Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. LỜI TIÊN TRI 2011 Đại ý: * Khủng hoảng kinh tế toàn cầu sẽ ảnh hượng đến tận người dân trong năm nay. Cao điểm là tháng 8/9 Âm lịch. * Ngài Obama sẽ gặp những rắc rối trong tháng 2 Việt lịch, nhưng sẽ vượt qua. ============================================================= Chính phủ Mỹ có thể bị đóng cửa trong 1 tuần tới(?) Bee.net 02/04/2011 20:23:14 Các nghị sỹ Đảng Dân chủ và Cộng hòa vẫn chưa thống nhất được thỏa thuận về ngân sách hoạt động cho chính quyền Tổng thống Obama. Chỉ còn đúng 1 tuần nữa Chính phủ Mỹ sẽ buộc phải đóng cửa nếu Chính phủ, các nghị sỹ Đảng Dân chủ và Cộng hòa không thống nhất được thỏa thuận về ngân sách hoạt động cho chính quyền của Tổng thống Barack Obama. Ông Obama cho rằng, nghị sỹ của 2 đảng đã tiến gần đến thỏa thuận ngân sách đó, nhưng Chủ tịch Hạ Viện Mỹ ông John Boehner cho biết, họ vẫn chưa đồng ý với nhau về bất cứ vấn đề gì. Theo ông Boehner, các nghị sỹ Đảng Cộng hòa sẽ đấu tranh đến cùng để có thể cắt giảm nhiều nhất nguồn ngân sách của chính quyền Obama và ông không chắc chắn được liệu các nghị sỹ hai đảng có thỏa thuận được vào ngày 8/4 tới hay không. Tháng trước, Hạ viện đã thông qua một kế hoạch của Đảng Cộng hoà nhằm cắt 61 tỉ USD trong chi tiêu ngân sách liên bang. Việc cắt giảm này sẽ dẫn đến sụt giảm 10% trong hàng trăm chương trình của Chính phủ Mỹ. Mâu thuẫn lớn nhất về ngân sách giữa 2 đảng hiện nay đó là việc Đảng Cộng hoà muốn cắt giảm phần lớn chi tiêu về bảo hiểm y tế thuộc chương trình bảo hiểm y tế do ông Obama khởi xướng; cộng với chi tiêu về môi trường và các cơ quan chính phủ được lập ra để kiểm soát hoạt động tài chính. Tổng thống Mỹ Obama nói rằng, thất bại trong thỏa thuận về ngân sách giữa 2 đảng sẽ ảnh hưởng đến sự khôi phục của nền kinh tế Mỹ và tác động trực tiếp đến cuộc sống của hầu hết người dân nước này. (Theo VOV News)
  2. TƯ LIỆU THAM KHẢO Một lý thuyết khoa học phải có khả năng tiên tri. Đây là một tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học. Bởi vậy tôi nghĩ cần phải đưa những bài viết mang tính học thuật vào chính ngay topic này - để so sánh , tham khảo, phân tích. Nếu như topic này, chỉ thuần túy bói toán và dự báo để thẩm định kết quả đúng sai và khen chê với tư duy "Ở trần đóng khố" thì sẽ mất đi tính học thuật của nó. Và ngay cả những tư duy nghiêm túc nhất cũng cho rằng tính ứng dụng của các phương pháp tiên tri thuộc Lý học Đông phương là có thật, nhưng mơ hồ. ============================================================== Hiện tượng “Thiên nga đen” và một thế giới đầy bất định Trần Nam Phương Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM chungta.com Tên sách: Thiên nga đen – Xác suất cực nhỏ, tác động cực lớn Tác giả: Nassim Taleb Người dịch: Cam Thảo, Hoàng Trung NXB: Tổng hợp TP.HCM Số trang: 440, khổ 16 x 24 Giá bán: 98.000 VND Bản quyền tiếng Việt thuộc Công ty cổ phần Tinh Văn Thiên Nga Đen là cuốn sách bao quát nhiều chủ đề: từ hiện tượng kẻ-thắng-lấy-hết, tác động của sự tình cờ, sự bất lực của đường cong hình chuông Gauss đối với hầu hết mọi điều, các khái niệm về tính thang bậc, vô số những bất định xảy ra trên thế giới, đặc biệt là thế giới hiện đại nơi thông tin di chuyển với tốc độ chóng mặt, cho đến những ý tưởng sai lầm về khả năng dự đoán tương lai của con người. Và quan trọng hơn hết, tất cả những ý tưởng này đã được tác giả khéo léo xâu chuỗi thành một lý thuyết chung, giúp ta nhận ra được vốn kiến thức ít ỏi của mình và từ đó thay đổi cách nhìn về thế giới. Nassim Taleb, tác giả cuốn