-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Trong định nghĩa phân loại tập hợp không có đặt vấn đề tốc độ của một vật thể. Bởi vì nó là tính năng của vật thể đó và không phải vật thể đó. Nó không phải đối tượng của phân loại. Cách đặt vấn đề như thế này giống như sau:Độ mặn của một lít muối khoa học đã chứng minh là Xb. Có thể chứng minh được một tập hợp mặn hơn muối không? Đại để vậy!
-
LỜI TIÊN TRI 2011 Đại ý: Sự điều chỉnh tỷ giá đồng tiền không đồng bộ giữa các quốc gia làm mất cân đối trong mối quan hệ giao dịch, gây xáo trộn thị trường...... ========================================================== TƯ LIỆU THAM KHẢO Từ Mạng DN trí thức VN: Khu vực Eurozone có sụp đổ không? Bài đã được xuất bản.: 3 giờ trước Vấn đề cơ bản là các quốc gia Eurozone dùng chung một đồng tiền, nhưng lại không có hệ thống thuế, thị trường lao động, hay hệ thống tài khóa nhất quán hoàn toàn, do đó khiến họ càng khó điều chỉnh hơn mỗi khi một nền kinh tế nào đó gặp khó khăn. - GS Stephen Walt phân tích. GS Stephan Walt, ĐH Harvard bình luận về tương lai của khu vực đồng tiền chung Châu Âu dưới góc nhìn quan hệ quốc tế hiện đại. Có vẻ như mọi mối quan tâm trên thế giới lúc này đều đổ dồn về màn kịch đang diễn ra tại Ai Cập khiến chúng ta không thể rời mắt khỏi màn hình chiếc laptop, nhưng ít nhất vẫn có một sự kiện "bên ngoài" khác rất đáng để chúng ta theo dõi, dù là từng chuyển biến nhỏ, vì nhiều nguyên do. Chúng ta đều biết EU còn đang rối như tơ vò trước một cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong nhiều năm qua, nảy sinh từ các vấn đề sâu sắc tại Hy Lạp, và ở một mức độ nhẹ hơn đôi chút là ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Những rắc rối này buộc các quốc gia thuộc khu vực đồng tiền chung phải đưa ra gói giải cứu tài chính khổng lồ năm ngoái và khiến một số nhà quan sát phải đặt câu hỏi liệu bản thân đồng euro có đang lâm nguy. Tuy nhiên, mấy tháng qua, thủ tướng Đức Angela Merkel và tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã đàm phán nhằm đi đến một kiến nghị chung làm sâu sắc hơn sự phối hợp kinh tế trong nội bộ EU (và đặc biệt là khu vực đồng tiền chung) trong một nỗ lực nhằm giải quyết một số vấn đề gốc rễ gây ra khủng hoảng ban đầu. Vấn đề cơ bản là các quốc gia Eurozone dùng chung một đồng tiền, nhưng lại không có hệ thống thuế, thị trường lao động, hay hệ thống tài khóa nhất quán hoàn toàn, do đó khiến họ càng khó điều chỉnh hơn mỗi khi một nền kinh tế nào đó gặp khó khăn. Câu hỏi trên không chỉ có ý nghĩa rõ ràng về mặt chính trị và kinh tế tại chính châu Âu, mà còn đặt ra một số câu hỏi căn bản về lý thuyết quan hệ quốc tế và có thể thậm chí còn là thử nghiệm tốt để chứng minh cho quan điểm "hiện thực" hay "tự do" trong quan hệ quốc tế nói chung. Những người theo quan điểm hiện thực, tiêu biểu nhất là Sebastian Rosato của Đại học Notre Dame, đều tỏ ra bi quan về EU và đồng euro kể từ quộc khủng hoảng và cho rằng các nước thành viên châu Âu nhiều khả năng sẽ chỉ theo đuổi lợi ích quốc gia của mình và bắt đầu rút khỏi một số giải pháp chung mà EU đã thống nhất thông qua trong những năm gần đây. Ngược lại, những người ủng hộ thể chế, và nhất thể hóa châu Âu nói chung, cho rằng cách duy nhất để vượt lên là làm sâu sắc thêm hội nhập chính trị bên trong châu Âu. Ý tưởng cơ bản ở đây là hội nhập kinh tế làm nền tảng bảo đảm sự vững mạnh kinh tế châu Âu và là một trong những chìa khóa duy trì tình hữu nghị trong nội bộ châu Âu. Quan trọng không kém là, bất cứ nỗ lực rời bỏ khu vực đồng tiền chung hay phá vỡ đồng euro nào cũng sẽ dẫn đến sự sụp đổ ngay lập tức của đồng tiền này (và nhấn chìm một số quốc gia châu hơn ngập sâu hơn vào khủng hoảng). Theo quan điểm ấy, quay lại cũng sẽ không còn kịp nữa; châu Âu chỉ có thể hướng đến hội nhập sâu hơn nữa. Tôi cũng nằm trong số những người bi quan, một phần vì tôi không nghĩ hợp tác chính sách hơn nữa giữa các nước thành viên có thể giúp loại trừ các cuộc khủng hoảng tài chính thi thoảng vẫn xảy ra và vì tôi nghĩ chủ nghĩa dân tộc vẫn là một lực lượng xã hội quá mạnh tại châu Âu. Công chúng châu Âu sẽ không sẵn sàng tiếp tục giải cứu các thành viên vỡ nợ của khu vực đồng tiền chung, và các giải pháp mang tính hội nhập như kiến nghị sẽ không đủ để thỏa mãn nhu cầu. Đề xuất ban đầu giữa Merkel-Sarkozy không mấy được đón nhận khi đưa ra, vì thế, cần phải chờ xem bao nhiêu phần chương trình của họ sẽ được thông qua trên thực tế. Nhưng châu Âu đã gây bất ngờ với những người chuyên tiên đoán thảm họa trước đó, và tôi không tin rằng sự sụp đổ của khu vực đồng tiền chung châu Âu lại không thể tránh khỏi. Vì thế, những gì chúng có ở đây là liều thuốc thử cho hai mô hình quan hệ quốc tế đối lập: "hiện thực" và "tự do", và người nghiên cứu chính trị quốc tế nên theo dõi sát sao tới những gì sắp diễn ra. Nhưng xin hãy nhớ: giống như tất cả các lý thuyết khoa học xã hội, không lý thuyết chính trị quốc tế hay chính sách đối ngoại chung nào đúng 100% ở một thời điểm. Theo đó, diễn biến tiếp theo của EU sẽ không phải là bài kiểm tra quyết định, xác nhận tuyệt đối một cách tiếp cận nào và biến quan điểm thành thứ không liên quan và lạc hậu. Người ủng hộ mỗi quan điểm sẽ cố gắng bảo vệ chiến thắng toàn vẹn nếu sự kiện xảy ra theo hướng "có lợi" cho cách nghĩ của họ, nhưng đó thực tế không phải là cách khoa học xã hội vẫn vận hành.
-
Cảm ơn sự chia sẻ của HMH. Dao này ít buồn, mà lo nhiều hơn nên "mần " thơ không nổi. Hi.
-
LỜI TIÊN TRI 2011 Bất động sản lao đao...... ============================================== Bất động sản “méo mặt” vì USD lên giá Tác giả: ĐTCK vef.vn Bài đã được xuất bản.: 3 giờ trước Đối với các doanh nghiệp xi măng, do có số dư vay nợ bằng USD và EUR cao, nên việc điều chỉnh tỷ giá sẽ có tác động tiêu cực cho các công ty trong ngành. Theo tìm hiểu của phóng viên, quyết định điều chỉnh tỷ giá tăng từ 18.932 đồng/USD lên 20.703 đồng/USD đã gây thiệt hại không nhỏ cho các nhà đầu tư đang đăng ký mua căn hộ chung cư mà giá thành được quy đổi ra đô la Mỹ, đặc biệt là tại thị trường Hà Nội. Căn hộ cao cấp "lĩnh đủ" Đầu tuần này, một anh bạn than thở: "Sau một đêm ngủ dậy, tự nhiên tớ mất toi hơn 200 triệu đồng". Hỏi thăm nguồn cơn, anh bức xúc kể: "Năm ngoái tớ đăng ký mua một căn hộ trên đường Xuân Thủy (Cầu Giấy, Hà Nội) gần trăm m2 với giá hơn 2 nghìn "đô"/m2, mới đóng được 40%. Đùng một cái, giá "đô" tăng gần 10%, mà số tiền còn phải đóng những hơn 2 tỷ đồng, vậy là tớ "bỗng dưng" mất hơn 200 triệu đồng tiền trượt giá". Trường hợp như anh bạn tôi không phải là hiếm. Tham khảo bảng giá của vài sàn giao dịch hay trung tâm bất động sản tại Hà Nội, có thể "điểm danh" ra hàng chục dự án được công bố giá bán "quy đổi" là đô la Mỹ như căn hộ dự án Dolphin Plaza có giá 1.920 - 2.000 USD/m2; căn hộ Indochina Plaza có giá 2.600 - 3.000 USD/m2; căn hộ Royal City giá 1.900 - 2.350 USD/m2; căn hộ Sky City Tower giá 2.300 - 2.450 USD/m2; căn hộ Ciputra Luxury giá 2.200 - 2.600 USD/m2; căn hộ Mulberry Lane giá 1.600 - 2.000 USD/m2; căn hộ Tricon Tower giá 1.550 - 3.600 USD/m2; căn hộ Richland Southern giá 1.800 - 1.900 USD/m2; căn hộ Eco park giá 1.250 USD/m2... Tuy nhiên, trao đổi với phóng viên ĐTCK, tất cả các công ty đều cho biết giá căn hộ của họ được niêm yết bằng VND nên hiện nay các giao dịch vẫn đang diễn ra bình thường. Một nhân viên phòng marketing của Indochina Land khẳng định, mọi hoạt động của Công ty không có gì thay đổi và lãnh đạo Công ty cũng chưa đưa ra một quyết định nào liên quan đến giá bán sản phẩm. Một nhân viên Sàn giao dịch bất động sản Viglacera Land "bật mí", nhiều dự án căn hộ cao cấp tại Hà Nội được xác định giá bán bằng đô la Mỹ, nhưng do quy định pháp luật nên họ đã "lách" bằng cách quy đổi sang VND nhưng thường kèm theo điều kiện trong hợp đồng mua bán giữa hai bên là trong trường hợp tỷ giá thay đổi thì giá bán cũng được điều chỉnh tại thời điểm người mua nộp tiền. "Nếu không vì mục đích bán nhà bằng đô la Mỹ để kiếm lời vì tỷ giá chỉ có tăng chứ không giảm thì họ tính đổi đi đổi lại làm gì cho mất công, chỉ cần niêm yết bằng VND một lần cho xong", anh nhân viên này khẳng định. Giá nhà cũng sẽ tăng Trao đổi về tác động của việc nâng tỷ giá USD/VND đối với thị trường bất động sản, ông Nguyễn Mạnh Hà, Cục trưởng Cục Quản lý nhà và Thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng) nhận định, trước mắt sẽ chưa có ảnh hưởng gì nhiều vì các sản phẩm của thị trường này đều được hình thành từ nguồn nguyên liệu trong nước. Tuy nhiên, trong thời gian tới, một số nguyên liệu đầu vào trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng phải nhập khẩu với tỷ giá cao sẽ có tác động trực tiếp đến thị trường khiến giá nhà có thể sẽ tăng. Trên thị trường vật liệu xây dựng, từ đầu tháng đến nay, nhiều doanh nghiệp thép đã tăng giá thép từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng mỗi tấn. Xi măng cũng tăng 60.000 đồng. Ông Nguyễn Tiến Nghi, Phó chủ tịch Hiệp hội thép Việt Nam (VSA) cho hay, giá thép tăng do giá nguyên liệu đầu vào tăng cao. Hiện giá phôi trên thế giới đã ở mức 670 - 690 USD mỗi tấn, tăng khoảng 90 USD so với hồi cuối tháng 12. Thép phế cũng từ 400 USD mỗi tấn vọt lên 550 USD. Hiệp hội này dự báo, giá thép sẽ còn biến động, bởi sau khi tỷ giá USD/VND tăng sẽ đến giá than, điện tiếp tục được điều chỉnh thì giá bán của thép sẽ còn tăng. Đối với các doanh nghiệp xi măng, do có số dư vay nợ bằng USD và EUR cao, nên việc điều chỉnh tỷ giá sẽ có tác động tiêu cực cho các công ty trong ngành do bị lỗ vì các khoản vay bằng ngoại tệ cũng như chi phí lãi vay tăng cao, và điều này sẽ làm những khó khăn hiện tại trở nên trầm trọng hơn. Đối với các doanh nghiệp nhựa, do nguyên liệu đầu vào chủ yếu là nhập khẩu, nên cũng sẽ có ảnh hưởng, tuy vậy ít có khả năng tăng giá do mức độ ảnh hưởng sẽ không nhiều. ======================================== Lời khuyên của Thiên Sứ: Bán rẻ thu hồi vốn đi. Cho người nghèo có nhà ở. Tốt lắm.
