từ Đông Nam Á. Như vậy, minh triết chẳng những không chỉ là “những kiến giải tầm thường” mà cũng không hề “dừng lại ở đấy”, nó luôn tiếp thu trong sự chọn lọc nghiệm sinh những điều minh triết mới, bổ sung trong trầm tích văn hóa. 2. Minh triết và triết học Trong những quan niệm đa chiều của phương Tây về quan hệ giữa minh triết và triết học, tôi ủng hộ ý tưởng cho rằng “minh triết ở trên triết học.“ Minh triết là mảnh đất màu mỡ của tâm hồn, trí tuệ và trên đó nảy sinh cây triết học. Nhưng khi đã thành “cây“ rồi, triết học tư biện coi khinh mảnh đất minh triết, nên mất dần sức sống, trở nên cằn cỗi và khủng hoảng. Điều này thấy rõ trong triết học Hy Lạp nói riêng và triết học phương Tây nói chung. Về lịch sử, ta thấy, 80% dân châu Âu hiện đại là con cháu những người sống bằng hái lượm, những người không có văn hóa và cố nhiên không có cả minh triết. Chỉ có 20% là dân nông nghiệp từ Trung Đông sang. Văn hóa và minh triết châu Âu có được chính là nhờ ở dân nông nghiệp này. Nhưng do số dân ít nên lớp trầm tích minh triết quá mỏng. Sự bùng phát rự rỡ của văn minh Hy Lạp không phải do nội tại mà là yếu tố ngoại lai. Thành bang Athene đã nhận văn minh của Ai Cập phương Đông từ trước thời Plato. Sau cuộc chinh phục của Alexander, Aritostele thày của vị hoàng đế này đã thu nhận toàn bộ thư viện của Ai Cập, và nhờ là “kẻ đạo văn lớn nhất mọi thời đại“, ông đã thành „người khổng lồ“. Cuộc cướp bóc này đã đưa lại sự phồn vinh về văn hóa, trong đó có cả minh triết cho Hy Lạp. Chính nhờ vậy, triết học Hy Lạp ra đời. Dựa trên lượng minh triết vay mượn của phương Đông, triết học Hy Lạp bừng nở nhưng rồi sớm mất sức sống. Khi “chất màu mỡ minh triết” cạn kiệt, triết học phương Tây trở thành thuần túy tư biện. Có thể hình dung số phận của triết học phương Tây hiện đại như thế này: một ai đó đưa ra lý thuyết mù mờ và được một số người ủng hộ. Họ kết thành trường phái, thống trị diễn đàn. Thời gian sau, người ta tỉnh ngộ và thấy thuyết đó vô bổ. Lúc này lại có một thuyết mù mờ khác phủ định cái thuyết mù mờ trước. Họ lại có những ủng hộ viên và thành trường phái mới... Tuy có nhiều lịch sử nhưng triết học dần dần đi tới sự khốn cùng. Minh triết phương Đông không bao giờ tự cho là thần thánh. Nó cũng không kết thành những trường phái mà an nhiên sống vô tư, bất diệt giữa cuộc đời, tỏa ánh sáng và sức nóng dẫn dắt xã hội. 3. Minh triết và chính trị Giáo sư F. Jullien nói: “Trong quan hệ với chính trị, minh triết Trung Quốc cổ không có một lập trường xác định” và “Do kết cấu không có lập trường nhật định, khi thế này, khi thế nọ nên những nho sĩ Trung Quốc không bao giờ là trí thức, không phải là trí thức. Trí thức phải có lập trường.” Có đúng vậy không? Theo tôi không phải vậy. Nếu coi Khổng Tử là nho sĩ đầu tiên của Trung Quốc thì rõ ràng ông có lập trường và kiên quyết giữ lập trường của mình. Chính vì chú tâm truyền bá “đạo” mà không chịu bàn đến “lợi” của các vương hầu nên cuộc du thuyết của ông thất bại. Mạnh Tử cũng vì lập trường phản đối chiến tranh mà không được dùng. Tư Mã Thiên kiên định lập trường chép sử vì sự thật. Tiêu biểu nhất lả trường hợp 4 anh em nhà Thái Sử thời Chiến Quốc: Sau khi 3 người anh là Thái Sử Bá, Thái Sử Trọng và Thái Sử Thúc bị giết vì ghi dòng „Thôi Trữ giết vua“ vào sử thì đến lượt mình, người thứ tư là Thái Sử Quý vẫn viết như vậy! Ở Việt Nam có trường hợp Chu Văn An sau khi dâng “Thất trảm sớ” không được chấp nhận thì cáo quan hồi hưu. Nguyễn Trãi cũng là người giữ lập trường cứu nước kiên định. Rồi Đào Duy Từ, Ngô Thì Nhậm cùng biết bao vị hưu quan vì “bất đắc chí”... đều là những người có lập trường chính trị kiên định. Ai đó, hình như Voltaire, trong hoàn cảnh nặng nể của phong kiến thế tập châu Âu Trung Cổ, đã từng mơ ươc về phương Đông dưới sự cai trị của đạo Khổng Tử, khi mà vua hôn ám thì được phép “đổi nó đi!” Như vậy, nói rằng trí thức phương Đông không có lập trường chính trị là không đúng sự thực. Càng sai hơn khi nói phương Đông không có trí thức! Giáo sư F. Jullien còn nói: “Minh triết phương Đông né tránh mâu thuẫn để giữ sự hài hòa; để giữ gìn hài hòa, phương Đông đi con đường vòng để tránh mâu thuẫn. Tôi cho rằng cái đó là không đúng.” Không phải vậy. Đúng là phương Đông coi trọng sự hài hòa, “Thái hòa” là mặt quan trọng của minh triết. Nhưng không phải phương Đông không biết giải quyết mâu thuẫn. Dịch lý nói: “Cùng tắc biến” và “Biến tắc thông”. Phương Đông không can thiệp “ngang xương” vào quá trình diễn biến của sự vật mà theo lẽ biến cùng, tác động một cách minh triết cho mâu thuẫn tự giải quyết một cách nhi nhiên, tự nhiên. 4. F. Jullien và đạo Phật Giáo sư F. Jullien nói: “Trong sách tôi ít nói đến Phật giáo bởi vì tôi nghiên cứu triết học Hy Lạp cổ đại, mà thời cổ đại Hy Lạp tương ứng với cổ đại Trung Hoa và lúc ấy chưa có Phật giáo. Lý do nữa là Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ, Ấn Độ cũng có liên hệ với phương Tây ở gồc Ấn - Âu... Phật giáo, từ gốc của nó đã có liên hệ gì đó với phương Tây ở gốc Ấn - Âu...” Rõ ràng Giáo sư đáng kính đã lầm lẫn. Phật giáo xuất hiện đồng thời với Nho giáo và triết học Hy lạp cổ đại, khoảng thế kỷ V TCN. Sai lầm nghiêm trọng hơn khi ông cho Phật giáo “từ gốc có liên hệ với phương Tây.” Điều này thuộc về kiến thức văn hóa lịch sử phổ thông. Theo tri thức mới nhất thì, khoảng 40.000 năm trước, người Việt cổ Australoid từ Đông Dương di tản tới Tây Ấn Độ. Muộn hơn một chút, những nhóm Việt khác cũng từ Tây Nam Trung Quốc vào đất Ấn. Người Australoid lan khắp Ấn Độ, được lịch sử gọi là người Dravidian, là chủ nhân nền văn hóa lúa nước sông Indus rực rỡ. Khoảng 1500 TCN, người Arian thuộc đại chủng Europid từ Ba Tư xâm nhập Ấn Độ, thống trị dân Dravidian. Từ văn hóa Dravidian, người Arian xây dựng nên văn hóa Ấn Độ, trong đó có đạo Phật. Người châu Âu là do một nhánh khác của người Europid từ Trung Đông di cư vào châu Âu. Như vậy, tuy cùng mã di truyền và tương đồng ngôn ngữ nhưng giữa người Ấn và người Âu khác nhau về văn hóa. Văn hóa Ấn, dù là người Indoeuropian cũng hoàn toàn là văn hóa phương Đông. Khi ít nghiên cứu Phật giáo với hàm lượng minh triết cao, tri thức về minh triết không thể không thiếu hụt. 5. Kết luận Có thể là triết gia lớn, nhưng trong môi trường văn hóa châu Âu với hàm lượng minh triết thấp cùng quan điểm coi thường minh triết, sự hiểu biết của Giáo sư F. Jullien về minh triết nói chung và nhất là minh triết phương Đông còn hạn chế. Lời khuyên của ông: “Minh triết hiện nay phải khắc phục hai nhược điểm có từ xưa, một là không tư duy bằng khái niệm thì bây giờ Minh triết phải có khái niệm. Thứ hai là về chính trị không rõ ràng thì bây giờ phải rõ ràng đối với chính trị. Minh triết ở giai đoạn này phải đưa tư tưởng vào công trường của mình để làm ra những khái niệm...” theo tôi là xui dại. Minh triết là... Minh triết, có nghĩa là những hạt tâm hồn, trí tuệ dân tộc tồn tại an nhiên trong cuộc sống, dười dạng vô tư, hồn nhiên, thơ trẻ... Tuy vậy nó có sức mạnh nội tại siêu việt: ủng hộ nền chính trị vương đạo, đả phá chính trị bá đạo. Khi thấy một nền chính trị đi trật đường rầy thì minh triết phản bác nó. Mác nói rất chí lý: “Giai đoạn cuối của sự vật, đó là sự khôi hài”. Nền chính trị khi trở thành khôi hài trong con mắt của cộng đồng thì đang bước tới hồi cáo chung. Chính minh triết chỉ cho cộng đồng thấy sự sai lệch chệch hướng đó. Và đó chính là sự tham gia tích cực của minh triết vào chính trị. Như vậy, minh triết đứng cao hơn và điều chỉnh nền chính trị. Chính vì vậy mà phương Đông cần minh triết và minh triết được coi trọng. Nếu như minh triết biến thành khái niệm để tư duy theo khái niệm thì nó đã là cái bóng của triết học và rồi trở nên tư biện, nghèo nàn, xơ cứng. Tôi nghĩ rằng, buổi nói chuyện của giáo sư F. Jullien rất có ích vì giúp chúng ta nhận biết hàm lượng minh triết thấp trong văn hóa phương Tây dẫn tới quan niệm tiêu cực về minh triết. Nó cũng cho thấy minh triết không phải là sở trường của học giả phương Tây. Từ đó, chúng ta thêm tự tin nghiên cứu minh triết của mình. Sài Gòn, 9.09. * http://viet-studies.info/Jullien_BanVeMinhTriet.htm
-
Tôi xin rút lui lời dự báo này - 7 giờ 27 - 9 2009.
