-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Tính khoa học trong Phong thuỷ và kiến trúc hiện đại Kiến trúc sư Phạm Cương Trưởng Văn phòng đại diện Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương tại Hanoi. Trong đời sống xã hội ngày nay có một xu hướng ngày càng nở rộ đó là là sự ứng dụng của Phong thuỷ trong mọi lĩnh vực liên quan đến xây dựng và kiến trúc. Từ việc xây dựng nhà cửa, tu tạo lăng mộ cho đến xây dựng các xưởng sản xuất và các cơ quan hành chính. Xu hướng này phải chăng là một sự tất yếu khi mà xã hội bắt đầu có sự sung túc thịnh vượng nên người ta đã rộng rãi nghĩ đến bắt chước người xưa? Hay chính tính hiệu quả của phong thuỷ được ứng dụng gần như suốt chiều dài của lịch sử văn minh Đông phương và ngày nay đã được khoa học coi như một đối tượng nghiên cứu? Vậy thực ra phong thuỷ là gì? Và nó có mối liên hệ thế nào với kiến trúc hiện đại mà lại được quan tâm như vậy. Bài viết này không có tham vọng khám phá sâu vào những vấn đề định lượng và bản chất của phong thuỷ mà chỉ xin được đưa ra những kiến giải riêng về vấn đề này qua sự so sánh những quan niệm trong ứng dụng của phong thuỷ với kiến trúc hiện đại. Thời gian gần đây, trào lưu ứng dụng Phong thuỷ trong các thiết kế về nhà ở dân dụng cũng như các cơ sở sản xuất kinh doanh v.v dường như là một xu hướng rất thịnh hành. Mặc dù vậy, có thể nói đại bộ phận dân chúng tuy ứng dụng phong thuỷ nhưng vẫn chưa hiểu hết giá trị thực của bộ môn này. Dường như họ vẫn tin vào nó như một thứ quyền năng huyền bí, hoặc như một thứ tôn giáo cao cả nào đó, số ít hiểu biết hơn thì coi đây như một liều Placebo diệu kì trong y học, một phần nhỏ hơn thì biết được tính ứng dụng khoa học của bộ môn này, nhưng số đông vẫn là những hiểu biết còn lệch lạc và chưa thấu đáo. I - Vậy thực ra Phong thuỷ là gì? Theo từ điển Hán Việt thì Phong là gió, thuỷ là nước. Phần lớn chỉ quan niệm đơn giản cho rằng: phong thuỷ là một khoa chuyên nguyên cứu về quan hệ giữa gió và nước và ảnh hưởng của nó đối với đời sống con người. Nhưng nếu chỉ hiểu như vậy thì quả là chưa đánh giá đúng cái chân giá trị và vai trò của Phong thuỷ trong đời sống con người! Lịch sử hình thành các dân tộc phương Đông có khoảng trên dưới năm ngàn năm thì cũng gần hết chiều dài lịch sử đó đã thấy có sự xuất hiện của Khoa Phong Thuỷ. Những văn bản cổ xưa nhất đã ghi dấu lại bằng giáp cốt văn (chữ nòng nọc – Khoa đẩu) sau khi giải mã đã cho thấy rõ điều này. Các thành ngữ trong dân gian như : “Chọn đất mà ở” (trạch địa nhi cư), “Gần nước hướng về mặt trời” (cận thuỷ hướng dương) cho thấy các quan niệm chọn đất có phương pháp đã phổ biến rộng rãi trong tư tưởng mọi người. Điều này chỉ ra rằng: đã có một hệ thống tư tưởng định hướng cho dân cư cổ đại trong việc chọn địa bàn sinh sống khi thòi kì quần cư bắt đầu. Dấu vết này cũng có thể nhận thấy trong Kinh Thi là tập hợp ca dao tục ngữ cổ. Những sách vở được coi là vào thời kì Thương, Chu các địa danh đã có sự phân định khá chi tiết như đồi, núi, gò, đống chỉ những khu vực địa hình cao so với sông, suối, lạch, ngòi là những từ để mô tả những khu vực thấp trũng mang nước. Chứng tỏ con người thời kì này đã ý thức rất rõ về sự khác biệt giữa hình thể và tác dụng của nó ảnh hưởng thế nào đối với con người. Ngoài ra, truyền thuyết sử sách khi nói về sự kiện xe chỉ hưóng Nam có từ thời thượng cổ, cũng chỉ ra được thành tựu của con ngưòi trong việc định phương hướng địa bàn. Truyền thống ứng dụng phong thủy của nền văn hiến Việt cũng được nhắc nhở tới từ thời Hùng Vương dựng nước: Trong những câu chuyện truyền miệng của các cụ già ở đất Phong châu xưa, sự kiện Vua Hùng tìm đất đóng đô dựng nước vẫn luôn được nhắc đến với đầy lòng trân trọng và sự tự hào, Nhà nghiên cứu Phan Kế Bính cũng đã sưu tầm và biên soạn truyền thuyết này vào trong cuốn Nghìn xưa văn hiến do nhà xuất bản Thanh niên phát hành năm 1999. Như vậy có thể nói Phong thuỷ tồn tại song hành với lịch sử phát triển trải hàng nghìn năm. Tính hiệu quả của phong thủy trong xã hội Đơng phương là không thể phủ nhận. Phong thuỷ đã có những đóng góp không nhỏ trong sự phát triển của các quốc gia Phương Đông, có tính tích cực như góp phần hoạch định những khu Kinh thành sầm uất náo nhiệt, kiến tạo nên những cung điện nguy nga, khiến Tây phương cũng phải ngưỡng mộ. Nhưng trong một số không ít các trường hợp do cách giải thích của những người làm nghề phong thủy vì mục đích vụ lợi hay do thiếu hiểu biết, khiến Phong thuỷ được hiểu như là một môn khoa học thần bí và bị ngộ nhận là bùa mê, thuốc lú làm tiền người dân, mê muôi một bộ phận dân chúng, gây những nghi ngờ không đáng có đối với bộ môn này. Đã có thời gian Phong thuỷ được đánh đồng với tôn giáo. Thậm chí bị coi là nhảm nhí, là mê tín dị đoan cũng chính do cách giải thích thiếu hiểu biết của chính các thầy Phong thuỷ, muốn thần thánh hoá, làm thần bí phức tạp thêm trong con mắt của gia chủ nhằm trục lợi cho bản thân. Trong bài viết này người viết xin đưa ra những luận điểm của mình với hy vọng đóng góp vào việc đưa môn Phong thuỷ dưới góc độ khoa học nhằm tránh sự hiểu nhầm sai lạc dễ đánh đồng một môn Khoa học cổ truyền với tôn giáo hay với mê tín dị đoan. Ngày nay, phong thuỷ đã được coi là một đối tượng nghiên cứu khoa học. Nhiều nước tiên tiến trên thế giới đã có những cơ quan nghiên cứu về phong thuỷ. Là một người nghiên cứu về phong thủy và là một nhà kiến trúc, tôi nhận thấy rằng: Nếu chúng ta loại bỏ những cách giải thích rời rạc, bí ẩn về những khái niệm trong phong thuỷ thì những phương pháp ứng dụng trên thực tế của phong thuỷ hoàn toàn mang tính khách quan, tính quy luật, tính hệ thống nhất quán và khả năng tiên tri. Đấy là những yếu tố thoá mãn tiêu chí khoa học cho một phương pháp khoa học. Căn cứ vào những tiêu chí này, chúng tôi có thể khẳng định rằng: Phong thuỷ là một phương pháp khoa hoc, hoàn toàn không mang tính tín ngưỡng hoặc mê tín dị đoan. Phong thuỷ là hệ quả của một tri thức nghiên cứu về các qui luật tương tác của thiên nhiên, môi trường cảnh quan và là phương pháp thay đổi chỉnh sửa những hiệu ứng tương tác của môi trường lên cuộc sống của con người. Vấn đề còn lại là chúng ta cần phải tiếp tục coi phong thuỷ như là một đối tượng khoa học để khám phá những thực tại được thể hiện qua những khái niệm ngôn ngữ cổ trong phương pháp luận của phong thuỷ. II – So sánh những tương đồng của Phong thuỷ với kiến trúc hiện đại. A) Quan niệm cân bằng Âm Dương trong phong thuỷ và tính hài hoà trong kiến trúc hiện đại. Trước đây có người đặt vấn đề rằng: Liệu có hay không tồn tại một Khoa Phong thuỷ ở Tây Phương hay một câu hỏi cụ thể hơn là: Các công trình Pháp trên Việt Nam đã tồn tại cả trăm năm nay, liệu có sử dụng giải pháp gì về Phong thuỷ không mà lại tồn tại dài lâu đến vậy? Trước hết xin đưa ra quan điểm của nguời viết dưới góc độ một người được đào tạo chuyên môn về kiến trúc, là: Để một công trình kiến trúc có thể tồn tại trong một khoảng thời gian dài hàng trăm năm ấy nó phải đạt đựơc ít nhất là hai yếu tố: * Thứ nhất là về tính thẩm mĩ của công trình; * Thứ hai là nó phải đạt về mặt hợp lí trong công năng sử dụng. Hay nói ngắn gọn là nó phải đẹp và hài hoà thì nó mới tồn tại lâu dài và thứ hai là phải hợp lý trong quá trình sử dụng thì nó mới được người đời trân trọng gìn giữ và không bị đập đi thay thế bằng công trình khác. Đứng dưới góc độ Phong thuỷ mà nói thì khi mà công trình kiến trúc tồn tại được trong một thời gian dài thì các yếu tố về cân bằng Âm dương và ngũ hành phải đạt đến mức độ chuẩn mực. Tức là nó phải bao hàm cả yếu tố thẩm mỹ và tính hài hoà cân đối. Khi các yếu tố về Âm dương và ngũ hành cân bằng – tức là tính thẩm mỹ, tính hài hoà và cân đối cao - thì tự bản thân công trình sẽ có tác động tích cực đến ý thức con người, khiến ngưòi ta có những ý nghĩ trân trọng và có ý nghĩ bảo tồn nó. Nói cụ thể hơn như chúng ta cũng biết trong ngôn ngữ tạo hình kiến trúc, sự phối hợp giữa các mảng đối lập tạo nên tính thẩm mĩ công trình (về màu sắc, kiểu dáng, chất liệu). Trong cân bằng có yếu tố cân bằng động và cân bằng tĩnh, nhưng chung qui vẫn cần có sự cân bằng. Để có được sự cân bằng này thì việc điều chỉnh các mảng đối lập nhau như mảng đặc đối với mảng rỗng, phần gồ ghề với phần phẳng nhẵn, miếng có kính đối với phần thịt còn lại, phần diện tích sân vườn và phần diện tích công trình phải tìm được sự hài hoà nghĩa là đạt được những tỉ lệ chuẩn mực. Những yếu tố cần về sự hài hoà trong kiến trúc hiện đại trên đây cũng chính là quan niệm của phong thuỷ với khái niệm hài hoà Âm Dương và tính tương sinh của Ngũ hành. Cân bằng Âm dương, Ngũ hành trong lý học Đông phương ngoài sự ứng dụng trong phong thuỷ, chúng ta cũng có thể thấy quan niệm này khi tới Đông y. Thuyết Âm Dương Ngũ hành ứng dụng trong Đông y quan niệm rằng: Khi con người được trạng thái cân bằng Âm Dương, Ngũ hành điều hoà thì sức khoẻ dồi dào, tâm sinh lý ổn định. Chỉ khi nào mà âm dương phân tán, Ngũ hành tạp loạn đưa đến mất cân bằng sinh học thì sẽ nảy sinh tật bệnh khi đó mới cần đến sự điều chỉnh lại của bác sĩ. Như vậy, chúng ta thấy rằng: Quan niệm cân bằng Âm Dương, Ngũ hành hài hoà chính là một quan niệm phổ biến của thuyết Âm Dương Ngũ hành và cũng ứng dụng trong phong thuỷ. Dưới đây là hình một công trình kiến trúc Tây phương có sự cân bằng và hài hoà Âm Dương theo cái nhìn của phong thuỷ Đông phương. Reduced: 62% of original size [ 1024 x 768 ] - Click to view full image Reduced: 62% of original size [ 1024 x 768 ] - Click to view full image B, Tỷ lệ vàng trong nghệ thuật và kiến trúc phương Tây và khái niệm tỷ lệ “Tường minh” trong phong thuỷ Đông phương. Trong các ngành nghệ thuật tạo hình nói chung và trong nghệ thuật Kiến trúc nói riêng tồn tại những con số, những tỷ lệ được coi là chuẩn mực. Con số và tỷ lệ này được tìm thấy qua quá trình lao động và đúc kết bằng kinh nghiệm khi quan sát và chọn lọc từ giới tự nhiên. Khi đem các con số, các tỷ lệ này vào ứng dụng trong các tác phẩm về nghệ thuật, các công trình kiến trúc thì luôn tạo được hiệu quả thẩm mỹ tuyệt vời. Tỷ lệ vàng ra đời từ đó. Trong phương pháp ứng dụng của Huyền không ta cũng tìm thấy có những sự liên hệ tương ứng . Khi quán xét 16 cách cục trong Huyền không, Ta nhận thấy trong bảng này gồm 17 cung cát và 28 cung hung và bán hung. Kết hợp với tỉ lệ “Tam phần nhân định Thất phần thiên”, được hình chữ nhật với tỷ lệ tương đương 28/17, 3 = 1,618. Đây chính là tỷ lệ vàng trong kiến trúc Phương Tây mà trong Phong Thuỷ Phương Đông gọi tỷ lệ cân bằng này là tỷ lệ “Tường minh”. Reduced: 62% of original size [ 1024 x 651 ] - Click to view full image Reduced: 62% of original size [ 1024 x 651 ] - Click to view full image C) Quan niệm về vận động của khí trong phong thuỷ và cấu trúc nhà ở hiện đại. Ngoài ra sự vận hành trơn tru của dây chuyền công năng tạo nên sự hợp lý của một công trình kiến trúc, cũng chính là sự vận động của dòng khí trong Phong thuỷ. Quan niệm của phong thuỷ cho rằng: khi dòng khí vận động không có sự hỗn loạn. Tức là sự bố trí hợp dây chuyền, sản xuất, hoặc cấu trúc bên trong ngôi nhà trong không bị chồng chéo, phức tạp thì công trình đó sẽ ổn định lâu dài. Hay nói cách khác một công trình không hợp lý về mặt công năng, không chóng thì chầy sẽ phải cải tạo lại, Quan niệm của Phong thuỷ cho rằng: khi các dòng khí chuyển dịch hỗn loạn thì tác động không tốt đối với chủ thể công trình. nếu cá nhân chủ thể công trình có nhận thức được điều này sẽ tự khắc điều chỉnh lại (tức là cải tạo sửa chữa), nếu không thì chính sự bất thường này sẽ tạo bất lợi tới chủ nhân công trình đó, nếu là cơ sở sản xuất kinh doanh thì sẽ thua thiệt, phá sản và rồi dễ bị các cá nhân khác thâu tóm dẫn đến sự thay đổi công trình. Thực ra trong khi Phong thuỷ cổ truyền tồn tại cả ngàn năm trên vùng đất Phương Đông bị coi là huyền bí thì ở bên trời Tây các ngành khoa học nghiên cứu về mối quan hệ giữa công trình, tự nhiên, thiên nhiên và con người cũng tồn tại trong khoảng đó. Các dân tộc trên bán đảo Ban căng cả ngàn năm xưa cũng đề cao các yếu tố gió nước tác động đến con người qua các nghiên cứu của Hipocrat Olimpia, Acrantit..vv.... rồi cả người Ai cập cổ đại khi xây dựng Kim tự tháp bằng đã cũng dựa nào từ trường của trái đất để hoạch định trong xây dựng. cả. Trong Kiến trúc hiện đại ngày nay có một bộ môn nghiên cứu mà về cách thức vận hành và ứng dụng cũng có những điểm tương đồng với các phương pháp ứng dụng trong Phong thuỷ cổ truyền. Ví dụ như chúng ta có thể so sánh tính tương đồng trong môn Vật lí kiến trúc là một bộ môn nghiên cứu về ảnh hưởng tương tác của các yếu tố vật lí môi trường với con người và công trình và một bên là yếu tố ảnh hưởng cuả cảnh quan theo phương pháp Loan đầu Hình lý khí trong Phong thuỷ. Cụ thể là Vật lí Kiến trúc trong nghiên cứu về sự phân bổ của gió tự nhiên trong phòng thì đưa ra những qui luật là không tạo các cửa đối nhau trong phòng, kể cả khi cửa sổ đối diện với cửa phòng. Lí do là khi các cửa đối nhau này hình thành thì đễ tạo các luồng gió xuyên phòng đột ngột không có lợi cho người ở, thứ hai là sự lưu thông không khí trong phòng kém dễ tạo môi trường thuận lợi cho các loại vi khuẩn yếm khí hoạt động, điều này không tốt cho sức khoẻ con người. Chúng ta có thể nhận thấy điều này qua hình minh hoạ dưới đây trong vật lý kiến trúc. Reduced: 64% of original size [ 986 x 666 ] - Click to view full image Reduced: 64% of original size [ 986 x 666 ] - Click to view full image Trong quan niệm của yếu tố Cấu trúc hình thể - Dương trạch - thì sự vận hành của dòng khí được rất xem trọng và cũng không chấp nhận sự đối môn của các cửa thông nhau. Giả dụ như nếu gặp ba cửa liên tiếp thì các phong thuỷ gia kinh nghiêm sẽ lập tức chuyển cửa thứ ba sang một bên, hoặc sử dụng bình phong để thay đổi sự vận hành của dòng khí theo quan niệm phong thuỷ. Quan niệm phong thuỷ cho rằng: Khi dòng khí quá mạnh có thể biến thành xung sát khí. Bên cạnh đó trong môn này cũng rất chú trọng tìm cửa thoát khí sau khi đã tìm được cửa nạp khí quan trong, nhằm tránh hiện tượng bế khí có thể gây những trục trặc về sau này cho gia chủ. Đó chính là những điểm tương đồng của Cấu trúc hình thể trong phong thuỷ với Vật lí Kiến trúc. Nhưng bên cạnh đó thì phong thuỷ còn chú trọng cả việc tìm cửa với sự tương quan của cửa đối với khu trung tâm Thái cực còn gọi là tâm công trình và tác động của cảnh quan môi trường – phương pháp Loan đầu. Trong các nguyên lí thiết kế dù là cơ bản nhất trong Kiến trúc cũng thấy có sự tương đồng. Ví dụ như khi quán xét một khu đất để đưa ra bố cục công trình thì một Kiến trúc sư có nghề luôn phải chú trọng tìm đường to phố lớn, các trục giao thông chính để hướng công trình mình thiết kế về chỗ đó. Còn trong phương pháp ứng dụng của Phong thuỷ cũng lấy dương làm hướng, tức là cũng tìm luồng chảy của con sông, mặt hồ , hay luồng người đi lại trên đường phố để đón lấy dòng sinh khí vậy. Phong thuỷ gọi đây là sự vô tình hay hữu tình của công trình đối với các yếu tố tương tác còn lại. Hai khái niệm khác nhau của hai bộ môn khác nhau, nhưng đích đến thì hoàn toàn có sự thống nhất. D) Cấu trúc hình thể trong phong thuỷ và kiến trúc hiện đại. Ngoài ra chúng ta cũng có thể tìm khá nhiều những điểm tương đồng giữa Kiến trúc hiện đại và Phong Thuỷ ví dụ như: Phong thuỷ thường đặt Thuỷ trước công trình (Minh Đường tụ thuỷ) thì bên Tây phương việc hồ nứoc xen lẫn công trình cũng là điều được khuyến khích vì mặt nước thì ngoài việc tạo điểm nhấn sinh động, giúp tăng không gian tăng độ bề thế cho công trình nó còn cung cấp thêm các ion âm có lợi cho sức khoẻ, đồng thời những khu vực nào có hồ nước sẽ giúp điều tiết khí hậu. Khoa học nhận thấy rằng các khu vực gần biển hoặc nhiều sông hồ thì thường có lợi hơn các khu vực còn lại với nhiệt độ chênh lệch khoảng từ 1 đến 2 độ C. Như vậy là qua những dẫn chứng căn bản ở trên, chúng ta cũng thấy được những sự tương quan ứng dụng của Phong thuỷ Đông phương với những tri thức khoa học và kiến trúc hiện đại và chúng ta về cơ bản cũng thấy được tính khoa học của phương pháp ứng dụng trong phong thuỷ Đông phương. Nhưng tới đây có thể đặt vấn đề là nếu như vậy thì tại sao không bỏ Phong thuỷ cổ truyền mà chỉ cần ứng dụng