Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Đây là một trong những vấn nạn của Lý học Đông phương - nhưng bạn đừng vì thế mà bảo Lý học Đông phương sai nhé - Nếu bạn xem Tử Bình thì bạn phải lấy tuổi Tuất vì đó là nguyên tắc của Tử Bình. Còn nếu bạn xem Tử Vi thì bạn phải lấy tuổi Hợi. Vấn đề là hai phương pháp này đều phản ảnh khả năng dự báo cho cuộc đời bạn hay không? Hay chỉ có một phương pháp đúng. Trong Phong thủy thì bạn hãy tự chứng nghiệm và xác định cho tuổi của mình với điều kiện bạn là chủ gia thì dễ chứng nghiệm hơn.
  2. Miêu mập thân mến.Hôm nay tôi mới có thời gian để ý tới topic này. Tôi xin trả lời Miêu mập như sau: Đức Phật đã nhiều lần nói rằng: "Không bàn chuyện lông rùa, sừng thỏ". Những gì tôi hiểu về thế giới này khiến cho tôi không thể nào tưởng tượng nổi lại có thể có người ngoài hành tinh, hay cái gọi là UFO gì đó mà báo chí quốc tế vẫn làm ầm ĩ, hoặc các cơ quan quốc phòng các siêu cường thường hay úp mở...vv...hoàn toàn là không có thật. Đó là lý do tôi không nhắc nhở gì đến UFO hay người ngoài hành tinh cả. Đối với tôi, chuyện người ngoài hành tinh chỉ là một câu chuyện thần thoại có nội dung hiện đại. Các bậc tiên thánh ở cõi Bồng Lai, nếu có thật còn sinh động hơn người ngoài hành tinh nhiều. Ngày xưa thì con người cần đến những bậc tiên thánh. Ngày nay con người khi đã loại trừ những bậc tiên thanh ra khỏi ý thức của họ bằng tri thức khoa học thì họ lại nghĩ đến người ngoài hành tinh. Bởi vì con người cảm thấy cô đơn trong vũ trụ này. Còn ở cấp chính phủ lưu giữ những tài liệu và "giải mật" thì vì nhiều lý do có thể giải thích một cách hợp lý. Thí dụ đây là tin mới nhất về UFO: Hình tam giác được coi là UFO có thể coi là một hiện tượng lạ. Nhưng bạn có thấy một hiện tượng còn lạ hơn không? Đó chính là những phương tiện chiến đấu hiện đại của siêu cường Nga không hề thấy xuất hiện và cũng không có một phương tiện khoa học nào được sử dụng để quan sát và công bố kết quả nhận thấy được.
  3. Động đất tại Đài Loan Chủ nhật, 20/12/2009, 23:41(GMT+7) VIT - Đài Loan, 09:02:16 PM ngày 19/12/2009, một trận động đất với cường độ mạnh đã làm rung chuyển khu vực phía đông của Đài Loan, nhiều tòa nhà tại trung tâm Đài Bắc đã rung chuyển vì tác động, trong đó 1 tòa nhà nhà cao tầng đã bị đổ sập. Một tòa nhà cao tầng gần trung tâm Đài Bắc bị sập hoàn toàn. Trận động đất được cơ quan khảo sát địa chất của Mỹ ghi nhận có cường độ mạnh 6,4 độ richter có tâm chấn nằm ở phần trung tâm bờ biển phía đông của Đài Loan cách khu vực Hualien 25 km (23.763°N, 121.689°E, ở độ sâu 44.6 km). Nhiều tòa nhà cao tầng trong đó có các cao ốc văn phòng tại trung tâm Đài Bắc đã chao đảo khiến những người có mặt trong đó vô cùng hoảng sợ. Theo những tin tức mới nhất do truyền thông địa phương đưa tin, một tòa nhà cao tầng gần trung tâm Đài Bắc đã bị sập hoàn toàn. Tuy nhiên, chưa có bất kỳ báo cáo nào phản ánh số người bị thiệt mạng và bị thương.
  4. Kính thưa quí vị quan tâm. Trong cuộc hội thảo lần này, do có sự thay đổi về sự điều khiển chương trình, nên có một số đại biểu lên đặt vấn đề phản biện trực tiếp trong hội trường, không thông qua phiếu đặt câu hỏi như qui định ban đầu của ban tổ chức do Trung tâm qui định. Do đó chúng tôi khó có cơ sở để trả lời. Tuy nhiên, vì là v/d được đặt công khai trong hội thảo, nên chúng tôi cũng tóm lược và trả lời ở đây. Đại biểu Trần Thanh Vân đã đặt vấn đề: 1 - Cần quan tâm đến phong thủy mang tầm cỡ quốc gia. 2 - Xác định tâm của Hanoi là ở đâu? Về việc này, tôi xin thay mặt Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương - cơ quan tổ chức hội thảo - trả lời như sau: 1 - Cuộc hội thảo lần này nhằm xác minh tính khoa học của phong thủy. Bởi vậy, chúng tôi nghĩ rằng: Chỉ khi chứng minh được tính khoa học của Phong thủy thì mới bàn được tầm cỡ quốc gia hay thế giới. Bởi vậy, tôi nghĩ bà Trần Thanh Vân đã đặt vấn đề sai, vì khi tính khoa học của phong thủy chưa được sáng tỏ thì nó không đủ tư cách để áp đặt khả năng sử dung mang tính quốc gia hoặc tầm cỡ quốc tế. 2 - Xác định tâm của một đơn vị quản lý hành chính một vùng đất như phường, quận, thành phố, quốc gia...vv....thì cơ quan quản lý hành chính của vùng đất đó tọa lạc tại đâu thì đó chính là tâm của vùng địa lý thuộc sự quản lý của cơ quan hành chính đó. Thí dụ: Tại một làng cổ của Việt Nam xưa thì đình làng chính là tâm của hình thể địa lý làng đó. Tâm của Hanoi chính là Ủy Ban nhân dân thành phố Hanoi. Điều này khác với phương pháp định tâm một khu nhà, hoặc một cái nhà trong tham luận của nhà nghiên cứu Châu Thế Vinh - thuộc Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương đã trình bày tại hội thảo. Qui ước này có hệ luận minh chứng, nhưng không phải vấn đề được đặt ra để trả lời, nên chúng tôi không trình bày ở đây.
  5. Ngành công nghệ Nhật Bản: Còn giữ được ngôi bá chủ? (Phần 1) Nguồn Tuanvietnam Tác giả: Như Nguyệt (dịch từ Economist) Bài đã được xuất bản.: 20/12/2009 07:00 GMT+7 Nhiều công ty điện tử quy mô trung bình của Nhật đã chiếm được vị thế độc tôn trong rất nhiều mảng công nghệ. Liệu họ có thể duy trì được vị thế này hay không? Thế giới đang có khoảng 40 lò phản ứng hạt nhân. Phân nửa trong số này đều là sản phẩm trí tuệ của các tập đoàn đến từ Mỹ, Trung Quốc, Pháp, Nhật Bản và Nga. Ấy vậy mà, toàn bộ những lò phản ứng này muốn vận hành suôn sẻ đều phải trông chờ vào sự trợ giúp của một nhà cung cấp duy nhất đóng tại phía bắc hòn đảo Hokkaido, Nhật Bản - công ty Japan Steel Works. Mặc dù người ta không thiếu các lò phản ứng ghép từ các mối hàn với kích cỡ nhỏ hơn, nhưng chỉ duy nhất công ty này của Nhật có trong tay công nghệ ráp nối các tấm ghép trị giá tới 150 triệu đôla từ một thỏi kim loại duy nhất nặng 600 tấn. Trên thế giới, rất ít công ty tạo dựng được cho mình vị trí độc tôn đến vậy. Japan Steel Works không phải là công ty duy nhất của Nhật làm được điều này. Nhật Bản hiện có nhiều doanh nghiệp đã tự tạo cho mình lợi thế cạnh tranh nổi trội trên quy mô toàn cầu trong một số lĩnh vực chuyên biệt. Đó có thể là những doanh nghiệp trong ngành cơ khí chế tạo giản đơn như Shimano (chiếm tới 60 – 70% thị phần bánh răng và ghi đông xe đạp thế giới, doanh thu hàng năm của Shimano ước chừng lên tới 1,5 tỷ đôla) hay YKK (phéc-mơ-tuya của hãng chiếm tới ½ giá trị giao dịch mặt hàng này của thế giới). Còn trong lĩnh vực điện tử, cơ khí và khoa học vật liệu, các công ty của Nhật chiếm lĩnh toàn thị trường. Người tiêu dùng có thể chưa từng nghe đến tên tuổi của những công ty như thế nhưng chúng vẫn từng ngày khẳng định vị thế độc tôn của mình trong từng lĩnh vực cụ thể, bởi những mặt hàng mà chúng tạo ra đã trở thành một phần thiết yếu với quy trình sản xuất của rất nhiều sản phẩm. Tại nhà máy sản xuất ô tô của Toyota. Nguồn ảnh: Corbis Chẳng hạn, gần 75% mô tơ ổ đĩa cứng máy tính đều là sản phẩm của công ty Nidec; 90% mô tơ siêu vi dùng trong kính chiếu hậu của các xe ô tô nhất thiết phải là sản phẩm của Mabuchi. Đa phần các công ty này cung cấp các thành phần, vật liệu hoặc công cụ sản xuất (lấy ví dụ: TEL cung cấp 80% vật liệu khắc axit dùng trong quy trình sản xuất màn hình LCD). Cạnh tranh nội bộ Đôi khi, các công ty này đụng phải đối thủ “đồng hương”. Chính điều này giúp Nhật Bản dành được toàn bộ các đơn hàng của thế giới cho dù trong cuộc đua giành được đơn hàng có tới hơn một nhà cung ứng sản phẩm. Shin-Etsu chiếm 50% thị phần chất tạo nền ảnh (một tạo chất dùng để cố định các đầu bán dẫn). Ngoài Shin-Etsu, thế giới còn một số nhà sản xuất khác như Covalent, NSG, AGC hay Tosoh và tất cả chúng đều là các công ty của Nhật. Tuy nhiên, bất chấp vị thế độc tôn hiện có, các công ty này chưa bao giờ bị dính vào bất cứ vụ kiện chống độc quyền nào. Trong lúc các tập đoàn khổng lồ như Panasonic, Sharp, hay Sony đang dần để mất thị phần vào tay các nhà sản xuất Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan thì những công ty có quy mô nhỏ hơn và ít có tiếng tăm hơn vẫn vững vàng ở ngôi cao của thị trường nhánh – sản xuất ra các mặt hàng thiết yếu cho ngành công nghệ toàn cầu. Thậm chí, tiếng Nhật đã có riêng một cụm từ dành cho những doanh nghiệp như thế; người ta gọi họ là chuken kigyo (nghĩa là: "những công ty bé hạt tiêu"). Cho dù sản phẩm đến tay người tiêu dùng là của Apple, Nokia, hay Samsung thì chúng cũng đều được ráp nối từ vô số linh kiện xuất xứ từ Nhật. Đại diện của Apple thẳng thắn phát biểu rằng họ chỉ tin tưởng vào các đối tác Nhật Bản vì ít có nhà sản xuất nào khác đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng khắt khe của tập đoàn. Ông Alberto Moel – một chuyên gia trong lĩnh vực sản xuất cồng nghệ cao của công ty tư vấn Monitor Group, Tokyo phát biểu rằng: “Đó không phải là những sản phẩm thời thượng nhưng bạn chẳng thể chế tạo chip bán dẫn hay màn hình LCD mà không có chúng”. Theo số liệu công bố từ Bộ Kinh Tế, Thương Mại và Công Nghiệp Nhật Bản, các công ty của Nhật đáp ứng tới hơn 70% thị trường toàn cầu trong ít nhất 30 lĩnh vực công nghệ: từ giấy tráng ảnh cho tới bóng phát sáng dùng cho màn hình LCD (toàn bộ thị phần chiếm lĩnh ước chừng $3 tỷ đôla) cho tới tụ điện sứ nhiều tầng dùng để điều chỉnh dòng điện cho các thiết bị điện (77% thị phần tương ứng 540 tỷ Yên về giá trị). Chính sự vượt trội về công nghệ của Nhật đã giải toả những nghi ngờ bấy lâu rằng Nhật đang phải vật lộn với nền kinh tế đình đốn suốt gần hai thập niên qua và đồ rằng Nhật đang dần để mất ngôi nhì vào tay Trung Quốc. Đây cũng là câu trả lời cho những ầm xì bấy lâu của các chuyên gia quản lý phương Tây rằng chính lối văn hoá kinh doanh đặc trưng bởi thị trường lao động cứng nhắc và giới cổ đông thấp cổ bé họng đã kìm hãm sự phát triển của các công ty trong nước. Như vậy, chắc hẳn người Nhật đã phải làm được kỳ tích sau những sóng gió đã qua. Đương nhiên, đâu chỉ có người Nhật mới có quyền vỗ ngực tự hào; thế giới vẫn còn vô số các công ty có sức ảnh hưởng sâu rộng trong những lĩnh vực cụ thể. Ví dụ như Microsoft, với hệ điều hành Windows, từ lâu đã trở thành thương hiệu thân thuộc với hơn 90% người dùng máy tính trên toàn thế giới. Trong khi đó, con chip của Intel lại được tin dùng cài trong hơn 80% máy tính cá nhân toàn cầu. Nếu tiếng Nhật có cụm từ chuken kigyo để chỉ những công ty có sức mạnh toàn cầu thì tiếng Đức cũng có cụm từ Mittelstand với ý nghĩa tương đương. Thẳng thắn mà nói, đã có lúc người ta hoài nghi về khả năng Nhật có thể tiếp tục duy trì thế thượng phong trong lĩnh vực công nghệ. Thế nhưng, giờ đây, người Nhật đã chứng minh mình đứng ở vị trí nào. Sức mạnh đến từ những thứ nhỏ bé Câu chuyện sinh động nhất về sức mạnh công nghệ của Nhật là: sản phẩm tụ điện. Tuy chỉ nhỏ bằng hạt muối nhưng vật dụng này có sức mạnh thật đáng nể. Nó lưu trữ điện năng trong một bó dây và là một khối kết hợp từ rất nhiều các thiết bị điện. Giá thành của chúng cũng không lớn; chỉ dao động đâu đó chừng hơn 20 xu nhưng mỗi chiếc điện thoại di động cần ít nhất 100 hạt như vậy và một máy tính cá nhân thì cần đến 1000 hạt. Murata - nhà sản xuất tạo ra sản phẩm tuyệt hảo này là một công ty của Nhật, hiện đang chiếm lĩnh 40% thị trường toàn cầu. Người ta khó lòng ước tính được mức lợi nhuận của Murata từ những chiếc tụ điện nhưng tổng lợi nhuận của công ty này có thể ngang bằng với 50% tổng trị giá của một ngân hàng đầu tư. Tổng thị phần của Nhật với mặt hàng này lên tới 80% thị trường toàn cầu (hai nhà sản xuất mặt hàng này của Nhật là TDK và Taiyo Yuden). Nếu trở lại đầu thập niên này thì thị phần của Nhật còn lên tới 90%. Nhật đã dần phải san sẻ cho các nhà sản xuất ngoại quốc như Samsung Electro - Mechanics – Hàn Quốc và Yageo – Đài Loan. Ngoài ra, Nhật còn có nhiều sản phẩm nổi tiếng khác. Chẳng hạn, Nitto Denko hiện đang sở hữu tới hơn 20 sản phẩm hàng đầu và nổi bật hơn cả trong việc sản xuất màn hình LCD. Trong khi đó, Mitsubishi Chemical gần như chiếm lĩnh toàn bộ thị trường vật liệu phốt pho dùng để tạo màu trắng tự nhiên trong các bóng đèn LED. Và còn nhiều ví dụ khác nữa. Các công ty của Nhật đặc biệt nổi bật hơn cả trong quá trình sản xuất con chip máy tính. Trong nhiều khâu của quá trình sản xuất, các sản phẩm của Nhật đóng vai trò then chốt tại bốn bước: xử lý lớp tráng, dựng phim mỏng, điện than và khắc hình, tiếp xúc và đóng gói. Các công ty của Nhật cung cấp những thành phần thiết yếu tại bốn công đoạn và thiết bị chế tạo ở tại ba công đoạn sản xuất sản phẩm. Nói như cách nói của chuyên gia bán dẫn thuộc ban quan trị tập đoàn NEC Electronics thì các nhà sản xuất điện tử trên toàn thế giới đều tín nhiệm các nhà cung cấp linh kiện của Nhật bởi những công ty này luôn tạo ra các sản phẩm có chất lượng và độ tin cậy cao. Chẳng ai muốn mua một chiếc xe thời thượng nhưng lại không thể vận hành trơn tru chỉ vì thiếu đi một chi tiết nội thất đáng giá có vài xu. Nói như vậy để thấy rằng, các sản phẩm do người Nhật sản xuất dù nhỏ bé nhưng lại trở thành một phần thiết yếu với rất nhiều sản phẩm khác. Trong khi, một số sản phẩm công nghệ đã phố biến như các vật phẩm thông thường thì một số sản phẩm khác thì chưa bởi nó vẫn cần có sự cải tiến và sáng tạo không ngừng. Chính rào cản này đã khiến giá thành của chúng còn ở mức cắt cổ mặc dù giá của sản phẩm cuối cùng đến tay người dùng đã giảm. Ta nhận thấy ở các tập đoàn hàng đầu này một số điểm tương đồng nhất định. Thứ nhất, họ đầu tư nhiều vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển sản phẩm. Thứ hai, dù đã mở rộng các nhà máy sản xuất ở nước ngoài nhưng các công ty này luôn tự mình thực hiện những công đoạn then chốt tạo nên phần cốt lõi của sản phẩm ở trong nước. Thứ ba, họ tự xây dựng các chuỗi cung ứng của riêng mình: các công ty sản xuất chip điện tử sẽ sử dụng linh kiện pha lê do chính mình sản xuất. Một số công ty còn tự tạo ra các máy công cụ phục vụ cho quá trình sản xuất. Tất cả đều nhằm mục đích giảm chi phí, và tránh bị phụ thuộc vào các nhà cung cấp bên ngoài và có thể nắm sâu xa về toàn bộ công nghệ mình sản xuất ra. Khi được hỏi về lý do chính nào tạo nên thành công của các công ty công nghệ Nhật Bản, đa phần các nhà quản lý đều nhất trí đó là nhờ vào đẳng cấp của khách hàng mà họ phục vụ. Thoạt đầu mới nghe tưởng chừng không đúng. Thế nhưng, điều này cũng có lý của nó. Chỉ những khách hàng có đẳng cấp mới đưa ra các đòi hỏi khắt khe và nhà cung cấp vì thế cũng phải tự nâng tầm cho tương xứng. Tuy nhiên, đó chưa phải là lý do duy nhất. Chủ tịch của Covalent – ông Susumu Kohyama cho rằng các công ty Nhật thành công bởi họ đã cá biệt hoá cao các sản phẩm mình tạo ra. Và những thành phần, công cụ và chất liệu như vậy chỉ có thể được tạo ra khi nhà sản xuất biết cộng tác chặt chẽ với khách hàng trong nhiều năm tới mức nhà sản xuất thông suốt về các kế hoạch công nghệ trong tương lai của khách hàng và dành được sự tín nhiệm để cùng tham gia đưa ra lời giải cho những vấn đề hóc búa mà chỉ một nhà sản xuất thực sự có tầm mới giải quyết được. Một khi họ đã dành được sự tin cậy trọn vẹn của đối tác thì các đối thủ mới khó lòng chen chân vào nổi. Hơn thế, kiến thức về công nghệ nhiều khi thật khó diễn giải và truyền đạt thành sách hướng dẫn hay ghi chép vào tài liệu ứng dụng. Những kinh nghiệm này được tích luỹ từ quá trình cộng tác với nhiều cộng sự trong nhiều năm liền. Điều đó tạo rào cản quá lớn cho bất kỳ đối thủ nào muốn nhảy vào cuộc chơi. Điều đó cũng giải thích vì sao ở một số lĩnh vực công nghệ chuyên biệt cao, các công ty luôn muốn nhân viên của mình gắn bó trọn đời với công ty bởi họ sợ những bí quyết công nghệ sẽ bị rò rỉ ra bên ngoài Họ tin rằng tiềm lực của một tổ chức nằm trong tay đội ngũ trí thức mà mình đang có chứ không phải giá cổ phiếu tại một thời điểm nào đó. Cũng chính vì thế, người Nhật gần như dị ứng với mọi thương vụ mua lại và sáp nhập. Các công ty thường cố hết sức để không bị các công ty khác thâu tóm bởi họ hoàn toàn không nghĩ việc sáp nhập có thể đem lại những lợi thế nhất định trong kinh doanh như suy nghĩ của phương Tây. Chỉ có điều, trong khi những thay đổi trong ngành tạo thành công vang dội cho những “nhà vô địch thầm lặng” thì lại cản trở sự bành chướng của những tập đoàn điện tử lớn. Bởi các công ty nước ngoài tìm kiếm được các linh kiện chất lượng cao của các nhà sản xuất uy tín của Nhật nên vô hình chung các công ty này lại đứng ve phía các nhà sản xuất nước ngoài trong cuộc chiến giành giật thị trường với chính các nhà sản xuất trong nước. Mỗi khi các nhà khổng lồ điêu đứng thì lớp các công ty bé hạt tiêu này lại tiếp tục lao nhanh về phía trước. (Còn nữa....)
  6. Vietligne - Người thiết kế mỹ thuật toàn bộ cảnh quan bên ngoài hội thảo và trong hội trường một cách xuất sắc, góp phần không nhỏ cho sự thành công của hội thảo.
  7. Từ trái sang phải: Thanh Vân - học sinh nữ xuất sắc của Lạc Việt độn toán và Phong thủy Lạc Việt. Thiên Sứ, Thuhien, Rin86.
  8. Rin86 thân mến.Diễn đàn của chúng ta tôn trọng học thuật, mọi phản biện phải có chứng lý. Chúng ta không chấp nhận nói phong long, vu cáo và mang tính khiêu khích. Bởi vậy, bắt đầu từ giờ Tý ngày 6 - 11 Kỷ Sửu, tất cả những ai muốn đăng nhập tham gia diễn đàn phải có ít nhất một thành viên có 10 bài viết trở lên trên diễn đàn giới thiệu với đầy đủ: Địa chỉ, số đt và email.