-
Xin chân thành cảm ơn anh Trần Phương đã dành tình cảm tốt đẹp cho tôi. Ngày xưa, chính tay tôi và một số đống nghiệp - kẻ một khẩu hiểu ở trước hiệu kem Bốn Mùa bên bờ hồ Hoàn Kiếm - trích đoạn thơ Tố Hữu: "Bốn ngàn năm cùng chúng ta ra trận". "Chúng ta ra trận" là việc của lịch sử hiện đại, của quân sự và chính trị. "4000 năm" là một quá khứ được xác định là chân lý và gắn với những gía trị hiện tại. Lịch sử hiện đại đã sang trang mới. Nhưng tiếc thay! Chân lý lại bị phủ nhận.
-
LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG VÀ BÀI TOÁN 4 MÀU Tiếp theo Kính thưa quí vị quan tâm. Qua phần trên, chúng tôi đã hân hạnh trình bày sự xác định đầu bài toán theo cách hiểu của chúng tôi và những yếu tố liên quan. Một trong những thực tế của bản đồ thế giới chính là phải thể hiện biển và sông, hồ. Do đó, nó đã chiếm mất một màu. Đây là thực tế không thể phủ nhận - nếu đầu bài toán là thể hiện bản đồ các quốc gia trên thế giới - cụ thể là trên Trái Đất này. Như vậy chúng ta chỉ còn ba màu để thể hiện bản đồ các quốc gia trên các lục địa. Nếu như các nhà toán học trên thế giới đã chứng minh được rằng: Chỉ cần bốn mầu trên lý thuyết có thể biểu diễn được ranh giới cácc quốc gia trên trái Đất thì bài toán này đã chứng minh xong: Với năm màu là tối thiểu để vẽ một bản đồ thế giới - với yếu tố thứ 5 không phải thuộc phần lục địa chính là biển và sông hồ lớn là thực tế khách quan trên trái đất. Màu của thực thể Biển, sông hồ - cho dù chon bất cứ màu gì thì nó phải là một màu nhất quán trên toàn bản đồ. Nhưng tại sao lại phải tối thiểu 5 màu cho một bản đồ phức tạp nhất - cho dù được thể hiện trên bất cứ hành tinh nào? Điều này liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành mà tôi sẽ trình bày sau đây: Bài toán 4 màu. Những thông tin ngay trong topic này xác nhận rằng: Các nhà toán học đã được giải quyết xong bài toán bốn màu và họ đã chứng minh được rằng: Chỉ với 4 màu có thể vẽ được bản đồ thế giới với biên giới các quốc gia. Do không phải là người nghiên cứu chuyên sâu về toán cao cấp, nên người viết tiểu luận này coi như thông tin trên đây là đúng. Đồng thời coi đó như là một tiên đề để minh chứng tiếp theo phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nhưng khi bài toán được xác định đã giải được đúng thì cũng có nghĩa rằng: Nó phải được thực hiện bản đồ các quốc gia trên lục địa của địa cầu trong bất cứ hoàn cảnh và thời gian lịch sử nào. Vấn đề đã được đặt ra theo điều kiện của bài toán trong tiểu luận này: Như vậy, xét về toán học, chúng ta hoàn toàn có quyền đặt ra những tình huống qui ước về khả năng có thể xảy ra những dạng tồn tại biên giới các quốc gia trên phần lục địa của trái Đất. Tạm thời chúng ta qui ước gọi là: Nhiều mảng hình học phẳng tồn tại với hình dáng bất kỳ (Tượng trưng cho lãnh thổ quốc gia) có những đường biên liền nhau, sẽ thể hiện được bằng chỉ bốn màu trên một mặt phảng, với bất kể số lượng và hình thức đa dạng của các mảng hình học phẳng đó. Hình ảnh của Đào Hoa có thể là một thí dụ cho tính quy ước có thể có của biên giới các quốc gia trên phần bản đồ: Như vậy chúng ta thấy rằng - và người viết chủ quan khi xác định rằng: Bài toán bốn màu mà các nhà toán học thế giới đã giải quyết và chứng minh xong, chỉ là một bài toán thuần túy mang tính lý thuyết xác định rằng: Với bốn màu có thể miêu tả các mối tương quan bất kỳ của: Nhiều mảng hình học phẳng tồn tại với hình dáng bất kỳ (Tượng trưng cho lãnh thổ quốc gia) có những đường biên liền nhau, sẽ thể hiện được bằng chỉ bốn màu trên một mặt phảng, với bất kể số lượng và hình thức đa dạng của các mảng hình học phẳng đó. Như vậy. đến đây tôi đã chứng minh rằng: Bài toán trên được chứng minh đúng chỉ mang tính thuần túy lý thuyết - (với giả thuyết đã chứng minh đúng theo thông tin, còn nếu thông tin sai thì phần chứng minh này là thừa - Nhưng với lý thuyết: Nhiều mảng hình học phẳng tồn tại với hình dáng bất kỳ (Tượng trưng cho lãnh thổ quốc gia) có những đường biên liền nhau, sẽ thể hiện được bằng chỉ bốn màu trên một mặt phảng, với bất kể số lượng và hình thức đa dạng của các mảng hình học phẳng đó. Thì - nó có thể thực hiện được bản đồ các quốc gia trên thế giới từ thực tế của địa cầu hay không? Khi mà một vế của đầu bài toán đã xác định: Bản đồ các quốc gia trên thế giới - tức là một thực tế tồn tại của bề mặt địa cầu - chứ không phải trên một mặt phẳng lý thuyết nói chung. Chúng không thể thực hiện được bởi các yếu tố sau đây: - Yếu tố biên giới các quốc gia trên lục địa: Chỉ cần 4 màu và coi như đã giải quyết xong với bất kỳ tình huống đường biên giới như thế nào trong lịch sử (Nhiều mảng hình học phẳng tồn tại với hình dáng bất kỳ (Tượng trưng cho lãnh thổ quốc gia) có những đường biên liền nhau, sẽ thể hiện được bằng chỉ bốn màu trên một mặt phẳng). - Yếu tố biển, sông hồ là một thực tại trên bề mặt địa cầu, nơi thực hiện các đường biên giới quốc gia. Như vậy, ngay cả trường hợp cho rằng - tính lý thuyết đã được chứng minh thì chính thực tế đã xác quyết rằng: Tối thiểu phải năm màu để phản ánh một thực tại. Màu thứ năm chính là phản ánh một thực tế. Thuyết Âm Dương Ngũ hành Với Ngũ hành là cấu trúc nguyên thủy của vạn tượng trong vũ trụ. Còn tiếp
-
XIN BÀY TỎ LỜI CẢM ƠN CHÂN THÀNH TRƯỚC TÌNH CẢM CỦA ANH CHỊ EM CHÚC LÀNH NHÂN NGÀY SINH NHẬT CỦA TÔI. XIN CHÚC ANH CHỊ EM MỘT CUỘC SỐNG AN LÀNH - VẠN SỰ NHƯ Ý. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh
-
Sang năm mới có tuổi cất nhà.
-
Sau việc này Wildlavender bị xốc nặng. Chị đề nghị chuyển giao công việc từ thiện cho người khác, khi chứng kiến hậu quả của sự tàn nhẫn đến tận cùng. Tôi cố gắng khuyến khích chị Wildlavender tiếp tục công việc. Nhưng đó là lúc chưa nhìn thấy hình ảnh này. Thật tình tôi cũng xốc quá! Qúa khủng khiếp.
-
Tuổi Giáp Dần, Cung Cấn - hướng Đông Nam theo Phong thủy Lạc Việt là Phúc Đức trạch.Tuy nhiên, hướng chỉ là 1/ 4 yếu tố quan yếu trong phong thủy. V/d còn là: - Hiệu ứng huyền không cũng theo PT Lạc Việt thì vận 8 sao Ngũ Hoàng chiếu, cần xử lý. - Hệ thống cấu trúc trong nhà Phúc Đức trạch rất khó xử lý các vị trí như WC, Hầm cầu - trong trường hợp nhà chật. - Hình thể khối kiến trúc nhà. - Vị trí mặt bằng nhà với cảnh quan chung quanh. .
-
Cây khô là loại cây không còn sinh khí. Nếu để làm cảnh ngoài vườn - vì dáng đẹp thì còn tạm được - tùy vị trí. Nhưng để trong nhà thì không nên.
-
Nếu bão ập vào miền Trung thì khổ quá! Lũ lụt đã đủ rồi. Nếu bão vào miền Nam thì nơi tôi đang ở. Nếu bão ra miền Bắc thì ngày mai tôi ra Hanoi. Vậy tốt nhất là bão tan trong vòng 24 giờ tới. Quẻ Thương Đại An.
-
Tôi chỉ nói là là cần người tư vấn thôi. Không nói là không được. Trúc là biểu tượng của người quân tử. Đấy là quan niệm mang tính văn hóa truyền thống Đông phương, nhưng ko phải phương pháp luận của phong thủy.
-
Kìm hãm phát triển là thực tế nhận thức được - do cách chế tạo bonsai. Nhưng về lý thuyết thì đó là cô đong của khí tương ứng.Giữa lý thuyết giải thích v/d trên cơ sở phương pháp luận của Phong Thủy. Thực tế là một khoảng cách so với phương pháp luận. Thí dụ: Âm thuận tùng Dương là phương pháp luận lý thuyết của phong thủy. Do cách hiểu đơn giản của người sau cho rằng: Dương là đàn ông - Âm là đàn bà. Đây là cái nhìn "trọng nam khinh nữ" của chế độ phong kiến. - Phong thủy không phải môn xã hội học để nói chuyện "trong nam khinh nữ" và càng không phải chính trị để phân biệt phong kiến với tư bản. Có người cho rằng: Bây giờ nam nữ bình quyền nên ai làm ra nhiều tiền thì lấy cung phi bát trạch làm chủ đạo trong nhà. - Phong thủy không phải kinh tế học. Có người cho rằng: Ai đưng tên sổ đỏ, cung phi người đó đứng chủ đạo bát trạch trong nhà. - Phong thủy không phải quản lý hành chính. Đại để như vậy.