-
Chiến đấu cơ Rafale thể hiện sức mạnh <embed flashvars="width=486&height=350&file=/Uploaded_CDCA/Multimedia/20110218/AREOS Reco NG.FLV&image=/Uploaded_CDCA/Multimedia/20110218/quoc-phong-reco-ng1.jpg" allowfullscreen="true" allowscriptaccess="always" quality="high" name="MediaPlayer" wmode="transparent" id="MediaPlayer" src="http://baodatviet.vn/dv/flash/mediaplayer.swf" type="application/x-shockwave-flash" width="486" height="350"> Hệ thống hỗ trợ chiến đấu FELIN <embed height="350" width="486" flashvars="width=486&height=350&file=/Uploaded_CDCA/Multimedia/20110216/FELIN combat system.flv&image=/Uploaded_CDCA/Multimedia/20110216/quoc-phong-felin1.jpg" allowfullscreen="true" allowscriptaccess="always" quality="high" name="MediaPlayer" wmode="transparent" id="MediaPlayer" src="http://baodatviet.vn/dv/flash/mediaplayer.swf" type="application/x-shockwave-flash"> BAODATVIET.VN
-
Dịch cúm bùng phát tại Mỹ Thứ bảy , 19 / 2 / 2011, 3: 7 (GMT+7) Theo tin trên báo HealthDay News, dịch cúm đã xuất hiện ở hầu hết 50 bang của Mỹ và phát triển nhanh tại hơn 37 bang. Các phòng mạch đều quá tải bệnh nhân. Tại Mỹ, cúm thường xuất hiện từ tháng 1 và đỉnh điểm vào tháng 2, làm chết khoảng 8% người trưởng thành. Trong số 3 loại virus cúm: A/H1N1, A/H3N2 và cúm B thì bệnh nhân cúm A/H3N2 chiếm đa số. Chỉ trong vòng 1 tháng, tỷ lệ tử vong ở trẻ em do cúm đã tăng từ 10% đến 30%. Phát ngôn viên Tom Skinner của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ nhấn mạnh, dịch cúm sẽ tiếp tục tăng vào tháng 3, đồng thời khuyến cáo người dân nên dùng vaccine phòng ngừa ngay từ bây giờ. Giáo sư y khoa, Dr. Marc Siegel tại Trường Đại học New York cho rằng đây là năm nước Mỹ chứng kiến một dịch cúm rất điển hình với số lượng nhập viện và tử vong cao. Hàng năm Mỹ có khoảng 200.000 người nhập viện và 37.000 người chết vì bệnh cúm. D.Duyên Theo SGGP
-
Bây giờ Đại tướng thường chỉ viết thư chúc mừng 18/02/2011 10:54:27 - “Đại tướng đọc rất cẩn thận những bức thư tự viết hoặc giao cho chúng tôi soạn thảo. Sai chỉ một chữ, ông cũng yêu cầu sửa lại. Tôi cũng phải mất 10 năm để viết được theo văn phong của Đại tướng” - Đại tá Trịnh Nguyên Huân, trợ lý mảng khoa học, giáo dục, kinh tế và đối ngoại của Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể. Gần đây, Đại tướng ít viết thư Thời gian gần đây, Đại tướng có viết nhiều không? Nói chung, trong một năm trở lại đây, Đại tướng ít viết thư. Phải những vấn đề đặc biệt quan trọng, Đại tướng mới nêu lên một vài ý kiến rất ngắn gọn. Còn thường, Đại tướng chỉ viết các bức điện chúc mừng hội nghị hoặc sự kiện nào đó. Những bức thư nào Đại tướng tự viết tay? Thường những thư nào không quá dài, chỉ trong vòng một trang giấy. Chủ yếu là thư đánh máy. Chúng tôi nghe Đại tướng chỉ đạo về nội dung, soạn thư và trình Đại tướng duyệt. Tuy nhiên, thư gửi Đại hội Liên hiệp Thanh niên là do Đại tướng viết tay và đưa người mang tới Đại hội. Đây là một trong những bức thư gần đây nhất mà Đại tướng viết tay. Công việc trợ lý của ông hiện bận rộn lắm không? Bận theo một kiểu khác. Tôi vẫn đang tập hợp những bài viết, bài nói của Đại tướng tại các hội nghị hay các chuyến thăm nước ngoài, phân loại xem bài nào có thể đưa đi in, bài nào giữ làm tư liệu. Tôi cũng thường xuyên đến Viện 108 báo cáo công việc, trình bày tóm tắt tin tức trong nước và quốc tế, đọc báo cho Đại tướng nghe. Ngày 29 Tết vừa rồi, tôi cũng đến đọc báo Xuân cho Đại tướng. Sau khi nghe xong, Đại tướng tự giở từng trang để xem tờ báo viết những vấn đề gì. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và trợ lý Trịnh Nguyên Huân Phải soạn lại thư có khi chỉ vì quên gạch chân Bức thư đầu tiên ông soạn theo yêu cầu của Đại tướng viết về nội dung gì? Tôi làm trợ lý cho Đại tướng đã 35 năm, soạn không biết bao nhiêu bài viết, bức thư nên cũng không nhớ rõ. Chỉ quy trình là từ đó tới nay vẫn vậy: Đại tướng phác ra các nội dung chính, chúng tôi thảo bức thư, sau đó, đọc hay trình Đại tướng xem. Nếu đồng ý, Đại tướng mới ký. Nếu không, Đại tướng yêu cầu sửa lại cho đến khi hài lòng mới thôi. Khi mới bắt đầu làm, thư ông soạn có bị Đại tướng sửa nhiều đúng không? Tất nhiên rồi. Có thể ý tưởng mình trình bày đúng, nhưng văn phong chưa đúng với văn phong Đại tướng. Để diễn tả một khái niệm, Đại tướng quen dùng từ này mà không dùng từ khác. Ví dụ, khái niệm geo –politics, Đại tướng bao giờ cũng viết là địa lý – chính trị, mà không bao giờ viết là địa – chính trị. Hoặc khi trình bày một vấn đề, Đại tướng bao giờ cũng phân rõ: một là, hai là, ba là. Và mỗi ý như vậy là một lần xuống dòng. Ở những đoạn như vậy, bao giờ Đại tướng cũng nêu điểm chính yếu đầu tiên, chẳng hạn, một là vấn đề con người, hai là vấn đề môi trường, ba là vấn đề... Đại tướng thường gạch dưới những từ quan trọng, những từ khóa trong đoạn, để chỉ cần lướt qua bức thư, người đọc đã có thể nắm được những nội dung chủ yếu. Cho nên, có khi chỉ vì quên gạch chân hoặc viết sai một chữ, cũng phải đánh máy lại cả bức thư mình soạn. Đại tướng giải thích: Phải tôn trọng người đọc. Và chúng tôi học được rất nhiều từ điều giản dị ấy. Trong tất cả các bức thư gửi cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước, không bao giờ Đại tướng sử dụng từ ngữ “nhân danh Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam” hay “với tư cách là cựu Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam”. Phải mất bao nhiêu lâu ông mới quen được với văn phong như thế? Chắc cũng phải mất 10 năm. Bởi vì tôi được giao viết về nhiều vấn đề, từ viết thư cho người dân, tới các nhà khoa học, viết thư chúc mừng hay viết chỉ đạo cho một hội nghị khoa học… Mỗi bức thư động tới một lĩnh vực, một vốn từ vựng, không cái nào giống cái nào. H.H (Thực hiện) TIN LIÊN QUAN Đại tướng Võ Nguyên Giáp:" Dĩ công vi thượng" Những khoảnh khắc đời thường của Đại tướng Võ Nguyên Giáp Bộ trưởng Phùng Quang Thanh thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp Đại tướng Võ Nguyên Giáp xem diễu binh qua truyền hình Bức ảnh có chữ ký của Cụ Hồ và Võ Nguyên Giáp Đại tướng Võ Nguyên Giáp:Quyền lợi đất nước, con người, biển đảo… Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết về Trần Hưng Đạo Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Trí thức lớn, người cha bình dị
-
Quí vị quan tâm và anh chị em thân mến. Định đề III của Cantor và nghịch lý của hệ thống này làm cho nó chưa được các nhà khoa học công nhận. Nhưng thuyết Âm Dương Ngũ hành của nên Lý học Đông phương - phục hồi nhân danh văn hiến Việt - nhìn từ một góc độ khác; hay nói đúng hơn là sự bổ sung tính phân loại vạn vật trong vũ trụ từ vi mô đến vĩ mô và cả những khái niệm trừu tượng trong định đề III Cantor thì đã xác định tính hợp lý lý thuyết của hệ thống định đề Cantor. Định nghĩa về "Tập hợp" được Thế Trung - nhà toán học - và tôi với sự hiểu biết theo cách của tôi về Lý học Đông phương, xác định rằng: "Tập hợp là khái niệm bao gồm một số phần tử ( vật chất hoặc khái niệm bất kỳ) và tất cả các tương tác của chúng. Để được coi là một phần tử trong một tập hợp thì phần tử đó phải có biểu hiện tính đồng đẳng tối thiểu trong cấu trúc của phần tử đó so với các phần tử khác trong cùng một tập hợp." Trên cơ sở này thì "Tập hợp" là một khái niệm phân loại của Toán học cao cấp. Từ đó chúng ta quán xét định đề III của Cantor phát biểu như sau: Một tập hợp bất kỳ đều tìm được một tập hợp lớn hơn nó – có vô tận các vô tận. Tôi đã xác định ngay: Định đề này hoàn toàn chính xác và phù hợp với cách phân loại vạn vật của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Đồng thời cũng xác định rằng: Hoàn toàn không có nghịch lý Cantor khi ông xác định một tập hợp của tất cả mọi tập hợp và là khái niệm tập hợp lớn nhất bao trùm. Sự xác định này trên cơ sở của Thuyết Âm Dương Ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt. Nhưng để tìm hiểu về mối liên quan giữa thuyết Âm Dương Ngũ hành với tính phân loại trong khái niệm "tập hợp" của Cantor, tôi nghĩ cần tóm tắt sự nhận thức lịch sử hình thành vũ trụ từ khởi nguyên vũ trụ theo quan niệm của học thuyết này - nhân danh nền văn hiến Việt. I. Lịch sử vũ trụ theo thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt. 1. Khởi nguyên vũ trụ là Thái Cực. Thái Cực được coi là cái tuyệt đối: không không gian, không thời gian và chính là sự vô tận. Không lớn, không nhỏ, không động, không tĩnh, không có đối đãi so sánh. Nhưng là một thực trạng khởi nguyên của vũ trụ. 2. Lưỡng Nghi và khái niệm Âm Dương. Thái cực là tuyệt đối, nên nếu như giữ nguyên trạng thái này sẽ không có lịch sử hình thành vũ trụ. Từ Thái Cực đã sinh ra một cái đối đãi với nó và không phải nó. Đây là khái niệm "Lưỡng Nghi" trong Lý học Đông phương. Giữa Thái Cực, cái tuyệt đối ( - mô tả vận tốc vũ trụ trong Thái Cực bằng /0/) - với cái đối đãi so sánh với nó ("Sự tiệm cận cái tuyệt đối") thì đã có khái niệm phân biệt. Đây chính là khái niệm Âm Dương . 2.1. Nguyên lý : "Dương trước. Âm sau". Thái cực có trước là Dương và "cái đối đãi với Thái cực và không phải Thái Cực" là Âm sau. Đây chính là cơ sở của nguyên lý được mô tả trong thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt: "Dương trước - Âm sau". 2.2. Nguyên lý: Dương tịnh Âm động. Như vậy Âm - trong khởi nguyên vũ trụ - vừa là sự đối đãi với Thái Cực vừa là cái tiệm cận cái tuyệt đối và không phải cái tuyệt đối. Đó là sự xác định Dương - Thái Cực tịnh - so với "cái đối đãi với Thái Cực và không phải Thái Cực" là động. Nguyên lý này - nhân danh nền văn hiến Việt - được xác định một cách nhất quán trong toàn bộ hệ thống lý thuyết của thuyết Âm Dương Ngũ hành trong phương pháp phân loại vạn vật trong hệ quy chiếu liên quan đến khái niệm Âm Dương (Tính nhất quán và tính hệ thống là tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học được coi là đúng). Trong quá trình tiến hóa của vũ trụ sau khởi nguyên khái niệm Âm Dương mang tính phân biệt đối đãi và không làm thay đổi nguyên lý này. 3. Ngũ hành - bản chất của vật chất khởi nguyên vũ trụ và vạn sự phân loại theo Ngũ hành. Ngay sau khí Thái Cực sinh Lưỡng nghi thì sự tương tác giữa cái Tuyệt đối - Thái Cực và cái "Tiệm cận sự tuyệt đối và không phải tuyệt đối" đã tạo ra một trang thái tồn tại và tiếp đó là sự bùng nổ trong vũ trụ. Đây chính là hiện tượng mà những phương tiện khoa học đã xác định - nhưng giải thích là sự bùng nổ của "vật chất cô đặc" - "điểm kỳ dị"....- .theo thuyết Big bang. Cổ thư gọi là hiện tượng "Hỗn độn" trong khởi nguyên của vũ trụ. Quá trình này được mô tả như sau: Sự tương tác của Lưỡng Nghi sinh ra một dạng tồn tại đầu tiên của vũ trụ - Đó chính là khái niệm "Khí" theo định nghĩa khái niệm "Khí" - Đã công bố trong hội thảo "Phong thủy là khoa học" Tại Khách Sạn La Thành Hanoi, ngày 15. 12. 2009. Đây chính là điều mà Đạo Đức Kinh ghi nhận: "Thiên nhất sinh nhị - Nhị sinh tam - Tam sinh vạn vật". Sự tương tác tiếp tục với những trạng thái vật chất đầu tiên được hình thành và phân loại theo Ngũ hành. Sự tương tác tiếp tục của các trạng thái vật chất đầu tiên này với các trang thái tồn tại khác trước đó phát triển lịch sử tiến hóa của vũ trụ và hiện hữu như ngày này. Điều này có thể mô tả được bằng mô hình toán học của Wofram. Học thuyết của Wofram được mô tả như sau: II. Tính phân loại của thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt - lý giải nghịch lý Cantor. Như vậy, cấu trúc khởi nguyên của vũ trụ được xác định và phân loại theo năm trạng thái tồn tại của vật chất theo thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là Ngũ hành. Điều này giải thích vì sao Ngũ hành nằm trong chiếc bánh chưng vuông thuộc Âm, được vua Hùng ấn chứng và trở thành linh vật của nền văn hiến Lạc Việt. Trong sự tương tác của Âm Dương - Ngũ hành được phân thành 10. Đây là cơ sở lý thuyết của Thập Thiên can (Gốc ở trời). Tất cả những sự mô phỏng này - đến đây - chưa phải là sự hình thành những cấu trúc vật chất được định dạng - thí dụ như khái niệm "hạt cơ bản" của vật ;lý hiện đại. Trong quá trình tương tác - năng lượng tích tụ thành khối lượng - ( "Khí tụ thành hình" theo giải thích của Lý học Đông phương - Đây cũng chính là cơ sở để tôi xác định rằng : "Không có "Hạt của Chúa"). Như vậy, Ngũ hành chính là trạng thái tồn tại của vật chất từ khởi nguyên của vũ trụ. Như vậy, sự phát triển của vạn sự trong lịch sử hình thành vũ trụ như chúng ta thấy được ngày hôm nay chính là bắt đầu từ những trạng thái vật chất khởi nguyên với khái niệm Ngũ hành của học thuyết này. Hay nói cách khác: Ngũ hành chính là thành tố đồng đẳng trong mọi các tập hợp liên quan. Đó là cơ sở để xác định phần sau đây trong định nghĩa về tập hợp: "Tập hợp là khái niệm bao gồm một số phần tử ( vật chất hoặc khái niệm bất kỳ) và tất cả các tương tác của chúng. Để được coi là một phần tử trong một tập hợp thì phần tử đó phải có biểu hiện tính đồng đẳng tối thiểu trong cấu trúc của phần tử đó so với các phần tử khác trong cùng một tập hợp." Điều này giải thích vì sao - khi phân loại theo Bát quái thì Tập hợp quái Khảm gồm: Cây có lõi cứng và to, con ngựa có bờm dài rủ xuống...và cả Mặt trăng, .... Cũng trên cơ sở này và tôi đã viết trong các bài viết trên: Với phương pháp phân loại theo Ngũ hành thì luôn có tập hợp lớn hơn và phủ hợp với Định đề III của Cantor. Nhưng cuối cùng, một tập hợp bao trùm lên tất cả - có thành tố cấu trúc đồng đẳng trong vạn sự của vũ trụ - theo định ngĩa về khái niệm tập hợp của tôi và Thế Trung - chính là Thái Cực. Thái cực chính là cái vô tận lớn nhất và phù hợp giải thích nghịch lý Cantor, phù hợp với Định đề III Cantor và với Định nghĩa về khái niệm Tập hợp. Tự thân Thái Cực chính là cái tuyệt đối và thỏa mãn định để III Cantor và định nghĩa về Tập hợp. KÍnh thưa quí vị: SW Hawkinh phát biểu: Nếu quả thật có một lý thuyết thống nhất thì chính nó sẽ quyết định chúng ta tìm ra nó hay không? Nhưng tôi luôn luôn xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang mơ ước. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
-
Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi điện tới Hội Cựu chiến binh Cập nhật lúc :4:41 PM, 18/02/2011 Cuộc gặp mặt đầu xuân được Hội Cựu chiến binh Việt Nam tổ chức ngày 18/2, tại Hà Nội với sự tham dự của Đại tướng Phùng Quang Thanh và các tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp trong quân đội đã nghỉ hưu tại Hà Nội và 13 tỉnh, thành phố phía Bắc. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gửi điện chào mừng. Bức điện viết: “Tôi thân ái gửi lời thăm hỏi ân cần và lời chào mừng đến các đại biểu về tham dự cuộc họp mặt. Tôi chúc Hội Cựu chiến binh Việt Nam, các cựu chiến binh và cựu quân nhân trong cả nước năm mới mạnh khỏe, hạnh phúc, tiếp tục phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, hoàn thành xuất sác nhiệm vụ năm 2011 của Hội và chuẩn bị thật tốt Đại hội nhiệm kỳ V của Hội Cựu chiến binh Việt Nam vào năm 2012. Nhân dịp này, tôi thân ái gửi lời thăm hỏi ân cần và lời chúc năm mới mạnh khỏe đến các Mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, đến các gia đình cựu chiến binh, cựu quân nhân trong cả nước”. Phát biểu tại buổi gặp mặt, Đại tướng Phùng Quang Thanh đã cung cấp các thông tin chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về bảo vệ chủ quyền biển đảo, xây dựng lực lượng quân đội trong thời gian tới. Theo TTXVN
-
LỜI TIÊN TRI 2011 Nguy cơ chiến tranh cấp quốc gia..... ====================================================== TƯ LIỆU THAM KHẢO Bóng ma chiến tranh ám ảnh Trung Đông BAODATVIET Cập nhật lúc :8:55 AM, 18/02/2011 Trung Đông, khu vực chưa khi nào im tiếng súng, tiếp tục đối mặt với nguy cơ xung đột khi bóng ma chiến tranh Israel-Hezbollah quay trở lại và các “diễn viên chính” âm mưu sắp xếp lại bàn cờ chính trị. >> Vũ khí Nga làm xáo trộn Trung Đông? Tuyên bố của lãnh đạo nhóm Hồi giáo vũ trang Hezbollah (Lebanon) Hassan Nasrallah hôm qua chuẩn bị đánh chiếm miền Bắc Israel và có thể giải phóng khu vực này chỉ trong một ngày trong trường hợp chiến tranh bùng nổ cho thấy sự ổn định mong manh giữa hai nước cũng như nguy cơ bùng phát xung đột khi bão biểu tình đang lan khắp thế giới Arab và vùng Vịnh. Trước đó, trong chuyến tuần tra biên giới cùng Tổng tham mưu trưởng mới Benny Gantz, Bộ trưởng QP Israel Ehud Barack cho biết, Nhà nước Do Thái có thể đưa quân tấn công Lebanon một lần nữa nhằm đối phó với lực lượng Hezbollah. Sức ép lên nhà nước Do Thái và ổn định khu vực không chỉ đến từ nguy cơ chiến tranh với nhóm Hezbollah. Dù giới chức kênh đào Suez hôm qua cho biết, hai tàu chiến Iran chưa qua kênh đào Suez (Ai Cập) và rút đề nghị trung chuyển nhưng kế hoạch này của Tehran khiến Israel phải báo động lực lượng vũ trang. Nhà nước Do Thái tuyên bố, việc cử tàu chiến qua kênh đào Suez của Iran là “hành động khiêu khích”. Nếu đi qua kênh đào Suez thì đây là lần đầu tiên kể từ Cách mạng Hồi giáo 1979, tàu chiến Iran đi qua Địa Trung Hải dọc theo bờ biển của Israel. Bên cạnh đó, trong khi Lybia kêu gọi người dân Palestines đứng dậy tấn công Israel thì Jordan gọi Israel, mặc dù hai nước có hiệp ước hòa bình, là “quốc gia thù địch và khủng bố”. Xe bọc thép xuất hiện tại thủ đô Manama, Bahrain. Theo báo NewYork Times, Tổng thống Mỹ Barack Obama tháng 8/2010 yêu cầu một bản báo cáo mật về tình hình bất ổn trong thế giới Arab. Theo đó, báo cáo dày 18 trang này kết luận nếu không có các thay đổi về chính trị thì “bất ổn ở nhiều quốc gia từ Ai Cập, Bahrain cho đến Yemen chín muồi cho thời cơ nổi dậy của người dân”. Thực tế cũng cho thấy, sau báo cáo Washington trong hầu hết các động thái đều thúc giục hoặc gây sức ép yêu cầu các quốc gia trên thực hiện các cải cách chính trị và nỗ lực cân bằng lợi ích của Mỹ. Trang Debka (Israel) còn cho rằng, Tehran mong đợi thay đổi chế độ tại Bahrain bằng một chính phủ thân Iran đầu tiên trong khu vực Vịnh Arab từ đó thúc đẩy vai trò của những người Hồi giáo Shiite thiểu số tại các quốc gia khác. Chi Hà (tổng hợp) ====================================================== Nếu năm nay chỉ xảy ra cuộc chiến giữa Isarel và Hezbollah, cho dù trên thực tế là quân đội Isarael tấn công lãnh thổ Lebanon thì lời tiên tri này bị coi là sai. Cuộc chiến phải xảy ra giữa hai lãnh thổ và do chính phủ tiến hành thì lời tiên tri này mới được coi là đúng.