sách, là một chuyên gia hàng đầu về chống khủng hoảng kinh tế hiện nay. Theo ông, “thiên nga đen” là một biến cố tưởng chừng như không thể xảy ra với ba đặc điểm chính: không thể dự đoán, có tác động nặng nề và sau khi nó xảy ra, người ta dựng lên một lời giải thích để khiến nó ít ngẫu nhiên hơn, dễ dự đoán hơn so với bản chất thật của nó. Thành công bất ngờ của Google có thể xem là một “thiên nga đen”; sự kiện 11 tháng 9 cũng vậy. Với Nassim Nicholas Taleb, “thiên nga đen” ẩn chứa hầu như mọi điều về thế giới này, từ sự trỗi dậy của tôn giáo đến những biến cố trong cuộc sống của chúng ta. Đây là cuốn sách viết về tình trạng bất định, theo quan điểm của tác giả, sự kiện hiếm hoi cũng được xem là bất định. Chúng ta không biết nhưng lại hành động như thể mình có khả năng dự đoán được tất cả mọi điều. Hãy nghĩ tới vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001: rủi ro ấy đã không xảy ra nếu có thể được nhận thức một cách hợp lý vào ngày 10 tháng 9. Hay đợt sóng thần xảy ra hồi tháng 12 năm 2004 ở Thái Bình Dương. Nếu người ta dự đoán được nó thì hậu quả đã không nghiêm trọng đến thế, bởi dân cư hẳn đã được sơ tán khỏi khu vực chịu ảnh hưởng và một hệ thống cảnh báo sớm hẳn đã được lắp đặt. Thế nên, những gì được biết không thực sự gây tổn hại cho bạn. Vì sao chúng ta không nhận thấy những hiện tượng “thiên nga đen” mãi đến sau khi chúng xảy ra? Theo Taleb, một phần vì con người chúng ta tự trói buộc mình vào những chi tiết trong khi lẽ ra nên tập trung vào cái tổng quát. Chúng ta chỉ chăm chăm nhìn vào những gì đã biết trong khi hết lần này đến lần khác bỏ qua những thứ mình chưa biết. Do đó, chúng ta không thể đánh giá được các cơ hội, không thể kháng lại xu hướng đơn giản hóa, và không đủ phóng khoáng để tưởng thưởng cho những ai có thể hình dung được “những cái không thể”. Tuy nhiên, mức độ nghiệm trọng/bất ngờ của các hiện tượng thiên nga đen phụ thuộc vào người quan sát. Tác giả lấy ví dụ về con gà tây được cho ăn mỗi ngày. Mỗi ngày được cho ăn sẽ giúp con gà tin rằng quy luật của cuộc đời nó là được cho ăn mỗi ngày, nhưng rồi vào một ngày “đẹp trời”, có một điều bất ngờ xảy đến với nó. Trong trường hợp này, thiên nga đen là một hiện tượng bất ngờ đối với con gà tây nhưng lại chẳng có gì bất ngờ đối với người mổ thịt. Do đó, ý tưởng chính trong cuốn sách này không phải nỗ lực dự đoán các thiên nga đen, mà là tìm cách xác định những vùng rủi ro để biến các thiên nga đen thành thiên nga trắng. Với giọng văn trịch thượng pha chút hài hước và các bằng chứng trải rộng qua nhiều nhánh tư duy của tác giả – một chuyên gia về định lượng của Phố Wall, cuốn Thiên nga đen sẽ giúp bạn có được hình dung đầy đủ về một đề tài tưởng chừng như rất khô khan này. Ban đầu, có thể bạn sẽ cảm thấy khó chịu vì hành văn “ngang phè” của tác giả, cũng có thể là bởi câu chuyện mà tác giả nói đến lại thuộc về một lĩnh vực khô khan và khó hiểu đối với nhiều người, tuy nhiên, kiểu trò chuyện nhẩn nha, uyên thâm mà tếu táo của tác giả sẽ khiến bạn nhanh chóng bị mê hoặc. Dù hơi rông dài nhưng lối kể chuyện nhẩn nha này sẽ cho bạn cảm giác đang được hầu chuyện một nhà hiền triết uyên bác nhưng khinh mạn cuộc đời và coi thường các “học giả” hợm hĩnh nhưng dốt nát – những kẻ mà ông gọi là “chuyên gia và những bộ complê rỗng tuyếch”: các kinh tế gia, chuyên gia dự đoán, những người giảng dạy về đường cong hình chuông, những người xem yếu tố thiên nga đen như một loại ngẫu nhiên có thể được nghiên cứu trong lý thuyết trò chơi và thống kê học... Và bạn cứ muốn nấn ná để nghe ông kể hết câu