những môn Khoa học hiện đại vì những tương ứng thay thế nó và những nghiên cứu khoa học của kiến trúc hiện đại lại còn có thực nghiệm chi tiết và cụ thể hơn, chứ không mang tính định tính khó kiểm chứng như Phong thuỷ. Những điều này sẽ được lý giải ở phần tiếp theo dưới đây. III - Phong thuỷ và những vấn đề cần tiếp tục khám phá dưói góc nhìn khoa học. Quả thật Phong thuỷ là một môn học thuật cổ từ ngàn năm nay và với tri thức hiện đại thì chúng ta thấy rằng những ứng dụng phong thuỷ mới chỉ mang nặng định tính chứ chưa cụ thể chi tiết và mang tính định lượng như Khoa học hiện đại. Chúng ta cũng biết rất rõ điều này. Tuy nhiên trong Phong thuỷ đã có những ứng dụng thành công từ rất nhiều năm nay nhưng khoa học hiện đại với những công cụ tiên tiến nhất vẫn chưa thể giải thích nổi. Như trong Phái Bát trạch thì dựa vào 8 hướng chính mà phân cung định hướng ra làm 8 quẻ, mỗi quẻ thì có một vai trò ảnh hưởng nhất định đối với chủ thể công trình. Như phương Nam chủ về Danh tiếng, Bắc thì chủ về Quan lộc địa vị, phương Đông chủ về gia đình sức khoẻ, Tây chủ về con cái , sự vui vẻ v.v. Khuyết hãm bất cứ một cung nào trong công trình thì đều ảnh hưởng đến chủ nhân công trình tương ứng về mặt đó. Trong các ứng dụng về phong thuỷ nhiều ngươì đều thừa nhận là có hiệu quả. Nhưng chúng vẫn tồn tại như một tiên đề và là hiện tượng cần tìm hiểu, khám phá của tri thức khoa học hiện đại. Có thể dẫn chứng một trường hợp cụ thể một thời từng gây xôn xao dư luận . Đó là về một toà nhà chung cư hiện đại ở Hông kông, nơi những người nổi tiếng và thành đạt như Thành Long, Lý Liên Kiệt đã từng ở. Hiện tượng như sau: Lúc xây dựng toà nhà thì mặt đứng toà nhà chưa hề có trổ lỗ thông khí (như trong ảnh), khi đó người dân trong khu dân cư hiện đại này toàn mắc những bệnh kì quái và gặp những chuyện không hay trong công việc. Sau khi đựoc xử lí theo tư vấn của chuyên gia về Phong thuỷ trích một lỗ trên mặt đứng toà nhà. Sau một thời gian thì thấy có sự thay đổi rất kì diệu: sức khỏe của đại bộ phận dân cư tăng lên trông thấy công việc thì trôi chảy hơn trước. Điều này Khoa học hiện đại cũng chưa có được những lí giải hợp lý, trong khi các thầy Phong thuỷ kinh nghiệm thì lại thấy rõ chân tướng của vấn đề. Những phong thuỷ gia cho rằng: Do toà nhà đã cản luồng khí được hình thành từ những dãy núi trước mặt, tạo nên một xung sát khí cho toà nhà này. Vì thế khi trổ một lỗ thông khí như hình dưới đây thì luồng khí trở nên thông thoáng, giải quyết sự bế khí theo Phong thuỷ (là một yếu tố xấu gây trì trệ bất lợi), từ đó tạo nên sự phát triển của ngôi nhà. Điều này khoa học chưa giải thích được. Hình dưới đây thể hiện ô trống được thực hiện theo yêu cầu của phương pháp phong thuỷ. Ngoài ra còn một số việc ngươì thật, việc thật như việc làm Phong thuỷ khu Trung tâm thương mại Simlim – Center, một khu thương mại chuyên bán hàng điện tử bên Singapore. Sau khi đạt được bố cục Phong thuỷ, nơi đây đã trở thành một trung tâm thương mại buôn bán Hàng công nghệ cao thuộc loại sầm uất nhất ở Singapore cũng như Đông nam á. Một điểm du lịch hầu như mọi khách du lịch khi qua Quốc đảo này đều muốn ghé qua. Khu du lịch này hàng năm đem lại những lợi nhuận rất đáng kể cho kinh tế nước này. Câu chuyện làm Phong thuỷ tại khu vực này đều được các hướng dân viên du lịch Singapore hướng dẫn rất chi tiết cho du khách và hầu hết người dân nước này đều biết. Reduced: 62% of original size [ 1024 x 768 ] - Click to view full image Reduced: 62% of original size [ 1024 x 768 ] - Click to view full image Đối với những độc giả có quan tâm chủ đề Phong Thuỷ Lạc Việt đều biết trường hợp nhà một người điên được hội viên Bigdog đưa lên nhờ giúp đỡ. Trường hợp này theo hội viên trên nói thì nạn nhân bị điên đến nỗi bệnh viện trả về, từ chối điều trị nhưng sau một thời gian nhà cửa được sự can thiệp của các chuyên gia Phong thuỷ của Trung tâm nghiên cứu lý học Đông phương tư vấn cho gia chủ cải tạo sửa chữa triệt để theo yêu cầu, tình hình đã thấy cải thiện rõ rệt, Trích nguyên văn lời hội viên Bigdog như sau: "Hiện tình trạng của chủ nhà đã tiến triển rất nhiều. Từ chỗ bệnh viện Thanh Hoá ngừng điều trị Tây Y, chuyển qua Đông Y với ngầm hiểu là không cứu vãn được. đến nay chỉ sau hơn 1 tuần đã có thể đi chơi gần quanh xóm. Đã có thể nói chuyện vài ba câu đơn giản thể hiện sự phục hồi của não". Như vậy qua các dẫn chứng từ những thực tế khách quan trên thì ta có thể nhận thấy là về mặt lý thuyết Khoa Phong thuỷ có những mặt tương đồng với khoa học hiện đại. Bên cạnh đó về thực tế lại có những ứng dụng hết sức diệu kì mà khoa học ngaỳ nay vẫn chưa giải thích được. Điều này có thể bước đầu khẳng định môn Phong thuỷ có những giá trị không thể xem thường và những ứng dụng của nó còn vượt cả nhận thức của những khoa học hiện đại. Nếu đi sâu vào nghiên cứu những lí thuyết được coi là nền tảng của môn Phong thuỷ này thì ta cũng thấy được những lý thuyết này liên quan đến một tri thức cao cấp là Thiên văn học và hiệu ứng tương tác của từ trường trái Đất. IV - Phong thuỷ và tri thức hiện đại. A) Phong thuỷ và thiên văn học. Những người am hiểu về Phong thuỷ cũng đều biết là lý thuyết khởi nguyên trong những ứng dụng của Phong thuỷ đều dựa vào Hà đồ và Lạc thư làm tiền đề rồi từ đó phát triển thành phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Ví dụ như luận điểm của phương pháp Bát Trạch thì dựa vào Lạc thư phối hợp với Hậu Thiên bát quái làm nên tảng để phân ra các mệnh quái đối với từng loại người, rồi từ đó kết hợp với các quái Phương vị rồi luận cát hung, trong khi Phái Huyền Không thì lấy Lạc thư dùng để phi tinh đồng thời cũng kết hợp với Hà đồ và Tiên Thiên bát quái để luận đoán các cục vượng suy theo từng vận trình v.v. Mà Hà đồ và Lạc thư theo một số nhà nghiên cứu thì được tìm ra do sự quan sát của ngưòi xưa về sự chuyển dịch của các vì sao trên trời. 1 - Bản chất Hà Đồ: Hà đồ hoàn toàn không phải là do con Long Mã hiện lên trên sông Hoàng Hà và vua Phục Hy căn cứ vào các vòng xoáy trên người vẽ ra như cổ thư chữ Hán nhắc đến. Theo những công trình nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương thì Hà Đồ chính là sự qui ước sự vận động có tính qui luật của ngũ tinh trong Thái Dương hệ. Điều này được mô tả như sau: Quan sát kỹ hình ảnh Hà đồ và thử quan sát bầu trời ta có thể thấy: Hàng tháng vào ngày 1, 6, 11 ,16, 21 ,26; hàng năm cứ vào tháng 1, tháng 6 thấy sao Thuỷ sắc đên xám ở Phương Bắc.( độ số 1 và 6). Hàng tháng vào ngày 2, 7 ,12, 17 ,22, 27; hàng năm cứ vào tháng 2, tháng 7 thấy sao Hoả sắc đỏ đậm ở Phương Nam.( độ số 2 và 7). Hàng tháng vào ngày 3, 8, 13, 18, 23, 28; hàng năm cứ vào tháng 3, tháng 8 thấy sao Mộc Sắc xanh ở Phương Đông .( độ số 3 và 8). Hàng tháng vào ngày 4, 9, 14 ,19, 24 ,29; hàng năm cứ vào tháng 4, tháng 9 thấy sao Kim sắc đê trắng ở Phương Tây.( độ số 4 và 9). Hàng tháng vào ngày 5, 10, 15 ,20, 25 ,30; hàng năm cứ vào tháng 5, tháng 10 thấy sao Thổ sắc vàng đục ở giữa bầu trời (độ số 5 và 10). Reduced: 86% of original size [ 736 x 374 ] - Click to view full image Reduced: 86% of original size [ 736 x 374 ] - Click to view full image 2 – Bản chất Lạc thư. Quan sát kĩ hình ảnh của Tử vi viên và Thái vi viên sẽ thấy: Năm chấm trắng chính giữa chính là toà Ngũ đế gồm 5 ngôi sao trong Thái vi viên. Một chấm trắng chính giữa chính là sao Bắc thần, phương chính nam là chòm Thiên kỷ (gồm 9 sao), phương chính Tây chính là chòm Thất công( gồm 7 sao), Phương chính Đông gồm 3 sao trong chòm Câu trần. Bên phải là hai sao Hổ bôn, Bên trái là 4 sao Tứ phụ, bên phải Bắc Thần là chòm 6 sao Thiên trù, Bên trái Bắc cực là 8 sao của chòm Hoa cái. Có thể nói Lạc thư và Hà đồ là những đồ hình căn bản trong tất cả các phương pháp ứng dụng của học thuật cổ Đông phương trong đó có phong thủy. Điều này cho chúng ta thấy nguồn gốc thiên văn là một yếu tố cấu thành quan trong của môn phongv thủy. Như vậy chúng ta có thể thấy về cơ bản cội nguồn rất khoa học của Phong thuỷ chính là Thiên Văn học, vì dựa trên nguyên lý căn bản là những tri thức thiên văn học như đã trình bày ở trên. 3 - Phong thuỷ và hiệu ứng từ trường trái đất. Hiện tượng đầu tiên để minh chứng cho điều này chính là chiếc La kinh – một dụng cụ định hưởng cổ tương tự như La bàn hiện nay. Căn cứ sự đinh hướng của chiếc la kinh này và những nguyên lý căn bản từ tri thức thiên văn đã trình bày ở trên, tất cả mọi phương pháp ứng dụng của phong thuỷ được thực hiện dựa trên sự định hướng phương vị của la bàn. Hay nói cách khác: Phong thuỷ căn cứ vào hiệu ứng tương tác của từ trường trái Đất qua chiếc la kinh – tương tự như La bàn hiện nay. Kết luận: Có thể nói Khoa Phong thuỷ chính là sản phẩm sáng tạo của con người, nó được sớm hình thành cùng với sự phát triển của loài người từ xã hội sống quần cư đến xã hội văn minh, nó dựa vào các qui luận vận động khách quan và được tổng hợp lại bởi những tri thức của người xưa do đó nó có nhiều điểm tương đồng với các môn khoa học khác đặc biệt là những môn khoa học Hiện đại về xây dựng của Phương Tây. Thêm nữa với những nghiên cứu về Thiên văn học, ta cũng thấy rằng nền tảng lý thuyết cơ bản của Phong Thuỷ có liên hệ chặt chẽ tới môn khoa học cấp cao là Thiên văn học. Do đó việc nhìn nhận môn Phong thuỷ như một đới tương nghiên cứu của khoa học vì có đầy đủ những yếu tố đáp ứng cho một tiêu chí khoa học là một việc cần thiết nhằm phục vụ đời sống con người. Kiến trúc sư Phạm Cương
-
Bác Liêm Trinh thân mến. Tôi đang đưa các bài tham luận lên trong mục này.
-
Tôi, Linhtrang, Công Minh, Hahung, Phạm Cương là những thành viên cốt cán của Trung Tâm, việc phải làm là tất nhiên. Những anh chị em khác là học viên của lớp Phong Thủy Lạc Việt II đóng góp là việc tự tâm do đã được học hỏi cần phải thể hiện. Nhưng với anh chị em khác, không có quyền lợi gì, nhưng tự nguyện đóng góp cần phải tỏ sự cảm ơn là hoàn toàn đúng đắn. Cảm ơn toàn thể anh chị em đã góp công sức cho hội thảo, nhưng cũng phải xác định người có công nhiều nhất chứ. Ngoài Magic, còn Vietligne. Hoàng Triều Hải trong diện đặc biệt vì là học sinh xuất sắc của Phong thủy Lạc Việt II, cá nhân tôi chỉ có thể ghi nhận và chẳng khen ngợi gì cả. Nhưng với tư cách một giám đốc doanh nghiệp đang phát triển. HTH đã hy sinh cả những cuộc gặp làm ăn với đối tác để giúp cho hội thảo.
-
Vâng! Cảm ơn lời khen ngợi của anh Ài. Khi anh đặt vấn đề thì tôi nghĩ cần làm rõ khái niệm thì chúng ta mới có thể trao đổi: Thế nào được gọi là mạnh?
-
Khí trong phong thủy và mô hình đồng dạng cơ học chất lưu Thạc sĩ Hà Mạnh Hùng Thành viên nghiên cứu phong thủy Lạc Việt Trung tâm nghiên cứu lý học Đông Phương Trong quá trình đào tạo, nghiên cứu và thực hành của nhóm Phong Thủy Lạc Việt nhằm mục đích chứng minh tính khoa học của những giá trị ứng dụng trong Phong Thủy và tìm hiểu khám phá những bí ẩn của Phong Thủy, đã có những thành tựu nhất định. Ngoài những ứng dụng có hiệu quả trên thực tế, nhóm nghiên cứu đã có nhiều bài viết có giá trị về mặt lý luận hay đề ra những phương pháp nghiên cứu hiêụ quả. Dưới đây là bài viết của Thạc sĩ Hà Mạnh Hùng bàn về phương pháp ứng dụng "mô hình đồng dạng cơ học chất lưu" nhằm khám phá sự tương tác của khí trong phong thủy ứng dụng I - Khí và khái niệm phong thủy Phong thủy là gì? Từ xưa đến nay đã có rất nhiều ý kiến không thống nhất về nguồn gốc tên gọi khoa Phong thủy. Tên gọi của sự vật, hiện tượng thường có nguồn gốc liên quan chặt chẽ đến sự vật hiện tượng đó. Đặc biệt nếu tên có dạng từ ghép được tạo thành từ các đơn từ nguyên nghĩa khác. Theo lẽ tự nhiên tên gọi Phong thủy cho thấy khoa nghiên cứu này có liên quan chặt chẽ tới "gió" và "nước". Vậy sự liên hệ đó là gì? Bách khoa toàn thư Việt Nam định nghĩa “Phong thủy” là: “Thuật xem đất để chọn nơi xây thành quách, cất đình chùa hoặc dựng nhà cửa, đặt mồ mả.” Bách khoa toàn thư mở Wikipedia có ghi: “Phong thủy là học thuyết chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của hướng gió, hướng khí, mạch nước đến đời sống hoạ phúc của con người. Về mặt từ nguyên, phong có nghĩa là "gió", là hiện tượng không khí chuyển động và thủy có nghĩa là "nước", là dòng nước, tượng trưng cho địa thế. Sách Táng thư viết: "Mai táng phải chọn nơi có sinh khí”. Kinh viết: Khí gặp gió (phong) ắt tán, gặp nước (thủy) thì dừng. Cổ nhân làm sao cho khí tụ chứ không tán, nước chảy có chỗ dừng". Do vậy mà có tên là "phong thủy". “Khí” là yếu tố quan trọng hàng đầu, cốt tủy trong nghiên cứu phong thuỷ, là động lực của sự hình thành và phát triển của vạn vật. Khí được ví như nhiên liệu cho động cơ. Để động cơ hoạt động hiệu quả cần có nhiên liệu phù hợp với cấu trúc vận hành của động cơ. Hay nói một cách khác như là hệ quả của mệnh đề trên: Chính cấu trúc vận hành của động cơ quyết định nhiên liệu phù hợp. Trong cổ thư để lại khái niệm khí rất trừu tượng, đòi hỏi người nghiên cứu phải tự tìm hiểu, tổng hợp những trường hợp ứng dụng cụ thể để có cảm nhận về nội dung khái niệm khí. Do sự trừu tượng này, mỗi người có cảm nhận khác nhau, không có tiêu chí để phân định đúng sai, gây nhiều tranh cãi. Khoa học hiện đại cũng đã ghi nhận sự tồn tại của một dạng vật chất đặc biệt bao quanh vật thể sống, có thể chụp ảnh bằng thiết bị đặc biệt. Đó cũng là một hình thức của khí theo quan điểm của Phong Thủy Lạc Việt. Theo nhận định của nhóm nghiên cứu Phong Thủy Lạc Việt thì cái tên Phong thủy không nên hiểu đơn giản là gió và nước. Phong Thủy Lạc Việt thừa nhận sự tồn tại của “Khí” nói chung và khí trong phong thủy - một dạng vật chất đặc biệt được hình thành do sự tương tác giữa các vật thể. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông phương, đưa ra định nghĩa: Khí là một dạng tồn tại của vật chất, được hình thành bởi sự tương tác và vận động của những vật thể vật chất, đồng thời tương tác lên các vật thể vật chất ấy. Tính chất của khí phụ thuộc vào tính chất cấu trúc và tương tác của các vật thể vật chất. Sự vận động của khí được định hình tùy theo vị trí các dạng cấu trúc vật thể vật chất tương tác hình thành nên nó. Trong phạm vi bài tham luận này, chúng tôi không đi sâu phân tích về bản chất của khí mà tìm cách đưa ra một mô hình để nghiên cứu sự vận động của khí và ảnh hưởng. Trước hết ta nhận diện một số đặc điểm của “Khí” để xây dựng mô hình nghiên cứu phù hợp: Từ định nghĩa về khí trình bày ở trên, đưa ra một định hướng nghiên cứu bắt đầu từ quan niệm khí là một dạng vật chất, có đầy đủ các thuộc tính của vật chất. Đặc điểm quan trọng là “Khí” có tính linh hoạt trong vận động, chịu ảnh hưởng của cấu trúc môi trường và vật dẫn từ vi mô đến vĩ mô. Khí cũng có thể phân làm nhiều loại theo phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành, trong đó sự phân loại có tính khái quát nhất là Dương khí và Âm khí. Khí thường gặp nhất trong phong thuỷ là Dương khí. Dương khí vận động trên mặt đất, chịu ảnh hưởng và ảnh hưởng trực tiếp đến các vật thể trên mặt đất, đặc biệt là vật thể sống. Do vậy chúng ta sẽ tập trung trước hết vào mô hình vận động của Dương khí. II - Khí và mô hình đồng dạng cơ học chất lưu Theo nhóm nghiên cứu Phong Thủy Lạc Việt, cái tên Phong Thủy bắt nguồn từ đặc tính quan trọng nhất của khí, đó là tính linh động. Khí không có hình dạng cố định mà tuỳ thuộc vào tính tương tác nội tại của cấu trúc vật thể tạo ra nó ( Phong thuỷ Lạc Việt định nghĩa là Âm khí là: Khí hình thành trong vật thể liên quan đến hình thức vật thể), hoặc hình thành do sự tương tác giữa các vật thể - tùy theo cách quan sát và phân loại đối tượng quan sát- gọi là Dương khí). Khí có thể lan truyền trong không gian, bị chắn và đổi hướng khi gặp vật cản. Đây là những đặc điểm cơ bản của chất lưu, vì vậy chúng tôi đề nghị sử dụng mô hình đồng dạng cơ học chất lưu trong nghiên cứu sự vận động của khí. Trong nghiên cứu khoa học, không phải mọi thứ đều có thể nghiên cứu bằng thực nghiệm trên mô hình thực, khi đó người ta phải xây dựng các mô hình nghiên cứu bằng phương pháp đồng dạng rồi tính toán, dự đoán tác động thực tế từ kết quả đo đạc trên mô hình. Khi nghiên cứu sự vận động của “Khí”, ta chưa có phương tiện đo đạc chính xác, nên việc xây dựng mô hình đồng dạng tương đương để nghiên cứu là rất quan trọng, giúp chúng ta dự đoán chính xác hơn sự ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tới cuộc sống của con người và xã hội. Theo sách cổ để lại “Khí” gặp gió thì tán, nghĩa là “Khí” nhẹ, lẫn vào không khí nên bị gió cuốn đi. Nếu gió nhẹ vừa phải sẽ có tác dụng dẫn khí lưu thông, được coi là tốt. Còn gió mạnh làm tán khí, mất khí lại là không tốt. Sách cũng ghi “Khí” gặp nước thì dừng. Thường thì khí trong tự nhiên vận động dựa theo sức mang của không khí, khi gặp vật cản sẽ đổi hướng theo dòng khí. Khí gặp nước thì dừng nghĩa là nước có khả năng giữ khí lại , khái niệm chuyên môn của phong thuỷ là “Tụ khí”. Hay nói một cách mang tính hình tượng hơn là nước có khả năng hút khí, hòa tan khí. Nước chảy chậm rãi, có chỗ dừng là rất tốt vì mang được khí tươi mới đến và lưu lại ở đó. Đó là nguyên nhân để các cghuyên gia phong thuỷ nhìn dòng nước chảy để dự đoán khí vận trong lòng đất mà từ chuyên môn gọi là “Long mạch”. Tính chất của khí sẽ khác nhau tuỳ theo sự tụ thuỷ, sức chảy mạnh yếu trong lưu thông của dòng nước….. Như vậy trong mô hình cơ học chất lưu đề nghị để nghiên cứu sự vận động, “Khí” được mô phỏng như là một chất lưu có các đặc tính sau: * Có tính tụ hoặc tán. * Có khối lượng quán tính nhỏ, dễ bị gió cuốn đi * Có thể coi như độ nhớt động học thấp * Có thể coi như có tính dính ướt mạnh với các vật thể có độ ẩm và nhiệt độ phù hợp, đặc biệt là vật thể sống, sinh vật “Khí” cần lưu động nhẹ nhàng, bình ổn mới có tác dụng tương tác tốt. Cũng giống như với các chất lưu khác, dòng chảy tầng bình ổn là dòng chảy lý tưởng. được coi là mang sinh khí đến. Dòng chảy hỗn tạp, chảy rối, dòng xoáy hay các dạng dòng chảy hẹp, vòi phun, dòng xung kích đều không tốt, gây nguy hiểm. Chúng ta có thể hình dung tính chất thủy khí động học của “Khí phong thủy” gần giống của nước, trừ tác dụng của trọng lực, để dễ dàng cho việc khảo sát. Dòng nước chảy siết, nước xoáy mạnh cũng tạo ra xung khí, tạp khí. Nếu dòng nước bẩn thỉu, hôi hám thì khí cũng sẽ bị uế tạp, không còn mang được năng lượng sống cho con người nữa. Với các giả thiết như vậy chúng ta thử áp dụng để giải thích một số quan điểm phổ biến trong Phong thủy Tại sao minh đường lại cần tụ thủy? Ta thấy rằng minh đường là nơi nạp khí cho cả căn nhà. Khí tụ ở minh đường là một trong các điều kiện quan trọng để đảm bảo cho ngôi nhà được vượng khí. Vì “khí” có khả năng tụ trong nước nên thủy tụ ở minh đường sẽ giúp khí tụ. Để tăng cường khả năng hấp thụ khí ta có thể làm đài phun nước tuần hoàn. Các hạt nước nhỏ phun lên làm tăng diện tích tiếp xúc với khí, giúp tụ được nhiều khí hơn. Tại sao kiêng kỵ đường đi, dòng sông, suối đâm vào nhà? Khí chuyển động dọc theo đường đi, sông suối tạo thành một dòng khí hẹp có tốc độ chuyển động lớn. Theo quán tính dòng khí này giống như luồng nước ra khỏi vòi phun nước cứu hỏa bắn mạnh về phía trước. Xung lực của dòng khí này cành mạnh khi đường càng đông người qua lại với tốc độ cao (xe cơ giới) hoặc sông suối chảy siết, càng trở nên nguy hiểm. Tương tự như vậy khe hẹp giữa hai nhà cao tầng cũng làm tăng tốc xung khí khi có gió thổi qua và gây nguy hiểm. Để ý rằng “Khí” có độ nhớt động học rất thấp và ít chịu tác động của trọng lực nên xung khí tạo ra có thể phóng đi rất xa, nên ta có thể không cảm nhận thấy tác động của gió qua khe hẹp nhưng vẫn bị ảnh hưởng bởi xung khí. Mô hình dòng khí và bài toán giảm tai nạn giao thông Các phương tiện lưu thông trên đường mang khí đến và cuốn khí theo. Xe chạy càng nhanh thì xung khí càng mạnh. Ta mô phỏng các luồng đường bằng các ống nước tương ứng. Vì sự vận động của khí chịu sự ảnh hưởng của các phương tiện giao thông, nên ta thêm các hạt bọt biển nhẹ vào nước để mô hình thêm phần chính xác. Trường hợp đơn giản nhất với đường một chiều, một làn không có giao cắt đồng mức, một ống nước có thể mô phỏng được. Khi cho nước chảy chậm và đều đặn, dòng nước chảy tầng, không xuất hiện xoáy nước dị thường, mô hình cho thấy sự lưu thông an toàn. Khi có bất thường xảy ra trên đường như có vật cản (mô hình bằng vật cản trong ống), có giao cắt đồng mức (mô hình bằng dòng chảy giao cắt) ta quan sát thấy sự rối loạn của dòng chảy, tạo thành các xoáy khí. Sự rối loạn này là biểu hiện của tạp khí. Tạp khí xuất hiện trên đường sẽ tác động trở lại tới các phương tiện giao thông và dẫn đến va chạm. Ngăn cản, giảm thiểu sự hình thành tạp khí trên đường là một biện pháp quan trọng để giảm thiểu tai nạn giao thông. Vậy làm thế nào để hạn chế sự hình thành tạp khí? Từ mô hình thủy khí động học ta có các phương án hạn chế như: đặt ống riêng biệt, đặt van điều tiết, đặt bình nối, dùng ống nối vòng tròn. Các phương án đó tương ứng với các biện pháp thông dụng như xây dựng đường giao cắt không đồng mức (cầu vượt, hầm chui), phân luồng giao thông bằng đèn tín hiệu (trên mô hình là các van điều tiết), mở rộng nút giao thông & làm đảo giao thông đều có tác dụng hạn chế sự hình thành tạp khí ở các mức độ khác nhau. Rối loạn dòng chảy còn gây ra từ thành ống gồ ghề, cấu trúc phức tạp. Trên thực tế đây là sự tương tác trở lại của các vật thể bên đường như nhà cửa, cây cối,... Để hạn chế yếu tố này cần đảm bảo hai bên đường có vỉa hè rộng, không lấn chiếm vỉa hè lòng đường, không để biển hiệu, bục bệ cản trở đường vận động tự nhiên của khí, hình thái xây dựng của các nhà mặt đường cần tương đồng, tránh các cấu trúc thò thụt vụn vặt. Ta cũng thử thí nghiệm so sánh giữa dòng chảy trong một máng uốn cong và một máng bẻ ngoặt gấp. Cùng tốc độ dòng chảy thì xung lực gây ra tại điểm ngoặt của máng lớn hơn rất nhiều so với ở máng cong đều. Với dòng chảy một chiều đã vậy, nếu là hai dòng chảy trái chiều nhau thì ở điểm ngoặt sẽ có sự va chạm lớn của hai dòng chảy. Như vậy trên thực tế xác suất xảy ra va chạm ở các điểm ngoặt gấp của con đường sẽ lớn hơn nhiều ở các đoạn khác nếu các phương tiện lưu thông không giảm tốc độ. Theo phương pháp phong thủy thì một gương cầu lồi cỡ lớn treo ngay tại góc ngoặt sẽ có tác dụng tán bớt xung khí và giảm được nguy cơ va chạm. Đó là một số thử nghiệm diễn giải định tính. Bây giờ ta thử dùng một số công thức quen thuộc của cơ học chất lưu để đánh giá mức độ ảnh hưởng của xung khí phong thủy. Khi nghiên cứu dòng chảy chất lỏng ai cũng đều biết phương trình Bernoulli cho chất lỏng lý tưởng dựa trên định luật bảo toàn năng lượng, theo đó tổng áp năng, thế năng và động năng của dòng chảy là không đổi. Dạng đơn giản của phương trình coi dòng chảy trên mặt phẳng ngang và bỏ qua yếu tố trọng lực thì tổng áp năng và động năng không đổi. Chúng ta sử dụng dạng đơn giản này là phù hợp khi nghiên cứu “khí”. Động năng của dòng chảy tại một điểm tỉ lệ với bình phương vận tốc dòng chảy tại điểm đó. Khi dòng chảy bị dừng đột ngột thì toàn bộ động năng chuyển thành áp năng. Nói một cách khác, áp lực của dòng khí lên vật cản tỉ lệ với bình phương tốc độ dòng khí. Áp dụng cho một con đường thì xung lực của dòng khí tỉ lệ với bình phương tốc độ di chuyển của phương tiện lưu thông. Như vậy xe chạy càng nhanh thì xung lực của dòng khí tác động vào ngôi nhà ở cuối con đường càng trở nên nguy hiểm. Trường hợp đường giao nhau cũng vậy, xe chạy càng nhanh thì xoáy rối tạo thành càng mạnh và càng nguy hiểm. Áp dụng cho trường hợp khí vận động qua khe hẹp, hành lang... thì tốc độ dòng khí tăng vọt tỉ lệ với độ suy giảm diện tích của mặt cắt (do lưu lượng không đổi của chất lỏng lý tưởng), dẫn đến áp lực của xung lực tăng lên gấp nhiều lần. Điều này lý giải vì sao vòi phun cứu hỏa có thể phun được rất xa, hay máy cắt tia nước có thể cắt được cả đá hoa cương và thép tấm. Do vậy các ống hẹp, khe hẹp, quốc lộ thẳng và dài có thể gây tác động rất tiêu cựu trong phong thủy. III - Kết luận: Một số phân tích trên đây mang tính tham khảo cho thấy mô hình đồng dạng cơ học chất lưu có thể được sử dụng như một công cụ để nghiên cứu các hiệu ứng tương tác khí trong phong thủy theo quan niệm của Phong Thuỷ Lạc Việt một cách có hiệu quả. Hướng nghiên cứu này cần được mở rộng hơn nữa để có thể nghiên cứu cả địa khí trong âm trạch. Sự liên hệ này về khí trong phong thuỷ với một phương pháp khoa học cũng cho chúng ta một ý niệm rõ ràng hơn về tính khoa học trong phong thuỷ. Hà Mạnh Hùng
-
LỜI TIÊN TRI 2009 Thứ Tư, 16/12/2009, 22:07 300 trẻ em Uganda mắc chứng bệnh lạ (ANTĐ) - Bộ Y tế Uganda cho biết, ít nhất 300 trẻ em miền bắc nước này đã mắc phải một căn bệnh lạ không rõ nguyên nhân với triệu chứng gật đầu liên tục. Ông Issa Makumbi, người đứng đầu cơ quan kiểm soát dịch bệnh thuộc Bộ Y tế Uganda cho biết, Uganda là nước thứ 4 tiếp sau Sudan, Congo và Tanzania xuất hiện căn bệnh lạ này, tuy vậy đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân của nó. “Bệnh gật đầu” theo tên gọi của người dân địa phương chỉ tấn công trẻ em từ 5-16 tuổi, không chỉ gây ảnh hưởng đến não và các tổ chức cơ mà còn tác động đến quá trình phát triển sinh lý bình thường của trẻ. Tại một số địa phương, sự lo lắng bao trùm trong dân cư, người ta thậm chí còn vứt bỏ những đứa trẻ bị bệnh vì mê tín. Hiện các nhóm chuyên gia đã được đưa đến các tỉnh có dịch như Kitgum và Pader để điều tra nguyên nhân và kết quả có khả năng sẽ được công bố trong vài ngày tới. Gia Vinh Theo Sohu --------------------------------------------- Nhời bàn của Thiên Sứ: Sang năm 2010 thế giới cần chuẩn bị đối phó với nhiều căn bệnh còn lạ hơn.
-
TIÊU CHÍ KHOA HỌC XÁC ĐỊNH TÍNH KHOA HỌC TRONG PHONG THỦY Nguyễn Vũ Tuấn Anh Giám đốc Trung Tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương I - Mở đầu Có lẽ tất cả những người quan tâm đến lịch sử văn hóa cổ Đông phương đều biết đến một phương pháp ứng dụng tồn tại với thời gian tính hàng thiên niên kỷ trong lịch sử Đông phương cho đến tận ngày hôm nay – khi chúng ta đang ngồi đây để bàn về nó. Đó chính là những phương pháp ứng dụng trong kiến trúc và xây dựng Đông phương cổ, quen gọi là Phong Thủy. Đây là một di sản văn hóa phi vật thể thể hiện dưới hình thức một phương pháp ứng dụng với phương pháp luận của riêng nó – phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành - có thời gian tồn tại lâu nhất trong lịch sử văn minh nhân loại, bởi chính hiệu quả ứng dụng của nó. Nhưng, những di sản của nền văn hóa Đông phương – mà trong đó có khoa Phong Thủy - còn tồn tại xuyên thời gian cho đến tận ngày hôm nay, đã tạo ra một cái nhìn huyền bí của tri thức khoa học hiện đại đối với nền văn hóa cổ Đông phương, vốn bao trùm lên nhiều lĩnh vực. Nhưng chính hiệu quả ứng dụng trên thực tế và sự tồn tại khách quan xuyên thời gian tính bằng thiên niên kỷ, vượt qua mọi không gian văn hóa khác nhau với mọi thử thách của lịch sử - từ thời cổ đại đến văn minh nhân loại hiện đại - đã chứng tỏ khả năng một chân lý - một sự phản ánh thực tại khách quan - đứng đằng sau bộ môn Phong Thủy Đông phương. Hiện nay, khi khoa học hiện đại ngày càng phát triển thì những học giả, những nhà khoa học hàng đầu đã bắt đầu nhìn lại nền văn hóa Đông phương - vốn một thời bị coi là lạc hậu và huyền bí, là không có cơ sở khoa học – với một cái nhìn mới khác hẳn tầm nhìn chỉ cách đây vài chục năm trước. Họ đã cảm nhận được sự tương đồng giữa nền văn minh Đông phương cổ với tương lai của khoa học hiện đại. Chúng ta đã thấy xuất hiện những cuốn sách mà những người quan tâm đều biết: Ở ngoại quốc thì điển hình là cuốn “Đạo của Vật lý” của Fritjof Capra – nhà vật lý được giải Nobel xuất bản năm 74, hoặc như cuốn “Lượng Tử và Hoa sen” của giáo sư Trịnh Xuân Thuận. Ở trong nước thì điển hình là cuốn: “Tích hợp đa văn hoa Đông Tây “ của giáo sư Nguyễn Hoàng Phương…vv… Các nhà khoa học cũng thừa nhận một tri thức sâu sắc về thiên văn của những nền văn minh cổ. Đã có rất nhiều tác phẩm nghiên cứu của những nhà khoa học có tên tuổi về thiên văn cổ Đông phương. Những giá trị của Đông phương cổ đại đã được từng bước nhìn nhận. Trong đó có môn Phong thủy ứng dụng vào kiến trúc và xây dựng trong xã hội Đông phương cổ đại và đến tận ngày nay. Đã có ngày càng nhiều ý kiến cho rằng: Phong thủy là một môn khoa học. Các quốc gia tiên tiến trên thế giới đã bắt đầu chú ý đến Phong Thủy Đông phương. Những cuộc hội thảo mang tính quốc tế trong kiến trúc và xây dựng, người ta đã nhắc đến Phong thủy trong các bản tham luận. Ngay cả những văn bản mang tầm cỡ quốc gia ở Việt Nam, đã nhắc đến Phong thủy Đông phương. Tại một số nước phát triển, đã có viện nghiên cứu Phong thủy. Nhưng có thể nói rằng: Cho đến tận ngày hôm nay, khi chúng ta ngồi đây, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu có giá trị minh chứng một cách thuyết phục về tính khoa học của phong thủy được công bố. Những luận điểm cho rằng Phong thủy mang tính chất khoa học, chỉ là căn cứ vào hiệu quả thực tế trải hàng thiên niên kỷ cho đến bây giờ và sự cảm nhận mơ hồ về nó, hơn là một minh chứng với những luận cứ hợp lý. Hay nói cách khác: Quan niệm cho rằng Phong Thủy là một phương pháp khoa học mới chỉ dừng lại như là một giả thuyết có cơ sở, dựa trên hiệu quả thực tế vượt không gian và thời gian trong lịch sử văn minh nhân loại và chưa chứng minh được tính khoa học của nó. Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương với chức năng nghiên cứu tất cả mọi lĩnh vực liên quan đến văn hóa, lịch sử, học thuật cổ Đông phương, mà một trong những di sản học thuật cổ đại Đông phương chính là khoa Phong Thủy. Bởi vậy, việc tổ chức cuộc hội thảo khoa học chuyên đề “Tính khoa học trong phong thủy và kiến trúc hiện đại” ngày hôm nay, chứng tỏ tính thần nghiên cứu khoa học nghiêm túc của Trung tâm chúng tôi. Đây cũng là một cơ hội để chúng tôi trình bày trước quí vị, những công trình nghiên cứu mới nhất của chúng tôi, nhằm minh chứng tính khoa học của Lý học Đông phương và khoa phong thủy nói riêng. Chúng tôi rất hy vọng rằng: Với sự góp mặt của những nhà khoa học và nghiên cứu trong buổi hội thảo này, sự quan tâm của các ban ngành, đoàn thể; sự hỗ trợ của cá nhân, đơn vị đến việc khám phá những bí ẩn của khoa Phong Thủy, sẽ là sự khai mở cho bức màn huyền bí đang bao phủ một tri thức huyền vĩ của Đông phương cổ đại: Minh chứng được tính khoa học trong hệ thống phương pháp luận của Phong thủy Đông phương và sự phản ánh một thực tại khách quan là tiền đề của hệ thống phương pháp luận phong thủy qua những di sản còn lại. II - Giả thuyết về tính khoa học trong phong thủy và tiêu chí khoa học minh định bản chất khoa học của khoa phong thủy. Kính thưa quí vị. Khoa Phong thủy đã tồn tại trong lịch sử văn minh Đông phương, vượt thời gian tính bằng thiên niên kỷ, xuyên qua mọi không gian văn hóa với mọi hình thái ý thức xã xã hội, qua nhiều giai đoạn khác nhau trong nhận thức của nhân loại và những thăng trầm của lịch sử. Không thể có một bộ môn khoa học ứng dụng hiện đại nào có một sức sống bền bỉ như vậy. Điều này, đã đặt ra một giả thiết hoàn toàn có cơ sở khoa học về một thực tại khách quan, liên quan đến những bí ẩn của vũ trụ, thiên nhiên, cuộc sống và con người mà nhân loại chưa biết đến - được phản ánh trong hệ thống phương pháp luận và phương pháp ứng dụng của khoa Phong Thủy với hiệu quả xuyên thời gian và không gian của nó. Chúng tôi đặt giả thuyết cho rằng: Sự bí ẩn của khoa Phong Thủy, phải chăng do chính sự thất truyền của một nguyên lý lý thuyết đứng đằng sau phương pháp ứng dụng của Phong thủy và những tri thức về một thực tại khách quan được tổng hợp và phản ánh trong hệ thống lý thuyết đó – Nên trong qúa trình tồn tại và ứng dụng của khoa Phong thủy Đông phương với những khái niệm mơ hồ, lại phải xuyên qua những không gian văn hóa khác nhau trong lịch sử – Nên, những phương pháp ứng dụng của phong thủy đã bị pha tạp với những giá tri văn hóa phi phong thủy - và tùy theo không gian văn hóa và nhận thức của thời đại, người ta đã giải thích nó một cách huyền bí. Thậm chí, bùa chú – một hiện tượng của văn hóa cổ của nhân loại, có trong văn hóa cổ Đông phương; hoặc cúng bái là những nghi lễ có tính tín ngưỡng cũng tham gia vào sự ứng dụng của khoa phong thủy – qua những nghi lễ động thổ, nhập trạch như là sự bổ sung cho phương pháp ứng dụng của Phong Thủy. Rồi cách giải thích mang tính thần quyền cho các nguyên lý lý thuyết căn bản của phong thủy qua hàng ngàn năm, đã khiến môn phong thủy ngày càng huyền bí trong con mắt thế nhân. Đã không ít ý kiến cho rằng: Phong thủy là một thứ tín ngưỡng, hoặc là một hình thức mê tín dị đoan..vv…. Nhưng dù được giải thích như thế nào thì khoa Phong thủy Đông phương vẫn là một thực tế khách quan tồn tại vượt không gian và thời gian, sừng sững thách đố trí tuệ của cả nhân loại từ những bí ẩn của nó với những hiệu quả đạt được - là nguyên nhân để khoa phong thủy có sức sống đến ngày nay. Khi thế giới hiện đại ngày càng hội nhập với thông tin mạng, khi khoa học kỹ thuật ngày nay đã vượt xa nhận thức thế giới của con người thời cổ đại từ hàng ngàn năm trước – thì khoa phong thủy vẫn không hề bị loại trừ khỏi thế giới văn minh. Ngược lại, nó ngày càng phát triển và hòa chung với văn hóa hiện đại cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Sức sống mãnh liệt trên thực tế khách quan đó, khiến những tri thức khoa học tình táo nhất, phải có một thái độ nghiêm túc để tìm hiểu về bản chất của khoa Phong thủy Đông phương cổ và những di sản văn hóa Đông phương nói chung. Hay nói rõ hơn: Những tinh thần khoa học thật sự và có trách nhiệm với chính tư duy khoa học của mình, cần phải khám phá những thực tại khách quan nào làm nên phương pháp ứng dụng của khoa Phong thủy Đông phương - qua sức sống mạnh mẽ vượt không gian và thời gian của nó? Những nhà nghiên cứu về phong thủy hay tổng quát hơn – về Lý học Đông phương - đều biết rằng: Phong thủy không phải là sự ứng dụng của hàng loạt những kinh nghiệm. Mà - những phương pháp ứng dụng của phong thủy – dù theo trường phái nào theo cái nhìn phổ biến hiện nay – đều có phương pháp luận từ một lý thuyết vẫn còn mơ hồ bởi những khái niệm và tính bất hợp lý trong hệ thống cấu trúc nội tại, từ cái nhìn của tri thức khoa học hiện đại – Đó là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nhưng mặc dù có sự tồn tại của những bí ẩn đó, khoa Phong Thủy – trong từng phương pháp mà chúng ta quen gọi là trường phái - lại có tính cấu trúc hệ thống, có nguyên tắc, quy ước và quy chuẩn rõ ràng, tính khách quan, có tính quy luật trong phương pháp ứng dụng. Cho dù những phương pháp ứng dụng phong thủy theo những văn bản cổ ghi nhận, rất rời rạc và mâu thuẫn giữa những phương pháp ứng dụng mà các nhà nghiên cứu quen gọi là trường phái. Bởi vậy, chúng ta hoàn toàn có cơ sở khoa học để đặt một giả thuyết cho rằng: * Thứ nhất: Hệ thống nguyên lý lý thuyết là tiền đề của khoa phong thủy đã thất truyền và sai lệch. Và bản chất khởi nguyên của bộ môn này trong thời đại văn minh sinh ra nó, vốn là một hệ thống hoàn chỉnh, nhất quán trong phương pháp ứng dụng. * Thứ hai: Phải chăng khoa Phong thủy ngày nay chỉ là những mảnh vụn còn sót lại sau những thăng trầm của lịch sử con người. Từ giả thuyết này, chúng ta có thể tiếp tục đặt vấn đề về những nguyên tắc, quy ước, những khái niệm trong phương pháp ứng dụng của khoa phong thủy - đã phản ánh một thực tại khách quan nào được nhận thức, để chúng có những hiệu quả thực tế vượt không gian và thời gian trong lịch sử văn minh nhân loại? Từ những giả thuyết này, chúng ta cùng khám phá bản chất đích thực của khoa Phong thủy Đông phương với góc nhìn của tri thức khoa học hiện đại. Đây cũng là mục đích của cuộc hội thảo ngày hôm nay. Tôi nghĩ rằng: Không thể coi là khoa học cho sự nhận thức trực quan với sự giải thích chủ quan của con người từ cái nhìn trực quan đó. Cũng không thể coi là khoa học ngay cả những tri thức được tổng hợp từ những nhận thức trực quan, trở thành một hệ thống lý thuyết để giải thích các hiện tượng. Một lý thuyết khoa học vẫn có thể sai. Phong thủy Đông phương ứng dụng trong kiến trúc và xây dựng không phải là yếu tố kỹ thuật xử lý vật liệu, độ bền kết cấu trong xây dựng mang tính trực quan. Mà khoa Phong Thủy Đông phương có tính hệ thống cấu trúc những nguyên tắc, qui định, có phương pháp luận và là sự thể hiện kiến thức của các yếu tố Địa lý, Khí tượng, môi trường sinh thái học, cảnh quan và kiến trúc hình thể. Bởi vậy, để xác định tính khoa học của Phong thủy không thể chỉ căn cứ vào hiệu quả của nó, cho dù đó là những hiệu quả kỳ vĩ xuyên thời gian và không gian trong lịch sử văn minh nhân loại. Mà chúng ta cần có tiêu chí khoa học để thẩm định một giả thuyết, một phương pháp, một lý thuyết được coi là khoa học. * Tiêu chí khoa học phát biểu rằng: Một giả thuyết, hay một lý thuyết khoa học được coi là đúng , nếu nó giải thích một cách hợp lý hầu hết những vấn đề và hiện tượng liên quan đến nó, một cách nhất quán, hoàn chỉnh, có tính hệ thống, tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Chi tiết hơn cho tiêu chí này, giáo sư viện sĩ Nguyễn Cảnh Toàn đã phát biểu: Tính hợp lý trong toán học, không thể từ trên trời rơi xuống. Nó phải chứng tỏ một chân lý khách quan đứng đằng sau nó. * Tiêu chí khoa học cũng phát biểu rằng: Một giả thuyết, hay một lý thuyết khoa học bị coi là sai, nếu người ta có thể chi ra chỉ cần một mắt xích sai trong toàn bộ chuỗi mắt xích làm nên hệ thống cấu trúc của nó mà lý thuyết đó không tự biện minh được. * Tiêu chí khoa học cũng xác định rằng: Một lý thuyết khoa học phải có lịch sử hình thành nên nó từ những nhận thức trực quan phản ánh một thực tại, và tính tổng hợp những nhận thức thực tại để hình thành một lý thuyết có khả năng giải thích những thực tại khách quan nhận thức được có tính hệ thống, tính nhất quán và sự hợp lý nội tại trong cấu trúc hệ thống phương pháp luận của nó với khả năng tiên tri. Còn rất nhiều những tiêu chí khoa học cụ thể khác cho các vấn đề liên quan. Giới thiệu những tiêu chí này, chúng tôi muốn xác định rằng: Một cái nhìn, một sự nhân danh khoa học thì phải có tiêu chí khoa học để thẩm định, khi chúng ta xác định một giả thuyết được coi là khoa học hay không. Do đó, chúng ta cần giải quyết để xác minh tính khoa học và bản chất khoa học của phong thủy thì phải căn cứ theo tiêu chí khoa học. Do đó, để xác định tính khoa học trong Phong thủy không phải dừng lại ở hiệu quả được chứng nghiệm trên thực tế vượt không gian và thời gian của khoa Phong thủy. Những hiện tượng trực quan này chỉ là tiền đề cho một giả thuyết có có sở khoa học về tính khoa học của khoa Phong thủy. Sự xác minh bản chất khoa học của Phong thủy – là mục đích của cuộc hội thảo hôm nay - phải được minh định trên cơ sở tiêu chí khoa học – cho toàn bộ những vấn đề liên quan đến nó. Gồm: * Tính hệ thống – trong đó bao gồm cả lịch sử khoa Phong thủy Đông phương. * Tính nhất quán và hợp lý – Thể hiện trong nội dung trong hệ thống cấu trúc trong phương pháp luận của khoa Phong Thủy. * Tính tiên tri - tức cũng thể hiện tính quy luật của phương pháp được nhận thức. Bởi vì không có tính quy luật thì không có khả năng tiên tri. * Tính khách quan, tức bao gồm cả khả năng phản ánh thực tại và sự giải thích thực tại theo khái niệm của nó. Như vậy, việc nghiên cứu và tìm hiểu khoa Phong Thủy Đông phương từ góc độ khoa học, đặt ra cho chúng ta những vấn đề phải khám phá và minh chứng: * Thứ nhất: Phục hồi và hiệu chính tính hợp lý, nhất quán trong hệ thống cấu trúc của thuyết Âm Dương Ngũ hành là phương pháp luận chủ đạo trong khoa phong thủy. * Thứ hai: Xác định một thực tại khách quan là cơ sở nhận thức và được tổng hợp, khái quát hóa trong phương pháp luận của Phong thủy thể hiện trong ứng dụng. * Thứ ba: Cội nguồn lịch sử của khoa Phong thủy Đông phương. Trên cơ sở tiêu chí khoa học và các vấn đề được đặt ra, chúng ta mới có thể có cơ sở minh chứng và liên hệ tính khoa học của phong thủy với kiến trúc hiện đại. III – Những vấn đề của các phương pháp ứng dụng trong phong thủy hiện nay. Kính thưa quí vị: Nếu mọi khái niệm trong hệ thống phương pháp luận của Phong Thủy Đông phương qua các di sản còn lại đều rõ ràng, hệ thống cấu trúc nhất quán hợp lý trong nội dung, thì mọi chuyện đã rõ ràng và không có gì phản bàn cãi. Nhưng chính vì tính bí ẩn và tính bất hợp lý trong cấu trúc hệ thống phương pháp luận, sự mơ hồ về những khái niệm và những thực tại nó phản ảnh, sự hoài nghi về tính nhất quán trong lịch sử hình thành, nên chúng ta cần phải làm sáng tỏ. Nhưng nếu áp dụng tiêu chí này để tìm hiểu tính hệ thống, tính nhất quán, tính hợp lý qua các bản văn cổ còn lại thì chúng ta không thể xác minh được tính khoa học của phong thủy Đông phương qua các văn bản còn sót lại. Bởi vì sự rời rạc, thiếu tính nhất quán, tính bất hợp lý và sự mơ hồ của các khái niệm trong phương pháp luận trong từng cái quen gọi là trường phái trong phong thủy cổ như: Bát trạch, Dương trạch tam yếu, loan đầu và Huyền không. Thâm chí chúng mâu thuẫn lẫn nhau. Chưa nói đến các phương pháp ứng dụng khác trong phong thủy còn rải rác lưu truyền trong dân gian, không thể sắp được vào một trường phái nào, như các phương pháp trấn trạch, yểm đất..vv.… Không chỉ riêng phong thủy, mà ngay cả một bộ môn ứng dụng khác trong học thuật cổ Đông phương - ứng dụng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành, thí dụ như Đông y cũng trong tình trang như vậy. Qua đó, chúng ta nhận thấy rằng: Giữa hiệu quả thực tế trải hàng thiên niên kỷ, xuyên qua mọi không gian, thời gian lịch sử trong xã hội loài người của học thuật cổ Đông phương và tính mơ hồ, thiếu nhất quán, mâu thuẫn trong hệ thống cấu trúc phương pháp luận của thuyết Âm Dương ngũ hành – khiến hàng ngàn năm nay , con người không thể khám phá ra những bí ẩn huyền bí của nó. Thực tế hiệu quả là không thể phủ nhận. Vậy chúng ta hoàn toàn hợp lý khi giả thuyết rằng: Tính thất truyền và sự sai lệch từ nguyên lý căn để của một thuyết Âm Dương Ngũ hành trong cổ sử Đông phương. Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. Trong qua trình nghiên cứu, tìm hiểu bản chất của Lý học Đông phương - trên cơ sở định hướng bởi giả thuyết về sự thất truyền và sai lệch trong các cổ thư còn lại. Chúng tôi đã nhận thấy tính bất hợp lý ngay từ nguyên lý căn để lưu truyền trong cổ thư liên quan đến lý học Đông phương. Đó là nguyên lý: "Hậu Thiên Văn Vương phối Lạc Thư". Đây là một nguyên lý xuyên suốt trong mọi phương pháp ứng dụng, được ghi nhận trong cổ thư chữ Hán. Sau khi hiệu chỉnh lại nguyên lý căn để ứng dụng trong mọi lịnh vực của Lý học Đông phương là “Hậu Thiên Văn Vương phối Lạc Thư” thành “Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ”, đối chiếu với tiêu chí khoa học, chúng tôi đã từng bước hệ thống hóa và phục hồi lại toàn bộ thuyết Âm Dương Ngũ hành, trong đó có khoa Phong Thủy – là một bộ môn ứng dụng của học thuyết này với phương pháp luận của nó. Như vậy, sau khi hiệu chỉnh lại nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành – “Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ” làm cơ sở đối chiếu, hiệu chỉnh các bộ phận rời rạc còn sót lại của nền Lý học Đông phương và căn cứ vào tiêu chí khoa học, chúng tôi nhận thấy tính nhất quán, tính phản ánh và giải thích thực tại khách quan, tính hệ thống trong cấu trúc phương pháp luận, tính quy luật và dần dần làm sáng tỏ những thực tại khách quan mà thuyết Âm Dương ngũ hành phản ánh và giải thích nó. Đó chính là sự vận động, tương tác có tính qui luật của vũ trụ, thiên nhiên, cuộc sống và con người. Riêng khoa Phong thủy, chúng tôi nhận thấy rằng: Những phát hiện rời rạc trong lịch sử văn minh Hán thực chất là những phương pháp ứng dụng cụ thể của từng trạng thái tương tác gây ảnh hưởng đến cuộc sống con người và chúng là những bộ phận khác nhau trong một môn khoa học ứng dụng nhất quán, quen gọi là “Phong thủy Đông phương”. Đó là bốn trạng thái được miêu tả như sau: 1 – Tương tác của từ trường trái Đất lên vị trí nhà và ảnh hưởng đến con người. Được ứng dụng chủ yếu trong phương pháp quen gọi là Trường phái Bát trạch 2 – Tương tác của cảnh quan môi trường thiên nhiên quanh khu nhà. Được ứng dụng chủ yếu trong phương pháp quen gọi là Trường phái Loan đầu. 3 – Tương tác của cấu trúc ngôi nhà liên quan đến môi trường với con người. Được ứng dụng chủ yếu trong phương pháp quen gọi là Trường phái Dương trạch tam yếu. 4 – Tương tác có tính quy luật và chu kỳ của vũ trụ trong bầu trời không gian của Thái Dương hệ. Được ứng dụng chủ yếu trong phương pháp quen gọi là Trường phái Huyền Không. Sự thống nhất có hệ thống các phương pháp ứng dụng và rời rạc còn lại trong cổ thư của Phong Thủy, trên cơ sở nguyên lý căn để “Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ” đã cho thấy tính nhất quán, tính hệ thống, sự giải thích hợp lý các vấn đề và hiện tượng liên quan trong phương pháp luận của một học thuyết cổ ứng dụng trong phong thủy là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Đồng thời trên cơ sở này, chúng tôi cũng từng bước khám phá tính quy luật, tính khách quan của một thực tại mà lý thuyết đó phản ánh và ứng dụng cụ thể trong phong thủy. Đó chính là sự vận động và tương tác có tính qui luật của vũ trụ, thiên nhiên và cuộc sống quanh chúng ta và hoàn toàn phủ hợp với tiêu chí khoa học. III - Kết luận Kính thưa quí vị quan tâm. Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương chúng tôi đã kết luận khái quát về tính khoa học của Phong Thủy Đông phương chính là sự ứng dụng những nhận thức thực tại qui luật vận động và tương tác của thiên nhiên, cuộc sống và vũ trụ trong việc phục vụ cho cuộc sống của con người. Phương pháp Phong Thủy được phục hồi với danh xưng phong thủy Lạc Việt hoàn toàn có tính hệ thống, tính nhất quán, tính khách quan, tính qui luật và khà năng tiên tri phù hợp với tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học. Trên cơ sở tiêu chí khoa học, chúng tôi xác định phong thủy là một một bộ môn khoa học ứng dụng trên cơ sở những hiệu ứng vận động và tương tác có tính qui luật, tính khách quan trong kiến trúc và xây dựng nhằm phục vũ cuộc sống con người. Khoa Phong Thủy xác định những tiêu chí, những nguyên tắc, qui ước dựa trên thực tại khách quan trong kiến trúc và xây dựng cổ xưa . Nhưng tiêu chí, nguyên tắc này không phủ nhận những tri thức và tiêu trí cũng như những yêu cầu trong kiến trúc hiện đại. Mà nó xác định sự phù hợp với cảnh quan môi trường, thiên nhiên hài hòa với cuộc sống của con người trên cơ sở qui luật nhận thức được và phản ánh trong khoa phong thủy. Như vậy, tính khoa học của Phong thủy được xác định trên cơ sở tiêu chí khoa học cho một phương pháp được coi là khoa học, nếu nó thỏa mãn tiêu chí đó. Nhưng cần phải xác định rằng: Tính hệ thống và nhất quán trong phong thủy Đông phương – một trong những tiêu chí khoa học – chỉ được xác định khi phục hồi trện nguyên lý căn để xuyên suốt của thuyyết Âm Dương Ngũ hành là “Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ”. Không căn cứ trên nguyên lý này thì Phong thủy theo bản văn cổ không có tính hệ thống, tính nhất quán và không có khả năng phản ánh hợp lý một thực tế khách quan làm nền tảng của hệ thống phương pháp luận của nó, cũng như tính hợp lý trong cấu trúc hệ thống của nó. Ngoại trừ hiệu quả ứng dụng. Trong thời gian hạn hẹp chúng tôi chỉ xin được giới thiệu những nét khái quát nhất về tính khoa học của Phong thủy Đông phương được phục hồi trên cở sở hiệu chỉnh nguyến lý xuyên suốt “Hậu thiên lạc Việt phối Hà Đồ”. Từ cơ sở này, chúng tôi sẽ trình bày những sự giải thích cụ thể những nguyên lý, thực tại được khám phá trong việc phục hồi và minh chứng tính khoa học trong phong thủy và sự liên hệ với kiến trúc hiện đại trong các bản tham luận sẽ trình bày ngày hôm nay trong cuộc hội thảo này. Với một bề dày thời gian trải hàng thiên niên kỷ tồn tại trong lịch sử văn minh nhân loại, với những khái niệm cổ xưa khái quát những thực tại chưa được biết đến và khác với ngôn ngữ hiện đại. Cho nên chúng tôi chưa thể phục hồi một cách hoàn hảo những bí ẩn của khoa Phong thủy Đông phương và của Lý học Đông phương nói chung. Nhưng chúng tôi tin rằng: Với tinh thần khoa học và sự đam mê khám phá, chúng ta sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu trong việc đem ánh sáng khoa học soi sáng bức màn huyền bí của văn hóa Đông phương cổ đại và phục hồi lại toàn bộ những tri thức của người xưa trong việc nhận thức bản thể của vũ trụ, thiên nhiên và con người. Tiếp theo đây, kính xin quí vị địa biểu, các vị khách quí tiếp tục quán xét những bản tham luận để cập đến các mặt liên quan về phong thủy trong buổi hội thảo ngày hôm nay. Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của quí vị đại biểu. Nguyễn Vũ Tuấn Anh.