-
Muốn tránh bất ổn, phải lo cho dân! Thanh Niên Online 17/02/2011 22:48 Xe tăng tại thủ đô Manama của Bahrain - Ảnh: AFP Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) thúc giục các nước Trung Đông tăng trợ giúp cho người nghèo nhằm tránh bất ổn xã hội có thể khiến chính phủ sụp đổ.Ông Masood Ahmed, Giám đốc IMF khu vực Trung Đông, khẳng định làn sóng biểu tình lật đổ tổng thống ở Ai Cập và Tunisia và đang lan rộng ra nhiều nước khác đã làm nổi rõ việc các chính phủ phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế phục vụ lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân chứ không chỉ một nhóm người trong xã hội. “Làn sóng nổi dậy chứng tỏ tính cấp thiết phải bảo đảm tăng trưởng toàn diện và quản lý hiệu quả nguồn vốn xã hội”, AFP dẫn lời ông Ahmed nói. Những người biểu tình tại các nước Ả Rập tuyên bố mục đích của họ là “lật đổ các chính phủ độc tài”, nhưng các cuộc nổi dậy ban đầu đều xuất phát từ tình trạng giá cả tăng cao, thất nghiệp tràn lan và đời sống khó khăn. Tình hình Ai Cập và Tunisia hiện vẫn khá căng thẳng khi hàng ngàn người liên tục biểu tình, đình công đòi cải thiện đời sống dù các tổng thống Zine al Abidine Ben Ali và Hosni Mubarak đã ra đi từ lâu. Rút kinh nghiệm trước các bài học nhãn tiền vừa qua, Chính phủ Iraq đã tạm hoãn kế hoạch mua chiến đấu cơ F-16 của Mỹ để tập trung cứu trợ dân nghèo. AFP hôm qua dẫn lời phát ngôn viên Chính phủ Iraq Ali Dabbagh và thành viên Ủy ban Tài chính Quốc hội Mohammed Khalil xác nhận khoản ngân sách 900 triệu USD đã được chuyển sang dùng để tăng cường khẩu phần lương thực và phúc lợi xã hội cho người nghèo. Trước đó, Thủ tướng Nuri al-Maliki tuyên bố sẽ tăng tiền hỗ trợ lương thực cho người dân Iraq từ 3 tỉ USD lên 4 tỉ USD. Trong khi đó, bất ổn vẫn đang tiếp diễn tại nhiều nước. Theo AP, cảnh sát Bahrain hôm qua bất ngờ đột kích khu trại của người biểu tình ở Quảng trường Ngọc trai tại thủ đô Manama. Cuộc đụng độ khiến 4 người thiệt mạng và 95 người bị thương. Như vậy, tính đến nay đã có 6 người thiệt mạng trong các cuộc biểu tình chống chính phủ ở nước này. Quân đội Bahrain hôm qua triển khai xe tăng tới Manama và tuyên bố sẵn sàng ra tay tái lập trật tự. Tại Libya, ít nhất 4 người thiệt mạng trong các vụ đụng độ giữa người biểu tình phản đối lãnh đạo Muammar Gaddafi với lực lượng an ninh. Ở Yemen, ít nhất 25 người bị thương do bạo lực giữa 2 phe chống và ủng hộ chính quyền của Tổng thống Ali Abdullah Saleh. Trong một diễn biến khác, Cơ quan quản lý kênh đào Suez của Ai Cập hôm qua cho biết kế hoạch đi qua kênh đào Suez của 2 tàu chiến Iran đã bị hủy bỏ. Trước đó, Ngoại trưởng Israel Avigdor Lieberman gọi kế hoạch trên là “một sự khiêu khích”. Diễn biến này giúp Hội đồng tối cao Các lực lượng vũ trang Ai Cập, đang điều hành đất nước sau khi Tổng thống Mubarak từ chức, tránh một cuộc tranh cãi ngoại giao do nước này có hiệp ước hòa bình với Israel, đối thủ “không đội trời chung” của Iran. Trùng Quang ============================================ Đấy là một yếu tố. Nhưng quan trọng nhất là công bằng xã hội. Sinh thời Hồ Chủ Tịch nói: "Không sợ ít. Chỉ sợ không công bằng".
-
Khủng hoảng chính trị, xã hội..... Dân Bỉ xuống đường phản đối 249 ngày vô chính phủ Thứ Sáu, 18/02/2011 - 06:27 (Dân trí) - Bỉ đã vượt Iraq để trở thành quốc gia kỷ lục thế giới về khoảng thời gian cho một đất nước không có chính phủ. Sự kiện này đã châm ngòi cho các cuộc biểu tình trên khắp nước Bỉ ngày hôm qua. Sinh viên Bỉ xuống đường ngày hôm qua. Hôm qua, Bỉ đã bằng số ngày Iraq không có chính phủ - trong 249 ngày và hôm nay đã phá vỡ kỹ lục này. Người dân nước Bỉ đã tiến hành các cuộc biểu tình trên khắp cả nước để phản đối tình trạng bế tắc chính trị kéo dài kỷ lục ở nước này và yêu cầu các chính trị gia thành lập ngay một chính phủ mới. Hàng trăm sinh viên đã tuần hành tại thủ đô Brussels và các thành phố Ghent, Leuven khi tình trạng bế tắc chính trị tại quốc gia này đã kéo dài 8 tháng nay. Tại Ghent, sinh viên cởi bỏ quần áo chỉ còn mặc đồ lót để đòi hỏi một chính phủ mới. Tại Leuven, sinh viên ăn khoai tây chiên như là một phần của “cuộc cách mạng French fries,” ý muốn nói tới các món ăn quốc gia đặc biệt của Bỉ. Bỉ đã không có một chính phủ kể từ tháng 6 năm ngoái, khi các cuộc bầu cử quốc hội chấm dứt mà không có người thắng rõ ràng. Kể từ ngày đó, các chính trị gia Bỉ từ vùng Flanders nói tiếng Hà Lan ở miền Bắc và vùng Wallonia nói tiếng Pháp ở miền Nam đã cố gắng nhưng không thành công trong việc thành lập một chính phủ đoàn kết. Cuộc biểu tình mới nhất hôm qua nằm trong một loạt các hành động của công dân nhằm chấm dứt tình trạng bế tắc chính trị kéo dài trong thời gian kỷ lục tại châu Âu thời hậu chiến và cũng là kỷ lục thế giới về khoản thời gian cho một nước không có chính phủ. Việt Hà Theo Reuters, AFP
-
MẠN ĐÀM VỀ BÀI VIẾT CỦA LÊ THÀNH KHÔI. Qua bài " Đọc - Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam" của tác giả. Tiếp theo Chúng ta xem tiếp đoạn sau đây của giáo sư Lê Thành Khôi - Bắc đẩu bội tinh Công Hòa Pháp - để thấy sai lầm rất sơ đẳng về tri thức toán học của ông ta và so sánh để thấy được mâu thuẫn không thể chấp nhận trong phương pháp nghiên cứu - tối thiểu và giới hạn trong lĩnh vực văn hóa sử - của ông ta: Đây là một thí dụ: Một tri thức toán học sơ đẳng nhất cũng phải thừa nhận rằng: Mọi đại lượng trong một phương pháp toán phải đồng đẳng. Nhưng ở đây có sự trùng hợp vì tính thiển cẩn tri thức này trong cái gọi là "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "công đồng khoa học thế giới" - mà một trong những đại biểu sáng giá chính là ông Lê Thành Khôi. Họ cùng phát minh ra bài toán chia thời gian trị vì của "Thời đại Hùng Vương" cho 18 vị vua Hùng và kết luận không tin được. Híc! Trong khoa học thì sự phát minh độc lập trùng khớp là chứng nhân của một thiên tài và của nhau. Nhưng ở đây thì nó lỗ rõ một đường dây liên hệ ảo nào đó , hoặc đành phải kết luận: "Dốt như nhau". Cái này tôi nói nhiều rồi. Nhưng có lẽ cũng cần nhắc lại một chút: Trước khi chia 2622 năm - hoặc 2000 như ông Lê Thành Khôi - thì hãy chứng minh 18 đời vua Hùng là có thật đã. Tính siêu hình và phi khoa học của luận điểm này chính là nó dựa vào con số ảo của truyền thuyết "Con Rồng Cháu Tiên" với kết luận : Người con cả lên làm vua, 49 người con khác đi cai trị khắp nơi, truyền được 18 đời (hoặc "thời": Nguyên văn "Thập bát thế"). Như vậy, với con số thực 2622 năm trị vì của thời đại các vua Hùng - hoặc 2000 do ông Lê Thành Khôi đưa ra - chẳng có cơ sở toán học - dù sơ đẳng nhất để chia một con số thức cho một con số ảo cả. Nó sai! Không tin được! Đúng rồi! Vì nó sai ngay trong phương pháp tư duy của ông Lê Thành Khôi và "hầu hết những nhà khoa học trong nước". Làm sao người la có một nhận thức đúng từ một cái sai được (Trừ trường hợp cãi cùn). Mà chỉ có thể từ một cái đúng để chỉ ra một cái sai thôi. Chưa hết. Chúng ta xem tiếp đoạn văn sau đây - ngay trong phần trích dẫn trên: Đây là một sự cắt xén rất thô bạo toàn bản văn của Việt Sử Lược - một cuốn sách được "hầu hết các nhà khoa học trong nước" dẫn chứng làm bằng trong việc phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt trải 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương Tử - cội nguồn của nền văn hóa Đông phương. Luận cứ này lại được lặp lại ở ông Lê Thành Khôi. Không hiểu ai là người phát minh ra tư duy này trước? Hay họ lại là chứng nhận của nhau? Trong Việt sử lược không ghi nguyên văn như vậy, mà ghi là: "Vào thời Trang vương nhà Chu, ở Phong Châu (Hoặc Giao Châu - tôi ko nhớ, làm biếng tra cứu tư liệu) có người lạ dùng ảo thuật thu phục các bộ lạc, lên làm vua tự xưng là Hùng Vương". Vâng! Nguyên văn viết như vậy, chứ có xác định Hùng Vương xuất hiện vào thời Trang Vương đâu? . Chưa hết. Ngay chính trong Việt sử Lược có ghi - đại ý: Việt vương Câu Tiễn - Thế kỷ thứ V . AC - sai sứ sang đề nghị liên kết với Hùng Vương chống nhà Chu làm bá chủ Trung Nguyên". Vậy là thế nào? Một "liên minh 15 bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố", lãnh thổ vỏn vẹn "ở đồng bằng sông Hồng" - đang trong giai đoạn "Dồ đồng phát triển" mà được Việt Vương Câu Tiễn - bá chủ Trung Nguyên - ưu ái đến phải liên kết để lật dổ nhà Chu thống lĩnh thiên hạ cơ à? Kinh thế! Yên, Tần, Sở, Tể, Triệu, Ngụy, Tấn, ..với bao vĩ nhân Tàu đâu cả rồi? Nhưng trong tất cả các luận cứ của "Hầu hết" và "cộng đồng" phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt - tất cả ít nhất đến ngày hôm nay, khi tôi đang gõ hàng chữ này - đều lờ tịt và không bao giờ nhắc tới chi tiết này - trong chính cuốn sách mà họ coi là "có cơ sở khoa học" và "tin cậy được" để phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt. Như vậy, mới chỉ một cuốn sách duy nhất - chứ không phải một đống tư liệu đồ sộ mà ông Lê Thành Khôi khoe một cách đầy tự hào để chê ông Trần Ngọc thêm ít tư liệu, đã cho thấy sự khập khiễng của phương pháp tư duy mà họ tự phong là "khoa học". Bởi vậy, vấn đề ở phương pháp tư duy, chứ không phải là "một cuốn tự vị biết đi". Thật buồn như con chuồn chuồn. Tôi xin lỗi, hơi có lên huyết áp mỗi khi đụng tới 5000 năm văn hóa sử Việt , mà phải phân tích với những tư duy kiểu này. Bởi vậy, nếu có quá lời xin được miễn thứ. Tôi nghĩ chỉ cần đến đây, cũng đủ để chứng tỏ sự sai lầm của quan điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt trải 5000 năm. Có phân tích nữa cũng chẳng được cái tích sự gì. Họ cứ trơ ra thì cũng chịu thôi. Đông quá mà. Cảm ơn quí vị quan tâm.
