Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Đại ý: Rơi máy bay...... =========================================================== Mỹ: Máy bay phát nổ, 2 ngôi nhà bốc cháy Thứ Hai, 06/12/2010 - 16:59 (Dân trí) - Một chiếc máy bay nhỏ đã đâm xuống lùm cây ở bang Utah, miền bắc nước Mỹ, vào ngày chủ nhật, gây ra một vụ nổ lớn và làm 2 ngôi nhà bốc cháy. Người phi công bị thương nặng song mọi người dưới mặt đất không gặp nguy hiểm. Nhân viên cứu hỏa tại hiện trường vụ tai nạn máy bay. Chiếc Cessna 210 lúc đó đang cố gắng hạ cánh trong điều kiện trời nhiều sương ở sân bay Ogden-Hinckley tại thành phố Roy. Vụ việc xảy ra vào khoảng 6h chiều ngày chủ nhật, 5/12. Người đứng đầu cơ quan cứu hỏa thành phố Roy Jon Ritchie cho biết máy bay đã quệt vào đường dây điện, lao xuống những lùm cây, phát nổ và khiến hai ngôi nhà ở gần đó bốc cháy. Tuy nhiên ngọn lửa đã được dập tắt. Các mảnh vỡ của máy bay bắn tung tóe khắp nơi. Giới chức trách cho hay chiếc máy bay có vẻ như là một máy bay nhỏ, phi thương mại. Đài truyền hình địa phương KSL-TV cho biết Gary Cox, một người dân, đã giúp phi công, người duy nhất có mặt trên máy bay, ra khỏi đống đổ nát. Cox bị bỏng tay và mặt, nhưng vẫn tỉnh táo. Còn phi công được xác định là Clayton Roop, 46 tuổi, ở West Haven. Ông đã được đưa tới bệnh viện để điều trị bỏng. Người dân ở gần khu vực xảy ra tai nạn đã được yêu cầu sơ tán tới trường trung học Roy. Vụ tai nạn đã gây mất điện, ảnh hưởng tới 1.700 người dân. Tuy nhiên, sau đó, điện ở nhiều khu vực đã được khôi phục. Nguyên nhân vụ tai nạn hiện chưa được xác định. Phan Anh Theo AP
  2. Người Việt mình tính hay nói tắt. Lớp PTLV là lớp tôi trực tiếp dạy. Những kiến thức mới nhất mà tôi chiêm nghiệm ra truyền đạt lại ở đấy. Các lớp khác do anh chị em học các khoa trước tiếp tục truyền lại - về nguyên tắc cũng thuộc về PTLV. PTLV là sự tổng hợp tất cả những kiến thức trong sách vở lưu truyền từ cổ thư và trong dân gian, nhưng nó chỉ khác là lấy nguyên lý Hà Đồ phối Hậu thiên Lạc Việt (Đổi chỗ Tốn Khôn ) làm nguyên lý căn để của Lý học nói chung - trong đó có Phong thủy. Trên cơ sở này, hiệu chỉnh các phương pháp trong phong thủy rời rạc, mâu thuẫn từ cổ thư thành một hệ thống nhất quán và hoàn chỉnh.
  3. Chiêm tinh miền Nam Ấn Độ có cấu trúc giống hệt cấu trúc về hình thức thiên bàn so với Tử Vi được công bố và lưu hành vào đời Tống ở Trung Quốc, vốn được coi là do Trần Đoàn Lão tổ là tác giả. Bởi vậy, từ lâu tôi đã xác định rằng: Trần Đoàn Lão tổ chẳng bao giờ là tác giả của khoa Tử Vi Đông phương; rằng: Các cái gọi là tác giả Kinh Dịch, Hà đồ, Lạc thư...vv....chỉ là mạo nhận khi nền văn minh Việt sụp đổ ở Nam Dương tử và về căn bản, nó thuộc về một nền văn minh toàn cầu đã mất. Cảm ơn Liêm Pha đã cung cấp một tư liệu rất sinh động minh chứng rõ hơn cho điều này.
  4. Đại ý: Đâm oto..... ==================== Italia: Tai nạn thảm khốc khiến 8 người đi xe đạp thiệt mạng Thứ Hai, 06/12/2010 - 10:12 (Dân trí) - 8 người đi xe đạp tại miền Nam Italia đã chết do bị một chiếc ôtô chạy ngược chiều tông vào trên đoạn đường có hai làn. Tin từ hiện trường nói rằng người tài xế chiếc Mercedes dường như mất tay lái sau khi qua mặt một chiếc khác, đâm đầu xe thẳng vào nhóm người đạp xe đạp. 7 người chết ngay tức khắc, người thứ 8 qua đời trong lúc được chăm sóc. Có nhiều người khác bị thương. Tài xế mang quốc tịch Maroc đã bị bắt, tin của cảnh sát nói rằng ông ta có vết cần sa khi được xét nghiệm. Tai nạn xảy ra gần thành phố Lamezia Terme, gần mỏm phía nam Italia. Hà Khoa Theo Daily Mail
  5. Đại ý: Thiên tai tăng nặng.... ============================== Lở đất lớn ở Colombia, 50 người bị chôn sống Thứ Hai, 06/12/2010 - 13:40 (Dân trí) - Ít nhất 50 người hiện đang mất tích ở Colombia sau khi mưa lớn gây ra một trận lở đất lớn ở tây bắc đất nước thuộc dãy Andea này vào ngày chủ nhật. Mưa lũ tàn phá hàng ngàn ngôi nhà ở Venezuela, 30 người chết Các nhân viên cứu hộ huy động cả chó nghiệp vụ tìm kiếm hàng chục người bị chôn vùi do lở đất. Lở đất xảy ra ở thành phố Medellin vào ngày chủ nhật, sau khi cả vùng hứng chịu mưa lớn kéo dài nhiều ngày. Các nhân viên cứu hộ đã triển khai chó nghiệp vụ tới hiện trường và cho đến nay mới cứu được 7 người. 1 thi thể đã được đưa ra khỏi hàng tấn đống đổ nát. Colombia hiện đang phải hứng chịu những đợt mưa lớn do hiện tượng thời tiết La Nina. Từ đầu năm tới nay mưa lũ đã cướp đi sinh mạng của khoảng 170 người, hầu hết là trong những tháng gần đây và ảnh hưởng tới 1,5 triệu người. “Chúng tôi tin rằng có thể có tới 50-60 người bị mắc kẹt. Cũng có thể còn hơn nữa”, John Freddy, quan chức phụ trách thảm họa ở thành phố Medellin cho hay. Người dân dùng mọi dụng cụ để đào bới đống đổ nát, tìm kiếm người bị chôn vùi. Cũng theo ông Rendon, hơn 50 ngôi nhà đã bị chôn vùi ở thành phố tự trị Bello thuộc tỉnh Antioquia. Hội chữ thập Đỏ Colombia cho biết trong một tuyên bố rằng ít nhất 150 người “bị ảnh hưởng” và số người mất tích hiện chưa được rõ. Tổng thống Colombia Juan Manuel Santos hôm chủ nhật cho biết số người bị mất nhà cửa do mưa lũ có thể lên tới 2 triệu. “Thảm kịch mà đất nước đang phải hứng chịu là chưa từng có tiền lệ trong lịch sử của chúng ta”, ông Santos cho hay sau khi bay tới vùng ven biển Atlantico để thị sát tình hình. Mưa cũng gây ảnh hưởng đến các ngành cafe và than đá. Tại nước láng giềng Venezuela, Tổng thống Hugo Chavez cho rằng hiện tượng thời tiết toàn cầu, trong đó có mưa lớn đang hoành hành khu vực, đã khiến hơn 30 người nước ông thiệt mạng và làm hàng chục ngàn người mất nhà cửa. Phan Anh Theo Reuters
  6. Uh. Thì chính nó đấy! Tên đủ là PTLVNC1.
  7. Đại ý: Thiên tai tăng nặng...... ================================ Thư Đan Mạch: Châu Âu lạnh bất thường Thứ Hai, 06/12/2010, 07:44 (GMT+7) TT - Ngẫu nhiên là khi Hội nghị về biến đổi khí hậu thế giới COP 16 vừa bắt đầu nhóm họp tại Cancun (Mexico) thì một mùa đông lạnh bất thường đã ập đến châu Âu! Những ngày này cả châu Âu chìm trong tuyết và người ta đã ghi nhận 60 trường hợp chết vì lạnh. Tuyết dày đặc ở “xứ nóng” Tây Ban Nha - Ảnh: Reuters Trong tình cảnh kinh tế hồi phục chậm chạp, lại thêm gánh nặng phải cứu Hi Lạp, Ireland thì mùa đông khắc nghiệt này khiến mùa Giáng sinh năm nay tại châu Âu kém vui mà thêm phần u ám. Người dân các nước bây giờ chỉ lo thắt lưng buộc bụng và chống lạnh là chính. Ngay tại nước thường được xem là “xứ nóng” như Tây Ban Nha mà tuyết đã rơi tại 35/51 tỉnh, khiến nhiều trường học phải đóng cửa. Ở Bồ Đào Nha láng giềng, có thể một số người sẽ hài lòng khi cuối tuần được đi trượt tuyết nhưng đó chẳng phải là điều dễ dàng gì vì tuyết cũng gây tình trạng giao thông tắc nghẽn. Chỉ trong hai ngày qua, sân bay Munich (Đức) phải hủy trên 250 chuyến bay, nhiệt độ ngoài trời có nơi xuống âm 20OC. Tại thủ đô Berlin, người ta phải mở cửa các nhà ga, siêu thị suốt đêm cho những người vô gia cư có chỗ nghỉ. Theo các nhà khí tượng học, tháng 12 năm nay là tháng lạnh nhất của Đức từ vài trăm năm qua. Chính quyền Berlin vừa phải ban hành quy định lái xe bắt buộc sử dụng loại vỏ xe chạy được trên tuyết sau nhiều tai nạn do trượt vì lớp băng đóng lại trên mặt đường sau khi tuyết rơi. Ban hành theo quy định khẩn cấp này là mức phạt khá cao (40 euro nếu bị cảnh sát phát hiện dùng vỏ xe không đúng quy định và 80 euro cùng việc ghi tên vào sổ nếu gây ra tai nạn) khiến người dân đổ xô đi mua vỏ xe chạy trên tuyết và các cửa hàng thì hết nhẵn hàng trong phút chốc. Các nước Bắc Âu cũng khốn khổ vì lạnh. Nhiệt độ ban đêm tại Đan Mạch xuống âm 15OC, ban ngày thì gió từ Siberia thổi qua lạnh thấu xương. Tại vùng Lolland - Flaster, miền đông nam Đan Mạch, và trên đảo Bornholm, người ta phải nhờ tới xe tăng mở đường cho các loại xe kéo, xe cấp cứu lưu thông. Thủ đô Matxcơva ghi nhận ngày 1-12 là ngày lạnh nhất trong 70 năm qua khi nhiệt độ xuống âm 23,6OC. Nhưng nơi lạnh nhất châu Âu mấy ngày qua hẳn là khu vực phía bắc Thụy Điển, vùng Lapland: âm 36,6OC! Bị thiệt hại nhiều nhất là nước Anh khi các sân bay từ Anh tới Scotland phải đóng cửa suốt hai ngày qua vì băng giá, hàng ngàn trường học đóng cửa, giao thông tê liệt. Thiệt hại do tuyết và băng gây ra cho nước này lên tới cả tỉ USD mỗi ngày vì không ai làm gì được. Những nước Nam Âu cũng không thoát, Roma (Ý) bị đe dọa vì nước sông Tiber mấp mé bờ, thành phố Venice thì chìm trong nước. QUẾ VIÊN ================================ Từ nay càng gần đến năm 2012, thiên tai ngày càng tăng nặng và kéo dài theo hướng giảm dần ba năm sau đó - tức là hết 2015. Con người sẽ phải vật lộn, chống chọi với thiên tai rất vất vả. Nhưng tôi luôn xác định rằng: "Không có ngày Tận thế" như tin đồn.
  8. Đại ý: Rơi máy bay, lật tàu lửa, chìm thuyền....... Trường hợp dưới đây xếp vào loại rơi máy bay..... ============================================= Tên lửa Proton của Nga rơi xuống Thái Bình Dương Thứ Hai, 06/12/2010 - 06:36 (Dân trí) - Nỗ lực của Nga đưa 3 vệ tinh lên quỹ đạo hôm nay bị thất bại khi tên lửa Proton mang theo những vệ tinh này rơi xuống Thái Bình Dương gần Hawaii, ở khu vực cách Honolulu 1500 km về phía tây bắc. Tên lửa Proton và 3 vệ tinh của Nga Theo tin của Cơ quan vũ trụ Nga, đợt phóng được thực hiện từ sân bay Baikonur mà Nga thuê của Kazakstan. Sau một tháng rưỡi, tất cả ba vệ tinh sẽ đi vào hoạt động. Đợt phóng này là giai đoạn cuối cùng thành lập hệ thố́ng định vị toàn cầu Glonass, tức là các vệ tinh này được thiết kế nhằm hoàn tất hệ thống vệ tinh định vị Glonass của Nga - vốn được xem là một sự lựa chọn cạnh tranh với hệ thống Định vị Toàn cầu GPS của Mỹ và hệ thống Galileo đang được Liên minh châu Âu phát triển. Một số vệ tinh Glonass khác đã được đưa lên quỹ đạo. Các vệ tinh của Glonass phục vụ mục đích phát hiện vị trí và tốc độ di chuyển của các đối tượng trên biển, trên không và trên đất, kể cả người, với độ chính xác 1 mét. Bay trên quỹ đạo Trái Đất sẽ có 24 vệ tinh Glonass. Một giới chức Nga cho hay thất bại hôm qua sẽ không ảnh hưởng tới cách thức vận hành của hệ thống. Nhật Mai Theo AP, RIA
  9. Đại ý: Cháy nổ...... ==================== Trung Quốc: Cháy lớn trên đồng cỏ Tây Tạng, 22 người thiệt mạng Thứ Hai, 06/12/2010 - 07:04 (Dân trí) - Hôm qua, đám cháy lớn bùng lên trên đồng cỏ trong khu vực của người Tây Tạng đã bủa vây những binh sĩ và người dân địa phương đang cố gắng dập lửa, làm 22 người thiệt mạng và 3 người khác bị thương - báo chí Trung Quốc đưa tin. Cháy trên đồng cỏ của của người Tây Tạng Theo hãng tin Xinhua, đám cháy bùng lên dữ dội vào trưa hôm qua, trong khu vực tự trị của người Tây Tạng thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Lửa lan ra nhanh chóng vì gió lớn, bủa vây cả những binh sĩ và những người đến chữa cháy. Số người chết gồm 15 binh sĩ, 2 công nhân canh giữ đồng cỏ và 5 dân địa phương. Lửa bao trùm cả vùng đồng cỏ chạy dài 6 km trong huyện Đào Phúc thuộc khu tự trị Tây Tạng. Đến tối qua, 33,3 hecta đồng cỏ đã bị thiêu trụi, 13 hécta vẫn đang bị cháy. “Nhưng chúng tôi đã gần kiểm soát được tình hình”, một quan chức chỉ huy cứu hoả nói. Khoảng 2.000 người đã tham gia nỗ lực chế ngự ngọn lửa. Cơ quan chức năng đang điều tra nguyên nhân gây hoả hoạn.89% trong số 45.000 người dân của huyện Đào Phúc là người Tây Tạng. Việt Hà Theo Xinhua, AP
  10. THỜI GIAN ĐI QUA Cảnh đẹp thơ mộng trên cầu Palladian tại Stourhead, Anh vào mùa thu (ảnh trên) và ảm đạm khi bị tuyết phủ vào mùa đông (ảnh dưới). Hai bức ảnh được chụp cách nhau đúng 1 tháng.