-
MỘT SỐ TƯƠNG ĐỒNG GIỮA PHONG THỦY VỚI XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN KIẾN TRÚC HIỆN NAY TS. KTS Doãn Quốc Khoa Tiểu ban Phong thủy - Trung tâm NC tiềm năng con người Có lẽ ít có một loại kiến thức cổ truyền nào được quan tâm và phổ biến rộng rãi như Phong thủy. Việc tuyên truyền, phổ biến lý thuyết Phong thủy hiện nay hầu như bị buông lỏng, các sách về Phong thủy tràn ngập thị trường phát hành sách và mạng internet, cả về chủng loại và số lượng. Có lẽ lĩnh vực Phong thủy là một trong những lĩnh vực có nhiều sách, tài liệu được in ấn phát hành nhiều nhất mà không có cơ quan nào có rách nhiệm thẩm định thật giả, đúng sai. Sau thời kỳ bĩ cực bị ngăn cấm, coi rẻ, gần chục năm lại đây Phong thủy lại sống lại với tầm ảnh hưởng và phổ cập gấp nhiều lần so với thời trước kia. Trước đây chỉ một số rất ít người được gọi là Thầy Phong thủy, ngày nay, số người nói về Phong thủy, có hoạt động liên quan đến Phong thủy đã không còn hiếm và khó tìm. Trong hoạt động xây dựng hiện nay, không ít thì nhiều, không chủ động thì bị động, người có hiểu chút ít cũng vận dụng phong thuỷ, người không hiểu hoặc hiểu một cách lơ mơ về phong thuỷ cũng muốn sử dụng một vài nguyên tắc của Phong thuỷ vào một trong những công việc trọng đại: xây dựng nhà ở cho gia đình, lăng mộ cho người thân của mình. Thậm chí nhiều cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp cũng bỏ qua một số nguyên lý cơ bản của kiến trúc hiện đại mà sử dụng phong thuỷ trong xây dựng, cải tạo trụ sở, nhà xưởng. Trong bối cảnh hỗn loạn này, hội thảo “Tính khoa học trong Phong thủy và kiến trúc hiện đại” thật cần thiết để tìm ra được những giá trị thực của Phong thủy, còn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội - văn hóa, khoa học - công nghệ và kỹ thuật hiện tại để có thể kế thừa và loại bỏ những nguyên lý mang tính chủ quan, thần bí không có giá trị thực tiễn ra khỏi hoạt động xây dựng. Bài viết xin được tham gia với hội thảo về một số tương đồng giữa Phong thủy với xu hướng phát triển kiến trúc của thế kỷ XXI hiện nay. Thứ nhất, về sự tương đồng giữa Phong thủy với xu hướng chung phát triển chung của kiến trúc thế giới trong đó có Việt Nam. Đại hội lần thứ 20 của Hiệp hội các kiến trúc sư quốc tế (UIA) họp ngày 23 - 26/6/1999 tại Bắc Kinh đã thống nhất kiến trúc hiện đại của thế kỷ XXI phải hướng đến nền kiến trúc toàn diện, trong đó có một số nội dung liên quan đến Phong thủy như: a- Một sự liên kết giữa kiến trúc công trình, kiến trúc cảnh quan và quy hoạch đô thị với cốt lõi là tạo không gian đô thị. b- Kiến trúc của thế kỷ XXI là kiến trúc của sự hòa hợp thay vì sự đơn điệu. Chìa khoá cho Kiến trúc - Đô thị thế kỷ XXI là sự hài hoà: Hài hoà giữa thiên nhiên - kiến trúc - con người. Sự hoà hợp thay thế sự đơn điệu, độc tôn. c- Nghệ thuật phải vì lợi ích của môi trường xây dựng. Sáng tạo công trình kiến trúc nên chuyển từ công trình đơn lẻ sang tổng thể, sang phạm vi của quy hoạch đô thị và quy hoạch vùng. Mối quan hệ thiêng liêng với thiên nhiên cần được coi là yếu tố quan trọng và phải xử lý thấu đáo. Về nội dung "a", Kiến trúc hiện đại sau gần 1 thế kỷ phân tách thành các chuyên ngành là kiến trúc công trình - kiến trúc quy hoạch và kiến trúc cảnh quan (thường được gọi là bộ 3 kiến trúc) đã thấy được tác hại của việc chia tách này và phải quay trở lại với tính thống nhất của tổ chức không gian từ lớn đến nhỏ, từ tổng thể đến thành phần. Đối chiếu với Phong thủy, từ ngàn xưa vẫn duy trì một hoạt động chung là tạo lập môi trường sống thống nhất cho con người, dựa trên các nguyên lý và phương pháp chung. Kết quả của Phong thủy có thể nhiều cấp độ nhưng đều đạt được sự nhất quán từ một công trình cho đến không gian tổng thể một đô thị mà tiêu biểu là “Phong thủy” của kinh thành Phú Xuân đã thể hiện và được cả thế giới công nhận là di sản chung của nhân loại. Về nội dung "b", hầu hết các nguyên lý của Phong thủy đều hướng đến kết quả tạo ra sự hài hòa và hòa hợp thiên nhiên - kiến trúc - con người thông qua khái niệm, tiêu chí, nguyên tắc của tổ chức không gian: sự hài hòa, cân bằng ÂM DƯƠNG, mối quan hệ giữa các thành phần và phương hướng không gian tuân theo quy luật NGŨ HÀNH TƯƠNG SINH, mô hình không gian mà Phong thủy hướng đến chính là triết lý về sự hợp nhất THIÊN - ĐỊA - NHÂN. Phong thủy có một nguyên tắc tổ chức không gian chung là lấy tự nhiên làm cơ sở, dựa vào đặc điểm, điều kiện của tự nhiên để chọn địa điểm xây dựng, chọn hướng và quy mô xây dựng công trình nhằm tạo sự hài hòa và hòa nhập của công trình kiến trúc với cảnh quan tự nhiên chung. Như vậy chìa khóa của kiến trúc đã được Phong thủy phát hiện, áp dụng từ hàng ngìn năm nay. Về nội dung "c", Phong thủy rất coi trọng lợi ích của môi trường chung, không vì lợi ích của con người mà làm biến đổi hoặc hủy hoại môi trường. Các tác động của con người vào môi trường là nhằm cải biến cho tốt đẹp hơn, cả môi trường vật thể và phi vật thể (khí). Điều này thể hiện qua các giải pháp của Phong thủy về trồng cây, bổ xung mặt nước nhân tạo, tạo thêm các án, bình phong để tụ khí, ngăn hoặc dẫn khí, điều tiết lượng khí ... (trong kiến trúc hiện đại chỉ đơn giản là cải thiện chất lượng vi khí hậu mà không xét đến các loại KHÍ khác). Sáng tạo kiến trúc mang tính tổng thể, từng công trình được xem xét trong mối quan hệ cung của khu vực và vùng của kiến trúc hiện đại cũng chính là nguyên tắc của Phong thủy. Khi chọn địa điểm, xác định hướng công trình, bố cục kiến trúc ... Phong thủy đều nghiên cứu cả vùng lớn thể hiện qua phạm vi nghiên cứu: về núi phải xem xét từ Thái tổ sơn – Thiếu tổ sơn – Tổ tông sơn – Phụ mẫu sơn – Cán long sơn – Chi long sơn – Chủ long sơn – Tùy long sơn; về thủy phải xem xét toàn bộ thủy long, chi long, thủy khẩu ... (chính là toàn bộ lưu vực sông ngòi, từ thượng lưu đến hạ lưu); về minh đường phải xem xét nhiều tầng lớp, quy mô không gian như nội minh đường, ngoại minh đường .... Một ví dụ tổ chức không gian trên cả phạm vi vùng của Phong thủy là địa điểm xây dựng kinh thành Phú Xuân của Nhà Nguyễn như nhận xét của ông M' Bâu, nguyên Tổng giám đốc UNESCO: “Những người đầu tiên xây dựng Huế đã có dụng ý đóng khung Huế trong phong cảnh kỳ diệu từ núi Ngự bình đến đồi Vọng cảnh, đến phá Tam giang và phá Cầu hai và chính như thế họ đã sáng tạo ra một kiến trúc tinh vi, trong đó mỗi yếu tố đều bắt nguồn cảm hứng từ thiên nhiên gần gũi". Có lẽ dãy núi Bạch Mã cách Phú Xuân gần trăm Km mới chính là án sơn của Phú Xuân. Sau một giai đoạn sùng bái công nghệ - kỹ thuật, những tưởng con người có thể sử dụng kiến trúc để chủ động tạo môi trường sống tốt nhất cho mình mà không cần quan tâm đến thiên nhiên, kiến trúc hiện đại đã phải quy trở lại nhìn nhận về “mối quan hệ thiêng liêng với với thiên nhiên” và coi mối quan hệ đó “là yếu tố quan trọng và phải xử lý thấu đáo”. Điều này càng cho thấy giá trị của Phong thủy khi coi thiên nhiên có vai trò quan trọng, mang tính quyết định đối với cuộc sống con người, không chỉ qua tác động mang tính vật chất mà cả siêu vật chất thể hiện qua khái niệm “sinh khí”, “tử khí”. Sự tác động của thiên nhiên đối với con người không cứng nhắc cố định mà còn biến đổi theo thời gian (nguyên lý “vận khí” hay “huyền không phi tinh” ...). Có thể nói nội dung cơ bản của Phong thủy chính là nhằm giải quyết mối quan hệ con người - thiên nhiên thông qua tổ chức không gian sống của mình: chọn địa điểm, phương hướng, bố cục các thành phần kiến trúc - tự nhiên sao xác lập được tương quan giữa công trình nhân tạo - tự nhiên, giữa các thành phần nhân tạo với nhau phù hợp với quy luật vận động của tự nhiên và chính con người, trong môi trường đó, cho con người vừa nhận được nhiều sinh khí vừa giảm thiểu những tác động của khí xấu không có lợi cho sức khỏe và hoạt động phát triển của mình. Thứ hai, về mối tương đồng của Phong thủy với xu hướng phát triển bền vững và sinh thái trong kiến trúc - quy hoạch xây dựng. Từ cuối thế kỷ trước, phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu chung của nhân loại, trong đó có phát triển kiến trúc (bao gồm cả quy hoạch xây dựng) bền vững. Theo các nhà nghiên cứu, kiến trúc bền vững phải đảm bảo cả 4 tiêu chí: bền vững về xã hội, bền vững về môi trường (cả tự nhiên và nhân tạo), bền vững về kỹ thuật và bền vững về kinh tế - tài chính. Trong 4 tiêu chí này thì tiêu chí bền vững về tự nhiên và xã hội cũng chính là những mục tiêu mà Phong thủy hướng đến. Những nguyên tắc của Phong thủy trong lựa chọn địa điểm, chọn hướng và bố cục các công trình xây dựng đều nhằm duy trì, bảo vệ sự bền vững của môi trường bao gồm các thành phần khí (không chỉ yếu tố khí hậu mà rộng hơn như thiên khí, địa khí ...), địa hình (sơn, sa) và mặt nước (thủy) và hệ thực vật của môi trường tự nhiên. Giải quyết mối quan hệ tự nhiên - con người để con người có thể nhận được nhiều nhất những tác động tích cực từ tự nhiên, sống hài hòa trong mối quan hệ với tự nhiên và cũng là tiền đề sống hài hòa giữa con người với nhau. Đại hội kiến trúc sư thế giới 1999 tại Bắc Kinh cũng xác định chủ lưu chung của kiến trúc thế kỷ XXI là xu hướng sinh thái hóa môi trường, đó là: - "Con người - công trình kiến trúc - môi trường thiên nhiên nhất thiết phải được cộng sinh một cách hữu cơ - Thành phố vườn, thành phố sơn thuỷ (sông núi) và thành phố sinh thái đang là mục tiêu theo đuổi của cả nhân loại" Theo các nhà nghiên cứu, kiến trúc hay đô thị sinh thái là một không gian mà mọi hoạt động kinh tế – xã hội trên đó đều phải tính đến các yếu tố sinh thái, xảy ra trong giới hạn sinh thái, sao cho đảm bảo rằng đưa con người tiến gần tới thiên nhiên, hoà hợp vào thiên nhiên trong sự phát triển, hay dễ hiểu hơn, kiến trúc hay đô thị sinh thái là kiến trúc hay đô thị đảm bảo sự cân bằng với thiên nhiên. Có thể nói Đô thị sinh thái là một mô hình lý tưởng cho sự phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, đảm bảo các chức năng của con người trong một hệ thống sinh thái thuần khiết. (tất nhiên kiến trúc - đô thị sinh thái còn một số tiêu chí về kỹ thuật hoặc sử dụng tài nguyên tái tạo nhưng không liên quan đến chủ đề bài viết nên không đề cập). Những năm gần đây, mô hình kiến trúc xanh được đề cập khá nhiều nhằm cụ thể hóa các tiêu chí của kiến trúc sinh thái. Mô hình Kiến trúc xanh là kiến trúc đảm bảo đa dạng sinh học, bảo tồn môi trường và tài nguyên thiên nhiên cũng như chất lượng môi trường bên trong và bên ngoài nhà. Công trình kiến trúc xanh phải hòa quyện với khung cảnh của môi trường tự nhiên xung quanh và trở thành một bộ phận của nó, phù hợp với địa hình, thích ứng với khí hậu. Cấu trúc không gian của công trình và vỏ bao che của nó phải tận dụng (hoặc điều chỉnh) được các nguồn tự nhiên : nắng, gió, ánh sáng. Tính xanh của kiến trúc ở đây cũng có nghĩa là công trình luôn có sự hiện diện của cỏ, cây: có không gian sân vườn xung quanh nhà, có vườn trong nội thất, vườn trên mái, hay vườn theo mặt đứng của nhà. Kiến trúc xanh là kiến trúc thân thiện với môi trường, giảm thiểu tác động đối với môi trường. Theo nguyên lý Phong thủy, khu vực xây dựng phải có sẵn (hoặc tạo được) cây cối tốt tươi không khô cằn héo úa, nguồn nước phải lưu thông không tù đọng và trong lành, đồi núi phải đầy đặn, không nham nhở trơ trụi.... Nếu xem xét kỹ, đối chiếu nguyên tắc Phong thủy với các tiêu chí, yêu cầu của kiến trúc - đô thị sinh thái hiện đại có thể thấy Phong thủy và kiến trúc sinh thái, kiến trúc xanh là tương đồng. Sự khác biệt có lẽ chỉ ở việc sử dụng kỹ thuật - công nghệ hiện đại trong công trình hoặc đô thị sinh thái. Hay nói cho đúng bản chất của khái niệm sinh thái thì sinh thái trong Phong thủy thuần khiết và tự nhiên hơn kiến trúc hiện đại. Qua đối chiếu giữa nguyên lý chung của Phong thủy với xu hướng phát triển kiến trúc hiện đại thế giới mà Việt Nam cũng đang hướng theo, có thể thấy nguyên nhân tại sao Phong thủy lại có sức sống lâu dài đến vậy. Tuy kiến trúc đã có những thay đổi căn bản về công nghệ, kỹ thuật, vật liệu, thiết bị xây dựng nhưng bản chất kiến trúc vẫn không thay đổi, đó là giải quyết mối quan hệ con người - thiên nhiên hài hòa, cùng tồn tại lâu bền và tạo môi trường sống mà con người nhận được nhiều nhất những tác động tích cực từ tự nhiên. Nguyên lý Phong thủy chính là những lý luận và kinh nghiệm được đúc rút từ hàng nghìn năm trong hoạt động xây dựng. Chính vì vậy mà giữa Phong thủy với xu hướng phát triển kiến trúc hiện đại đã gặp nhau về quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc và các tiêu chí chung. Hy vọng một số ý kiến nêu trên có thể đóng góp với hội thảo để cùng khẳng định giá trị khoa học của Phong thủy, góp phần kế thừa trong kiến trúc và quy hoạch xây dựng hiện nay nhằm phát triển kiến trúc Việt Nam bền vững và bản sắc. Doãn Quốc Khoa
-
QUY HOẠCH KIẾN TRÚC NHÀ VÀ PHONG THUỶ Th.S: Lê Xuân Phương Viện trưởng viện Doanh nhân doanh nghiệp - Quy hoạch công trình tọa lạc ở đâu? - Trạch thời ( khởi công xây dựng vào thời gian nào)? - Công trình phục vụ vào công việc gì? + Công trình dân sinh: nhà ở + Công trình công cộng: nhà công cộng + Công trình công sở: nơi làm việc, văn phòng. + Công trình vui chơi: khu vui chơi. + Công trình hội họp. + Công trình tôn giáo: Đền đài , miếu mạo, thờ cúng. + Công trình giao thông. + Phong thuỷ với các công trình dân sinh (nhà ở) - Phong thuỷ quan tâm: - Gia chủ và mệnh tuổi - Năm làm nhà - Ngày khởi công động thổ, phá dỡ, đào móng Kiến trúc, thiết kế tổng thể từ móng đến tường, mái, các thiết kế khác để đẹp đẽ hài hòa của các cửa, quan hệ các phòng với nhau, số phòng theo quan niệm bát trạch, nhất phòng là sinh khí, nhị phòng là tuyệt mệnh, tam phòng là diên niên, tứ phòng là họa hại, năm phòng là thiên y, sáu phòng là lục sát, bảy phòng là phục vị, tám phòng là ngũ quỷ của một căn nhà. Về khoa học, phong thuỷ rất quan tâm đến trạch thời tức là quan hệ của gia chủ với trạch nhà cửu cung có được trạch làm nhà hay không sau khi được thì chọn ngày khởi công cho phù hợp bởi trạch thời có quan hệ rất quan trọng đối với gia chủ vì thế người xưa rất sợ động thổ làm nhà, xây mộ, làm bàn thờ, bát hương. Các cụ toàn khởi sự này vào cuối năm để khơi công nếu có xấu thì xấu mấy ngày hết 1 năm, hoặc lấy các cụ già để các cụ động thổ nếu gặp xấu, chết các cụ già cho hợp lý. Vì thế các vùng miền và các sách ghi chép lại rất nhiều cách để tránh kim lâu làm nhà và vận dụng một số cách nhờ mượn tuổi hoặc mua bán nhà “mua bán làm phép: bán với gía 99000 và khi mua lại với giá 100.000 ” để xây cất không bị tai họa. Họ chọn ngày tốt, giờ tốt, hướng tốt và năm làm nhà tốt của trạch nhà cửu cung tạo tác xây dựng. Chọn sao tốt tránh sao xấu, chọn tuổi tốt tránh tuổi xấu. Khi được trạch làm nhà người ta tiến hành quy hoạch công trình với quan hệ bên ngoài như vùng đất, đường xá, cầu cống, núi non và sông ngòi, đồng bằng, chợ hay công sở nhà máy..... từ đó để mở cửa và tổ chức không gian sống. Vì nếu nhà gần công sở hay gần đường tầu hoả rất nguy hiểm, gần bốt điện hay đền thờ, đình đài, miếu mạo phải bố cục và tránh các công trình vệ sinh, phòng ngủ thoát ra khỏi vùng cấm kỵ như thế nào để khỏi mắc bệnh thần kinh. Theo lý thuyết âm dương và tính chất ngũ hành thì một công trình nhà ở trước khi xây dựng phải lưu ý đến quan hệ của mảnh đất với các công trình xung quanh để xây dựng và kiến trúc theo ngũ hành Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ, để thiết kế dáng vóc nhà, mầu sắc nhà, ngũ hành để chế hóa tạo tác hay vận dụng tương sinh cho căn nhà thịnh vượng may mắn. Hoặc dựa vào đó để làm mầu nhà và dáng nhà hướng đến sự tương sinh tốt đẹp và khắc chế xấu. Mầu chủ đạo Mộc xanh, Kim trắng, Thổ vàng, Thuỷ đen, Hoả đỏ, từ ngũ hành này để làm mầu cho nhà và khắc chế đất, để đất tương sinh làm vượng cho nhà, cho gia chủ. Quan hệ của nhà và cửa, cửa là miệng của nhà toàn bộ căn nhà muốn hoạt động tốt đều dựa vào cửa tốt xấu, thuận thì tốt đẹp vào nhà còn gọi là “Môn đa khách đáo thiên tài đáo” cửa xấu thì đón họa, cửa tốt là miệng nhà đón nhiều tài lộc, theo thuyết phong thuỷ cổ xưa và thực tiễn cho thấy long dài, hổ ngắn là sự thịnh vượng của nhà phụ thuộc 90% vào cửa gọi là thế của nhà, sai thế thì hỏng hết nhà mặc dù nhà được hướng của gia chủ, điều này người xưa gọi là “ Con Vua thất thế thì ra quét chùa”. Vì thế cửa rất quan trọng để quyết định nhà có thế hay không. Cửa và cửa sổ là sự định lượng và định tính đó là sự hữu hình và vô hình cụ thể của vật chất, tài nguyên và nhà còn cửa sổ là song định tính hay định tính của nhà là song môn là tầm nhìn là sự thông thoáng của gia chủ là sự bay bổng là tư tưởng là sự thoáng đãng hay là sự tù túng tủn mủn thiển cận, ức chế của gia chủ. Vì thế cửa sổ có cấu trúc khác biệt về độ lớn, vị trí và bố cục theo từng công trình để không bị tách biệt như nơi nghỉ ngơi riêng tư thì cửa sổ ra sao, nơi kinh doanh phải như thế nào, cởi mở ra sao, nơi kho bến phải chắc đặc, như ngân hàng phải vững vàng yên tâm, nơi canh giữ mang tính quan sát và phòng thủ thích ứng trong mọi hoàn cảnh ra sao. Nơi thương mại phải hấp dẫn và thoáng đãng để thu hút sự chú ý và bắt mắt để kích thích mua hàng... Mảng tường phải ấn tượng và gần gũi, rất tỷ lệ không quá cao ghê rợn, không quá thấp bần tiện, không quá hẹp để cô hàn, đơn lẻ mà phải hài hòa cân đối Mảng mái là một cái gì đó rất thiêng liêng và cao cả bởi nhà phải có nóc, tránh nhất là sự băng hoại từ nóc đó là dột từ nóc rột xuống, nóc là mái là sự che chở, là sự yêu thương là sự bao dung của gia chủ, nhà càng nhiều mái càng tốt, mái bằng là ưa gánh vác, mái quá dốc là sự kiêu hãnh nhưng quá tôn giáo và khó gần, mái nhiều đài bệ là gia chủ có tính đẳng cấp, mái có độ nghiêng thấp khó tải được mọi việc, gia chủ hay gặp khó khăn, mái tròn có đức tin cao độ, mái chồng mái là phức tạp trong quan hệ, mái cụt nửa mái là phúc kém, chiêu nhiều tai họa. Mầu của mái ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống của gia chủ, mái có máng hứng nước mưa mới tốt, bởi điều đó là đón được lộc trời cho, là sự thu được nước mưa là lộc giáng thiên ban. Trong nhà, trong cuộc sống hiện đại phải xây cất nhiều tầng vì thế cầu thang rất quan trọng, đi từ xấu lên tốt, tránh cầu thang xây đi ngược chiều kim đồng hồ, cầu thang chui qua gầm vệ sinh hoặc cầu thang đè lên bếp đun, điều này tai họa cho gia chủ nhất là âm nữ sống trong nhà và nghèo khổ túng quẫn, số bậc và khẩu độ bậc nên tuân theo trực( thập nhị trực: Trực Kiến, Trừ, Mãn, Bình, Định, Chấp, Phá, Nguỵ, Thành, Thu, Khai, Bế.) và tỷ lệ vàng. Vệ sinh là nơi mọi người rất quan tâm bởi vệ sinh là phần đầu ra của ngôi nhà, nó không thể thiếu được trong ngôi nhà hiện đại, người ta không thể khước từ được nó do vậy vệ sinh phải đặt ở vị trí xấu của tuổi thì vệ sinh trở thành nơi đắc dụng và là kho khố của gia chủ, tránh vệ sinh để trên lối đi, trên nơi sinh hoạt là rất xấu cho gia chủ về sinh sản, tiền bạc cự kỳ túng thiếu, để thờ cúng trên nóc vệ sinh là tội bất kính với tổ tiên làm cho gia chủ tâm tư dối bời. Bừp đun là bộ phận tiêu hoá của căn nhà, là nơi chuyển từ sống thành chín vì thế nó là dạ dày, là âm nữ, là tiền của, là sức khoẻ, nếu bếp xấu hoặc để sai không đắc vị sẽ làm chủ nhà rất khó khăn và tai họa liên miên, tránh để bếp trong gầm cầu thang, để bể dưới bàn thờ, để giường nằm trên bếp, bếp dưới phòng vệ sinh thì rất nhiều tai họa, tránh trong nhà cấu trúc như ngoài sân làm cho gia chủ thích ra ngoài đường và nông cạn trong suy nghĩ, hời hợt chẳng khác cửa mở hắt ra, nóng tính và tự ái rất cao. Khẩu độ trong nhà rất quan trọng nó liên quan đến giải pháp cầu thang và cửa sổ, làm khó bầy đồ, bố cục các phòng như phòng khách phải tiện lợi phô trương mà vẫn kín đáo, cởi mở mà không đon đả, hợp lý không tù túng. Phòng ngủ là chốn riêng tư đủ độ mà không trống trải dễ hòa thuận, hòa nhịp mà không lẻ, nơi phòng đọc phải tĩnh lặng không ồn ào nhưng thu hút. Phòng sinh hoạt thì phải hoạt náo và mang tính vui vẻ, phòng bếp phải thơm tho và gọn gàng ngăn nắp, phòng kho phải khoa học dễ tìm dễ vào để không phải biến không làm nơi đựng đồ phế thải. Phòng thờ phải ấm cúng và trang nghiêm nhưng không ghê rợn. Phong thuỷ là tinh hoa của kiến trúc, giúp kiến trúc có bố cục hài hoà có gam mầu dễ gần, có độ lớn các chiều tỷ lệ, có một không gian cho đồ tĩnh và nhịp sống của đồ động và sinh hoạt của người sinh hoạt của người trong nhà vui vẻ, ngày một thịnh vượng và phát triển, không bị loại bỏ nhau, giúp ích cho nhau, không tách rời nhau. Bởi sự tồn tại của vạn vật là sự có lý, không có lý thì không tồn tại, về lý thuyết cũng như thực tiễn đã chứng minh sự tồn tại cà diệt vong của vạn vật và sự đào thải hay thịnh vượng hoành tráng của vạn vật mà con người là trung tâm để khai thác, thụ hưởng hay cư trú đã được lý thuyết âm dương và tính chất ngũ hành lý giải một cách khoa học về sự tài tình này để nghành kiến trúc nắm bắt để giúp cho các công trình ngày càng đẹp và tồn tại cũng như phát triển bền vững, tránh được những tai hoạ bất thường do coi thường lý thuyết phong thuỷ. Thông qua lý thuyết âm dương và tính chất ngũ hành của vạn vật cùng với thự tiễn phát triển nhiều đời để minh chứng giá trị, từ đó ứng dụng giá trị phong thuỷ vào cuộc sống, mang tính khoa học, để tìm được quy luật thịnh suy của vạn vật để giảm xấu hướng tốt. Nghành kiến trúc, thời trang, xây dựng, quy hoạch.... rất cần cái sự am hiểu lý thuyết “ triết học phương đông” cụ thể là phong thuỷ để các công trình xây dựng có ý nghĩa và hiệu quả góp phần phát triển bền vững và hoàn thiện cuộc sống. Hà Nội, ngày 1 tháng 12 năm 2009
-
THÀNH CHÀ BÀN VÀ THUẬT PHONG THỦY PGS.TS. Ngô Văn Doanh Viện Nghiên cứu Đông Nam Á Thành Chà Bàn (nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định)- toà thành là kinh đô cuối cùng của nước Chămpa- cũng được sử sách cổ của Việt Nam nhắc tới. Về những ngày tháng cuối cùng của thành Chà Bàn, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Ngày 27 (tháng 2, Tân mão, năm thứ 2 Hồng đức [1471]), vua [Lê Thánh Tôn] thân đem đại quân đánh phá thành Thi- nại. Ngày 28, vua tiến vây thành Chà- bàn. Ngày 29, vây sát chân thành mấy vòng. Tháng 3, ngày mồng 1, hạ được thành Chà- bàn… Trước là các quân dinh làm cầu bắc lên thành đã xong, Trà Toàn hàng ngày đưa đến lễ vật xin hàng… Vua bèn dụ cho các tướng sĩ nên kịp bắc thang lên thành. Được một lát, vua trông thấy đằng xa dinh quân tiền khu đã lên đến tường con trên thành, mới bắn 3 tiếng súng để ứng. Lại sai nội thần đem quân Thiên vũ phá cửa Đông để vào…Ngày mồng 2, vua thấy đã phá được thành Chà- bàn rồi, xuống chiếu đem quân về”(1). Từ thời điểm lịch sử đó, thành Chà Bàn chấm dứt hoàn toàn chức năng là kinh đô của nước Chămpa và cũng “bị bỏ”. Hơn 300 năm sau, vào năm 1776, Nguyễn Nhạc đã “nhân đất cũ của Chiêm Thành, sửa đắp thành Đồ Bàn, đào lấy đá ong xây dựng thành luỹ, mở rộng cung điện”(2). Đến năm 1778, Nguyễn Nhạc cho đổi tên là thành Hoàng Đế. Và, trong khoảng gần 20 năm (từ 1776 đến 1793) toà thành mới này đã là đại bản doanh của quân Tây Sơn và sau đó là kinh đô của chính quyên Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Rồi, từ 1793 cho đến khi nhà Tây Sơn thất bại hoàn toàn (năm 1802), tại đây, đã diễn ra những trận chiến quyết liệt giữa quân Tây Sơn và quân nhà Nguyễn. Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn chép về toà thành này dưới tên gọi “thành cũ Chà Bàn” khá cụ thể: “Thành ở địa phận ba thôn Nam Định, Bắc Thuận và Bả Canh về phía đông bắc huyện Tuy Viễn, xưa là quốc đô của Chiêm Thành; chu vi 30 dặm, trong thành có tháp cổ, có nghê đá, voi đá, đều của người Chiêm Thành. Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc chiếm cứ thành này, nhân nền cũ xây đá ong, tiếm xưng là thành Hoàng Đế; năm Kỷ Mùi (1799) đầu thời trung hưng khi mới thu phục được đất này, đổi tên là thành Bình Định, năm Nhâm Tuất (1802) đổi làm trấn, sau dời đến lỵ sở hiện nay, bèn bỏ thành này, nay vẫn còn nền cũ. Trong thành có đền Chiêu Trung thờ Hoài Quốc công Võ Tánh và Ninh Hoà quận công Ngô Tòng Chu.”(3) Như sử sách cho biết, trong hơn hai chục năm (1778- 1799), thủ lĩnh phong trào Tây Sơn chọn thành Chà Bàn của Chămpa xưa làm đại bản doanh và đã “sửa đắp thành, đào lấy đá ong xây dựng thành luỹ, mở rộng cung điện”. Do vậy, như các nhà nghiên cứu đã nhận thấy, những dấu tích còn lại cho đến nay chính là của toà thành Hoàng Đế của Nguyễn Nhạc. Toà thành này có cấu trúc ba lớp. Lớp ngoài cùng là thành ngoại dài 7.330 mét có hình dáng gần như chữ nhật, nhưng các cạnh uốn lượn không thẳng và các góc cũng không vuông. Chiều dài các cạnh không đều nhau: cạnh phía bắc dài 2.038 m., cạnh phía nam dài 2.118 m., cạnh phía đông tương đối thẳng dài 1.564 m., cạnh phía tây uốn lượn, hơi lệch về hướng tây- nam, dài 1.610 m. Thành có 5 cửa. Ngoài ba cửa Bắc, Đông, Tây, mặt phía Nam có hai cửa: cửa Vệ hay còn gọi là cửa Nam và cửa Tân Khai (mới mở). Dấu tích của cả 5 cửa hiện nay vẫn còn. Thành nhìn về hướng Nam, nên cửa Vệ (cửa Nam) còn có tên là cửa Tiền, cửa Đông gọi là cửa Tả, cửa Tây là cửa Hữu , cửa Bắc là cửa Hậu. Thành Nội được xây thẳng hướng với cửa Nam, nằm lệch về góc tây- nam thành ngoại. Vòng thành này hầu như đã bị phá hoại hoàn toàn. Thế nhưng, dấu tích còn lại cho thấy, thành có cấu trúc hình chữ nhật gióng đúng theo bốn hướng với tổng chu vi 1.600 m. (430m x 370m). Thành nội cũng được xây dựng bằng kỹ thuật đã xây thành ngoại: đắp đất, bó đá ong hai mặt. Thành nội chỉ mở 3 của. Cửa Tiền thẳng hướng tới cửa Vệ, cách thành ngoại 180m. Cửa Đông và cửa Tây trổ vào khoảng chính giữa mỗi cạnh thành. Tử Cấm thành là vòng thành trong cùng cũng có cấu trúc hình chữ nhật, chu vi 600m (126m x 174m). Tường của Tử Cấm thành xây thẳng, mặt rộng khoảng 1,5m, chiều cao còn lại trung bình là 1,8m và chỉ mở một cửa về phía Nam với các tên gọi Nam Lâu, Tam Quan và Quyền Bổng. Nhìn về địa thế tự nhiên, toà thành Hoàng đế còn được phòng vệ bằng cả một hệ thống sông ngòi, núi đồi, gò tự nhiên và nhân tạo bao bọc xung quanh. Sông Đập Đá tách ra ở Thiết Trụ (xã Nhơn Mỹ) rồi hợp lại ở Lý Tây (xã Nhơn Thành) đã bao bọc thành Hoàng Đế như những con hào tự nhiên, đồng thời là những con đường thuỷ thuận lợi. Phía tây- bắc thành còn dấu vết một bên thuyền xưa ở khu vực Bến Gỗ. Từ bến này, thuyền bè có thể theo đường sông Quai Vạc trở lại sông Côn rồi ngược lên Thượng Đạo hoặc xuôi theo sông Đập Đá, sông Đại An về phía đông ra cửa Thị Nại. Ngoài hệ thống sông ngòi, phía nam thành có gò Vân Sơn, gò Tập, xa hơn gò Tập một chút có núi Long Cốt…(4) Dù rằng những dấu tích tường luỹ hiện nay hầu hết là của thành Hoàng Đế (20 năm cuối thế kỷ XVIII), nhưng, như các tài liệu lịch sử ghi chép và các nhà nghiên cứu đã nhận thấy, về cơ bản, cấu trúc, hình dáng và quy mô của thành Hoàng Đế là vốn của thành Chà Bàn xưa. Theo nhận xét của các nhà nghiên cứu, đối chiếu với các sách địa lý và lịch sử thì nguyên xưa thành Chà Bàn chỉ có 4 cửa. Cửa Tân Khai mới được mở khi Nguyễn Nhạc xây thành Hoàng đế.(5) Như vậy là, qua những ghi chép của sử sách và những khảo cứu của các nhà khoa học, chúng ta biết khá rõ hai điều: một là cái mốc thời gian chấm dứt sự tồn tại của toà thành Chà Bàn (năm 1471) và hai là có thể dựa vào dấu tích của thành Hoàng Đế thời Tây Sơn để khôi phục lại cấu trúc và mô hình của thành Chà Bàn của nhà nước cổ Chămpa- một mô hình cấu trúc đô thị phổ biến của các quốc gia cổ chịu ảnh hưởng văn hoá Ân Độ ở khu vực Đông Nam á. Điều thứ nhất về thời điểm chấm dứt sự tồn tại của thành Chà Bàn như kinh đô của nhà nước Chămpa là chắc chắn rồi. Thế nhưng, khi nào thì thành Chà Bàn, mà dấu tích còn lại ở xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, trở thành kinh đô của Chămpa, thì còn là vấn đề. Các tư liệu lịch sử cho biết, vào cuối thế kỷ X, kinh đô Chămpa ở phía Bắc (vùng đất tỉnh Quảng Nam bây giờ) bị người Việt chiếm và từ đó trở đi, các vua Chiêm Thành đã phải định đô ở một nơi mới tại vùng đất của tỉnh Bình Định ngày nay. Ví dụ, về những sự kiện này sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết cụ thể là vào năm Nhâm ngọ, năm thứ 3 kỷ nhà Lê [982] (Tống, Thái bình hưng quốc năm thứ 7), vua Lê Đại Hành đi đánh nước Chiêm Thành và thắng được. Cũng theo các sử liệu, vì người Chiêm cùng phò mã Ngô Nhật Khánh vào cướp phá và có ý đồ đánh thành Hoa Lư, nhưng không thành; rồi thì, sau đấy vua Chiêm Thành còn bắt giữ sứ thần của nhà Lê, nên “vua giận, mới đóng thuyền chiến, sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh, chém được Phê Mị Thuế (Paramesvaravarman) tại trận; Chiêm Thành thua to; bắt sống được binh sĩ không biết bao nhiêu mà kể…; san phẳng thành trì, phá huỷ tôn miếu, vừa một năm thì trở về Kinh sư.”(6) Cũng sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, vào năm 988, vua nước Chiêm Thành là Băng vương La duệ ở Phật Thành (tức Chà Bàn) tự đặt hiệu là Cu-thi-lị Ha-thân-bài-ma-la (Harivarman II)(7). Và, điều đặc biệt, như các nhà nghiên cứu đã nhận thấy, từ vị vua đầu tiên định đô ở Chà Bàn là Harivarman II trở đi, danh hiệu của hoàng gia thay đổi và các tên vua xuất hiện tất cả đều có chữ “Vijaya Sri” đi trước. Hơn thế nữa, trong một bức thư gửi hoàng đế Trung Quốc, Harivarman còn được xác minh là “vua của vương quốc Vijaya mới thành lập”. Như vậy là, thành Chà Bàn được lập và trở thành kinh đô của Chămpa từ năm 988. Như đã mô tả ở trên, có thể thấy, dù đã bị hoang phế và dù đã được tu sửa ít nhiều về sau này, nhưng, nếu so với những toà thành cổ Chămpa hiện còn được biết, thì thành Chà Bàn còn nguyên vẹn nhất và còn lưu lại nhiều hiện vật và dấu tích kiến trúc nhất. Do vậy, qua thành Chà Bàn, có thể ít nhiều hiểu được mô hình và chức năng của một trong những kinh đô cổ của vương quốc Chămpa xưa. Ngay từ giữa những năm 1990, trong các công trình đã công bố, chúng tôi bước đầu nhận thấy thành Chà Bàn với ngôi tháp Cánh Tiên ở trung tâm có gì đó gần giống với mô hình đô thành Ăngco Thom của Cămpuchia. Giờ đây, sau nhiều lần đến nghiên cứu, chúng tôi càng tin rằng, Chà Bàn cũng như Ăngco Thom là những đô thành được làm theo mô hình các đô thành cổ của Ân Độ. Mà, các đô thành cổ làm theo mô hình của Ân Độ ở Đông Nam á, mà tiêu biểu là Ăngco Thom (được xây dựng trong những năm 1181- 1219), như nhận xét của nhà nghiên cứu G. Coedes, “khác các đô thị của phương Tây của chúng ta, nghĩa là nó không phải chỉ là một số nhà ở, chợ búa và toà thị chính. Mà nó là sự mô phỏng thu nhỏ cái thế giới hoang đường theo vũ trụ luận của Hindu giáo, nghĩa là một mô hình nhỏ bé hay một Tiểu vũ trụ của Đại vũ trụ.”