-
Bài chòi có lẽ là một hình thức bài còn cổ hơn cả Tổ tôm. Bài chòi Huỳnh Hữu Uỷ trích từ Tạp chí Văn số Xuân Bính Tuất 2006 Suốt trên dải đất dọc miền Trung Trung bộ, từ Bình Trị Thiên qua Nam Ngãi và vào đến Bình Định, Phú Yên, cứ vào những ngày Tết đến lại xuất hiện trong sinh hoạt giải trí dân giã một trò chơi bài bạc mang nặng tính chất đình đám hội hè: trò chơi bài chòi. Bài chòi sử dụng những quân bài của bộ bài tới thường được chơi giữa sáu người là anh em, bà con trong gia đình, rồi biến thành một lối chơi nơi công cộng, trước sân đình làng hay bên đình chợ, ngồi trên 11 nhà chòi cao hai hay ba thước, năm chòi dựng bên trái, năm chòi dựng bên phải, ở giữa là một chòi “trung ương”. Đánh bạc không cốt ăn thua, mà chỉ để vui xuân, để giải trí, cốt để hô bài chòi, một loại sinh hoạt văn nghệ rất đặc biệt, đậm đà tính dân tộc, và có lẽ ít nhiều cũng mang hơi hướm một buổi trình diễn hát bội hay chèo tuồng nơi hương thôn ngày trước. Bài chòi, trước đây đã có nhiều người nghiên cứu và khảo sát khá kỹ, riêng về bài tới, cũng có một đôi người để ý đến nhưng chưa được đầy đủ gì lắm. Hôm nay, chúng ta sẽ thử lật lại xem một số quân bài tới, đặc biệt lưu ý đến những nét vẽ, hình tượng độc đáo trên các quân bài, độc đáo đến độ đôi lúc rất kỳ dị, khó hiểu [1] . Tổ tôm điếm (trích từ sách Connaissance du Việt Nam) Bài tới ở miền Trung cũng như tranh Tết ở miền Bắc, thường chỉ xuất hiện vào những ngày Tết đến, kéo dài trong tháng Giêng là tháng ăn chơi, rồi sẽ tàn nát đi vì chất liệu thô sơ, giản dị, nghèo nàn khi tháng Hai đến, khi nhân dân bắt đầu bắt tay trở lại với nhịp sống lao động sản xuất bình thường. Không được bền chắc, đẹp đẽ và sang trọng như một bộ bài Tây hay bài Tàu, bài tới thường được in ra từ những làng quê xa xôi, hẻo lánh, theo kỹ thuật mộc bản, in trên giấy dó, giấy bản đã được phủ qua một lớp điệp, rồi bồi lên một lớp giấy cứng, mặt sau con bài được quét một lớp phẩm màu đỏ, xanh lá cây hay xám sẫm. Trong chừng vài mươi năm trở lại đây, cách in ấn cũng như chất liệu làm thành quân bài chẳng được canh tân hơn chút nào mà lại còn kém đi nhiều, vẫn nét vẽ thô sơ, ngưòi ta không còn phủ điệp trước khi in nét vẽ đen lên, giấy in thì mỏng và xấu, rồi dán lên trên những tấm bìa cũng rất xấu. Chỉ có một điều mới, là ngày xưa, trên quân bài có những tên gọi ghi bằng chữ Nôm thì nay đã được đổi thành chữ quốc ngữ [2] . Bốn người chơi bài tam cúc (trích từ sách Connaissance du Việt Nam) Ở Huế, có một địa phương là làng Sình, nơi mà cho đến hiện nay cũng còn để lại rất nhiều vết tích về dân tộc học, về những đình đám hội hè, trò vui chơi ngày Xuân như đấu vật, bơi thuyền, nằm về phía đông bắc kinh thành Huế, đi về phía chợ Bao Vinh thuộc làng Thế Lại, từ đấy vượt qua sông Bao Vinh sẽ gặp làng Sình. Sình là tên gọi quen thuộc trong dân gian, tên chính thức là làng Lại An, nằm cận kề vùng duyên hải, nơi có tiếng lắm tôm nhiều cá như trong dân ca Huế vẫn thường nhắc nhở: “Cá tôm mua tại chợ Sình. Triều Sơn bán nón, Bao Vinh bán đường”, mà cũng là nơi chuyên nghề in tranh cung cấp cho các cửa hàng vàng mã, đặc biệt nhất là sản xuất những bộ bài tới, cung cấp cho đồng bào quanh Huế và các vùng phụ cận vui chơi, giải trí trong những ngày Xuân mới. Về sau này, người Tàu sinh cư buôn bán quanh vùng cầu Gia Hội, ngay ở chính trung tâm thành phố, đã in ấn bộ bài tới một cách có kế hoạch và qui mô hơn, tuy cũng chỉ bằng kỹ thuật mộc bản mà thôi. Nếu bài chòi là một thú vui chơi hoàn toàn Việt Nam, do người Việt tự nghĩ ra, không vay mượn của nước nào thì bài tới cũng thế, rất Việt Nam, cả hình thức cũng như nội dung. Ở miệt Huế và Quảng Nam, trong dân gian có bài vè: Nghe vẻ nghe ve Nghe vè bài tới Cơm chưa kịp xới Trầu chưa kịp têm Tôi đánh một đêm Thua ba tiền rưỡi Về nhà chồng chửi Thằng Móc, Thằng Quăn Đánh sao không ăn Mà thua lắm bấy Tôi lấy tiền cấy Cho đủ mười ngày Bảy giày bảy sưa Cũng là nhịp kéo Chị em khéo léo Dễ mượn dễ vay Thân tôi ngày rày Dầm sương dãi nắng Chị em có mắng Tôi cũng ngồi đây Nó là năm giày Nó cũng a dua Ăn thì tôi lùa Thua thì tôi chịu. [3] Một số lá bài vẽ theo bộ bài do Ðoàn Viết Hùng sưu tầm được ở Phú Yên (Xem chú thích số 2). Hàng trên, từ trái sang: Cửu gấu, Thất liễu, Ngũ trợt, Tam quăng, Nhứt nọc. Hàng dưới, từ trái sang: Ông ầm, Bát dừng, Lục chạng, Tứ tượng, Nhì nghèo. Thằng móc, thằng quăn, bảy giày, bảy sưa, năm giày, là tên gọi của mấy quân bài, chỉ cần kể đủ tên của ba mươi quân bài cũng đủ làm cho chúng ta hết sức buồn cười. Những tên gọi nôm na, dễ dãi, hài hước, tinh nghịch, tiếng Nôm pha tiếng Hán, khi gọi thế này, khi gọi thế khác, có khi tên gọi chẳng gợi ý nghĩa gì cả mà phải xem vào nét vẽ trên con bài mới thấy được một điều gì đó. Xin kể đủ tên tất cả ba mươi con bài [4] dưới đây, để trong thoáng chốc chúng ta có thể sống lại và hoà vào giữa các trận cười ồn ào, dân dã, rất ngây ngô, hồn nhiên. Tiếng cười của những bà mẹ quê chất phác, hiền hoà vang lên dòn tan khi đang cùng nhau ngồi chơi bài tới giữa những ngày Xuân Tết, trên một chiếc giường tre nơi góc nhà vừa được trải lên một chiếc chiếu hoa mới, nghe gọi tên những con bài rất vui tai, ngộ nghĩnh, đôi lúc tưởng như tục tĩu, thô lỗ, nhưng vẫn rất tự nhiên: bảy giày, bảy sưa, ba gà, ba bụng, nọc đượng, năm rún, ông ầm, bạch tuyết (đôi nơi gọi là bạch huê, có khi còn gọi là con l…), tứ tượng, ngủ trưa… Tiếng cười cợt ồn ào ấy đúng là chỉ phát xuất ở chốn thôn dã, đồng quê, chợ búa, nơi sinh hoạt của quần chúng nhân dân lao động bình thường, chứ chẳng thể nào nổ bung ra giữa những nho sĩ nghiêm trang, đạo mạo, đúng mực chi hồ giả dã của một thời nào, thời mà đạo lý, nếp nghĩ và nếp sống phong kiến đang đè nặng lên các phần đất tổ quốc. Bộ bài tới cũng là một tấm gương nhỏ phản ảnh phần nào dòng văn hoá nghệ thuật sống động và tự do của nhân dân, không dính líu gì đến dòng nghệ thuật cung đình chính thống. Ba mươi con bài này cũng được xếp thành ba pho: văn, vạn, sách như trong lối chơi tài bàn, tổ tôm, mỗi pho là chín con (9x3=27), ba con còn lại được xếp thành ba cặp yêu: cặp ông Am, cặp Thái tử, cặp Bạch Tuyết. Như vậy, lúc chơi bài tới giữa sáu người với nhau, phải có 60 quân bài tức 30 cặp tất cả (27x2=54+3 cặp yêu). Dưới đây là tên tất cả 30 quân bài: Chín Gối, Lục Xơ, Nhì Nghèo, Thất Nhọn, Trường Hai, Trường Ba, Tứ Hường, Tám Giây, Đỏ Mỏ, Sáu Tiền, Tám Tiền, Học Trò, Cửu Thầy, Bảy Sưa, Bảy Liễu, Ngủ Trưa, Tam Quăn, Năm Giày, Ba Gà, Nọc Đượng, Tứ Gióng, Bát Bồng, Nhị Đấu, Tứ Tượng, Chín Xe, Năm Rún, Bằng Đầu, Bạch Tuyết, Thái Tử, Ông Am. Tên gọi các quân bài đã lạ lùng, kỳ dị, hình vẽ trên các quân bài càng kỳ dị và lạ lùng hơn, nó gợi lên một thế giới đầy bí hiểm, vượt lên trên cách nhìn bình thường. Tựa như cách nhìn của những trường phái hội hoạ mới, từ chối hình thể hay thanh lọc thực tại đến kỳ cùng, trừu tượng hoá sự vật, hoặc là đi đến chỗ siêu thực tại, hoặc cách điệu và ghi nhận thực tại một cách ngây ngô, hồn nhiên như trẻ con, Những hình vẽ mà chúng ta không sao hiểu nổi đã phát xuất từ những cơ cấu trí tuệ như thế nào. Nó phảng phất đâu đây một chút không khí u uất rất Chàm hay Phù Nam, những hình ảnh, đường nét, kiểu thức rất Tây Nguyên, có khi gợi dậy một chút xa xăm phi thực, mù mờ của bùa chú, hay của một cuộc sống hoang dã bên ngoài cõi đời văn minh. Trong một khảo sát về trò chơi bài chòi trước