  11. Tặng Haiphuong câu chuyện này, chú sưu tầm được! ======================================================= Thiếu nữ cận kề cái chết được cứu sống nhờ tình yêu Chủ Nhật, 05/12/2010 - 16:06 Điều thần kỳ đã xảy ra khi chàng y tá Vũ Đức Thao (SN 1986) gặp nữ bệnh nhân sắp chết này đêm ấy. “Tiếng sét ái tình” bùng nổ đã cứu đời cô gái, chữa thiếu nữ khỏi căn bệnh y học vốn “bó tay”. Cô gái Lê Lưu Ly và người yêu Vũ Đức Thao. Những ngày cuối năm 2009, sau khi cô gái Lê Lưu Ly (SN 1985, ngụ phố Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội) bị tai biến mạch máu não khiến bại liệt toàn thân và bị nhiều bệnh viện trả về, gia đình cô đã nghĩ con mình “10 phần chết 9”. Đêm một ngày cuối tháng 11, khi hơi thở của thiếu nữ này ngắt quãng, gia đình dù đưa cô vào Bệnh viện 198 (Bộ Công an) cấp cứu nhưng cũng đồng thời phân công người chuẩn bị các thủ tục lễ tang vì nghĩ cô không qua khỏi. Điều thần kỳ đã xảy ra khi chàng y tá Vũ Đức Thao (SN 1986) gặp nữ bệnh nhân sắp chết này đêm ấy. “Phương thuốc” có một không hai Giữa năm 2009, người nhà phát hiện cô gái 24 tuổi Lê Lưu Ly nằm bất tỉnh dưới sàn nhà. Cô nhập viện trong tình trạng bị hôn mê sâu, bại liệt toàn thân. Bác sĩ chẩn đoán đây là một dạng tai biến mạch máu não khiến đường dẫn máu lên não bị tắc, nạn nhân phải tạm thời sống cuộc sống thực vật, nhiều khả năng sẽ chết. Theo các y bác sỹ thì đây là chứng bệnh hiếm gặp ở lứa tuổi mới lớn như Ly mà thường xảy ra ở những người cao tuổi. Bệnh viện trả bệnh nhân về nhà vì căn bệnh vô phương cứu chữa. Thương con, gia đình đưa Ly đến một bệnh viện tuyến trên và tương tự, bác sĩ cũng lắc đầu: “Đem cháu về nhà chăm sóc, kéo dài thời gian được đến đâu thì được...”. Gia đình cũng đã tính đến phương án đưa Ly sang Nhật Bản hoặc Thái Lan để mổ não, nhưng sau khi tham khảo nhiều nơi thì được biết khả năng sống là rất ít; mà nếu có sống thì sức khỏe cũng không phục hồi, phải chịu cảnh bại liệt hoặc sống thực vật... Người thân ngậm ngùi đưa Ly về nhà chờ chết. Người thân của Ly kể lại: “Một đêm cuối tháng 11, hơi thở của cháu yếu dần. Dù biết bệnh không thể cứu chữa nhưng với hi vọng "còn nước còn tát", chúng tôi vẫn đưa cháu vào Bệnh viện 198 để khỏi áy náy nhìn cảnh con dần chết”. Thao gặp nữ bệnh nhân - người yêu tương lai này trong hoàn cảnh ấy. Anh kể lại, khi mới đến nhận ca trực đêm, anh được kíp trực trước bàn giao lại cho trường hợp bệnh nhân khá đặc biệt: Một cô gái trẻ mắc căn bệnh của người già, dù sức đã yếu nhưng cứ khi tỉnh là lại cựa quậy tay chân không cho các y bác sĩ chăm sóc, tiêm thuốc... “Lật sổ trực, khi nhìn thấy cái tên Lê Lưu Ly, tôi bỗng thấy sức hút kỳ lạ từ cái tên đặc biệt này nên ngay lập tức tìm tới phòng nơi bệnh nhân đang nằm”, Thao kể lại. Anh bước vào phòng quát lớn: “Còn trẻ thế thì không thể chết được. Để đó cho tôi”. Kỳ lạ là nghe thấy giọng Thao, nữ bệnh nhân bỗng nằm im thin thít cho Thao tiêm và chăm sóc. Người thân của bệnh nhân không tin nổi vào mắt khi thấy chỉ vài tiếng sau đó sắc mặt con gái mình đã hồng lại, nhịp đập đều hơn. Tình yêu hồi sinh sự sống Các bác sĩ khi đó cũng không lý giải được vì sao thiếu nữ này lại qua được cơn hiểm nghèo mà chỉ có thể đoán rằng chàng y tá chính là "phương thuốc" hiệu nghiệm cho nữ bệnh nhân trẻ. Thao được phân công chăm sóc, châm cứu cho riêng Ly. Dù đã thoát chết nhưng khi đó tình trạng bệnh tật của Ly còn xấu: Liệt nửa người; méo mồm nên không nói được mà chỉ ra ám hiệu; mắt mờ... Khó khăn nhất là trong việc giao tiếp, mỗi lần muốn cái gì đó, cô chỉ đảo mắt, mấp máy môi khiến không ai hiểu cô muốn diễn tả điều gì ngoài Thao, người chữa bệnh kiêm "phiên dịch viên" của bệnh nhân. Thao kể lại những ngày ấy anh thường dậy từ 4h sáng, phóng xe từ nhà lên giúp cô châm cứu, tiêm thuốc, tập vận động cho cô... Hàng ngày, cứ vào các thời điểm sáng sớm, giữa trưa và chiều tối, Thao đều có mặt, dìu Ly tập đi từ phố Nguyễn Công Hoan ra bờ hồ Ngọc Khánh. Người dân ở đây ai cũng biết cảnh một chàng trai thường dìu cô gái liệt nửa người dạo quanh hồ; vừa đi chàng trai vừa kể chuyện, có khi còn đọc thơ cho cô gái nghe. Và sức khỏe của nữ bệnh nhân cứ hồi phục ngày ngày. Giờ đây sau khi đã hồi phục, Ly bảo rằng chính tình cảm chân thành của Thao đã giúp cô tự tin, cố gắng tập luyện. Ly thấy trái tim mình rung động và càng quyết tâm tập luyện để trở lại với cuộc sống. “Sự chân thành của Thao đã khiến em nhiều lần khóc. Nhiều lần tự tập đi bị ngã đến tóe máu, em vẫn nén đau đứng dậy tập tiếp vì lúc đó em đã hiểu em phải sống không chỉ cho mình và người thân, mà còn phải sống để xứng đáng với tình yêu của anh ấy”, Ly nói. Ly kể lại, sau khi hồi phục và nhận lời yêu Thao, cuộc đời của cô như một cuốn sách đã rẽ sang một chương mới tươi đẹp hơn. Gặp cô gái khỏe khoắn, miệng luôn tươi cười ríu rít, không ai nghĩ rằng chỉ trước đây hơn 1 năm cô đã từng sống cuộc sống thực vật, gày gò như cành củi và gia đình đã từng tính chuyện tang lễ cho cô. Ly cười: “Tình yêu của anh ấy như một thang thuốc kỳ diệu cho em hồi sinh”. Theo Đời sống Pháp luật/TPO
  12. =================================== Cách mạng kiểu Cantona 05/12/2010 23:00 Giới ngân hàng Pháp đang hồi hộp chờ đợi liệu người dân có đồng loạt rút tiền khỏi tài khoản vào ngày 7.12 theo lời kêu gọi của cựu danh thủ bóng đá Eric Cantona hay không. Theo tờ Le Parisien, hồi đầu tháng 11, Cantona kêu gọi người Pháp đồng loạt rút tiền vào ngày mai để “làm sập cả hệ thống”. Theo phản ứng của cư dân mạng, ngày càng có nhiều người đáp lời thần tượng một thời của Manchester United. Từ 19.000 người hôm 27.11, đến tối 4.12, đã có 34.500 người khẳng định sẽ “hành động” và 26.000 người nói “có thể tham gia”. Thời gian qua, dân Pháp liên tục xuống đường để phản đối nhiều chính sách của chính phủ như cải cách chế độ hưu trí, người nhập cư… nhưng không có hiệu quả. Le Parisien dẫn lời Cantona giải thích việc biểu tình không còn đánh động được giới lãnh đạo nên “rút tiền sẽ là cuộc cách mạng không cần vũ khí, không phải đổ máu”. Giới chức Pháp và các ngân hàng đồng loạt chỉ trích Cantona, đồng thời khẳng định 60.000 người cùng rút tiền không thể làm lung lay hệ thống tài chính nước này. Lan Chi
  13. CHÚC MỪNG SINH NHẬT YEUPHUNU Một cuộc đời hạnh phúc và vạn sự an lành
  14. Không phải Thượng Đế sáng tạo ra vũ trụ theo Stephen Hawking ‏ Đào-văn-Bình dịch God did not create the universe, says Hawking By Michael Holden 02 tháng 9, 2010 AFP/File–Thượng Đế không còn chỗ đứng trong các lý thuyết tạo dựng vũ trụ sau nhiều bước tiến liên tiếp LUÂN ĐÔN (Reuters)- bài viết của Michael Holden hôm thứ năm ngày 2 tháng 9, 2010Stephen Hawking - lý thuyết gia lừng danh về vật lý của Anh đã tuyên bố trong cuốn sách mới của ông là Thượng Đế không sáng tạo ra vũ trụ mà “Sự Nổ Lớn” (Big Bang) là hậu quả tất yếu của định luật vật lý. Theo tuần báo Times xuất bản vào đúng Thứ Năm, trong cuốn sách nhan đề “Sự Thiết Kế Vĩ Đại” (The Grand Design) viết chung với nhà vật lý Hoa Kỳ Leonard Mlodinow, Hawking nói rằng một lọat những lý thuyết mới (về vật lý) khiến cho việc nói rằng có một vị sáng tạo ra vũ trụ là thừa. “Bởi vì có một định luật chẳng hạn như sức hút khiến vũ trụ có thể và sẽ tự sáng tạo từ chân không (nothing)." Ông đã viết trong cuốn sách như sau “Sự sáng tạo do bởi chính nó đã là lý do tại sao có nhiều thứ chứ không phải chỉ có một thứ, tại sao vũ trụ hiện hữu và tại sao chúng ta có mặt,” Và ông viết tiếp, “Không nhất thiết phải van nài Thượng Để làm chuyện kinh khủng như thế (Big Bang) để cho vũ trụ chuyển động.” Nhà vật lý Hawking năm nay 68 tuổi, đã được cả thế giới công nhận năm 1988 với cuốn sách nhan đề “Lịch Sử Vắn Tắt về Thời Gian” (A Brief History of Time) trong đó giải thích những cội nguồn của vũ trụ khiến ông nổi tiếng vì những nghiên cứu của ông về những lỗ đen (black holes), vũ trụ học và lượng tử (cosmology and quantum). Từ năm 1974, các nhà khoa học đã nỗ lực kết hợp hai nền tảng về vật lý hiện đại - Lý Thuyết Tương Đối của Albert Enstein liên quan đến trọng lực và hiện tượng lớn- với lý thuyết về lượng tử bao gồm những hạt hạ nguyên tử (subatomic paricles) Nhận định mới nhất của Hawking cho thấy ông đã giã từ quan điểm trước đây của ông khi phát biểu về tôn giáo. Trước đây ông cho rằng sự khám phá ra những định luật về vật lý không có nghĩa là không tin rằng Thượng Đế đã can dự vào “Sự Nổ Lớn” (Big Bang). Ông đã viết trong cuốn “A Brief History of Time” rằng “ Nếu chúng ta khám phá ra một lý thuyết đầy đủ, đó là sự chiến thắng tối hậu của lý trí con người, mà qua đó chúng ta phải thấy đó là ý của Thượng Đế.” Trong cuốn sách mới nhất ông nói rằng sự khám phá năm 1992 về một hành tinh quay chung quanh một ngôi sao khác không phải Mặt Trời giúp phá vỡ quan điểm của người cha ngành vật lý là Isaac Newton cho rằng vũ trụ có thể đã không xuất hiện từ sự hỗn loạn mà từ sự sáng tạo của Thượng Đế. Ông viết “Do sự trùng hợp ngẫu nhiên về những điều kiện của hành tinh - chỉ có một Mặt Trời, sự phối hợp may mắn về khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trời, trọng khối của Mặt Trời, hầu như không gây chú ý và rất ít bằng chứng thuyết phục chứng tỏ rằng Trái Đất đã được cẩn thận sáng tạo cho hợp với con người.” Nhà vật lý Hawking chỉ có thể nói được qua hệ thống âm thanh tổng hợp từ một máy điện tử vì ông bị rối lọan cơ thần kinh não bộ, dù sau vài năm có tiến triển nhưng thân bị bại liệt hòan tòan. Ông bị chứng bại liệt này ở đầu những năm 20 nhưng ông tiếp tục phấn đấu để trở thành một trong những người có thẩm quyền về khoa học của thế giới và cũng đã xuất hiện trong phim “Star Trek” và những phin họat họa như “Futurama” và “The Simpsons.” Năm ngóai ông tuyện bố xin thôi chức vụ Giáo Sư Tóan Học Lucasian tại Viện Đại Học Cambrigde, một chức vụ mà Newton đã có lần chấp chưởng, còn ông thì giữ chức vụ này từ năm 1979. Cuốn sách “The Grand Design” sẽ được tung ra thị trường vào tuần tới. (Bản tin do Steve Addison hiệu đinh) Bản dịch của Đào Văn Bình
  15. NASA: 'Năm đại họa' là có thật? Lê Văn / VietNamNet 26 tháng 6, 2010 Trong khi nhiều người còn đang lo lắng về “năm đại họa 2012” thì mới đây NASA đưa ra cảnh báo về trận bão từ sẽ làm thay đổi toàn bộ cuộc sống trên Trái đất vào năm 2013. Vào năm 2013, Mặt trời sẽ bước vào thời kỳ hoạt động mạnh mẽ. Ảnh: Ifeng.com Các nhà khoa học có thâm niên của NASA cảnh báo, vào khoảng năm 2013, sau một "giấc ngủ say", Mặt trời sẽ “thức tỉnh”, bước vào giai đoạn hoạt động mạnh, tạo nên những cơn bão từ cực mạnh tấn công Trái đất. Sức mạnh của trận bão từ này có thể tương đương với sức công phá của 100 quả bom Hydro. Các chuyên gia cho rằng, khi Mặt trời bước vào thời kỳ hoạt động mạnh, hoạt động phun trào của các điểm đen Mặt trời cũng sẽ trở nên kịch liệt, giải phóng một lượng lớn các hạt mang điện và gây ra các cơn bão mặt trời. Sự ảnh hưởng của bão mặt trời, theo các nhà khoa học là vượt qua sự tưởng tượng của con người. Chúng có thể khiến toàn bộ Trái đất bước vào những ngày đen tối nhất. Không chỉ tầng ô-zôn bị phá hủy, hệ thống điện cũng như mạng thông tin điện tử có thể bị tê liệt. Từ đó, những cơ quan như bệnh viện, ngân hàng và sân bay,… cũng sẽ không thể hoạt động được chứ đừng nói đến điện thoại, máy tính hay GPS. Nếu như tất cả những điều kể trên xảy ra, chúng sẽ mang lại những tổn thất về kinh tế cực kỳ khủng khiếp, mà nhiều người dự tính là nhiều gấp 20 lần so với trận bão Katrina (Tổng thiệt hại do cơn bão này gây ra ước tính lên đến 125 tỷ USD). Đồng thời, nó cũng sẽ tạo nên một bước lùi lịch sử trong tiến trình phát triển của toàn nhân loại. Và một trận bão Mặt trời cực mạnh có thể sẽ tấn công Trái đất. Ảnh: Internet. Các chuyên gia về thiên văn chỉ ra rằng, hoạt động của điểm đen mặt trời có chu kỳ là 11 năm. Vào năm 1859, tức là 151 năm trước đây, Trái đất của chúng ta từng bị một cơn bão mặt trời cực mạnh tấn công. Tuy nhiên, khi đó hệ thống điện và thông tin vẫn chưa phát triển, do vậy hậu quả mà cơn bão này gây ra vẫn chưa đến mức nghiêm trọng. Lo lắng về sự nguy hại mà các cơn bão từ Mặt trời mang đến cho Trái đất, các nhà khoa học đã bắt đầu theo dõi sát sao Mặt trời. Vào ngày 11/2 vừa qua, một vệ tinh quan trắc các hoạt động của Mặt trời đã được phóng lên quỹ đạo. Các nhà khoa học hy vọng rằng việc theo dõi Mặt trời 24/24 sẽ giúp các nhà khoa học hiểu rõ kết cấu cũng như các hoạt động từ trường của Mặt trời, từ đó đưa ra được những dự báo chuẩn xác giảm thiểu nguy hại từ các cơn bão Mặt trời. Lê Văn (Theo Ifeng) source http://vietnamnet.vn/khoahoc/201006/NASA-N...co-that-916833/
  16. Giáo sư Vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận: “Chúng ta đều phụ thuộc vào nhau” Kim Yến /SGTT Đăng 14 tháng 11, 2009 Tin giáo sư Trịnh Xuân Thuận, người Việt Nam đầu tiên được trao giải thưởng cao quý Kalinga của UNESCO về Phổ biến khoa học năm 2009 đã như ngọn gió lành làm nức lòng giới khoa học và tất cả độc giả đã từng yêu quý ông qua những tác phẩm viết về vũ trụ với cái nhìn tinh tế, giàu mỹ cảm, thấm đẫm tư tưởng triết lý của đạo học Phương Đông. Dù vô cùng bận rộn, từ nước Mỹ xa xôi, ông đã dành hơn hai giờ đồng hồ để trả lời thật cặn kẽ những câu hỏi của báo Sài Gòn Tiếp Thị qua điện thoại. Giọng Hà Nội cổ trầm và ấm áp, lối nói khúc chiết, tình cảm, ông diễn đạt những điều cao siêu và bí ẩn của vũ trụ với một ngôn ngữ thật giản dị. Thỉnh thoảng ông dừng lại, hỏi han về Việt Nam như thể một người thân xa nhà đã lâu. Có cảm giác như ông đang hiện diện, đôi mắt trầm tư và hóm hỉnh, mở lòng chia sẻ với tất cả công chúng bình dị nhất về những gì ông đam mê và day dứt… - Thưa giáo sư, ông có thể cho cụ thể hơn về Giải thưởng cao quý của UNESCO về Phổ biến khoa học năm 2009? Cảm xúc của riêng ông trong những ngày này? - Tôi rất hãnh diện, vui mừng, vì đây không chỉ là vinh quang của riêng tôi mà là vinh quang của Việt Nam. Lần đầu tiên trên chính trường quốc tế, người Việt Nam đoạt giải thưởng lớn này, cùng với giáo sư Yash Pal người Ấn Độ. Viết sách, dạy học, khảo cứu là ba công việc mà tôi theo đuổi suốt đời, và coi như lẽ sống của đời mình. Chúng ta đang sống trong một thế giới bị vây bủa bởi kỹ thuật, ngạt thở vì bụi và khói, ít người hiểu rằng chúng ta còn có một vũ trụ bao la, đẹp đẽ và thật hài hòa. Với tư cách là một nhà khoa học, tiếp xúc hàng ngày với vũ trụ, tôi muốn chia sẻ những cảm xúc tuyệt vời về những điều kỳ diệu của vũ trụ. Giải thưởng về Phổ biến khoa học là phần thưởng ý nghĩa nhất cho những tác phẩm mà tôi đã viết để gửi tặng cho tất cả mọi người - Hầu hết các tác phẩm của ông đều được dịch sang tiếng Việt, trong đó có Những con đường ánh sáng (tác phẩm giúp ông đoạt giải Moron của Viện hàn lâm Pháp năm 2007), ông đã suy nghĩ rất nhiều về ánh sáng và các khía cạnh tinh thần của ánh sáng? Ông đánh giá như thế nào về các bản dịch của dịch giả Phạm Xuân Thiều? - Ánh sáng là người bạn tri kỉ của tôi, là phương tiện giúp tôi đối thoại với vũ trụ. Thuyết Lượng tử và thuyết Tương đối của Albert Einstein cũng nói về ánh sáng. Trong tất cả các tôn giáo, ánh sáng đẩy lùi sự không hiểu biết, sự mù quáng. Ánh sáng từ những ngọn nến thắp lên trên bàn thờ Phật đẩy lùi bóng tối, sự huyễn tưởng, tham muốn, đau khổ, để đi đến niết bàn. Ánh sáng từ những cánh cửa nhà thờ chính là ánh sáng của Chúa… Tôi ước ao thám hiểm không chỉ tầm vóc khoa học kỹ thuật, mà còn về thẩm mỹ, nghệ thuật, khía cạnh siêu hình, triết lý tôn giáo của ánh sáng. Ý định của tôi là biết được làm thế nào ánh sáng đã cho phép chúng ta trở thành những con người. Về dịch giả Phạm Văn Thiều, anh ấy cũng là một nhà vật lý, nên hiểu chính xác các ngôn ngữ chuyên môn. Nhưng viết với tôi không chỉ nói về khoa học, đó còn là một tác phẩm văn chương với cách nói đẹp đẽ, khiến cho người đọc say mê. Anh Thiều đã thực sự cảm được chất triết lý, chất thơ và dịch rất đúng với tinh thần của tôi. Anh cũng đang giúp tôi dịch tác phẩm mới nhất Từ điển về những người yêu trời và ngôi sao do NXB Tri thức xuất bản. Mặc dù sống ở Mỹ, nhưng sách của tôi xuất bản ở Paris là chủ yếu, vì tôi viết bằng tiếng Pháp. Khi tác phẩm trở thành best- seller ở Paris, người ta mới dịch sang tiếng Anh và 20 thứ tiếng khác trên thế giới. Do vậy đối với tôi, chuyện dịch rất quan trọng, ngoài tinh thần khoa học, phải có tinh thần thơ, tinh thần triết lý. - Tác phẩm Nguồn gốc thể hiện quan niệm của riêng ông khi trở lại với nguồn gốc của vũ trụ, của loài người, để giúp con người thay đổi cách nhìn về cuộc sống, về thế giới? - Tôi mong muốn giải đáp phần nào những câu hỏi mãi hiện hữu trong tâm trí của nhân loại, đó là nguồn gốc hình thành vũ trụ. Vũ trụ đẻ ra các ngôi sao, từ đó hình thành trái đất, hình thành tế bào đầu tiên của sự sống, sinh ra con người. Tất cả chúng ta đều là con đẻ của các ngôi sao, liên hệ mật thiết với các ngôi sao, đó là ông tổ của loài người. Trái đất cũng được tạo thành bởi các nguyên tố sinh ra trong lòng các ngôi sao. Trong hệ mặt trời, chỉ có trái đất mới có các biển nước bao la để cho sự sống nảy nở. Hiểu như thế để thấy trái đất quý báu biết chừng nào, phải bảo vệ và che chở nó. Nếu không chỉ mấy thế hệ nữa thôi con cháu ta sẽ không còn chỗ để ở nữa, vì trái đất ngày càng nóng lên. Mỗi 100 năm trái đất nóng lên từ 1 đến 2 độ, băng ở Nam cực và Bắc cực đã tan chảy, khiến lụt bão càng ngày càng nhiều, hoành hành ngày càng dữ dội. Hiện giờ 25% cacbon dioxit (CO2) thải ra trong khí quyển trái đất là từ nước Mỹ, 25% là từ Trung Quốc. Thời của Bush, nước Mỹ không chịu ký hiệp định Kyoto năm 1997 về chống khí thải. Chính sách của ông Obama có tiến bộ hơn, tháng 12 này Mỹ và các nước sẽ họp lại ở Copenhagen, Đan Mach để tìm giải pháp giảm khí thải trên toàn thế giới. Với tư cách nhà khoa học, tôi chỉ nói lên lời cảnh báo, còn người định đoạt là các nhà chính trị. Tôi mong khi các cường quốc có trách nhiệm hơn, sẽ cải thiện được tình hình, vì trái đất là của chung mọi người. Biết rằng tất cả