(8) Theo mô hình của vũ trụ luận Hindu giáo, tại giữa đô thành Ăngco Thom là ngôi đền lớn Bayon- thần sơn Mêru, nơi ngự của các thần. Bao quanh đền Bayon là một khu đất rộng, mà ở đó có dinh thự của vua. Khu đất này được bao quanh bằng tường cao, hào sâu, mà theo quan niệm của thần thoại Hindu giáo, là những hình ảnh biểu tượng cho núi và đại dương bao quanh và ngăn cách thế giới linh thiêng của các thần với các thế giới khác. Không phải ngẫu nhiên mà Ăngco Thom được gọi là “thành phố của các Thần”. Qua những dấu tích còn lại như đã được mô tả, đô thành Chà Bàn cũng được làm theo mô hình một đô thành linh thiêng của các Thần với thần sơn Mêru là ngôi tháp Cánh tiên ngự trên quả đồi cao ở chính giữa thành, với khu dinh thự của vua chúa nằm về phía tây. Cũng như ở Ăngco Thom, bốn bức tường thành và những dòng sông và hào nước bao quanh thành Chà Bàn chính là hình ảnh của những dãy núi và đại dương linh thiêng của đại vũ trụ. Cũng qua những di tích, dấu tích và hiện vật còn lại, có thể thấy đô thành Chà Bàn là một đô thị thiêng mang ý nghĩa như là một trung tâm tôn giáo, chính trị và văn hoá hơn là một thành thị. Không phải ngẫu nhiên mà trong khu vực thành Chà Bàn, những di tích, dấu tích và hiện vật còn lại chủ yếu là của các công trình tôn giáo và của khu cung điện. Trong thành Chà Bàn, không có những dấu tích của các khu thương mại, buôn bán – một trong những nét đặc trưng quan trọng của kết cấu đô thị khá phổ biến trên thế giới. Với những gì còn lại và được biết, thành Chà Bàn của vương quốc cổ Chămpa có thể được đưa vào danh sách những “đô thành thiêng” tiêu biểu- những đô thành chỉ chủ yếu đóng vai trò như một trung tâm tôn giáo, chính trị và văn hoá của quốc gia- ở khu vực Đông Nam á thời cổ. Thế nhưng, như các đô thành cổ của Chămpa trước đó, bên cạnh yếu tố mô hình một “đô thị thiêng” của Ân Độ, thành Chà Bàn còn được xây dựng theo những chuẩn mực của luật phong thủy của phương đông một cách rất bài bản. Như các tài liệu mà chúng tôi đã dẫn ở trên, một trong những chi tiết phong thủy đẹp nhất và chuẩn nhất của thành Chà Bàn là có “núi vây sông bọc”: “Nhìn về địa thế tự nhiên, toà thành Hoàng đế còn được phòng vệ bằng cả một hệ thống sông ngòi, núi đồi, gò tự nhiên và nhân tạo bao bọc xung quanh. Sông Đập Đá tách ra ở Thiết Trụ (xã Nhơn Mỹ) rồi hợp lại ở Lý Tây (xã Nhơn Thành) đã bao bọc thành Hoàng Đế như những con hào tự nhiên, đồng thời là những con đường thuỷ thuận lợi. Phía tây- bắc thành còn dấu vết một bên thuyền xưa ở khu vực Bến Gỗ. Từ bến này, thuyền bè có thể theo đường sông Quai Vạc trở lại sông Côn rồi ngược lên Thượng Đạo hoặc xuôi theo sông Đập Đá, sông Đại An về phía đông ra cửa Thị Nại. Ngoài hệ thống sông ngòi, phía nam thành có gò Vân Sơn, gò Tập, xa hơn gò Tập một chút có núi Long Cốt…” . Mà, theo luật phong thủy, “núi vây sông bọc tất có khí. hơn thế nữa, các dòng sông bọc quanh thành Chà Bàn lại chảy uốn cong cho nước tụ lại (tính tụ khí) để tạo thành một “kim thành hoàn bao”. Mà, theo lý luận phong thủy học, thì “sông nhiều uốn khúc, phúc thọ an nhàn, Quanh co chảy đến, vinh hoa ngập tràn.”, hay “khí là mẹ của nước, nước là con của khí, khí đi đâu nước theo đó, nước dừng thì khí tụ.” (nghĩa là, nước chảy đến chỗ rẽ, chỗ nước gần như lặng, thì khí được tích lại. Dòng chảy gấp khúc tôt hơn dòng chảy thẳng). Điểm thành công thứ hai cũng rất quan trọng của thành Chà Bàn chính là việc tòa thành này được xây dựng theo thuyết “tứ thần sa” (Chu Tước, Huyền Vũ, Thanh Long, Bạch Hổ) của luật phong thủy. Để thấy rõ được điều này, chúng ta hãy cùng quan sát thành Chà Bàn trên bản đồ tự nhiên để có thể cảm nhận được những điều ghi chép của người xưa về vị thế đắc địa của tòa thành này: thành tựa vào thế núi Long Cốt làm kiên cố; phía đông thành chừng 7 dặm có ngọn núi đứng chơ vơ mà đầu nhọn để làm bình phong cho thành, đó là núi “Tiên Tỉnh” (nay là nuos Mò O) và còn gọi là núi con Quạ hay Diều Hâu; nhìn sang hướng bắc có ba tầng núi hình như vẩy con Kỳ Lân, đó là núi Bố Chính và núi Thạch Bàn thuộc huyện Phù Cát và Phù mỹ; nhìn về hướng nam, những dãy núi đất lởm chởm chạy dài đến hơn trăm dặm... (Nguyễn Văn Hiển: Đồ Bàn thành ký.). Cũng người xưa đã khái quát về luật phong thủy của thành Chà Bàn như sau: “Thành Chà Bàn được xây dựng vào trung tâm của nước, tựa vào thế vững của núi Long Cốt, non xanh bày hàng trước mặt, nước biếc uốn réo xung quanh... bên hữu lấy núi Phong làm lũy, bên tả lấy bể làm hào; núi Cù Mông như rồng cuộn khúc ở phía trước; bến Thạch Tân như cọp hùng cứ ở mặt sau, quả là nơi hiểm trở thiên nhiên vậy.” Như đã mô tả và phân tích, với tất cả những đặc thù của mình, thành Chà Bàn ở Bình Định là một trong những di tích đô thành điển hình được xây dựng không chỉ theo mô hình thần thoại Hindu giáo mà còn tuân theo một cách nghiêm ngặt và thành công các luật phong thủy của Trung Hoa hiếm hoi còn lại khá nguyên vẹn không chỉ ở Việt Nam mà còn ở cả khu vực Đông Nam á. Bởi vậy, toà thành đặc biệt này chắc chắn sẽ cung cấp nhiều cứ liệu quý cho các nhà nghiên cứu về lịch sử đô thị của Chămpa nói riêng và của cả khu vực Đông Nam á nói chung. Thành Chà Bàn quả là một trong những di tích đô thị cổ có nhiều ý nghĩa lịch sử và văn hoá của Chămpa xứng đáng được gìn giữ và bảo vệ. ----------------------------------------------------------- Chú thích 1. Đại Việt sử ký toàn thư, tập III, Nxb. KHXH, Hà Nội,1972, tr.236. 2. Dẫn theo: Bình Định: danh thắng và di tích (Vũ Minh Giang chủ biên), Bình Định, 2000, tr.128. 3. Đại Nam nhất thống chí, Tập III, Nxb. Thuận Hoá, 1997, tr.37-38. 4. Theo: Bình Định: danh thắng và di tích, sđd. tr.128- 130. 5.6. Đại Việt sử ký toàn thư, (bản dịch tiếng Việt), Nxb. KHXH, Hà Nội, 1972, Tập I, tr.168-169, 172. 7. G. Maspero, Le Royaume de Champa, Paris, 1928, tr.127. 8. G. Coedes, Angkor, An Introduction, (trans. Gardiner, Emily Floyd), London,1963, tr.40.
-
TÍNH KHOA HỌC PHONG THỦY TRONG KIẾN TRÚC TRUYỀN THỐNG – HIỆN ĐẠI GS Cao Xuân Phổ Phép Phong thủy thường được dùng để chọn đất khi lập thành quách, cất đình chùa, làm nhà cửa, để mồ mả. Đất làm nhà cửa gọi là dương cơ, đất để mồ mả gọi là âm phần. Về dương cơ thì thường người ta ít kén chọn chỗ đất, chỉ lấy hướng cho hợp thôi, đến như âm phần thì người ta thường nhờ thầy bói thì tìm cẩn thận lắm. Phép phong thủy trước hết phải phân biệt hình đất làm 5 hình chính là :thủy, hỏa, mộc, kim, thổ. Người ta lại tùy thế đất giống hình dạng vật gì mà phân biệt những kiểu đất như lục long tranh châu, quần tiên hộ ẩm, hổ trục quần dương...đó đều là những kiểu đất quý cả. Lại có những kiểu đất con rùa, con cá, con voi, con ngựa, cái cờ, cái ấn, ngòi bút, thanh gươm... Khi tìm đất thì trước hết phải tìm hổ sơn (núi chúa) rồi dò long mạch theo thế đất mà tìm huyệt. Huyệt trường tất phải có tiền ám hậu chẫm, tả long hữu hổ, phía trước có minh đường thủy hội tụ, phía sau có long mạch thu thức, phía ngoài có hàng sa triều củng, đất được như thế tức là chỗ tụ khí tàng phong, mới là chân huyệt. Nếu chỗ sơn cùng thủy tận gọi là tuyệt địa. Thầy Đào Duy Anh lúc sinh thời có dạy chúng tôi như vậy. Thuật phong thủy đã thấy xuất hiện ở Trung Quốc vào đời Tần (221 – 226 TCN) và phát triển cho đến thời Nguyên (1271-1368 SCN). Ở nước ta thì có ông Nguyễn Đức Huyên người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ An, sau khi học phép phong thủy địa lý ở Tàu, khi trở về nhà làm đất nổi tiếng một thời, thường được gọi là thầy Tả Ao. Phép phong thủy đã được vua nhà Lý đầu tiên- Lý Thái Tổ- vận dụng để xây dựng kinh thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Trong Chiếu dời đô vua tự tay viết : “Nơi đây, thành Đại La (đô cũ thời Cao Biền) ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa Nam Bắc Đông Tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa,. dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt, phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời...” Nhà vua cho dựng kho tàng, đắp thành, đào hào. Bốn mặt thành mở 4 cửa, phía đông gọi là cửa Tường Phù, phía Tây gọi là cửa Quảng Phúc, phía nam gọi là cửa Đại Hưng, phía Bắc gọi là cửa Diệu Đức. Hiển nhiên, hiểu biết thuật phong thủy phải là người có học thức, song người dân sống nơi thôn dã cũng có những khái niệm về phong thủy để ứng dụng trong cuộc sống bình nhật của mình, như khi họ nói kiểu đất con rùa, con cá, con voi, con ngựa, cái ấn, ngòi bút, thanh gươm...Chẳng hạn như người dân có câu ‘lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng nam” là để nói lên hướng nhà ấm về mùa đông mà mát về mùa hè. Hay làm nhà quay về hướng đông là hướng mặt của các thần, như có thể thấy ở các chùa dòng Tiểu thừa thường gặp ở đồng bằng sông Cửu Long. Hướng tây được coi như là lưng của thần, hướng ổn định, thường được xây thành tường hậu. Người sống ở đâu cũng cần có nhà, cho nên thuật kiến trúc là cơ bản bao gồm các thuật khác như thổ địa, khí hậu, phong tục, tôn giáo, chế độ.... Như vậy, thuật kiến trúc và tiêu biểu được rõ nhất là cái tư tưởng chung, cái tinh thần chung của chủng tộc. (1). Về thổ địa và vật liệu thì ở nước ta nhà cửa phần nhiều làm bằng tre và gỗ cho nên phải làm nhiểu cột kèo dằng dịt nhau, phải làm tường cách và mái nặng cho vững chãi; vì khí hậy nóng nên nhà ít tường vách ngăn phòng và mặt trược thường để trống hoặc chỉ treo rèm. Cách làm nhà lại còn phải theo nhiều điểu lễ giáo và luật pháp quy định. Theo sách Lễ ký và Gia lễ thì trong việc làm nhà có ba điều trọng yếu nhất là : chọn hướng nhà cửa cho tốt, đặt bàn thờ gia tiên ở gian giữa và ngăn riêng chỗ ở của đàn ông, đàn bà. Theo luật xưa thì ai làm nhà mà không theo cách thức đã định thì phải phạt tội trường (2). Trừ nhà quan, còn nhà dân thì không được làm to lớn, không được làm gác và không được làm hình chữ Công và chữ Môn. Kiểu nhà xưa hơn hết là kiểu nhà bốn mái (hai mái chính và hai mái chái) rồi đến kiểu nhà hai mái bịt dốc (không chái). Nhà thường có ba gan hai chái, hoặc năm gian, ba mặt tả, hữu và hậu có vách bằng nứa hoặc bằng đất, hoặc bằng ván hay bằng tường gạch, không phải để đỡ mái nhà như ở các nhà tây, mà cốt để che mưa che gió. Ở mặt trước thì chỉ có cốt cột và rèm che, thỉnh thoảng mới có cửa ván. Cột thì thường đặt trên đá tảng chứ không chôn xuống đất (trừ nhà tre). Khi làm nhà thì trước hết dựng bốn cột cái gian giữa và cây đòn nóc, rồi sau thêm cột cái và kèo ở các gian bên cùng các hàng cột con và cột hiên. Những cột kèo ấy dằng dịt nhau thành cái sườn nhà rất vững, rồi ở trên, đặt mái nhà (3). Dinh thự các quan và cung điện nhà vua, cùng các đình, chùa, lăng miếu là chỗ tế tự cũng làm theo kiểu nhà ở thường, tuy to rộng lớn hơn. Bộ phận chính của nhà ba gian và hai hàng cột cái ở giữa, muốn làm rộng thêm thì cứ làm thêm gian ở hai đầu và thêm hàng cột con ở trước, sau. Làm nhà lớn hay nhỏ đều hạn chế ở trong cách thức nhất định ấy, cho nên khi làm to như đền chùa cung điện, tài nghề của thợ chỉ có thể trổ ra ở trang sức mà thôi, như ở cột kèo, rầm ngang xà dọc, con sơn, cửa võng, cửa bức bàn, cửa trấn song. Các tường hoa mái dốc nóc nhà thường đắp thành hổ phù hoặc tứ linh. Đằng trước những tòa thành lớn và đình chùa dinh thự, cung điện thường có một bức bình phong rồi mới đến cửa vào, có hai hoặc bốn cột trụ hoặc cửa tam quan trên có gác canh hoặc lầu chuông. Ở bốn mặt thường có thành cao vây bọc. Khi một sở có nhiều nhà thì thường cách nhau bằng những sân rộng, ở trong có bình phong bể cạn, chậu cảnh cùng đình tạ. Xung quanh các tòa nhà đồ sộ nghiêm trang đó, thường có cây cối um tùm và ao hồ rộng rãi, làm cho cảnh trí thêm vẻ oai nghiêm và thoải mái. Các lăng tẩm ở Huế sở dĩ là những nơi thắng cảnh ở kinh đô, phần nhiều là nhờ cảnh trí thiên nhiên khéo dung hợp với công trình nhân tạo(4). Sự dung hợp nhân tạo với thiên nhiên là cốt lõi của kiến trúc truyền thống. Xin lấy một ví dụ: hồ Hoàn Kiến, giữa hồ có Tháp Rùa cao vừa phải, phù hợp với diện tích mặt nước hồ. Quanh hồ, trồng cây cao tương ứng với Tháp Rùa. Rồi từ đó, cây trồng và nhà xây cứ cao dần lên đến tận bờ đê, như Nhà Hát Lớn, Ngân hàng quốc gia....Tháp Rùa trở thành “rốn” của lòng chảo xanh rờn cây lá, điểm xuyết những đốm trắng đốm đỏ của các mái nhà ẩn hiện trong nền lá xanh. Vào những ngày lễ hội, buổi tối Tháp Rùa lung linh trong ánh điện bóng mờ, quanh hồ vương vãi những đốm trắng xanh từ bóng điện của các tòa nhà cao thấp ẩn hiện trong màn xanh trông chẳng khác gì một vòm trời đêm đầy sao trăng đảo ngược! (Ngày nay, quanh hồ xây những tòa nhà cao tầng, trông hồ chẳng khác gì cái ao làng !) Ngày nay, xã hội đang phát triển. Việc xây nhà dựng cửa cho gia đình, con cháu được thuận tiện hơn. Dù ở nông thôn hay thành thị thì tiêu chí đầu tiên vẫn là hướng: "Làm nhà trông hướng" . Hướng Nam vẫn được coi là hướng thích hợp nhất. Ở những nơi có điều kiện đất đai thì đất dựng nhà tốt nhất là vuông vắn hoặc hình chữ nhật nhưng chiều dài chạy theo hướng Nam- Bắc, chiều rộng theo hướng đông – tây là thích hợp hơn cả. Nếu nhà có nhiều đơn nguyên trong một khuôn viên thì thường ngôi nhà chính đặt ở hướng nam và cao hơn ngôn nhà phụ. Nếu chia làm nhiểu gian thì số gian thường là số lẻ, số gian phía đông và phía tây bằng nhau. Cổng lớn đặt chếch về phía đông – nam. Trước cổng không nên có hai ao, (hoặc hai giếng). Rất kỵ cửa ra vào và cửa sổ đối diện nhau, không để mặt trước nhà và mặt sau nhà đều có cửa. Cửa sổ không cao hơn và rộng hơn cửa ra vào. Ngay các lớp ngói, xà ngang, đòn dọc... tất cả đều nên là số lẻ. Ở vùng thôn dã, người ta hay dùng tiếng “thổ mộc” để nói đến việc xây dựng. Đất (thổ) và gỗ (mộc) là nền tảng đầu tiên để kiến tạo không gian cư trú. Trong kiến trúc cổ truyền, kết cấu khung gỗ (hệ thống cột, xà ngang, xà dọc, bộ khung mái...) đóng vai trò chủ chốt. Toàn bộ sức nặng của mái nhà và độ vững chãi của ngôi nhà đều dựa vào bộ khung kết cấu gỗ này. Tường vách (ngày trước là đất nện, sau này là gạch) chỉ đóng vai trò ngăn cách không gian (ngoại thất, nội thất), vì vậy trong dân gian mới có câu “tường đổ nhà vẫn còn”. Khi làm ra được ngói thì bộ khung mái được cải tiến, gia cố thêm. Nhiều bộ phận mới được sáng tạo ra nhằm tăng cường độ vững bền của toàn bộ kết cấu khung nhà, như kết cấu chồng đấu, củng, kẻ, bẩy..., hệ thống cột cái con..., không những có giá trị thực dụng mà còn có giá trị thẩm mỹ vì thường được chạm, khắc, tô vẽ công phu, tỉ mỉ. Thế rồi bậc thầm, lan can, mái ngói lưu ly, khung cửa, cánh cửa...tất cả đều là những bộ phận kiến trúc mà các nghệ nhân điêu khắc, hội họa có thế tha hồ đua nhau trổ tài nhằm làm tăng thêm vẻ đẹp của nội thất, ngoại thất, tạo ra những kiểu thức kiến trúc đa dạng. Còn nhà dân thì hầu hết được xây cất trên cơ sở bộ Khung kết cấu hoặc tre. Vào thời trước, không được làm thềm cao nhiều bậc, không được làm lầu gác cao quá mui xe kiệu của vua quan, không được chạm trổ các bộ phận gỗ, không dược dùng sơn vôi màu đỏ, màu vàng... Thời trước, trong giới quý tộc còn có kiểu cư trú “tứ hợp viện” (nhà ở quây quanh bốn mặt) hoặc “tam hợp viện” (nhà ở quây quanh ba mặt sân). Có thể coi đây là một loại “chung cư”(5). Chung cư ngày xưa là của quý tộc gồm nhiều thế hệ, cso những quy cách nhất định (có dịp sẽ xin bàn đến sau). Chung cư ngày nay, cũng có nơi gọi là cư xá- là của toàn dân, có nhiều loại hình và bố cục khác nhau dành cho gia đình những người có điều kiện kinh tế và vị trí xã hội khác nhau. Chung cưa hay nhà ở, lâu đài, biệt thự của người Việt trước cũng như nay đều được xây dựng theo thế phong thủy khác nhau tùy từng vùng, miền nhằm đảm bảo một cuộc sống ổn định yên lành cho con người cư ngụ. 30-11-2009 ------------------------------------------------------------------------- Chú thích: 1. H. Gourdon, Sur l,art annamite, Revue Indochinoise 2. Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Bốn phương, 1938, tr 282. 3. Đào Duy Anh, sđd, tr 283. 4. Đào Duy Anh, sdd, tr 283,284. 5. Đặng Đức Siêu, Văn hóa Trung Hoa, NXB Lao Động, 2004, tr 256.
-
Trong thiên nhiên hoang dã thì khái niệm "mạnh" và "yếu" được hiểu là sức lực, phương tiện tự nhiên ban cho loài nào đó trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Nhưng trong xã hội loài người thì khái niệm mạnh có khác. Nó không đơn thuần là cơ bắp, vũ khí...vv..... Thế nào được coi là mạnh?
-
Hội thảo có vài trục trặc, nên dự báo trên không xảy ra ở điểm: Không có mưa rửa đường cho sạch sẽ.Còn các dự báo khác đều đúng.
-
:blink: Cảm ơn anh Vuivui. Vấn đề được tiếp tục.....như trên.