đây, Võ Phiến đã nhận xét về hình tượng các quân bài này: Nó gợi lên cảm tưởng hoặc nét vẽ của các hoạ phái siêu thực, vô hình dung, lập thể, hoặc nét vẽ trên các mộ cổ Ai Cập. Nhận xét ấy tương đối tinh tế, thú vị và xác đáng [5] . Về hình vẽ trên các quân bài, sắp riêng theo từng pho một, chúng ta sẽ thấy ở mỗi pho có một cách biểu đạt gần gần giống nhau. Các quân bài thuộc pho văn sử dụng những cách điệu gần gũi lối hình học, có những miếng tròn như bánh xe, đồng tiền hay nửa đồng tiền. Hình các con bài, trái: Nhị đấu [thuộc pho Vạn]; phải: Bảy liễu [thuộc pho Văn] Các quân bài thuộc pho vạn thì đều vẽ mặt người với những nét rằn rịt theo kiểu tranh thờ khắc gỗ dân gian, trên mỗi quân bài có ghi thêm hai chữ nho từ nhất vạn đến cửu vạn như chín quân bài trong bộ bài tổ tôm. Ba cặp bài yêu cũng chứa đựng lối vẽ như thế. Các quân bài thuộc pho sách thì đặt biệt có những nút tròn nhỏ, giữa vòng tròn có một chấm đen, ngoài những vòng tròn này còn có những đường vạch ngang rất đều, có thể hình dung như được quấn tròn đều đặn bằng dây mây. Ông Nguyễn Văn Y, nguyên Giám đốc Viện Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội, trong một bài giới thiệu sơ lược về những bản in tay khắc gỗ của bộ bài tới, trên tuần báo Văn hoá Nghệ thuật khoảng giữa năm 1977, do vậy, đã tạm xếp các quân bài theo lối vẽ này là quấn mây thắt nút. Chúng ta hãy lật lại một số quân bài đầy thú vị này, thưởng thức hương vị kỳ lạ của cuộc sống dân dã, là bó hoa đồng nội mà chắc chắn đã được dần dà hình thành từ một trường kỳ lịch sử, trên chuyến viễn du hùng tráng và kỳ thú của dân tộc, giữa những giao lưu, gặp gỡ của đất nước anh hùng và cuộc sống mới trong thời quá vãng. Trước tiên hãy xem qua vài quân bài thuộc pho văn, với lối vẽ gần gũi những cách điệu hình học, chỉ trừ con chín gối (còn gọi là chín nút), những điểm chính giống với loại quấn mây thắt nút, có chín nút tròn nhỏ và những vạch ngang. Con sáu tiền, vẽ sáu nửa đồng tiền ghép lại với nhau, từng đôi một, đôi này chồng lên đôi kia. Hình này khá giản dị, ai cũng hình dung được, nếu vận dụng để đưa vào trong những mô típ đề-co hiện đại cũng sẽ rất hay. Con tám tiền cũng như thế, là tám nửa đồng tiền ghép lại. Ở vùng Bình Định, lại gọi là sáu miểng, tám miểng (miểng: tiếng địa phương có nghĩa là mảnh). Hình các con bài, từ trên xuống, từ trái sang: Tám tiền, Học tro, Bạch tuyết, Cửu thầy, Tứ tượng (con Voi) và Ngủ trưa. Con bảy liễu (thất liễu), tính cách trang trí đã phức tạp hơn con sáu tiền và tám tiền, vẽ bốn đồng tiền ghép lại với nhau, ở chỗ ghép lại có một nút tròn nhỏ. Giữa các khoảng trống do các đồng tiền ghép lại có một cành liễu nhỏ không có vẻ gì là liễu, trông đúng là một thứ phức diệp (foliole), hay thứ lá có răng cưa (feuille dentée) nhưng vì có chữ liễu trên các con bài nên ta hãy xem đây là một cành lá liễu. Phía trên bốn đồng tiền có một hình xoắn trôn ốc như ta vẫn bắt gặp chạm trổ trên các đồ dùng của người Tây Nguyên. Con voi, cũng gọi là tứ tượng, ở Quảng Nam lại gọi rất nghịch ngợm là dái voi. Chúng ta sẽ không thể nào hình dung được đây là con voi, nhưng với chữ voi chú thích trên con bài, hãy tập trung cách nhìn, gạn lọc đối vật đến mức độ giản dị nhất, nghĩa là trừu tượng hoá hình ảnh một con voi được trang trí vào ngày lễ hội, nhìn từ trên xuống, chúng ta sẽ đoán được các phần đầu voi, hai tai voi, lưng voi, bành voi. Lối trang trí cách điệu này vẫn thường được gặp khắp các vùng dân tộc thiểu số như Thái, Mường, H’ Mông, Dao, Ê-đê, v.v… đặc biệt nhất là trên các cạp váy, đồ thêu, những chạm khắc bằng tre, gỗ, đồng ở vùng Tây Nguyên. Lấy một vài mẫu thêu, vài mẫu khắc trang trí rất trừu tượng của người miền núi, hỏi về ý nghĩa, chúng ta sẽ được giải đáp rất rành mạch, đây là hoa ban, cây Kơ-nia, đoàn người, là những thứ hoa sặc sỡ và vui tươi nhất của dân tộc Ê-đê: hoa Dua, hoa Ê-prang, hoa Gấc, hoa Mi-ê, là chim Xìn-tra của dân tộc Ta-pan, là hình cỡi ngựa, chim đậu trên cây trên các trang phục của người Dao. Con trường hai, vùng Bình Định gọi là nhì bánh, tương tự như một phần của hình con voi, in hình hai mảnh hình thuẫn, có người cho là hình hai chiếc bánh xe, thực ra, có thể đây là hình ảnh của bất kỳ thứ bánh gì: bánh xe, hay là hai ổ bánh lớn để ăn, muốn nghĩ thế nào thì ra thế ấy. Con trường ba, cũng như con trường hai, nhưng khác ở chỗ là chồng vào giữa hai mảnh hình thuẫn trên một mảnh hình thuẫn khác, và giữa mảnh hình thuẫn này là những đường hình thoi lớn nhỏ, chồng chồng lên nhau. Con trường ba rất nhiều người ở Huế gọi là trạng ba, cắt nghĩa là ông Trạng đỗ ba khoa, nhưng như vậy có nghĩa là thế nào? Chẳng có chút gì ở đây để có thể gợi nên hình ảnh một con người, chứ chưa nói đến hình ảnh một ông Trạng, chẳng có một chút liên hệ nào giữa tên gọi và hình vẽ. Với con bài Trạng ba chẳng hạn, người ta có thể cắt nghĩa rằng đây là quân bài do một hoạ sĩ tài tử nào đấy vẽ ra, hình vẽ đôi lúc chẳng cần biểu lộ một ý nghĩa nào cả, nó chỉ mang tính chất một dấu hiệu mà thôi. Những người lưu đãng xa nhà, không có sẵn trong tay một bộ bài thực đàng hoàng để giải trí với nhau, đành tự tạo ra ba mươi dấu hiệu cho ba mươi quân bài, để làm thành một bộ bài hoàn toàn mới mẻ. Và cũng do tính cách tài tử ấy mà chúng ta có một bộ bài vô cùng hấp dẫn, cái hấp dẫn của một thứ mời gọi bí hiểm, lạ lùng. Vậy nên, trước một quân bài, đôi lúc phát giác thêm một ý nghĩa mới, người ta lại đặt thêm một cái tên nữa cho lá bài, có lúc rất vui, rất dí dỏm, bộc ra được tất cả tiếng cười đùa tự nhiên, thoải mái. Tên gọi những con bài do thế cũng thay đổi tuỳ vào địa phương, như con voi cũng gọi là tứ tượng, dái voi; tám giây cũng gọi là tám hột; trường hai có nơi gọi là nhì bánh, có lúc gọi là nhì xe; chín gối có khi gọi là nhất gối, có khi gọi là chín nút; con tứ hường cũng gọi là cẳng hương, hay tứ cẳng v.v… Và ở vùng Qui Nhơn, Bình Định, Phú Yên lại có những tên gọi rất quái quỷ, không có nghĩa gì cả, mà âm thanh gọi lên lại bày ra cả một thế giới của những trận cười cợt ồn ào, thô sơ, hoang dã: cửu điều, ngũ trợt, ngũ dụm, ngũ dít, đổ ruột, sáu miểng, chín gan, lục chạng, sáu bường… Bây giờ chúng ta xem đến một số quân bài thuộc pho sách, đặc biệt có những nút tròn nhỏ và các vạch ngang đều đặn, rồi phía dưới là những vạch chồng chéo đối xứng nhau. Trước tiên là con tứ gióng, vẽ một đôi quang gióng, ở trên có quai xách, dưới có chân đế kiềng ra hình tam giác, thân gióng là bụng phình hình bầu dục, nơi điểm tiếp giáp của thân gióng, quai xách và chân đế là hai nút tròn nhỏ, giữa nút tròn là chấm đen như mắt cua. Đã nhìn thấy đôi gióng ở miền Trung Trung bộ, rất giản dị, bằng tre, mây hay bằng thép, có bốn quai, phía trên túm lại, phía dưới xòe ra và thắt nút rồi quấn chặt cân bằng trên bốn điểm của một vòng tròn, chúng ta sẽ không thể tưởng tượng nổi làm thế nào nhà nghệ sĩ dân gian tài tử của chúng ta đã quan sát, suy nghĩ và vẽ nên đôi gióng trên con bài này. Hẳn rằng đấy là cách thu nhận sự vật với đôi mắt thơ dại tuyệt vời. Về mặt nội dung, dù thế nào cũng hiển nhiên là những đôi gióng này đã nặng nợ lắm với dân tộc trên hành trình tay xách nách mang tiến về phương Nam, đấy là hình ảnh đôi gióng của gần 10 thế kỷ trước, từ thời quân đội nhà Lý đặt chân lên thành Đồ Bàn, hay từ hơn ba thế kỷ trước, cùng với những bước chân của lưu dân đi xây dựng đất mới dưới thời các