  9. Phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt vô căn cứ. Kích động phá hoại tinh thần học thuật của diễn đàn. Nick Phu lỗ bị đuổi khỏi nơi này.Bắt đầu từ ngày mai: Diễn đàn sẽ trở lại việc đang ký có giới thiệu của thành viên, hoặc phải được sự chấp thuận của ban quản trị.
  10. Phả hệ này chỉ có thể ghi được sau khi kết thúc thời Hùng Vương theo chính sử 257 BC. Tức là có chữ viết lâu rồi. Bởi vậy không thiếu gì những kẻ biết phọt phet ít chữ, cứ tưởng là thông thái, nhưng càng nói thì càng thấy ....ngớ ngẩn.
  11. Có vẻ như hiểu biết. Nhưng cái tối tăm của lời bình trên nó nằm ở chỗ này:Cái gì cũng là bịa cả. Vậy cái mốc lịch sử thật nó nằm ở đâu.Bởi vậy, nhưng bài viết của Phu lỗ là điển hình của những tri thức rởm phủ nhận những giá trị của dân tộc Việt một cách cực đoạn.
  12. Kính thưa quí vị quan tâm, Bản tin trên trang web điện tử Thanh Niên Online cho biết một phát hiện khảo cổ xác định rằng: Vào thời đồ đá, loài người đã có vài sợi và có y phục đàng hoàng. Đây chính là sự chứng minh gián tiếp và sắc sảo rằng: Quan niệm thời Hùng Vương - thời đồ đồng - chỉ "Ở trần đóng khố" là sự xuyên tạc sự thật và thiếu hiểu biết. Dưới đây là toàn bộ nội dung bài viết. Xin cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
  13. Sử sách Hán toàn ngụy tạo: Con Long Mã hiện trên sông hoàng Hà, con Thần Quy hiện trên sông Lạc Thủy, mà có người vẫn nhắm mắt theo mới lạ.
  14. 6/ Đại biểu: Đỗ Trung Tuyến - Email: tuyendt@hsb.edu.vn Chức danh: Giảng viên Quản Trị Kinh Doanh Ý kiến: 1. Cơ sở khoa học nào để khẳng định phương pháp định thâm cho NNC Châu Thế Vinh đưa ra là chính xác hơn các phân tích khác? Phần đó tác giả chưa trình bày nên chưa rõ tính khoa học của phương pháp mới. 2. Tại sao lại nói "Cái động thuộc Âm, cái tĩnh thuộc dương". ---------------------------------------------------- Chúng tôi xin được trả lời những vấn đề ông Đỗ Trung Tuyến đưa ra như sau: Trả lời Châu Thế Vinh và Công Minh đã trả lời ngay tại Hội thảo. Ở đây, chúng tôi chỉ đề nghị quí vị tham khảo bài tham luận của Châu Thế Vinh. Chúng tôi đã chứng minh và nói rõ điều này. Đây là một nguyên lý rất quan trọng của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Sách Hán cổ trài hàng ngàn năm xác định "Dương động, Âm tịnh". Chúng tôi đã xác định và chứng minh rằng sách Hán sai và hiệu chỉnh lại nguyên lý trên là "Âm Động Dương tịnh"- nhân danh nền văn hiến Việt. Trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn chúng tôi có tranh biện về vấn đề này.Ông Đỗ Trung Tuyền và quí vị có thể tham khảo ở đây: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...t=0&start=0
  15. 8/ Đại biểu: Nguyễn Hồng Khoái Ý kiến Trong Kinh dịch và y học tác giả Nguyễn Hoàng Phương đã đưa ra Kiến trúc tập mở để giải thích một cách khoa học (chưa có một phản biện nào về vấn đề này). Khoa học và phong thủy tác giả Nguyễn Hoàng Phương chưa đề cập đến, vậy Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông phương đã nghiên cứu như thế nào? ---------------------------------------------------- Chúng tôi xin được trả lời những vấn đề ông Nguyễn Hồng Khoái đưa ra như sau: 1 - Trả lời: Cá nhân tôi chưa được xem tất cả các công trình nghiên cứu đã được công bố và chưa công bố của giáo sư Nguyễn Hoàng Phương. Tuy nhiên, với cuốn "Tích hợp đa văn hóa Đông Tây" của giáo sư mà tôi được xem thì công trình này chưa minh chứng được tính khoa học của Đông Y và Kinh Dịch. Trong tác phẩm "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch" tôi đã chứng minh giáo sư Nguyễn Hoàng phương sai, khi ông dùng phương pháp luận toán học minh chứng tính đúng của Hậu Thiên Văn Vương. 2 - Trả lời: Trong cuốn sách của giáo sư đã dẫn có đề cập rất nhiếu đến Phong thủy chiếm gần hết phần cuối của cuốn sách, nhưng nó chí mang tính giới thiệu tư liệu và ông cũng chưa chứng minh được tính khoa học của phong thủy liên hệ với khoa học hiện đại. Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương đã minh chứng tính khoa học của phòng thủy từ lâu và thể hiện trong cuộc hội thảo này. Cở sở để chúng tôi minh chứng tính khoa học của Phong Thủy và của tất cả các bộ môn ứng dụng của Lý Học Đông phương nói chung chính là căn cứ vào tiêu chí khoa học cho một lý thuyết hoặc phương pháp khoa học. Chúng tôi đã trình bày rõ điều này trong các bài tham luận của Trung Tâm. Xin cảm ơn sự quan tâm đặt câu hỏi của ông Nguyễn Hồng Khoái và quí vị tham gia quán xét topic này.
  16. THIÊN SỨ TRẢ LỜI PHẢN BIỆN. -------------------- 5/ Đại biểu: Kiến trúc sư Phạm Việt Anh Chức danh: Giảng viên ĐH Kiến trúc Hà Nội - Thành viên tiểu ban Phong thủy - TT Nghiên cứu tiềm năng con người. Ý kiến: - Điều trước tiên cần trao đổi là: Nếu chúng ta muốn chứng minh tính khoa học của Phong thủy cổ đại như các chứng minh khoa học khắc bằng công thức toán học, vật lý ..v..v.. thì quả là một vấn đề cực kỳ khó khăn và nan giải. Theo thiển ý của tôi thì sẽ chẳng bao giờ đến đích được. Vấn đề ở chỗ là chúng ta cần xác định mức độ đánh giá về tính khoa học của Phong thủy là thế nào. Ngay cả những phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại của chúng ta ngày nay, trong đó có một phương pháp khoa học là: căn cứ vào khảo sát thực nghiệm, tổng kết thực nghiệm, có thể bằng thí nghiệm, bằng các phiếu khảo sát thăm dò, bằng tổng hợp các hiện tựơng .v..v.. - Chỉ riêng điều này đã đủ chứng minh lý thuyết phong thủy cổ đại là một nghành nghiên cứu khoa học bởi vì tất cả các lý thuyết phong thủy cổ đại không phải tự nhiên mà có, mà nó đã được trải nghiệm và đúc kết lại thành kinh nghiệm và viết lại cho đời sau ứng dụng. - Hai nữa là chỉ cần chứng minh rằng các lý thuyết phong thủy cổ đại có những điểm trùng lặp với các lý thuyết về thiết kế qui hoạch xây dựng hiện đại. Điều này cũng chứng tỏ các lý thuyết phong thủy cổ đại là rất khoa học rồi. - Một vấn đề nữa là: Hầu hết các bài tham luận mới chỉ bàn tới "khí = không khí" mà ý nghĩa của khí trong phong thủy thì bao hàm nhiều vấn đề thâm hậu chứ không chỉ có là không khí. -------------------- Chúng tôi xin được trả lời những vấn đề ông Phạm Việt Anh đưa ra như sau: 1 - Trả lời: 1 - Nếu chỉ căn cứ vào tính thực nghiệm thì tôi nghĩ khoa phong thủy Đông phương đã chứng tỏ tính hiệu quả của nó từ hàng ngàn năm nay. Chúng tôi đã nói rõ điều này trong tham luận: Tính hiệu quả trong thực nghiệm của khoa phong thủy Đông phương chỉ là cơ sở để đặt v.d về tính khoa học của nó, chứ chưa chứng minh được bản chất khoa học của Phong thủy. Khi mà hiệu quả đó, người ta có thể giải thích bằng nhiều cách khác nhau, trong đó có tính thần quyền. Bởi vậy, muốn xác định tính khoa học của phong thủy thì phải căn cứ vào tiêu chí khoa học cho một lý thuyết hoặc một phương pháp khoa học. 2 - Trả lời: 2 - Ý này của ông Việt Anh, chúng tôi đã trả lời ở trên. Tính hiệu quả trong ứng dụng của Phong Thủy chưa chứng minh được bản chất khoa học của nó. Tôi xin nói rõ thêm rằng: Sở dĩ tính hiệu quả của khoa phong thủy chưa được coi là mang tính khoa học, chính vì tính hiệu quả đó được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, khi khoa phong thủy tồn tại xuyên qua các không gian văn hóa khác nhau cho đến ngày hôm nay. Nếu tính hiệu quả của khoa phong thủy xác quyết tính khoa học của nó thì có lẽ đã không có một thời chính các nhà khoa học cho rằng: Phong thủy là một bộ môn "mê tín dị đoan". 3 Trả lời: 3 - Có những vấn đề được đặt ra sau đây: - Sự trùng lặp trong kết luận không xác định được tính khoa học của khoa phong thủy với kiến trúc hiện đại, khí phong thủy giải thích hiện tượng bằng một phương pháp luận khác với kiến trúc hiện đại. Một ngôi nhà ở Phương Tây xây dựng bằng tri thức xây dựng và kiến trúc hiện đại ngẫu nhiên trùng hợp với phương pháp luận của khoa phong thủy quan niệm về tính tốt hay xấu của căn nhà đó, sẽ hoàn toàn không có nghĩa là tri thức kiến trúc phương Tây đồng nghĩa với khoa phong thủy Đông Phương. - Tri thức của khoa kiến trúc và xây dựng Tây phương chỉ giới hạn trong cấu trúc vật liệu, độ bền vững của cấu trúc ngôi nhà mang tính cơ học thuần túy. Nhưng khoa phong thủy Đông phương thì ngoài vấn đề của tri thức kiến trúc Tây phương thì nó còn mở rộng hơn khi xét đến các yếu tố tương tác khác liên quan đến cuộc sống của con người liên quan đến cảnh quan môi trường, cấu trúc hình thể của ngôi nhà, tương tác của từ trường và cả mối quan hệ tương tác có quy luật từ vũ trụ.... Bởi vậy, nếu tri thức khoa học phương Tây trong kiến trúc và xây dựng chỉ đơn là tương hợp với khoa Phong thủy Đông phương thì về lý thuyết sẽ không cần đến khoa phong thủy Đông phương khi có tri thức trong kiến trúc và xây dựng Tây phương thay thế. Khoa phong thủy Đông phương xét đến những yếu tố mà khoa kiến trúc và xây dựng Tây phương chưa đặt vấn đề cho nó. Hay nói rõ hơn: Khoa phong thủy Đông phương bao trùm lên kiến thức xây dựng hiện địa và không phủ nhận tri thức kiến trúc xây dựng hiện đại. 4 Trả lời: 4 - Về vấn đề này có lẽ ông Việt Anh nghe nhầm, hoặc chưa xem kỹ tài liệu. Trong tất cả các bài tham luận của các thành viên Trung Tâm không có đoạn nào xác định "Khí" trong lý học Đông phương là "không khí" cả. Xin cảm ơn sự quan tâm đặt câu hỏi của ông Việt Anh và quí vị tham gia quán xét topic này.
  17. ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA PHONG THỦY LẠC VIỆT PHÂN TÍCH PHONG THỦY TRỤ SỞ TWA Hãng hàng không lớn nhất Hoa Kỳ * Lữ Vinh Chuyên viên tin học cao cấp tại Hoa Kỳ. Thành viên nghiên cứu Phong Thủy Lạc Việt Phong thủy Lạc Việt minh chứng tính khoa học của nó xét theo tiêu chí khoa học, có tính nhất quán, tính hệ thống, tính qui luật, tính khách quan và tính hợp lý trong việc lý giải các hiện tượng và vấn đề liên quan với khả năng tiên tri. Bởi vậy, Phong thủy Lạc Việt là sự tập hợp một cách nhất quán các trường phái phong thủy rời rạc và mâu thuẫn thể hiện trong các bản văn chữ Hán cổ còn truyền lại thành một hệ thống nhất quán với nguyên lý căn để là "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ". Sự ứng dụng Phong thủy Lạc Việt chính là phương pháp khoa học quán xét đối tượng kiến trúc, xây dựng dưới tất cả mọi yếu tố tương tác căn bản. Bài viết này nhằm giới thiệu với quí vị phương pháp luận của Phong Thủy Lạc Việt ứng dụng cụ thể trong việc phân tích một đơn vị kiến trúc là Trụ sở hãng hàng không nổi tiếng của Hoa Kỳ qua những thăng trầm trong lịch sử của nó. Hãng hàng không TWA và lịch sử thăng trầm. Bản vẽ phác thảo kiến trúc của trụ sở hãng TWA tại phi trường Kennedy TWA, tức Trans World Airlines, là một trong những hãng hàng không lớn nhất ở Hoa Kỳ. Hãng hàng không TWA là một hãng hàng không tầm cỡ quốc gia của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Sau nhiều thập kỷ hoạt động ghi dấu ấn trong lịch sử hàng không dân sự quốc tế, hãng này đã bị phá sản và lùi vào quên lãng. Nhưng những ai có dịp đến phi trường Kennedy ở New York City vẫn thấy trụ sở của hãng hàng không TWA một thời oanh liệt, vẫn còn sừng sững ghi dấu ấn nơi đây. Hãng TWA được thành lập vào ngày 13 tháng 7 - 1925, tên lúc đó là Western Air Express. Năm 1930, sát nhập cùng hãng Transcontinental Air Transport và trở thành hãng Transcontinental and Western Air (T&WA). Năm 1939, nhà tỷ phú Howard Hughes (một trong những người giàu nhất thế giới lúc hiện tiền) đã mua và phát triển phục vụ xuyên Đại Tây Dương. Đến năm 1950 đã đỗi tên thành Trans World Airlines (TWA). Từ 1940s đến 1970, TWA là một trong hai hãng hàng không Hoa Kỳ (TWA và Pan American World Airways) phục vụ các đường bay sang Âu Châu. Đến 1969, các đường bay xuyên Đại Tây Dương của TWA đã trội hơn của hãng Pan Am. Vào thập 1980, các pháp quy của hàng không được nới rộng, mở đường cho sự cạnh tranh và thâm nhập của các hãng mới. Đây là một đòng nặng cho hãng TWA. Vào 1985, hãng TWA bán cho Carl Icahn, và vào năm 1992, hàng TWA nạp đơn phá sản. Nhưng lại phục hồi hoàn toàn sau đó và tuyên bố mua thêm 125 máy bay để thay mới đoàn bay. Nhưng các khó khăn về tài chánh bắt đầu xuất hiện. Tháng 1 - 2001 hãng TWA một lần nữa nạp đơn phá sản. Vào tháng 4 - 2001, đã bị hãng American Airlines mua. Chuyến bay cuối cùng của hãng TWA từ St. Louis, Missouri đến Las Vega và Nevada vào ngày 1 tháng 12 - 2001. Thập niên 1960s, TWA phát triển mạnh dưới sự điều hành của nhà tỷ phú Howard Hughes, đã xây cất thêm trụ sở nổi tiếng Terminal 5 tại phi trường JFK của thành phố New York. Kiến trúc này được hoàn tất vào 1962 và đây chính là đối tượng suy nghiệm của khoa Phong Thủy Đông phương và là nội dung chính của bài viết này. Sau khi xây cất xong nhà ga (Terminal 5), hảng TWA lúc đầu phát triển mạnh mẽ hơn, nhưng chỉ trong khoảng 40 năm, hảng TWA bắt đầu suy thoái, cho đến năm 2001 thì biến mất trên thị trường. Kiến trúc của nhà ga (Terminal 5) này có hình dáng rất đặc biệt giống như con chim ưng hạ cánh. Nó được liệt kê là một công trình có giá trị nghệ thuật (“Landmarked building”) ở New Jersey thuộc New York City. Ưng (Eagle) là một loài chim rất được ưa chuộng tại nước Mỹ và được sử dụng trong các phù hiệu của chánh phủ, có lẽ đây cũng là một nguyên do mà con Ưng TWA này được dân chúng trong vùng yêu thích. Con Ưng TWA này do nhà Kiến Trúc nổi tiếng Eero Saarinen phác họa. Toàn bộ kiến trúc ứng dụng tối đa các đường cong, phòng ốc bên trong (cavernous interior) trên cơ sở của những lý thuyết kiến trúc hiện đại (Modern Architecture). Con Ưng này đã trở thành hình ảnh đại diện cho hảng hàng không TWA và cho cả phi trường JFK trong các thập niên qua. Một kiến trúc hiện đại có giá trị nghệ thuật cao, một nhà ga và trụ sở nổi tiếng của hãng hàng không TWA lớn nhất nhì nước Mỹ. Nhưng nhìn từ góc độ phong thủy chúng ta có thể thấy ảnh hương thực tế theo phương pháp luận của môn khoa học kiến trúc Đông phương cổ này đến số phận của nó và toàn thể hãng hàng không quốc tế TWA. Xét về lý khí hình thể Qua các hình ảnh, hình dáng của kiến trúc này trong giống như một con Đại Bàng đang hạ cánh, dãy nhà xuyên qua dưới hai cánh, như một mũi tên xuyên từ cánh này qua cánh kia, phía sau hai cây cầu dẫn vào trong, như hai mũi tên ghim vào. Phía trước mặt kiến trúc này là một con đường cong, đầu con Ưng này ở ngay tại khúc cong (chổ lồi) của con đường, tạp khí tạo ra bởi khúc lồi xung thẳng vào tòa nhà, tạo nên cục thế Liêm Đao Sát. Theo hình thể bề ngoài thì đây có thể nói là cục "Phi Ưng hở cánh" bị "Xạ Tiển Xuyên Tâm", Liêm Đao cứa cổ, thật là xấu. Con đường cong phía trước khiến TWA bị thế Liêm đao sát. Dãy nhà hai bến cánh và đường ống từ phía sau thành thế "Xạ tiễn xuyên tâm". Con Ưng này phía trước bị dao khứa cổ, mình thì trúng xuyên tâm tiển, như vậy mà nó cũng có thể oanh liệt kéo dài mạng sống hết 40 năm trong huy hoàng, được dân chúng khắp New York yêu quí. Xin đặt câu hỏi là tại sao với hình lý khí như vậy mà nó có thể cầm cự một cách oanh liệt suốt 40 năm và khả năng còn tiếp tục vươn lên oanh liệt? Nhưng nếu quan sát kỹ thì chúng ta thấy rằng: Hình thể con chim ưng này thật dũng mãnh và uy dũng với khí thể xà xuống vồ mồi của một loài vương điểu. Bởi vậy, mặc dù phạm nhiều cách sát nguy hiểm, nó vẫn không thể chết ngay, mà còn vũng vẫy trong lịch sử hàng không Hoa Kỳ nhiều năm về sau. Huyền không phi tinh Lạc Việt Trong quan niệm của phong thủy Lạc Việt, không thể chỉ xét riêng Hình Lý Khí, mà phải là sự tổng hợp của các yếu tố tương tác khác. Đó là vận khí của tòa nhà, công trình kiến trúc qua phương pháp Phi tinh Huyền Không, để xét đoán sự tốt xấu, lành dữ qua thời gian lịch sử tồn tại của nó. Phương pháp Huyền Không sẽ cho chúng ta một cái nhìn chi tiết hơn về và hiểu diễn biến thăng trầm của con chim ứng này trong lịch sử hàng không dân dụng Hoa Kỳ. Theo hình được tạo từ kinh vĩ độ của GPS Visualizer (đường dọc là kinh tuyến, đường ngang là vĩ tuyến Đông Tây), ta thấy con Ưng này có hướng Tây, Sơn Đông Hướng Tây tức Sơn Mão Hướng Dậu. Con Ưng này được hoàn tất vào năm 1962 tức vận 5 (1944 – 1963), kéo dài qua vận 6 (1964 – 1983), và đóng cửa vào tháng 10, 2001 tức vận 7 (1984 – 2003). Sơn Mão Hướng Dậu - được tạo từ kinh vĩ độ của GPS Visualizer Reduced: 88% of original size [ 723 x 1023 ] - Click to view full image Reduced: 88% of original size [ 723 x 1023 ] - Click to view full image Theo Huyền không Lạc Việt Phi Tinh: Vận 5 Đáo Sơn Đáo Hướng, vì vậy mà dù bị dao tên xâm phạm mà vần oanh liệt vương danh thiên hạ. Vận 6 Lệnh Tinh Đáo Hướng, trong vận này con Ưng bắt đầu yếu dần, nhưng củng nhờ cái lệnh tinh đáo hướng mà lây lất chưa gục. Vận 7 trước gặp Nhị, sau gặp Ngũ, Hình Khí đã bị thương, nay lại gặp Nhị Ngũ theo Huyền Không Lạc Việt thì làm sao mà thoát khỏi tử thương? Theo Huyền Không Phi Tinh từ cổ thư Hán: Vận 5 cũng được "Vượng Sơn, vượng Hướng"; nhưng vào vận 6 thì phạm "Thướng Sơn, hạ Thủy". Như vậy theo phương pháp luận của Huyền không phi tinh thì con Ưng này phải chết. Hay nói cách khác là hãng TWA phải phá sản trong vận này. Nhưng thực tế đã không diễn ra như vậy theo phiên tinh Huyền Không từ cổ thư chữ Hán. Và cũng theo phương pháp từ cổ thư chữ Hán thì đến vận 7 lại đắc "Vượng Sơn, vượng Hướng" thì đáng nhẽ phải phục hồi trở lại, nhưng thực tế con chim Ưng TWA lại gục ngã trong vận này - Hãng TWA chính thức phá sản vào 2001 - Như vậy, đã chứng tỏ phương pháp Huyền Không Lạc Việt Phi Tinh có tính hợp lý và nhất quán với phương pháp luận Huyền không. Cũng theo Huyền Không Phi Tinh từ cổ Thư Hán, con Ưng này khởi ở Vận 5, Hướng tinh là 7, cho nên đến Vận 7, 7 nhập trung cung tức Nhập tù, vì vây địa vận của nó chỉ có 40 năm. Một sự mâu thuẫn rõ ràng trong phương pháp Huyền Không Phi Tinh Hán là vận 7 vừa “Đáo Sơn, Đáo hướng” lại vừa Nhập Tù, như vậy thì phần “Đáo Sơn, Đáo Hướng” ảnh hưởng nhiều hơn hay Nhập Tù ảnh hưởng nhiều hơn. Thật tế cho thấy thì hảng TWA đã phá sản năm 2001, như vậy, theo Huyền Không Phi Tinh Hán là Nhập Tù, địa vận hết, vận số dứt, thế nhưng thực tế con Ưng đến hiện nay vẫn còn, nó chỉ gục ngã, nằm dưỡng thương vài năm, rồi lại vươn lên trong sự nâng niu của người chủ mới - JetBlue Airways. Theo Huyền Không Lạc Việt phi tinh thì vận 5 - thời điểm xây dựng trụ sở TWA - Hướng Tinh là 9, đến Vận 9, Hướng Tinh 9 nhập trung cung tức "Nhập Tù"; vì vậy, với "Sơn Mão Hướng Dậu", địa vận phải là 80 năm. Vì vậy mà con Ưng này chỉ gục ngã tạm thời, chứ không tử vong như theo vận khí của Huyền Không Phi Tinh Hán. Theo Huyền Không, thì Điạ Vận là tính từ khi khởi vận đến khi Hướng Tinh Nhập Trung Cung, nếu theo nguyên lý này thì địa vận theo Huyền Không Lạc Việt Phi Tinh của con Ưng này kết thúc ở vận 9 tức 2024-2043, như vậy còn ít nhất là 15 năm hay lâu nhất là 34 năm nửa thì vận khí mới hết. Như vậy, đã chứng tỏ phương pháp Huyền Không Lạc Việt Phi Tinh có tính hợp lý và nhất quán so với phương pháp luận Huyền không. Điều này đã phản ánh thực tế số phận của con Ưng TWA theo phương pháp luận của Huyền Không Lạc Việt, trên nguyên lý căn để Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ. Xét theo Bát trạch Lạc Việt Ngoài thời vận xét theo Huyền Không đã trình bày ở trên thì còn những gì tốt về con Ưng này, mà khiến nó có sức cầm cự mãnh liệt qua mấy mươi năm? Để đi sâu vào vấn đề này chúng ta tiếp tục xét trên phương pháp Bát Trạch Lạc Việt để phân tích. Phong Thủy quan niệm có hình thì có khí, có khí thì có sinh có tử có vượng có suy với phương pháp luận của thuyết Âm dương Ngũ hành. Xét cung phi theo Bát trạch Lạc Việt. Còn Ưng này hình thể dũng mãnh, thuộc Dương , là con đực. Năm 1962 hoàn tất là năm Nhâm Dần vận 5, Nam Khôn Nữ Cấn, theo cung phi Lạc Việt thì là Nhị Khôn. Kiến trúc này có Sơn Đông Hướng Tây (Sơn Mão Hướng Dậu) tức là Đoài Trạch. Cung Phi Khôn, nhà Đoài Trạch, phía trước Tây là Thiên Y, phía Đông Bắc (cung Cấn) là Sinh Khí, phía Đông Nam (cung Khôn) là Phục Vị, chính hai chổ này là hai mũi hậu tiễn theo hình lý khí, nhưng lại đắc Sinh Khí, và Phục Vị, như vậy hai cây cầu này là chổ động nên dẫn khí tốt vào trong. Theo Môn Lầu Ngọc Bối thì hướng Tây cửa mở Thiên Y được Thân Hôn. Cây cầu ở Đông Bắc Cấn Sinh Khí lại đắc Quan Tước, cây cầu ở Đông Nam Phục Vị phạm Điên Cuồng. Dãy nhà xuyên tâm từ Tuyệt Mệnh sang Lục Sát. Tổng hợp lại luận thì quả thật con Ưng này hơi Điên Cuồng không dễ nắm đầu nó được, nhưng hướng Thiên Y có Thân Hôn, Sinh Khí có Quan Tước, có lẻ vì vậy mà nó đã vang danh khắp xứ, và là cái ảnh (image) đại biểu cho phi trường JFK nổi tiếng. Sơn Mão Hướng Dậu, tức Chấn phối Đoài là Phá Quân Kim tinh, bản tính của con Ưng này hung hãn như Phá Quân Kim tinh, ai làm chủ nó không cẩn thận sẻ bị con Ưng này sơi sống. Nạn nhân đầu tiên là hãng TWA lớn nhất nhì nước Mỹ. Xét theo cấu trúc hình thể Xem xét đến sự kiến trúc đặc thù ở bên trong của con Ưng này, thì sự mãnh liệt, dai sức của nó càng được hiện rõ. Kiến trúc bên trong của con Ưng, được ứng dụng các đường cong và giảm thiểu các đường thẳng và góc cạnh tối đa. Đường thẳng và góc cạnh thì tạo ra tạp khí và sát khí, nay dùng đường cong thì tạo ra sinh khí và sự thông khí tối đa cho các cung vị, nhờ vậy mà nội khí của con Ưng này không phải là tầm thường. Nó như một nhà nội gia khí công cao thủ mạch Nhâm Đốc được đã thông nên khí lực sung mản, tuy bị hình lý khí bề ngoài xấu, nhưng, thể chất (Cung Phi Bát Trạch) và nội khí rất tốt (Kiến trúc đường Cong), không dễ dàng bị quật ngả. Reduced: 85% of original size [ 750 x 500 ] - Click to view full image Reduced: 85% of original size [ 750 x 495 ] - Click to view full image Reduced: 85% of original size [ 750 x 495 ] - Click to view full image Phải đến lúc thời vận (Phi Tinh) gặp Nhị Ngủ sát khí trùng trùng thì nó mới gục xuống. Tuy gục xuống, nhưng nó vẫn chưa chết, mà chỉ nghỉ dưỡng thương vài năm!!! Sau khi hảng TWA phá sản, bị hảng American Airlines mua, con Ưng này bị đóng cửa. Tháng 12, 2005, hảng JetBlue Airways là một hảng hàng không phát triển lẹ nhất đương thời, đang ở ga 6, dời sang ga 5, xây cất thêm 26 cửa bay phía sau, phá bỏ các kiến trúc phụ bên hông, và sáp nhập con Ưng vào thành một kiến trúc ga 5 mới. Ga 5 JetBlue Airways bắt đầu mở cửa vào ngày 22 tháng 10, 2008. Hãng hàng không TWA đã mất, con Ưng TWA củng đã gục ngã 7 năm, bước vào vận 8 nó đã phục sinh thành con Ưng JetBlue. Theo Phi Tinh Lạc Việt thì vận 8 đắc Lệnh Tinh Đáo Hướng, Linh Thần cung Tốn Tây Nam đắc Thủy. (Còn theo Huyên Không từ cổ thư chữ Hán thì vận 8, Sơn Mão Hướng Dậu được Song Tinh Đáo Hướng, Khảm Cung Đả Kiếp). Sự hồi sinh vào vận 8 sẻ là một cục vận mới cho con Ưng này, địa vận mới của nó sẻ kéo dài tới 80 năm. Kết luận Qua sự suy luận và khảo nghiệm về mặt phong thủy của kiến trúc trụ sở hãng hàng không TWA của Hoa Kỳ với phương pháp luận của Phong thủy Lạc Việt mới có khả năng trình bày một các chi tiết diễn biến sự việc với khả năng dự báo tiên tri. Nếu chỉ phân tích một phương diện Hình Lý Khí, hoặc chỉ dùng Huyền Không phi tinh; hoặc chỉ dùng "Cấu trúc hình thể, hay chỉ với cái nhìn phiến diện của Bát trạch thì mọi việc sẽ bế tắc. Chỉ có một phương pháp luận tổng hợp tất cả cácc yếu tố tương tác của Phong Thủy Lạc Việt mới có thể hiểu thấu được toàn cục diện và diễn biến trong tương lại của một đơn vị hình thể kiến trúc. Sự ứng dụng tổng hợp này giống như việc luận về một con người: Hình Lý Khí là diện mạo sắc khí của con người, Bát Trạch và Cấu trúc hình thể là thể chất nội bộ của con người, và Phi Tinh là Thời Vận ở con người. Chỉ có một cái nhìn tổng hợp chúng ta mới cón thể biết về một con người. Phong thủy Lạc Việt chính là sự phục hồi lại bản thể nguyên thủy của khoa phong thủy Đông phương thể hiện cái nhìn tồng hợp và nhất quán đó. Lữ Vinh ----------------------------- Tài liệu tham khảo: - Nguồn: http://www.aviationexplorer.com/twa_airlines.htm) - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt - Nguyễn Vũ Tuấn Anh. - Tìm về cội nguồn Kinh Dịch - Nguyễn Vũ Tuấn Anh - Bát trạch Minh cảnh - Cổ thư. - Dương trạch Tam yếu - Triệu Cửu Phong. -Trạch vận tân án - Thẩm Trúc Nhưng và các tác giả. - Tìm hiểu cổ dịch huyền không - Hồ Kinh Quốc. - Lý thuyết tam nguyên-cửu vận và nguyên lý dự báo cổ-Hoàng Tuấn. - Huyền học và nhà ở hiện đại – Chung Nghĩa Minh. - Giáo trình lớp PTLVII – Lưu hành nội bộ.
  18. Hi. Sory. Sư phụ sửa lại rồi.
  19. NHỮNG NGUYÊN LÝ CĂN BẢN CỦA HUYỀN KHÔNG LẠC VIỆT VÀ PHƯƠNG PHÁP ỨNG DỤNG Phạm Hữu Đễ. Hoàng triều Hải Thành viên nghiên cứu Ban Phong Thủy Lạc Việt Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương.. I - LỊCH SỬ HUYỀN KHÔNG VÀ HUYỀN KHÔNG LẠC VIỆT I - 1. Giới thiệu sơ lược về lịch sử Huyền Không từ cổ thư chữ Hán. Trường phái Huyền không ứng dụng trong phong thủy ngày nay, tương truyền do Thẩm Trức Nhưng sống vào cuối đời nhà Thanh, đầu thời Trung Hoa Dân quốc biên soan và lưu truyền. Nó được giới phong thủy Trung Hoa coi như là bô kinh điển phong thủy cuối cùng của các phương pháp ứng dụng trong khoa Phong thủy Đông phương. Thẩm trức Nhưng nghiễm nhiên được coi là ông tổ của phái Huyền Không, bởi sự công bố của ông. Cuốn sách được phổ biến ở Việt nam hiện nay là: "Thẩm thị Huyền không học - Phong thủy trong bối cảnh kiến trúc hiện đại" , do Nguyễn Anh Vũ dịch và được Nxb Văn Hóa Thông Tin phát hành năm 2003, đã xác nhận tác giả chính là Thẩm Trức Nhưng. Tuy nhiên, những tài liệu khác lại ghi rõ nguồn gốc của phương pháp này không phải do Thẩm Trức Nhưng sáng tạo với tư cách là một tác giả. Trong cuốn: " Cổ Dịch Huyền không học" - Nxb Đại Học Quốc gia 2001 viết: Vào mùa hè năm Quí Dậu 1873 thời vua Đồng Trị. Thẩm Trức Nhưng cùng học trò là Hồ Bá An, đến Vô Tích đã dùng khoản vàng lớn biếu hậu duệ của Chương Trong Sơn để mượn đọc. Hai người trong một ngày đêm đã có chép lai mang về. Qua ngghiên cứu, chỉnh lý rồi biên nhập vào sách "Thẩm thị huyền không học", sau đó để lại cho đời. Trường phái này căn cứ trên những quy ước về sự vận động của cửu tinh trên 9 phương vị (8 phương và ở giữa – Trung cung), tùy theo thuộc tính quy ước của cửu tinh và vị trí của nó để luận cát hung cho ngôi gia. Cho đến ngày nay, phương pháp Huyền Không rất phổ biến và được ứng dụng rộng rãi ở các quốc gia và vùng lãnh thổ có ảnh hưởng văn hóa Đông phương cổ. Nhưng cho đến ngày hôm nay, những nhà nghiên cứu Phong Thủy vẫn chưa thể biết được vì nguyên nhân nào để có những nguyên lý và khái niệm cũng như phuơng pháp luận của phương pháp Huyền không. Bởi vì, ngay cả sách của Thẩm Trức Nhưng cũng chỉ được coi là một bản thảo chưa hoàn chỉnh, mà cuốn sách chính thức được dịch ở Việt Nam - mà chúng tôi trình bày ở trên - được coi là do được nhiều môn đồ bổ chú và hoàn chỉnh. Như vậy, lịch sử Huyền Không được coi như xuất hiện vào thời cận đại của nền văn hóa Hán trải hàng ngàn năm và được coi là bộ kinh điển phong thủy cuối cùng được công bố. Nhưng chính vì lịch sử xuất hiện của nó vào thế kỷ XIX, nhưng chính nó lại mâu thuẫn với dự kiện quan trong ban đầu của khoa Bát trạch Minh Cảnh - được coi là ra đời vào thế kỷ thứ III sau Công nguyên. Đó là cách tính mệnh cung theo năm của gia chủ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã minh chứng rằng: Cách tính mệnh cung của gia chủ trong phái Bát Trạch chính là nguyên tắc phi tinh Huyền Không theo nguyên lý Nam Dương phi nghịch là Âm và Nữ Âm phi thuận là Dương. Một sự nghịch lý về nội dung trong lịch sử có xuất phát từ cổ thư chữ Hán: Cái có sau hàng ngàn năm là Huyền Không lại là cơ sở của cái ra đời từ hàng ngàn năm trước. Trong khi đó, những bản văn chữ Hán cho thấy rằng khoa Huyền không học trong phong thủy có khả năng tồn tại trước cuối đời Thanh trong văn hóa Hán. Theo “Địa lý chính tông” Trần Đoàn chân truyền cho Ngô Khắc Thành những bí ảo của địa lý thiên văn. Ông truyền cho Ngô Khắc Thành cuốn “Thanh Nang”, Ngô Khắc Thành truyền cho con là Ngô Cảnh Loan, Ngô Cảnh Loan vì không có con trai nên truyền cho con gái, người con gái này truyền ra ngoài cho Liêu Vũ (Liêu Kim Tinh – Liêu Công). Liêu công vì chuyện gia đình đau buồn mà chết, lúc đương thời khi ông còn thưc hành phong thủy, có 2 người hầu không biết chữ nhưng nhớ được bí quyết của ông, họ tiếp tục thực hành và truyền bá qua 11 đời sau thì tới Lưu Bá Ôn. Thời nhà Minh có phong thủy gia, nhà thuật số phương đông nỗi tiếng phù tá Chu Nguyên Chương lập nên nhà Minh là Lưu Bá Ôn. Sau Lưu Bá Ôn thì ngày càng mai một do nhiều yếu tố và nhất là quy luật “bảo mật” của tông phái, mãi đến cuối thời Minh, Vô Cực Tử hiệu là Khởi Ông, truyền học thuật cho Tưởng Đại Hồng. Tưởng Đại Hồng là người ở Trấn Hưng Trạch huyện Tùng Giang tỉnh Giang Tô, hiệu là Đỗ Lăng Phu tử, sinh vào giờ Thìn ngày 27 tháng 12 năm Bính Thìn (1616). Tưởng Đại Hồng truyền cho Khương Diêu, nhưng dặn không “tiết lộ thiên cơ”. Cuối thời nhà Thanh, huyền không có 6 phái: phái vô thường của Chương Trọng Sơn, phái Thượng Ngu của Trương Tâm Ngôn, phái Tô Châu của Chu Tiểu Hạc, phái Tương Sở của Y Hữu Bản, phái Quãng Đông của Sài Dân Sơn, phái Điền Nam của Phạm Nghi Tân. Trong 6 phái đó thì Chương Trọng Sơn là nỗi bật nhất vì sự luận đoán cực kỳ chính xác và thuật phong thủy cao siêu. Chương Trọng Sơn tức Tuệ Tây Vô Tăng Đạo Nhân, thông hiểu dịch số đại huyền không, viết nhiều tài liệu khảo sát thực địa, chỉ để lại cho con cháu sử dụng. Thẩm Trúc Nhưng kết thân với con trai Chương Trọng Sơn, mượn tài liệu quý đã ngộ ra những điều tiền nhân chưa nói rõ hoặc tối nghĩa, như trước tác “Thanh Nang Áo Ngữ” của Dương Quân Tùng. Họ Thẩm người Tiền Đường, tên Thiệu Huân, hiệu Trúc Nhưng, ông là người say mê môn phong thủy, do sự tác động của người Thầy nói rằng: “Phái Huyền Không không phải là chính phái, không đáng học”, nên đương thời ông xem Huyền Không như con thú dữ cần tránh xa và ông xem Tưởng Đại Hồng được tôn là đầu não của phái Huyền Không là đại địch. Do tình cờ biết được thực tế ứng dụng có hiệu quả của phái Huyền Không, nên sau đó Thẩm Trúc Nhưng không dám khinh thường phái Huyền Không nữa và ông đã bỏ tâm sức để tìm hiểu về phái Huyền Không. Thẩm Trúc Nhưng thường hay oán giận tiên sinh Tưởng Đại Hồng, vì họ Tưởng được Vô Cực chân truyền môn Huyền Không, nhưng họ Tưởng bị chấp trước câu: “Thiên cơ bất khả tiết lậu”, nên chỉ bí mật truyền thụ cho một số ít đệ tử và cấm đệ tử của mình phổ biến rộng rãi cho mọi người. Cuối đời Thanh, bộ “Thẩm Thị Huyền Không Học” do Thẩm Trúc Nhưng trước tác, được xem là tập đại thành và đặt dấu chấm hết cho thời kỳ bí truyền của phái Huyền Không. Như vậy, chúng ta cũng thấy tính tam sao thất bản và sự lưu truyền không hoàn chỉnh của riêng phái huyền không (Gồm sáu phái trong một phương pháp) và sự mâu thuẫn với các phái khác. Huyền không lúc đầu không được coi là "Danh môn, chính phái". Bởi vậy, mặc dù hiệu quả của phong thủy trên thực tế chính là nguyên nhân để nó tồn tại trong xã hội Đông phương. Nhưng chính vì tính mâu thuẫn, mơ hồ và thất truyền – nên một thời rất dài khi tiếp xúc với nền văn minh Phương Tây, trong điều kiện khoa học kỹ thuật hiện đại ở buổi đầu sơ khai - khoa Phong thuỷ đã bị liệt vào loại “mê tín dị đoan”. Điều này chỉ có thể giải thích một cách hợp lý rằng: Phong thuỷ chính là một phương pháp ứng dụng nhất quán, hoàn chỉnh và là hệ quả của một tri thức về thiên nhiên, cuộc sống, vũ trụ và con người được lý thuyết hoá - đó chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Học thuyết này đã thất truyền khi văn minh Lạc Việt bị sụp đổ ở miền nam sông Dương tử. Những giá trị của nền văn minh này bị tan tác và lưu truyền trong dân gian. Bộ môn phong thuỷ Lạc Việt là một sự tổng hợp tất cả các phương pháp ứng dụng rời rạc trong cổ thư chữ Hán và các phương pháp còn lưu truyền trong dân gian với một nguyên lý căn để nhất quán là "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ". Trong bài tham luận này, người viết xin được trình bày nguyên lý căn để của Phong thủy Lạc Việt và phương pháp ứng dụng của một thành tố tương tác quan trong trong phong thủy Lạc Việt đó chính là Huyền không Lạc Việt. I - 2. Nguyên lý căn để của Phong Thủy Lạc Việt. Vởi những thành quả nghiên cứu mới nhất của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, đã chứng minh rằng: Hà đồ là qui luật vận động của Ngũ tinh trong Thái Dương hệ. Gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ trong mối liên hệ với Mặt trời, Mặt trăng được quan sát từ trái Đất. Hoàn toàn không như cổ thư chữ Hán miêu tả là do những vòng xoắn trên lưng con Long Mã hiện lên ở sông Hoàng Hà, vua Phục Hy thấy được làm ra Hà Đồ. Tính hợp lý của Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ cũng được chứng minh trong các công trình nghiên cứu đã xác định rằng: Đó là đồ hình nhất quán xuyên xuốt trong mọi ứng dụng liên quan đến Lý học Đông phương. Nhất quán với nguyên lý xuyên suốt này - tính nhất quán là tiếu chí khoa học - Phong thủy Lạc Việt phi tinh trên cửu cung Hà Đồ, không phi tinh trên cửu cung Lạc Thư như phương pháp Huyền Không từ các bản văn văn chữ Hán liên quan đến Huyền không trong Phong thủy. CỬU CUNG LẠC THƯ..................................................CỬU CUNG HÀ ĐỒ Phối Hậu Thiên Văn Vương ..................................Phối Hậu Thiên Lạc Việt Trên cở sở này và tính hợp lý của mọi vấn đề và các hiện tượng liên quan đến Lý học Đông phương, Phong thủy Lạc Việt đã ứng dụng trong phương pháp Huyền Không Lạc Việt phi tinh. Phương pháp phi tinh theo Huyền Không Lạc Việt khác trên Lạc Thư từ cổ thư chữ Hán được so sánh trên đồ hình sau: Qua sự trình bày trên, chúng ta thấy rằng: Sư khác biệt giữa Huyền Không lạc Việt với Huyền Không trong cổ thư chỉ ở các phương vị phía Nam của Hà Đồ. Đây cũng là khác biệt chủ yếu của phương pháp Huyền Không Lạc Việt khi phi tinh, còn tất cả mối quan hệ phân tích tương quan các sao trong Huyền không và các mối tương quan khác và phương pháp luận trên cơ sở thuyết Âm Dương Ngũ hành không thay đổi. Phần tiếp theo đây, chúng tôi giới thiệu về tuính ứng dụng cụ thể của Huyền Không lạc Việt để các nhà nghiên cứu về phong thủy tiện so sánh cụ thể những luận điểm và phương pháp ứng dụng của Huyền Không Lạc Việt với cổ thư chữ Hán. II - PHƯƠNG PHÁP ỨNG DỤNG CỦA HUYỀN KHÔNG LẠC VIỆT Vũ trụ vận động không ngừng, tiền nhân đã phát hiện sự vận động đó có tính quy luật