chuyện của mình, từ những trải nghiệm về cuộc nội chiến Li-băng xảy ra vào thời niên thiếu, câu chuyện về sự kiện 11/9, sự phát triển đột biến của Internet, Google, vụ sụp đổ của Long-Term Capital Management, sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1987... Cho đến khi câu chuyện kết thúc, bạn vẫn còn cảm giác tiếc nuối và muốn xâu chuỗi các sự kiện đó lại để suy ngẫm. Đó chính là thành công của cuốn sách. Một đề tài khô khan, khó hiểu, nhưng qua cách kể chuyện tếu táo của tác giả, cuốn sách thực sự hấp dẫn bất kỳ ai muốn tìm hiểu về thế giới bất định này. Kể từ khi xuất bản năm 2007, cuốn sách đã nhận được có rất nhiều ý kiến khen chê, nhưng quan điểm của tác giả đã được chính thời gian kiểm chứng. Đợt suy thoái kinh tế toàn cầu vừa qua, hay trận động đất xảy ra ở Haiti, Chile cũng như nhiều biến cố quan trọng khác là những ví dụ hoàn hảo minh họa cho lý thuyết thiên nga đen. Đến nay, cuốn Thiên Nga Đen đã bán được gần 1,5 triệu bản, được dịch ra 27 thứ tiếng và được The Times bình chọn là một trong 12 cuốn sách có ảnh hưởng nhất trong 60 năm qua. Tinh tế, bao quát và đầy kinh ngạc, Thiên Nga Đen sẽ thay đổi cách nhìn của bạn về thế giới. Taleb thực sự là tác giả của thể loại sách khai trí với những câu chuyện dí dỏm, ngông cuồng và khác thường. Ông là người có kiến thức uyên thâm trong nhiều lĩnh vực, từ khoa học nhận thức, kinh doanh cho đến lý thuyết xác suất. Thiên Nga Đen là cuốn sách mang tính bước ngoặt – bản thân nó chính là một “thiên nga đen”. Cuốn Thiên Nga Đen hiện đã có mặt tại các nhà sách trên toàn quốc, bản quyền tiếng Việt thuộc Công ty cổ phần Tinh Văn. ============================================================== Kính thưa quí vị. Đây là quan điểm xuyên suốt của cuốn sách - qua lời quảng cáo bán sách này: Xin thưa với tác giả cuốn sách: Ông đã không có một kiến thức tổng quát và toàn diện. Một thứ tư duy lệch khi ông không hề biết gì về một mảng trí thức quan trọng của văn minh nhân loại: Lý học Đông phương. Khiêm tốn mà nói: Tất cả những gì ông viết: Đều đã được - ít nhất là cá nhân tôi, chưa kể các cao thủ hàng đầu rất ít lên mạng, hay không hề lên mạng - đã tiên tri trước những sự kiện mà ông đề cập đến - Kể cả vụ khùng bố 11/ 9 (Nhưng ngày đó tôi chưa sinh hoạt mạng nên không công khai được lời tiên tri này). Và còn nhiều hơn thế nữa, ngay trên trang web này.
  3. LÝ THUYẾT BẤT ĐỊNH - MỘT SAI LẦM CỦA NHẬN THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP TƯ DUY Sau cuộc trao đổi với thày Đào Vọng Đức, tôi đã được anh Phạm Việt Hưng đề cập trực tiếp đến vấn đề này qua email gửi tôi! Tôi đã đưa bài này vào topic cùng tên để phân tích. Nhưng rồi sự bận rộn và hàng trăm nguyên nhân lớn nhỏ khác khiến tôi lãng quên, nên đã không tiếp tục. Chuyện xảy ra cũng hai năm nay rồi! Hôm nay vào trang chungta.com, tình cờ lại thấy được bài này cũng của anh Phạm Việt Hưng. Nhưng hình như trong bài này, tác giả - Anh Phạm Việt Hưng - đã viết bổ sung thêm so với bài gửi cho tôi cách đây khoảng hơn hai năm trước thì phải. Vì thấy có đoạn viết về Lý học Đông phương, mà tôi nhớ trước đây hình như không có. Không có thời gian đi tìm topic cũ, nên tôi đưa vào Quán vắng để suy nghiệm và chia sẻ với quí vị ghé qua. Tôi luôn luôn xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang tìm kiếm. Nếu lý thuyết Bất định đúng và tôi không chứng minh được nó sai, thì tôi sai. Và cả thế giới này sẽ phải tiếp tục chứng minh điều này trước khi xác định "Có hay không một lý thuyết thống nhất, mà một ngày nào đó chúng ta sẽ tìm ra. Nếu chúng ta có đủ khả