-
MẠN ĐÀM VỀ BÀI VIẾT CỦA LÊ THÀNH KHÔI. Qua bài " Đọc - Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam" của tác giả. Phàm ở đời, kiến thức bậc thầy mới có thể chê bai. Nhàng nhàng như nhau thì tranh luận góp ý một cách khiêm tốn thôi. Còn biết thân biết phận dốt nát - nhưng có ý thức cầu tiến thí cứ nghe lời ông ta Việt bảo "Biết thì thưa thốt. Không biết thì dựa cột mà nghe". Nhưng đằng này - thời buối kinh tế thị trường - cái "Tôi" được khẳng định - Khách hàng là Thượng Đế - nên ai cũng tưởng minh là Thượng Đế khi mua một mớ rau muống mở hàng cho bà nhà quê khốn khổ. Con người được đề cao trong khía cạnh tiêu dùng, nên không thiếu gì kẻ đắc chí vênh vang, cứ tưởng mình là "nhân vật quan trọng", bày đặt chê bai, để tỏ ra mình cao kiếm chút danh hão với đời. Huống chi hẳn một người như Lê Thành Khôi - giảng dạy ở các trường đại học Pháp, phong hàm giáo sư và có hẳn một cái Bắc Đẩu Bội tinh đeo chơi thì phải là người chắc trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, hiểu âm dương, tinh dịch lý, tứ thư ngũ kinh, tam giáo cửu lưu, bách gia chư tử, kim cổ Đông Tây.... cứ gọi là thuộc làu làu. Nhưng rất tiếc, xem xong bài viết của ông ta thì thật thất vọng. Cá nhân tôi với ông Trần Ngọc Thêm tôi rất kính trọng. Điều mà tôi kính trong nhất với ông ta là khi viết cuốn sách đầu tiên - "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại", tôi đã lấy trong sách của ông rất nhiều tư liệu quý báu mà tôi không có và tất nhiên còn ít hơn ông ấy rất nhiều lần. Đây lại là điểm mà ông giáo sư Lê Thành Khôi - Bắc Đẩu bội tinh của nhà nước Cộng hòa Pháp chê: [quote]Một nhược điểm khác cũng đưa đến kết quả ấy là kiến thức có hạn của tác giả về lịch sử hoàn cầu để so sánh đúng đắn các văn hoá xưa và nay. Chắc tác giả không có nhiều tài liệu để tham khảo và nhiều khi tài liệu lại quá xưa. Sử học và nhất là khảo cổ học đi rất nhanh. Một bài viết cách đây 30 năm khó mà còn giá trị bây giờ (tôi nghĩ đến bài của N. Cheboksarov và W. Solheim dẫn ở tr 33-34 và 69-74). Và thỉnh thoảng người đọc có cảm tưởng rằng vì không đủ bằng chứng khoa học mà tác giả đưa ra ý kiến của một học giả có danh tiếng để bênh vực lời của mình. Nhưng, dù có danh tiếng đến đâu, ý kiến của một học giả mà không có chứng minh thư tịch hay khảo cổ, chỉ là một ý kiến hay một giả thuyết chứ không phải là một bằng chứng khoa học. Chẳng hạn, ở ta, tôi thấy nhiều người (kể cả TNT tr. 49) dẫn Karl Marx để chứng minh "công xã nguyên thuỷ". Nhưng chẳng ai biết công xã nguyên thuỷ là gì ! Và cũng chẳng ai biết được vì không có gì chứng minh dù là thư tịch (chữ viết mới xuất hiện 3100 năm tr. C.N.) hay khảo cổ. Có khi TNT dẫn một tác giả không phải là một người nghiên cứu mà chỉ là một người phổ biến thôi (W. Durant). Chỉ qua đoạn trích dẫn này, đủ để nhận thấy phương pháp nghiên cứu của ông ta sơ cứng, cổ điển theo kiểu "tầm chương trích cú", dẫn sách này sách nọ ra vẻ ta đây nhiều chữ. lòe mấy kẻ học trò đang cắp sách tới trường. Tôi nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận tư liệu, bằng chứng khảo cổ....Nhưng thực tế khách quan của các phát minh khoa học hiện nay, đã cho thấy những phát minh vượt trội luôn luôn không phải căn cứ vào tư liêu được dẫn chứng và những bằng chứng khảo cổ. Mà nó căn cứ vào một tư duy logic có khả năng tổng hợp các sự kiện thu thập được và diễn giải một cách hợp lý toàn diện trên những hiện tượng và vấn đề liên quan (Anh chị em các lớp Phong thủy - hãy tư duy theo hướng này). Những tư liệu văn bản và các hiện tương bao gồm cả di vật khảo cổ chỉ là những vấn đề quan xét trong một hệ tư duy tổng hợp để tìm bản chất của mọi hiện tượng và vấn đề liên quan. Để cho thấy rõ hơn vấn đề: Bản văn chữ Hán chép: "Vua Phục Hy đi tuần ở sông Hoàng Hà, thấy Long Mã bèn phát hiện ra Hà Đồ". Híc! Vậy đây là một văn bản phản ánh đúng thực tế khách quan sao? Đấy chỉ là thí dụ điển hình. Hoặc một thí dụ về khảo cổ: Người ta đào thấy gì ở đâu thì vùng đất đó là chủ nhân sáng tạo ra sản phẩm đó với niên đại tương đương sao? Thật ngớ ngẩn cho những kẻ thiển cận. Cái máy vi tính đang thuộc sở hữu của tôi., vậy tôi phát minh ra nó sao? Ngớ ngẩn. Chỉ một câu sau của ông Lê Thành Khôi - nhưng cấu thành nên hệ tư duy của ông ta và được nhà nước Cộng Hòa Pháp tặng Bắc Đẩu bội tinh, cho thấy cái giá trị của một xã hội trì trệ trong phát triển tư duy khoa học (Nước Pháp cho đến bây giờ chẳng thấy có phát minh nào vượt trội). Nếu quan niệm lịch sử chỉ đơn giản là những bản văn biên niên ghi chép lại thì không có gì để bàn. Nhưng nếu đã coi nghiên cứu lịch sử như là một ngành khoa học thì nó phài hàm chứa trong phương pháp của nó tất cả những ý niệm về khoa học. Nghiên cứu lịch sử so với đọc thuộc lòng các bản văn lịch sử với ghi chép, mô tả những di vật khảo cổ là hai phạm trù hoàn toàn khác nhau. Để đọc thuộc lòng các bản văn lịch sử thì cần một thư ký đánh mấy trình độ lớp 9/12 với bộ nhớ cái máy vi tính không quá 2 megabit (Bây giờ người ta còn phát minh ra trí tuệ bác học có khả năng tổng hợp các tư liệu nữa đấy. Lời tiên tri 2009). Còn những hiện tượng tìm thấy Di vật khảo cổ chỉ có thể coi là một đối tượng tồn tại khách quan trong nghiên cứu lịch sử và chẳng bao giờ là bằng chứng duy nhất để xác định một giả thuyết khoa học trong một kết luận về vấn để mà mục đích nghiên cứu đặt ra. Còn nghiên cứu lịch sử để làm gì? Để cái chai có niên đại 5000 năm có giá hơn cái lọ của gốm sứ Bát Tràng chăng? Để đọc thấy văn bản này vào thời kỳ La Mã viết thế này, vào thời kỳ Ai Cập viết thế kia chăng? Nghiên cứu lịch sử theo khoa học chính là sự tổng hợp các hiện tượng được quán xét (Gồm thư tịch, di vật và tất cả mọi mối quan hệ - kể cả di sản văn hóa phi vật thể) để đư ra một giả thuyết khoa học. Như vậy, giả thuyết khoa học chính là kết quả của nghiên cứu dựa trên sự tồng hợp các hiện tương khách quan đó. Giả thuyết đó có thể đúng và có thể sai , nhưng nó là kết luận sau khi tồng hợp các vấn đề và hiện tượng liên quan và nó có trách nhiệm giải thích một cách hợp lý những hiện tượng và vấn đề liên quan xuất hiện sau đó, nằm ngoài dự liệu ban đầu hình thành giả thuyết. Chứ nó không phải là tiền để có trước để một thư tích hoặc di sản sẽ chứng minh cho nó. Chẳng bao giờ "cái cày đi trước con trâu cả". Giả thuyết khoa học đó có trách nhiệm tiếp tục giải thích những nội dung văn bản và di sản khảo cổ - ngoài cơ sở dữ liệu ban đầu hình thành giả thuyết - chứ nó không phải bắt buộc trong cơ sở dự liệu phải có tư liệu mà ông Lê Thành Khôi có mà ông Trần Ngọc Thêm không có. Việc đánh giá một giả thuyết khoa học đúng hay sai là trên cơ sở tiêu chí khoa học cho một giả thuyết khoa học, còn tư liệu và di vật khảo cổ nằm ngoài dữ liệu ban đầu của giả thuyết chỉ có tác dụng chứng nghiệm cho gải thuyết đó. Giả thuyết đó sẽ bị coi là sai nếu tư liệu đó minh chứng được tính khách quan và mâu thuẫn với giả thuyết. Chứ nó không phải là điều kiện chứng minh cho giả thuyết. Cá nhân tôi chỉ có hai cuốn sách: 1 - Hoàng Đế Nội kinh tối vấn. Theo nội dung bản văn thì thuyết Ngũ Hành ứng dụng cách đây 5000 năm. 2 - Hồng Phạm. Theo nội dung bản văn vua Đại Vũ đi trị thủy ở sông Lạc thấy con rùa , tìm ra Lạc Thư và phát minh ra Ngũ hành cách đây 3000 năm. Vâng chỉ có đúng hai cuốn này. Nhưng tôi có quyền đặt ra một giả thuyết cho rằng: Nền văn minh Hán không phải chủ nhân của thuyết Âm Dương Ngũ hành, Cơ sở của giả thuyết: Không bao giờ một lý thuyết ra đời sau khi nó đã được ứng dụng trước đó đến 2000 năm. Giả thuyết này sẽ được coi là đúng hay sai theo tiêu chí khoa học. Còn tất cả các bản văn, di sản khảo cổ.....mà những ai đó đưa ra làm bằng chứng chỉ có sức phản biện khi giả thuyết của tôi không thể giải thích theo tiêu chí khoa học cho một giả thuyết khoa học. Bởi vậy, với một hệ thống tư duy kiểu này và được nước Công Hòa Pháp tặng huân chương đã chứng tỏ sự sơ cứng trong tư duy thượng tầng tri thức của đất nước này. Họ có đồng cảm với nhau mới tặng huân chương được chứ nhỉ. Nhân danh Lý học Đông phương - phục hồi từ truyền thống văn hóa sử Việt trải gần 5000 năm bên bờ nam Dương Tử. Tôi cảnh báo nước Pháp rằng: Đất nước quí vị sẽ còn nhiều biến động xã hội, ảnh hướng đến sự phát triển của quí vị. Ngay trong năm nay thôi. Còn tiếp.
-
Bài viết dưới đây của một người được chinh phủ Pháp tặng Bắc đẩu bội tinh vì những cái gọi là đóng góp cho văn hóa sử. Nhưng một trong những thành tựu của ông ta là phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt. Nhưng rất tiếc! Mặc dù đầy đủ tư liệu, ngập trong một đống sách vở với ngôn ngữ hàn lâm, tuy nhiên chỉ vì xuất phát từ một khả năng tư duy hạn chế, thiếu tính logic trong phương pháp tối thiểu, nên đầy rẫy lỗi chính tả học thuật. ... Về học thuật, Viện Hàn Lâm Pháp đã từng tặng bằng tiền sĩ cho Lưu Tử Hoa về thành tích minh chứng bằng Dịch học Tàu có hành tinh thứ X trong hệ mặt trời. Híc! Bây giờ người ta đang cãi nhau như mổ bò rằng thí là có hay tính thứ IX hay không? Bởi vậy, thành tựu Bắc đẩu bội tinh của ông này phải xem lại...... Tôi sẽ chứng minh với các bạn điều này. ====================================================== Đọc "Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam" GS Lê Thành Khôi Nguồn Donhtac.net Thứ Ba 6, Tháng Ba 2007, do BTV Khoa hoc Xem thêm: Đọc “Cơ sở văn hoá Việt Nam" của Cao Tự Thanh Cuốn Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam * của ô. Trần Ngọc Thêm (TNT) ra mắt độc giả năm 1996 đã thu hút được sự chú trọng của dư luận và được bằng khen của ô. Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo. Xuất bản lần 3 năm 2001, sách dày gần 700 trang. Lướt qua 6 chương, danh sách 436 tài liệu tham khảo và bảng chỉ dẫn, cảm tưởng đầu tiên là đây là một công trình nghiên cứu có hệ thống, công phu. Ðọc kĩ hơn, tôi thấy thỉnh thoảng có vài sai lầm và một số lập luận phải bàn sâu. Vậy, như tác giả đã gợi ý trong lời nói đầu, tôi xin đóng góp vài lời sau đây. Bài này chỉ liên quan đến Chương I của sách : Cơ sở lí luận cho cách nhìn hệ thống - loại hình về văn hoá Việt Nam (Cái nhìn hệ thống - loại hình là phụ đề của quyển sách). Những chương sau sẽ được bàn tiếp. Trước hết tôi muốn nói là tôi hoàn toàn đồng ý với hai quan điểm phương pháp của tác giả : một là cái nhìn hệ thống, hai là cái nhìn "độc lập", không lấy Trung Hoa hay Âu Tây làm trung tâm nhưng không phủ định ảnh hưởng của họ. Từ lâu tôi đã đi đến kết luận rằng Trung Hoa đã nhận được nhiều đóng góp của Ðông Nam Á (các văn hoá ở miền Nam sông Dương Tử), nhưng vì người Hán đã chiếm lãnh thổ ngày nay của Trung Quốc và, vì có chữ viết, đã viết lịch sử theo cách nhìn của họ (coi các dân tộc khác là man di) nên thế giới thường tưởng rằng văn hoá Trung Hoa hoàn toàn do người Hán lập ra. Mới gần đây thôi các nhà sử học và khảo cổ học mới nhận có sự đóng góp của nhiều văn hoá trong sự hình thành của văn hoá Trung Hoa, như trong 2 quyển sách xuất bản năm 1999 : Yang Xiaoneng, ed., The Golden Age of Chinese Archaeology (Washington) và M. Loewe and E.L. Shaughnessy, eds, The Cambridge History of Ancient China : From the origins of Civilization to 221 B.C. (Cambridge University Press). Trung Hoa, trong giai đoạn từ đồ đá giữa đến đồ đá mới (7000-2000 trước C.N.), nông nghiệp đã nhô lên với hai loại cốc chính : kê ở miền sông Hoàng Hà và lúa ở miền sông Dương Tử. Những vết tích sớm nhất của lúa gạo đã tìm thấy trong một động ở Hồ Nam, vào khoảng 12.000 năm trước C.N., kê thì muộn hơn một tị ở miền trung sông Hoàng Hà. Trong mỗi miền trồng trọt có 3 vùng văn hoá chính, từ Tây sang Ðông, ở miền Bắc : Yangshao, Dawenkou và Hongshan ; ở miền Nam : Daxi, Liangzhu và Dapenkeng. Mỗi văn hoá có đặc trưng của mình trong hình dạng và trong trang trí của đồ gốm, đồ tạo bằng đất nung (và ngọc ở Hongshan và Liangzhu). Giữa các văn hoá có sự trao đổi, bằng chứng là một số hoa văn như là rồng rắn và mặt nạ súc vật. Ưu điểm thứ nhì của TNT là cái nhìn hệ thống, từ môn học gốc của ông. là ngôn ngữ học : ngôn ngữ là một hệ thống. Nhưng nó có thể trở thành nhược điểm nếu không thấy