theo cửu tinh, được xem như 9 trường khí của 9 tinh thể lớn ảnh hưởng đến sự sống và các hoạt động trên trái đất. Người đời sau không hiểu biết tạo ra sự nhầm lẫn dẫn đến tệ mê tính dị đoan trong các môn lý học đông phương, nhất là không hiểu biết về sự tương tác của các hành tinh Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ lên trái đất chúng ta đang sống. Sự tương tác này được gọi là “Thiên khí”, vận hành theo chiều thuận là dương số lẻ, là chiều từ số nhỏ đến số lớn. Còn khí của quả đất gọi là “Địa khí” có tính chất đục nặng vận hành theo chiều nghịch là âm số chẳn, chiều từ các số lớn đến các số nhỏ. Tiền nhân đã thể hiện hai chiều quay đó trong Hà đồ, tuy con người không nhìn thấy sự tương tác, nhưng vẫn biết sự tương tác đó tác động đến đời sống muôn vật, tạo nên sự thịnh suy của muôn vật. II - 1. Tính chất của cửu tinh: - Số 1: Nhất bạch Tham lang: Là cát tinh đứng đầu. * Âm dương, ngũ hành: Dương thuỷ * Màu sắc: Xanh đen. * Cơ thể: Thận, tai, máu huyết * Về con người: là con trai thứ - Số 2: Nhị hắc Cự môn: là sao xấu, hung. * Âm dương, ngũ hành: Âm hoả đới thổ. * Màu sắc: Nâu đỏ. * Cơ thể: bụng và dạ dày * Về con người: Là người mẹ, người vợ. - Số 3: Tam bích Lộc tồn: Là sao xấu. * Âm dương, ngũ hành: dương mộc. * Màu sắc: màu xanh lá cây đậm. * Cơ thể: mật, vai và tay * Về con người: là con trai trưởng - Số 4: Tứ lục Văn xương: là sao tốt. * Âm dương, ngũ hành: âm kim. * Màu sắc: Xám trắng. * Cơ thể: đùi và 2 chân. * Về con người: con gái trưởng. - Số 5: Ngũ hoàng Liêm trinh: Là sao xấu nhất, còn gọi là đại sát tinh. * Âm dương, ngũ hành: Thổ * Màu sắc: màu vàng * Về cơ thể: không * về người: không - Số 6: Lục bạch Vũ khúc: Là sao tốt. * Âm dương, ngũ hành: Âm kim đới thuỷ. * Màu sắc: màu xanh da trời. * Cơ thể: đầu, mũi, cổ, xương, ruột già * Về con người: Là người cha, người chồng, người đứng đầu. - Số 7: Thất xích Phá quân: Là sao xấu. * Âm dương, ngũ hành: Dương hoả. * Màu sắc: màu đỏ * Cơ thể: mắt, tim, ấn đường. * Về con người: con gái giữa. - Số 8 : Bát bạch Tả phù: Là sao tốt. * Âm dương, ngũ hành: Âm mộc. * Màu sắc: màu xanh lá cây nhạt. * Vơ thể: lưng, ngực và lá lách. * Về con người: con trai út. - Số 9: Cửu tử - Hữu bật: là sao trung tính. * Âm dương, ngũ hành: Dương kim. * Màu sắc: màu trắng. * Cơ thể: phổi, miệng, lưỡi * Về con người: con gái út. II -2. Tam nguyên cửu vận: Cửu tinh tương tác tạo nên ảnh hưởng đến mọi mặt trên trái đất, cái dễ cảm thấy nhất đó là khí hậu hàng năm, và chi phối đến tháng ngày giờ, sự chi phối này có chu kỳ nguyên vận hay là đại vận là một giáp 60 năm, tiểu vận hay là Vận khí 20 năm, mỗi nguyên có 3 vận, tam nguyên cửu vận có 180 năm vừa đúng với cửu tinh chín vận. Ví dụ ta lấy tam nguyên cửu vận gần đây nhất: Thượng Nguyên: * vận 1: 1864 - 1883, * vận 2: 1884 - 1903 * vận 3: 1904 - 1923 Trung Nguyên: * vận 4: 1924 - 1943 * vận 5: 1944 - 1963 * vận 6: 1964 - 1983 Hạ Nguyên: * vận 7: 1984 - 2003 * vận 8: 2004 - 2023 * vận 9: 2024 - 2043 Đại vận: Theo Huyền không Lạc Việt dựa theo phép tính lấy thời điểm năm hành tinh Kim. Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ cùng mặt trăng, mặt trời tạo thành một đường thẳng gọi là thất tinh hợp bích làm điểm khởi đầu của năm đầu kỷ nguyên niên lịch, nên năm giáp tý đầu tiên tương ứng với nhất bạch thuỷ tinh, như vậy lấy năm Kinh Dương Vương lên ngôi vào năm Nhâm tuất 2897 trước công nguyên đến nay thì đã trãi qua 84 đại vận. Đại vận 84 này thuộc hạ nguyên của tam nguyên thứ 28, tức là đại vận của Tam bích mộc tinh.(vẽ bảng số 43 trang 222 sách "Tam nguyên cửu vận" của Giáo sư Hoàng Tuấn) Tiểu vận: Mỗi tiểu vận là 20 năm, hiện nay đang là hạ nguyên của tam nguyên thứ 28, kéo dài từ năm 1984 đến năm 2043 thuộc đại vận Tam bích mộc tinh. Hạ nguyên có 3 tiểu vận, đó là vận 7, vận 8, vận 9. Năm 2009 thuộc tiểu vận 8 bắt đầu từ năm 2004 đến năm 2024 của hạ nguyên. II -3. Đường di chuyển của cửu tinh (Lường Thiên xích). Hà đồ và Lường Thiên Xích: Hà đồ thực chất là qui luật tương quan biểu kiến của Ngũ Tinh trong Thái Dương hệ với mặt trời và mặt trăng. Các sao này được sắp xếp theo một trật tự đặc biệt mà 9 cung của Hà đồ đã thể hiện, đây cũng là bàn phi tinh cố định, như trong hình vẽ sau: Chúng chỉ thay đổi theo không gian và thời gian với một đường đi cố định được gọi là quỹ đạo chuyển động cố định của các sao còn gọi là phi tinh, mà người xưa gọi là Lường Thiên Xích. Trong hình vẽ trên, những số trong 9 ô vuông là số của sao phi tinh. Ô vuông ở giữa gọi là Trung cung còn các cung khác đại diện cho 8 cung ở 8 hướng xung quanh theo nguyên lý " Hậu Thiên bát quái Lạc Việt phối Hà đồ". Ta có thứ tự như sau: - Từ trung cung số 5 đi lên Tây bắc số 6. - Từ Tây bắc số 6 xuống Nam số 7. - Từ Nam số 7 lên Đông bắc số 8. - Từ Đông bắc số 8 đến Tây số 9. - Từ Tây số 9 lên Bắc số 1. - Từ Bắc số 1 xuống Đông nam số 2. - Từ Đông nam số 2 lên Đông số 3. - Từ Đông số 3 qua Tây nam số 4. - Tư Tây nam số 4 về lại trung cung số 5. Lường Thiên Xích chia ra làm 2 loại đó là loại Thuận và loại Nghịch. Loại thuận bắt đầu từ Trung cung là số 5 rồi đi theo chiều tăng đến 6, 7, 8, 9, 1, 2, 3, 4. Lường Thiên Xích Nghịch thì lại bắt đầu từ số 5 rồi đi theo chiều giãm xuống đến 4, 3, 2, 1, 9, 8, 7, 6. Tam nguyên long Huyền không coi vấn đề thuần khí như là một trong những yếu tốt bắt buộc, vì thế, nó được xem như là yếu tố xác định họa phúc, tốt xấu của một ngôi gia. Khi một ngôi gia có được một tinh bàn vượng sơn vương hướng rồi thì cũng nên chú ý đến việc thuần khí theo tam nguyên long, nghiã là cần xem cấu trúc hình thể trong ngôi gia đó có theo được sự kết hợp tốt theo tam nguyên long hay không, ví dụ như cổng, cửa, bếp, phòng … Tam nguyên long cũng chỉ là một yếu tố trong các yếu tố xem xét một ngôi gia tốt xấu mà thôi. 1 - Thiên nguyên long. * 4 sơn dương: Càn , Khôn, Cấn, Tốn. * 4 sơn âm: Tý , Ngọ, Mão , Dậu. 2 - Nhân nguyên long. * 4 sơn dương: Dần, Thân, Tỵ, Hôi. * 4 sơn âm: Ất, Tân, Đinh, Quý. 3 - Địa nguyên long. * 4 sơn dương: Giáp, Canh, Nhâm , Binh. * 4 sơn âm: Thìn, Tuất, Sửu , Mùi. II - 4. Tinh bàn: -Vận bàn: Cần xác định vận bàn: * Năm xây dựng mới ngôi gia. * Năm sửa lại đa phần lại ngôi gia. * Năm bắt đầu dọn vào ở trong ngôi gia. Khi đã xác định được năm của ngôi gia rồi thì xem năm đó thuộc vận nào trong tam nguyên cửu vận. Xác định được vận thì đem số sao của vận đó vào Trung cung rồi di chuyển theo Lường Thiên Xích thuận mà sắp xếp các sao ở chín cung. Ví dụ: Năm 2009 nằm trong vận 8 (2004-2024) thuộc hạ nguyên của tam nguyên cửu vận. Đưa sao Bát bạch vào trung cung di chuyển theo chiều thuận. - Sơn tinh: Còn gọi sơn bàn phi tinh, nghĩa là sao phi tinh ở phương toạ của sơ đồ nhà theo vận bàn đưa vào trung cung, căn cứ theo tam nguyên long ở phương toạ là âm hay dương để di chuyển sao phi tinh theo chiều thuận hay nghịch. Sao phi tinh sơn bàn thường đặt bên trái của sao phi tinh vận bàn. -Hướng tinh: còn gọi là hướng bàn phi tinh, nghĩa là sao phi tinh ở phương hướng của sơ đồ nhà theo vận bàn đưa vào trung cung, di chuyển thuận nghịch theo tam nguyên long âm dương ở hướng. Sao phi tinh hướng bàn thường đặt bên phải của sao vận bàn. II - 5. Địa bàn: Là bàn cố định của phi tinh hay còn gọi là cửu tinh đồ căn bản được sắp xếp theo các cung của Hậu thiên Lạc Việt phối Hà Đồ. Sự chuyển động của khí trong vũ trụ là không ngừng theo năm, tháng, ngày, giờ. Cổ nhân đã dùng cửu tinh làm chủ cho sự thay đổi của thời gian đó. Mỗi sao của cửu tinh sẽ làm chủ một khoảng thời gian là năm tháng ngày giờ, vì vậy mỗi năm, tháng, ngày, giờ có một sao chủ. Sao chủ xếp vào vị trí trung cung của cửu cung và các sao khác di chuyển theo lường thiên xích thuận. -Niên tinh: Là sao quản năm, dùng cửu tinh phối với năm, ví dụ năm 2009 là sao cửu tử nhập trung cung và cũng là sao quản năm. -Nguyệt tinh: Là mỗi tháng có một sao phi tinh làm chủ quản lý chi phối tháng đó. Ví dụ từ ngày 7 tháng 11 năm 2009 đến ngày 7 tháng 12 năm 2009 là sao ngũ hoàng quản. -Nhật tinh, Thời tinh: Cũng tương tự như niên nguyệt, thi ngày và giờ cũng có một sao làm chủ và nó chi phối khoảng thời gian mà nó làm chủ. Sự ảnh hưởng của niên nguyệt tinh mạnh nhất thường là những nơi có sự hoạt động thường xuyên và mạnh, như cửa, cổng ra vào, phòng bếp, phòng ngủ. Ngoài ra còn xét kết hợp với sao sơn hướng tinh ở khu vực chúng đến để xem xét tốt xấu tuỳ theo tính chất của sao niên nguyệt tinh. II - 6. Chính thần & Linh thần Đồ hình của Hậu thiên Lạc Việt phối Hà Đồ có cửu tinh bài bố như sau: - Chính thần là dùng nơi cao sơn của sao đương vận mà thu nhận khí. Như vận 8 thì lấy phương vị Bát bạch Cấn - làm chính thần. Phương vị của Chính Thần cần có cao sơn thực địa. - Linh thần là phương đối lại của chính thần. Phương vị LinhThần cần sông nước, trũng thấp. Thí dụ: Như vận 8 phương đối lại của chính thần là phương vị Tứ - Tốn (Tây nam) làm linh thần. Chính thần quàn 10 năm đầu của vận 20 năm. Linh thần quản 10 năm sau. Riêng vận 5 có 20 năm, mười năm đầu lấy Nhị Khôn làm Linh thần và mười năm sau lấy Bát (Cấn) làm Chính thần. Coi về Chính thần, Linh thần của đương vận là coi về vượng suy của một thành phố hay khu dân cư, ví dụ : vận 8, phương vị của Linh thần nằm ở phía Tây Nam. Do đó, nếu khu vực đó của thành phố hay khu dân cư ... mà có sông, hồ hoặc biển... thì rất tốt, chủ vượng phát về mọi mặt. Ngược lại, nếu khu vực đó lại có thế núi, thế đất tiến dần cao thì ngôi làng hay đô thị đó sẽ gặp nhiều việc không tốt. Còn về ngôi gia cư thì lấy sơn tinh đương vượng làm Chính thần và hướng tinh đương vượng làm Linh Thần. Phương Linh thần nên có Thuỷ, thấp trũng hay đường đi. Nếu phương vị của Hướng tinh sinh, vượng khí lại vào vị trí của Linh thần đương vận mà có thuỷ, thấp trũng hay đường đi thì tốt lại càng thêm tốt, đã vượng càng thêm vượng. Hướng tinh sinh vượng khí vào vị trí Chính thần của đương vận thì vẫn cần có thuỷ thì mới vượng phát được, còn gặp cao sơn thì suy. II - 7. Cấu trúc hình thể với phi tinh: Khi lựa chọn đựơc một mảnh đất hay một khu đất để quyết định xây một ngôi gia, hay một ngôi gia đã hoặc đang ở, ta kiểm tra hướng, xem hướng của ngôi gia có bị kiêm hướng hay bị phạm điêù gì không, sau đó ta cần chú ý đến cấu trúc hình thể trong và ngoaì ngôi gia có hợp với phi tinh Huyền Không Lạc Việt hay không, để hiệu chỉnh cho thích hợp. Cấu trúc hình thể bên trong ngôi gia với phi tinh: Cấu trúc hình thể bên trong của một ngôi gia cần được điều chỉnh sắp xếp cho phù hợp với phi tinh, nghĩa là ở những nơi có phi tinh hướng sinh khí, vượng khí thì nên bố trí lối đi, hành lang, cầu thang, vật chứa nước, hồ cá, vòi nước, tranh ảnh thuỷ mặc… Còn ở những nơi là sinh vượng khí của sơn tinh nên làm phòng ngũ, bếp, bàn làm việc. Cấu trúc cảnh quan bên ngoài ngôi gia với phi tinh: Cảnh quan xung quanh ngôi gia phối với phi tinh cũng rất quan trọng, ở những khu vực có hướng tinh sinh vượng khí thì cần trống thoáng, như có hồ nước hay đường đi làm hư thủy làm cho hướng tinh được đắc cách mà tốt hơn. Ngược lại tại khu vực sinh vượng của hướng tinh mà có núi đồi, nhà cao, cây cao áp sát ngôi gia thì hướng tinh bị thất cách làm cho ngôi gia không hưởng được khí sinh vượng của phi tinh nên không tốt. Còn ở những khu vực có sơn tinh sinh vượng khí thì cần có cao sơn thực địa như núi đồi, nhà cao tầng, cây cao…còn ngược lại thì không tốt. Tùy theo tinh bàn của từng ngôi gia mà cần có bố trí cho thích hợp, ví dụ như ngôi gia có tinh bàn thướng sơn hạ thủy thì cần có sự bố trí ngược lại mà người xưa gọi là cách đảo kị long, hoặc theo cách thu sơn xuất sát. II - 8. Phân cung. Bắt đầu từ tâm nhà chia mặt phẳng diện tích làm 8 phương vị: 1) Bắc: Từ 337, 5 độ - 0độ (Chính Bắc) - 22, 5 độ; Quái Khảm quản. 2) Đông Bắc: 22,5 độ - 45 độ (Chính Đông Bắc) - 67, 5 độ. Quái Cấn quản. 3) Đông: 67,5 độ - 90 độ (Chính Đông) - 112,5 độ. Quái Chấn quản. 4) Đông Nam: 112, 5 độ - 135 độ (Chính Đông Nam) - 157, 5 độ.Quái Khôn quản. 5) Nam: 157, 5 độ - 180 độ (Chính Nam) - 202,5 độ.Quái Ly quản 6) Tây Nam: 202,5 độ - 225 độ (Chính Tây Nam) - 247.5 độ. Quái Tốn quản 7) Tây: 247,5 độ - 270 độ (Chính Tây) - 292, 5 độ. Quái Đoài quản. 8) Tây Bắc: 292,5 độ - 315 độ (Chính Tây Bắc) - 337, 5 độ. Quái Càn quản. - 24 Sơn hướng. Tám cung đó tính từ Càn thuận chiều kim đồng hồ là: Càn , Khảm , Cấn , Chấn , Khôn , Ly , Tốn , Đoài . Trong Phong thủy mỗi phương quản 45 độ. Nhưng thực tế cho thấy do những yếu tố tương tác khác nhau, mà không thể có nhà nào chính hướng và có những sai lệch. Sự sai lệch này cũng có những tương tác khác nhau trong cùng một phương. Bởi vậy trong phong thuỷ người ta mới chia nhỏ mỗi phương thành 3 vị trí khác nhau gọi là sơn hướng. Do đó, 8 phương có tổng cộng là 24 sơn hướng. Mỗi cung như vậy lại chia làm 3 sơn. Mỗi sơn quản 15 độ. Tên gọi của các sơn hướng lần lượt như sau: 1: Càn: Gồm ba sơn Tuất - Càn - Hợi. 2: Khảm: Gồm ba sơn Nhâm - Tý - Quí. 3: Cấn: Gồm ba sơn Sửu - Cấn - Dần. 4: Chấn: Gồm ba sơn Giáp - Mão - Ất. 5: Khôn: Gồm ba sơn Thìn - Khôn - Tỵ. 6: Ly: Gồm ba sơn Bính - Ngọ - Đinh. 7: Tốn: Gồm ba sơn Mùi - Tốn - Thân. 8: Đoài: Gồm ba sơn Canh - Dậu - Tân. Dưới đây là mô hình La Kinh và 24 sơn hướng, chúng ta so sánh với Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt, để thấy tính trùng khớp hợp lý của nguyên lý căn để có tính xuyên suốt nhất quán và hợp lý trong phong thủy Lạc Việt. Chúng ta đều biết rằng: Hợi Tý Nhâm Quý thuộc Thủy - Màu xanh dương; Giáp Ất Dần Mão thuộc Mộc - Màu xanh lá cây; Tỵ Bính Ngọ Đinh thuộc Hỏa - Màu đỏ; Thân Canh Dậu Tân thuộc Kim - Màu trắng, Nguyên lý này trùng khớp một cách hợp lý giữa La Kinh và Hà Đồ phối Hậu thiên Lạc Việt. - Phân độ: Mỗi phân độ chiếm chỉ 5 độ trên La bàn. Gọi là 72 phân kim ứng với 72 Địa sát trên toàn Thiên Bàn. Ngoài ra các vòng La Kinh còn chia 60 phân mạch Bảo châu. Mỗi phân mạch Bảo châu chiếm 6 độ Địa bàn. Sự phân chia các phương vị trên La kinh còn nhiều phức tạp khác, Nhưng chỉ dùng nhiều trong Âm Trạch. Trong Dương Trạch thì chúng ta chỉ cần đến sự phân độ như trên và nắm vững cách tính một số vòng sao. 12 địa chi sơn trong tam hợp bàn, mỗi sơn có 5 ô Giáp tý, khi nạp âm thì ngũ hành của mỗi hoa giáp sẽ khác nhau, như Tý sơn có Giáp Tý (kim), Bính Tý (Thuỷ), Mậu Tý (Hoả), Canh Tý (Thổ), Nhâm Tý (Mộc). 12 sơn cộng lại 60 giáp tý, còn gọi 60 Thấu địa long, hoặc ngũ tý khí. Phép lập hướng phải biết tiết chế bớt khí quá vượng và bổ sung khí cho khí quá yếu. - Phân Kim: Phương pháp phân kim cụ thể như sau: -Sơn Tý có: Giáp Tý (Kim), Bính Tý (Hỏa), Mậu Tý (Thủy), Canh Tý (thổ), Nhâm Tý (mộc). -Sơn Sửu có: Ất Sửu (Kim), Đinh Sửu (Thuỷ), Kỷ Sửu (Thủy), Tân Sửu (thổ), Quí Sửu (mộc) -Sơn Dần có : Bính Dần (Thủy), Mậu Dần (thổ). Canh Dần (mộc), Nhâm Dần (kim), Giáp Dần (Thuỷ). -Sơn Mão có : Đinh Mão (Thủy), Kỷ Mão (thổ), Tân Mão (mộc), Quý Mão (kim), Ất Mão (Hỏa). -Sơn Thìn có : Mậu Thìn (mộc), Canh Thìn (kim), Nhâm Thìn (Hỏa), Giáp Thìn (Thủy), Bính Thìn (thổ). -Sơn Tỵ có : Kỷ Tỵ (mộc), Tân Tỵ (kim), Quý Tỵ (Hỏa), Ất Tỵ (Toả), Đinh Tỵ (thổ). -Sơn Ngọ có : Canh Ngọ (thổ), Nhâm Ngọ (môc), Giáp Ngọ (kim), Bính Ngọ (Hỏa), Mậu Ngọ (Thủy). -Sơn Mùi có : Tân Mùi (Thổ), Quý Mùi (Mộc), Ất Mùi (Kim), Đinh Mùi (Hỏa), Kỷ Mùi (Thủy). -Sơn Thân có : Nhâm Thân (kim), Giáp Thân (Hỏa), Bính Thân (Thủy), Mậu Thân (thổ), Canh Thân (mộc) -Sơn Dậu có : Quý Dậu (kim), Ất Dậu (Hỏa), Đinh Dậu (Thủy), Kỷ ̉ Dậu (thổ), Tân Dậu (mộc). -Sơn Tuất có: Giáp Tuất (Thủy), Bính Tuất (thổ), Mậu Tuất (mộc), Canh Tuất (kim), Nhâm Tuất (Hỏa). -Sơn Hợi có: Ất Hợi (Thủy), Đinh Hợi (thổ), Kỷ Hợi (mộc), Tân Hợi (kim), Quí Hợi (Hỏa). Nguyên tắc sử dụng phân kim là ở chỗ vượng thì tiết giảm, suy thì bổ cứu, tránh hung theo cát, tức tránh tương khắc (nếu khắc xuất là tiết), theo cát (sinh nhập, ngang hoà là cát, sinh xuất là tiết). Tóm lại là phải vận dụng linh hoạt. Ngoài ra cần lưu ý đến làn ranh phân kim, nếu phạm sẽ dẫn đến ngũ hành lẫn lộn mà có nhiều hung sát II - 9. Cách bố trí sơ đồ nhà kết hợp phi tinh. -Phòng bếp: Bếp là nơi chế biến nguồn dinh dưỡng cho mọi người, chủ về nhân đinh, cho nên nó có tầm ảnh hưởng đến tất cả mọi người trong một ngôi gia về sức khoẻ, sự bình an và tài lộc vì thế bếp phải đặt tại phương vị tốt (Vị trí tọa tốt) có các sao là sơn tinh sinh vượng tiến khí và các sao tốt. Hướng bếp phải là hướng tốt, có các sao là hướng tinh sinh vượng tiến khí. Hướng nhà và vị trí bếp hay hướng bếp phải cùng Tam nguyên long, cụ thể là hướng nhà là Thiên nguyên long thì vị trí bếp, hướng bếp là Thiên nguyên long hoặc là Nhân nguyên Long. Hướng nhà là Nhân nguyên long thì hướng bếp và vị trí bếp là Nhân nguyên long hoặc là Thiên nguyên long. Còn Địa nguyên long chỉ nên phối với Địa nguyên long, không kết hợp được với Nhân nguyên long hay Thiên nguyên long, nếu kết hợp sẽ không được tốt. - Không nên đặt bếp tại Hướng tinh 2; 5 vì hoả sinh thổ. Sao 5 là Ngũ Hoàng Liêm trinh: chủ bệnh tật hao tài. Sao 2 là nhị hắc bệnh phù: Chủ bệnh tật. Không nên đặt tại nơi có vượng sinh tiến khí của hướng tinh. Nếu đặt thì dễ bị hao hụt