năng!". SW Hawking xác định như vậy! ======================================================= Hiệu ứng con bướm Con bướm đập cánh ở Brazil có thể gây ra cơn bão lớn ở Texas Math VN Bất chấp hàng loạt lý thuyết ra đời trong thế kỷ 20 dẫn tới những cuộc cách mạng đảo lộn vũ trụ quan cổ điển, đến nay tư tưởng chủ đạo của khoa học vẫn là chủ nghĩa tất định (determinism) – tư tưởng cho rằng vũ trụ vận hành theo những quy luật xác định và do đó, về nguyên tắc, khoa học phải dự báo được tương lai một cách chính xác. Nhưng thực ra Tự Nhiên phức tạp, hỗn độn (chaotic) và khó dự đoán hơn ta tưởng rất nhiều: Tính ngẫu nhiên và bất định không chỉ tác động trong thế giới lượng tử, mà ngay cả trong những hệ phức tạp (complex systems) của thế giới vĩ mô. Bản chất bất định và hỗn độn của Tự Nhiên đã được Lý thuyết hỗn độn (Theory of Chaos) mô tả một cách ẩn dụ bởi “Hiệu ứng con bướm” (Butterfly Effect): “Một con bướm vỗ cánh ở Tokyo có thể dẫn tới hậu quả là một cơn bão ở Florida một tháng sau đó”(1). Lý thuyết hỗn độn đang ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, bởi vì người ta khám phá ra rằng có rất nhiều hệ phức tạp trong tự nhiên và xã hội chịu sự tác động của “hiệu ứng con bướm”: Từ cơ học thiên thể cho tới các chương trình computers, vấn đề dự báo thời tiết, vấn đề môi trường toàn cầu, hệ thống mạch điện, hiện tượng bùng nổ dịch bệnh, bùng nổ dân số, khủng hoảng kinh tế, vấn đề hoạch định chính sách, v.v. Tuy phải đợi tới những năm 1960 thì hiện tượng hỗn độn mới được nghiên cứu thành những lý thuyết hệ thống, nhưng thực ra nó đã được khám phá lần đầu tiên từ cuối thế kỷ 19 bởi nhà toán học lừng danh Henri Poincaré – người được gọi là “Mozart của toán học” và là một trong những nhà toán học vĩ đại nhất của mọi thời đại. 1. Henri Poincaré và “bài toán ba vật thể”: “Bài toán ba vật thể” (Three body problem) do Isaac Newton nêu lên từ năm 1687 trong tác phẩm Principia (Nguyên lý) nhằm nghiên cứu chuyển đông của các thiên thể trong mối quan hệ tương tác hấp dẫn giữa chúng: Hãy xác định vị trí của 3 vật thể chuyển động trong không gian nếu biết vị trí ban đầu của chúng. Thoạt nghe, bài toán có vẻ khá đơn giản, nhưng thực ra lại phức tạp và khó đến mức thách thức những bộ óc siêu việt nhất của nhân loại. Các nhà toán học vĩ đại như Euler, Lagrange, … đã từng lao vào giải, nhưng chỉ tìm được lời giải cho những trường hợp đặc biệt. Đến cuối thế kỷ 19 vẫn chưa có ai tìm được lời giải cho trường hợp tổng quát với n vật thể. Năm 1887, nhà toán học Gosta Mittag Leffler đã kiến nghị với vua Thụy Điển và Na-uy lúc đó là Oscar II nên mở cuộc thi giải “bài toán ba vật thể” dưới dạng tổng quát để mừng sinh nhật lần thứ 60 của chính nhà vua vào năm 1889. Vua Oscar II chuẩn y và ban bố cuộc thi: Số tiền thưởng không lớn lắm (chỉ bằng khoảng một nửa tiền lương hàng năm của một viện sĩ hàn lâm), nhưng danh dự rất lớn – người thắng cuộc sẽ được coi là người giỏi nhất trong số những người giỏi nhất! Nhà toán học Pháp Henri Poincaré, lúc ấy 33 tuổi, đang nổi lên như một trong những ngôi sao sáng nhất trên bầu trời toán học, đã mất tới 3 năm trời để giải bài toán, để rồi gửi tới hội đồng giám khảo một lời giải dài dòng và phức tạp đến nỗi hội đồng này không hiểu. Họ đề nghị ông giải thích. Poincaré liền gửi tới hội đồng một bản bình luận tiếp theo dài tới 100 trang để giải thích lời giải của ông. Sau khi hiểu được lời giải, hội đồng giám khảo quyết định trao tặng giải thưởng cho Poincaré. Đó là một sự kiện khoa học gây chấn động dư luận cuối thế kỷ 19. Nhưng dư luận còn bị chấn động