chúng ta chỉ là những hạt bụi, chia sẻ cùng một lịch sử vũ trụ với loài linh dương và các đóa hồng, chúng ta được gắn kết với nhau qua không gian và thời gian, sẽ giúp chúng ta ý thức được sự phụ thuộc vào những người khác. Ý thức này sẽ sinh ra lòng trắc ẩn, giúp chúng ta nhìn thế giới khác đi và hành động công bằng hơn. - Với riêng Việt Nam, ông có nghiên cứu nhiều về thảm họa tàn phá môi trường trong sự thái quá về phát triển kinh tế hiện nay hay không? - Tôi cũng rất lo sợ. Tôi hiểu Việt Nam muốn phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho nhiều người, không còn cách nào khác là phải phát triển du lịch, vì Việt Nam có một thiên nhiên rất đẹp, có núi, có biển, có rừng. Nhưng phát triển du lịch phải nghĩ đến bảo vệ môi trường xung quanh, chứ kiểu phá rừng bừa bãi, giết chết thú vật và tất cả những sinh vật thiên nhiên như chim chóc,muông thú như hiện nay vô cùng nguy hiểm. Rừng của chúng ta có rất nhiều loài chim lạ mà các nhà khoa học quan tâm và đã đến khảo cứu, nhưng đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Những nhà lãnh đạo đất nước phải quan tâm đến việc phát triển kinh tế trong sự tôn trọng môi trường - Từng học tại Thụy Sĩ, lý do gì khiến ông chọn nước Mỹ là nơi dừng chân? Ấn tượng nhất với ông về cách dạy, cách học của hệ thống đại học đỉnh cao của Mỹ? - Đậu tú tài năm 1966, tôi định đến Pháp để học vật lý, nhưng bài diễn văn của tướng De Gaulle ở Phnom Penh đòi Mỹ rút quân ngay lập tức khỏi Đông Nam Á đã làm thay đổi mọi kế hoạch của tôi. Việt Nam cắt đứt liên hệ ngoại giao với Pháp nên tôi không thể sang Paris học nữa. Sau một năm học ở Lausanne, Thụy Sĩ, tôi sang Mỹ học tại Caltech (viện Công nghệ Califonia ), "thánh địa" của các nhà vật lý thiên văn. Caltech có kính thiên văn lớn nhất thế giới vào lúc đó, có thể nhìn về quá khứ hàng tỉ năm, một nơi lý tưởng để nảy sinh thiên hướng cho một thanh niên 19 tuổi đang khát khao tìm hiểu mọi thứ như tôi. Xúc động lắm khi được những giáo sư dạy những công trình của chính họ. Lớp không quá mười lăm người nên được tiếp xúc thật gần với từng giáo sư, cả những vị nổi danh nhất từng đoạt giải Nobel. Giáo dục quan trọng nhất là dạy cách nghĩ khác biệt trước một vấn đề, giúp cho người học đi xa hơn chính người thầy của mình trong quá khứ. Thế là tôi đổi thay. Tôi hoàn toàn ngạc nhiên khi thấy Richard Feynman, một trong những đỉnh cao của ngành Vật lý hiện đại, trả lời một cách kiên nhẫn từng câu hỏi của những cậu bé mười chín tuổi như tôi. Ông tranh luận và pha trò với chúng tôi. Ông luôn nhìn thiên nhiên bằng đôi mắt mới lạ, ngây thơ, diễn dịch lại theo cách của riêng ông. Ông không hề đi theo con đường mòn và luôn đặt lại câu hỏi cho những ý tưởng đã được công nhận. Ðó là chưa kể sự tự do lạ thường mà chúng tôi có được. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy sinh viên đi chân trần, ăn mặc lôi thôi đến dự giờ do một Nobel giảng dạy! Sau chấn động đó, tôi bắt đầu thích môi trường quá phong phú cho sự nảy nở tài năng của mỗi người, bất kể hình thức hay tầng lớp xã hội. Đặc ân tối cao là chúng tôi có thể gõ bất cứ cửa nào và bất cứ lúc nào, tất cả những đầu óc vĩ đại đó sẽ thong thả trả lời cho chúng tôi từng câu hỏi. - Trong sự chọn lựa của ông đối với thiên văn học, ông đã phải trả giá cho những mất mát, khó khăn như thế nào của đời sống thường ngày? Theo ông, vì sao lớp trẻ ngày nay ít người dám theo đuổi những khát vọng lớn như thế hệ ông? - Sống ở Mỹ từ năm 19 tuổi đến giờ đã hơn 42 năm, nhưng do học tiếng Pháp từ bé nên tiếng Pháp đối với tôi là tiếng của thơ ca, còn những gì thuộc về khoa học tôi viết bằng tiếng Anh. Những năm đầu sống trên đất Mỹ rất khó khăn, vì lúc ấy chiến tranh Việt Nam đang vào thời kỳ ác liệt nhất, nhiều người bạn Mỹ của tôi ở trong trường đã phải vào quân ngũ để sang Việt Nam. Không biết tiếng Anh, những ngày đầu tiên thầy giáo vật lý giảng bài tôi chẳng hiểu gì, chỉ nhận ra mấy cái phương trình. Mấy tháng sau mới tiếp thu được tiếng Anh nhanh hơn. Thực sự tôi phải trả giá rất nhiều cho việc học, khó nhất là làm thế nào để hòa mình vào môi trường khoa học trình độ cao. Lúc đầu bị cắt hết liên lạc gia đình, đâu có tiền mà về thăm nhà. Lúc đó chưa có e-mail hoặc internet. Xa gia đình, xa đất nước mình, thiếu chỗ nương tựa tinh thần, văn hóa lại khác hẳn nên rất gian nan. Phải có ý chí, đam mê nhiều lắm, nhất là sự ham thích tìm hiểu, nghĩ ngợi, hân hoan với mỗi phát hiện mới của riêng mình, chứ nếu chỉ nghĩ đến tiền và làm giàu thì không thể làm khoa học được. Thế hệ chúng tôi già rồi, nên rất mong có những thế hệ kế tiếp, nhưng hình như các bạn trẻ ngày nay theo đuổi những nghề nghiệp giúp họ kiếm tiền nhanh như kinh doanh, bác sĩ, luật sư… hơn là về khoa học. Trách nhiệm của những nhà giáo dục là phải truyền đạt tới lớp trẻ tình yêu khoa học. Chính vì vậy mà tôi đẻ ra môn Thiên văn học dành cho các nhà thơ, để dành cho những sinh viên học các môn học khác như kinh tế học, triết học, văn học…Tôi rất thú vị khi thấy các em rất say mê môn học này, và thích thú nhìn lên bầu trời, quan sát các ngôi sao. - Sau ngày miền Nam được giải phóng, cha ông (Trịnh Xuân Ngạn- KY) phải đi học tập cải tạo vì là chủ tịch Tối cao Pháp viện chế độ Sài Gòn, nghe nói ông đã viết thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng để xin cho cha được về? - Khi ấy, tôi tưởng không thể gặp lại bố được nữa. Lúc ấy Mỹ không có bang giao với Việt Nam. Không biết làm gì để cứu bố, tôi sang Pháp gặp một đồng nghiệp về vật lý thiên văn, rất may ông là bạn thân của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ông ấy đã viết một bức thư gửi Thủ tướng xin tự do cho cha tôi, nhưng tôi cũng không dám hy vọng gì nhiều. Không ngờ Thủ tướng đã tác động ngay cho bố tôi được sang Pháp sinh sống cùng gia đình. - Đối diện với vũ trụ bao la, có bao giờ ông rơi vào cảm giác quá bé nhỏ, tuyệt vọng, cô đơn…? - Tôi luôn cảm thấy hài hòa một cách tự nhiên với vũ trụ, nên không bao giờ cảm thấy cô đơn. Vả lại tôi luôn có những người thân yêu ở bên cạnh nâng đỡ, động viên. Cha tôi giờ đã mất, nhưng ông là một tấm gương lớn cho tôi về tinh thần học hỏi không ngừng. Ông luôn khuyến khích tôi trên con đường khoa học, dạy tôi trước tiên phải trở thành người lương thiện, biết thương người khác. Tôi may mắn có người vợ hết lòng, cô ấy cũng dạy học như tôi, nhưng biết lo lắng chuyện nhà chuyện cửa để tôi yên tâm nghiên cứu. Trong gia đình lớn của tôi, sự gắn bó từ đời này sang đời khác rất được coi trọng, gìn giữ. Dòng họ nhà tôi nhiều người đỗ đạt tiến sĩ, làm quan lớn trong triều. Học hỏi, khảo cứu và giúp người là truyền thống quý báu nhất của dòng họ. Tôi viết sách, dạy học, khảo cứu cũng là để tiếp nối truyền thống đó. Trong chuyến trở về Việt Nam cùng phái đoàn của Tổng thống Pháp Mitterrand năm 1993, đến Văn Miếu ở Hà Nội, tôi rất hãnh diện khi thấy ông tổ của mình cũng có tên trong đó. Lúc đó, mức sống ở miền Bắc còn quá thấp so với miền Nam, nhiều chỗ không có điện nước. Năm 2004, trở lại ngôi làng thời ấu thơ bên kia sông Đuống, thăm lại mồ mả cha ông, tôi vô cùng xúc động khi thấy tất cả sức lực của đất nước được dồn cho xây dựng, mức sống của người dân quê tôi đã được nâng lên đáng kể…Tất cả những điều đó níu giữ mình, giúp mình cảm thấy không cô đơn, thấy có trách nhiệm hơn với cuộc đời và xã hội.. - Là nhà khoa học, có bao giờ ông tin vào trực giác, sự mách bảo của tâm linh? - Thường khi nghĩ nhiều về một vấn đề nào đó của vũ trụ, trực giác luôn đến với tôi đầu tiên, sau đó mới là những luận cứ khoa học. Cũng có khi trực giác và luận cứ khoa học đến cùng một lúc. Điều kỳ diệu đâu phải tự nhiên mà có, mình phải đeo đuổi nó nhiều lắm, tìm hiểu nhiều lắm qua kính thiên văn và suy nghĩ, rồi mới phát hiện ra. Lúc ấy thấy hân hoan lắm. - Là người rất quan tâm đến đời sống xã hội, ông nghĩ gì về sự đổ vỡ trong đời sống tinh thần của con người hiện đại, khi lao theo những ham muốn bất tận về đời sống vật chất đến mức không dừng lại được? - Khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua là bằng chứng rõ nhất về chuyện con người quá lao theo vật chất, mà quên đi những giá trị tinh thần. Con người cần phải nghĩ nhiều hơn về hạnh phúc. Làm giàu là cần thiết, nhưng đến một mức độ nào thôi cũng phải biết hướng tới những giá trị truyền thống của đời sống nhân văn, biểu hiện qua tôn giáo. Toàn thế giới đang chạy theo chỉ số GDP, nhưng ở Bhutan, đất nước theo đạo Phật, chỉ số hạnh phúc lại cao nhất thế giới. Họ có nền an ninh sung sướng mặc dù nghèo hơn rất nhiều nước khác. Giàu đến một mức nào đó thôi cũng phải nghĩ cách giúp đỡ người khác, như Bill Gates, người đã tạo ra hãng Microsoft chẳng hạn. Chứ sống một mình sung sướng trên một biển toàn người đau khổ thì đâu có hạnh phúc gì. Chúng ta phụ thuộc vào nhau, điều cụ thể nhất mà mỗi gia đình có thể làm được là các bậc cha mẹ hãy giáo dục cho con cái mình đừng nên chạy theo vật chất, biết nghĩ nhiều hơn cho người khác thì cuộc sống của mình sẽ ý nghĩa hơn - Để tồn tại, cạnh tranh và sống sót trong một thế giới đầy bất an như hiện nay, theo ông, con người phải thay đổi điều gì trong tư duy và lối sống của chính mình? -Tôi sống ở đất Mỹ, nơi lúc nào cũng nói đến chữ cạnh tranh. Nhưng chữ cạnh tranh mà ông Obama dùng khác hẳn chữ cạnh tranh của ông Bush. Cạnh tranh với Obama là để chung sống hòa bình, chứ không phải gây chiến như Bush. Có lẽ nhờ thế ông đã đoạt giải Nobel Hòa bình 2009 dù chưa làm được gì, nhưng đã thay đổi hoàn toàn trong cách nghĩ, để mong giúp đỡ con người. Toàn cầu hóa hòa bình là mục đích của cạnh tranh lành mạnh, để cùng phát triển, chứ không phải bám vào việc đào bới thiên nhiên, hủy hoại đất mẹ. Sự sụp đổ hàng loạt các tập đoàn tài chính Mỹ đang bị siết lại bằng luật, nhưng điều cốt lõi là phải thay đổi là cách nghĩ, thay đổi trong tâm,. Chính vì thế phải có tôn giáo. Đạo Phật dạy tiền bạc, vật chất là ảo hết, tình thương yêu, giúp đỡ người khác mới là sự thật, đó mới là sức mạnh của con người. - Mối tương đồng giữa vật lý hiện đại với đạo học phương Đông, nhất là Phật giáo đã mở cho ông những cánh cửa như thế nào để thấy được bộ mặt thật của vật chất? - Tôi chiêm nghiệm thế giới theo triết lý Phật giáo nhưng với cái nhìn của nhà khoa học vật lý hiện đại và đạo học phương Đông là hai cách nhìn về cùng một sự vật, đó là vũ trụ. Hai lối nghĩ tả về một cái thì phải gặp gỡ nhau thôi. Nếu như tôn giáo giúp mình nhìn ra sự thật về vũ trụ để sống, để nhìn đời hoàn hảo hơn thì vật lý hiện đại giúp mình dùng thiên nhiên để chế tạo ra những công trình kỹ thuật, khoa học. Phật giáo rất vững vàng để đương đầu với khoa học. Nhà khoa học làm những cuộc quan sát, thí nghiệm. Trong Phật giáo, con người tự thí nghiệm lấy chính mình. Họ tự tìm lấy con đường của họ. Trong đạo Phật, người ta tìm thấy khái niệm vô thường: tất cả đều chuyển động, tất cả đều thay đổi, tất cả đều tiến hóa, thì đó cũng là thông điệp chính của khoa học. Các ngôi sao đều có lịch sử riêng của chúng: chúng sinh ra, sống và chết. Vũ trụ có một sự khai nguyên, một hiện tại và một tương lai. Tất cả đều thay đổi, tất cả đều chuyển động. Tôi cũng đang tìm hiểu thêm về Lão tử để soi rọi nó với đạo Phật, phát hiện thêm những chiều sâu mà mình chưa biết đến. Đó là cuộc tìm kiếm vô cùng. Cho đến nay, con người có thể nhìn thấy chỉ chiếm 4% trong tổng số vật chất trong vũ trụ. Như vậy, rõ ràng, còn quá nhiều thứ, đến 96%, để chúng ta học hỏi và khám phá. Tôi tin rằng ý thức con người đủ sức mạnh để khám phá phần còn lại mênh mông và huyền bí đó - Theo ông, sự gặp gỡ giữa nhận thức luận phương Tây và triết lý phương Đông có giúp con người thoát khỏi những khủng hoảng cá nhân? - Tôi nghĩ triết lý phương Tây để ý đến cá nhân nhiều hơn, trong khi phương Đông lại có lối nhìn toàn vẹn hơn. Khi những luồng tư tưởng khác biệt gặp nhau, tác động lên nhau, có thể giúp con người vượt thoát khỏi sự khủng hoảng trong đời sống tinh thần, tìm đến một chủ nghĩa nhân văn phổ quát, để vừa thúc đẩy tính sáng tạo trong mỗi cá nhân, vừa giúp mỗi cá nhân hài hòa hơn với xã hội, gìn giữ mối quan hệ gia đình. Hiện có rất nhiều người Âu châu để ý đến đạo Phật vì tinh thần gần gũi, rộng rãi của nó. - Ông có thể kể một chút về tình bạn với Ricard Matthieu, người đã ảnh hưởng rất lớn đến ông trên con đường trở thành một Phật tử tự do, và viết chung tác phẩm Cái vô tận trong lòng bàn tay? - Matthieu Ricard vốn là một tiến sĩ sinh học người Pháp đã bỏ hết sự nghiệp đi tu, vì cho rằng việc khảo cứu không làm cho đời mình hạnh phúc. Ông trở thành một thiền sư Phật giáo Tây Tạng, và là người rất thân cận với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Khi Đạt Lai Lạt Ma sang Pháp luôn có ông bên cạnh. Ông nổi tiếng ở châu Âu về truyền bá đạo Phật, cách tu tâm, thiền. Ông sống rất đúng theo triết lý của đạo Phật, luôn đỡ người khác, bao nhiều tiến viết sách ông dành để xây làng cho trẻ mồ côi ở Tây Tạng, và làm từ thiện. Mùa hè năm 1997, tôi và nhà sư Matthieu tình cờ gặp nhau tại một hội thảo ở nước Andorra, nhỏ nhất thế giới. Trong chuyến du hành lên núi Pyrenee ở nước đó, chúng tôi đã trở thành bạn thân, thảo luận với nhau về những vấn đề cốt tử của khoa học và tôn giáo. Tôi đã lớn lên hơn với triết lý cho rằng con người không hiện hữu trong cô đơn và cô lập. Tất cả đều là một thành phần của tổng thể. - Ông nghĩ gì về vai trò của người trí thức trong sự phát triển của đất nước? Theo ông làm thế nào để có được những chuyên gia hàng đầu trong các lĩnh vực khoa học, thiên văn, nhất là khoa học xã hội nhân văn? Nỗi đau nào ám ảnh ông khi về thăm lại quê hương? - Với riêng tôi, cách giúp đỡ tốt nhất là mang những tác phẩm của mình đến với công chúng Việt Nam, để gầy dựng tình yêu khoa học cho những thế hệ sinh viên trẻ, và tham gia giảng dạy cho những sinh viên ưu tú của đại học Việt Nam. Còn chuyện khảo cứu thì quá thiếu phương tiện. Tôi mong khi đất nước phát triển, Việt Nam sẽ thu hút được chất xám của những chuyên gia người Việt đã được đào tạo tại Mỹ và châu Âu về giảng dạy như Trung Quốc bây giờ. Hệ thống đại học đỉnh cao của Trung Quốc hiện nay chất lượng đào tạo ngang hàng với Mỹ chính vì đã biết đầu tư để thu hút chất xám về nước, nhờ vậy họ tiến rất nhanh. Muốn vậy, phải có một chính sách đúng từ chính phủ. Chỉ lo đầu tư cho đường sá, cầu cống, để tham nhũng hoành hành như hiện nay rất nguy hiểm. Các nhà lãnh đạo phải hiểu đầu tư cho giáo dục, khảo cứu là đầu tư cho tương lai của đất nước. Điều tôi mong muốn nhất của tôi là một ngày kia nước mình sẽ có đài thiên văn, có người làm thiên văn. Khoa học phát triển mới có thể phát triển căn cơ về kinh tế - Cho đến bây giờ, ông đã thực sự tìm thấy sự bình yên? - Cũng nhờ Trời Phật phù hộ mà ngay từ nhỏ tôi đã biết mình muốn gì, đó là theo đuổi đam mê làm khoa học, chứ không bị lang bang sang các ham muốn khác. Biết làm điều mình thích nên không bị khổ. Giây phút hạnh phúc nhất với tôi là khi khám phá ra một điều mới lạ. Đạo Phật lúc nào cũng ở trong tôi, giúp tôi sống thanh thản hơn. - Phương châm sống của riêng ông? - Làm gì cũng ráng làm hết sức, sinh sống không làm hại người khác, giúp được ai thì giúp hết lòng. Kim Yến nguồn http://www.sgtt.com.vn/ =========================================== Ý kiến về Trịnh Xuân Thuận - Tiến sĩ Nguyễn Xuân Xanh: "Chúng tôi xin nhiệt liệt chúc mừng anh Thuận. Tin này làm phấn chấn cộng đồng Việt Nam nói chung, và giới khoa học Việt Nam trong và ngoài nước nói riêng. Khoa học tại VN chắc chắn sẽ nhận được một "cú hích" tốt cho sự phát triển. Thanh niên và cộng đồng sẽ hướng nhiều hơn nữa về khoa học, điều cần thiết để phát triển trí tuệ. Câu nói của Voltaire về Galilei: “"Triết lý đích thực đã không bắt đầu khai sáng con người cho đến khi cuối thế kỷ mười sáu. Galilei là người đầu tiên đã làm cho vật lý học nói lên được ngôn ngữ của sự thật và lý tính", cho thấy vai trò lớn lao của khoa học trong đóng góp phát triển trí tuệ, lý tính của con người, đặc biệt trong một nước có những đặc thù khó khăn như VN. Cuốn Kỷ yếu thiên văn và Darwin năm nay ra đời đúng lúc anh đón nhận tin vui. Xin cám ơn những đóng góp rất có ý nghĩa của anh Thuận. - Trần Tiễn Cao Đăng: “Những cuốn sách của Trịnh Xuân Thuận cho thấy một bộ phận tinh hoa các nhà khoa học trên thế giới không còn hài lòng với việc làm nhà khoa học "thuần tuý". Họ vươn lên một thứ "bản thể luận về khoa học và tri thức", mà trong đó mọi ngành khoa học, cả tự nhiên lẫn nhân văn, và cả nghệ thuật, đều là những thành tố không thể tách rời của một cái toàn thể bất phân. Đó cũng lại là hậu hiện đại: Không còn sự chia cắt đầy võ đoán giữa một đằng là khoa học, một đằng là nghệ thuật, một đằng là tôn giáo. Không thấy sự phân chia giữa những thứ đó, mà cảm nhận nó như một toàn thể. Văn chương cũng có thể vậy, cần phải vậy. - Dịch giả, nhà vật lý Phạm Văn Thiều: “ Ấn tượng mạnh nhất của tôi là trước khi khép lại Nguồn gốc, tác giả đã dụng ý đặt bức ảnh lớn về một nhà sư ngồi thiền trước một vườn cát mênh mông Daisen-in, xây dựng đầu thế kỷ XVI, trong quần thể các đền Daitoku-ji ở Kyoto, Nhật Bản. Khu vườn dành cho nhà sư thiền định nhìn vào một khoảng trống ngang dọc những chuyển động sâu xa, mà chỉ những gợn sóng trên bề mặt của cát gợi ra. Cát trắng được cào hằng ngày và được vun thành 3 đống, trong đó một đống không bao giờ nhìn thấy được, bất kể vị trí của người ngồi chiêm nghiệm. Cuộc sống hiện đại với rất nhiều sức ép của nó đã khiến đa số chúng ta mải mê theo đuổi những tham vọng trần tục, chẳng còn thì giờ đâu để suy ngẫm về chính bản thân mình cũng như nguồn gốc của mình. Bức ảnh đó dường như nhắc nhở chúng ta nên nhớ rằng con người là báu vật mà tự nhiên đã biết bao khó nhọc mới tạo được ra nhưng cũng rất nhỏ nhoi trong khoảng mênh mông vô tận của vũ trụ. Hãy dành thời gian để suy ngẫm, để sống nhân ái và bao dung với đồng loại để xứng đáng với ân huệ to lớn mà tự nhiên đã ban tặng chúng ta”.