về tài chính. Vị trí đặt bếp là tính theo 24 sơn tính từ tâm nhà, chứ không tính theo tâm phòng bếp. - Dời bếp vào hướng phạm thái tuế: Nếu là cung có sơn tinh đang vượng thì rất tốt, còn không thì tai hoạ. Chỉ nên tránh vào tháng phạm thái tuế và trực xung thái tuế (Thí dụ: năm 2009, thái tuế cung Sửu thì nên tránh tháng, ngày, giờ Sửu và Mùi (trực xung). Hướng bếp nên hướng về hướng tinh là: * Nhất bạch: Hành thuỷ là thuỷ hoả ký tế nên là bếp cát * Tam bích, bát bạch: Mộc sinh hoả là bếp cát. * Nhị hắc, ngũ hoàng: Nhị hắc là bệnh phù, ngũ hoàng là đại sát nên kỵ -Phòng khách: Là nơi tụ hợp các thành viên trong gia đình, nơi tiếp khách, nghĩ ngơi tạm thời, chổ ngồi, nằm, uống trà, hút thuốc, tụ tập nói chuyện, thư giãn, nghe nhạc, xem truyền hình, đọc sách, làm việc, vì thế nó có vai trò cũng quan trọng. Do những ngôi nhà trong thành phố thường bị hạn chế về diện tích sử dụng, thì phòng khách thường cũng là phòng ăn. Vị trí tốt thường bố trí ở trung tâm ngôi gia, ở khu vực có sơn tinh sinh khí xa, ví dụ như vận 8 là sơn tinh nhất bạch, vận 7 là sơn tinh cửu tử, vận sáu là bát bạch… II - 10. Các loại sao sát và những kiêng kỵ. Thần sát: -Sao bản mệnh: là sao quản năm sinh của một người nào đó, ví dụ: nếu người đó sinh năm 2009, thì sao bản mệnh là cửu tử. -Bản mệnh sát và đích sát: Trong phi tinh của niên, nguyệt, nhật, thời, ở tại phương vị nào có phi tinh là sao bản mệnh thì gọi là bản mệnh sát, phương vị đối lập với phương bản mệnh sát tức là đối xung gọi là “đích sát”. Phương bản mệnh sát và phương đích sát đều là các phương đại hung, không được phạm đến. - Ám kiến sát: Sao phi tinh của niên nguyệt nhật thời nhập trung cung, phương vị có số sao phi tinh nhập trung cung thì gọi là phương vị ám kiến sát của niên nguyệt nhật thời đó. Phương vị ám kiến sát cũng là phương đại hung. -Thái tuế: Thái Tuế - vật thể thuộc Âm - là sao lớn nhất gần trái Đất và nhóm sao II ngoài vòng Thiên Thạch. Thái tuế là mộc tinh (Jupiter) lớn nhất trong thất tinh, nên khi nó đi tới đâu thì nó sẽ kéo hết dương khí về nơi đó. Theo quan niệm về "Khí" của Phong thủy Lạc Việt: Tất cả khí ngoài trái Đất đều thuộc Dương so với trái Đất. Nên sự tương tác rất mạnh về Dương Khí. Dương khí vượng ở hướng tất suy ở sơn và Âm khí vượng ở Sơn tất suy ở hướng. Mà hướng là dương, tọa là âm vì thế mà kỵ hướng, tuế phá ngược lại vì do dương khí bị kéo hết về nơi thái tuế nên tuế phá hoàn toàn là âm khí nên kỵ tọa. Thái tuế kỵ hướng không kỵ tọa, bởi vì thái tuế tính dương động kỵ hướng là do nơi hướng thường là nơi hoạt động vào ra của con người nên động càng thêm động, vì thế cũng kị mở cửa theo hướng của năm sinh để tránh không xung phạm Thái tuế. Thí dụ người tuổi Sửu không mở cửa hướng Sửu, người tuổi Tý không mở cửa hướng Tý, các tuổi khác cũng như vậy, để tránh tới năm tuổi Thái tuế đến cửa mà gây ra nhiều chuyện phiền toái. -Xung Thái tuế: là Thái-tuế xung khắc với năm sinh của chủ nhà. Thí dụ người sinh năm Dần thì niên canh Thái-tuế của người đó là Dần. Dần lại tương xung với Thân nên gặp năm Thân, tức là năm “niên canh xung Thái-tuế” thì người này phải tránh hành động tại 2 cung Dần, Thân để tránh khỏi bị trắc trở. -Nơi có phi tinh tốt gặp Thái tuế thì tốt thêm, nơi có phi tinh xấu mà gặp Thái tuế thì càng thêm xấu. -Thái tuế Có 2 loại là Thái tuế theo năm và Thái tuế theo phi tinh: *Thái tuế theo năm: là Thái tuế tính theo các địa chi của năm và phương vị mang tên địa chi đó. Ví dụ: Năm Tý Thái tuế ở phương Tý (phía Bắc), năm Sửu Thái tuế ở phương Sửu (phía Đông Bắc)… * Thái tuế theo phi tinh là Thái tuế theo sao cửu tinh của năm. Ví dụ: Năm 2009 là năm Sửu, phương Sửu ở Đông bắc, mà Đông bắc theo bàn phi tinh cố định là Bát bạch làm đại diện, phi tinh đại diện của năm Sửu là Cửu tử, đem Cửu tử nhập trung cung di chuyển theo Lường Thiên xích thuận thì sao Bát bạch đến phương Tây Nam, như vậy Thái tuế phi tinh năm 2009 Kỷ sửu là ở phương Tây Nam. Tuế phá: Phương đối ngược lại với phương Thái-tuế là phương Tuế-phá. Phương Thái-tuế nơi hoàn toàn có khí dương, ngược lại phương có Tuế-phá là nơi hoàn toàn có khí âm. Vì thế đây là 2 cung âm dương đối lập, tương khắc, tương xung. Như vậy khi các cung này ở trong vị trí tốt thì rất tốt mà trái lại thì rất xấu. Các ngày Tuế-phá cũng được tính theo như thí dụ sau đây: Năm Tý, Thái-tuế địa bàn ở phương Tý thì Tuế-phá ở phương ngược lại là phương Ngọ nên các ngày Ngọ như Giáp Ngọ, Bính Ngọ... đều là ngày Tuế-phá có khí âm cực mạnh. Do đó khi phạm vào thì dể gặp tai họa nhất là người tuổi Tý. -Tam sát: Là phần bên hông vuông góc với trục Thái Tuế và Tuế Phá theo chiều thuận từ Thái Tuế đến Tam sát, Tam sát chính là nơi giao lưu tương tác Âm Dương theo chiều thuận do ảnh hưởng của Thái Tuế và tuế phá gây nên, còn gọi là 3 sao có sát khí là Tuế sát, Kiếp sát và Tai sát. Ba điểm này cần thận trọng khi động thổ, tu sửa... Thí dụ Thái Tuế cung Sửu thì Tam sát ở cung Thìn. Có 3 loại tam sát năm, tháng và ngày. - Những năm Dần - Ngọ - Tuất: Tam sát ở phía BẮC. - Những năm Hợi - Mão - Mùi: Tam sát ở phía TÂY. - Những năm Thân - Tý - Thìn: Tam sát ở phía NAM. - Những năm Tỵ - Dậu - Sửu: Tam sát ở phía ĐÔNG. Tam sát chỉ kiêng kỵ ở phương toạ, không kiêng kỵ ở nơi hướng của ngôi gia. Nếu xây nhà, nhập trạch vào năm có tam sát đến toạ thì mới bị ảnh hưởng xấu. Ngoài ra cũng cần chú ý đến phương vị của giường ngủ, nếu giường ngủ mà nằm tại khu vực của tam sát thì tránh ra khu vực đó trong năm bị Tam sát. -Ngũ hoàng sát: Ngũ Hoàng đại sát còn gọi là "Mậu Kỷ Đô thiên sát". Nếu Ngũ hoàng xuất hiện ở sơn hướng nên tránh, vì Ngũ Hoàng là tối hung không thể xâm phạm, khu vực mà có sao Ngũ Hoàng bay đến trong năm thì cần phải tránh, chứ không xung phạm. Nếu xung phạm thì lập tức sẽ có những biến động, hoặc tai họa nguy hiểm, đang tốt thành xấu, người cư ngụ ở nơi có Ngũ Hoàng sẽ bị ảnh hưởng đến sức khoẻ và tiền bạc. III - KẾT LUẬN Chúng tôi quan niệm rằng: Bản chất của Phong thủy là ứng dụng những quy luật tương tác trong thiên nhiên, vũ trụ và con người. Đây chính là những thực tại khách quan đang tác động đến cuộc sống của chúng ta. Trong bài viết này, chúng tôi hân hạnh giới thiệu một trong những yếu tố tương tác quan trong. Đó chính là sự vận động có tính quy luật của các vì sao trong Thái Dương hệ lên trái Đất và ảnh hưởng đến cuộc sống của con người - mà chúng tôi cho rằng: Đó chính là nhận thức thực tại được qui ước, ký hiệu hóa trong phương pháp Huyền không, ứng dụng trong phong thủy. Huyền không Lạc Việt với nguyên lý căn để là "Hà Đồ phối Hậu thiên Lạc Việt" và phương pháp ứng dụng căn bản, nhằm minh chứng tính nhất quán, tính hệ thống và khả năng giải thích hợp lý các vần đề liên quan so với sự huyễn ảo của Phong thủy từ văn bản cổ. Đó chính là yếu tố làm sáng tỏ tính khoa học của Phong Thủy theo tiêu chí khoa học. Đó chính là sự hiệu chỉnh để làm sáng tỏ chân lý, chứ không phải là sự phủ nhận những giá trị ứng dụng có hiệu quả đã được thừa nhận trong ứng dụng trải hàng ngàn năm của khoa Phong thủy Đông phương. Những phương pháp luận trong ứng dụng, được giới thiệu trong bài viết này ở trên đã chứng tỏ điều đó. Chúng tôi cũng không có tham vong ngay bây giờ có thể giải thích tất cả những bí ẩn của Lý học Đông phương. Đây là một công trình nghiên cứu đòi hỏi thời gian và sự đóng góp của nhiều con người, thậm chí có thể là nhiều thế hệ. Nhưng trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới hạn ở việc minh chứng tính khoa học của phoing thủy - qua Phong thủy Lạc Việt - là sự thống nhất các phát hiện rời rạc, hiệu chỉnh những sai lầm và khiếm khuyết dẫn đến mâu thuẫn và mơ hồ của khoa Phong thủy. Từ đó, chúng tôi hy vọng rằng: Hội Thảo phong thủy lần này, sẽ là những bước mở đầu cho sự khám phá những bí ẩn của văn hóa Đông phương, mang trong nội dung của nó những nhận thức kỳ vĩ của thiên nhiên, vũ trụ và con người. Chúc hội thảo thành công tốt đẹp. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị. ----------------------------- Tài liệu tham khảo. -Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt - Nguyễn Vũ Tuấn Anh. -Trạch vận tân án - Thẩm Trúc Nhưng và các tác giả. -Tìm hiểu cổ dịch huyền không - Hồ Kinh Quốc. -Phong Thuỷ Huyền Không Học - Bình Nguyên Quân. -Ứng dụng phong thuỷ trong xây dựng và đời sống - Vũ Đình Chỉnh. -Lý thuyết tam nguyên-cửu vận và nguyên lý dự báo cổ-Hoàng Tuấn. -Huyền học và nhà ở hiện đại – Chung Nghĩa Minh. -Giáo trình lớp PTLVII – Lưu hành nội bộ. -Tài liệu của anh Kép Nhật. -Địa lý toàn thư – Lưu Bá Ôn và các tác giả. -Phong thủy trong đời sống hiện đại – Nguyễn Hoàng Hải. -Thẩm thị huyền không học – Nguyễn Anh Vũ biên dịch. -Thủy Long Kinh-Long mạch bí truyền – NXB Hải Phòng. -Bí mật gia cư âm trạch và dương trạch – biên soạn: Duy Nguyên, Trần Sinh.
  20. Lại chìm tàu tại Li-băng Thứ sáu, 18/12/2009, 11:02(GMT+7) VIT - Hàng chục người hiện đang mất tích sau khi ngày 17/12, một chiếc tàu chở vật nuôi bị đắm tại vùng biển Điạ Trung Hải, ngoài khơi Li-băng do bão lớn. Hải quân Li-băng cho biết, hiện 3 tàu gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, trong đó có 1 tàu của Italia và 2 tàu của Đức, cùng lực lượng cứu hộ cứu nạn của Li-băng và quân đội Anh đóng tại Cyprus đang nỗ lực tìm kiếm đoàn thủy thủ bị nạn. Chiếc tàu chở vật nuôi Danny II mang cờ Panama bị đắm vào đầu giờ chiều ngày 17/12 tại vùng biển cách bến cảng Tripoli của Li-băng 17km về phía Bắc. Ít nhất 19 người đã được cứu sống. Hiện vẫn còn 64 người mất tích. Khi gặp nạn, tàu Danny II đang chở 43.000 con cừu từ Uruguay đến Tartous của Syria. Hầu hết các thủy thủ trên tàu đều là người Philippines và Pakistan. Gió to cùng sóng lớn trong đêm tối đã thực sự cản trở công tác cứu nạn. Các nhân viên cứu hộ cho biết, những người gặp nạn sẽ không thể sống sót quá 10 tiếng trong điều kiện nước lạnh tại vùng biển này. Phát ngôn viên căn cứ quân sự của Anh tại Cyprus Stuart Bardsley cho biết, lực lượng cứu hộ đã triển khai trực thăng cùng tham gia cứu nạn nhưng hiện vẫn không có thêm thông tin gì. Ông Bardsley cũng nhấn mạnh, thời tiết quá xấu đã ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình tìm kiếm. Tuần trước, một chiếc tàu chở hàng của Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã gặp nạn tại khu vực cách bờ biển Li-băng 80km. 7 người trong đoàn thủy thủ hiện vẫn mất tích. Tú Uyên (Theo Reuters)
  21. KHÍ TRONG THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH VÀ PHONG THỦY LẠC VIỆT. Nguyễn Mạnh Cường Cử nhân Kinh tế Phạm Ngọc Tuấn Cao học sư phạm. Thành viên nghiên cứu Phong thủy Lạc Việt Trung tâm nghiên cứu lý học Đông Phương. Mở đầu: Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh thì “Khí” là một khái niệm diễn tả một thực tại có từ sự khởi nguyên của vũ trụ. Ông đã định nghĩa về khí như sau: Khí là một dạng tồn tại của vật chất, được hình thành bởi sự tương tác giữa các dạng tồn tại của vật chất và tác động lên các dạng vật chất ấy. Tính chất của khí được xác định tùy theo cấu trúc vật chất được phân loại theo thuyết Âm Dương Ngũ hành. Theo tinh thần định nghĩa về khí nói trên thì khí phải có ngay từ sự tương tác trong giai đoan khởi nguyên của vũ trụ. Bởi vì, quan niệm của khoa học hiện đại cho rằng: Vũ trụ hình thành bởi sự tương tác. Hình thức tương tác như thế nào thì sự vật hình thành như thế đó. Khởi nguyên của vũ trụ theo quan niệm của Lý học Đông phương là tình trạng Thái cực. Cũng từ những nghiên cứu của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho rằng: Thái Cực là trạng thái khởi nguyên của vũ trụ, là tình trạng không lớn, không nhỏ, không nhanh, không chậm, không thời gian, không không gian, không lượng số. Đó chính là trang thái tuyệt đối khởi nguyên của vũ trụ. Khi cái tương đối xuất hiện so với cái tuyệt đối từ khởi nguyên – tức khái niệm “Lưỡng Nghi” của Lý học Đông phương - thì sự tương tác lập tức xuất hiện. Khi có sự tương tác thì khí hình thành. Như vậy hai thuộc tính căn bản của khí là tính vật chất và sự tương tác. Định nghĩa về “Khí” của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã ứng dụng để giải quyết các vấn đề liên quan trong Phong Thủy Lạc Việt. Tuân thủ tiêu chí khoa học quan niệm rằng: Một giả thuyết khoa học được coi là đúng phải giải thích hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó, một cách nhất quán, có tính hệ thống, tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Trong nội dung bản tham luận này, chúng tôi trình bày thêm làm rõ hơn tính ứng dụng của khái niệm khí mà nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã nêu ở trên trong những hình thái thể hiện của nó. Hay nói rõ hơn: Nội dung bài viết này chúng tôi sẽ giải thích những vấn đề liên quan về khái niệm “khí” trong lý học Đông phương để tiếp tục minh chứng tính hợp lý theo tinh thần của tiêu chí khoa học cho một giả thuyết khoa học – về tính hợp lý trong việc giải thích các vấn đề và hiện tượng liên quan - làm sáng tỏ bản chất khoa học của khoa Phong Thủy Đông phương của một thực tại chưa được nhân thức trong tri thức khoa học hiện đại. Đó chính là khái niệm “Khí”. II. Sự hình thành và phân loại của khí – một thực tại vũ trụ bí ẩn trong nhận thức của Lý học Đông phương. Do tính thất truyền của một nguyên lý lý thuyết và sự thể hiện một cách rời rạc, mâu thuẫn trong những bản văn chữ Hán liên quan đến Lý học Đông phương, nên khái niệm về “khí” hết sức mơ hồ. Cho đến tận ngày hôm nay - ngoài định nghĩa về khí của Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương - trong các bản văn chữ Hán chỉ miêu tả những trang thái khác nhau của khí, trong từng trường hợp cụ thể. Đó cũng là một trong những yếu tố quan trọng khiến một thực tại chưa được nhận thức bởi khoa học học hiện đại là khái niệm ”Khí” trong Lý học Đông phương thêm phần bí ẩn. Việc định nghĩa khái niệm “Khí” của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh thì chúng ta có thể xác quyết rằng: Khí đã hình thành ngay từ sự khởi nguyên của vũ trụ, ngay sau khi có sự tương tác giữa trang thái tuyệt đối, được miêu tả là Thái Cực với sự xuất hiện cái không phải nó – mà Lý học Đông phương gọi là trạng thái: Lưỡng Nghi. II – 1: Âm Dương Khí. II – 1 – 1: Khái niệm Âm Dương và định tính trong thuyết Âm Dương Ngũ hành. Âm Dương là một khái niêm miêu tả thực tại vũ trụ từ trạng thái sau giây 0 (Trước giây 0 là Thái Cực, không có Âm Dương), cho đến toàn bộ mọi sự tiến hóa và vận động của vũ trụ theo thuyết Âm Dương Ngũ hành. Đó là một khái niệm miêu tả tính phân biệt, so sánh đối đãi của mọi dạng vận động và tồn tại trên thực tế. Nhưng khái niệm Âm Dương trong Lý học Đông phương - ngoài ý nghĩa minh triết khái quát mọi hiện tượng – thì còn là sự phản ảnh thực tại, nên nó không đơn thuần mang tính lý thuyết, mà còn có những tiêu chí để xác định Âm Dương. Dưới đây là những tiêu chí xác định định tính của phạm trù Âm Dương trong Lý Học Đông phương, được chúng tôi thống kê từ cổ thư và những sự hiệu chỉnh trong qúa trình nghiên cứu của chúng tôi. Chúng tôi sẽ không đi sâu vào việc biện minh cho những tiêu chí được hiểu chỉnh, mà chỉ giới thiệu và tính minh chứng của nó thể hiện trong sự giải thích hợp lý các vấn đề liên quan theo tiêu chí khoa học cho một giả thiết khoa học. Nhưng tiêu chí đó là: * Từ cổ thư - Dương trước, Âm sau. - Dương trên, Âm dưới. - Trong Âm, ngoài Dương - Âm thuận tùng Dương. * Từ sự hiệu chỉnh của Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương. - Dương tịnh, Âm Động. Đây là yếu tố quan yếu khác biệt với cổ thư quan niệm rằng” “Âm tịnh Dương động”. Chính vì tính phản ánh thực tại cho mọi sự vận động và tương tác trong vũ trụ, nên khái niệm Âm Dương có tiêu chí để phân biệt. Từ cơ sở này, chúng ta tiếp tục xem xét đến đề tài mà chúng tôi đề cập đến trong bản tham luận này. II – 1 – 2: Khí Âm Dương. Cổ thư viết: “Hỗn độn mới phân, khí nhẹ và trong bay lên thành trời. Khí nặng và đục tụ lại thành đất”. Đọc câu này, người ta dễ liên tưởng đến sau khi hình thành vũ trụ chỉ có trái Đất và bầu trời. Từ đó liên tưởng đến một tư duy ngây thơ và trực quan của người xưa, một thứ tư duy đơn giản. Nhưng với một sự liên tưởng như vậy, nó sẽ mâu thuẫn với vế đầu: “Khi hỗn độn mới phân”. Đây chính là hình ảnh miêu tả sự bùng nổ ban đầu khi hình thành vũ trụ mà chính khoa học hiện đại đã xác nhận. Vậy hình tượng “trời; đất” ở vế sau là cái gì? Đây chính là sự phân biệt Âm Dương. Trời là hình tượng của Dương, và “đất” chính là hình tượng của Âm bao gồm tất cả trạng thái tồn tại có thuộc tính vật chất, kể cả những dạng vật chất có cấu hình đầu tiên của vũ trụ. Khái niệm “trời đất” là một thuật ngữ hình tượng, tương đương với khái niệm Âm Dương, để miêu tả Âm Dương sau khái niệm “Lưỡng Nghi”, nhằm tránh sự trùng lặp gây khó hiểu. Chúng ta dễ dàng nhận thấy sự tương đồng của hình tượng này với hình tượng bánh chưng, bánh dày của Việt tộc: “Trời tròn, Đất vuông”, chính là hình tượng của Âm Dương. Từ đó, chúng ta có cơ sở dẫn đến một suy nghiệm hợp lý và minh triết khi xác định rằng: Dương – hình tượng tròn – thể hiện sự viên mãn, bao