hơn nữa khi lời giải được công bố chính thức trên tạp chí Acta Mathematica (một trong những tạp chí uy tín nhất thời đó), bởi lẽ trong lời giải mới này, Poincaré đã chỉ ra sai lầm của chính ông trong lời giải đã đoạt giải thưởng trước đó: Đó là một sai lầm về hình học – trong số các trường hợp hình học có thể xẩy ra, ông đã bỏ sót một trường hợp mà ông nghĩ rằng không quan trọng. May mắn làm sao, và thú vị làm sao, khi nghiên cứu lại lời giải để gửi tới tạp chí, ông đã phát hiện ra trường hợp bị bỏ sót này. Càng nghiên cứu kỹ ông càng nhận thấy trường hợp bị bỏ sót này hoá ra lại quan trọng và thú vị hơn rất nhiều so với ông tưởng, bởi nó dẫn tới một kiểu chuyển động vô cùng phức tạp và kỳ lạ: Một trong các vật thể có xu hướng chuyển động hầu như ngẫu nhiên (không tuân theo một hướng xác định nào cả). Đó là điều không thể tin được và cũng không thể hiểu được, vì hệ phương trình do ông thiết lập để giải bài toán là một hệ xác định, và do đó kết quả phải xác định, không thể là ngẫu nhiên. Nhưng trước một lời giải tự nó nói lên một sự thật khác thường, Poincaré nhận thấy một điều vô cùng quan trọng mà trước đó chưa ai nhận thấy: Nếu kết quả không phải là ngẫu nhiên thì ít nhất nó cũng không có một cấu trúc rõ ràng! Poincaré dừng lại bài toán ở chỗ đó, rồi thốt lên: “Tôi không biết phải làm gì với kết quả này” (I don’t know what to do with this). Lúc Poincaré dừng lại chính là lúc ông đã vô tình khép lại cánh cửa của Chủ nghĩa tất định và mở ra cánh cửa của Lý thuyết hỗn độn, mặc dù phải chờ tới năm 1963 thì Lý thuyết hỗn độn mới chính thức bước lên diễn đàn khoa học, nhờ khám phá ngẫu nhiên của nhà khí tượng học Edward Lorenz 2. Khám phá ngẫu nhiên của Edward Lorenz: Năm 1961, nhà khí tượng học Edward Lorenz đã thiết lập một hệ phương trình toán học để mô tả một dòng không khí chuyển động, lúc dâng cao, lúc hạ thấp tuỳ theo mức độ bị đốt nóng bởi ánh nắng mặt trời. Sau đó ông mã hoá hệ phương trình này để tạo ra một chương trình chạy trên computer, nhằm nghiên cứu một mô hình dự báo thời tiết. Vì chương trình viết cho computer bao gồm những phương trình toán học và những mã lệnh hoàn toàn xác định nên Lorenz nghĩ rằng trong những lần chạy thử chương trình trên máy, nếu “input” (dữ liệu đầu vào của chương trình) hoàn toàn giống nhau thì đương nhiên “output” (kết quả ở đầu ra) cũng phải hoàn toàn giống nhau. Nhưng một lần, sau khi nạp vào chương trình những dữ liệu ban đầu mà ông nghĩ rằng giống hệt như những lần trước, rồi sau đó cho chương trình chạy thử, ông sững sờ ngạc nhiên khi thấy kết quả ở đầu ra hoàn toàn khác biệt – khác một cách nghiêm trọng so với những lần chạy trước đó. Kiểm tra lại toàn bộ hoạt động của computer một cách kỹ càng, từ phần cứng tới phần mềm, Lorenz không tìm thấy bất cứ một sai sót nào, ngoài một chi tiết mà trước đó ông tưởng là một sai lệch không đáng kể: Đó là một thay đổi vô cùng nhỏ trong một dữ liệu, số 0,506127 được làm tròn thành 0,506. Theo quán tính tư duy khoa học trước đó, một sai lệch vô cùng nhỏ ở đầu vào sẽ không có ảnh hưởng gì đáng kể ở đầu ra. Quán tính tư duy này sẽ đúng nếu đối tượng khảo sát chưa đạt tới mức độ đủ phức tạp. Nhưng hệ thống dự báo thời tiết là một hệ thống phức tạp, nên quán tính tư duy nói trên không còn đúng nữa. Thật vậy, trực giác đã mách bảo Lorenz rằng một sai lệch vô cùng nhỏ trong dữ liệu ở đầu vào của chương trình dự báo thời tiết của ông có thể dẫn tới một sai lệch khổng lồ ở kết quả đầu ra. Ông lập tức tiến hành nhiều thử nghiệm tương tự để đi tới khẳng định kết luận của mình, rồi công bố khám