  17. VÔ THẦN, HỮU THẦN VÀ VŨ TRỤ HỌC BIG BANG Nguyễn Austin chuyển ngữ từ Atheism, Theism and Big Bang Cosmology (1991) QUENTIN SMITH nguồn http://www.qsmithwmu.com/atheism,_theism_a...logy_(1991).htm Từ sachhiem.net Đăng 19 tháng 10, 2009 LTS: Đối với người Á đông, nhất là ở thế hệ ngày nay, khái niệm về tôn giáo và khoa học là hai khái niệm khác biệt, khái niệm về khoa học không ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin tôn giáo, ngay cả tôn giáo tin vào Thượng đế mà họ mới quen biết trong mấy thế kỷ gần đây. Vô Thần hay Hữu Thần không có nghĩa gì với người Á Đông. Trái lại, người Âu Châu, vì toàn bộ nền văn hóa đã bị ảnh hưởng bởi niềm tin Thượng Đế cả mấy ngàn năm, hai khái niệm tôn giáo và khoa học thường đi đôi với nhau. Người ta lớn lên trong sự giao phó cho "bàn tay vô hình của một Thượng đế". Vì tôn giáo của họ từ lâu đã chễm chệ trên ngai vàng, thống trị độc quyền tất cả mọi giải thích về vũ trụ, cho nên mỗi khi khoa học tiến đến một bước xa ra ngoài hệ thống Thái Dương Hệ, thì người ta lại đặt vấn đề với tôn giáo. Chẳng may, mỗi ngày, khoa học cứ tiếp tục tiến tới gần tâm điểm của vũ trụ, và tôn giáo của họ cứ phải đương đầu với các bài tường trình khoa học. Để chống lại sự thắng thế của khoa học, tôn giáo của họ phân biệt và kỳ thị những người Vô Thần. Và do đó vấn đề Vô Thần, Hữu Thần trở nên rất quan trọng đối với họ. Bên lề của sự phát triển về khoa học, và đứng giữa các nhu cầu tôn giáo, triết học tồn tại như một thảo chương trung gian giữa sự vận hành vũ trụ và nhu cầu tư duy trừu tượng của con người. Bài viết sau đây đầu tiên đã được công bố trên tờ Triết học Australasian Journal tháng ba năm 1991 (Volume 69, No. 1, pp. 48-66). Bài này cũng đã đăng ở web Infidels.org. Đây là một công trình rất đáng ghi nhớ của dịch giả, vì có nhiều từ thuộc về cả hai lãnh vực triết học lẫn khoa học. Tuy nhiên, tòa soạn hoan hỉ đón nhận cao kiến của các học giả trong phạm vi chuyên môn của mình nếu cần để cho bài dịch hoàn hảo hơn. (SH) I. Mở đầu Ý tưởng mà thuyết Big Bang cho phép chúng ta luận đoán rằng vũ trụ bắt đầu tồn tại khoảng 15 tỷ năm đã lôi cuốn sự chú ý của nhiều nhà thần học. Lý thuyết này có vẻ như khẳng định hay ít ra là hỗ trợ cho luận thuyết thần học về sự sáng tạo ex nihilo. Thật vậy, sự gợi ý về một sự sáng tạo thần thánh dường như thuyết phục đến nỗi ý niệm về “ Thượng đế sáng tạo ra Big Bang” đã nằm trong nhận thức phổ thông và trở nên chủ yếu trong yếu tố thần học của một thứ “ lẽ thường tình đã được giáo dục (a)”. Ngược lại, câu trả lời của những người vô thần và những người theo thuyết bất khả tri đối với sự phát triển này lại ít nhiều khiếm khuyết, qùe quặt. Trong khi sự thuyết minh thần học về Big Bang nhận được cả sự tán thành phổ thông lẫn sự bào chữa nghiêm túc mang tính triết học (đặc biệt bởi William Lain Craig và John Leslie) thì sự diễn giải theo xu hướng vô thần vẫn còn nghèo nàn và chưa được phổ biến rộng rãI. Phần việc của bài viết này là lấp đầy khiếm khuyết đó và triển khai sự diễn giải vô thần này. Tôi sẽ lập luận rằng sự diễn giải theo xu hướng vô thần về Big Bang không chỉ là một ứng viên thay thế mà còn chính đáng, hợp lý hơn lối thuyết minh thần học. Thật vậy, tôi sẽ chứng tỏ rằng vũ trụ học Big Bang thực sự không tương thích với thần học Lý thuyết về nguồn gốc vũ trụ được gắn với lối diễn giảng thần học là lý thuyết cổ điển về Big Bang (còn được biết dưới tên gọi” Lý Thuyết Chuẩn về Big Bang”) dựa trên mô hình của Friedmann với ước đóan về nguồn gốc Big Bang là một điểm dị thường.Trong bài viết này tôi cũng sẽ lập luận trên lý thuyết này, bổ sung thêm Định lý Về Những Điểm Dị Thường và Nguyên Lý Hawking về Sự Không Biết Được. Nhưng chúng ta phải thận trọng về cách chúng ta xem xét ý nghĩa của lý thuyết cổ điển này. Chúng ta không thể nói rằng đây là ‘sự thực cuối cùng’ về vũ trụ, bởi vì nhiều nhà nghiên cứu về vũ trụ cho rằng lý thuyết cổ điển này một ngày nào đó sẽ bị thay thế bằng một lý thuyết lượng tử về vũ trụ dựa trên sự phát triển đầy đủ về lý thuyết hấp dẫn lượng tử. Trên cơ sở đó những lập luận trong bài viết này của tôi không thể được xem là ‘ Nếu lý thuyết cổ điển về Big Bang là đúng, Thượng đế không hiện hữu; lý thuyết cổ điển đúng, do đó Thượng đế không hiện hữu’. Đúng hơn, lý luận của tôi chỉ là sự hiện hữu của Thượng đế không tương thích với lý thuyết cổ điển về Big Bang. Tôi nhắm đến việc đưa ra một lập luận có gía trị về sự không hiện hữu của Thượng đế [và đó], không phải là thứ một lập luận hình thức bề ngoài. Cũng có một lý do thứ hai tại sao lý thuyết cổ điển về Big bang không thể xem là lý thuyết cuối cùng về vũ trụ. Có rất nhiều lý thuyết có tính cạnh tranh khác về vũ trụ hiện nay đang được xem xét, và một số trong những lý thuyết này ít ra cũng được khẳng định tốt như lý thuyết cổ điển khi nó được xem như ‘lý thuyết tốt nhất hiện nay đang có ’ và ‘ lý thuyết mà chúng ta tạm thời chấp nhận cho đến khi lý thuyết lượng tử về vũ trụ được khai triển hoàn tất’. Những lý thuyết cạnh tranh này bao gồm a/ Lý thuyết về nguồn gốc lạm phát vũ trụ của Guth, b/ Lý thuyết mới về lạm phát vũ trụ của Linde, Albrecht và Steinhardt, c/ Lý thuyết về lạm phát hỗn loạn của Linde, d/ Lý thuyết của Tryon,Gott, và những người khác về đa vũ trụ (trong đó vũ trụ của chúng ta chỉ là một) nổi lên như những ‘thăng giáng của chân không’ từ những trạng thái cơ bản của không- thời gian trống rỗng, e/ Lý thuyết của Hartle và Hawking trong đó hàm sóng vũ trụ là một hàm số của hình học 3 chiều không gian và không phụ thuộc vào chiều thứ tư-thời gian, f/ Lý thuyết của Everett về vũ trụ phân nhánh và nhiều lý thuyết khác đang được quan tâm. Để giữ cho bài viết này nằm trong giới hạn cho phép, tôi sẽ không xem xét đến những lý thuyết mới có tính cạnh tranh này mà chỉ hạn chế trong phạm vi lý thuyết cổ điển. Sự hạn chế này thích hợp với mục đích giới hạn của tôi là phản bác sự diễn giải thần học về lý thuyết cổ điển Big Bang. Trong phần II, tôi sẽ đi thẳng, theo cách thức không thiên về kỹ thuật, vào những khái niệm trong vũ trụ học. Trong phần III, tôi sẽ đưa ra những lập luận rằng những khái niệm này không tương thích với thần học. Trong phần IV-VI, tôi sẽ khẳng định và trả lời những phản biện về những lập luận này. II. Lý thuyết Big Bang về vũ trụ. Lý thuyết Big Bang phần lớn dựa vào lời giải của Friedmann cho cái gọi là phương trình Einstein là trọng tâm của Lý Thuyết Tương Đối Tổng Quát. Chi tiết của lý thuyết này có thể tìm thấy trong nhiều sách giáo khoa và chúng ta chỉ cần lướt qua (3) .Những ý tưởng mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây là Định lý về Những Điểm Dị Thường của Hawking-Penrose và đặc biệt là Nguyên Lý về sự Không Biết Được của Hawking. Định lý về Những Điểm Dị Thường được sử dụng để chứng tỏ rằng vũ trụ thực sự bắt đầu hiện hữu trong một vụ nổ Big Bang, vì kết luận này không thể chỉ được rút ra từ những lời giải của Friedmann và những khẳng định từ quan sát thực nghiệm. Lời giải của Friedmann chứng tỏ rằng nếu vũ trụ là đồng nhất một cách hoàn hảo (vật chất được phân bố hoàn toàn như nhau tại mọi điểm) và giãn nở, thì vũ trụ phải được giãn nở từ một trạng thái ban đầu trong qúa khứ khi bán kính của nó là zero và mật độ vật chất, nhiệt độ và độ cong là vô cùng lớn. Trạng thái ban đầu này là một dị thường, nó hàm ý rằng đó là điểm bắt đầu của không-thời gian; không có thời điểm trước thời điểm của dị thường vì thời điểm của dị thường (theo định nghĩa) là điểm bắt đầu của thời gian. Dị thường tồn tại trong thời gian rất ngắn rồi bùng nổ trong một vụ nổ lớn, vào lúc này vũ trụ có bán kính khác zero và một nhiệt độ, mật độ vật chất, độ cong nhất định. Sự dự đoán của Friedmann về một dị thường Big Bang đòi hỏi, như tôi nhấn mạnh, sự giả định về một vũ trụ đồng nhất tuyệt đốI. Vì vũ trụ của chúng ta không hoàn toàn đồng nhất nên dự đoán về một dị thường trong qúa khứ dường như không có gì bảo đảm mà giả định hợp lý hơn có vẻ như là vũ trụ của chúng ta bắt đầu giãn nở sau một giai đoạn co lại trước đó. giả định này được đa số các nhà nghiên cứu vũ trụ chấp nhận cho đến cuối thập niên 1960, khi Hawking và Penrose khai triển những Định Lý về Điểm Dị Thường của họ,những định lý này đưa ra những luận điểm chứng tỏ rằng vũ trụ của chúng ta ngay cả nếu như không đồng nhất một cách tuyệt đối cũng bắt đầu từ một điểm dị thưòng. Những định lý này khẳng định rằng một vụ nổ lớn dị thường là không thể tránh được vì 5 điều kiện sau đây, tất cả chúng đã được biện giải có gía trị đúng đắn trong vũ trụ: a. Lý thuyết Tương Đối tổng quát của Einstein có giá trị cho vũ trụ. b. Không có đường cong thời gian khép kín (nghĩa là thời gian du hành ngược về qúa khứ của một người là bất khả thi và nguyên lý nhân quả không bị xâm phạm) c. Trường hấp dẫn luôn luôn là lực hút (5) . d. Không-thời gian không có đối xứng qúa cao (nghĩa là bất kỳ một lộ trình không- thời gian nào của một hạt hay của ánh sáng cũng gặp vật chất hay có một độ cong có định hướng một cách ngẫu nhiên(6) . e. Có một số điểm p nào đó sao cho tất cả các lộ trình không -thời gian hướng về qúa khứ (hay tương lai) từ p sẽ bắt đầu hội tụ lạI. Điều kiện này hàm ý rằng trong vũ trụ có đủ lượng vật chất để hội tụ tất cả các đường không-thời gian hướng về qúa khứ (hoặc tương lai) xuất phát từ những điểm p nào đó. Lời giải của định lý Hawking-Rose trong trường hợp tổng quát chứng tỏ rằng có một điểm dị thường là giao điểm của tất cả các đường không- thời gian hướng về qúa khứ và tạo nên sự bắt đầu của thời gian. Như thế, những định lý này chứng tỏ rằng, theo chữ của Hawking, ngay cả những vũ trụ không hoàn toàn đồng nhất, ‘lý thuyết tương đối tổng qúat cũng tiên đoán một điểm bắt đầu của thời gian’ (7) . Định lý về các dị thường là cái nôi của vũ trụ học Big Bang nó ủng hộ sự khẳng định rằng có một Big Bang dị thường .Nhưng một phần của big bang vũ trụ học làm nền tảng cho những lập luận vô thần của tôi lại là những khái niệm về bản chất của điểm dị thường này. Khái niệm này nằm trong Nguyên Lý về Sự Không Biết Được của Hawking, nó khẳng định rằng những điểm dị thường này vốn đã hỗn loạn và không thể tiên đoán được. Theo cách nói của Hawking, dị thường là nơi mà tất cả những khái niệm cổ điển về không gian và thời gian cũng như các định luật Vật lý đã biết bị phá vỡ bởi vì tất cả đều hình thành dựa trên nền tảng của không-thời gian cổ điển. Trong bài viết này, điều được xác nhận là sự phá vỡ này không chỉ là kết quả của sự không biết một lý thuyết đúng mà nó còn biểu hiện cho thấy giới hạn cơ bản đối với khả năng tiên đoán tương lai của chúng ta, [giống như] một giới hạn tương tự nhưng bổ sung đã áp đặt bởi nguyên lý bất định của Cơ học lượng tử thông thường (8) . Một trong số những nguyên lý bất định của cơ lượng tử là : Δ p.Δq ≥ћ /4л Nó hàm ý rằng nếu vị trí q của một hạt được tiên đoán chính xác thì xung lượng của hạt đó sẽ không xác định và ngược lạI. Nguyên lý về sự Không Biết Được hàm ý rằng người ta không thể tiên đoán chính xác được cả vị trí lẫn xung lượng của các hạt phát ra từ những điểm dị thường (9) . Tất cả những gía trị khả dĩ của vị trí và xung lượng tương thích với những thông tin có giới hạn (nếu có) về vùng tương tác đều có xác suất như nhau. Nhưng Nguyên lý về Sự Không Biết được còn có những hệ quả sâu xa hơn. Nó cho biết rằng không có một giá trị vật lý nào của những hạt phát ra được tiên đoán chính xác. Điểm dị thường Big bang ‘ sẽ phát ra tất cả các cấu hình của những hạt với một xác suất như nhau’(10) . Nếu sự phát xạ từ điểm dị thường hoàn toàn không thể tiên đoán được thì chúng ta nên trông đợi sự tuôn phát ra hoàn toàn hỗn độn từ nó. Sự trông đợi này hoàn toàn tương thích với sự hiểu biết về nguồn gốc big bang của vũ trụ vào lúc khởi thủy, vì vũ trụ vào thời điểm này được biết như là đang ở trong một trạng thái có mức độ hỗn loạn tối đa (entropy cực đại) .Các hạt được phóng thích trong các trạng thái vi mô ngẫu nhiên, rồi dẫn đến một trạng thái vĩ mô toàn cục của sự cân bằng nhiệt. Hiểu được toàn bộ ý nghĩa của Nguyên Lý về sự Không Biết Được là một điều quan trọng . Nếu điểm dị thường Big bang cư xử theo một cách thức hoàn toàn không tiên đoán được, thì không có một định luật vật lý nào khống chế cách cư xử này.Không có định luật nào áp đặt những ràng buộc trên những gì nó có thể phát ra .Paul Davies đưa ra lời bình giải xác đáng ‘ mọi thứ đều có thể đi ra từ điểm dị thường trần trụi- [và trong] trong trường hợp Big bang thì vũ trụ đã xuất hiện’. Sự sáng tạo của nó biểu hiện sự đình chỉ nhất thời của các định luật vật lý, cái ánh chớp vô luật lệ loé lên đột ngột, bất ngờ đã cho phép mọi thứ xuất hiện từ chỗ không có gì (12) . Ở đây, ‘không có gì’ nên được hiểu một cách ẩn dụ như muốn ám chỉ một cái gì đó không thuộc về thể liên tục không-thời gian bốn chiếu; điểm dị thường không phải là một phần của thể liên tục này bởi vì nó chỉ chiếm ít hơn ba chiều không gian.Nhưng Davies đã chính xác theo nghĩa đen khi ám chỉ rằng điểm dị thường đã dẫn đến một trạng thái không luật lệ (vật lý) nhất thờI. Điểm dị thường này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi và trong khoảng thời gian này không thu được một định luật vật lý nào liên kết điểm dị thường này với những thời điểm sau đó. Cho trước những điều kiện ban đầu của dị thường cũng không có gì được tiên đoán về trạng thái tương lai của vũ trụ. Mỗi một cấu hình khả dĩ của các hạt đều có cùng xác suất được phóng ra từ điểm dị thường. (Nếu có vô hạn những cấu hình khả dĩ, thì thay vì phải nói đến mật độ xác suất cho mỗi cấu hình chúng ta phải nói và gán xác suất cho mỗi một số đếm được của những khoảng cấu hình khả dĩ ứng với một hàm phân bố thích hợp).Tại bất kỳ một thời điểm nào gần với thời điểm mà tại đó điểm dị thường hiện hữu, các định luật vật lý có mặt và chi phối những hạt thửc sự phát ra từ điểm dị thường. Điều này có nghĩa là đối với mọi cấu hình vật lý C nào đó có mặt tại một thời điểm gần với thời điểm có mặt của điểm dị thường mà từ đó C được phát ra, chúng ta sẽ thu được các định luật liên kết C với bất kỳ cấu hình nào có mặt sau đó, mà không thu được một định luật nào liên kết C với điểm dị thường trước đó. C sẽ thu nhận một sự tiến hóa theo qui luật nhưng nó có điểm khởi thủy trong trạng thái sơ khai không theo một qui luật nào cả. III. Những biện giải vô thần Tôi sẽ sử dụng những nội dung đã được gỉai thích ở phần trên của vũ tru học Big Bang làm cơ sở cho những lập luận vô thần của tôI. Trong phần này với sự bổ sung thêm 2 giả định thần học, tôi sẽ dẫn đến khẳng định rằng Thượng đế không hiện hữu. Theo sau cấu trúc của biện giải này, tôi sẽ xác nhận và trả lời cho những phản biện đối với những lập luận này (phần IV-VII) . Sức mạnh thật sự của những lập luận này chỉ trở nên hiển nhiên khi phần đáp trả cho những phản biện này được đưa vào. Hai giả định thần học tôi cần đến là: (1) Nếu Chúa hiện hữu và có một trạng thái trước E của vũ trụ, thì Chúa là kẻ sáng tạo ra E. (2) Nếu Chúa đã sáng tạo ra E, thì E phải chắc chắn hoặc là chứa sự sống trong đó hoặc sẽ dẫn đến những trạng thái mang sự sống. Gỉa định (2) là hệ quả của hai giả định thần học cơ bản khác : (3) Thượng đế là toàn trí, toàn năng và tuyệt đối nhân từ . (4) Một vũ trụ có sinh vật có gía trị hơn một vũ trụ không có sinh vật. Thật vậy, theo giả định (4) nếu Chúa đã tạo ra một vũ trụ mà không chắc nó sẽ hàm chứa những sinh vật trong đó, thì Chúa đã tạo ra một vũ trụ không chắc là loại vũ trụ có gía trị và như thế Chúa đã bị giới hạn trong lòng nhân từ, sức mạnh và sự toàn trí của mình. Điều này mâu thuẫn với giả định (3). Do đó giả định (2) là hệ quả của (3) và (4). Một số những ý tưởng khoa học như đã được trình bày trong phần trên, nhất là những định lý về các điểm dị thường của Hawking-Penrose đã cung cấp cho chúng ta một giả định chung sau đây: (5) Có một trạng thái sớm hơn của vũ trụ và đó chính là điểm dị thường Big