Chúa Nguyễn? Con nọc đượng có lẽ là con bài đáng chú ý nhất, đối lập với con bạch tuyết sẽ đề cập ở dưới. Trong một cuộc chơi bài chòi, khi rút đến con nọc đượng, anh hiệu, một người có nhiều khả năng văn nghệ giữa thôn xóm, làng mạc, hô những câu hát bài chòi báo hiệu cho mọi người trong cuộc chơi về quân bài vừa rút được, có thể sẽ hô lên như vầy: Cần trúc, ống trắc, lưỡi sắc, chỉ nọ tơ Tàu Anh đây muốn câu con cá mại biển Cá mại bàu sá chi! Mấy câu trên, nghe qua, chúng ta cũng phần nào thấy được cái chí của kẻ nam nhi; sống đời phong lưu thì cũng phải vác cần đi câu ngoài biển Đông, chứ sá gì con cá mại tẹp nhẹp trong vũng bàu. Mà hơn thế nữa, câu hát cũng có gợi lên đôi chút hình ảnh chiếc cần câu ngúc ngắc, vậy thì đúng là con nọc đượng rồi. Cũng có lúc anh hiệu lại cất lời với một câu thai man mát, có gợi âm gợi hình đôi chút về chiếc cọc đã cắm xuống rồi lại nhổ lên; cắm xuống để giữ con thuyền, rồi nhổ lên để đẩy thuyền đón khách. Đò em đưa rước bộ hành Thuyền nan một chiếc tử sanh trọn bề Trải qua bãi hạc, gành nghê Quanh năm chèo chống, tứ bề sóng xô Tiếng ai văng vẳng gọi đò Mau mau nhổ nọc chèo qua đón người. Cắm cọc, cắm nọc, hay cắm sào đợi khách sang sông, những từ ngữ và hình ảnh ấy đều để dẫn đến con nọc đượng, hay nọc thược, hay nhất nọc trong pho sách của bộ bài chòi. Có lúc khác nữa, mấy câu hát trên chưa đủ mạnh, anh hiệu sẽ cương lên mà hô với giọng nghịch ngợm, pha đôi chút phấn khích, hồ hỡi. Năng cường, năng nhược, Năng khuất, năng sanh, Nó thiệt cục gân, Ngồi gần con gái trân trân chẳng xìu. Lời hô trên nghe có vẻ như tục tĩu, thô lỗ, sống sượng, nhưng đào sâu vào chúng ta sẽ thấy đáng được quan tâm nghiên cứu đến, bởi lẽ nó mang nhiều dấu vết về cách nhìn của con người trước thế giới tự nhiên, dấu vết của một vũ trụ quan vào những thế kỷ xa xưa. Ngày nay, đi ngược lên những vùng thượng du, quan sát sinh hoạt của người miền núi, chúng ta sẽ thấy đời sống sinh dục ở nhiều nơi vẫn còn là một điều rất tự nhiên. Người ta tắm rửa với nhau trần truồng bên bờ suối không một chút e dè. Những phần cơ thể cần phải che giấu, cấm kỵ ở miền xuôi, nơi đây ngượi lại, hoàn toàn phô bày ra không có gì phải xấu hổ. Người Ê-đê và Gia-rai vẫn nói đến cái đẹp của một đôi vú cong vút lên như ngà voi, đôi mông tròn đầy như trứng chim. Cái đẹp ấy rất phù hợp với bản năng sinh tồn để bảo vệ giống nòi. Xa xôi hơn trong lịch sử và thời gian, trên suốt dải đất miền Trung và Nam Trung bộ hiện nay, người Chàm của đất nước Champa cổ có tục thờ Linga tượng trưng cho dương vật và Yoni tượng trưng cho âm vật. Việc thờ phượng vật tổ này, bắt nguồn từ tục thờ đá rất xưa ở hải đảo và khắp vùng Đông Nam Á, chắc chắn phải có nhiều liên quan đến hình thái thờ phượng đất đai, là thần linh mang lại sức sống, năng lực sinh tồn, sự phồn thịnh của mọi loài sinh thực vật trên địa cầu. Linga là một cột đá, gồm ba phần: đầu tròn, thân tám cạnh và một chân đế hình vuông. Yoni là một chậu đá hình vuông hay chữ nhật, có một rãnh nước thoát gần như phần dưới của một cối đá xay bột. Các vua Chàm lúc vừa lên ngôi đều cho dựng cột Linga quốc bảo, có nghĩa là nhà vua đã tự mình đồng nhất với thần linh, với con mắt thấu suốt và tái tạo, với năng lực sinh tồn hằng cửu, khẳng định quyền lực của mình và dòng họ trước trời đất và con người. Các tô-tem này cũng thường được rước theo trong những ngày hội có nhảy múa, ca hát. Trên miền Bắc đất nước, một số nhà nghiên cứu văn học, sử học, dân tộc học, khảo cổ học cũng ghi nhận được nhiều vết tích còn đậm nét những hình thái tương tự như thế, đề cao sự sinh sôi nẩy nở, đề cao tính năng và sự tự do luyến ái, như việc thờ dâm thần và một số tập tục khác rải rác nhiều nơi tỏ ra rất quí trọng sinh thực khí, như đám rước âm vật ở làng Đông Kỵ, rồi trò chơi tranh giành nõn nường, mà theo Bình Nguyên Lộc thì dân miền Trung gọi là lỗ lường. Với tục múa mo, âm vật và dương vật được thay bằng cái mo và cây tre; con trai được gọi là Chày, và con gái là Sọt, y hệt như các tiệm chạp phô ở Ấn Độ bày chày và cối bán cho người ta mua về để thờ. [6] Một hình ảnh khác được ghi nhận cũng rất sống động là chiếc thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) cao trên 80 phân được tìm thấy năm 1960 đã trở nên quen thuộc với nền văn minh Đông Sơn của người Việt cổ. Trên nắp chiếc thạp này, bốn chiếc quai đắp nổi là bốn cặp nam nữ đang giao hợp xen kẽ vào giữa những hoa văn chạm nổi. Người dân Việt cũ, trên đường thiên cư từ Bắc vào Nam, mang những cảm quan và suy nghĩ ấy đi theo cuộc hành trình, đã gặp gỡ quan niệm của dân tộc Champa, và khi vì nhu cầu giải trí, phải làm ra một bộ bài để vui chơi với nhau, những hình tượng ấy đã xuất hiện trở lại trên hai con bài bạch huê, nọc đượng. Ông Hoàng Chương, trên tạp chí Văn nghệ xuất bản ở Hà Nội, số 50, tháng 7-1961, trong một bài nghiên cứu về hát hô bài chòi đã cho rằng: Những vật thể ấy (tức là Linga và Yoni của người Chiêm Thành) được vẽ trên những con bài gọi là bạch huê, nọc đượng, của bài chòi hiện nay. Tôi không biết lúc viết bài này, ông Hoàng Chương có nắm trong tay các quân bài hay không, nhưng thực sự chỉ có con bạch huê, về mặt hình tượng, gợi lên ít nhiều hình dạng của âm vật, còn con nọc đượng, chỉ có tên gọi gợi lên một cách khá sống động hình ảnh Linga, hình vẽ thì tuyệt nhiên không còn liên hệ gì đến vật thể ban đầu. Hình các con bài, từ trái sang: Ba gà, Tứ gióng, Nọc đượng, Nhì nghèo. Hãy đối chiếu với hình chim và mái nhà sàn trên trống đồng Ngọc Lũ (Bản vẽ của Hà Nguyên Ðiểm) để có thể cảm ra một bầu không khí chung, một gốc gác chung của nền văn minh trải rộng ở vùng Ðông Nam Á cổ đại và cận đại mà bộ bài tới hẳn có nhiều liên hệ đến. Con nọc đượng, từ Quảng Nam đến Bình Định thì gọi khác đi một chút, là nọc thược. Nọc đượng, có lẽ chỉ nhấn mạnh ở chữ nọc, đượng là từ phụ không có nghĩa gì cả, ghép vào chỉ để hài thanh, tạo nên sự trôi chảy về âm thanh, cho dễ đọc, dễ nói, dễ hô lên mà thôi. Tuy nhiên, đượng cũng có thể là do biến âm, hoặc đọc trại ra từ tiếng dượng hay trượng. Dượng có nghĩa là bố ghẻ hoặc chồng cô, chồng dì, như trong câu hát Dì rằng mang rổ hái dâu, gặp dượng thằng đỏ ngồi câu bên đường. Thấy dì dượng nó cũng thương. [7] Và trượng, từ Hán-Việt, có nghĩa là cây gậy hay cái hèo. Một chữ trượng khác trong trượng phu lại có nghĩa là người đờn ông, hoặc là tiếng vợ gọi chồng [8] Như vậy, có thể tạm hiểu nọc đượng như là hình ảnh của cái cọc hay một cây gậy thẳng đứng được vạt nhọn để cắm vào đất, và bóng bẩy hơn, đó chính là tiếng gọi thông tục của linga. Hình vẽ con nọc đượng quả là hết sức lạ. Xem kỹ, chúng ta sẽ thấy là một mái nhà sàn ở Tây Nguyên, nhìn từ một bên (profil), mái nhà nghiêng dốc cao vút. Trên đỉnh mái nhà, đầu một con chim đã được kiểu thức hoá, khó lòng mà biết loại chim nào, trông tương tự như chim gõ kiến mà cũng có thể là đầu một con gà, bởi vì cũng chính đầu con chim ấy lại xuất hiện trên nhiều quân bài khác, và trên con ba gà thì lại ghi rõ ràng là gà. Ở đây, tại sao là đầu của một con chim mà không phải của một loài thú khác? Ở Trung bộ, tiếng chim vẫn được dùng để chỉ đến dương vật, nhưng thường thì để nói đến trẻ con hơn là người lớn. Cũng rất có thể, khi vẽ con bài nọc đượng, người vẽ đã chọn biểu tượng ấy như một ngôn ngữ gián tiếp để phô diễn nội dung muốn đạt đến. Trước hình vẽ này, có lẽ chúng ta cũng nên nhớ đến những mái nhà sàn trên các trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, chắc chắn rằng sự đối chiếu cũng sẽ rất hữu ích. Những nhà sàn trên các trống đồng, ngược lại, được nhìn thẳng vào chính diện, hai đầu cuối cùng của mái nhà cũng có những nút tròn nhỏ, ở giữa có chấm, trông tựa như mắt của hai con chim đang vươn cánh bay lên trời, trên mái nhà thường khắc hình chim rất lớn, đè nặng cả mái nhà. Chim mỏ ngắn, chân ngắn, mào nhỏ, lông đuôi dài và to, nên có người đã ước đoán là người làm trống đồng muốn thể hiện hình dáng con gà lôi (Lophura Nycthemera). Cũng là chim (hay gà) đậu trên mái nhà sàn, nhưng mỗi nơi lại được nhìn theo một cách, người nghệ sĩ tài tử của bộ bài tới ghi nhận và cách điệu sự vật khác hẳn hoàn toàn với người thợ chuyên nghiệp tài tình đã sản sinh ra những trống đồng của mấy ngàn năm trước [9] . Con ba gà và con nhì nghèo, cũng gần với thế giới của nọc đượng, vậy nên sự gợi cảm mang lại cho người xem đều từ bầu khí chung ấy. Phần trên quân bài là một đầu chim, bên dưới là hình ảnh của một mái nhà sàn, từ giữa thân bài, có một đường giải chạy viền lên đến đầu chim, có thể đấy là túp lông từ cổ qua bụng nối liền với đuôi chim được cách điệu như thế. Toàn bộ con nghèo, đầu chim, mình chim, hai nút tròn nhỏ chồng lên nhau nằm ở giữa thân thắt eo lại, thêm vào đấy là phần cái nhà sàn bên dưới ghép vào như một thứ đuôi chim xòe ra, tất cả hợp lại thành hình ảnh một con chim rất kỳ dị giữa những giấc mộng lạ lùng của chúng ta. Con ba gà, cũng gần như con nọc đượng và nhì nghèo nhưng có khác đi một tí. Trong cuộc chơi bài chòi, khi bốc đến con ba gà, anh Hiệu sẽ hô lên hai câu rất vui, lột tả được tất cả tính mèo mả gà đồng của họ gà, se sua chưng diện, áo quần sặc sỡ xinh đẹp, suốt ngày là anh chàng họ Sở ngoài đường phố nhưng tối về cũng chỉ co ro buồn thiu một mình. Mình vàng bận áo mã tiên, Ngày ba bốn vợ tối nằm riêng một mình. Khi bốc được con Nhì nghèo, anh hiệu lại hô lên mấy câu nói về cảnh nghèo, mà lại rất vui, đúng ra đó chỉ là một tiếng cười đùa dí dỏm, vô hại. Mẹ ơi chớ đánh con đau Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ Bắt ốc, ốc nhảy lên bờ Hái rau rau héo, mẹ nhờ chi con. Đến như than vãn thân phận nghèo khổ, thì cũng là lời bông phèng vui vẻ. Ngày thường thiếu áo thiếu cơm Đêm nằm không chiếu lấy rơm làm giường Dù dơi, dép bướm chật đường Màn loan, gối phượng ai thương thằng nghèo. Con Tám giây, cũng gần tựa như hai cặp gióng chồng lên nhau nhưng không có quai xách. Tám giây cũng gọi là tám hột vì nó có tám nút tròn nhỏ cân đối trên hình vẽ của quân bài. Và gọi tám giây có lẽ vì có tám sợi dây hình vòng cung nối tám nút trong quân bài thành hai cặp gióng. Chúng ta hãy xem đến vài con bài thuộc pho vạn gồm chín con từ thất vạn đến cửu vạn. Phong cách khá lạ, chủ yếu trên mỗi quân bài là một mặt người tạo thành bằng những nét rằn rịt, gần với bầu khí chung của loại tranh thờ dân gian nhưng pha nhiều vẻ hoang sơ hơn. Thô kệch, ngô nghê, vụng về nhưng chính vì thế rất hấp dẫn, rất gần với cái đẹp hoang dại nơi các điêu khắc gỗ mộc mạc của Tây Nguyên, của Phi Châu đen hay một số bộ tộc Úc Châu và Mỹ Châu La Tinh. Con cửu thầy tức cửu vạn, cũng gọi là cửu chùa vì vẽ hình một đầu người đội chiếc mũ như các ông thầy cúng, thầy pháp, rất nhiều nơi không có sự phân biệt rõ ràng, là tình trạng nhập nhằng của một số người lợi dụng tiếng kinh mõ ê a, rồi cũng khua chiêng đánh trống, thổi kèn, trộn nhào cả kinh Phật với bùa chú, bắt quyết gọi âm binh, trừ tà ma, để nhận xôi, gà, oản chuối của những gia chủ rước thầy về. Con ngủ trưa tức ngũ vạn, cũng cùng một lối vẽ như con cửu thầy, chỉ đổi khác đi một chút mà thôi. Ngay giữa con bài, hình một người có vẻ như đang ngái ngủ, gật gà gật gưỡng giấc trưa. Hình vẽ này có lẽ cũng mang một chút tinh thần châm biếm trào lộng đối với những kẻ thích ngủ trưa, mang tật chây lười. Con lục xơ tức lục vạn, cũng như các con trên, ở đầu quân bài có chữ xơ, kế tiếp là hai chữ nho lục vạn, kế đến là hình người. Không có gì chắc lắm, nhưng có người đã giải thích rằng sở dĩ có có tên là lục xơ hay lục chuôm vì phía trên đầu hình người có những ô chéo như mảng xơ hay hình nan chuôm. Tất cả chín con trong pho vạn đều có cùng một phong cách, chỉ thay đổi thêm bớt một đôi tí mà thôi. Như con học trò (nhất vạn) thì ở trên đầu nhân vật có đội thêm một cái khăn đóng cho ra vẻ hẳn hoi là con nhà nghiên bút! Anh Hiệu sẽ hô về con học trò: Đi đâu ôm tráp đi hoài, Cử nhân không thấy tú tài cũng không. (Là con học trò) Nghe hô như thế, lại nhìn vào con bài thì người đến giải trí trong cuộc chơi bài chòi sẽ có thể phá lên mà cười như nắc nẻ. Con tứ cẳng cũng gọi là con cẳng hương (tức tứ vạn): cũng như tất cả các con bài thuộc pho vạn nhưng chỉ riêng ở con này là khuôn mặt người không nhìn thẳng mà hơi lệch đi, ở phần dưới có bốn mảnh hình tam giác gần như bốn màng chân vịt xòe ra, có thể vì thế mà gọi là tứ cẳng. Ở Huế, người ta còn gọi là tứ hường. Hường tức là hàm Hồng Lô Tự Khanh của triều đình nhà Nguyễn cũ, kêu tắt lại, như trong các tiếng quan hường, quan thị. Như vậy con bài ở đây cũng mang một nội dung châm biếm trào lộng cay độc, quan hường đã xuất hiện nơi đây với một thể dạng xô lệch rằn rịt, không mang bài ngà mà lại kéo theo bốn cái chân vịt lạch bạch. Xét về mặt kỹ thuật khắc gỗ, nét vẽ đen nổi trên nền trắng, chỗ đậm chỗ nhạt đặt đúng nơi đúng chỗ, phải công nhận là lối cách điệu này tuy giản dị nhưng rất tài, bố cục chặt chẽ, nhuẫn nhuyễn, hấp dẫn. Phải nhớ một điều, nếu là người nghệ sĩ chuyên nghiệp, rất khó mà cống hiến được cho ta một hình tượng như thế, ở đây là nghệ thuật của bản năng, của tài tình tự phát, của tài tử nghiệp dư mà dần dà, vì gần gũi với cuộc sống của đại chúng nên đã nhập vào sâu sắc trong cuộc sống của nhân dân. Những nét nghệ thuật độc đáo của một dòng nghệ thuật tự do như vậy rất đáng cho chúng ta ngày nay phải lưu tâm nghiên cứu và học hỏi. Ba lá bài thuộc ba cặp yêu: ông ầm, thái tử, bạch tuyết, về mặt phong cách tạo hình, có thể xếp luôn vào loại vừa đề cập. Con bạch tuyết, đối lập với con nọc đượng, là quân bài cũng hết sức đáng chú ý. Nọc đượng là biểu tượng của dương vật thì bạch tuyết là biểu tượng của âm vật, là vật tổ Iôni của dân Champa cổ tái hiện trở lại theo một cách khác. Bạch tuyết ở vùng Bình Định gọi là bạch huê, và khi rút được từ trong ống lá bài này giữa một hội chơi bài chòi, anh Hiệu có thể rề rà hát lên một bài thơ lục bát, chữ nghĩa dân dã nhưng cũng pha một chút văn chương bác học, phảng phất chút đỉnh hơi thơ Hồ Xuân Hương: Hoa phi đào phi cúc Sắc phi lục phi hồng Trơ như đá vững như đồng Ai xô không ngã, ngọn gió lồng không xao Mỉa mai cụm liễu cửa đào Ong qua muốn đậu, bướm vào muốn bu Bốn mùa đông hạ xuân thu Khi búp, khi nở, khi xù, khi tươi. Chúa Xuân ngó thấy mỉm cười, Sắc hay vương vấn mấy người tài danh. Có bông, có cuống, không cành Ở trong có nu, bốn vành có tua. Nhà dân cho chí nhà vua Ai ai có của cũng mua để dành. Tử tôn do thử nhi sanh, Bạch huê mỹ hiệu xin phành ra coi. Trong không khí riêng của đất Huế, về con bạch tuyết, anh hiệu lại có thể cất giọng hát lên mấy câu rất dân dã mà vẫn óng ả, cầu kỳ, và kiểu cách: Cần vàng, ống bạc, chỉ tơ Anh móc mồi thơm thả xuống Cá nọ giả lơ không thèm. Cũng vậy, là mấy câu khác nữa: Tiếc con tôm rằn nấu với rau má Tiếc