phá trên các tạp chí khoa học. Một loạt các nhà khoa học khác trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau lập tức tiến hành những thử nghiệm tương tự, và cuối cùng đều đi tới chỗ xác nhận quan điểm của Lorenz. Từ đó, Lý thuyết hỗn độn chính thức bước lên diễn đàn khoa học. Năm 1975, Benoit Maldenbrot cho ra đời cuốn “The Fractal Geometry of Nature” (Hình học fractal của Tự Nhiên), được đánh giá là một lý thuyết kinh điển về hỗn độn. Tháng 12 năm 1977, Viện hàn lâm khoa học New York (New York Academy of Sciences) lần đầu tiên tổ chức hội nghị về lý thuyết hỗn độn, tập hợp các nhà nghiên cứu lý thuyết hỗn độn xuất sắc nhất trên toàn thế giới, như: -David Ruelle, nhà toán học-vật lý người Bỉ-Pháp, chuyên về vật lý thống kê và các hệ động học, -Robert May, nguyên chủ tịch Hội hoàng gia Anh, giáo sư Đại học Sydney và Đại học Princeton, chuyên áp dụng lý thuyết hỗn độn để nghiên cứu bệnh dịch và tính đa dạng của các quần thể sinh học phức tạp, - James York, chủ nhiệm khoa toán thuộc Đại học Marryland ở Mỹ là người đầu tiên gieo thuật ngữ “chaos” (hỗ độn) vào trong thế giới toán học và vật lý, - Robert Shaw, nhà vật lý Mỹ đã áp dụng Lý thuyết hỗn độn để nghiên cứu các kết quả ở đầu ra của máy quay roulette tại các sòng bạc, …. Chính trong bối cảnh khám phá ra hàng loạt hiện tượng hỗn độn trong các hệ phức tạp của Tự Nhiên và xã hội, các nhà khoa học mới nhận ra rằng ngay từ hơn 60 năm trước, chính Henri Poincaré đã là người đầu tiên khám phá ra bản chất hỗn độn của các hệ phức tạp khi ông giải “bài toán n vật thể”: Thay vì chứng minh tính ổn định động học của hệ n vật thể, ông đã khám phá ra tính bất ổn định của các hệ động lực học phức tạp. Ngay nay khoa học đã biết rằng tính bất ổn định này xuất phát từ tính bất định trong các phép đo dữ kiện ban đầu. 3. Tính bất định của các phép đo: Một trong những nguyên lý cơ bản của khoa học thực nghiệm là ở chỗ không có một phép đo nào trong thực tế có thể đạt tới độ chính xác tuyệt đối. Điều đó có nghĩa là các phép đo phải chấp nhận một mức độ bất định nào đó. Dù cho công cụ đo lường có hoàn hảo đến mấy thì mức độ chính xác cũng chỉ đạt tới một giới hạn nhất định. Về lý thuyết, muốn đạt tới độ chính xác tuyệt đối thì công cụ đo lường phải đưa ra những con số có vô hạn chữ số. Điều này là bất khả. Nhưng người ta cho rằng sử dụng những công cụ đo lường hoàn hảo hơn, có thể giảm thiểu tính bất định xuống tới một mức độ nào đó có thể chấp nhận được, tùy theo mục tiêu của bài toán, mặc dù về nguyên tắc, không bao giờ triệt tiêu được tính bất định đó. Khi nghiên cứu chuyển động của các vật thể dựa trên các định luật của Newton, tính bất định trong các dữ kiện ban đầu được coi là khá nhỏ, không ảnh hưởng tới kết quả dự đoán xẩy ra trong tương lai hoặc quá khứ. Quả thật, dựa trên các định luật của Newton, Urbain Le Verrier đã tiên đoán chính xác sự tồn tại của hành tinh Neptune (Hải vương tinh). Những sự kiện tương tự như thế đã làm nức lòng người, củng cố niềm tin vào Chủ nghĩa tất định: Vũ trụ vận hành giống như một “chiếc đồng hồ Newton” (Newtonian clock), và do đó có thể dự báo tương lai một cách chính xác. Nếu xuất hiện kết quả bất định trong các hệ động học, thì chắc chắn nguyên nhân xuất phát từ tính bất định trong các phép đo dữ kiện ban đầu, thay vì các phương trình chuyển động, bởi vì các phương trình này là hoàn toàn xác định. Và từ lâu người ta đã cho rằng nếu giảm thiểu đến mức tối đa tính bất định trong các phép đo thì con người sẽ có thể đưa ra những dự báo chính xác đến mức tối đa. Nhưng Chủ nghĩa tất định đã lầm: Những hệ động học phức tạp mang tính bất ổn định ngay từ trong bản chất của chúng. 