Bang. Giả định (5) đòi hỏi một sự minh bạch về thuật ngữ ‘vũ trụ’. Bằng từ ngữ này, tôi muốn nói đến thể liên tục không-thời gian 4 chiều và bất kỳ một trạng thái n-chiều nào sớm hơn hoặc trễ hơn thể liên tục 4 chiều này. Vì vũ trụ có bán kính zero tại điểm dị thường, nên nó không là 4 chiều, nhưng vì điểm dị thường là một trạng thái sớm hơn thể liên tuc 4 chiều nên nó có thể xem như là trạng thái đầu tiên của vũ trụ (điều này sẽ được thảo luận sâu hơn trong phần VI). Những ý tưởng khoa học cũng cho chúng ta những giả định tóm tắt sau: (6) Trạng thái sớm nhất của vũ trụ là vô sinh vật vì điểm dị thường liên quan đến những điều kiện không ủng hộ sự sống như nhiệt độ, mật độ và độ cong vô cùng lớn. Một ý tưởng khoa học khác đã được đề ra trong phần trước, Nguyên lý về Sự Không Biết, cung cấp cho chúng ta một giả định tóm tắt khác: (7) Điểm dị thường BigBang vốn đã không tiên đoán được và không tuân theo một định luật nào và hệ quả là không có gì bảo đảm nó sẽ phát ra những cấu hình cực đại của các hạt sẽ tiến hóa thành những trạng thái ban đầu của sinh vật trong vũ trụ. (Một cấu hình cực đại của các hạt là một trạng thái đầy đủ của vũ trụ, vũ trụ như là một toàn thể vào một thời điểm) Giả định (5) và (7) đưa đến gỉa định sau: (8) Trạng thái sớm nhất của vũ trụ không chắc chắn dẫn đến một trạng thái có sinh vật của vũ trụ. Bây giờ chúng ta đến điểm then chốt của biện giảI. Dựa trên (2), (6) và (8) chúng ta có thể suy ra rằng : Thượng đế không thể tạo ra trạng thái sớm nhất của vũ trụ. Và do dó, theo giả định (1) : Thượng đế không hiện hữu. Bây giờ tôi sẽ đáp trả 4 phản biện đối với những biện giải vô thần này. IV. Phản biện 1: Chúa không đòi hỏi một vũ trụ có sinh vật. Phản biện này dựa trên một nguyên lý cho rằng không có một vũ trụ nào là tốt nhất trong số những vũ trụ khả dĩ. Bởi vì đối với mỗi vũ trụ U1, sẽ có một vũ trụ tốt hơn U2. Như vậy, sự kiện có một vũ trụ hiện hành tốt hơn những vũ trụ khác không chỉ tương thích với sự sáng tạo thần thánh mà còn là hệ quả của sự sáng tạo này. Và như vậy, phản biện này cho rằng, sự kiện một vũ trụ có sự sống thì tốt hơn vũ trụ vô sinh hoàn toàn tương thích với việc sáng tạo của Chúa như [đã làm trong] trạng thái sớm nhất của vũ trụ, rồi một điều gì đó tình cờ dẫn đến một vũ trụ không có sự sống. Giả định (3) và (4) không dẫn đến (2) và như thế lập luận vô thần thất bại. Để trả lời, trước tiên tôi lưu ý rằng nhiều nhà thần học đã khẳng định rằng có một vũ trụ tốt nhất trong số những vũ trụ khả dĩ và rằng Chúa bảo đảm rằng vũ trụ được Ngài tạo ra là tốt nhất. Lập luận của tôi hàm ý rằng ít nhất những lý thuyết thần học này đã sai lầm nhưng nó còn chống lại những lý thuyết thần học nào dẫn đến việc không có vũ trụ khả dĩ nào tốt nhất. Những lý thuyết thần học này, nếu tất cả chúng đều tương thích với cái điều bình thường vẫn được gọi là ‘Chúa’ và cái mà hầu hết các nhà thần học và triết học gọi là ‘Chúa’, đều phải áp đặt một điều kiện tối thiểu nào đó lên giá trị của vũ trụ do Chúa tạo ra. Tôi tin rằng tuyệt đại đa số các nhà thần học hoặc công khai hoặc hàm ý chấp nhận một điều kiện tối thiểu là vũ trụ chứa những sinh vật. Ý tưởng cho rằng Chúa không có lý do gì để tạo ra một vũ trụ có sự sống hơn là một vũ trụ vô sinh hoàn toàn không thích hợp với loại nhân vật mà chúng ta vẫn hình thành trong đầu là ‘Chúa’. Chúa trong truyền thống Do Thái- Kitô-Hồi giáo hiển nhiên là người bảo đảm rằng có sự sống trong vũ trụ mà ông ta sáng tạo. Đòi hỏi này phù hợp với những lý luận thần học của Swinburne, Craig, Leslie, Plantinga, Adams, Morris và tất cả hay hầu như tất cả những nhà thần học đương thời khác. Chẳng hạn như Swinburne đã định nghĩa ‘ vũ trụ có trật tự’ là những vũ trụ có đòi hỏi sự có mặt của những sinh vật và khẳng định rằng ‘ Chúa có lý do quan trọng hơn bất kỳ lý do nào khác để tạo ra một vũ trụ có trật tự nếu ông ta tạo ra một vũ trụ mà thôi’ (13) . Dựa theo khái niệm chuẩn về Chúa, giả định (3) và (4) cùng với giả định sau đây: (4A) Nếu Chúa chọn lựa để sáng tạo một vũ trụ, ông ta sẽ chọn tạo ra một vũ trụ có sự sống hơn là vũ trụ vô sinh. Như vậy dựa vào (4A), giả định (3), (4) suy ra (2) và lập luận vô thần vẫn có gía trị. V. Phản biện 2: Chúa có thể can thiệp để bảo đảm một vũ trụ có sự sống Phản biện 2 cho rằng sự không tuân theo một qui luật nào của điểm dị thường Big bang không tương thích một cách logic với sự hình thành của nó khi chính nó được bảo đảm bởi Chúa để phát ra những cấu hình cực đại của các hạt với mục đích tạo nên sự sống.Vì Chúa có thể can thiệp và áp đặt một cách siêu nhiên vào thời điểm của dị thường để nó phát ra một cấu hình tạo nên sự sống. Tôi tin rằng phản biện này không thích hợp với tính hợp lý của Thượng đế. Nếu Chúa có ý định tạo ra một vũ trụ có sinh vật vào một giai đoạn nào đó của lịch sử, thì đối với ông ta không có lý do gì lại bắt đầu một vũ trụ với điểm dị thường vốn đã không tiên đoán được. Thật vậy, điều này tuyệt đối không hợp lý. Đây là dấu hiệu của một kế hoạch thiếu năng lực để sáng tạo ra một cái gì đó như là trạng thái tự nhiên đầu tiên; và rồi đòi hỏi một sự can thiệp siêu tự nhiên ngay tức khắc để bảo đảm rằng nó sẽ đưa tới kết quả mong muốn. Điều hợp lý nhất phải làm là tạo ra một trạng thái nào đó dẫn đến một vũ trụ sản sinh ra sự sống bằng chính bản chất theo qui luật của trạng thái này. Câu trả lời cho phản biện 2 này có thể được khai triển trong bối cảnh của cuộc thảo luận về sự diễn giải về vũ trụ học Big bang của John Leslie. Leslie đã chỉ ra những số liệu hay những minh họa (‘những sự trùng hợp trong thời kỳ con người tồn tại’) để gợi ý rằng một vũ trụ có sự sống từ điểm dị thường Big Bang là điều hầu như không xảy ra (14). Có rất nhiều cấu hình cực đại khả dĩ của những hạt có thể phát ra từ điểm dị thường và chỉ có một số cực nhỏ của chúng, Leslie gợi ý, dẫn ngay đến những trạng thái có sự sống. Nhưng Leslie lập luận rằng tính chất không xảy ra này ủng hộ hơn là chống đối giả thiết về sự sáng tạo thần thánh (tôi muốn lưu ý rằng Leslie lập luận với khái niệm Thượng đế trong thuyết Plato mới (15) nhưng nó không tạo nên một sự khác biệt thực sự cho sự hiệu lực của những lập luận mà tôi sẽ dùng). Ông ta ám chỉ rằng, nếu chúng ta giả định rằng Thượng đế áp đặt sự bùng nổ của điểm dị thường theo hướng có xác suất cao- không có sự sống, hơn là hướng có khả năng thấp- dẫn đến sự sống, thì chúng ta có thể ‘minh bạch’ cái tính chất không xảy ra rất rõ ràng của một vũ trụ có sự sống tiến hóa từ điểm dị thường. Sự đơn giản đã dẫn của cách giải thích, gía trị đặc biệt của sự sống, và những tiền đề thích hợp khác được xét đến đã cho cách giải thích này một sự tin cậy. Nhưng nó thất bại khi xem xét đến những vấn đề đã được đề cập ở trên liên quan tới tính hợp lý và năng lực của Thượng đế, xuất hiện như những vấn nạn ở đây. Đối với tôi, có vẻ như giả định của Leslie rằng, điểm dị thường bigbang dẫn đến (nếu để tự nó tiến hoá một cách tự nhiên) một vũ trụ có sự sống là một điều gần như không thể xảy ra, lại không tương thích với kết luận rằng Thượng đế đã tạo nên điểm dị thường. Nếu Thượng đế đã tạo nên vũ trụ với mục đích làm cho nó có sự sống, thì thật là không logic chút nào khi ông ta đã tạo nên một cái gì đó như là trạng thái ban đầu của vũ trụ mà sự tiến hóa tự nhiên của nó sẽ chắc chắn dẫn đến những trạng thái không có sự sống. Nó không tương hợp với ý tưởng về một sự sáng tạo có hiệu qủa để tạo nên một thế giới sinh động trong đó sự sống xuất hiện khi trạng thái đầu tiên được hình thành và trạng thái này có xu hướng tự nhiên hướng đến một vũ trụ không có sự sống .Thông qua xu hướng này trạng thái đó đã bị mất tác dụng và bị bỏ qua bởi chính cái động lực tạo cho nó xu hướng đó. Hai định đề sau đây tỏ ra không tương thích một cách logic: (1) Thượng đế là người sáng tạo hợp lý, có năng lực và ông ta muốn tạo nên một thế giới có sự sống. (2) Thượng đế đã tạo ra một điểm dị thường như là trạng thái ban đầu của vũ trụ mà xu hướng tự nhiên của điểm dị thường này là hướng đến một thế giới không có sự sống. Vấn đề liên quan ở đây là vấn đề cốt lõi về sự can thiệp của Thượng đế, hay là một’sự hiệu chỉnh’ vào những sự sáng tạo thần thánh. Leslie đã ‘chống lại ‘ ý tưởng về ‘sự can thiệp thần thánh’ vào những qúa trình tự nhiên và không đồng tình với ý tưởng ‘ Thượng đế đôi khi can thiệp [vào thế giới tự nhiên] bằng sự thô bạo hữu ích (17) với ý định bảo đảm cho sự sống tiến hóa. Leslie cho rằng giả thuyết về sự can thiệp như thế có liên hệ đến một lý thuyết không đơn giản và chính vì lý do đó nó bị đánh gía thấp. Nhưng sự can thiệp như thế hoàn toàn lại là điều cần phải có cho chính những lập luận của ông ấy về sự tiến hóa của vũ trụ ban sơ. Lập luận của ông ấy không chỉ giả định rằng Thượng đế không chỉ can dự vào vụ nổ của điểm dị thường mà còn can thiệp vào sự tiến hóa sau đó của cấu hình cực đại các hạt được phát ra từ điểm dị thường này. Chẳng hạn như Leslie đề cập đến lý thuyết trong đó vũ trụ ban sơ đã trải qua một số ‘giai đoạn phá vỡ đối xứng tự phát’ trong khoảng 10-4 giây ban đầu sau Big Bang và trong những pha này 4 lực (hấp dẫn, tương tác mạnh, tương tác yếu và điện từ) trở nên tách biệt. Trong thời kỳ GUT (b.)(từ 10-43 giây sau dị thường đến 10-35 giây) lực hấp dẫn tách ra khỏi lực tương tác mạnh-yếu. Trong giai đoạn tương tác yếu (từ 10-35 đến 10-10 giây) lực tương tác mạnh tách ra khỏi lực tương tác yếu. Trong thời kỳ hạt quark tự do hình thành (từ 10-10 đến 10-4 giây) lực điện từ tách ra khỏi lực tương tác yếu. Mỗi sự phân tách như vậy là một phá vỡ đối xứng (sự thống nhất của hai hay nhiều lực) và mỗi đối xứng bị phá vỡ theo cách thức ngẫu nhiên. Thực ra mà nói, điều này có nghĩa là độ lớn của bốn loại lực được xác định theo cách thức ngẫu nhiên vào thời điểm mà chúng tách ra. Điều này có ý nghĩa, Leslie đã chỉ ra rằng, bởi vì chỉ có một phạm vi rất nhỏ những gía trị của các lực này là tương thích với một vũ trụ ủng hộ sự sống. Chẳng hạn như, nếu gía trị hiện thời của hằng số tương tác yếu (aW# 10-11) nhích lên một tí thì, các siêu lân tinh sẽ không thể phóng ra những vật chất nặng rất cần thiết cho những cơ thể sinh vật. Nếu các gía trị này nhỏ hơn một chút thì khí hydrô sẽ không hình thành và hệ quả là không có một ngôi sao và hành tinh nào có thể tiến hóa. Những xem xét tương tự cho các lực hấp dẫn, điện từ và tương tác mạnh cũng đều đúng như thế. Trong những điều kiện này, Leslie tiếp tục, tuyệt đối không thể xảy ra trường hợp(18) những giai đoạn phá vỡ đối xứng này lại dẫn đến phạm vi rất hẹp của các giá trị được đòi hỏi cho một vũ trụ ủng hộ sự sống. Tính chất không thể xảy ra này chỉ có thể bị loại bỏ nếu chúng ta giả định rằng những gía trị này không được chọn lọc bởi những qúa trình tự nhiên mang tính ngẫu nhiên mà được ‘chọn lọc bởi Thượng đế’. Nhưng điều này đòi hỏi sự can thiệp thần thánh trên tầm mức sâu hơn vào sự tiến hóa của vũ trụ. Thượng đế phải can thiệp vào chính sự sáng tạo của mình ở điểm dị thường Big Bang để bảo đảm nó phóng ra những cấu hình cực đại của các hạt có khả năng trải qua những giai đoạn phá vỡ đối xứng, và rồi trong suốt giai đọan thống nhất lớn để chắc chắn rằng lực hấp dẫn khi tách biệt phải có một độ lớn đúng, và rồi lại can thiệp trong giai đoạn tương tác yếu để bảo đảm rằng lực tương tác mạnh có giá trị đúng, và rồi lại, lại nữa trong giai đoạn hình thành hạt quark tự do phải chắc chắn rằng lực điện từ và lực tương tác yếu phải nhận được gía trị đúng của chúng. Đây chỉ là một số những can thiệp bị đòi hỏi (tôi không nói đến, chẳng hạn như, những can thiệp phải có để bảo đảm cho những hạt cơ bản nhận được khối lượng đúng của chúng). Nhưng tại sao Leslie lại nghĩ rằng lập luận của ông ta đã tránh được những lý thuyết phức tạp, đáng ngờ về sự can thiệp thần thánh được lập đi lập lại vào những qúa trình tự nhiên? Bởi vì ông ta đã qui định rằng sự ấn định của Thượng đế trên những gía trị của các hằng số không phải là những trường hợp được gọi là can thiệp. Ông ta định nghĩa can thiệp như là thêm, bớt vào những khía cạnh không cơ bản của thiên nhiên (chẳng hạn như tạo ra những cơ quan động vật riêng lẻ) (19) .Nhưng qui định này qúa hàm hồ. Nếu sự can thiệp của Thượng đế vào sự phát xạ các hạt của điểm dị thường và vào những giai đoạn phá vỡ đối xứng không phải là những thí dụ về sự can thiệp của Thượng đế vào những trạng thái và những qúa trình tự nhiên, thì tôi hoàn toàn không biết nó là cái gì. Leslie gợi ý rằng ý niệm sự can thiệp thần thánh vào các qúa trình tự nhiên là không rõ ràng vì nó không đơn gỉan bằng ý tưởng rằng Thượng đế để cho thiên nhiên tiến hóa theo cách của nó. Nhưng đối với tôi dường như có một vấn đề cơ bản hơn với ý niệm này, ít ra là khi áp dụng vào kịch bản của Leslie. Ý niệm này, trong kịch bản của Leslie, hàm ý rằng vũ trụ mà Thượng đế sáng tạo ra vụng về đến nỗi mà nó cần đến sự can thiệp nhiều lần của Ngài để lèo lái nó ra khỏi những tai họa và hướng nó đến những trạng thái tạo ra sự sống như mong đợI. Thượng đế đã tạo ra một vũ trụ vào lúc đó và rồi lại hướng đến một kết quả hoàn toàn trái ngược với cái mà Ngài muốn và chỉ bằng sự can thiệp vào sự tiến hóa tự nhiên Ngài mới chắc chắn rằng nó sẽ dẫn đến kết quả Ngài mong muốn. Tuy nhiên điều này mâu thuẫn với nguyên lý rằng Thượng đế không phải là một kẻ vụng về (‘ một nhà Sáng Tạo có năng lực không tạo ra những thứ mà ngay tức khắc hoặc sau đó ông ta cần phải chỉnh đốn’) Tôi cũng nên làm rõ rằng ý tưởng chủ đạo trong lập luận của tôi rằng không phải Thượng đế không có năng lực nếu Ngài tạo ra một vũ trụ mà chính Ngài phải vi phạm những qui luật của nó một khi những ý định của Ngài được thực hiện, mà tôi cho rằng Ngài thiếu năng lực nếu tạo ra một vũ trụ đòi hỏi sự can thiệp của chính Ngài một khi những ý định của Ngài được thực hiện. Một sự can thiệp thần thánh vào những biến cố tự nhiên được suy ra từ, nhưng không dẫn đến, một sự vi phạm thần thánh vào các định luật tư nhiên, bởi vì Thượng đế có thể can thiệp vào những biến cố (chẳng hạn như vụ nổ của điểm dị thường) không bị chi phối bởi các luật tư nhiên. Như vậy phản biện khả dĩ đối với lập luận của tôi là ‘nếu các định luật vật lý chi phối sự tiến hóa của vũ trụ, thì Thượng đế có thể áp đặt vũ trụ tiến hóa đến trạng thái có sự sống mà không vi phạm đến các định luật vật lý’ đã hiểu sai ý chính, đó là sự can thiệp chứ không phải sự vi phạm mới là vấn đề. Tuy nhiên nếu chúng ta thừa nhận kịch bản của Leslie, thì chúng ta có thể nói không những có sự can thiệp mà còn có sự vi phạm, bởi vì trong kịch bản của ông ta có những định luật mang tính xác suất chi phối sự tiến hóa sơ khai của vũ trụ (bao gồm những giai đoạn phá vỡ đối xứng) và Thượng đế đã đình chỉ (nghĩa là vi phạm) các định luật này để đảm bảo cho những kết quả tạo ra sự sống. Kết luận của tôi là thế này .Có vô số trạng thái ban đầu khả dĩ hợp lý của vũ trụ dẫn đến những trạng thái có sự sống bằng sự tiến hóa tự nhiên, theo qui luật và nếu Thượng đế tạo ra vũ trụ thì ông ta có thể chọn lọc một trong những trạng thái này. Vì rằng trạng thái ban đầu được ấn định bởi vũ trụ học Big Bang không phải là một trong những trạng thái này, điều này dẫn đến sự kiện là vũ trụ học Big Bang không tương thích với giả thuyết về một sự sáng tạo thần thánh (20). VI. Phản biện 3: Điểm dị thường là một hư cấu lý thuyết. Những nhà thần học có thể cố gắng tránh né những khó khăn về một trạng thái ban đầu không tiên đoán được và một sự can thiệp thần thánh bằng cách cho rằng trạng thái ban đầu của vũ trụ không phải là một điểm dị thường không tiên đoán được. Nhà thần học vẫn tiếp tục công nhận vũ trụ học Big Bang với qui định cho sự diễn giải của lý thuyết này là : thực tại bị cấm trong điểm dị thường. Những qui định này dựa trên một tiêu chuẩn về sự tồn tại vật lý mà điểm dị thường không thoả tiêu chuẩn đó và chỉ có vụ nổ Big bang mới đúng là một thực tại vật lý. Những tiêu chuẩn này cho