-
Anh Vuivui thân mến.Vâng! Đồng ý với kết luận của anh. Tính bất định được nhìn nhận như là một thực tại khách quan và hiện đã và đang có những lý thuyết khoa học được xây dựng trên cơ sở nhận thức đó. Như vậy, về tính chất không khác nhiều với kết luận của tôi, nhưng tính không chắc chắn của lý thuyết Bất định theo kết luận của anh mong manh hơn. Nhưng dù chắc chắn hay mong manh thì nó vẫn chỉ có thể nằm 1 trong ba vấn đề được đặt ra như tôi đã trình bày. Và vấn đề thứ nhất - sự loại suy một trong hai lý thuyết - là không xảy ra. Và cũng không thể lý thuyết ADNH là trường hợp riêng của thuyết Bất định được, bởi những suy luận hợp lý liên quan. Vấn đề còn lại chính là làm sáng tỏ bản chất thuyết ADNh - không như phần lớn các nhà khoa học hiện đại hiểu theo cổ thư chữ Hán.
-
Đây là sự xác minh lời bàn này và là lời cảnh tỉnh đến các đại gia tầm cỡ quốc tế khi ngất ngây với tiền của của mình (Còn các đại gia phọt phẹt ở các nước đang phát triển tạm thời chưa bàn): Dubai World trước nguy cơ phá sản Thứ ba, 15/12/2009, 09:59(GMT+7) VIT - Theo nhận định của các chuyên gia phân tích, sau khi Abu Dhabi cung ứng khoản cho vay trị giá 10 tỷ USD, Dubai World vẫn đứng trước nguy cơ phá sản. Theo tuyên bố của các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất, Abu Dhabi sẽ cho Dubai World vay 10 tỷ USD để trang trải các khoản nợ, giúp khu vực tài chính này nhanh chóng thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng khoản nợ. Chủ tịch Ủy ban tài chính tối cao tại Dubai Ahmed Said Al – Maktoum cho biết thêm, lần này không chỉ bao gồm kế hoạch hỗ trợ tài chính, Dhabi còn tiếp tục đối thoại trực tiếp về phương thức sử dụng, thủ tục để giảm các khoản nợ và các điều kiện liên quan. Kế hoạch chi ra khoản hỗ trợ trị giá 10 tỷ USD, là bước đi đầu tiên để giảm bớt khủng hoảng, Chính phủ Dubai sẽ phân chia khoản cho hỗ trợ này ra thành 4,1 tỷ USD để hoàn trả khoản nợ đã đáo hạn vào hôm 14/12 đối với Nakheel, công ty bất động sản hàng đầu của Dubai. Sau đó, nguồn vốn cứu trợ còn lại sẽ dùng để hỗ trợ lợi tức và giúp các công ty con vận hành được cho đến ngày 30/4/2010. Ngoài ra, Chính phủ Dubai cũng công bố một khuôn khổ pháp lý với việc bảo vệ quyền lợi của giới chủ nợ một cách minh bạch hơn. Nếu như Dubai World và các công ty con của họ không thể đạt được thỏa thuận với các chủ nợ về vấn đề kéo dài thời gian hoàn nợ, những điều khoản về quy định của luật pháp sẽ bắt đầu “ra tay”. Quy định này của Chính phủ Dubai đã ngầm cho thấy, Dubai World vẫn tồn tại khả năng phá sản nếu như họ tiếp tục vướng vào các điều khoản liên quan đến nợ nần. Các nhà phân tích cho rằng, Abu Dhabi sau một thời gian dài xem xét đã đưa ra kế hoạch này, cho thấy thái độ quan tâm của họ về việc ứng phó với khủng hoảng các khoản nợ của Dubai World. Việc Abu Dhabi quyết định ra tay cứu giúp Dubai World, không gây ngạc nhiên cho giới phân tích. Việc làm này của Dhabi một mặt là để ngăn chặn tình hình tiếp tục được nhân rộng, một mặt cố gắng để cải thiện tình hình, cũng như để chứng minh sức mạnh kinh tế cũng như năng lực ứng phó với khủng hoảng tài chính của Abu Dhabi. Sau khi khủng hoảng các khoản nợ của Dubai bùng nổ, giới truyền thông phương Tây cho rằng, những khó khăn của Dubai sẽ khó nhận được sự hỗ trợ của Abu Dhabi. Việc Abu Dhabi cứu giúp Dubai cho thấy nền tảng vững chắc và sự tự tin giải quyết khủng hoảng tài chính của đế chế kinh tế này, nhanh chóng loại bỏ những suy đoán và hoài nghi của thế giới bên ngoài. Thực chất khoản cứu trợ này của Abu Dhabi chỉ như “muối bỏ bể” đối với Dubai World nhưng nó cũng là một khoản tiền lớn mang ý nghĩa quyết định cuối cùng. Việc cung ứng khoản cho vay 4,1 tỷ USD đi kèm những điều kiện tiên quyết có thể tăng thêm áp lực cho “luật phá sản mới” đối với Dubai. N.S (Lược theo CE) ------------------------------------------- Nhời bàn của Thiên Sứ: Chắc quí vị nhận thấy các lưỡi lửa trong hình minh họa của bài viết này. Đó chính là những ngôi nhà siêu hiện đại trong dự án xây dựng của Dubai từ vài năm trước. Nếu tôi nhớ không nhầm thì khóa Phong Thủy Lạc Việt I đã phân tích hình thể của những ngôi nhà này và đã dự báo cho tương lai không mấy tốt đẹp của nó.
-
Xin cảm ơn anh Vuivui đã cho tôi hiểu thêm về Lý thuyết Bất Định. Tôi cũng vui mừng để thông báo với anh và quí vị quan tâm đến topic này là cuộc hội thảo "Tính khoa học của phong thủy trong kiến trúc và xây dựng" đã kết thúc thành công về căn bản. Như vậy, tôi có thể an tâm hơn trong công việc của mình, ít nhất về mặt thời gian. Anh Vuivui thân mến. Qua nội dung anh miêu tả thì tôi hiểu bản chất của thuyết Bất Định có thể tóm tắt trong đoạn sau: Tóm gọn hơn, có thể hiểu rằng:Tính bất định là một thực tế khách quan đã được minh chứng bằng những công thức toán và làm nên một lý thuyết trên cơ sở nhận thức thực tế khách quan được chứng minh đó. Tuy nhiên, với những người tìm hiểu về Lý học Đông phương như chúng ta thì chúng ta cũng nhận thấy một thực tế rất khách quan khác mang tính lý thuyết đang tồn tại. Đó là khả năng tiên tri qua các phương phương pháp ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành với những khái niệm của thuyết này phản ảnh thực tế mà tri thức nhân loại hiện đại chưa phát hiện ra - thí dụ - như khái niệm "Khí" của học thuyết này. Hoặc như chúng ta có thể thấy rất rõ - qua các phương pháp ứng dụng của thuyết ADNH - rằng: Có những hiệu ứng tương tác mang tính quy luật từ vũ trụ liên quan đến Địa cầu và nó được công thức, biểu lý trong thuyết này. Từ đó tạo ra những phương pháp tiên tri. Như vậy - giữa hai thực tại khách quan - một thuyết Bất định của tri thức khoa học hiện nay và một của thuyết ADNH với khả năng tiên tri vượt qua tất cả mọi lý thuyết khoa học hiện đại của nó thì chúng ta hoàn toàn có cơ sở để đặt ra những vấn đề như sau: 1 - Chỉ có một lý thuyết đúng. Hoặc thuyết Bất Định đúng, hoặc thuyết ADNH đúng. Tóm lại là chúng phủ định lẫn nhau. 2 - Thuyết Bất định của khoa học hiện đại là trường hợp riêng của thuyết ADNH. 3 - Thuyết Bất định phản ánh đúng thực tại khách quan - nhưng chỉ với khả năng nhận thức hiện tại và chính khả năng nhận thức này được thể hiện bằng những công thức toán xác nhận điều đó. Hay nói cách khác: Các hiểu biết về toán học hiện tại phản ánh đúng một giai đoạn phát triển của vũ trụ và nó phản ánh đúng thực tại đó, nhưng không phải tất cả. Điều này lịch sử nhận thức của nền văn minh đã chứng minh: Thuyết Newton đã hình thành với những công thức toán học và phản ánh đúng thực tại khách quan quan sát được. Nó đã thống trị tư duy nhân loại nhiều thế kỷ. Nhưng các lý thuyết hiện nay cho thấy nó chỉ là trường hợp riêng của thuyết tương đối...vv.... Trong ba vấn đề nêu trên, thì tôi thấy rằng: Trường hợp 3 là hệ quả của trường hợp 2. Và điều này sẽ là hợp lý khi mà thuyết Bất Định phản ảnh một thực tại khách quan - như anh đã dẫn giải - và thuyết ADNH với những hiệu quả tiên tri cũng là thực tế khách quan đã tồn tại vượt thời gian hàng thiên niên kỷ xuyên qua mọi không gian văn hóa của nhân loại. Từ cơ sở suy nghiệm này tôi vẫn nghĩ rằng: Thuyết ADNH vẫn sẽ là một lý thuyết vượt trội và vẫn chưa thể thay đổi quan niệm của tôi cho rằng: Đó chính là lý thuyết Thống nhất mà nhân loại đang mơ ước. Cảm ơn sự quan tâm của anh và quí vị.
-
Cảm ơn Vusonganh. Hội thảo thành công ngoài sự mong đợi. Việc này đạt được phải nói công đầu là Magic. Sau đó là Hoàng triều Hải và Vietligne
-
Cuộc hội thảo đã thành công ngoài dự kiến. Những hình ảnh và nội dung liên quan đến hội thảo sẽ đưa lên diễn đàn này mai. Sự thành công của cuộc hội thảo này do nỗ lực của nhiều người. Nhưng cá nhân tôi và thay mặt Trung Tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương chân thành cảm ơn Magic đã đóng góp công sức rất lớn cho sự thành công của cuộc hội thảo này.
-
Abu Dhabi chi 10 tỷ USD cứu nợ cho Dubai Cập nhật lúc 15:31, Thứ Hai, 14/12/2009 (GMT+7) Chính phủ Dubai hôm nay (14/12) tuyên bố rằng, họ đã nhận được 10 tỉ USD "giải cứu" từ tiểu vương quốc Abu Dhabi nhằm giúp đỡ họ trong việc thanh toán các khoản nợ. Dubai đã nhận được tiền giải cứu từ tiểu vương quốc Abu Dhabi. (Ảnh: Typepad) Theo đó, 4,1 tỉ USD trong số tiền trên sẽ được chuyển cho nhà phát triển bất động sản Nakheel để thanh toán trái phiếu đến hạn. Nakheel nói rằng, họ sẽ thanh toán trái phiếu trong vòng hai tuần tới. Số tiền còn lại dùng để hỗ trợ cho công ty Dubai World - tập đoàn từng đề nghị các chủ nợ chấp nhận cho họ hoãn nợ tới tháng 4/2010. Chỉ số chứng khoán của Dubai đã dẫn đầu trong đà tăng của thị trường khu vực, với hơn 10% trong khi chỉ số chứng khoán của Abu Dhabi tăng 7% ở đầu phiên giao dịch. Quyết định giải cứu từ Abu Dhabi khá bất ngờ và được coi là động thái ít mong đợi nhất trong mọi chọn lựa mà Dubai dự tính sau đề nghị hoãn nợ của Dubai World vào ngày 25/11 như một hồi chuông báo động với thị trường tài chính toàn cầu và làm chấn động hình ảnh của tiểu vương quốc Dubai vốn là một trung tâm kinh doanh trong khu vực. Những chủ nợ của Dubai gồm Standard Chartered, HSBC, Lloyds và Royal Bank of Scotland, cùng với Abu Dhabi Commercial Bank và Emirates NBD, vẫn còn tới ngày 28/12 để nhất trí trong việc hoãn nợ. "Đây quả là điều trên cả sự mong đợi. Là sợi dây cứu đắm chủ chốt vào thời điểm thị trường thực sự trông mong vào đó", John Sfakianakis, chuyên gia kinh tế học tại Banque Saudi Fransi-Credit Agricole nói. "Nó mang lại rất nhiều lòng tin". Abu Dhabi là thành viên lớn nhất của các Tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất, và cũng là một nhà xuất khẩu dầu mỏ lớn. Sheikh Ahmed bin Saaed al-Maktoum, Chủ tịch Uỷ ban Tài chính Dubai tuyên bố, chính phủ Dubai sẽ hành động ở mọi lúc với cam kết phù hợp với nguyên tắc thị trường và chuẩn mực kinh doanh quốc tế, đồng thời nhấn mạnh, tiểu vương quốc này vẫn là một trung tâm tài chính mạnh của toàn cầu. Dubai cũng công bố luật phá sản mới, có thể sử dụng trong trường hợp nếu Dubai World và các chủ nợ không đạt được thỏa thuận hoãn nợ trong tương lai. Luật này có hiệu lực từ hôm nay, cho phép Dubai World được đệ đơn phá sản nếu tái cơ cấu không thành công. Kỳ Thư (Theo Reuters, BBC) ----------------------------------------------------------- Nhời bàn của Thiên Sứ: Nền tảng sâu xa của Dubai chính là sự phát triển kinh tế toàn cầu trong thời đại hoàng kim của nó. Những khách sạn sang trọng với giá hàng ngàn dol trong một đêm với những tiện nghi lộng lẫy, không dành cho "phó thường dân dự khuyết". Tất nhiên nó giành cho những ông chủ tiêu tốn hàng triệu dol trong chiếu bạc. Khi những ông chủ này phá sản vì khủng hoảng kinh tế thì Dubai sẽ không có cơ sở để tồn tại. Dubai - một hình ảnh xuất sắc và điển hình cho sự đầu tư của những người hợm của.
-
Chúng ta phải cảnh giác với hai việc: - Do sự hạn chế của kiến thức mà mắc sai lầm. - Sự phá hoại có chủ ý với văn hóa Việt. Chúng ta không thể phủ nhận một sự thực lịch sử sau đây: - Tướng Tần là Đồ Thư đem hai vạn quân đánh Bách Việt. Thục Phán đem quân chống Tần kéo dài gần 10 năm thì diệt được tướng Tần là Đồ Thư. Thục Phán và vua Hùng Vương có cuộc nội chiến kéo dài nhiều năm, sau đó Hùng Vương nhường ngôi cho Thục Phán. Vậy trường hợp Lý Ông Trọng rơi vào thời điểm nào của giai đoạn Thục Phán chống Tần và chống lại vua Hùng. Rõ ràng là vô lý. Tôi đã dự báo rằng: Chuyện của Rin86 chỉ có thể xưất hiện sau năm 70. Nay Phúc Tuấn xác nhận nó từ Wikipedia, tức là nó chỉ gần đây thôi.
-
Tùy cách hiểu của Phongthuysinh thôi. Tôi đã trình bày ý của mình.
-
HỘI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC .................CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VIỆT NAM - ĐÔNG NAM Á....................................................... Độc lập - Tự Do - Hạnh Phúc - TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG ---------------------------- Số:..../TTNC LHĐP Hà Nội, ngày 21 tháng 10 năm 2009 THÔNG BÁO VỀ VIỆC TỔ CHỨC HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYÊN ĐỀ "TÍNH KHOA HỌC CỦA PHONG THỦY TRONG KIẾN TRÚC VÀ XÂY DỰNG" Căn cứ theo Quyết định số 459/QĐ-TWH ngày 26 tháng 9 năm 2005 của Hội nghiên cứu khoa học Đông Nam Á - Việt Nam về việc thành lập Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương; Căn cứ theo Quyết định số 737/QĐ-TWH ngày 14 tháng 10 năm 2009 của Hội nghiên cứu khoa học Đông Nam Á - Việt Nam về việc thành lập Hội thảo “Tính khoa học của Phong thuỷ trong kiến trúc và xây dựng”. Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương xin trân trọng thông báo tới quí vị quan tâm và toàn thể anh chị em hội viên, các nhà khoa học, nghiên cứu về việc tổ chức hội thảo chuyên đề: "Tính Khoa học của Phong thủy trong kiến trúc và xây dựng" Địa điểm tổ chức: Hội trường Khách Sạn La Thành - Số 218 Phố Đội Cấn - Ba Đình - Hà Nội. Thời gian: Bắt đầu từ 8g 30’ đến 17 giờ ngày 15 tháng 12 năm 2009. Nội dung hội thảo: Làm sáng tỏ bản chất khoa học của Phong thủy và mối liên hệ giữa Phong thuỷ với tri thức khoa học hiện đại trong kiến trúc và xây dựng. Thành phần tham dự: Các Bộ, ban ngành, đoàn thể, các tổ chức và cá nhân nghiên cứu khoa học và xã hội nhân văn liên quan. Trân trọng thông báo./. TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG GIÁM ĐỐC......... Nguyễn Vũ Tuấn Anh TWH NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VIỆT NAM ĐÔNG NAM Á. Quyết định v/v Hội thảo chuyên đề Tính khoa học của Phong thủy trong kiến trúc và xây dựng -*-
-
Tôi xin trả lời các câu hỏi như sau: 1 - Nhà này xoay theo hướng mặt trời vậy nó sẽ chỉ theo hai hướng là Đông & Tây. Trong trường hợp này yếu tố Bát trạch không ứng dụng được. Nhưng yếu tô cấu trúc hình thể theo PT Lạc Việt là biến trạch và là Tuyệt mạng trạch. Nhà này ở sẽ rất xấu. Dương quang - dương khí - vượng và Âm khí suy. Làm điểm du lịch cũng sẽ thất bại.2 - Vệ tinh không thể gọi là nhà. Cũng như máy bay, xe ô tô không gọi là nhà. Bởi nhà phải có trạch nhà.3 - Trường hợp nhà biến hình ở Dubai. Xét theo hình khí là khí luôn động và tạo tạp khí do hình thể biến dạnh thì - khí biến dạng. Dubai sụp dổ cũng vì vậy.
-
Thái Lan thu 35 tấn vũ khí trên máy bay đến từ Triều Tiên Chủ nhật, 13/12/2009, 10:05(GMT+7) VIT - Chính quyền Thái Lan đã bắt giữ hơn 35 tấn vũ khí trên một chiếc máy bay chở hàng mà họ cho rằng đến từ Triều Tiên, cùng với 5 người trên phi hành đoàn sau khi chiếc máy bay này hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Bangkok. Phát ngôn viên chính phủ Thái Lan Panitan Wattanayagorn phát biểu với hãng thông tấn Reuters, vụ bắt giữ xảy ra sau khi chiếc máy bay hạ cánh xuống sân bay Don Muang và bị phát hiện mang nhiều hàng khả nghi. Chiếc máy bay chở vũ khí hạ cánh tại sân bay Don Muang, Thái Lan Ông Wattanayagorn cho biết: “Chúng tôi đã bắt giữ 5 người trên phi hành đoàn. Nhưng hiện chúng tôi chưa xác định được điểm đến của chiếc máy bay. Có thể là một địa điểm nào đó thuộc Châu Á, cụ thể là Nam Á, và chiếc máy bay xuất phát từ Bắc Á”. Phó Phát ngôn viên hàng không Thái Lan Monthon Sutchukorn thì cho rằng, chiếc máy bay đã cất cánh từ Triều Tiên nhưng hiện chưa có thêm thông tin chi tiết. Một quan chức giấu tên khác của hàng không Thái Lan cho biết, Mỹ đã yêu cầu Thái Lan điều tra kĩ lưỡng về chiếc máy bay cũng như nguồn gốc số hàng. Quan chức này cho biết: “Chính phủ Mỹ đã liên lạc với chúng tôi, mong muốn chúng tôi nỗ lực điều tra về chiếc máy bay. Chiếc máy bay trên khởi hành từ Triều Tiên và đang trên đường đến một nước nào đó tại Nam Á, có thể là Pakistan”. Hiện Triều Tiên đang phải đối mặt với những lệnh cấm vận mới của Lien hợp quốc do nước này đã tiến hành thử hạt nhân hồi tháng 5 vừa qua. Những cấm vận mới của Liên hợp quốc áp dụng với Triều Tiên nhằm ngăn cản nước này xuất khẩu vũ khí – hình thức xuất khẩu mang về cho quốc gia này hơn 1 tỉ USD/năm. Theo chính phủ Mỹ, Iran và một số nước Trung Đông khác là khách hàng mua vũ khí quen thuộc của Triều Tiên. Hiện các quan chức Thái Lan chưa tiết lộ những loại vũ khí nào bị thu giữ trên máy bay. Tú Uyên (Theo Reuters)