4. Tính bất ổn định động lực học: Trong “Bài toán n vật thể”, hệ phương trình chuyển động của các vật thể do Poincaré thiết lập hoàn toàn dựa trên các định luật Newton, và do đó là hoàn toàn xác định. Cụ thể, nếu biết vị trí, tốc độ của các vật thể tại một thời điểm cho trước, hoàn toàn có thể xác định được vị trí và tốc độ của các vật thể tại một thời điểm khác trong tương lai hoặc quá khứ. Nhưng vì không thể xác định vị trí và tốc độ của các vật thể tại một thời điểm cho trước một cách chính xác tuyệt đối nên luôn luôn tồn tại một mức độ thiếu chính xác nào đó trong các dự báo thiên văn dựa trên các định luật Newton. Tuy nhiên, trải qua hàng trăm năm kể từ khi các định luật Newton ra đời cho đến trước khi lời giải “Bài toán n vật thể” của Poincaré được công bố chính thức, trong giới vật lý và thiên văn đã tồn tại một “thoả thuận ngầm”: Sự thiếu chính xác tuyệt đối trong các dự báo thiên văn là một vấn đề nhỏ, bởi vì với tiến bộ không ngừng của công nghệ đo lường, sự thiếu chính xác này sẽ được giảm thiếu đến mức tối đa. Nói cách khác, người ta đã ngầm hiểu rằng giảm thiểu tính bất định của dữ kiện ban đầu thì cũng giảm thiểu tính bất định trong kết quả dự đoán. Tiến sĩ Matthew Trump tại Trung Tâm Ilya Prigorine tại Đại học Texas ở Austin gọi đó là quy luật “srhink-shrink” (giảm-giảm). Nhưng Poincaré đã tạo nên một cú shock khi chỉ ra rằng quy luật đó không còn đúng đối với những hệ thiên văn phức tạp! Xin độc giả đọc kỹ ý kiến của Matthew Trump như sau: Những hệ thiên văn điển hình không tuân thủ quy luật nói trên là hệ chứa ba hoặc nhiều hơn ba vật thể có quan hệ tương tác lẫn nhau. Poincaré chỉ ra rằng đối với những hệ loại này, một sai lệch vô cùng nhỏ trong dữ kiện ban đầu sẽ lớn dần lên theo thời gian với một tỷ lệ khổng lồ. Do đó đối với cùng một hệ chuyển động, hai tập hợp dữ kiện ban đầu hầu như không phân biệt có thể dẫn tới hai dự đoán kết quả khác nhau một trời một vực. Poincaré đã chứng minh một cách toán học rằng hiện tượng “bùng nổ” của những bất định vô cùng nhỏ trong dữ kiện ban đầu thành những bất định khổng lồ trong kết quả dự đoán sẽ vẫn tiếp tục xẩy ra ngay cả khi những bất định ban đầu được thu nhỏ tới kích thước nhỏ nhất có thể tưởng tượng được. Nghĩa là, đối với những hệ này, dù cho bạn có thể thực hiện những phép đo dữ kiện ban đầu chính xác hơn tới hàng trăm hay hàng triệu lần hoặc hơn thế nữa, thì muộn hơn hay sớm hơn, tính bất định trong kết quả không hề giảm đi, mà vẫn vô cùng lớn. Những phân tích toán học của Poincaré thực chất đã chứng minh rằng đối với những “hệ phức tạp”, muốn có một dự đoán kết quả chính xác ở bất kỳ cấp độ nào cũng đòi hỏi phải xác định được dữ kiện ban đầu với độ chính xác tuyệt đối. Nhưng điều đó là BẤT KHẢ (impossible)! Matthew Trump viết tiếp: Tính chất cực kỳ nhậy cảm của dữ kiện ban đầu được trình bầy một cách toán học trong những hệ thống được nghiên cứu bởi Poincaré được gọi là tính bất ổn định động lực học (dynamical instability), hoặc đơn giản là “hỗn độn” (chaos). Đó là lý do vì sao Henri Poincaré được coi là cha đẻ của Lý thuyết hỗn độn, mặc dù mãi đến những năm 1960, lý thuyết này mới thành hình. Theo Matthew Trump: Mặc dù công trình của Poincaré được một số nhà vật lý nhìn xa trông rộng đương thời đánh giá là vô cùng quan trọng, nhiều thế kỷ đã trôi qua trước khi những ẩn ý trong các khám phá của ông được toàn thể cộng đồng khoa học hiểu rõ. Một trong các lý do của sự chậm trễ này là vì phần lớn các nhà vật lý