phép nhà thần học chỉ xem vụ nổ Big bang, mà không phải là điểm dị thường, như là trạng thái đầu tiên của vũ trụ. (Nhưng bây giờ thì chữ ‘trạng thái’ phải được hiểu như là một trạng thái tạm thời được kéo dài trong một thời gian nào đó hơn là một trạng thái nhất thời vì vụ nổ Big bang kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định). Vụ nổ Big bang bị chi phối bởi các định luật vật lý và vụ nổ này được dẫn dắt bởi sự tiến hóa tự nhiên, theo qui luật để đưa đến một trạng thái khác của vũ trụ có chứa sinh vật. Vấn đề Chúa đã sáng tạo ra một trạng thái nào đó hoàn toàn không tiên đoán được như là trạng thái đầu tiên, bây giờ đã được tránh né và các nhà thần học đã có khả năng gán cho Thượng đế những cư xử hợp lý trong việc sáng tạo ra một cái gì đó như là trạng thái đầu tiên ; nó tiến hóa một cách tự nhiên để trở thành một vũ trụ có sự sống. Để đáp trả phản biện 3 này tôi sẽ bỏ qua những vấn đề về những giai đoạn phá vỡ đối xứng không tiên đoán được mà Leslie đã đưa vào trong kịch bản của ông ấy và việc này dường như làm hồi sinh giả thuyết cho rằng vụ nổ Big Bang tiến hóa đến những trạng thái có sự sống một cách có thể tiên đoán được. Mặc dù ngày này các giai đoạn phá vỡ đối xứng này được chấp nhận rộng rãi- nhưng không phải là toàn bộ; nhưng những giai đoạn này không được suy ra từ vũ trụ học Big bang cổ điển và như thế việc đưa những giai đoạn này vào [những lập luận ] để phê phán những lối diễn giải thần học về vũ trụ học là hoàn toàn không thích đáng [vì] bản thân những diễn giải này không dùng đến chúng. Do đó để trả lời cho phản biện 3 tôi sẽ không lập luận rằng vẫn có những sự bất khả tiên đoán ngay cả khi điểm dị thường bị bỏ qua và thay vào đó tôi sẽ lập luận rằng không có sự biện minh nào cho việc chối bỏ điểm dị thường với sự bất khả tiên đoán của nó. Tôi xin bắt đầu bằng việc lưu ý rằng sự mô tả và định nghĩa điểm dị thường Big Bang, như là một sự lý tưởng hóa, không thuộc về chính Vũ trụ học Big Bang và như thế cần phải có những lập luận triết học độc lập, mạnh mẽ biện minh cho quan điểm này về điểm dị thường [đã bị bỏ qua]. Vũ trụ học Big bang giới thiệu điểm dị thường như là một loại duy nhất về thực tại, điểm dị thường vật lý, nhưng dù vậy nó cũng là thực. Điều này được chứng tỏ bởi sự kiện rằng những đường không-thời gian hướng về qúa khứ trong vũ trụ sơ khai không được vẽ trên những khoảng nửa mở [trên khoảng đó] có thể tiến đến gần bất kỳ nhưng không bao giờ đến được giới hạn lý tưởng, mà nó được dựng trên những khoảng đóng mà một trong những điểm biên chính là điểm dị thường. Theo ngôn ngữ của Penrose, ’ nét đặc trưng chủ yếu của điểm dị thường không gian ở qúa khứ [điểm dị thường Big Bang] đó là nó cung cấp một điểm biên kỳ dị ở qúa khứ cho những đường cong thời gian kéo dài ở vô tận khác’(21).(đường cong thời gian chính là các qũi đạo không gian của các hạt). Theo cách nói của Geroch và Horowitz, những lộ trình không-thời gian hướng về qúa khứ hội tụ không như người ta nghĩ là chỉ tiến đến cùng một điểm kỳ dị với một khoảng cách nhỏ tùy ý, mà thật ra chúng’ hội tụ tại cùng một điểm dị thường’(22) và điều này đòi hỏi sự tồn tại vật lý của điểm dị thường.Hơn nữa, điểm này được các nhà vật lý cho rằng đã có mặt sớm hơn thời điểm của vụ nổ Big Bang. Penrose đã nói rõ ràng về quan điểm chung này rằng trong trường hợp một vũ trụ xác định chúng ta có thể nghĩ đến sự di thường ban đầu như là một điểm duy nhất....[nó] sinh ra vô số những miền không có liên hệ nhân quả vào thời điểm kế tiếp (23), một khái niệm rõ ràng đã dẫn đến những thực tại vật lý, mang yếu tính thời gian của sự dị thường ban đầu. Từ sự biểu thị mang tính chất thực của dị thường, các nhà thần học quả thực phải có những lý do mạnh mẽ để ủng hộ cho sự diễn giải sự dị thường chỉ đơn thuần là một sự lý tưởng hóa. Họ phải thiết lập một tiêu chí thuyết phục nào đó về sự hiện hữu vật lý và phải chứng tỏ rằng dị thường không thỏa mãn tiêu chí này. Điều này đã được William Lane Craig cố gắng làm thử. Craig lập luận rằng không có một đối tượng vô cùng phức tạp nào có thể được xem là thực và sự dị thường không thể thực vì nó có những gía trị vô hạn, chẳng hạn như mật độ vật chất vô hạn, ‘ không có một vật thể nào trong thế giới thực có mật độ vô hạn, bởi vì nếu nó đã có một khối lượng nào đó thì nó không thể có mật độ vô hạn’(24). Những lập luận của Craig chống lại những thực thể vô hạn trong tác phẩm của ông ta nhắm vào việc chứng tỏ rằng không có một thực thể nào có thể tương ứng với những phần tử trong tập hợp siêu hạn của Cantor © . Trong một bài viết trước đây (23) tôi đã phản bác lập luận này của Craig nhưng ở đây tôi xin phép được chứng tỏ rằng ngay cả như nếu những lập luận của ông ta có cơ sở, chúng cũng không được xem là chống lại thực thể của dị thường Big bang. Khi nói rằng dị thường Big Bang có mật độ vô hạn, nhiệt độ vô hạn và độ cong vô hạn cũng không nói được rằng sự dị thường có những phần hoặc những tính chất tương ứng với một tập hợp có lực lượng aleph-zero (d) hay aleph-một. Đúng hơn ba đại lượng này được bao hàm và từng đại lượng tương thích với sự loại trừ của Craig về các thực thể [trong lý thuyết của ] Cantor : Lý thuyết trong đó có một dị thường vô hạn hàm ý, trước tiên, rằng tại một thời điểm bất kỳ nào rất gần với dị thường Big bang mật độ, nhiệt độ và độ cong của vũ trụ có những gía trị xác định rất lớn nào đó. Những gía trị này trở nên ngày càng cao khi ta càng đi ngược trở lại dị thường, sao cho đối với mỗi gía trị cao xác định này luôn luôn có một thời điểm mà tại đó mật độ, nhiệt độ, độ cong của vũ trụ nhận những giá trị đó. Kế đến, lý thuyết về dị thường vô hạn hàm ý rằng khi tiến đến dị thường thì các gía trị này tiến đến vô hạn. Nhưng điều này không có nghĩa là mật độ, nhiệt độ, độ cong có những gía trị liên quan đến các số N0,N1 . Hãy xem xét mật độ, đó là tỷ số của khối lượng cho một đơn vị thể tích (mật độ = khối lượng/thể tích). Nếu vũ trụ xác định và dị thường là một điểm duy nhất, thì vào thời điểm ban đầu toàn bộ khối lượng của vũ trụ bị nén lại trong một vùng không gian có thể tích là zero. Mật độ của điểm này là n/0 trong đó n cực kỳ lớn nhưng là số kilôgam xác định khối lượng của vũ trụ. Bởi vì chia một số cho 0 là không có ý nghĩa, nên tỷ số khối lượng cho một đơn vị thể tích có một gía trị không có ý nghĩa và không đo được và trong ý nghĩa này nó là vô tận. Cho dù các triết gia thường hay hiểu lầm về cách sử dụng từ ‘vô hạn’ này của các nhà vật lý. Cách dùng thông thường này được Milton Munich nắm bắt thật rõ ràng trong bài thảo luận gần đây của ông ta về lý thuyết Big bang. Ông ta lưu ý rằng- mật độ của vật chất đồng nhất là tỷ số khối lượng ứng với một đơn vị thể tích-chẳng hạn như- gam ứng với một cm3, cho thể tích của vũ trụ bằng không và sự bảo toàn của khối-năng lượng của vũ trụ [ vào dị thường Big bang], thì không có gía trị xác định nào cho tỷ lệ này (việc chia cho 0 bị cấm) . Đó là cách diễn đạt bình thường khi nói rằng mật độ trở nên vô hạn . Chính xác hơn có lẽ phải nói là ý nghĩa chuẩn mực của ‘mật độ’ không được sử dụng trong tình huống này. Mật độ không được gán cho một gía trị xác định đo được như trong mọi trường hợp chuẩn mực khi áp dụng khái niệm này (26). Thứ ba là, lý thuyết về dị thường vô hạn hàm ý rằng, không gian của dị thường theo phép biến đổi tôpô đã biến thành không gian ba chiều của vũ trụ vào lúc nổ Big bang. Một khái niệm quen thuộc trong ngành toán học về tôpô là một không gian với tính chất tôpô của một điểm có thể biến đổi thành một không gian tôpô 3 chiều xác định. Phép biến đổi tôpô của không gian 0-chiều thành không gian 3-chiều chính xác là vụ nổ big bang. Nhưng ở đây tôi không nói rằng không gian 0-chiều là đồng phôi (homeomorphic) với không gian 3-chiều, trong đó nếu X là một không gian đồng phôi với Y khi tồn tại một ánh xạ song ánh f liên tục từ X vào Y sao cho ánh xạ ngược f-1 cũng liên tục. Đúng hơn tôi muốn nói rằng không gian với tính chất tôpô của một điểm được giả định rằng, vào một thời điểm sau đó, sẽ có tính chất tô pô của một không gian 3 chiều xác định. Một phép biến đổi tôpô như thế là khả dĩ nhưng không thể nào tồn tại một không gian với tính chất tô pô của một điểm lại có thể biến đổi thành một không gian 3 chiều vô hạn vào một thời điểm sau đó (ở đây chữ ‘vô hạn’ được dùng trong ý nghĩa trong tập hợp của Cantor). Nếu vũ trụ của chúng ta là vô hạn, thì dị thường big bang phải chứa vô hạn các điểm và như thế nó ít nhất phải là không gian 1-chiều, với mỗi một điểm sẽ bùng nổ theo một phép biến đổi tôpô thành những miền 3-chiều xác định khác nhau. Paul Davies nhận xét rằng, nếu vũ trụ là xác định, người ta có thể giả sử rằng toàn bộ vũ trụ bắt đầu bị nén từ một điểm. Ngược lại, nếu không gian là vô hạn, chúng ta sẽ có một vấn đề toán học rất tế nhị về sự xung đột của các vô hạn, vì một không gian gĩan nở một cách vô hạn lại bị nén một cách vô hạn tại điểm khởi đầu Big bang. Điều này có nghĩa là, với mỗi một thể tích xác định trong vũ trụ hiện nay mà người ta có thể chọn kích thước của nó lớn bất kỳ, đều có thể được nén thành một điểm đơn nhất vào thời điểm bắt đầu. Tuy nhiên hoàn toàn không đúng nếu nói rằng tất cả các vũ trụ đã cùng ở một điểm, rồi thì một không gian với tô pô của một điểm bỗng dưng biến đổi và nhận tính chất tô pô của một không gian vô hạn. Phải thừa nhận rằng ý niệm trong đó điểm dị thường là thực không nằm trong sự phê bình của Craig, bởi vì nó không phải là ‘vô hạn’ theo ý nghĩa của Cantor, nhưng có thể biện giải rằng khái niệm về dị thường bị khiếm khuyết vì những lý do khác. Chẳng hạn như, làm thế nào để toàn bộ khối lượng của vũ trụ xác định lại có thể bị nén thành một điểm? Khối lượng 3 -chiều còn điểm thì 0-chiều, điều này gợi lên mâu thuẫn. Nhưng đây là một sự hiểu saI. Khối lượng bị nén thành một điểm không phải là khối lượng 3-chiều thông thường, mà là khối lượng bị nén một cách vô hạn, điều này hàm ý rằng nó đã mất đi thuộc tính 3 chiều của nó và được gán cho số chiều của điểm. Khẳng định rằng vào thời điểm của dị thường, n kilôgam khối lượng bị nén một cách vô hạn vào thể tích zero, một phần hàm ý rằng: (i) vào thời điểm đó không tồn tại khối lượng 3-chiều, (ii) vào thời điểm đó chỉ tồn tại khối lượng 0-chiều, (iii) điểm này sau đó nhận tính chất tôpô của không gian 3 chiều’ (iv) không gian 3 chiều này sau đó được lấp đầy bởi n kilôgam khối lượng. Dĩ nhiên điểm dị thường này có thể có tính chất tôpô của không gian 3 chiều chứa bất kỳ khối lượng xác định nào-số kilôgam hiện thời n chỉ được ‘chọn lựa’ một cách ngẫu nhiên từ một số khả năng- và đó chính là một trong những lý do tại sao mà dị thường này hoàn toàn không tiên đoán được. Như vậy, tôi tin rằng, không có lý do chính đáng nào để chối bỏ điểm dị thường Big Bang và thuộc tính không thể tiên đoán được của nó. Nếu Craig biện minh cho giả định này là đúng, thì đó là một vấn đề không hợp lý thuộc ‘bản thể” của cấu trúc toán học. Ông ta phải cung cấp một lý do nào đó để củng cố cho khẳng định này hơn là những lập luận chống những đại lượng vô hạn của Cantor. Khẳng định có liên hệ, gần đây nhất của ông ta là ‘ một trạng thái vật lý trong đó tất cả chiều không gian và thời gian là zero là một sự lý tưởng hoá trong tóan học và không có ý nghĩa về bản thể học’(28) để ủng hộ cho giả định của mình [nhưng] đó là một khẳng định dễ dãi và đáng bị từ bỏ vì sự nghi ngờ này không có cơ sở về những luận đề khoa học đã được chấp nhận rộng rãi. VII. Phản biện 4: Từ tính chất "không tiên đoán được" không thể suy ra rằng không có cái biết của Chúa. Tôi nói rằng dị thường Big bang là không tiên đoán được. Điều sau đây đã bị phản bác: Sự kiện mà chúng ta không thể tiên đoán những gì sẽ sản sinh ra từ dị thường là tương thích với việc Thượng đế có khả năng biết trước được những gì sinh ra từ nó. Chúa là toàn trí, hàm ý rằng ông ta có thể biết mọi sự mà con người không thể biết được. Tuy vậy, phản biện 4 này lại dựa trên một số giả định đáng ngờ mà một trong những giả định này có liên quan đến ý nghĩa của chữ ‘ khCác tiên đoán được’ khi nó được sử dụng trong việc xây dựng Nguyên Lý Không Biết Được của Hawking. Ý nghĩa chính ở đây là sự không thể tiên đoán được về nguyên tắc và nó dẫn đến, nhưng hoàn toàn khác biệt, sự không thể tiên đoán được bởi chúng ta . Cụm từ ‘ về nguyên tắc’ được thêm vào để chỉ rằng tính chất không thể tiên đoán được là do sự kiện là không có luật tự nhiên nào chi phối (những) trạng thái . Nếu điều gì đó đơn giản không tiên đoán được chỉ bởi chúng ta thì điều này tương thích với cách nói rằng nó bị chi phối bởi một luật tự nhiên mà con người không thể biết được .Tuy nhiên, nếu có một sự không thể tiên đoán được ‘về nguyên tắc’, thì [phải hiểu là] không có luật tự nhiên nào được biết đến, bởi Chúa hay bởi bất kỳ một kẻ nào. Bởi vì không có luật tự nhiên nào chi phối dị thường, Chúa cũng không có cơ sở nào để tính toán xem cái gì sẽ nổi lên từ dị thường. Như Davies đã nói, sự tồn tại nhất thời của dị thường và vụ nổ Big bang sau đó chỉ là ‘ánh chớp đột ngột của sự vô luật lệ’. Một số người cho rằng’sự không thể tiên đoán được về nguyên tắc’ như đã được dùng trong Cơ luợng tử (và ngay trong lý thuyết của Hawking một phần dựa trên Cơ lượng tử) nên được diễn giải cùng ý nghĩa với ‘ sự không thể tiên đoán được bởi chúng ta’, bởi vì sự diễn dịch đáng tin cậy nhất trong cơ lượng tử (theo trường phái Copenhagen ) lại là phản thực tế (anti-realist) . Nhưng khẳng định này, mặc dù có lẽ đã được biện minh dựa trên một giả định cũ rằng sự diễn giải của Everett là sự diễn giải thực tế duy nhất tương thích với cơ lượng tử, nhưng ngày nay nó không còn được biện minh nữa, bởi vì đã có một số diễn giải hợp lý, thực tế được khai triển gần đây, chẳng hạn như sự diễn giải ‘mô hình phân nhánh’ của Storrs McCall(29) . Tuy nhiên sự tham dẫn về một sự diễn giải [mang tính chất ] thực cho sự không thể biết được của dị thường đã không tạo nên công lý cho phản biện rằng ‘ [từ] sự không thể tiên đoán được [ ta ] không suy ra rằng không có cái biết của Chúa’ . Vì những người đưa ra phản biện này đã cho rằng Chúa có thể ‘ biết trước’ kết quả của vụ nổ dị thường ngay cả như không có định luật nào mà Ngài có thể dựa vào đó để hình thành một tiên đoán . Họ nói rằng khi Chúa biết, môt cách logic là trước sự sáng tạo, những quyết định tự do mà con người có thể đưa ra nếu họ ở trong một hoàn cảnh như thế, thì Ngài [phải] biết, một cách logic ngay trước sự sáng tạo, cái cách mà dị thường bùng nổ nếu nó đúng là trạng thái đầu tiên của vũ trụ. Nhà thần học có thể viện dẫn rằng bên cạnh những loại quen thuộc về mệnh đề nhân quả giả định(e), chúng ta có thể đưa vào một kiểu ‘ mệnh đề nhân quả giả định mới về những dị thường’, một trong những mệnh đề này là : (1) Nếu một dị thường Big Bang là trạng thái đầu tiên của vũ trụ, thì dị thường này phải phóng ra những hạt có cấu hình tạo nên sự sống. Nhà thần học cho rằng một cách logic (1) là đúng trước sự sáng tạo, và rằng sự hiểu biết ngay trước sự sáng tạo của Chúa về (1) được dùng như lý do của Ngài cho sự sáng tạo một vũ trụ với dị thường Big Bang. Nhưng lập luận này không hợp lý, vì giả thiết rằng (1) đúng một cách logic trước sự sáng tạo hoàn toàn không tương thích với những thuộc tính về ngữ nghĩa của những mệnh đề nhân quả gỉa định. Jonathan Bennett và Wayne Davies đã chứng tỏ rằng (30) những mệnh đề nhân quả giả định là đúng nếu và chỉ nếu tiền đề và hậu đề đều đúng trong một thế giới khả dĩ giống với thế giới hiện hành nhất, trước thời gian được chỉ rõ trong tiền đề . Điều này cho thấy rằng không một điều kiện khả dĩ nào trong (1) được thoả , vì thời gian được chỉ rõ trong tiền đề của nó là thời điểm sớm nhất. Tuy vậy, các nhà thần học không cần phải chấp nhận lý thuyết của Bennett-Davies về những mệnh đề nhân quả giả định .Họ có thể chấp nhận một trong những lý thuyết của Robert Stalnaker, Richmond Thomason và