tất cả sự phức tạp của một hệ thống khác, hệ thống xã hội : ngôn ngữ ít mâu thuẫn, xã hội nhiều mâu thuẫn. TNT viết rằng ông nhìn một cách tổng hợp, biện chứng. Nhưng chữ biện chứng ở đây dùng với nghĩa "trung cổ" của nó nghĩa là dùng mọi cách để thuyết phục đối phương chứ không với nghĩa "triết" của nó từ Héraclite, Hegel và Marx ở Âu Châu, từ hơn 2000 năm ở Á Châu với Kinh Dịch. Theo phép lí luận này phải coi 4 quy luật của sự vật : vận động không ngừng, tương tác, mâu thuẫn, chuyển từ lượng sang phẩm. Yếu tố quan trọng là sự mâu thuẫn. Hegel đã viết trong Lôgic : "Mâu thuẫn là gốc của mọi vận động... chỉ trong mức độ nó có mâu thuẫn thì một sự việc mới có thể thay đổi, hành động...". Nếu không có mâu thuẫn trong xã hội thì cũng không có lịch sử. Nếu tôi không nhầm thì TNT không dùng chữ mâu thuẫn. Và vì không nhìn thấy mâu thuẫn nên nhiều khi TNT có những khái quát quá đơn giản. Tôi sẽ trở lại vấn đề này. Một nhược điểm khác cũng đưa đến kết quả ấy là kiến thức có hạn của tác giả về lịch sử hoàn cầu để so sánh đúng đắn các văn hoá xưa và nay. Chắc tác giả không có nhiều tài liệu để tham khảo và nhiều khi tài liệu lại quá xưa. Sử học và nhất là khảo cổ học đi rất nhanh. Một bài viết cách đây 30 năm khó mà còn giá trị bây giờ (tôi nghĩ đến bài của N. Cheboksarov và W. Solheim dẫn ở tr 33-34 và 69-74). Và thỉnh thoảng người đọc có cảm tưởng rằng vì không đủ bằng chứng khoa học mà tác giả đưa ra ý kiến của một học giả có danh tiếng để bênh vực lời của mình. Nhưng, dù có danh tiếng đến đâu, ý kiến của một học giả mà không có chứng minh thư tịch hay khảo cổ, chỉ là một ý kiến hay một giả thuyết chứ không phải là một bằng chứng khoa học. Chẳng hạn, ở ta, tôi thấy nhiều người (kể cả TNT tr. 49) dẫn Karl Marx để chứng minh "công xã nguyên thuỷ". Nhưng chẳng ai biết công xã nguyên thuỷ là gì ! Và cũng chẳng ai biết được vì không có gì chứng minh dù là thư tịch (chữ viết mới xuất hiện 3100 năm tr. C.N.) hay khảo cổ. Có khi TNT dẫn một tác giả không phải là một người nghiên cứu mà chỉ là một người phổ biến thôi (W. Durant). Tiện đây tôi muốn nói về "4000 năm văn hiến" của Việt Nam (tr.27). 4000 năm nghĩa từ -2000 đến bây giờ. Nếu tính có 18 vua Hùng trị vì từ -2000 đến -258 (lúc mất nước cho An Dương Vương) nghĩa là trong 1742 năm có 18 vua, mỗi vua trị vì gần 100 năm : ai tin được ? Theo Việt sử lược thì nước Văn Lang ra đời vào thời Trang Vương nhà Chu (696-681). Như thế còn có thể tin được vì mỗi vua Hùng trị vì hơn 20 năm. Tất cả các truyện về Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân đều là huyền thoại tổ tiên ta bịa ra (cũng như người Hán bịa ra Tam Hoàng) để có một "lịch sử " gần xưa bằng Trung Hoa. Nhưng huyền thoại vẫn có thể phân tích và hiểu theo góc dân tộc học. Và một huyền sử hay một giả thuyết có thể thành sự thực một khi đã được khảo cổ học chứng minh. Ta có thể lấy thí dụ nhà Hạ mà trước kia nhiều người coi là hoang đường. Nhà Hạ đã thành (một phần) sự thật trước nhà Thương từ khi đào được địa điểm Erliton ở Hà Nam. Cacbon 14 cho biết văn hoá Erliton có từ -2000 đến -1600 (nhà Thương : từ thế kỉ 16 đến thế kỉ 11 trước C.N.) 1. Một điểm khác làm tôi ngạc nhiên là TNT (và nhiều nhà dân tộc học ở Việt Nam) nhầm mẫu hệ (matrilinéarité) và mẫu quyền (matriarcat) (tr 54). Mẫu hệ nghĩa là con cái nhận tên và của cải của... giòng mẹ (mẹ, anh em mẹ....). Mẫu quyền là đàn bà cầm quyền trong xã hội. Hai sự việc khác nhau. Rất ít xã hội có mẫu quyền. Tôi đi công tác ở Phi Châu gặp nhiều tộc mẫu hệ, nhưng ở đâu cũng là đàn ông cầm quyền. Ở Vân Nam, người Naxi mà nhiều người gọi là theo mẫu quyền sự thật chỉ theo mẫu hệ. Ðàn bà tự do chọn đàn ông làm bạn, tiếp họ ban đêm, trước sáng họ đi. Con chỉ biết mẹ không biết bố. Trong gia đình quyền chia giữa mẹ và bác. Người bác có nhiều quyền hơn 2. Dù sao, địa vị của người đàn bà trong một xã hội mẫu hệ cao hơn là trong một xã hội phụ hệ. Nay tôi đến hai vấn đề chính cho cơ sở lí luận của TNT ở Chương I : Khái niệm văn hoá và loại hình văn hoá. Về khái niệm văn hoá, ai cũng biết có hàng trăm định nghĩa. TNT định nghĩa văn hoá là "một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình" (tr.25) Ðịnh nghĩa này gần định nghĩa của Hồ Chí Minh mà TNT dẫn ở trang 4, nhưng rất xa câu sau của Edouard Herriot mà ông dẫn như sau: "Văn hoá là cái tồn tại khi ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả". Tôi thấy định nghĩa này, đúng về cá nhân chứ không đúng về xã hội, không những thiển cận mà còn có tính cách giai cấp : "tất cả" là gì đối với một người nhà quê và một người trí thức ? ai học được "tất cả" ? Tôi định nghĩa văn hoá là "một tổng thể các sáng tạo vật chất và không vật chất của một cộng đồng người trong quá trình quan hệ với thiên nhiên và với những cộng đồng người khác, những sáng tạo mà có với họ hay với phần đông của họ một ý nghĩa riêng xuất phát từ lịch sử đã qua hay hiện hành của họ mà các cộng đồng khác không chia sẻ" (Lê Thành Khôi, Culture et Développement, Revue Tiers Monde, no 97, janvier-mars 1984, tr.15). Ðịnh nghĩa này nhấn mạnh vào ý nghĩa của văn hoá. Một yếu tố cùng một gốc có thể có một ý nghĩa khác từ nước này sang nước khác, từ tộc này sang tộc khác : đạo Phật ở Tây Tạng khác đạo Phật ở Trung Hoa, đạo Phật ở Trung Hoa khác đạo Phật ở Việt Nam, ở Nhật Bản, v.v. Văn hoá là sản phẩm của một cộng đồng chứ không phải của "con người" : "con người" là ai ? có thể tách rời xã hội được không ? Trong một xã hội có giai cấp, các "giá trị" không cùng một nghĩa cho mọi người. Giáo dục mới nhìn có thể coi là một giá trị phổ thông. Nhưng giáo dục cũng là một dụng cụ chính trị cho giai cấp thống trị nhằm thiết lập hệ tư tưởng của mình. Ðó chính là nghĩa chữ " giáo " trong nho giáo : vua "giáo" dân nhưng dân không "giáo" được vua ! Trái lại giai cấp bị trị có thể dùng giáo dục để chống lại. Cố nhiên nội dung sẽ khác. Sự kiện này rất rõ ràng ở Âu Tây trong thế kỉ 19. Giai cấp công nhân đã mở những lớp phổ thông, dạy lẫn nhau, những đại học bình dân, để chống lại giai cấp tư sản. Cho nên tôi không đồng ý với TNT khi ông viết : "Văn hoá thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội... văn hoá chỉ chứa cái đẹp" (tr.21), "không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường nhằm tự bảo vệ để tồn tại và phát triển..., là động lực cho sự phát triển" (tr.23), "thường xuyên tự điều chỉnh" (tr.24). Rõ ràng TNT không nắm được quy luật mâu thuẫn của biện chứng pháp, cái quy luật mâu thuẫn là động cơ của lịch sử. Văn hoá không phải "chỉ chứa cái đẹp", không phải thường xuyên "tự hoàn thiện", "tự điều chỉnh", "là động lực cho sự phát triển". Nếu thật như thế thì làm sao giảng nghĩa được sự suy đồi của Trung Hoa và Việt Nam ở thế kỉ 19 ? Chính vì văn hoá của hai nước này không biết "tự hoàn thiện" mà đã bị Âu Tây xâm lăng, biến thành bán thuộc địa và thuộc địa. Trong khi đó thì Nhật Bản với một nền văn hoá không khác mấy (ở đây Tống Nho cũng là tư tưởng thống trị) đã biết thay đổi thích nghi mà giữ được độc lập của mình. Tại sao có hai hình trạng khác nhau ? Ta không được quên rằng văn hoá bao giờ cũng hành động theo cách hiểu của mỗi xã hội và nhất là của giai cấp thống trị trong xã hội đó. Ở Trung Hoa và Việt Nam, giai cấp thống trị là quan lại nhà nho chọn lọc qua thi cử : nho giáo là chủ nghĩa pháp hoá quyền lực của họ. Ở Nhật thì khác : giai cấp thống trị là võ sĩ cha truyền con nối : nho giáo đối với họ chỉ là một dụng cụ chính trị. Thời thế thay đổi họ có thể tìm một dụng cụ thích hợp hơn. Một đằng khác là võ sĩ thì luôn luôn phải để ý đến quan hệ lực lượng. Võ sĩ Nhật đã thấy ngay sức mạnh của Âu Mĩ và biết mình không địch được : thà rằng mở cửa và giữ độc lập còn hơn là đóng cửa và mất nước. Cuối cùng người Nhật có một truyền thống tiếp nhận những thành tựu của nước ngoài : từ thế kỉ 6 đã tiếp thu nho giáo, đạo giáo, phật giáo, chữ viết, từ Trung Hoa qua Triều Tiên; từ thế kỉ 16 tiếp thu tây học, làm súng theo kiểu Âu, đến thế kỉ 19 tiếp thu khoa học, kĩ thuật, văn học của Âu Mĩ. Trung Hoa thì kiêu căng, vẫn coi mình là trung tâm của thiên hạ, Âu Mĩ là man di. Còn Việt Nam thì chỉ biết có "thiên triều". Thật sự ở hai nước có một vài người thức thời nhưng họ không có quyền hành. Vẫn trong chiều hướng đó, tôi không tin như TNT rằng "mỗi dân tộc đều cố gắng tận dụng các thành tựu của các dân tộc, quốc gia lân bang để làm giàu thêm cho nền văn hoá của mình" (tr.29). Lịch sử cho thấy nhiều văn hoá không tiếp thu những thành tựu bên ngoài vì cớ này hay cớ khác, vì muốn "giữ bản sắc của mình". Ở Trung Hoa từ thế kỉ 17 các thày tu dòng Tên (Jésuites) đã mang đến nhiều kiến thức toán, thiên văn và địa lí học tiến bộ hơn những kiến thức của người Hán, nhưng không ra khỏi triều đình nhà Thanh. Một thí dụ còn điển hình hơn là văn hoá Hồi đã tiếp nhận giấy của Trung Hoa nhưng không tiếp nhận nghề in. Năm 751 ở Trung Á cạnh sông Talas quân Ả rập thắng quân nhà Ðường đã học của người Hán nghề làm giấy và từ đó đã truyền cho châu Âu. Nhưng họ không học nghề in (xuất hiện ở Trung Hoa vào thế kỉ 9) tuy buôn bán với Trung Hoa và biết Trung Hoa biết in. Tại sao vậy ? Bởi vì đối với người Hồi sách Coran là lời nói của chúa Allah, nếu in ra thì sẽ mất giá trị thiêng liêng. Cho nên đến năm 1726 mới có một nhà in của người Hồi ở Thổ Nhĩ Kì, nhưng chỉ in những sách khoa học, kĩ thuật, ngôn ngữ và lịch sử, không được in sách về đạo và pháp luật (luật Hồi theo đạo). Chính vì không chịu in sách mà văn hoá Hồi, rực rỡ trong mấy thế kỉ, dần dần suy. Về loại hình văn hoá, TNT bắt đầu từ sự hình thành các chủng người trên thế giới (tr.33). Nhưng các tài liệu tham khảo viết từ 30 năm nay bây giờ đã lạc hậu ! Bây giờ ai cũng nhận là loại người xưa nhất là Australo-pithecus và Homo habilis đều xuất hiện ở Phi Châu (mà chỉ thấy ở Phi Châu thôi) cách đây từ 7 triệu đến 4 triệu năm. Còn homo sapiens sapiens (người hiện nay) thì xuất hiện cách đây 40.000 năm ở Tây Á (Palestin, Syria) với nông nghiệp, du mục, đồ gốm và đá mài. Khoảng 3100 năm trước C.N. thì chữ viết ra đời gần như cùng một lúc ở Lưỡng Hà (Mésopotamie) và Ai Cập. Ở Trung Hoa thì chữ viết ra đời chậm hơn, vào khoảng 1500 năm tr. C.N. Ở đâu người cũng bắt đầu sống bằng hái lượm, săn bắn, câu cá. Trừ một vài khu địa lí không thuận tiện cho sự trồng trọt, thường thường nông nghiệp xuất hiện cùng với du mục, ở miền Lưỡng Hà cũng như ở lưu vực sông Hoàng Hà hay sông Vị (không có sách mới nào nói người Hán đến từ Trung Á). Cố nhiên sự quan trọng của nông nghiệp hay du mục tuỳ theo địa lí và khí hậu ở mỗi nơi. Cho nên tôi không tin rằng du mục một đằng, nông nghiệp đằng khác đã đưa đến hai loại hình văn hoá khác biệt, một bên trọng động vì phải "thường xuyên di chuyển" (phương Tây) một bên trọng tĩnh vì phải "lo dựng một cuộc sống ổn định lâu dài" (phương Ðông). Không thể giải nghĩa hai hay ba nghìn năm văn hoá bằng tâm lí được. Ðứng về phương diện phương pháp luận, để giảng nghĩa một sự khác biệt giữa hai văn hoá, cái "gốc" không quan trọng bằng những sự kiện kinh tế, xã hội, chính trị "đương thời". Mà trong 2000 năm nông nghiệp là nghề chính của đại đa số nhân dân trên thế giới. Nếu ta coi lịch sử thế giới từ 2000 năm nay, mỗi xã hội có thời "tĩnh" và thời "động". TNT viết rằng "chính vì động cho nên văn hoá phương Tây đã chuyển biến rất nhanh" (tr.38). Sự thật mà ông quên là Âu Tây đã "tĩnh" trong 1000 năm từ sự sụp đổ của La Mã (thế kỉ 5) đến thời Phục Hưng (thế kỉ 15) từ đó mới tiến nhanh. Tinh thần chinh phục thiên nhiên mới nẩy nở từ đó chứ không phải "luôn" như ông viết (tr.39). Mà nếu nó nẩy nở chính vì có một giai cấp tư bản (tài chính và thương mại) đã xuất hiện với một chủ nghĩa mới : chinh phục thiên nhiên để giành lợi. Lợi lộc là một động cơ rất lớn. Trước kia, thời Trung Cổ "tĩnh" vì sự thống trị của đạo Ki-tô coi việc cần của con người là sửa soạn cho thế giới "bên kia" chứ không phải là hưởng thụ "bên này". Ở phương Ðông cho đến thế kỉ 15, văn hoá Trung Hoa tiến nhanh hơn văn hoá Âu rồi sau đó suy dần cho đến nửa thế kỉ 