con cá bống thệ nấu với lá cỏ hôi Tiếc công em trang điểm phấn dồi Ra lấy chồng không đặng cân đôi cũng buồn. Chúng ta hãy xem qua hình vẽ trên quân bài này. Hình tượng trông tựa như hai nhánh lá hoặc hai nhánh rong, nhánh ở trên là nét đen nổi bật trên nền trắng, nhánh dưới là nét trắng nổi bật trên nền đen. Nhánh lá rất có thể là một nhành liễu vẫn tượng trưng cho người phụ nữ, nhưng theo ý tôi, đấy là âm vật được cách điệu một cách bay bướm, nhẹ nhàng, do thế đã tránh được cái nặng nề phải mô tả đối tượng theo lối chính xác. Về mặt kỹ thuật, với nét đen và trắng của hai nhánh lá ở đây, tuy rất giản dị nhưng đã tỏ ra biết đào sâu vào phương thức tạo hình của nghệ thuật mộc bản dân tộc, biết khắc hoạ những nét đen, biết đục sâu vào nền gỗ để tạo những nét trắng, gây nên tương phản về sắc độ rất hấp dẫn. Con thái tử vẽ hình người mang hia, đội mão ra vẻ con nhà vua, người được chỉ định sẽ nối nghiệp cha trị vì đất nước. Hình vẽ giản lược phần thân mình, chỉ còn là một hình vuông giữa một khối bầu dục có những nét rằn rịt, hình vuông chứa những chấm đen nhỏ chạy thành hàng đều đặn. Hình vẽ nặng tính cách biểu tượng với thể dạng cái mão và đôi hia, lộ ra ngay dáng dấp áo mão cân đai. Phía trên đầu nhân vật, một mảnh son đỏ hình hơi tròn in chồng lên đấy như một dấu triện. Sự tham dự của màu đỏ son ấy cũng tìm thấy trên con đỏ mỏ tức con ác, con ma trùng, và đặc biệt nhất là trên con ầm tức con sấm, người ta in chồng lên các nét vẽ đen một lớp son đỏ phủ lấy toàn thể quân bài như vẫn thấy trên các đạo bùa, những nét vẽ đen, đỏ, ngoằn ngoèo chồng chéo lên nhau. Nhắc đến con ầm tức con sấm, có lẽ chúng ta cũng nên nhớ lại hai câu hát bài chòi khá vui mà anh hiệu có thể sẽ hô lên khi rút đến thẻ bài này. Chỉ cần một tiếng ầm âm vang để mọi người dự cuộc chơi biết ngay là đã bốc trúng con Am, chứ chẳng cần tiếng ầm ấy liên hệ gì với cái nghĩa tiếng sấm ầm ầm, giữa bầu trời đầy mây tối hay mưa gió bão bùng mù mịt. Nửa đêm gà gáy le te Muốn đi rón rén đụng nghe cái ầm. (Ông Am!) Chúng ta vừa xem qua một số hình tượng lạ lùng trên các quân bài tới. Với các hình ảnh ấy, với những ý nghĩa ấy, có lẽ chúng ta phải thừa nhận rằng chúng hết sức lạ lùng, hấp dẫn, đặc sắc. Từ hình vẽ cho đến tên gọi, đều là quá đỗi kỳ lạ. Ở nơi đây, tất cả đều tan biến,chỉ còn lại tiếng cười đùa dí dỏm, thoải mái, nghịch ngợm của nhân dân. Chúng ta thấy những hình ảnh con gà nằm cạnh ông Thái tử, đôi gióng đứng bên ông ầm, con voi chơi đùa với ông thầy chùa, anh học trò, anh chàng ngủ trưa, con nọc đượng cũng như con bạch huê đuề huề với một quan hường (cẳng hương). Dưới những triều đại phong kiến cũ, tiếng cười dòn dã và hồn nhiên ấy tất nhiên còn phải được lý giải trên cả những nhịp điệu của đời sống chính trị, đó cũng là một thứ vũ khí, dù tiêu cực và có thể là vô thức, để đấu tranh chống bạo lực và cường quyền thống trị. Về mặt nghệ thuật tạo hình là điều cốt yếu mà bài viết này nhằm đạt đến, bộ bài tới chắc chắn sẽ có nhiều đóng góp hữu ích, phong phú đối với kho tàng nghệ thuật đất nước. Các nghệ sĩ hiện đại chắc chắn sẽ tìm được ở đây nhiều điều rất mới mẻ. Và hẳn rằng các nhà dân tộc học, khảo cổ học cũng sẽ còn nhiều vướng bận ở đây. Viết ở Sài Gòn năm 1985 Sửa chữa lại ở California, 2005. [1] Về bài chòi, xem thêm: “Khảo về bài chòi”, Võ Phiến, Tân Văn, số 1 tháng 4, 1968 “Bài chòi ở Bình Định”, Tạ Chí Đại Trường, Sử Địa số 5, tháng 1, 2, 3, 1967. “Những hội mùa Xuân”, Nguyễn Văn Xuân, Tân Văn, số 9, 10, tháng 1, 2, 1969. Nước non Bình Định, Quách Tấn, Nam Cường xuất bản, Sài Gòn, 1967. “Phong thổ Huế” trong Lược khảo về mỹ thuật Việt Nam, Từ Lâm Nguyễn Xuân Nghị, Quốc Học thư xã, Hà Nội 1942. Đào Đức Chương,“Bài Chòi Bình Định”, Giai phẩm Tây Sơn Xuân CanhThìn2000 http://chimviet.free.fr/dantochoc/baichoi/baichoi1.htm (18 tháng 4, 2005). Cũng xin xem thêm Connaissance du Việt Nam, Pierre Huard và Maurice Durand, Ecole Francaise d’Extrême-Orient xb, trang 224-226, Hà Nội, 1954, viết về Tổ tôm Điếm, cũng là một loại bài chòi nhưng có vẻ sang trọng hơn. Nhân đây, chúng tôi trích in lại bản vẽ về Tổ tôm Điếm trên đất Bắc ngày trước, từ sách Connaissance du Việt-Nam. Cạnh đó, chúng tôi cũng trích in hình vẽ cảnh bốn người chơi bài tam cúc, chẳng khác mấy với cảnh tượng một đám chơi bài tới, tuy nhiên chơi bài tới đòi phải có 6 tay, để chúng ta có thể sống lại phần nào một khía cạnh sinh hoạt của đất nước ngày xưa. [2] Về sau này, ở vài nơi sản xuất bài tới, người ta còn xoá hết tất cả phần chữ viết, bất kể Nôm, Hán, Quốc ngữ, hoặc chỉ còn giữ lại vài chữ mà thôi trên toàn thể các con bài. Ví dụ, đó là bộ bài tới do ông Đoàn Việt Hùng sưu tầm được ở thôn Phú Ấn, xã Hoà An, huyện Phú Hoà, tỉnh Phú Yên, in đính kèm bài viết “Ngày Tết đánh bài chòi” của Trần Sĩ Huệ trên tạp chí Xưa và nay của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Xuân Quý Mùi, TP Hồ Chí Minh, số 132-133, tháng 1-2, 2003, trang 62-64. Xoá hết chữ thì không nói làm gì, nhưng đáng tiếc là hình vẽ trên các quân bài giản lược rất cẩu thả, khờ khạo, hoặc vẽ thay vào bằng một hình ảnh khác, không còn chút gì cái đẹp dân dã mạnh khỏe, kỳ lạ và đầy tính sáng tạo của các hình tượng trên bộ bài tới xưa nay nữa. Tuy nhiên, về chuyện này thì chúng ta có thể yên tâm phần nào, vì cách đây khoảng 20 năm, chúng tôi có nhìn thấy trong bộ sưu tập của Viện Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội một bộ bài tới rất đẹp. Không những thế, các hình vẽ của từng quân bài còn được phóng lớn cỡ bàn tay và in trên giấy dó rất hấp dẫn. Vết tích này còn được giữ gìn như vậy, có lẽ nhờ ở sự lưu tâm đặc biệt của ông Nguyễn Văn Y thuở còn sinh thời, lúc bấy giờ đang đảm trách chức vụ giám đốc của Nhà Bảo tàng. Ông Nguyễn là một nhà nghiên cứu mỹ thuật, hoạ sĩ mà cũng là nhà tạo hình về gốm rất đặc sắc. Nhắc lại sự kiện này cũng là dịp để chúng ta tưởng nhớ và bày tỏ đôi chút lòng biết ơn đối với một con người tâm huyết trước sự nghiệp văn hoá nghệ thuật của đất nước. [3] Bài vè này chúng tôi ghi chép lại được ở Huế. Trong Thi ca bình dân Việt Nam của Nguyễn Tấn Long và Phan Canh, Nxb Sống Mới, Sài Gòn, 1971, ở trang 391, bài vè có khác một đôi chữ. Và trong Tự điển thành ngữ điển tích của Diên Hương, bản chụp in lại của Nxb Zieleks ở Houston Texas, năm 1981, cũng vậy, lại có khác một số chữ nữa, như vậy rõ ràng là do tam sao thất bổn, hoặc có thể vì đã biến đổi dần do giọng phát âm của từng địa phương chăng? [4] Con bài: Tiếng miền Trung, ở miền Bắc gọi là quân bài. [5] Võ Phiến, “Khảo về bài chòi”, bài đã dẫn, trang 5. [6] Bình Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Xuân Thu tái bản ở Hoa Kỳ, chụp lại bản in ở Sài Gòn năm 1971, trang 387. [7] Trích dẫn theo Việt Nam tự điển, hội Khai Trí Tiến Đức, Nxb Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội, 1931, Mặc Lâm tái bản ở Sài Gòn, không ghi năm xb, trang 162. [8] Đại Nam quấc âm tự vị, Huình Tịnh Paulus Của, bản chụp in lại của Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1974, trang 503. [9] Từ hình dáng mái nhà sàn trên con nọc đượng hay nhì nghèo, biến dạng hơn một chút là con ba gà, biến dạng nhiều hơn nữa là các con bảy sưa, năm giày, đỏ mỏ, chúng ta đang đứng trước một đề tài khá lớn vô cùng thích thú trong lĩnh vực dân tộc học và cả mỹ học, khi đối chiếu với nhiều vết tích về nhà sàn trên suốt vùng Đông Nam Á và hải đảo, chưa kể đến những mái nhà sàn khác xa xôi hơn bên kia nửa trái đất. Trong chừng mực của bài viết này, chúng ta không thể đi xa hơn được. Đề nghị xem thêm: “Tìm hiểu Nhà Đông Sơn qua ngôi nhà cổ của người Toradja (Indonesia)”, Tạ Đức, Khảo sổ học số 1, 1987. Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Vinh, Viện Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam xuất bản, 1975. Introduction à l’Etude de l’habitation sur pilotis dans L’Asie du Sud-Est. Nguyễn Văn Huyên, Librairie Orientaliste, Paul Geuthner, Paris, 1934. The Art of East Asia, Gabriele Fahr-Becker (Ed.), Volume 1, Konemann Verlagsgesellschaft mbH, An bản tiếng Anh, Oldenburg, Germany, 1999. Phần viết về Nam Dương của Sri Kuhnt-Saptodewo, “Indonesia, Architecture and Symbolism”, p.p 312-324. Nguồn: xuquang.com