Frank Jackson (31), theo đó thì một mệnh đề nhân quả giả định là đúng khi và chỉ khi cả hai tiền đề và hậu đề của nó đều đúng trong một thế giới khả dĩ mà toàn bộ lịch sử của nó giống với thế giới hiện nay nhất. Hoặc là họ có thể chấp nhận lý thuyết của David Lewis (32) rằng, một mệnh đề nhân quả giả định là đúng nếu và chỉ nếu một thế giới nào đó có cả tiền đề và hậu đề đều đúng và trong toàn bộ lịch sử, nó giống thế giới hiện nay hơn bất kỳ một thế giới nào có tiền đề đúng nhưng hậu đề sai. Nhưng những lý thuyết về mệnh đề nhân quả giả định này chẳng có hiệu quả nào bởi vì toàn bộ chúng đều dẫn ra rằng một mệnh đề là đúng chỉ khi có một thế giới hiện hành được dùng như một ‘đối tượng có liên hệ’ (f) của mối quan hệ tương đồng. Theo lý thuyết của Bennett-Davies, đối tượng có liên hệ là tất cả những trạng thái của thế giới hiện nay cho đến một thời điểm nào đó và theo lý thuyết của Stalnaker, Lewis và những người khác thì đối tượng có liên hệ là tất cả những trạng thái của thế giới hiện nay. Bởi vì (1) được giả định là đúng một cách logic vào trước sự sáng tạo, những điều kiện về sự đúng đắn của nó không bao gồm tất cả trạng thái (hay là tất cả các trạng thái vào một thời điểm nào đó) của thế giới hiện nay và điều này mâu thuẫn với những đòi hỏi về những điều kiện đúng đắn của một mệnh đề nhân quả giả định. Tuy vậy những nhà thần học quen với những bài viết của William Le Craig có thể đưa ra một câu trả lời cho lập luận này. Craig không thảo luận về ‘mệnh đề nhân quả giả định cho những dị thường’ mà lại thảo luận về mệnh đề nhân quả giả định cho sự tự do và một số lập luận của ông ta đã được những người bảo vệ (1) vay mượn . Để đáp trả phản bác rằng không có một thế giới hiện hành, có trước sự sáng tạo một cách logic có liên hệ đến những mệnh đề nhân quả giả định về sự tự do lại có thể được đánh gía là thực, Craig cho rằng trước sự sáng tạo một phần thế giới của chúng ta là thực, chẳng hạn như phần có chứa những tình huống hợp lý cần thiết và những mệnh đề nhân quả giả định có liên quan đến những quyết định tự do của sinh vật. ’ Bởi vì những tình huống thích hợp là có thực, [nên] người ta có thể khẳng định cả hai điều: triết thuyết về sự hiểu biết trung gian của Chúa [ nghĩa là Chúa biết những mệnh đề nhân quả giả định về sự tự do trước sự sáng tạo] và sự giải thích hiện nay về những gì có ý nghĩa để một mệnh đề nhân quả giả định là đúng đắn : trong những thế giới khả dĩ giống với thế giới hiện hành nhất (đến mức độ như là nó hiện hữu vào lúc [hợp lý] trước [ sự sáng tạo] và trong mệnh đề đó tiền đề đúng, và hậu đề của nó cũng đúng ‘ (33) .Nhưng câu trả lời này không đứng vững, bởi vì những gỉai thích hiện nay về mệnh đề nhân quả giả định là những điều kiện đúng của chúng phải bao gồm hoặc là tất cả các trạng thái của thế giới hiện thực hoặc là tất cả các trạng thái của thế giới hiện thực sớm hơn một thời điểm nào đó, và những mệnh đề nhân quả giả định đuợc cho là đối tượng của sự nhận thức trung gian của Chúa không thỏa mãn bất kỳ điều kiện nào trong hai điều kiện này. Một cách logic chúng được giả định là đúng trước sự sáng tạo ra trạng thái sớm nhất và như thế trong điều kiện về sự đúng đắn, chúng không thể bao gồm tất cả trạng thái của thế giới hiện hành hay tất cả các trạng thái sớm hơn một thời điểm nào đó. Dĩ nhiên, nhà thần học có thể từ chối cách gỉai thích hiện nay về mệnh đề nhân quả giả định. Họ có thể lập luận rằng những mệnh đề về sự tự do (hay về những dị thường) là đúng nếu và chỉ nếu những tiền đề và hậu đề của nó đều đúng trong một thế giới khả dĩ giống với thế giới hiện thời nhất đến mức như là thế giới hiện nay tồn tại một cách logic vào một thời điểm trước sự sáng tạo. Dường như đây là quan điểm của Craig, mặc dù ông ta khẳng định một cách lầm lẫn rằng nó tương thích với ‘sự giải thích hiện nay về những điều kiện để cho một mệnh đề nhân quả giả định là đúng’. Giờ đây Craig cho rằng, như chúng ta đã thấy, một cách logic vào thời điểm trước này đã có tất cả những tình huống cần thiết một cách logic và tất cả những tình huống của mệnh đề về những quyết định tự do của sinh vật. Để trả lời cho những phản đối rằng những mệnh đề nhân quả giả định về tự do không thể đúng đắn vào thời điểm trước này một cách logic vì thế giới hiện hành thì không hiện thực [vào thời điểm đó], ông ta nói rằng nó hiện thực một phần bởi vì nó bao hàm một phần những tình huống của mệnh đề, nghĩa là, ’ những hoàn cảnh tương ứng với những mệnh đề đúng đắn về sự tự do của sinh vật’ (34). Nhưng lập luận này là một vòng lẩn quẩn. Để chứng tỏ rằng những mệnh đề về sự tự do là hoàn toàn đúng đắn một cách logic vào trước thời điểm sáng tạo lại phải giả định rằng có những mệnh đề về sự tự do đúng đắn vào thời điểm trước sáng tạo, nghĩa là, trước sự sáng tạo đã có những’ hoàn cảnh tương ứng với những mệnh đề nhân quả giả định đúng đắn về sự tự do của sinh vật’. Để tránh cái vòng lẩn quẩn này chúng ta phải cho phép một giả đề duy nhất rằng đã có những hoàn cảnh cần thiết một cách logic trước sự sáng tạo. Nhưng giả đề này lại không đủ để thiết lập một kết luận như ý muốn bởi vì những hoàn cảnh này không thể làm nền tảng cho mối liên hệ về sự tương tự giữa các thế giới được đòi hỏi một cách logic bởi các mệnh đề nhân quả giả định có tính ngẫu nhiên, những mệnh đề nhân quả giả định về sự tự do. Tương tự như những lập luận của Craig về những mệnh đề về sự tự do, điều này cũng không dẫn đến một lập luận hợp lý nào được xây dựng cho luận đề rằng ‘những mệnh đề nhân quả giả định về sự dị thường (1)’ là đúng đắn trước sự sáng tạo. Không có một sự chặt chẽ, hợp lý nào để giả định rằng (1) là hoàn toàn đúng đắn một cách logic trước sự sáng tạo và như thế sự kiện rằng Thượng đế là toàn năng sẽ không dẫn đến một điều là ông ta biết, một cách logic trước sự sáng tạo, rằng điểm dị thường Big Bang sẽ tiến hóa đến một thế giới có sự sống. VIII. Kết luận Nếu những lập luận trong bài viết này hợp lý, thì Thượng đế không hiện hữu nếu vũ trụ học Bigbang, hay một lý thuyết tương tự thích hợp nào đó đúng đắn. Nếu vũ trụ học này đúng, vũ trụ của chúng ta hiện hữu không nguyên nhân và không có sự giải thích (35) . Có rất nhiều vũ trụ khả dĩ mà cũng có thể không có một vũ trụ nào cả và cũng không có một lý do nào để giải thích tại sao thế giới này hiện thực hơn một thế giới (hoặc là không có ) khác nào đó. Giờ đây, những người có xu hướng thần học có thể nghĩ rằng điều này là nỗi thất vọng bởi vì nhu cầu của con người về lý do của sự hiện hữu và những nhu cầu được viện dẫn khác, đã không được thoả mãn. Nhưng tôi gợi ý rằng, loài người sở hữu hay có thể nắm giữ những kinh nghiệm ở tầng mức sâu sắc hơn nỗi thất vọng như thế. Chúng ta có thể quên đi chính chúng ta trong một lúc để mở lòng với những tác động đáng sửng sốt của chính thực tế. Chúng ta hãy để cho chính mình ngạc nhiên sâu đậm bởi sự kiện là vũ trụ tồn tạI. Một sự thật về một ‘cảm giác siêu hình’ mà người ta có thể cho rằng sự kiện này thực sự đang làm kinh ngạc và hầu như được tán thưởng với những kinh nghiệm được viện dẫn trong đoạn văn sau (36) .[Thế giới này] hiện hữu không tất yếu, không chắc thực và vô cớ. Nó tồn tại tuyệt đối không vì một lý do nào cả . Không giải thích được và hiện thực một cách tuyệt vời ... Tác động của một sự nhận thức đầy quyến rũ tràn ngập trong tôI. Tôi hoàn toàn sửng sốt. Tôi bước đi loạng choạng trong cánh đồng u tối và ngã xuống giữa những cành hoa. Tôi nằm thẫn thờ, đầu óc xoay mù không còn nhận biết gì trong thế giới này và qua vô vàn những thế giới khác. (37) Cleveland Heights, Ohio ======================================== Chú thích của người dịch a/ Nguyên văn :’ educated common sense’ b/ GUT: Grand Unified Theory: Lý thuyết Thống Nhất Lớn: lý thuyết có mục đích thống nhất 4 loại tương tác trong tự nhiên: hấp dẫn, tương tác mạnh, tương tác yếu, và điện từ c/ Cantor: Georg Ferdinand Ludwig Phillip Cantor (1845 –1918) là một nhà toán học người Đức, sinh ở Nga. Ông được biết đến như là người lập nên lý thuyết tập hợp, đã trở nên một trong những lý thuyết cơ bản trong toán học d/ Lực lượng alep zero: Trong lý thuyết về tập hợp số, số aleph là một chuỗi những con số được dùng để biểu diễn cho lực lượng (hay kích thước) của những tập hợp vô hạn. Chúng được đặt tên theo những ký tự Do thái aleph (). Lực lượng của tập hợp các số tự nhiên là (đọc là aleph-zero), lực lượng lớn hơn kế tiế p là aleph-one , v à .... e/ Nguyên ngữ: Counterfactual-tạm dịch là mệnh đề nhân quả giả định. f/ Nguyên ngữ: relatum- theo định nghĩa là những phần có liên hệ được đề cập đến trong một mệnh đề. Tạm dịch là ‘đối tượng có liên hệ’. ======================================== Chú thích của tác gỉa Vide, William Lane Craig, The Kalam Cosmological Argument (New York: Harper and Row, 1979); 'God, Creation and Mr Davies', British Journal for the Philosophy of Science 37 (1986) 163-175; 'Barrow and Tipler on the Anthropic Principle vs. Divine Design', British Journal for the Philosophy of Science 39 (1988) 389-95; 'What Place, Then, for a Creator?', British Journal for the Philosophy of Science, forthcoming; 'The Caused Beginning of the Universe: A Response to Quentin Smith', mimeograph (1989). Also see John Leslie, 'Anthropic Principle, World Ensemble, Design', American Philosophical Quarterly 19 (1982) 141-151, 'Modem Cosmology and the Creation of Life', in E. McMullin (ed.), Evolution and Creation (South Bend: University of Notre Dame Press, 1985) and numerous other articles. See (a) A. Guth, 'Inflationary Universe: A Possible Solution to the Horizon and Flatness Problems', Physical Review D 23 (1981) 347-356; ( B) A.D. Linde, 'A New Inflationary Universe Scenario', Physical Letters 108B (1982) 389-393, and A. Albrecht and P.I. Steinhardt, Physical Review Letters 48 (1982) 1220ff.; © A.D. Linde, 'The Inflationary Universe', Reports on Progress in Physics 47 (1984) 925-986; (d) E.P. Tryon, 'Is the Universe a Vacuum Fluctuation?', Nature 246 (1973) 396-397, and J.R. Gott, 'Creation of Open Universes from de Sitter Space', Nature 295 (1982) 304-307; (e) J.B. Hartle and S.W. Hawking, 'Wave Function of the Universe', Physical Review D 28 (1983) 2960-2975; (f) H. Everett '"Relative State" Formulation of Quantum Mechanics', Reviews of Modern Physics 29 (1957) 454-462. Some of these theories are discussed in Quentin Smith, 'World Ensemble Explanations', Pacific Philosphical Quarterly 67 (1986) 73-86 and 'The Uncaused Beginning of the Universe', Philosophy of Science 55 (1988) 39-57. The Einstein equation reads Rab - ½*R*gab + lamda*gab = (8*pi*G/c2)*Tab Rab is the Ricci tensor of the metric gab, R is the Ricci scalar, lambda is the cosmological constant (probably zero), c is the velocity of light and G is Newton's constant of gravitation. See Einstein's 'The Foundation of the General Theory of Relativity' and 'Cosmological Considerations on the General Theory of Relativity' in Einstein et al., The Principle of Relativity (London: Dover 1923). The Friedmann solutions, with the cosmological constant omitted are -3*(d2a/dt2 = 4*pi*G*(p+3*P/c2)*a 3*(da/dt)2 = 8*pi*G*pa2 - 3*k*c2 In these equations a is the scale factor representing the radius of the universe at a given time. da/dt is the rate of change of a with time; it is the rate at which the universe expands or contracts. d2a/dt2 is the rate of change of da/dt; it is the acceleration of the expansion or the deceleration of the contraction. G is Newton's gravitational constant and c the velocity of light. P is the pressure of matter and p its density. k is a constant which takes one of three values: 0 for a flat Euclidean space, -1 for a hyperbolic space, or +1 for a spherical space. See Alexander Friedmann, 'Uber die Krummung des Raumes', Zeitschrift für Physik 10 (1922) 377-386; a translation of this paper appears in A Source Book in Astronomy and Astrophysics: 1900-1975 (eds.) K.R. Lang and O. Gingerich (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1979). Friedmann's second paper on models with negative curvature was first published in Zeitschrift für Physik 21 (1924) 326. See, for example, B.G. Schmidt, 'A New Definition of Singular Points in General Relativity' General Relativity and Gravitation 1 (1971) 269-280, and S.W. Hawking and G.F.R Ellis, The Large Scale Structure of Space-Time (Cambridge: Cambridge University Press, 1973). That is, for any timelike vector Va, the energy momentum tensor of matter satisfies the inequality (Tab- 1/2gabT)VaVb >=0. That is, any timelike or null geodesic contains some point at which V{a Rb}cd{eVf}VcVd not equal 0. SW. Hawking, 'Theoretical Advances in General Relativity', Some Strangeness in the Proportion, (ed.) H. Woolf (Reading, MA: Addison-Wesley, 1980) p. 149. S.W. Hawking 'Breakdown of Predictability in Gravitational Collapse', Physical ReviewD 14 (1976) 2460. See S.W. Hawking, 'Is the End in Sight for Theoretical Physics?', in Stephen Hawking's Universe, by John Boslough (New York: William Morrow and Co.) p. 145. S.W. Hawking, 'Breakdown of Predictability in Gravitational Collapse', op. cit., p. 2460. Ibid., p. 2463. P. Davies, The Edge of Infinity (New York: Simon and Schuster, 1981 ) p. 161. R. Swinburne, The Existence of God (Oxford: Clarendon Press, 1979) p. 147. Swinburne's full definition is that orderly universes are those required by both natural beauty and life. Cf. p. 146. See Leslie's articles mentioned in footnote 1. For Leslie, 'God' means one of two things. God 'may be identified as the world's creative ethical requiredness [i. e. the ethical requiredness that created the universe] . . . Alternatively [God may be identified] as an existing person, a person creatively responsible for every other existence, who owed his existence to his ethical requiredness.' See his 'Efforts to Explain All Existence', Mind 87 (1978) p. 93. On the second conception of God, God as a person, it is appropriate to refer to him with a personal pronoun ('he'). But on the first conception, the impersonal pronoun 'it' is more appropriate. For simplicity's sake, I use 'he' in the main body of the paper. Leslie, 'Modern Cosmology and the Creation of Life', op. cit., p. 112. Ibid., p. 92. Ibid., p. 95. Ibid., pp. 91 and 112. I would add that my argument does not require that God create an animate universe in the most efficient way possible, since there may be no 'most efficient way possible', but merely that he create it in an efficient way (which minimally requires that no interventions be needed). Somewhat analogously, Keith Chrzan has soundly argued that 'there is no best possible world' does not entail 'there is no world without evil' and therefore that the 'no best possible world' theodicy fails to demonstrate that evil is a necessary implication of creation and thus fails to explain how God's existence is compatible with the actual world. See Keith Chrzan, 'The Irrelevance of the No Best Possible World Defence', Philosophia 17 (1987) 161-167. The analogy can be seen if we substitute 'most efficient' for 'best possible' and 'without divine intervention' for 'without evil' in the above sentences. I also reject the supposition that the Hawking-Penrose theorems and the principle of ignorance are metaphysically necessary laws of nature and therefore that God had no alternative to creating a singularity that required his intervention. In his interesting article on 'Explaining Existence', Canadian Journal of Philosophy 16 (1986) 713-22, Chris Mortensen entertains the supposition that the laws governing the beginning of the universe are necessary, but concludes, soundly I believe, that this supposition is not particularly credible. I would add that the Kripke-Putnam argument that some laws are necessary (e.g. that water is H2O), even if sound, does not apply to the singularity theorems, for the Kripke-Putnam argument applies only to laws involving ostensively defined terms (e.g. 