20. Văn hoá Ả-rập thì "tĩnh" rồi "động". Ðộng cơ ở đây không phải là sự mưu cầu lợi nhuận như ở Âu Tây mà là một đạo mới, đạo Hồi, nảy nở ở thế kỉ 7. Chỉ trong hơn một thế kỉ, người Ả-rập đã lập một đế quốc rộng lớn từ miền tây Ðịa Trung Hải (gồm Tây Ban Nha và Bồ Ðào Nha) đến Trung Á và Sind (ở Ấn Ðộ). Ðối với họ, chiến thắng chính là dấu hiệu biểu lộ chân lí của đạo mới. Ðiều lí thú, đi trái ngược hẳn lí thuyết của TNT là dù "tĩnh" hay "động" nghề chính của người Ả-rập là du mục. Những thí dụ trên đây và nhiều thí dụ khác cho thấy sự phân chia hai loại hình văn hoá theo gốc du mục hay nông nghiệp không có cơ sở khoa học. Còn nhiều khẳng định của TNT cũng như thế, trái với sự thật lịch sử : "Tất cả những cuộc chiến tranh xâm lược đều do những dân tộc thuộc loại hình văn hoá động gây ra cho những dân tộc thuộc loại hình văn hoá trọng tĩnh (hoặc tĩnh hơn)" (tr.47). Sự thật có rất nhiều chiến tranh xâm lược do một nước " tĩnh "mạnh gây cho một nước cũng "tĩnh" nhưng yếu hơn (hay bị coi là yếu), chẳng hạn Nhật Bản đối với Triều Tiên, Việt Nam đối với Chiêm Thành hay Campuchia, chưa kể người Hán đã thôn tính bao nhiêu dân tộc, gần đây nhất là Tây Tạng. "Phương Tây coi trọng cá nhân" (tr 35 và 48). Nói thế là không đếm xỉa gì đến bao nhiêu thế kỉ nô lệ ở Âu Châu tuy chính TNT đã dẫn Aristote viết rằng "nô bộc là hạng người sinh ra để làm công cụ cho lớp thống trị và phụ nữ là để sản xuất và nuôi con" (tr.51). Tôi thì thấy rằng địa vị phụ nữ ở Việt Nam cao hơn ở Pháp cho đến thế kỉ 20. "Trọng tĩnh là dân chủ, trọng động thì quân chủ" (tr.48). Thật lạ. Nhìn qua lịch sử thế giới từ 4-5000 năm tới nay gần như hầu hết các xã hội đều theo chế độ quân chủ cho tới thế kỉ 19 hay 20. Mà bây giờ có bao nhiêu chế độ gọi là "cộng hoà" mà thật sự là "quân chủ" lối mới, nghĩa là có một người độc tài cầm quyền. Và ở đâu cũng trọng nam hơn nữ vì sức lao động và sức chiến đấu cao hơn (cố nhiên địa vị người đàn bà có khác tuỳ theo nước). "Quy luật chung là chiến tranh thường đi từ vùng du mục hơn đến vùng nông nghiệp hơn, ngược lại văn hoá lại thường đi từ vùng nông nghiệp hơn đến vùng du mục hơn" (tr 52) : quy luật thật là chiến tranh là một dụng cụ chính trị của kẻ mạnh hơn (hay nghĩ là mình mạnh hơn) gây ra cho kẻ yếu hơn (hay bị coi là yếu hơn). Giữa các nước Tây lẫn nhau, giữa các nước Ðông lẫn nhau : La Mã xâm lăng Ai Cập và Ba Tư nhưng Ba Tư trước đó đã xâm lăng Hi Lạp, v.v. Còn văn hoá thì cũng đi nhiều đường từ Ðông sang Tây (không nên quên rằng đạo Ki-tô sinh ở Á Châu), từ Tây sang Ðông (văn hoá công nghiệp và kĩ thuật), từ Bắc xuống Nam (Khổng giáo), từ Nam lên Bắc (Ðạo giáo sinh ở miền Nam sông Dương Tử), từ một trung tâm nào đó lan rộng toàn thế giới (các tôn giáo lớn, khoa học hiện đại). Về toạ độ và tiến trình của văn hoá Việt Nam, tôi đã dẫn ở trên những phát minh khảo cổ gần đây và sự công nhận của giới khảo cổ học về sự đóng góp của các văn hoá không Hán cho nền văn hoá Trung Hoa. TNT dẫn một bài của Solheim viết từ 1971 trong đó Solheim đưa ra một số giả thuyết về tiền sử Ðông Nam Á châu. Bây giờ những giả thuyết đó đã bị bác bỏ. Không ai phủ nhận rằng bước đầu của văn minh loài người đã xuất phát ở Tây Á như tôi đã dẫn ở trên. Ở Ðông Á, văn hoá đồng của Ðông Sơn xuất hiện chậm hơn văn hoá đồng của người Hán, 1 thiên niên kỉ chậm hơn. Ðối với những tượng và mặt nạ bằng đồng không Hán tìm thấy ở Tứ Xuyên hay Giang Tây cũng chậm hơn từ 500 đến 700 năm (xem Yang Xiaoneng, sđd). Bây giờ không thể viết như Hà Thúc Cần (dẫn tr. 83) hay Hà Văn Tấn (dẫn tr. 85) rằng văn hoá Ðông Sơn đã ảnh hưởng Vân Nam, Quảng Tây và cả đất Sở. Năm 2001 tôi đi chơi Vân Nam được dịp xem bảo tàng Côn Minh, ở đó có trưng bày nhiều cổ vật bằng đồng của văn hoá Ðiền (tên hồ cạnh Côn Minh) tìm thấy ở những mộ vua chúa khoảng 600 đến 300 tr. C.N. Có đồ giống đồ Ðông Sơn (một số trống và chuông, có hoa văn chim, mặt trời, hình tròn ở giữa có điểm, ếch tượng trưng khả năng phồn thực, v.v.), có đồ khác (thạp đựng ốc tiền). Ðây là một vương quốc giàu, ở một giai đoạn tổ chức xã hội cao hơn Ðông Sơn còn ở tình trạng bộ lạc, buôn bán với người Hán, Ấn Ðộ, Tây Tạng, Miến Ðiện. Tôi nghĩ rằng Ðiền và Ðông Sơn cùng thuộc về một loại văn hoá đồ đồng lan rộng từ miền Nam sông Dương Tử cho tới các hải đảo (trống đồng cũng có ở Phi Luật Tân, Java, Lào, Cao Mên v.v.), khác văn hoá đồ đồng của người Hán thời Thương và Tây Chu, nhưng chịu ảnh hưởng của họ qua sự trao đổi hàng hoá (ảnh hưởng này rõ rệt ở các gương đồng, đồ nữ trang bằng ngọc tìm thấy ở Ðiền v.v.). Ở đây tôi cũng muốn nói là tôi không đồng ý với Hà Văn Tấn khi Tấn viết rằng "có một hệ thống chữ Việt cổ thời các vua Hùng" (dẫn tr.94-96) : 20 chữ - nếu đúng là chữ viết - không đủ để thành một "hệ thống". Một "hệ thống" dùng đúng nghĩa của nó phải có vài nghìn chữ đủ để tả cảnh vật, diễn đạt tính tình và ý niệm. Ở Trung Hoa cuối thời nhà Thương (thế kỉ 11 tr. C.N.) người Hán đã có 5000 chữ. Cuối cùng có một điểm cần xét lại. Trang 90, TNT (cũng như nhiều người khác) viết rằng nhà Lí "xây Văn Miếu năm 1070, lập Quốc Tử Giám năm 1076". A. Poliakov đã nghiên cứu vấn đề này, năm 1990 ở Hà Nội có đưa cho tôi bài viết của ông, Etudes Vietnamiennes đăng ở số 3, septembre 1991, tr 27-36 : " Sur la date de construction du Van Mieu". Theo Poliakov, chỉ có Ngô Sĩ Liên mới biên sự kiện này, không thấy ghi ở các sử trước (Lê Văn Hưu, Việt sử lược v.v.). Thời đó Phật giáo là quốc giáo, chưa có nhiều nhà nho để dạy học và tổ chức thi cử. Ngô Sĩ Liên viết rằng thái tử Lí đến học ở Văn Miếu sau khi Văn Miếu được xây dựng, nhưng lúc bấy giờ mới có 4 tuổi ! Chỉ đến thế kỉ 13 nho giáo mới bắt đầu phát triển. Chương 2 tìm hiểu những giá trị văn hoá nhận thức, nghĩa là những triết lí giải thích bản chất của vũ trụ, cấu trúc không gian và thời gian. Theo Trần Ngọc Thêm (TNT), âm dương ngũ hành có nguồn gốc ở phương Nam, bát quái thì nguồn gốc phương Bắc, tuy người Hán (TNT dùng chữ "Hoa tộc" không đúng) " đã có công rất lớn trong việc tổng hợp tri thức rồi hệ thống hoá và phát triển chúng" (tr. 98). Lập luận của TNT không thuyết phục tôi vì những lẽ sau này : Lẽ thứ nhất rất đơn giản là không thể khái niệm hoá nếu không có chữ viết. Một vật cụ thể ai cũng nhận được không cần phải nghĩ xa xôi. Từ thượng cổ ở đâu cũng biết phân biệt nam nữ ngày đêm vì đó là tự nhiên thôi (trời sáng trời tối). Ngày đêm, sáng tối đưa đến đen trắng : ngôn ngữ nào cũng có tối thiểu là 2 màu đen và trắng (TNT dẫn khảo sát của Berlin và Kay, tr. 135). Ðó cũng là nghĩa đầu của âm và dương : âm là sườn núi tối (mặt trăng), dương là sườn núi sáng (mặt trời). Nếu nói "gốc" thì âm dương là nhận thức của mọi người chứ không phải của riêng Ðông Nam Á hay Tây Bắc Á. Trừu tượng hoá âm dương để thành một triết lí thì phải có chữ viết. Chữ viết không những có chức năng truyền thông rộng hơn là tiếng nói, mà còn cho phép trữ kiến thức, tăng thêm nó, phổ biến nó, và nhất là phát triển tư tưởng phê bình và khoa học. Tôi không nói là một xã hội truyền khẩu không biết phê bình. Nhưng họ chỉ biết phê bình cái gì họ nghe và thấy. Nghe một nhà hùng biện có thể bị lôi kéo mất óc phê bình. Chữ viết cho phép đọc từng dòng từng chữ, đọc đi đọc lại, có thời giờ ngẫm nghĩ suy luận, đối chiếu nhiều ý kiến. Và chữ viết cho phép trừu tượng hoá, mở đầu cho khoa học. Không có chữ viết không có khoa học, đó là một sự thật không ai chối cãi. Nhất là toán học, một dụng cụ chủ yếu của khoa học. Ta có thể làm vài tính thường trong óc. Nhưng tính phức tạp thì không được, phải viết trên giấy. Triết lí cũng vậy (chưa nói đến triết học). Triết lí cần chữ viết để trừu tượng hoá quan niệm thông thường, để dựng một hệ thống có quy củ, để xem xét, phê bình, sửa đổi. Người Việt dù có 20 chữ hay 200 chữ cũng không đủ để trừu tượng hoá âm dương thành triết lí. Người Hán thì có thể vì có chữ từ thế kỉ 16 TCN, đến thế kỉ 11 TCN đã có 5000 chữ. Chữ "văn" trong văn hoá hay văn minh không có nghĩa là "đẹp" như TNT viết tr. 27, mà nghĩa là "chữ viết". Ði đôi với sự xuất hiện của chữ viết là sự xuất hiện của một loại người lấy chữ làm nghề. Ðó là loại sĩ, có người thì làm việc cho triều đình (soạn và giữ các văn kiện, bói toán, làm cố vấn cho nhà vua), có người thì dạy học, suy nghĩ, viết sách. Chỉ có nhóm này mới có thời giờ và tri thức để xây dựng một hệ thống tư tưởng triết lí. Mà nhóm này chỉ có ở người Hán. Ở Việt Nam cũng như ở tất cả miền Nam sông Dương Tử không nơi nào có những điều kiện ấy, nhất là đủ chữ và người để nghiên cứu triết lí. Có "gốc" không đủ để đi đến một quan niệm và cũng không đủ để đi đến một khái niệm. Nhất là khi "gốc" là của toàn thế giới ! Trừu tượng hoá "nữ" = "tối", "nam" = "sáng" không phải văn hoá nào cũng làm (hay làm được). Và nói như TNT rằng ngũ hành và bát quái là sản phẩm của hai dân tộc khác nhau vì có sách chỉ nói đến bát quái không nói đến ngũ hành, hay vì trong ngũ hành và bát quái cùng một số hiện tượng (đất, nước, lửa) có những tên khác nhau, do đó phải xuất phát từ hai kiểu tư duy khác nhau, thì đó là chuyện thường trong văn học. Ở một trình độ nào đó trong một nước, về một vấn đề có nhiều ý nghĩ khác nhau, cùng một chữ có nhiều cách hiểu. Trong một nước Pháp có bao nhiêu sách khác nhau nói về tư tưởng của Marx ! Khổng giáo và Phật giáo cũng thế. Ở Tây Tạng có 4 phái đều được coi là chính phái của Phật giáo ! Nói về nước Việt ta thì phải công nhận ta không có óc triết học (người Nhật Bản cũng thế). Ngoại trừ mấy thiền sư thời Lí-Trần, ta không có một nhà triết học nào cả. Lê Quý Ðôn mà nhiều người gọi là một nhà triết học, sự thật chỉ là một người sưu tập. Một lẽ cuối cùng mà TNT không nhận thấy là một mâu thuẫn lớn giữa tín ngưỡng cổ của người Hán và người Việt. TNT viết (tr. 99) : "đất được đồng nhất với mẹ, trời được đồng nhất với cha" (trong quan niệm của người nông nghiệp). Sự thật người Việt cổ coi trời là mẹ chứ không phải là cha, như trong câu : Ông Trăng mà lấy Bà Trời Chính TNT cũng nói đến Bà Trời trong Chương 4, §13,2, nhưng khi viết Chương 2 thì quên đi ! Chắc rằng ta nói Bà Trời, Bà Ðất, Bà Nước, v. v. , vì lúc bấy giờ ta còn ở chế độ mẫu hệ trong khi người Hán đã sang chế độ phụ hệ. Sau này bị Hán xâm chiếm và ảnh hưởng, ta mới sang chế độ phụ hệ và gọi Trời là Ông. Ở thời Thượng cổ ta gọi Trăng là Ông trong khi người Hán thì coi là âm (nữ) đối với mặt trời (dương). Tất cả những lí lẽ trên đây đưa đến kết luận là triết lí âm dương ngũ hành là gốc Hán chứ không phải là gốc Việt. Từ Chương 3 đến Chương 6, TNT lần lượt phân tích văn hoá Việt Nam : tổ chức cộng đồng (đời sống tập thể và cá nhân) ; ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội. Ở đây cơ sở lập luận vững hơn là ở hai chương đầu : TNT hiểu biết văn hoá Việt Nam nhiều hơn là văn hoá nước ngoài và lịch sử thế giới. Tuy nhiên vẫn có nhiều câu không đúng khi so sánh Việt Nam với Trung Quốc hay "phương Tây" và nhất là về phương diện phương pháp luận. Trong Chương 3 : "Văn hoá tổ chức cộng đồng : đời sống tập thể", khác với lời viết của TNT (tr. 180), dòng họ rất quan trọng ở Tây Âu thời La Mã và phong kiến. "Cá nhân" xuất hiện từ thời Phục Hưng (thế kỉ 15), gia đình hạt nhân thì với chủ nghĩa tư bản và công nghiệp. Ở người slav dòng họ (zadruga) quan trọng cho tới thế kỉ 19. Trung Hoa cũng coi trọng gia tộc không kém Việt Nam, nhưng đó là gia tộc phía đàn ông, trong khi Việt Nam coi trọng cả hai dòng (nội và ngoại) tuy "nội" vẫn được trọng hơn "ngoại". Tôi không chắc là "ở Việt Nam làng và họ nhiều khi đồng nhất với nhau". Nhiều tác giả thấy rằng phần đông các làng, nhất là ở trong Nam, gồm nhiều họ, dù rằng có một họ đã sáng lập. Ta có câu "láng giềng gần hơn họ xa". Tiếc rằng không có thống kê về vấn đề này Ở tr. 181, về Tây Nguyên, nói về sự điều hành trong nhà dài của người phụ nữ chủ nhà chỉ đúng ở chế độ mẫu hệ thôi. Ngược lại, tr. 186, không phải chỉ ở phương Nam mới trọng tuổi già. Tuổi già được trọng ở mọi nơi không có chữ viết hay ít dùng chữ viết dù xã hội là du mục hay nông nghiệp, bởi lí do đơn giản