-
.............. Bí ẩn bộ bài Tổ Tôm, hay mối quan hệ Nhật - Việt chưa có giải đáp Có một chuyện cũng lạ, liên quan tới cả Nhật và Việt, đó là bộ bài Tổ Tôm. Bài Tổ Tôm thì nhiều người miền Bắc và một số người trí thức Việt Nam hay chơi, nên cũng đã biết. Bộ bài gồm 120 lá, có 30 hình vẽ, chia đều mỗi hình vẽ 4 lá, đặc biệt có 7 hình vẽ có thêm dấu đỏ... Lối chơi Tổ Tôm cần bốn người, có nhiều nước, khá cao. Người không quen có thể chơi theo kiểu Ðánh Chắn (bỏ bớt hàng nhất) cần năm người hoặc đếm số như "xì dách (tối đa 21 nút tức điểm, black jack)" của bài Tây gọi là Ðánh Bất (tối đa 11 nút) thì mấy người chơi cũng được. Những người mới chơi, không đọc được số bằng chữ Hán thì nhờ người biết đọc viết số bằng La Tinh trên lá bài. Lạ ở chỗ là bộ bài này chỉ có người Việt chơi, người Nhật không chơi, người Hoa cũng không chơi (trừ một số ít Hoa Kiều ở Việt Nam). Nhưng những chữ viết trên lá bài là một loại chữ Hán (Kanji) kiểu cách, hơi giống Lệ Thư (Reisho) với nét cứng mạnh, gồm có bốn loại chữ là "văn, vạn, sách, thang, không biết có liên hệ gì với mạt chược, tiếng Nhật gọi là "majan" (ma tước) không? Còn các hình vẽ đều là hình vẽ của Nhật, có lẽ gốc là một lối tranh mộc bản (mokuhan, học từ Trung Hoa nhưng trở thành đỉnh cao mỹ thuật độc đáo của Nhật) đơn giản và nay thường do người Hoa in ra bán. Ðặc trưng Nhật Bản rõ rệt nhất là tất cả các nhân vật đều mặc "Kimono" (Trước Vật) thời Edo (Giang Hộ), trong số này có 18 hình đàn ông (có 8 người bó chân), 4 hình phụ nữ và 4 hình trẻ em. Các hình cá chép (koi, lý), trái đào (momo), thành (shiro), thuyền (fune) cũng là những hình ảnh Nhật. Tới nay, đã có một vài người nêu vấn đề xuất xứ của bộ bài từ đâu, lưu lạc thế nào mà để lại một dấu tích "bí ẩn" như vậy. Nếu ai biết xin lên tiếng hộ. Phần trên được chúng tôi chính thức đưa lên nguyệt san Mekong số 53, tháng 11/1999. Trong khi báo còn đang in, thì ngày 1/11/1999, tình cờ xem TV đài NHK băng tần số 3, thấy Giáo Sư Yumio Sakurai (Anh Tĩnh Do Cung Hùng) thuộc Ðại Học Todai (Ðông Kinh Ðại Học) trình bày trong chương trình (Rekishi De Miru Sekai, Thế Giới Nhìn Bằng Lịch Sử) cũng đã đề cập đến "bí ẩn" của bộ bài Tổ Tôm. Chúng tôi liên liên lạc hỏi thăm, thì được biết: - Ông Nguyễn Văn Vĩnh đã đề cập tới vấn đề này trong "Le To Tom, L'Annam Nouveau", 1932, vol. 125 - vol 143. - Giáo Sư Kim Vĩnh Kiện (có lẽ là một người gốc Triều Tiên) biết đến Tổ Tôm qua cuốn trên và lần đầu tiên đề cập tới ở Nhật trong cuốn (Ấn Ðộ Chi Na - Nhật Bản Quan Hệ tức Quan Hệ Nhật Bản Và Ðông Nam Á) do nhà xuất bản Fuzanbo (Phú Sơn Phòng), Ðông Kinh, năm 1943). Giáo Sư đã cố gắng tra tìm nhưng không biết gì hơn chắc chắn đó là những hình phong tục Nhật. - Giáo Sư Yumio Sakurai đã giới thiệu trong cuốn "Nihon No Kinsei 1, Nhật Bản Cận Thế, tập 1" do nhà xuất bản Chuo Koron Sha, Trung Ương Công Luận Xã, xuất bản năm 1992. Theo Giáo Sư, loại chữ ghi trên đó cũng lạ, không hẳn là chữ Hán bình thường, một số chữ có thể là chữ Nôm? Thực ra, tất cả chỉ là chữ Hán viết kiểu cách đi thôi. Chúng tôi có đưa cho một số người Nhật đọc thử, họ đọc không được hoặc vừa đọc vừa đoán. Ðặc biệt lá bài "nhất thang" (chữ nhất viết theo lối cổ) có hình bà mẹ cho con bú, nét viết rất lạ (bộ ba chấm thủy viết thành hình số 8, chữ nhất dạng cổ cũng khó nhận ra) thì hầu như không ai đọc được. Thêm một điểm cũng lạ là người Việt chơi bài và cờ hầu như không biết chữ Hán, nhưng nhận diện quân Cờ Tướng, Mạt Chược và quân bài Tam Cúc hay Tổ Tôm viết bằng chữ Hán thì không sai. Cửa tiệm Mekong Center chúng tôi ở Nhật Bán thường bán bài Tổ Tôm cho người Việt (thanh niên miền Bắc) và cho người Nhật, họ không biết chơi, nhưng mua để nghiên cứu tìm hiểu nguồn gốc. (trích nguồn: http://www.vysa.jp) Tư liệu từ Phoenix.
-
TIẾP THEO Giải pháp nào chống sụt lún? Trao đổi với Thanh Niên, tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn - Giám đốc SHE cho biết: "Nếu phải di dời hàng triệu người dân ở ĐBSH để khai thác than thì nên quên đi dự án này. Chúng tôi sẽ khai thác than ngầm dưới lòng đất, chỉ sử dụng một diện tích nhỏ đất nông nghiệp để làm nhà xưởng, đào giếng khai thác. Dù ở dưới khai thác than, ở trên bà con vẫn cấy lúa, sinh hoạt bình thường”. * Thưa ông, ngày 23.9, tại Bộ Công thương, Hội đồng thẩm định đã đánh giá như thế nào về đề án này? - Hội đồng thẩm định đã đánh giá đây là đề án công phu, nhiều thông tin có giá trị. Chúng tôi được biết, cơ quan quản lý nhà nước sẽ có báo cáo xin ý kiến của Chính phủ về việc cho phép làm các dự án thí điểm. * Nhiều nhà khoa học cho rằng thách thức lớn nhất với dự án này là chống sụt lún, chống nước tràn vào khu mỏ? - Để chống sụt lún, chúng tôi sẽ áp dụng biện pháp bù cát, phù sa vào khoảng không đã khai thác; để lại các trụ bảo vệ vĩnh cửu cùng nhiều giải pháp khác. Quan điểm chung của chúng tôi là phải giữ lại tầng đất từ bề mặt đến độ sâu -150m. Đây là tầng đất cần được bảo vệ. Khi tầng đất từ -150m lên phía trên được bảo vệ tốt, sẽ tránh được nguy cơ sụt lún, nước tràn vào hầm lò. * Trước mắt, 4 dự án thử nghiệm (trên diện tích 600 ha) sẽ ảnh hưởng như thế nào đến đời sống người dân ? - Chúng tôi đã tính toán những phương án tốt nhất để tiến hành thử nghiệm nhằm đảm bảo an toàn, ổn định đời sống cho người dân. Tác động của các dự án thử nghiệm sẽ được theo dõi thường xuyên để có các biện pháp xử lý kịp thời. * Nếu trong quá trình triển khai các dự án thử nghiệm gặp phải vấn đề kỹ thuật không giải quyết được thì sao? - Đây là dự án lớn, có tầm quan trọng đặc biệt, do đó tiêu chí đầu tiên là đảm bảo an toàn cho người dân. Nếu việc thử nghiệm gặp các vấn đề phức tạp không thể giải quyết được, chúng tôi sẽ phải dừng dự án và thế hệ mai sau sẽ tiếp tục nghiên cứu, khai thác. * Trường hợp dự án thử nghiệm thành công, theo ông, chúng ta có thể lấy lên khoảng bao nhiêu tấn trong tổng số hơn 210 tỉ tấn than theo dự báo? - Theo tôi, khai thác được khoảng hơn 35 tỉ tấn đã là thành công. Nếu mỗi năm khai thác 10 triệu tấn thì việc khai thác sẽ diễn ra trong 350 năm. Lượng than này sẽ giúp giải quyết vấn đề an ninh năng lượng của đất nước. Thanh Phong (thực hiện) Káp Thành Long Lời bàn của Thiên Sứ: Tôi cảm giác rằng: Người ta đã định hướng phản biện theo mục tiêu: Làm thế nào để khai thác tốt nhất than ở đồng bằng sông Hồng và không đặt vấn đề: Có nên khai thác hay không? Tại sao không có những công trình nghiên cứu làm sao quản lý tốt nhất những mỏ than đã khai thác, mà chỉ là tiếp tục khai thác mới có hiệu quả nhất đối với môi trường?