trùm rộng khắp chính là Thái Cực. Điều này cũng phù hợp với sự xác định của cổ thư cho rằng “Dương trước, Âm sau”. Từ đó, sự phục hồi từ minh triết Việt xác định rằng: “Dương tịnh, Âm động”. Quan niệm này khác hẳn sự công bố của các nhà nghiên cứu Hán Nho cho rằng” Dương động, Âm tịnh”. Thái Cực có trước thuộc Dương, tịnh tương đối với cái động Âm ra đời sau đó. Nhưng vì tính mâu thuẫn của cổ thư chữ Hán cho rằng “Dương động, Âm tịnh”, nên tạo nên tính bất hợp lý trong hệ thống phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Quan niệm “Dương tịnh, Âm động” phục hồi từ minh triết Việt thuộc Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương là một yếu tố quan trọng và xuyên suốt trong hệ thống lý thuyết của thuyết Âm Dương Ngũ hành, giải thích một cách nhất quán , có tính hệ thống những vấn đề liên quan. Âm là khái niệm bao trùm tất cả những sự vận động so với cái tuyệt đối có trước là Thái Cực. Vận động là thuộc tính vật chất và điều này hoàn toàn phù hợp với những thực tại quan sát được của khoa học hiện đại: Vật chất luôn vận động. Trong phạm trù của “Lưỡng Nghi” thì khái niệm Âm Dương trong Lý học Đông phương miêu tả theo ngôn ngữ hiện đại là cặp phạm trù đối đãi phân biệt. Tính đối đãi phân biệt bao trùm tất cả vạn vật trong vũ trụ. Bởi vậy, đây là nguyên lý được nói tới trong “Đạo Đức Kinh”: “Vạn vật cõng Âm bồng dương”. Từ nguyên lý này – với quan niệm “Khí là một dạng tồn tại của vật chất” thì khí cũng phải nằm trong phạm trù Âm Dương. Trên cơ sở này, chúng tôi xác định rằng: Khí chính là dạng tồn tại của vật chất đầu tiên trong vũ trụ sau sự tương tác giữa Thái Cực là trạng thái tuyệt đối và cái không phải nó. Sự hình thành trạng thái “Khí” do tương tác trở lại với Thái Cực và tương tác với cái xuất hiện sau đó – không phải Thái cực –- xuất hiện Âm Dương “Khí”. III – Ngũ hành khí. Khi các dạng tồn tại của vật chất xuất hiện trong vũ trụ thì Ngũ hành chính là khái niệm phân loại của mọi sự vận động và tồn tại. Bởi vậy, “khí” là một dạng tồn tại của vật chất theo định nghĩa khái niệm này của Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Nhất quán với định nghĩa này thì “Khí” cũng nằm trong Phạm trù của sự phân loại theo Ngũ hành. Điều này giải thích những hiện tượng ghi nhận rời rạc trong cổ thư, như: Hỏa khí, Kim khí, Mộc khí…vv…Ngũ hành phân Âm Dương vì tính bao trùm và phân biệt đối đãi của khái niệm này trong thuyết Âm Dương Ngũ hành, nên Ngũ khí cũng phân Âm Dương. IV- Những thuộc tính và tương tác của khí ứng dụng trong phong thủy. IV- 1: Âm Dương khí hình thành do nguyên lý “Dương tịnh, Âm động”. IV – 1 – 1: Âm khí: Như trên chúng tôi đã trình bày: Tịnh thuộc Dương. Bởi vậy, trong những nơi có cấu trúc hình thể tịnh, như: Nghĩa địa, nhà hoang, nhà trống, nhà vắng người…vv….thuộc Dương thì sinh Âm khí. IV- 1 - 2: Dương khí. Động thuộc Âm. Do đó, những nơi có nhiều vật thể động, như: Đô thị náo nhiệt, đường, nhà, phố đông người…vv….sẽ phát sinh Dương khí. IV – 2: Âm Dương khí hình thành do nguyên lý “Âm trong, Dương ngoài”. Theo nguyên lý “Âm trong, Dương ngoài” thì “Khí” hình thành do tương tác nội tại bên trong cấu trúc một vật thể gọi là âm khí. Khái niệm “Âm khí” trong trường hợp này phân biệt sự tương tác giữa các vật thể và hình thành khí bên ngoài các vật thể đó và tương tác trở lại với các vật thể đó, gọi là dương khí. Khái niệm này giải thích hai hiện tượng tưởng chừng mâu thuẫn trong cổ thư, là: 1 – Khi miêu tả sự hình thành vũ trụ: “Khí nhẹ và trong bay lên thành trời, Khí nặng và đục tụ lại thành đất”. 2 – Khi ứng dụng trong Phong thủy: “ Âm nhô cao, Dương trũng thấp”. Hai mệnh đề này có vẻ như mâu thuẫn và phủ định lẫn nhau. Nhưng với sự giải thích như trên thì chúng hoàn toàn không mâu thuẫn với các thuộc tính có tính nguyên lý của Âm Dương. Vì Phong thủy là sự ứng dụng hệ thống phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành trên trái Đất. Do đó, Âm khí được miêu tả ở nguyên lý “Âm cao, Dương trũng” là miêu tả khí hình thành do tương tác nội tại trong cấu trúc vật chất bên trong trái đất thuộc Âm. So với tương tác từ ngoài vũ trụ với trái Đất thuộc Dương. Do đó, những vật thể nhô cao trên trái Đất, như: Núi non, gò, đống….thuộc Âm vì thuộc cấu trúc địa cầu. Còn dù trũng thấp nhưng Dương khí hình thành do tương tác ngoài vũ trụ tràn ngập, nên trũng thấp thuộc Dương. V. Mối quan hệ giữa hình và khí. Mệnh đề “Khí nhẹ và trong bay lên thành trời, khí nặng và đục tụ xuống thành đất” miêu tả giai đoạn khởi nguyên của vũ trụ, chính là tiền đề của nguyên lý miêu tả trong hệ thống lý luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành là: “Khí tụ thành hình”. “Hình nào khí đó”. Đây chính là nguyên lý xem tướng của Lý học Đông phương và phương pháp coi hình thể nhà của khoa Phong thủy, để dự báo thịnh suy và mối liên quan tương tác với cuộc sống của con người trong ngôi nhà đó. Nguyên lý “Khí tụ thành hình” cho thấy tính chất khởi nguyên quan trọng của khí quyết định hình thể và khả năng sinh tụ của sự phát triển của môi trường và cuộc sống. Trên cơ sở định nghĩa về khái niệm khí thì khi hình xuất hiện lại tương tác với khí và lại làm xuất hiện những trạng thái tương tác mới giữa hình và khí. Trên cơ sở này thì tất yếu những cấu trúc khác nhau, hoặc hình thức căn nhà khác nhau, tất nhiên sẽ dẫn đến ảnh hưởng tương tác khác nhau với người sống trong những căn hộ khác nhau đó. Đó là tính tương tác bởi những cấu trúc hình thể khác nhau đó. Thực tại này là cơ sở nhận thức tính khoa học của Phong thủy Lạc Việt. VI. Tầm quan trọng của Khí theo quan niệm Phong Thủy Lạc Việt trong kiến trúc, xây dựng. Không chỉ trong phong thủy, các bộ môn khác thuộc Lý học Đông phương cho thấy tầm quan trọng của Khí trong cả Đông y, xã hội, cuộc sống và sinh hoạt của con người. Những thuật ngữ liên quan đến khí mà chúng ta rất thường gặp như: sinh khí dồi dào, khí lực sung mãn, khí thế hừng hực….chính là sự mô tả cụ thể từng hình thức thể hiện của khí. Trong ứng dụng của khoa phong thủy, cả Âm Dương trạch – khí là một thành tố quan trọng phải xem xét. Đặc biệt, khi Phong thủy Lạc Việt xác định rằng: Bản chất của Phong thủy là: Các quy luật tương tác của thiên nhiên, vũ trụ, cuộc sống với con người, được tổng hợp và khái quát hóa trong hệ thống phương pháp luận ứng dụng của khoa này. Và đó là cơ sở thực tế để tổng hợp tất cả các trường phái phong thủy xuất hiện rời rạc trong nền văn hóa Hán, dưới nguyên lý xuyên suốt “Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ”. Phong thủy Lạc Việt sau khi phục hồi lại định nghĩa khái niệm của Khí, đã xác định khí là một thực tại quan trọng hàng đầu và là điều kiện nối dẫn các qui luật tương tác trong khoa Phong thủy. Do bản chất của Khí là một thực tại hình thành do tương tác và tương tác trở lại với các vật thể. Nên chính tính chất vận động của vật thể trong môi trường sẽ tạo ra những hình thành tương tác mới và những tác động của khí từ những vận động này là một yếu tố cần xem xét trong khoa Phong Thủy Lạc Việt. Có thể nói rằng: Khí là một yếu tố thực tại mang tính tổng quan quyết định cho sự tốt xấu trong khoa phong thủy. Mọi yếu tố tương tác đều thông qua môi trường khí và nó có tính quyết định. Hay nói cách khác: Khoa phong thủy chính là một bộ môn ứng dụng qui luật tương tác của thiên nhiên, vũ trụ thông qua môi trường khí lên chính con người ở nơi cư trú. “Khí gặp gió thì tán, gặp thủy thì tụ”, bởi vậy bản chất của phong thủy chính là sự quán xét mọi quy luật tương tác liên quan đến “Khí”.
  22. Chuyện Mỵ Châu Trong Thủy chỉ là một câu chuyện tình lên án chiến tranh, ca ngợi tình yêu con người. Nó không phải là một chuyện thậm chí là dã sử. Nó chỉ mượn bối cảnh lịch sử mà thôi. Đây là một trong những tác phẩm văn học hay nhất của văn hiến Việt cổ.
  23. Quan hệ quốc phòng Việt - Mỹ không ảnh hưởng đến nước thứ ba Nguồn Vitinfo Thứ sáu, 18/12/2009, 10:18(GMT+7) Bộ trưởng Quốc phòng, đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định quan hệ quốc phòng giữa Việt Nam và Mỹ đặt trong quan hệ chung của hai nước, không ảnh hưởng đến nước thứ ba. Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh (trái) và người đồng cấp Mỹ Robert Gates. Ảnh: DoD. Dưới đây là cuộc phỏng vấn của Đại tướng Phùng Quang Thanh với TTXVN nhân chuyến thăm chính thức Mỹ từ ngày 10 đến 15/12 theo lời mời của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates:- Xin bộ trưởng cho biết mục đích chuyến thăm Mỹ lần này và nội dung các cuộc thảo luận của bộ trưởng với phía Mỹ? - Kể từ khi bình thường hóa và thiết lập quan hệ ngoại giao, hai nước đã trao đổi nhiều chuyến thăm cấp cao, trong đó có các đoàn quân sự. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã hai lần sang thăm Việt Nam vào các năm 2000 và 2006; Bộ trưởng Phạm Văn Trà cũng đã thăm Mỹ năm 2003. Tháng 5 vừa qua, tại Hội nghị Đối thoại An ninh Châu Á (Đối thoại Shangri-la) ở Singapore, tôi và ngài Bộ trưởng Robert Gates đã gặp nhau bên lề hội nghị. Ngài Gates đã mời tôi sang thăm, bây giờ tôi mới thu xếp được. Thông thường, mỗi chuyến thăm ở cấp cao nhất thường được coi là một điểm mốc quan trọng cho việc khẳng định quan hệ hợp tác giữa các quốc gia và mở ra một giai đoạn hợp tác mới. Trong chuyến thăm lần này, chúng tôi có dịp trao đổi với nhau về những kết quả hợp tác trong thời gian qua cũng như những biện pháp để thúc đẩy quan hệ hợp tác đã và đang triển khai trong lĩnh vực quốc phòng lên một bước mới. Chuyến thăm của đoàn lần này cũng tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng và Nhà nước Việt Nam, góp phần hiện thực hóa việc bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Mỹ theo tinh thần tuyên bố chung giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, qua đó nâng cao hơn nữa vị thế của đất nước cũng như của quân đội Việt Nam trên trường quốc tế và góp phần thúc đẩy hợp tác về kinh tế giữa hai nước. - Bộ trưởng đánh giá thế nào về kết quả các cuộc thảo luận nói trên? - Nói chung, cuộc thảo luận của chúng tôi là thẳng thắn, cởi mở và xây dựng, đi thẳng vào các vấn đề hai bên cùng quan tâm, quan hệ quốc phòng được đặt trong mối quan hệ chung của hai nước, công khai không ảnh hưởng đến nước thứ ba và nhìn chung là cả hai bên đều hài lòng về kết quả thảo luận ấy. Các cuộc gặp với các Thượng nghị sĩ James H.Webb và John McCain cũng đều rất thú vị, bởi các vị này đã từng đến Việt Nam, hiểu Việt Nam và có những đóng góp tích cực trong phát triển quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Trong cuộc gặp với Cố vấn An ninh Quốc gia James Jones và Thứ trưởng thứ nhất Ngoại giao James B. Steinberg, hai bên cũng đã trao đổi về việc tăng cường quan hệ giữa hai nước trên các lĩnh vực, trong đó có quan hệ về quốc phòng. Về vấn đề dân chủ, nhân quyền, giữa Việt Nam và Mỹ còn một số khác biệt trong nhận thức, nhưng hai bên sẽ tăng cường sự hiểu biết nhau hơn thông qua cơ chế đối thoại về nhân quyền. - Xin Bộ trưởng cho biết phương hướng phát triển quan hệ giữa hai nước trong thời gian tới, nhất là trong các lĩnh vực mà hai nước đặc biệt quan tâm như tìm người Mỹ mất tích trong chiến tranh, các vấn đề nhân đạo, khắc phục hậu quả chiến tranh, nạn nhân chất độc da cam...? - Trong chuyến thăm Mỹ tháng 6/2008 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, lãnh đạo cấp cao hai nước đã nhất trí xây dựng quan hệ hữu nghị, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác nhiều mặt vì lợi ích lâu dài của hai nước, không để những điểm còn khác biệt làm ảnh hưởng đến quan hệ hai nước. Quan hệ giữa hai nước đến nay đã cơ bản ổn định, mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai bên. Đối với những lĩnh vực mà hai bên đặc biệt quan tâm cũng là những lĩnh vực mà hai bên đang hợp tác có hiệu quả như rà phá bom mìn, vật liệu nổ còn sót lại trong chiến tranh, Mỹ đã viện trợ trang thiết bị rà phá bom mìn trị giá trên 10 triệu USD, cung cấp bản đồ đánh phá của Không quân và Hải quân Mỹ trong thời gian chiến tranh. Về tìm kiếm quân nhân mất tích trong chiến tranh, hai bên đã tiến hành 97 đợt tìm kiếm và khai quật, Việt Nam trao trả 894 bộ hài cốt quân nhân Mỹ, đợt gần đây nhất là ngày 2/12 vừa qua, Việt Nam đã trao trả Mỹ 4 bộ hài cốt và Mỹ đánh giá cao những nỗ lực đầy tính nhân đạo của Chính phủ và Quân đội Việt Nam. Ngược lại, Mỹ cũng cung cấp thông tin giúp Việt Nam tìm được gần 1.000 trường hợp, tất nhiên con số đó còn rất khiêm tốn so với 300.000 bộ đội Việt Nam mất tích trong chiến tranh. Trong chuyến thăm này, Việt Nam đã trao cho phía Mỹ 13 điểm sẽ tổ chức khai quật hỗn hợp nhằm rút ngắn thời gian để sớm kết thúc việc tìm kiếm người Mỹ mất tích tại Việt Nam. Mỹ cũng hợp tác với Việt Nam trong việc tẩy rửa chất độc da cam, cung cấp cho Việt Nam những thông tin liên quan đến những vị trí tàng trữ, phun rải chất độc, tài trợ gần 800.000 USD qua các quỹ tư nhân để khắc phục từng phần. Trong cuộc gặp với các Thượng nghị sĩ James H.Webb và John McCain, tôi đã đề nghị với họ trên cương vị và khả năng của mình, ngăn không đưa dự luật nhân quyền cho Việt Nam ra Thượng viện, họ đã đồng tình không để việc đó xảy ra. Tôi cũng đã đề nghị với các Thượng nghị sỹ James H.Webb và John McCain vận động Quốc hội Mỹ gỡ bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí sát thương đối với Việt Nam. Hai Thượng nghị sỹ hứa sẽ thảo luận với các đồng nghiệp của mình về vấn đề này. - Bộ trưởng có nhận xét gì về cơ chế đối thoại giữa Bộ Quốc phòng hai nước, một biểu hiện cho thấy sự hợp tác giữa hai nước đi vào chiều sâu và thực chất? - Quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực quốc phòng trong những năm qua đã có nhiều bước phát triển tích cực. Theo tôi, một trong những nhân tố để thúc đẩy quan hệ là hai bên cần phải hiểu nhau, đã hiểu nhau rồi thì hợp tác chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả cao. Muốn vậy cần phải có cơ chế đối thoại. Việc tăng cường đối thoại là nhằm để hiểu nhau hơn, hết sức tránh hiểu lầm và bàn các biện pháp thúc đẩy hợp tác mang lại hiệu quả thiết thực cho cả hai bên. TTXVN
  24. TÍNH HỆ THỐNG VÀ NHẤT QUÁN CỦA HẬU THIÊN LẠC VIỆT PHỐI HÀ ĐỒ TRONG PHONG THỦY LẠC VIỆT Thanh Vân. Cử nhân kinh tế Thành viên nghiên cứu Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương I - HẬU THIÊN LẠC VIỆT PHỐI HÀ ĐỒ - NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG Phong Thuỷ Lạc Việt là một hệ thống phương pháp luận theo một nguyên lý hoàn chỉnh, nhất quán giải thích mọi vấn đề liên quan đến nó một cách hợp lý, có tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Nguyên lý nền tảng đó chính là Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ. Nguyên lý này đã thống nhất mọi phương pháp ứng dụng của Phong thủy tồn tại một cách rời rạc và mâu thuẫn - từ những cổ thư lưu truyền trong văn hóa Đông phương - quen gọi là trường phái - trong Phong Thuỷ Lạc Việt. Nguyên lý căn để của Lý học Đông phương này được nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh phục hồi và xác lập - mà chúng tôi giới thiệu qua đồ hình dưới đây: Hình 1 - Hậu Thiên Bát Quái Lạc Việt phối Hà Đồ Nguyên lý căn để này đã được chứng minh và lập thành trong các sách đã xuất bản của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, mà quí vị có thể tham khảo trong phần tư liệu tham khảo được giới thiệu ở cuối bài viết này, hoặc trên các bài nghiên cứu trong website lyhocdongphuong.org.vn, hay còn tên miền nữa là: vanhienlacviet.org.vn. Trong phạm vi bài tham luận này, chúng tôi chỉ so sánh nguyên lý căn để Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ với các vấn dề liên quan trong phong thủy, để thấy được tính nhất quán và hợp lý xuyên xuốt của nguyên lý này. I - 1. Phương vị, tính chất và độ số của Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ Trong Kinh Dịch - tức Chu Dịch - phần "Thuyết quái truyện" miêu tả về tính chất bát quái rất mơ hồ. Chúng tôi thí dụ như - Viết về quái Càn - "Thuyết quái truyện" viết: "Càn là trời, là cha, là hoạn quan, là cửa khuyết, là con ba ba, con ốc....vv...." Qua thí dụ trên, chúng tôi cho rằng: Chính vì tính mơ hồ trong cách giải thích biểu tượng của các quái trong Kinh Dịch, đã khiến cho chúng mang một mầu sắc huyền bí và có tính dị đoan. Nhưng những tìm hiểu của chúng tôi đã có kết luận cho rằng: Bát quái là một hệ thống ký hiệu miêu tả những yếu tố vật chất căn bản khởi nguyên của vũ trụ theo khái niệm của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Và những hiện tượng trong tự nhiên và xã hội ....vv.....