là kinh nghiệm đến với tuổi tác. Khi mà chữ viết và học thức lan rộng, tuổi già không được trọng nữa vì người trẻ có thể biết nhiều hơn người già. Tr. 190-1, tôi không biết tính tự trị có phải là một đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam không. Lần đầu tiên nói đến xã là về thời Khúc Hạo (907-917). Sử viết là Khúc Hạo chia cả nước thành lộ, phủ, châu, giáp, xã : mỗi xã có một người chánh lệnh trưởng và một người tá lệnh trưởng. Ðến thời Lí, khu vực hành chính gồm có lộ, phủ, huyện, hương, giáp. Ðời Trần có xã quan. Lê Thánh-tông lại đổi thành xã trưởng. Xã trưởng do dân chọn nhưng nhà nước bổ nhiệm. Cho đến 1732 nhà nước Lê Trịnh suy mới thôi kiểm tra và lúc bấy giờ làng mới hoàn toàn tự trị. Nhưng tự trị không có nghĩa là dân chủ. Dân chủ là gì ? TNT không định nghĩa chữ ấy, chỉ kết hợp dân chủ và bình đẳng (tr. 195). Nhưng có bình đẳng đâu ! Chính TNT cũng viết rằng có dân chính cư và dân ngụ cư, dân chính cư chia làm 5 hạng : chức sắc, chức dịch, lão, đinh, trẻ con. Hai hạng trên và một phần hạng thứ ba mới là quan viên. Thế thì có bình đẳng đâu ! Nếu là dân chủ theo nghĩa bây giờ thì ai là tráng đinh cũng phải có quyền bầu người lãnh đạo. Cho nên nói đúng hơn đây là một tập đoàn trị (oligarchie). Theo TNT, tính cộng đồng và tính tự trị đưa đến hậu quả tốt và hậu quả xấu : óc ích kỉ, bè phái, v. v. Ở đây tôi thấy chủ quan quá. TNT chứng minh bằng một số ca dao hoàn toàn trái ngược. Ở đâu mà chả có người xấu người tốt ? Trong mức độ nào ? Ðó là vấn đề. Bây giờ tâm lí xã hội học đã đưa ra một số biện pháp để biết rõ hơn (tôi không nói là với kết quả hoàn toàn khoa học, tôi chỉ nói là khách quan hơn, lúc mà mình làm đúng quy tắc) tỉ số những người nghĩ thế này thế khác. Ở mục 11 : "Cách tổ chức quốc gia", có nhiều câu đặt vấn đề (ngoài những điểm mà tôi đã phê bình). Tôi chỉ nêu vài ví dụ không bàn dài dòng : Tr. 200 : "đơn vị trung gian giữa làng và nước không quan trọng ... thể hiện ở chỗ tên gọi ... luôn thay đổi" : chứng minh này không đủ và có thể chỉ bắt chước Trung Hoa (các tên đều lấy từ Trung Hoa). Tr. 201 : "ở phương Tây, lãnh địa là trụ cột ổn định của quốc gia" : hoàn toàn sai ! Trái lại, các nhà vua luôn luôn ráng sức làm giảm bớt quyền lực của lãnh chúa để củng cố quốc gia. Vào thời kì phát triển tư bản đã hết lãnh địa và phong kiến từ lâu, nhà nước thống nhất chứ không phải là liên bang. Ở Ðức có nhiều vương quốc, Phổ (Prusse) thống nhất thành một Ðế quốc liên bang chứ không phải là một liên bang thực sự. Liên bang thật sự ở Âu Châu thế kỉ 19 chỉ có ở Thuỵ Sĩ do hoàn cảnh riêng của nước này. "Ở Việt Nam. . . các làng phải tập hợp nhau lại thành ‘nước’". Không đúng. Ở đây cũng như ở Trung Hoa hay Âu Châu, một sức mạnh ngoài làng (một anh hùng, một tướng mạnh) đã tập hợp các làng, các vùng thành nước. Tr. 202 : "Ở phương Tây ranh giới quốc gia rất mờ". Lại sai. Chính ở đây đã xuất hiện hộ chiếu. Từ khi có Cộng đồng Âu Châu, nghĩa là từ vài chục năm nay, những người trong Cộng đồng mới đi lại dễ dàng, những người ở ngoài vẫn phải xin thị thực. "Giới tư sản các nước liên minh chặt chẽ với nhau" : phải thêm là để hợp tác và cũng là để cạnh tranh. Còn công nhân thì "tinh thần quốc tế vô sản" bây giờ không còn nữa ! Tr. 206 và sau, TNT đối lập Trung Hoa với Việt Nam cho là ta vì có gốc nông nghiệp nên có một truyền thống dân chủ hơn Trung Hoa là gốc du mục. Tôi thì thấy ở đâu cũng có vua tốt vua xấu. Vua ta đã theo Trung Hoa tự coi mình là thiên tử, mặc áo vàng, đặt quan chế theo kiểu Hán. Không phải chỉ vua ta mới "coi dân như con cháu mình", người Hán cũng có câu "quan là phụ mẫu" của dân. Quan hệ huyết thống (vua anh - vua em, vua chị - vua em, vua cha - vua con) hay pháp lí (vua Lê - chúa Trịnh) không thể gọi là "lãnh đạo tập thể" được (2 người không phải là "tập thể" nhất là khi cùng dòng họ). Chế độ vua cha - vua con có thấy ở một số nước mà không gọi được là dân chủ (Nhật Bản chẳng hạn). Còn chế độ kiểu Vua Lê - Chúa Trịnh thì cũng thấy ở Nhật và nhiều nước trong đó có Pháp "gốc du mục". Tr. 213 : "Truyền thống dân chủ nông nghiệp còn thể hiện trong việc tuyển chọn người vào bộ máy quan lại". Không thể nói thế được vì ta chỉ bắt chước Trung Hoa là nước đầu tiên có việc này, một nước mà theo TNT có gốc vừa du mục vừa nông nghiệp. Ở Triều Tiên "gốc nông nghiệp", chỉ là quý phái mới được đi thi (thường dân không được). Ở Nhật cũng là một nước nông nghiệp, giai cấp thống trị là võ sĩ cha truyền con nối hay được người trên chọn, cho tới đầu thế kỉ 20. Tr. 216-7 : TNT viết rằng "truyền thống thương nghiệp Việt Nam là gian dối", tôi thấy rất là chủ quan. Một hai tục ngữ ca dao không là chứng minh được. Còn nói ở phương Tây xã hội trọng vọng và kính nể nhà doanh nghiệp hay thương nhân thì chỉ đúng từ thời Phục Hưng thôi, thời Trung Cổ họ bị khinh vì sự thống trị của đạo Ki-tô y như là với Khổng giáo ở Ðông Á. Ở hai nơi giai cấp thương nhân đã nảy nở không phải nhờ tôn giáo mà mặc dù tôn giáo chống (tới một trình độ nào tiền mạnh hơn đạo). Tr. 243 : Về lễ nam giao và lễ tịch điền, TNT lập luận rằng vì "tục thờ mặt trời có nguồn gốc ở phương Nam thì làm sao lễ tế Trời và Ðất lại bắt nguồn từ phương Bắc được ?". Người ta có thể trả lời rằng chữ và quan niệm "thiên địa nhân" và "thiên tử" xuất phát ở người Hán. Vua tế trời vì tự coi là con trời (thiên tử) có mệnh của trời trị vì thiên hạ (là đất dưới trời) nhiệm vụ đầu tiên là phát triển nông nghiệp. Có rất nhiều dân tộc thờ mặt trời : Amaterasu là nữ thần mặt trời ở Nhật Bản. Người Turc và người Mông Cổ (du mục) cũng thờ Trời nhưng là một thần Nam. Trang 245 : "Rồng xuất phát từ Nam Á và từ đó đã đi vào văn hoá Trung Hoa" ? Khảo cổ thì có bằng chứng khác. Ở Trung Hoa, người ta đã đào được một số đồ bằng ngọc hình rồng thuộc văn hoá Hongshan (4700-2920 tr. C. N.) tỉnh Liao-ning và Nội Mông Cổ. Hình rồng cũng có ở văn hoá Yangshao (5000-3000) và Taosi Longshan (2500-2000 tr. C. N.). Bên cạnh hình rồng có hình rắn trên đồ đất nung 3. Ở Việt Nam không (chưa ?) tìm được hình rồng nào xưa như thế. Người Hán chẳng cần phải qua sông Dương Tử để biết rồng ! Tr. 272-3, chú thích 14 : Nước Sở thế kỉ 4-3 tr. C. N. dân Việt nhưng vua và quý tộc là Hán. Khuất Nguyên là người Hán không được vua nghe nên tự vẫn chứ không phải "bất bình với sự cai trị của vua nhà Hán" : nhà Hán lập nghiệp năm 206 tr. C. N. , nghĩa là 70 năm sau khi Khuất Nguyên mất. Tr. 288-9 : "Văn hoá gốc du mục trọng dương. . . thiên về văn xuôi". Sự thực phức tạp hơn nhiều. Có nơi bắt đầu bằng thơ, như ở Hi Lạp với Homère (Iliade, Odyssée) hay ở Pháp với Chanson de Roland, có nơi bắt đầu bằng vừa thơ vừa văn xuôi như ở La Mã với Lucrèce và Cicéron, v. v. Văn xuôi bắt đầu thịnh hành từ thế kỉ 18, nghĩa là khá xa với "gốc". Tr. 410 Ngọ Môn có thể được dịch bằng Porte du Midi và Midi cũng có nghĩa là hướng Nam (Chú thích của DÐ : TNT chê dịch như vậy là sai vì ông tưởng Midi chỉ có nghĩa là giờ ngọ). Tr. 457 : Tượng Phật ở chùa Phật Tích trước đây Bezacier cho là tượng Adiđà, bây giờ Trần Lâm Biền và Chu Quang Trứ cho là tượng Phật Thích Ca, tôi nghĩ đúng hơn. Tr. 467 : Quan Âm là Phật Bà không những ở Việt Nam mà cả ở Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản tuy rằng họ không "thiên về nữ tính". Tr. 482 và sau : TNT viết rằng Nho giáo "ra đời và nuôi dưỡng bởi hai dòng sữa : truyền thống văn hoá du mục phương Bắc và truyền thống văn hoá nông nghiệp phương Nam". Trên đây tôi đã đưa ra nhiều chứng minh đối lập với thuyết "hai văn hoá" ấy. Ở đây chỉ cần nói rằng nhiều dân tộc du mục nhỏ ở phương Ðông (chẳng hạn ở Trung Á) không có "tham vọng bình thiên hạ" còn "trọng sức mạnh" thì cũng thấy ở nước nông nghiệp (Nhật Bản chẳng hạn). Hay là nông nghiệp "phương Bắc" khác nông nghiệp "phương Nam" ? Nhật Bản khác Việt Nam vì có một chế độ phong kiến rất giống phong kiến Âu Châu. Do đó họ trọng sức mạnh, không trọng phụ nữ. Nhưng đó là kết quả của chế độ xã hội chứ không phải của nông nghiệp. Người ta cũng có thể lí luận như thế đối với "lối sống trọng tình" hay "tinh thần dân chủ", hai ý niệm rất chủ quan, hay cho người làm văn viết truyện nhưng người khoa học thì nên tránh. Tôi không nói là không có người sống trọng tình hay không có tinh thần dân chủ. Tôi chỉ phê bình sự khẳng định khái quát là nông nghiệp đưa ra lối sống trọng tình và tinh thần dân chủ. Tr. 579 "Hoa tộc (đúng hơn phải nói Hán tộc) đã thu từ phương Nam. . . cái rìu, cái nỏ, nghề nấu thuỷ tinh, phần nào nghề luyện kim đồng" : không đúng. Trung Hoa cũng có rìu (một vật ở đâu cũng thấy từ thời Thượng cổ : paleolithique = đá cũ, neolithique = đá mới), có nỏ (một lợi khí đã giúp Tần thống nhất Trung Hoa), biết luyện kim đồng trước người Việt (Ðông Sơn sớm nhất là thế kỉ 6-5 tr. C. N. , nhà Thương có đồ đồng từ thế kỉ 16-15 tr. C. N. ). Còn nghề nấu thuỷ tinh, tôi không biết TNT dựa vào tài liệu nào mà nói người Việt biết nghề ấy. Theo tất cả các sách khảo cổ mà tôi biết, thuỷ tinh được phát minh ở Ai Cập và Mêzôpôtami trước -1500, lan ra Tây Á vào thế kỉ thứ 6 tr. C. N. , nghề thổi thuỷ tinh xuất hiện ở thế kỉ 1 ở đấy. Ðể kết luận, tôi thấy quyển sách của ô. Thêm có hai phần. Phần có giá trị là khi tác giả phân tích văn hoá Việt Nam. Có những trang rất lí thú về đời sống cá nhân, văn hoá ứng xử với môi trường : ăn uống, mặc, ở và đi lại, tuy có khi người đọc có thể không đồng ý về điểm này hay điểm khác. Phần yếu của quyển sách là khi tác giả khái quát mà không có chứng minh khoa học, đặt cơ sở lí luận trên sự phân chia hai loại hình văn hoá, trọng tĩnh và trọng động, theo nguồn gốc nông nghiệp hay du mục của nó. Lịch sử thế giới không chứng minh lí luận đó : phần lớn các văn hoá khi xuất hiện ở phương Ðông cũng như ở phương Tây đều phối hợp nông nghiệp và du mục (tuy với trình độ khác nhau). Chỉ trong một số trường hợp vì hoàn cảnh địa lí khí hậu ta thấy chỉ có nông nghiệp (các đồng bằng Ðông Nam Á Châu) hay chỉ có du mục (Trung Á, Trung Phi, bán đảo Ả rập v. v. ). Ðứng về phương diện phương pháp luận, để giảng nghĩa một sự kiện lịch sử xã hội, "gốc" không quan trọng bằng các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, đương thời. Gốc là một khái niệm khái quát quá, lờ mờ quá, nhất là một gốc du mục hay nông nghiệp đưa ra nhiều xã hội khác nhau. Nhiều ý niệm khác tác giả dùng cũng không ở trong phạm trù khoa học : tính âm, tính dương, tính tĩnh, tính động, của một văn hoá là gì ? Chữ tĩnh hàm ý không thay đổi, hay không thay đổi trong một thời gian lâu, và có ở tất cả mọi người, dù là nam hay nữ, ở địa vị này hay địa vị nọ, ở đẳng cấp, giai cấp này hay đẳng cấp, giai cấp nọ. Sự thật thì cái gì cũng thay đổi, chậm hay nhanh. Có khi vì muốn đề cao văn hoá nước mình, tác giả đã quên nhiều sự kiện lịch sử. TNT cho rằng hai truyền thống quan trọng của Việt Nam là "dân chủ" và "trọng tình" (tr. 498) : "vua nông nghiệp. . . coi dân như con cháu mình" (tr. 206 : có bao nhiêu ông vua như thế ?) ; "các cuộc chiến tranh mà người Việt Nam từng phải thực hiện đều mang tính tự vệ (cả) với người Chiêm Thành" (tr. 498). Năm 1471 Lê Thánh-tông đánh Chiêm Thành để "tự vệ" hay để mở mang bờ cõi ? Sau khi chiếm thủ đô Chăm, Lê Thánh-tông đã giết hơn 40.000 người và bắt hơn 30.000 người về để làm gia nô hay điền binh (Ðại Việt sử kí toàn thư). Ðó có phải là một hành động "trọng tình" không ? Tôi thì gọi nó là dã man, lấy làm hổ thẹn, chỉ biết ... tạ lỗi với người Chăm. Gần đây cải cách ruộng đất có "trọng tình" không ? Và bây giờ các chủ nhân xí nghiệp "gốc nông nghiệp" đối xử với công nhân "trọng tình" hay "bóc lột" như người mác-xít vẫn nói ? Nói chung các văn hoá "gốc nông nghiệp" bây giờ "trọng tình" hay "trọng tiền" hơn ? Ông Trần Ngọc Thêm còn nhiều thời giờ để đọc sách, nghiên cứu và suy nghĩ về lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới và phương pháp luận. Với khả năng của ông, tôi tin rằng ông sẽ vượt các khuyết điểm hiện giờ và đóng góp nhiều cho nền khoa học xã hội và nhân văn của nước nhà. Lê Thành Khôi
-
Bài này có nguồn từ đầu vậy?