'water') and 'singularity' is not ostensively defined. See Jarrett Leplin, 'Is Essentialism Unscientific?', Philosophy of Science 55 (1988) 493-510 and 'Reference and Scientific Realism', Studies in History and Philosophy of Science 10 (1979) 265-85. R. Penrose, 'Singularities in Cosmology', in Confrontation of Cosmological Theories with Observational Data (ed.) M.S. Longair (Dordrecht: Reidel, 1974) p. 264. Penrose shows how the zero dimensional singularity can be conformally resealed as a three dimensional singularity, which testifies further to the fact that the singularity is thought of as something real. R. Geroch and G. Horowitz, 'Global Structure of Spacetime', in General Relativity (eds.) S.W. Hawking and W. Isreal (New York: Cambridge University Press, 1979) p. 267. Geroch and Horowitz go on to argue for the nonstandard position that a study of the global properties of singular spacetimes is a more fruitful line of research than attempts to provide constructions of local singular points. Penrose, op. cit., p. 264; the italics are mine. Penrose is best interpreted as speaking loosely in this passage, for strictly speaking there is no 'next instant' after the instant of the singularity (if time is dense or continuous) and the singular point does not topologically transform to an 'infinite' number of causally disconnected regions but to an arbitrarily large finite number. W.L. Craig The Kalam Cosmological Argument, op. cit., p. 117. Vide, 'Infinity and the Past', Philosophy of Science 54 (1987) 63-75 and section 6 of 'A New Typology of Temporal and Atemporal Permanence', Noûs 23 (1989) 307-330. For a correction to one of my arguments in 'Infinity and the Past' see Ellery Eells, 'Quentin Smith on Infinity and the Past', Philosophy of Science 55 (1988) 453-455. Milton Munitz, Cosmic Understanding (Princeton: Princeton University Press. 1986) p. 11l. Paul Davies, The Edge of Infinity, op.cit., p. 159. W.L. Craig, 'The Caused Beginning of the Universe: A Response to Quentin Smith', op. cit., p. 8. Storrs McCall, 'Interpreting Quantum Mechanics Via Quantum Probabilities', mimeograph, 1989. Jonathan Bennett. Counterfactuals and Possible Worlds', Canadian Journal of Philosophy 4 (1974) 381-402: Wayne Davies, 'Indicative and Subjunctive Conditionals'. The Philosophical Review 88 (1979) 544-64. Robert Stalnaker, 'A Theory of Conditionals' in N. Rescher (ed.) Studies in Logical Theory (Oxford: Blackwell, 1968) 92-112; Richmond Thomason and Robert Stalnaker, 'A Semantic Analysis of Conditional Logic', Theoria 36 (1970) 23-42: Frank Jackson. On Assertion and Indicative Conditionals'. The Philosophical Review 88 (1979) 565ff. David Lewis, Counterfactuals (Cambridge: Harvard Univ. Press, 1973). W.L. Craig, The Only Wise God: The Compatibility of Divine Foreknowledge and Human Freedom (Grand Rapids: Baker Book House, 1987) p. 144. Ibid., p. 143. Big Bang cosmology may be modified in certain fundamental respects so that our universe has an explanation in terms of other universes, but the set of all universes will nonetheless remain unexplained. See Quentin Smith, 'A Natural Explanation of the Existence and Laws of Our Universe', Australasian Journal of Philosophy 68 (1990) 22-43. Quentin Smith, The Felt Meanings of the World: A Metaphysics of Feeling (West Lafayette: Purdue University Press, 1986) pp. 300-301. In an important study, Milton Munitz has plausibly argued that it is possible that there is a reason for the existence of the universe, such that this reason is not a 'reason' in the sense of a purpose, cause, scientific explanation or evidence (justification) for a belief or statement, but in some unique sense not fully comprehensible by us. This argument is consistent, of course, with the position that there actually is no reason for the existence of the big bang universe and that it is not possible that this universe has a cause or purpose. See his The Mystery of Existence: An Essay in Philosophical Cosmology (New York: Appleton-Century-Crofts, 1965) especially Part Four and the Conclusion. I am grateful to Richard Fallon and two anonymous referees for helpful comments on an earlier version of this paper. nguồn http://www.qsmithwmu.com/atheism,_theism_a...logy_(1991).htm
  18. TƯ LIỆU THAM KHẢO =============================== Nguy cơ hình thành thế trận 3 chọi 3 05/12/2010 23:13 Một góc tàu sân bay USS George Washington của Mỹ trong cuộc tập trận chung với Hàn Quốc hồi tháng trước - Ảnh: AFP Những động thái của các bên liên quan đối với các vấn đề trên bán đảo Triều Tiên có khả năng dẫn đến xu hướng hình thành 2 phe đối lập. Mỹ hôm nay dự kiến tổ chức cuộc họp cấp cao với Hàn Quốc và Nhật Bản nhằm bàn về tình hình căng thẳng trong khu vực. AFP dẫn lời phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Philip Crowley cho hay Ngoại trưởng Hillary Clinton sẽ có các cuộc gặp riêng với hai người đồng cấp Hàn Quốc Kim Sung-hwan và Nhật Bản Seiji Maehara tại Washington trước khi 3 bên họp chung. Cựu phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Alan Romberg nhận định cuộc họp lần này cho thấy Washington chưa sẵn sàng trở lại vòng đàm phán hạt nhân 6 bên vào thời điểm này. Cuộc họp lần này tại Washington càng khiến những người quan tâm thấy rõ khả năng đang hình thành 2 phe rõ rệt về các vấn đề liên quan đến CHDCND Triều Tiên. Kể từ vụ đọ pháo hôm 23.11, Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản luôn lên án CHDCND Triều Tiên và liên tục tập trận chung. Các nước này còn tuyên bố sẽ không trở lại đàm phán nếu Bình Nhưỡng không xin lỗi và tỏ rõ thiện chí trong việc giải trừ vũ khí hạt nhân. Hôm 4.12, tờ Rodong Sinmum của Đảng Lao động Triều Tiên cảnh báo một liên minh quân sự đang hình thành giữa 3 nước nói trên là mối đe dọa đối với hòa bình của cả khu vực. Trong khi đó Trung Quốc, Nga và CHDCND Triều Tiên lại kêu gọi đàm phán. Bắc Kinh và Moscow đều không lên án bên nào và kêu gọi kiềm chế sau vụ đọ pháo. Khi Trung Quốc đề xuất họp khẩn cấp tại Bắc Kinh để đại diện 6 bên trao đổi về vấn đề Triều Tiên thì Hàn Quốc, Mỹ và Nhật đều từ chối thẳng trong khi Nga thì ủng hộ. Hôm 2.12, Bắc Kinh than phiền rằng đã bị chỉ trích một cách không công bằng chỉ vì đưa ra đề nghị trên. Trong khi đó, Yonhap dẫn lời giới chức quân sự Hàn Quốc cho hay sẽ tiến hành tập trận bắn đạn thật trên biển từ hôm nay đến ngày 12.12. Hãng thông tấn KCNA hôm qua gọi cuộc tập trận này là “nỗ lực châm ngòi chiến tranh” và cảnh báo “không ai có thể đoán được tình hình sắp tới sẽ ra sao”. Đáp lại, Seoul nói cuộc tập trận là đợt diễn tập thường kỳ, được lên kế hoạch trước vụ đụng độ. Tân Bộ trưởng Quốc phòng Kim Kwan-jin hôm qua cũng tới thăm một căn cứ quân sự gần biên giới đường bộ liên Triều và kêu gọi binh sĩ tăng cường khả năng tác chiến. Trước đó, ông Kim tuyên bố sẽ không kích CHDCND Triều Tiên nếu nước này tấn công Hàn Quốc lần nữa. Văn Khoa ======================================= "hình thành thế trận 3 chọi 3"? Nếu có chỉ trên mặt ngoại giao thôi. Nhưng ngay cả trong mặt này chỉ có thể coi "3 và 2,5".
  19. “Mục sở thị” hầm chứa máy chủ của Wikileaks (Dân trí) - Một căn hầm nằm sâu 30m bên dưới một ngọn núi tại Thụy Điển giờ đây là nơi lưu giữ các máy chủ WikiLeaks sau khi hãng Amazon “hất” Wikileaks ra khỏi máy chủ tại Mỹ. Các nguồn tin báo chí cho hay, trang web WikiLeaks, được biết đến vì công khai các khai bí mật quốc gia, đã tìm thấy một ngôi nhà mới cho các dữ liệu của mình: một boong-ke thời Chiến tranh Lạnh, được miêu tả là thích hợp cho một bộ phim James Bond. Công ty Bahnhof, một nhà cung cấp băng thông rộng của Thụy Điển, đang cho WikiLeaks thuê máy chủ từ một căn hầm nhỏ nhỏ bên trong núi Trắng, cách thủ đô Stockholm không xa. Boong-ke kiên cố này có thể chống được bom hạt nhân. Nó chỉ có một lối ra vào và được trang bị những cánh cửa kim loại dày nửa mét. Các máy phát điện dự phòng được nối từ các tàu ngầm của Đức nhằm đảm bảo an toàn. Trước đó, hôm thứ 4, hãng Amazon đã quyết định ngừng cho Wikileaks sử dụng máy chủ tại Mỹ, khiến trang web này bị gián đoạn trong một thời gian ngắn trước khi hoạt động trở lại bình thường. Ảnh "lô cốt" kiên cố chứa các máy chủ của Wikileaks: Lối vào căn hầm. Boong-ke này nằm dưới một ngọn núi đá. Căn hầm có từ thời Chiến tranh Lạnh. Không gian bên trong. Xem video: An Bình Tổng hợp
  20. Tôi không giỏi lắm về Tử Bình, chỉ hiểu sơ qua khái niệm của nó và phương pháp ứng dụng căn bản. Cái gì không biết thì tôi ngồi im nghe.Khổ quá, cái topic này không phải để bàn về Tử Bình. Mà để xác định "Không có Hạt của Chúa".
  21. Thư tình xuyên thế kỷ Chungta.com 08:49' PM - Thứ hai, 26/12/2005 =================================== Một chàng trai viết thư tỏ tình với bạn gái: Thành phố Mặt Trời - Ngày buồn, tháng nhớ, năm cô đơn, thế kỷ sầu... Em thương mến! Hôm nay trời thật đẹp, mây đen kéo đến mây trắng bay đi. Anh ngồi co cẳng viết cho em yêu của mình bức thư tình hay nhất thế kỉ 22. Đầu thư, anh chúc em nhiều calo để em mạnh khoẻ. Em à! Chỉ mới gặp em thôi mà anh ngỡ như đã quen nhau từ kiếp trước. Xa em vài giây thôi mà ngỡ đã bao năm. Em ơi ,ánh mắt em làm cả miền Nam chìm trong băng giá. Em cất tiếng cười làm cả miền Bắc ngủ quên còn khi những giọt lệ em rơi làm 7 tỉnh miền Trung chìm trong lũ lụt... Ôi thôi! Quái vật!.... Em à, em đến với anh trong ngày đông băng giá. Em sưởi ấm con tim anh tựa lò vi sóng nướng con mực khô. Mỗi khi anh khát, em là vại bia hơi dịu đi cái khát khủng khiếp của mùa hè.... Ôi em tôi là vô địch... Thôi, thư đã dài dù chỉ là một chút trái tim anh. Em thấy không? Nếu em yêu anh thì anh nguyện dâng trái tim mình đem nấu cháo cho em bồi bổ. Hàng VN chất lượng cao đó em... Yêu em nhiều... =================================== Gửi người con gái anh yêu! Hà nội một ngày buồn như con chuồn chuồn, tháng chán như con cá rán, năm đen như con mèo hen. Em yêu dấu, người em như cái đấu, tóc em xù như lông gấu, tuy em hơi cá sấu nhưng anh vẫn yêu em nung nấu. Ðêm nay ngồi sửa xe mãi mà chẳng được,ngủ thì chẳng xong, nhìn trăng cao tít mít, anh quyết ngồi cong đít viết thư cho em, không gian bốn bề im ắng chỉ có tiếng ếch kêu và âm thanh như tiếng đàn violon du dương nhẹ nhàng của đàn muỗi đang vây quanh anh. Em có biết rằng anh nhớ em nhiều lắm không? Anh ăn không ngon nhưng ngủ như điên, anh đi giầy quên đi tất, ăn sáng quên đánh răng, anh dùng xăng vo gạo, anh khờ khạo cũng chỉ vì yêu em đó. Khổ thân anh khi chúng bạn toàn là những đứa không có nhà phải ở trong biệt thự, không có xe đạp mà phải ngồi lăncuđơ, không có tiền mà phải xài card. Anh thì cái gì cũng có chỉ không có mỗi tiền. Anh xin tình nguyện dâng hiến cho em tấm thân trong trắng như tờ giấy than của anh cho em. Tấm thân của anh tuy đang mang trong người hai dòng máu nhưng vẫn còn là hàng xài được một số thứ. Anh chỉ muốn những gì của em là của anh và những gì của anh là của riêng, của nhầm là của chung. Em có biết rằng anh yêu em từ khi anh thấy em lon ton như con chó con cùng mấy đứa bạn cùng là lũ quỷ cái đánh 1 thằng bạn nhỏ xíu. Anh sẽ làm tất cả để cho em vui. Ranh ngôn có câu : "Không có việc gì khó, chỉ sợ tiền không nhiều, đào cống và lấp bể, cố làm cũng thành không". Em đừng buồn vì những lời bạn anh nói nhé, nó nói em :" Nhìn xa cứ tưởng con người, nhìn gần mới biết đười ươi xổng chuồng". Anh đau lắm nhưng không sao, bôi cao sẽ khỏi, không khỏi ăn tỏi sẽ hết, không hết cho chết là vừa. Về nhà anh không nuốt trôi cơm cố gắng lắm mới chỉ có 6 bát phở. Một lần và mãi mãi anh muốn nói với em rằng anh yêu em như que kem mút dở, như dưa bở với đường, như lọ tương ngâm cà pháo, như con báo với cánh rừng, như muối vừng với lạc, như lão Hạc với con chó vàng ... Thôi mệt quá rồi anh đành phanh bút ở đây. Chào em và yêu em nhiều, chúc em gặp nhiều ác mộng, anh sẽ hiện ra để cùng em chạy trốn. Hôn em như cún con hôn mèo con! =================================== Thư tình thời mới Ngày hờn, tháng rỗi, năm chia tay, thế kỷ buồn! E ngồi buôn chuyện với hàng tá cái nick name để quên A. Kể từ ngày dày công chát chít và biết A qua cái My computer có nối mạng Internet. E đã biến mình thành một con người lột xác với cái mác...dịu hiền. Mỗi khi cái Messenger rực sáng mặt cười là người E dạo rực tưng bừng, E không ngừng tay lướt trên bàn phím và Enter lia lịa,với mấy lời Hi và bibi quen thuộc. Khi đã nói nhiều thì phải cho nhiều và chúng ta đã ...liều cho nhau cái....webcam. Nhưng không có buổi hẹn hò nào ngoài đời cả vì cả hai đều sợ mất đi tình cảm....ảo. Mặc định thời gian cứ"đến hẹn lại lên" mỗi khi cái mặt cười Yahoo rực sáng. Bao nhiêu buồn vui giận hờn lại chút cành cành, cạch cạch trên bàn phím cứ như mình đến cả thế kỷ không gặp nhau được nhiều nên còn bao điều chưa nói hết. Nhưng chết là ở cái cả hai không có số điện thoại của nhau nên chỉ hẹn giờ lên mạng và... đợi. Thế rồi"đợi mãi anh lên anh chẳng lên", E ngồi thao thức nuốt cục tức trong lòng rồi chặc lưỡi cắn sứt...đầu móng tay nghĩ hơi cay cay: "Chắc giờ đang say bên con nào ấy nhỉ?". Để rồi nhắn một tràng tin nhắn xỉ vả, hờn ghen, giận dỗi và Sign out. Vậy mà A chẳng đếm xỉa ngó ngàng qua. Đã bao lần em... rình dập, đợi chờ nhưng đến giờ A vẫn bặt vô âm tín. E ngồi tím tái ruột gan nên phải lang thang vào Room char xem có sát sinh được thằng nào cho hạ hoả hay không. Rồi E quyết định bỏ xó cuộc tình Online của đôi mình. Thôi E tiếp tục chat đây,bibi You và Never again You nhé. A ráng kiếm bé nào khác mà chơi, thi thoảng dở hơi thì nhờ tới cái mặt cười của em vậy
  22. Hiện tượng là khách quan. Nên khoa học nghiên cứu là đúng rồi. Vấn đề là chậm quá chứ không phải là dán mác khoa học vào. Âu Mỹ nghiên cứu đã lâu với nhiều phương tiện hiện đại, họ cũng phát hiện ra nhiều hiện tượng mà chúng ta không khám phá được - như chụp ảnh linh hồn .....Nhưng cũng mới chỉ dừng lại ở ghi nhận hiện tượng và chưa lý giải được bản chất hiện tượng.Tóm lại, để lý giải được những hiện tượng còn bí ẩn đại loại như kiểu này, hoặc ngoại cảm...vv....thì nền khoa học thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, về cả vi mô lẫn vĩ mô cần phát triển hơn nữa và đồng bộ ở nhiều mặt giữa các mảng kiến thức. Nói theo dân dã cho dễ hiểu là ....còn khuya.
  23. Đại ý: Cháy nổ....... ========================================================= Trung Quốc: Nổ lớn phá tan quán cà phê, 6 người chết Chủ Nhật, 05/12/2010 - 09:32 (Dân trí) - Ít nhất 6 người thiệt mạng và 34 người khác bị thương trong một vụ nổ làm sập một quán cà phê internet ở tỉnh Quý Châu, tây nam Trung Quốc vào tối qua. Vụ nổ xảy ra lúc 10h30 tối giờ địa phương tại một quán cà phê internet ở khu vực trung tâm của thành phố Khải Lý, tỉnh Quý Châu. 6 nạn nhân đã được đưa khỏi đống đổ nát của quán cà phê và những người bị thương đã nhanh chóng được chuyển tới các bệnh viện lân cận. Các nhân viên cứu hộ tại hiện trường cho hay vụ nổ lớn đã phá hủy hoàn toàn quán cà phê, biến nó thành một đống gạch vụn. Những hình ảnh tại hiện trường cho thấy tòa nhà đã bị phá hủy và đồ đạc bên trong cơ bản là bị cháy và phá tan tới mức không thể nhận dạng. Các bức tường bị đánh sập. Cảnh sát đang điều tra nguyên nhân vụ nổ. Công tác tìm kiếm và cứu nạn vẫn đang được tiến hành. Một số hình ảnh tại hiện trường vụ nổ: Quán cà phê đã bị phá hủy hoàn toàn. Hiện trường ngổn ngang sau vụ nổ. Các nhân viên cứu hộ tại hiện trường. An Bình Theo Xinhua
  24. Cũng không đến nỗi phải bi quan như thế! Cung điền và Phúc tốt lắm. Có điều thiếu thời gian nan. Đến chu kỳ sau 24 tuổi có cơ hội đi xa và thành công nới đất khách quê ngươi. Ráng làm phước, càng nhiều càng tốt. Ít sát sinh như săn bắt, câu cá....Hoặc ăn nhậu những con thú lạ. Đại để vậy.
  25. Tháng 11 Âm lịch không có ngày nào thật tốt. Tôi đang xem tháng 12 Âm có ngày nào không?