được miêu tả trong thuyết quái chỉ là những thành tố trong tập hợp được phân loại trong hệ thống của Bát quái. Trên cơ sở này, chúng tôi xác định bản chất của bát quái từ nguyên lý căn để "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà đồ" bằng chính những khái niệm của thuyết Âm Dương Ngũ hành như sau: - Càn - Âm Kim đới Thuỷ, Tây Bắc Âm Thuỷ, độ số 6. Màu xanh da trời. - Khảm - Dương Thuỷ, chính Bắc, độ số 1. Màu xanh đen. - Cấn - Âm Mộc, Đông Bắc, độ số 8. Màu xanh lá cây nhạt. - Chấn - Dương Mộc, chính Đông, độ số 3. Màu xanh lá cây đậm. - Khôn - Âm Hoả đới Thổ, Đông Nam, độ số 2. Màu nâu đỏ. - Ly - Dương Hoả, chính Nam, độ số 7. Màu đỏ. - Tốn - Âm Kim, Tây Nam, độ số 4. Màu xám trắng. - Đoài - Dương Kim, chính Tây, độ số 9. Màu trắng. Trong qua trình tiến hóa của vũ trụ thì từ bản chất ban đầu được miêu tả, chúng có thể thể hiện thành những hiện tượng được nói tới trong Thuyết quái truyện. Từ cơ sở ban đầu phục hồi bản chất của Bát quái qua nguyên lý căn để "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà đồ", chúng tôi so sánh với một số vấn đề liên quan trong các phương pháp ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành, để xác minh tính hợp lý và xuyên suốt, có hệ thống của nguyên lý này - mà chủ yếu trong phong thủy - như sau: I - 2. So sánh La kinh trong Phong Thuỷ và Hà Đồ Chúng ta đều biết rằng - La Kinh - tức là La bàn chỉ Nam - là một công cụ quan trọng hàng đầu và xác định những dữ kiện đầu tiên, quyết định cho toàn bộ phương pháp ứng dụng của phong thủy. Trong la kinh có 8 phương và 24 sơn hướng. Trong 24 sơn hướng này có 12 sơn hướng được ký danh theo 12 địa chi từ Tý, Sửu, Dần , Mão.....đến Hợi. Chúng ta cũng đều biết rằng: Thuận tự của 12 địa chi này theo chiều Ngũ hành tương sinh, gồm: Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc; Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ. Như vậy, chính sự phối trí sơn hướng trên la kinh hoàn toàn trùng khớp với phương vị và chiếu ngũ hành tương sinh trên Hà Đồ. Không những chỉ 12 sơn hướng địa chi, chúng ta còn thấy sự trùng khớp hợp lý của thuộc tính Thiên Can và tính chất các quái trên 4 phương tứ di theo Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ. Điều này được mô tả như sau: * Càn Hợi thuộc Thủy, nằm ở hành Thủy trên la kinh, trùng khớp với vị trí hành Thủy của Hà đồ. * Nhâm Quý thuộc Thủy, nằm ở hành Thủy của la kinh, trùng khớp với vị trí hành Thủy của Hà đồ. * Cấn - Âm Mộc theo Hậu Thiên Lạc Việt và Dần Mộc, nằm ở Âm Mộc trên la kinh, trùng khớp với vị trí hành Mộc của Hà đồ. * Giáp Ất thuộc Mộc, nằm ờ hành Mộc trên La kinh, trùng khớp với vị trí hành Mộc của Hà đồ. * Tỵ Âm Hỏa và Khôn Âm Hỏa đới Thổ theo Hậu Thiên Lạc Việt, trùng khớp với vị trí hành Hỏa của Hà đồ. * Bính Ngọ Đinh thuộc Hỏa trên la kinh, trùng khớp với vị trí hành Hỏa của Hà đồ. * Tốn Âm Kim theo Hậu Thiên Lạc Việt và sơn hướng Thân kim theo địa chi trên la kinh, trùng khớp với vị trí hành Kim của Hà đồ. * Canh Dậu Tân thuộc Kim trên la kinh, trùng khớp với vị trí hành Kim của Hà đồ. Quí vị xem hình minh họa dưới đây: Hình 2: So sánh cấu trúc Ngũ hành trên La Kinh và Hà Đồ Ngoài ra, so sánh với tính chất quái vị, ta có thể nhận thấy nét đặc biệt về phần phía Nam và Tây của Hà Đồ có sự trùng khớp về phương vị và hành được thể hiện: - Khảm thuộc Thuỷ, Nhâm Tý Quý thuộc Thuỷ nằm ở phía Bắc của la kinh, tương ứng với Khảm thuộc Thuỷ nằm ở phương Bắc, độ số 1 của Hà Đồ. - Chấn thuộc Mộc, Giáp Mão Ất thuộc Mộc nằm ở phương Đông của la kinh, tương ứng với Chấn thuộc Mộc nằm ở phương Nam Mộc, độ số 3 của Hà Đồ. - Ly thuộc Hoả, Bính Ngọ Đinh thuộc Hoả nằm ở phương Nam của la kinh, tương ứng với Ly thuộc Hoả nằm ở phương Nam, độ số 7 của Hà Đồ. - Đoài thuộc Kim, Canh Dậu Tân thuộc Kim nằm tại phương Tây của la kinh, tương ứng với Đoài thuộc Kim nằm ở phương Tây Kim, độ số 9 của Hà Đồ. Như vậy, chúng ta thấy rằng: Hoàn toàn có sự trùng khớp hợp lý và nhất quán giữa cấu trúc của la kinh, một phương tiện quan yếu để tìm dữ liệu cho hầu hết các phương pháp ứng dụng trong phong thủy với Hà Đồ. Bây giờ, chúng ta cùng quán xét tính quy luật của - I - 3. Tứ trạch trong Hậu Thiên Lạc Việt và Hà Đồ Trong sự ứng dụng nguyên lý căn bản Hậu thiên LạcViệt phối Hà Đồ thì sự quy ước phân loại Đông Tây tứ cung không thay đổi, tức là: Tây tứ cung gồm: Càn - Đoài - Khôn - Cấn. Đông tứ cung gồm: Khảm - Chấn - Tốn - Ly. Xin xem hình minh họa sau đây: Hình 3: Tứ trạch Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ Trên hình vẽ này, Đông - Tây tứ cung được phân đều trên 4 hành của Hà Đồ. Ta xét theo đúng phương pháp phân chia từng cặp cùng hành như trên và sắp xếp theo quy luật hàng cột trong đó dọc bên trái là Tây tứ cung, bên phải là Đông Tứ cung, chúng ta sẽ có 4 cặp sau: Reduced: 94% of original size [ 677 x 325 ] - Click to view full image Reduced: 94% of original size [ 677 x 325 ] - Click to view full image Reduced: 94% of original size [ 677 x 325 ] - Click to view full image Hình 4: Cặp cùng hành Thuỷ trên Hà Đồ Reduced: 94% of original size [ 677 x 325 ] - Click to view full image Reduced: 94% of original size [ 677 x 325 ] - Click to view full image Reduced: 94% of original size [ 677 x 325 ] - Click to view full image Hình 5: Cặp cùng hành Mộc trên Hà Đồ Reduced: 94% of original size [ 677 x 322 ] - Click to view full image Reduced: 94% of original size [ 677 x 322 ] - Click to view full image Reduced: 94% of original size [ 677 x 322 ] - Click to view full image Hình 6: Cặp cùng hành Hoả trên Hà Đồ Reduced: 94% of original size [ 677 x 329 ] - Click to view full image Reduced: 94% of original size [ 677 x 329 ] - Click to view full image Reduced: 94% of original size [ 677 x 329 ] - Click to view full image Hình 7: Cặp cùng hành Kim trên Hà Đồ Xem xét 4 cặp cùng hành trên cơ sở ứng dụng tính chất hoán vị tương ứng tốt xấu cho nhau với phương vị cùng hành ta thấy rằng chúng tuân theo một quy luật nhất quán, có tính đối xứng hợp lý, có tính cân đối khi sắp theo quy luật cân bằng Đông Tây trạch theo hàng dọc. Như vậy, chúng ta thấy rằng: Hoàn toàn có sự hợp lý, tính quy luật và nhất quán thể hiện ở nguyên lý "Hậu Thiện Lạc Việt phối Hà Đồ" trong mối tương quan các cặp cùng hành của Đông và Tây trạch ứng dụng trong phong thủy. II - SỰ LIÊN QUAN GIỮA CÁC SƠN HƯỚNG VÀ CÁC CUNG THIÊN BÀN TỬ VI QUA HÀ ĐỒ VỚI TÍNH ỨNG DỤNG TRONG PHONG THUỶ LẠC VIỆT Đối với khoa Phong Thủy còn lưu truyền đến ngày nay, ngoài bốn trường phái chính và khá phổ biến có sách vở truyền lại, là: Bát trạch, Dương trạch tam yếu, Loan đầu, Huyền không thì còn nhiều phương pháp ứng dụng khác trong phong thủy còn lưu truyền trong dân gian có tính bí truyền, là: Những phương pháp trấn yểm nhà đất, phương pháp Dịch phong thủy, phương pháp Tử Vi phong thủy....vv.... Phong thủy Lạc Việt chính là sự tổng hợp của tất cả các phương pháp ứng dụng rời rạc và mâu thuẫn còn lưu truyền dưới mọi hình thức trong phong thủy cổ Đông phương với sự hiệu chỉnh thống nhất bởi nguyên lý căn để "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ". Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi giới thiệu một phương pháp đã ứng dụng có hiệu quả là Tử Vi Phong thủy. Trước hết xin quí vị so sánh hai đồ hình "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" và đồ hình Thiên bàn 12 cung Tử Vi sau đây: Hình 8: Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ Hình 9: Đồ hình Thiên bàn 12 cung Tử Vi Hình 10: Đồ hình Hà đồ phối Hậu thiên Lạc Việt Bổ sung 12 địa chi và phối Địa Cầu ở trung tâm Qua những đồ hình trên ta nhận thấy sự tương thích hợp lý giữa chúng thể hiện qua sự phù hợp với chiều tương sinh của Ngũ hành trên đồ hình 12 cung của khoa Tử Vi. Ngoài ra ta cũng có thể thấy một sự trùng khớp đến kinh ngạc khi đồ hình Hà Đồ thể hiện bằng hình tròn với 4 điểm kết thúc của Tứ hành thuộc Thổ và sắp xếp vào đó 12 cung địa chi tương ứng của Thiên bàn Tử vi. Sư tương thích này, một lần nữa xác đính tính nhất quán của nguyên lý căn để trong mọi phương pháp ứng dụng trong Lý học Đông phương chính là "Hậu thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" đã cho thấy tính quy luật và xuyên suốt một cách hợp lý trong mọi vấn đề và hiện tượng liên quan của nguyên lý này. Trên cơ sở đó, chúng tôi xác định rằng: Phương pháp ứng dụng Tử Vi phong thủy chính là do sự liên quan có hệ thống của lý học Đông phương có xuất phát từ một nguyên lý căn để nhất quán là Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà đồ. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi giới thiệu một phương pháp liên quan đến Tử Vi được ứng dụng trong phong thủy Lạc Việt là Đào Hoa trận. III - ĐÀO HOA TRẬN VỚI 12 SƠN TRONG PHONG THUỶ LẠC VIỆT Một trong những mối quan tâm trong quan hệ xã hội chính là quan hệ nam nữ, quan hệ xã giao. Vấn đề này có liên quan đến một hiện tượng tương tác gọi là Đào Hoa trong Tử Vi. Hay nói cách khác là cung Đào Hoa trong vận số của con người. Một người lớn tuổi mà vẫn chưa có cho mình một ai ứng ý để làm bạn đời, trong trường hợp này nên ứng dụng "Đào Hoa trận". Hoặc những ông chồng bà vợ có những mối quan hệ với người khác giới trên mức tình cảm thông thường khiến cho gia đình có nguy cơ đổ vỡ, rất cần có "Đào Hoa Sát" để giữ lại hạnh phúc gia đình. Phương pháp ứng dụng này trong Phong thủy liên quan đến một phương pháp còn bí truyền gọi là "Tử Vi Phong Thủy" (ứng dụng Tử Vi Lạc Việt) và "Lạc Dịch Phong Thủy". Trong bài tham luận này, tôi xin trình bày về một trong những ứng dụng cụ thể của phương pháp "Tử Vi Phong Thủy" trong Phong Thủy Lạc Việt vốn là một trong những phương pháp có hiệu quả liên quan đến khoa Tử Vi thể hiện qua những quy luật vận động tương tác của những thiên thể gần Trái đất lên Trái đất, cuộc sống và con người. Con người của nền văn minh xa xưa đó đã có những qui ước mang tính biểu kiến những tương tác trên thực tế của vũ trụ qua lá số Tử Vi Đông phương. Những phương vị trên 12 cung Tử Vi Đông phương cũng là phương vị trên phong thuỷ với 12 sơn địa chi. Bởi vậy căn cứ trên 12 sơn Phong thủy phù hợp với 12 cung số Tử Vi, người ta có thể dùng để khống chế các sao xấu và tăng độ số của sao tốt, nhằm nâng cao độ số của số phận. Một trong những nguyên lý đó chính là phương pháp Đào Hoa Trận, mà tôi trình bày trong sau đây. Trong phương pháp Đào Hoa trận bao gồm hai loại là Vượng Đào Hoa và Trảm Đào Hoa. III - 1. Vượng Đào Hoa Trong Tử Vi, Đào hoa tinh tùy theo tuổi mà nằm ở các cung: a/ Tuổi Thân Tý Thìn: Đào Hoa nằm ở cung Dậu, ứng với sơn Dậu trên la kinh. b/ Tuổi Hợi Mão Mùi: Đào Hoa nằm ở cung Tý, ứng với sơn Tý trên la kinh. c/ Tuổi Dần Ngọ Tuất: Đào Hoa nằm ở cung Mão, ứng với sơn Mão trên la kinh. d/ Tuổi Tỵ Dậu Sửu: Đào Hoa nằm ở cung Ngọ, ứng với sơn Ngọ trên la kinh. Cung tương ứng này trên la kinh gọi là Đào Hoa Sơn. Mối liên hệ giữa 12 sơn hướng Địa chi trên la kinh và 12 cung Địa chi trên Thiên bàn Tử Vi đã được so sánh và minh chứng ở trên. Trên cơ sở này chúng ta sự ứng dụng phương pháp Đào hoa trận được thể hiện như sau: a/ Xác định Đào Hoa Sơn chứa Đào Hoa Tinh của người cần Vượng Đào Hoa, theo cách tính ở trên. Ví dụ: Người tuổi Dần, Đào Hoa tại sơn Mão. b/ Tùy theo mạng tính theo tuổi của người cần Vượng Đào Hoa mà chúng ta cần một bình hoa có màu thích hợp. Ví dụ: Người Bính Dần có tình duyên trắc trở. Chúng ta xác định được sơn có sao Đào Hoa là sơn Mão theo bảng trên. Tại tường hoặc phương vị của sơn này trong nhà, đặt một bình hoa có màu thích hợp với mạng của người tuổi Bính Dần là Thủy - Theo Lạc Thư Hoa giáp (sách Tàu là Hỏa) - tức là chúng ta dùng bình màu xanh dương nhạt, hay đậm (không dùng màu đen vì theo Hậu Thiên, màu đen còn là Tượng của Thổ - sao Nhị Hắc). Bình hoa này sẽ được đặt tại phương vị có sơn Mão, đặt sát tường hay chỉ ở phương vị sơn này là tùy theo tính hợp lý với cảnh quan, cấu trúc nhà. c/ Chọn số hoa và màu hoa tương sinh với bình hoa thích hợp vớí độ số cung phi. Thí dụ: Người nữ Bính Dần có cung phi là Khảm thuộc Thủy. Thủy trên Hà Đồ có độ số 1 - 6. Số lượng hoa cần dùng sẽ là 1 bông hoa to và 5 bông hoa nhỏ. Tương sinh ra thủy là hành Kim vậy chúng ta dùng hoa màu trắng. Lưu ý rằng: Đào Hoa sợ nhất sao Thiên hình. Sao Thiên Hình thuộc hành Kim, có cung bản nguyên là Dậu và cung đối xung là Mão. Bởi vậy, trong bình hoa nên có nước đầy để hóa giải sao Thiên hình và tốt nhất dùng bình thủy tinh trong. Khi mùa Xuân đến, nên tranh thủ hoa Đào - biểu tượng gần gũi nhất của Đào Hoa tinh, đặt ngay một nhánh Đào vào vị trí Đào hoa Sơn với bình hoa có màu thích hợp. Trong trường hợp đặc biệt này, do dùng chính Hoa Đào là biểu tượng của Đào Hoa tinh thì không cần tương sinh với bản mệnh nên sử dụng hoa càng nhiều, càng rực rỡ thì càng tốt. III - 2. Trảm Đào Hoa Hay còn gọi là Đào Hoa sát Có nhiều phương pháp "Trảm Đào Hoa", sau khi tính được Đào Hoa sơn của đối tượng, ta áp dụng những biện pháp sau: a/ Dùng bình hoa có màu thích hợp với bản mệnh và số hoa thích hợp với cung phi của người đó. Màu hoa cũng tương sinh cho màu bản mệnh. Dùng một con dao nhỏ, cắt ngang những cành hoa trước khi cắm vào bình, nhưng lưu ý là không cắt lìa cành. Đặt bình hoa này vào vị trí Đào Hoa sơn và gác con dao phía trên các cành hoa. (dao nhựa, dao gỗ đều được). Không sử dụng nước trong bình hoa. b/ Tranh dân gian Việt Nam có tác dụng trấn yểm phong thủy rất mạnh và đã hình thành nên phương pháp trần yểm bằng tranh dân gian Việt Nam. Trong trường hợp này ta sử dụng một bức tranh gà trống của dòng tranh Đông Hồ (loại chỉ vẽ một con gà trống duy nhất và không có chữ Đại Cát), treo ở Đào Hoa sơn. Ngoài ra cũng có thể sử dụng một bức tượng con gà trống bằng đồng, hoặc bằng bất cứ vật liệu gì, đặt ở Đào Hoa sơn của người cần “Trảm Đào Hoa”. Gà Trống là biểu tượng của cung Dậu - Cung của sao Thiên Hình, bởi vậy có tác dụng khắc chế Đào Hoa tinh. Lưu ý trong trường hợp dùng phương pháp “ Trảm Đào Hoa” nếu có hiệu quả thì phải huỷ, không nên tiếp tục để lâu dài. Chúng ta cũng cần lưu ý rằng tất cả những chiêu thức, trấn yểm trong Phong Thủy kể cả Đào Hoa Trận, chỉ có tác dụng khi ngôi gia vượng khí. Nếu ngôi nhà không vượng khí, dù hướng tốt hay xấu, thì mọi sự trấn yểm và chiêu thức đều không có giá trị. Vượng khí này bao gồm cả Dương khí do sự chuyển động của con người và phương tiện và Âm khí do vị thế hình thể của cuộc đất với môi trường. IV - KẾT LUẬN Phương pháp Đào Hoa trận là một trong những chi tiết ứng dụng trong Phong thủy vốn truyền không chính thống trong dân gian qua sách vở và ngày càng mai một vì tính thất truyền của một nguyên lý lý thuyết liên quan. Chính sự thất truyền này, khiến cho mối liên hệ của nó - giữa Tử Vi với Phong thủy - tỏ ra bí ẩn và mang màu sắc dị đoan. Phong thủy Lạc Việt đã căn cứ vào nguyên lý căn để xuyên suốt là "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà đồ" phục hồi về mặt mặt lý thuyết qua sự tương quan hợp lý, nhất quán có tính quy luật và tính hiệu quả tức khả năng dự báo trong ứng dụng, để chứng tỏ tính khoa học theo tiêu chí khoa học. Điều này, một lần nữa xác định rằng: Nguyên lý "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" chính là nguyên lý căn để xuyên suốt trong mọi lĩnh vực ứng dụng liên quan trong thuyết Âm Dương Ngũ hành phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Đồng thời cũng chứng tỏ tính khoa học của những phương pháp ứng dụng trong phong thủy theo tiêu chí khoa học cho một phương pháp được coi là khoa học. Tiêu chí khoa học này phát biểu rằng: Một lý thuyết khoa học được coi là đúng,nếu nó giải thích một cách hợp lý hầu hết những vấn đề và hiện tượng liên quan đến nó một cách hợp lý có tính nhất quán, hoàn chỉnh, tính hệ thống, tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Xin cảm ơn sự quan tâm của quí vị. Thanh Vân