-
Anh Vuivui thân mến.Toán học phát triển ở Châu Âu vượt trội so với Đông phương chỉ vài thế kỷ nay thôi - tất nhiên là xét theo quan điểm toán học hiện đại - do sự phát triển khoa học nên kéo theo Toán học phát triển. Cái bàn tính xuất phát từ Đông phương đấy chứ. Bát quái không phải là danh từ trong cấu trúc ngôn ngữ. Vậy nó biểu hiện cái gì?Theo tôi bát quái chính là ký hiệu toán học rất cao cấp.Còn nữa: Những sự biến thiên của những con số trong Huyền không Phong thủy, Thái Ất..... chính là những sự ứng dụng toán trong sự vận động của vũ trụ. Chúng hoàn toàn mang tính quy luật.
-
Sắp bắt hung thủ đốt nhà báo Cập nhật lúc 17/02/2011 09:58:34 AM (GMT+7) - Vào trước ngày bị sát hại, nhà báo Hoàng Hùng đã nhờ một người bạn sửa xe máy. Trong cốp xe, người bạn này đã phát hiện ra một cuốn sổ tay của anh… TIN BÀI KHÁC Vụ nhà báo bị đốt: Nỗi đau người còn sống Chạnh lòng với sự tôn nghiêm nơi cửa Phật "Lỗi kỹ thuật", giáo viên vẫn ngóng tiền Tết Lời đồn về núi vàng giữa đại ngànMột phụ nữ bị tàu cán nát chân ở Hà Nội Một thành viên ban chuyên án Công an tỉnh Long An khẳng định trên báo Công an TP.HCM việc xác định nghi can thực hiện hành vi đốt để giết nhà báo Hoàng Hùng vào đêm 19/1 là hoàn toàn đi đúng hướng. Và trên 90% câu hỏi đã được ban chuyên án xác định lời giải. Việc khởi tố bị can, ra lệnh bắt giam chỉ là vấn đề thời gian. Cũng theo báo này, vào sáng 15/2, một phóng viên Báo Người lao động thường trú tại Tiền Giang - đã trực tiếp đến gặp ban chuyên án tỉnh cung cấp thêm thông tin về cuốn sổ tay của nhà báo Hoàng Hùng mà tình cờ anh có được. Trước đó, do xe máy bị hư anh Hùng đã nhờ phóng viên này sửa ở Mỹ Tho. Tuy nhiên, anh Hùng lại để quên cuốn sổ tay trong cốp xe. Từ cuốn sổ tay này, cơ quan điều tra biết được nhiều nội dung mà nhà báo Hoàng Hùng đã ghi chú như: Rút tiền trong tài khoản vào ngày 22/1, Nguyễn Văn C. quản lý thị trường, vụ xét xử ở tòa án cần xác minh? Tiền nợ đến tháng phải trả lãi là... Bà Thúy Liễu được xác định là người nhà nạn nhân, không phải bị can (Nguồn: Dân Việt) Hôm qua (ngày 16/2), Thượng tá Phạm Hữu Châu - Chánh Văn phòng kiêm người phát ngôn của Công an tỉnh Long An cũng cho biết trên Dân Việt, hiện bà Trần Thúy Liễu được xác định là người nhà nạn nhân, không phải là bị can. Về việc bà Liễu làm việc với cơ quan điều tra “hơi trễ”, cơ quan chức năng cũng khẳng định, đã và đang làm theo đúng quy định của pháp luật. Trường hợp ông Trần Văn Mến (cha ruột bà Liễu) bị làm việc đến 2 giờ sáng cũng không hề có thật. Xung quanh thông tin cho rằng Bộ Công an tham gia điều tra vụ nhà báo Hoàng Hùng bị đốt, Thượng tá Phạm Hữu Châu cũng cho biết thêm, hiện công an tỉnh vẫn chưa nhận được thông báo gì về việc này. Thẩm quyền điều tra vụ án nhà báo Hoàng Hùng bị đốt vẫn thuộc Công an tỉnh Long An thụ lý. M.Lê (tổng hợp)
-
Đâm ô tô, lật tàu hòa tăng nặng..... Tàu Argentine đâm nhau, thương vong hàng chục người Vietnamnet.vn Cập nhật lúc 17/02/2011 11:06:53 AM (GMT+7) Nhà chức trách Argentine cho biết, hai tàu đâm nhau gần nhà ga San Miguel, phía tây thủ đô nước này, làm 4 người chết, 70 người bị thương chiều 16/2. Hiện trường vụ đâm tàu ở ngoại ô Buenos Aires, Argentina. (Ảnh: AP) Lãnh đạo Buenos Aires, ông Daniel Scioli cho biết, các nhân viên cứu hộ đang tiến hành tìm kiếm nhằm đảm bảo không ai còn mắc kẹt bên trong tàu. Theo thị trưởng San Miguel, trong số những người bị thương có 14 người trong tình trạng nguy kịch. Tai nạn xảy ra vào giờ cao điểm buổi chiều khi một con tàu khởi hành từ ga Retiro ở Buenos Aires đâm vào đuôi một con tàu khác. Các nhà chức trách chưa tìm ra nguyên nhân tai nạn. Đây là vụ đâm tàu thứ 2 trong vòng hai tháng qua ở Argentine. Ít nhất 51 người thiệt mạng trong vụ tai nạn trước đó tại Buenos Aires ngày 31/12 năm ngoái. Thanh Hảo (Theo AP)
-
Thống đốc Mỹ từ chối 2,4 tỉ USD làm tàu cao tốc Vietnamnet.vn Cập nhật lúc 17/02/2011 07:48:00 AM (GMT+7) Lo lắng cho những người đóng thuế tiểu bang Florida, Thống đốc mới đắc cử Rick Scott đã từ chối 2,4 tỉ USD quỹ liên bang đầu tư cho tuyến đường sắt cao tốc từ Orlando tới Tampa. "Sự thật là dự án sẽ quá tốn kém với người đóng thuế và tôi tin rủi ro của nó lớn hơn lợi ích”, ông Scott lý giải trong một cuộc họp báo ở bang. Ông đã thông báo với Bộ trưởng Vận tải Ray LaHood quyết định của mình trong ngày 16/2. Thống đốc Florida, Rick Scott. Ảnh: jacktimes "Nếu dự án quá tốn kém với người đóng thuế và bị dừng lại, bang sẽ phải trả lại 2,4 tỉ USD”, ông cho biết. Scott tin tưởng rằng, những tính toán về lượng hành khách và lợi nhuận có vẻ quá lạc quan và dự án sẽ phải phụ thuộc vào nguồn trợ cấp của chính phủ. Trước đó, các Thống đốc Cộng hòa ở Ohio và Wisconsin cũng đã từ chối những dự án đường sắt cao tốc. Nối Tampa, Orlando và Miami bằng tàu cao tốc là lịch trình được bàn tới trong nhiều thập niên, nhưng viễn cảnh mà nó mang lại hiện tại vẫn chỉ là con số 0. Hầu hết các dịch vụ vận chuyển hành khách bằng đường sắt ở Mỹ đều bị thua lỗ và đòi hỏi trợ cấp lớn. Tàu cao tốc thực sự thú vị, những đoàn tàu lao nhanh như gió với vận tốc 268,8km/h tới gần 300km/h. Điều không may là, một hệ thống tàu công nghệ cao như vậy lại không đủ khả năng chi trả cho chính mình. Việc vận chuyển và số lượng hành khách sử dụng dịch vụ phục thuộc vào “tính thân thiện” của giá vé. Do vậy, mỗi km đi lại trên con tàu cao tốc hình đầu đạn (tàu siêu tốc) sẽ gặm từng đồng đôla công quỹ. Hơn một thập niên trước, khi tranh cãi về đường sắt cao tốc lên tới đỉnh điểm, một chuyên gia tư vấn vận chuyển quốc gia Mỹ đã đưa ra một báo cáo dài 55 trang. Báo cáo dự đoán rằng, tuyến đường cao tốc giữa miền trung Florida và Miami sẽ có thể là một thảm họa tài chính. Wendell Cox của Học viện nghiên cứu James Madison cho biết, sẽ không có đủ người lấp đầy ghế trên con tàu đầu đạn, một phần vì các gia đình có thể thuê xe hơi cùng lái đến lộ trình tương tự với giá rẻ hơn. Ông ước tính, tuyến đường sắt cao tốc sẽ ngốn của người Florida từ 14-39 tỉ USD tiền trợ cấp. Hiến pháp tiểu bang Florida yêu cầu một ngân sách cân bằng. Điều đó có nghĩa là, khi con tàu đầu đạn lao trên lộ trình, nó sẽ hút cạn đồng tiền công quỹ dành cho những dự án trường học, dịch vụ xã hội… Nhiều người ủng hộ cho rằng, tuyến đường cao tốc là cách để gỡ bỏ tình trạng ách tắc trên đường quốc lộ, khuyến khích thương mại giữa các trung tâm thành thị trong bang. Và khi khắp nước Mỹ phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp ngày một lớn, thì xây dựng tuyến đường cao tốc sẽ được thổi phồng lên với danh xưng một chương trình tạo nhiều việc làm. Rõ ràng, việc xây dựng tuyến đường như vậy sẽ thu hút hàng nghìn người làm việc trong ít năm. Nhưng một khi dự án kết thúc, ước tính sẽ chỉ cần 600 nhân công làm việc lâu dài. Sức nặng chi phí khổng lồ để duy trì, bảo dưỡng và trợ cấp cho một hệ thống tàu cao tốc hơn 500km sẽ đòi hỏi việc cắt giảm, thậm chí hủy bỏ những chương trình khác của bang. Chi phí cho tàu cao tốc sẽ khiến ngân quỹ, vốn rất yếu ớt, của Florida kiệt quệ triền miên. Thái An (Theo wokv, Reuters, miamiherald) ========================================== Cụ này chỉ số IQ thấp - theo tiêu chí: "Những nước làm đường sắt cao tốc đều có chỉ số IQ cao". Kết luận: Các tiều bang ở nước Mỹ chỉ số IQ không đồng bộ.
-
Đồng ý: Mậu Tuất.
-
Liêm Pha thân mến. Nếu là youtube thì tôi đưa lên được. Liêm Pha cho đương link đi. Nhưng tôi tin là "Không có người ngoài hành tinh".
-
Hải Phương thân mến. Rất mừng vì chồng Hải Phương đã từ từ bình phục. Đây chính là sự huyền diệu của bao con người - mà thế nhân có thê gọi là sự "Hồi hướng công đức" - đã chúc lành cho vợ chồng Hài Phương trong topic này. Tôi thực sự chỉ là một tương tác nhỏ mang tính nhân duyên mà thôi. Sự thật là như vậy. Đến tháng ba - chậm là tháng Tư Việt lịch, chồng Hải Phương sẽ bình phục tương đối và sang năm tôi hy vọng sẽ gặp vợ chồng Hải Phương làm một chuyến du lịch thăm nhiều nơi trên đất Việt và có thể vào Sài Gòn thăm tôi. Đầu năm mới, chúc Hải Phương và gia đình vạn sự an lành.
-
Cháy nổ tăng nặng hơn..... 20 kho vũ khí nổ liên tiếp gây thương vong lớn 17/02/2011 18:57:27 - Hãng tin AFP ngày 17/2 đưa tin đã có ít nhất 17 người thiệt mạng và một người bị thương trong hàng loạt vụ nổ kho vũ khí của quân đội Tanzania. Các vụ nổ liên tiếp kéo dài trong nhiều giờ đêm 16/2 ở thủ đô Dar es Salaam đã gây hỏa hoạn và tình trạng hoảng loạn trong khu vực. Ngày 17/2, người phát ngôn quân đội Tanzania, Trung tá Kapambala Mgawe cho biết một số tòa nhà trong khu vực hiện vẫn đang bốc cháy. Trong khi đó, theo nhật báo "Citizen", khoảng 23 kho vũ khí đã bị phá hủy trong vụ nổ đêm qua. Vụ nổ phát làm rung chuyển và sáng rực một góc thủ đô Dar es Salaam của Tanzania Những kho vũ khí này nằm trong căn cứ quân sự Gongo la Mboto, gần sân bay quốc tế ở thủ đô Dar es Salaam. Nhà chức trách đã buộc phải phong tỏa toàn bộ khu vực.Thủ tướng Tanzania Mizengo Pinda đã ngay lập tức triệu tập cuộc họp an ninh khẩn cấp. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra nguyên nhân vụ việc. Bảo Minh (Tổng hợp)
-
Chìm tàu, lật xe lửa tăng nặng...... Quảng Ninh: Lặn vớt được 8 người thiệt mạng mắc kẹt trong tàu Thứ Năm, 17/02/2011 - 09:20 (Dân trí) - Ông Ngô Văn Hùng, Trưởng BQL Vịnh Hạ Long cho biết: Đến 10h30 ngày 17/2, đoàn cứu hộ đã cứu vớt được 9 du khách đưa về bệnh viện chăm sóc và lặn vớt được 8 người thiệt mạng ở trong tàu. Vào lúc 5 giờ sáng nay 17/2, tàu du lịch mang số hiệu QN5198 chở 19 du khách nước ngoài nghỉ qua đêm trên khu vực đảo Ti-tốp (Vịnh Hạ Long - Quảng Ninh) đã bị chìm. Theo tin từ ông Ngô Văn Hùng, Trưởng ban quản lý Vịnh Hạ Long, tàu QN5198 đưa 21 du khách cùng 1 hướng dẫn viên ngủ đêm trên Vịnh và gặp nạn. Theo tìm hiểu của Dân trí, những nạn nhân thiệt mạng chủ yếu là ở trong phòng ngủ nên không kịp trở tay khi tàu gặp nạn. 9 du khách khác và toàn bộ nhân viên tàu may mắn thoát chết vì khi đó đang ở trên boong tàu. Thông tin ban đầu từ Công an tỉnh Quảng Ninh, tàu gặp nạn là con tàu du lịch của Công ty TNHH Trường Hải (Quảng Ninh) bị chìm trên khu vực đảo Ti-tốp. Trao đổi với PV Dân trí, ông Đỗ Thông - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh - cho biết: Trên tàu gặp nạn có khách du lịch đến từ 11 quốc gia như Đan Mạch, Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Thụy Điển... Theo nguồn tin của VietNamNet, trao đổi cùng ông Ngô Văn Hùng, Trưởng ban quản lý Vịnh Hạ Long trưa nay 17/2, ông Hùng cho biết: vào thời điểm xảy ra tai nạn có 21 du khách và 6 thuỷ thủ trên tàu. Đến 11h15' sáng nay đã tìm thấy thi thể của 12 du khách. Trước đó, vào khoảng 10h sáng, đội cứu hộ đã cứu sống được 9 người và 6 thuỷ thủ. Quốc Đô - Thanh Ngọc