  25. NGUYÊN LÝ QUÁI CẤN Ở TRUNG CUNG TRONG PHONG THỦY. Lê Đỗ Trung Thành Thạc sỹ Khoa học Xã hội Nguyễn Đức Thông Cử nhân ngoại ngữ Thành viên nghiên cứu – Ban Phong Thủy Lạc Việt Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương Từ khi xuất hiện trong đời sống con người cách nay hàng ngàn năm, trong nền văn minh Đông phương cổ đã tồn tại một phương pháp luận ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành trong các môn như: Phong thủy, Đông y, Tử vi, Kinh Dịch…vượt thời gian cho đến tận ngày nay và chứa đựng nhiều điều được coi là huyền bí. Cho dù có những cố gắng tìm hiểu của con người trải qua hàng thiên niên kỷ. Trung tâm nghiên cứu lý học Đông phương là một tổ chức có pháp nhân, được thành lập theo quyết định của Trung ương Hội nghiên cứu khoa học Đông Nam Á – Việt Nam, ra đời nhằm nghiên cứu và làm sáng tỏ bản chất khoa học của những vấn đề đó. Nền Lý học Đông phương bao hàm các lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng rộng rãi: Từ khoa học về thiên văn vũ trụ, cho đến đời sống con người như: Thái ất, Độn giáp, Phong thủy, Đông y, Dịch bốc ….và văn hóa cổ Đông phương..vv…gần như bao trùm mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội Đông phương cổ. Phương pháp ngghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương chúng tôi, dựa trên tiêu chí khoa học cho những lý thuyết khoa học hiện địa để so sánh, đối chiếu với những hiện tượng và vấn đề, cũng như hệ thống cấu trúc lý thuyết khám phá trở lại và phục hồi và minh định một lý thuyết đã thất truyền đang ẩn giấu bên trong các môn học thuật cổ này. Phong thuỷ Lạc Việt chính là một hướng nghiên cứu phong thuỷ nhằm giải mã những thực tại còn chưa biết ẩn chứa đằng sau hiệu quả thực tế, vượt qua thời gian và mọi không gian văn hóa trong lịch sử văn minh nhân loại. Phong thủy với tư cách là một bộ môn khoa học mang tính ứng dụng của học thuyết Âm dương – Ngũ hành Cùng với nền văn minh cổ đại huyền vĩ khác là văn minh Ai Cập may mắn đã để lại những chứng tích cho sự tồn tại của nó, một trong những chứng tích đó chính là Kim Tự tháp. Nhưng nền Lý học đông phương chỉ để lại những giá trị văn hoá phi vật thể, trong nền văn minh Đông phương kỳ bí đến huyền vĩ, trải hàng thiên niên kỷ, mà người ta cũng không thể hiểu bản chất đích thực của nó. Khoa Phong thủy Đông phương chính là một trong những sự kỳ vĩ huyền bí đó. Trải hàng ngàn năm qua, Phong thuỷ đã là một phương pháp ứng dụng có hiệu quả trong kiến trúc thuộc văn minh Đông phương, tác động đến đời sống con người từ giới thượng lưu cho đến lớp bình dân. Đó là một thực tại không thể phủ nhận, dù được nhìn với góc độ nào và kết luận như thế nào. Trước sự tiến bộ ngày càng nhanh về tri thức khoa học hiện đại và nhất là khoa học lý thuyết, những giá trị tồn tại trên thực tế của văn minh Đông phương đã được các khoa học gia hàng đầu nhìn nhận như một đối tượng nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Riêng khoa phong thủy thì có thể khẳng định rằng: Từ những năm cuối của thế kỷ trước, khoa Phong Thủy đã được coi là đối tượng nghiên cứu khoa học và nhiều nước trên thế giới đều có các bộ phận hoặc viện nghiên cứu về Phong thuỷ. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã nhận thấy rằng: Phương pháp ứng dụng của khoa phong thuỷ có một hệ thống cấu trúc những quy tắc, qui định rất chặt chẽ, đầy đủ như yếu tố qui luật, yếu tố khách quan và có một phương pháp luận xuyên suốt là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nhưng bên cạnh đó, chúng tôi cũng nhận thấyrằng: Tính huyền bí chính là nằm ở những khái niệm mơ hồ, những qui tắc, định đề có vẻ như thiếu nhất quán, những mâu thuẫn trong các tiên đề với chính ngay những qui luật, qui tắc tong phương pháp luận liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Thí dụ như: Nguyên lý xuyên suốt trong ứng dụng là quái Ly thuộc Hỏa – Hỏa có độ số 2 – 7. Nhưng trên nguyên lý Hậu Thiên Văn Vương phối Lạc Thư thì chúng lại phối với độ số 9 thuộc hành Kim….vv….và còn nhiều vấn đề và hiện tượng khác. Từ những kết quả nghiên cứu trên cơ sở Hậu Thiên Lạc Việt đổi chỗ Tốn Khôn phối Hà Đồ - là nguyên lý căn để xuyên suốt trong mọi phương pháp ứng dụng – mà nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã công bố, căn cứ vào tiêu chí khoa học cho một giả thiết khoa học chúng tôi đã có những thành tựu nhất định trong việc phục hồi và làm sáng tỏ những gía tri khoa học đích thực của môn phong thủy về các yếu tố cần và đủ cho một bộ môn khoa học ứng dụng là Phong Thủy Đông phương. Bao gồm tính lịch sử, tính hệ thống và hợp lý trong các mối liên hệ nội tại của phương pháp luận và qui tắc, nguyên lý trong cấu trúc nội dung. Và đặc biệt là tính phản ánh và giải thích thực tại khách quan – là cơ sở nhận thức nền tảng và là cở sở xác định tính khoa học cho mọi lý thuyết. Phong thuỷ Lạc Việt với danh xưng của nó được phục hồi trên kết quả của qúa trình nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương – về nguyên tắc không phủ định tri thức phong thủy cổ truyền mà quán xét một cách nhất quán những yếu tố tương tác căn bản của tất cả các phương pháp ứng dụng rời rạc vẫn được gọi là trường phái trong phong thuỷ như: Hình lý khí (Loan đầu), Dương trạch, Bát trạch, Huyền không v.v…trên cơ sở phương pháp luận của thuyết Âm Dương - Ngũ hành là một học thuyết nhất quán và hoàn chỉnh theo một nguyên lý căn để duy nhất: Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ. Hay nói một cách khác: Phong thuỷ Lạc Việt là một hệ thống phương pháp luận có một nguyên lý hoàn chỉnh, nhất quán, giải thích mọi vấn đề liên quan đến nó một cách hợp lý, có tính qui luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Chúng tôi xác định rằng: Bản chất của phong Thuỷ chính là sự phản ánh tính tương tác có qui luật của vạn vật, từ những vật thể quanh ta đến những qui luật trong vũ trụ. Khao học đã xác định rằng: Bản chất hình thành vũ trụ là sự tương tác, tính chất của tương tác như thế nào thì sự vật sẽ hình thành như thế ấy. Khoa học hiện đại mới chỉ dừng lại ở sự thừa nhận tính tương tác là nguyên nhân cấu thành và tác động đến mọi sự vận động và hình thành vạn vật. Nhưng nếu chúng ta ứng dụng nguyên lý tương tác là nguyên lý xuyên suốt trong Phong thủy để giải thích những phương pháp ứng dụng thì chúng ta sẽ dẫn đến một suy luận hợp lý rằng: Khoa Phong thủy Đông phưong đã ứng dụng tính tương tác có quy luật đ0ược qui ước , biểu kiến trong phương pháp phong thủy, nhằm phục vụ lợi ích của con người. Điều này chứng tỏ một khoảng cách giữa tri thức trong lý thuyết khoa học hiện đại – mới chỉ dừng lại ở chỗ xác định một nguyên lý tương tác cho mọi sự vận động và hình thành vạn vật trong vũ trụ. Nhưng khoa Phong thủy đã ứng dụng nguyên lý tương tác và hơn thế nữa là qui luật của từng trạng thái tương tác trong thực tế cuốc sống phục vụ con người. Chúng ta biết rằng: Giữa lý thuyết và ứng dụng là một khoảng cách. Tính tương tác tạo nên vạn vật trong vũ trụ được khoa học xác minh chính là một nguyên lý xuyên xuốt trên tinh thần nhân danh khoa học của chúng tôi trong nhiên cứu để soi rọi vào những bí ẩn của quá khứ. Về căn bản chúng tôi đã hiệu chỉnh, phục hời và xác định Phong thủy Lạc Việt có hệ thống các nguyên lý xuyên suốt với những khái niêm, nguyên tắc, qui định nhất quán, có tính hệ thống trong cấu trúc, tính qui luật, khách quan và khả năng tiên tri theo tiêu chí khoa học và đó chính là cơ sở để xác định tính khoa học của Phong thủy Đông phương. Một trong những yếu tố xác định tính khoa học của một lý thuyết khoa học là sự phản ánh thực tại khách quan là cơ sở nhận thức của sự hình thành một lý thuyết và nó phải được giải thích phù hợp, hợp lý với những khái niệm trong phương pháp luận của nó. Trong phạm vi khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi không có tham vọng trình bày hết được hệ thống các nguyên lý, khái niệm, quy tắc...của Phong thủy Lạc Việt. Nhưng chúng tôi trình bày với quí vị về một bí ẩn có tính nguyên lý, vốn bí ẩn hàng ngàn năm nay, từ khi khoa Phong Thủy được phát hiện trong các bản văn chữ Hán cổ. Đó là: Nguyên lý quái Cấn nhập trung Cung. Trong Kinh Dịch, sự phổ biến có tính nguyên lý căn bản là : Càn tượng cho người đàn Ông thuần Dương. Khôn, tượng trưng cho người đàn bà , thuần Âm. Dưới đây là ký hiệu của hai quẻ Càn và Khôn trong Kinh Dịch. Quẻ Càn tượng trưng cho người đàn ông Quẻ Khôn tượng trưng cho người đàn bà. Nhưng trong ứng dụng phổ biến của khoa Phong thủy thì Khôn lại tượng trưng cho Nam Mạng và Cấn lại tượng trưng cho nữ mạng. Dưới đây là ký hiệu hai quẻ Khôn và Cấn trong Kinh Dịch, ứng dụng trong Phong Thủy: Quẻ Khôn tượng cho người đàn ông Quẻ Cấn tượng cho người đàn bà. Đây chính là một sự phi lý hình thức và là một biểu tượng có vẻ như thể hiện của tính thiếu nhất quán trong phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Bát quái là một bộ phận hữu cơ cấu thành nên học thuyết này. Nhưng xuất phát từ nguyên lý xuyên suốt được xác định của Phong Thủy Lạc Việt Hà đồ phối Hậu thiên Lạc Việt đã giải thích một cách hợp lý một thực tại khách quan là cơ sở của nguyên lý – Quái Cấn nhập trung cung và quan niệm Nam Khôn, Nữ Cấn trong phong thủy. Trình bày những điều này hôm nay, chúng tôi mong muốn làm sáng tỏ thêm sự liên quan giữa thiên văn học hiện đại với nhân sinh con người và Lý học Đông phương. Đặc biệt là những tri kiến hiện đại được áp dụng trong môn phong thủy, với mục đích ổn định môi trường sống của con người, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa thiên nhiên, con người và vũ trụ. Đồng thời chứng minh tính phản ánh thực tại khách quan được phản ánh trong khoa phong thủy - một yếu tố quan trong xác định tính khoa học của nó. Kính thưa quí vị. Phong thủy Lạc Việt xác định nguyên lý “Hậu thiên Lạc Việt phối Hà Đồ” là Nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành ứng dụng xuyên suốt trong mọi phương pháp ứng dụng của Lý học Đông phương bao trùm lên toàn bộ sự vật, hiện tượng trong xã hội loài người. Chúng tôi giới thiệu với quí vị đây: HẬU THIÊN BÁT QUÁI LẠC VIỆT HẬU THIÊN BÁT QUÁI LẠC VIỆT PHỐI HÀ ĐỒ Trong đó, xuất phát từ quan niệm nhất quán cho rằng: Bát quái chính là những nhóm ký hiệu phân loại mọi hiện tượng trong vũ trụ, thiên nhiên, xã hội và con người. Chúng tôi xác dịnh bản chất biểu tượng của bát quái như sau: - Càn – Âm Kim đới Thủy, Tây Bắc Âm Thủy, độ số 6. Xanh da trời. - Khảm – Dương Thủy, chính Bắc, độ số 1. Xanh đen. - Cấn – Âm Mộc, Đông Bắc, độ số 8, Xanh lá cây nhạt. - Chấn – Dương Mộc, chính Đông, độ số 3, Xanh lá cây đậm. - Khôn – Âm Hỏa đới Thổ, Đông Nam, độ số 2. Nâu đỏ. - Ly – Dương Hỏa, chính Nam, độ số 7, Đỏ. - Tốn – Âm Kim, Tây Nam, độ số 4, Xám trắng. - Đoài – Dương Kim, chính Tây, độ số 9, trắng. Từ nguyên tắc này, và trên cơ sở chứng nghiệm mối liên hệ tương tác của các hành tinh trên Thái Dương hệ - là tương tác gần gũi với Địa cầu – được đặt tên theo Ngũ hành. Chúng tôi có sự liên hệ so sánh như sau theo hướng dẫn của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh : Xét đồ hình Hà Đồ trên, theo thuận tự vòng tương sinh bắt đầu từ trung cung thuộc thổ, ta sẽ thấy chu trình sau: Thổ của Trung cung (5-10) sinh kim của phương tây (4-9); Kim của phương tây sinh cho thủy của phương Bắc (1-6); Thủy của phương Bắc sinh cho Mộc của phương Đông (3-8); Mộc của phương Đông sinh cho Hỏa của phương Nam (2-7); và cuối cùng Hỏa của phương Nam sinh cho Thổ của trung cung, hoàn tất một chu kỳ tương sinh vạn vật. Như vậy ta thấy: * Quái Cấn nằm ở cung âm Mộc – Đông Bắc – độ số 8 và nằm ở phần dương của Hà Đồ (Càn – Khảm – Cấn – Chấn). * Quái Khôn nằm ở cung âm Hỏa – Đông Nam – Độ số 2 và nằm ở phần âm của Hà Đồ (Khôn – Ly – Tốn – Đoài). Hệ thống hành tinh trên Thái Dương hệ và thuyết Âm dương – ngũ hành Bây giờ xin bạn đọc quán xét thuận tự của Thái Dương hệ tính từ trong ra ngoài: Xin lưu ý quí vị về tên gọi của hai hành tinh trong Thái Dương hệ là sao Kim và sao Thủy: - Sao Thủy được gọi tên theo thiên văn hiện đại, theo sách cổ thiên văn Đông phương gọi là sao Kim. - Sao Kim gọi tên theo thiên văn hiện đại, theo sách cổ thiên văn Đông phương gọi là sao Thủy (Theo Ban Cố, Tiền Hán thư). Thuận tự của Thái Dương hệ dưới đây – với tên hai sao này gọi theo sách cổ - thì thuận tự này sẽ là: Trong hệ thống hành tinh của Thái Dương Hệ này thì khoa học hiện địa phân làm hai nhóm: Nhóm I – Tính từ Mặt trời – Gồm : Sao Kim (Theo cổ thư); sao Thủy (Theo Cổ thư) – Trái Đất – và kết thúc là sao Hỏa. Giữa nhóm 1 và nhóm 2 có vành đại thiên thạch làm phân giới tự nhiên. Nhóm II gồm: Mộc tinh – Thổ Tinh – Thiên Vương Tinh – Hải Vương tinh và kết thúc là Diêm Vương tinh. Các nhà khoa học hiện đại nhận thấy rằng: Với sao Diêm Vương tinh tuy thuộc nhóm II, nhưng lại có kích thước giống như các hành tinh nhóm I và đặt v/d về hiện tượng lặp lại này. Nhưng không có câu trả lời thỏa đáng. Gần đây – vào năm 2006 - hầu hết các nhà Thiên văn nhất trí loại sao Diêm Vương tinh khỏi hệ thống hành tinh trong hệ mặt trời. Xin xem hình minh họa dưới đây. Nhưng với nguyên lý “Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà đồ” mà chúng tôi trình bày ở trên và từ phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành, liên hệ với các hành tinh được đặt tên theo các hành của học thuyết này từ thiên văn cổ - Chúng tôi lý giải các hiện tượng được đặt ra trong tham luận này như sau: Theo nguyên lý trung cung thuộc Thổ của thuyết Âm Dương Ngũ hành thì mặt trời được coi là hành Thổ và chúng ta sẽ nhận thấy một chiều tương sinh từ trong ra ngoài trong những hành tinh thuộc nhóm I theo phân loại của khoa thiên văn hiện đại như sau: Xét sự phân loại theo ngũ hành: Thổ (Mặt Trời) => sinh Kim (Sao Kim/ Theo sách cổ) => sinh Thủy (Sao Thủy / Theo sách cổ) => sinh Mộc (Tương ứng với Trái Đất) =>Sinh Hỏa (Sao Hỏa). Từ đây chúng ta ứng dụng một nguyên lý theo phương pháp luận của thuyết Âm Dương ngũ hành là: Lý thuộc Dương thì vật thuộc Âm. Lý tương sinh thuộc Dương thì các hành tinh trong hệ thống tương sinh theo lý Ngũ hành thuộc Âm. Tức là trái Đất thuộc Âm Mộc theo đúng vị trí Trái Đất trong nhóm I theo tính hợp lý của phương pháp luận. Chúng ta thấy hoàn toàn trùng hợp với vị trí của quái Cấn – Âm Mộc trên Hà Đồ. Từ đó chúng ta nhận thấy một sự hợp lý hoàn toàn khi đưa quái Cấn nhập Trung cung trong nguyên lý của Khoa Phong thủy, mà nếu không có sự liên hệ với một thực tại khách quan chính là vị trí trái Đất trong mối tương quan vị trí trong Thái Dương hệ thì chúng ta sẽ không thể lý giải được điều này. Và như vậy, chúng ta sẽ nhận thấy rằng: Quái Khôn trong Dịch học tượng cho người nữ và quái Khôn trong Phong thủy tượng cho người nam, không phải là một hiện tượng thiếu nhất quán và tùy tiện. Mà chúng có cơ sở thực tại trong vũ trụ làm nên tính biểu tượng của các quái. Đó chính là biểu tượng phân loại của thuyết Âm Dương Ngũ hành, với nguyên lý Dương là biểu lý, Âm là hình thể. Trong Phong Thủy thì khi quái Cấn là biểu tượng hình thể Âm Mộc của Địa cầu – thì Khôn tượng đất - lúc này thuộc Dương là biểu lý của Địa cầu, nên tượng cho người đàn ông. Hoàn toàn nhất quán với nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ hành và không có mâu thuẫn nội tại. Tính chu kỳ và sự lặp lại biện chứng của các hành tinh trong Thái Dương hệ trong thuyết Âm Dương Ngũ hành. Với một tiểu mục này, chúng tôi trình bày rõ hơn về tính chu kỳ và sự lặp lại biện chứng của các hành tinh trong Thái Dương hệ trong thuyết Âm Dương Ngũ hành. Quí vị cũng nhận thấy rằng: Ở hành tinh nhóm II thì cổ thư chỉ thấy ghi hai sao, nhưng đủ để chúng ta thấy được lý tương khắc là: Sao Mộc (Mộc) khắc Thổ (Sao Thổ). Như vậy, chúng ta hoàn toàn cóquyền suy luận rằng: Kết thúc chu kỳ tường khắc ở hành tinh nhóm II chính là ở sao Diêm Vương tinh. Điều này được mô tả như sau: Sao Mộc – khắc sao Thổ - Sao Thổ khắc Thiên Vương Tinh thuộc Thủy. Thiên Vương tinh thuộc Thủy khắc Hải Vương Tinh thuộc Hỏa, và cuối cùng là Hải Vương tinh thuộc Hỏa khắc Diêm Vương tinh thuộc Kim. Chu kỳ kết thúc ở sao Diêm Vương tinh. Biện chứng pháp cho rằng: Vạn vật có chu kỳ lặp lại. Từ đây, chúng ta có cơ sở để giải thích rằng: Sự quay trở lại hình thể và cấu trúc của Diêm Vương tinh giống hành tinh nhóm I, chính là thực tế khách quan minh chứng cho chu kỳ lập lại khi kết thúc chu kỳ tương sinh – tương khắc của hệ thống hành tinh trong Thái Dương hệ - theo cách giải thích của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Kết luận: Việc hai quái Khôn Cấn nhập trung cung như một nguyên lý căn bản của thuật phong thủy đã được chúng tôi minh chứng rằng: Nó hoàn toàn phản ánh một thực tại khách quan. Đó chính là vị trí của Trái Đất – đối tượng quán xét của khoa Phong Thủy Đông phương – trong vị trí Thái Dượng hệ. Một lý thuyết được coi là khoa học thì phải có khả năng phản ánh thực tại khách quan liên quan đến nó. Việc ứng dụng nguyên lý căn để “Hậu Thiên lạc Việt phối Hà Đồ’ đã xác định một thực tại khách quan: Đó chính là mới quan hệ và tương tác của các hành tinh trong thái Dương hệ liên quan đến địa cầu. Nói một cách khác, hiện tượng quái Cấn ở trung cung chính là sự thể hiện tiếp tục mối tương quan giữa Trái Đất và sự vận động của hệ Mặt Trời, trong tương quan các hiệu ứng tương tác của vũ trụ. Tất cả những tri kiến này không hề được thể hiện trong cổ thư chữ Hán, kể từ khi nền văn minh kỳ vĩ của nhà nước Văn Lang sụp đổ từ hơn 2000 năm trước. Việc lý giải nguồn gốc quái Cấn nhập trung cung cũng cho thấy tính khoa học của Lý học phương Đông trong việc giải thích nguồn gốc hình thành vũ trụ và đời sống con người, đáp ứng được tiêu chí của khoa học hiện đại, phản ánh tính khoa học của học thuật phong thủy cổ khi so sánh với nền khoa học hiện đại, tính ứng dụng sâu rộng vào đời sống con người, đặc biệt là trong xây dựng, kiến trúc; góp phần vào việc xóa tan khái niệm mê tín đối với nền Lý học Đông Phương này và khẳng định giá trị ứng dụng của học thuật phong thủy trong đời sống con người. Trong tiểu luận nhỏ hân hạnh được trình bày ở đây, chúng tôi chỉ xin minh xác một hiện tượng có tính nguyên lý của Phong thủy Đông phương và tính khoa học của nó trong việc liên hệ với một thực tại khách quan. Góp phần vào làm sáng tỏ tính khoa học của khoa Phong Thủy Đông phương. Thực tại khách quan được phản ánh trong "nguyên lý quái Cấn nhập trung cung của khoa Phong thủy Đông phương - chính là vị trí của trái Đất trong mới tương quan Thái Dương hệ và liên hệ với "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ". Xin trân trọng cảm ơn quí vị. ------------------------------------------- Sách tham khảo: 1. Tìm về cội nguồn Kinh Dịch – tác giả: Nguyễn Vũ Tuấn Anh. 2. Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt – tác giả: Nguyễn Vũ Tuấn Anh. 3. trang web http://www.vocw.edu.vn/ 4 – Bát trạch Minh Cảnh. 5 - Dương trạch tam yếu