thời đó đang lao vào một lĩnh vực mới mẻ của vật lý, đó là Cơ học lượng tử – lĩnh vực vật lý thâm nhập vào vương quốc hạ nguyên tử. Nhưng hiện nay, chính các nhà vật lý đang quan tâm tới Lý thuyết hỗn độn hơn ai hết. 5. Biểu hiện của hỗn độn trong Tự nhiên: Hệ thống thời tiết là một hệ phức tạp điển hình, ở đó bộc lộ rất rõ đặc trưng hỗn độn, như độc giả đã thấy phần nào qua câu chuyện về khám phá của Edward Lorenz năm 1961. Matthew Trump cho biết: Thuật ngữ “Hiệu ứng con bướm” ra đời chính từ khoa học dự báo thời tiết: Một cái vỗ cánh của một con bướm ở một nơi nào đó trên trái đất có thể dẫn tới một cơn bão ở một nơi nào khác trên thế giới một năm sau đó. Với hiệu ứng đó, hiện nay người ta buộc phải chấp nhận rằng việc dự báo thời tiết chỉ đạt được mức độ chính xác tương đối và ngắn hạn. Dù cho được trang bị những computer thông minh bậc nhất, khoa học dự báo thời tiết vẫn luôn luôn không tốt gì hơn những phỏng đoán. Vậy nếu chúng ta thấy những dự báo thời tiết thiếu chính xác hoặc thậm chí sai hoàn toàn với thực tế, có lẽ cũng không nên dễ dàng trách móc các nhà khoa học làm dự báo, mà hãy “đổ tội” cho cái bản chất hỗn độn của những hệ phức tạp trong Tự nhiên. Robert May (đã nhắc tới ở mục 2), cho biết: Trong lĩnh vực nghiên cứu quần thể sinh học còn có những thí dụ phức tạp rắm rối hơn rất nhiều. Chẳng hạn tôi có thể chỉ ra những thí dụ về quần thể ruồi dấm hoặc quần thể bọ chét dưới nước mà tôi nuôi dưỡng chúng trong phòng thí nghiệm. Bạn không thể nào tiên đoán được mức độ tăng trưởng của chúng trong một số tình huống nhất định. Dưới điều kiện nhiệt độ và sinh trưởng nào đó, chúng phát triển đều đặn và hoàn toàn có thể tiên đoán được, giống như động học Newton cổ điển vậy. Nhưng dưới điều kiện nhiệt độ và/hoặc môi trường khác, chúng trở nên vô cùng hỗn độn, và mặc dù những phương trình dùng để mô tả sự tăng trưởng của chúng rất đơn giản, mức tăng trưởng của chúng là không thể dự đoán được. Sự sinh trưởng của chúng tăng hay giảm thất thường tuỳ theo từng nơi chốn. Có thể chỉ ra rất nhiều hệ phức tạp khác nhau mà ở đó tính hỗn độn biểu lộ. Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia: Lý thuyết hỗn độn đã sử dụng để nghiên cứu tính hỗn độn trong các mạch điện, chùm lasers, các hiện tượng dao động, các phản ứng hoá học, động học chất lỏng, các máy móc cơ học và máy cơ-học-từ-tính. Khoa học cũng đã quan sát những ứng xử hỗn độn trong chuyển động của vệ tinh trong hệ mặt trời, sự “tiến hoá của thời gian” (time evolution) trong từ trường của các thiên thể, sự tăng trưởng số lượng của các quần thể sinh học, “tiềm năng tác động” (action potentials) trong các neurons thần kinh, và các dao động của phân tử. Hàng ngày chúng ta có thể chứng kiến tính hỗn độn của thời tiết và khí hậu. Và hiện người ta đang tranh luận về tính hỗn độn trong hiện tượng “kiến tạo bề mặt trái đất” (plate tectonics) cũng như trong hệ thống kinh tế. Tóm lại, Lý thuyết hỗn độn đã được áp dụng trong nhiều lĩnh vực: toán học, sinh học, khoa học computer, kinh tế học, công nghệ học, hệ thống tài chính, triết học, vật lý, chính trị, động học về mức tăng trưởng của các quần thể, tâm lý học và khoa học robots. Một trong những ứng dụng thành công nhất của Lý thuyết hỗn độn là trong sinh thái học, trong đó mô hình của Ricker đã được sử dụng để chỉ rõ các quần thể sinh học tăng trưởng như thế nào. Lý thuyết hỗn độn cũng được áp dụng trong y khoa để nghiên cứu bệnh động kinh, … và vô số ứng dụng khác nữa. 6. Vài vấn đáp trên chủ đề “hiệu ứng con bướm” và hỗn độn: 1/ Có người thắc mắc, xét cho cùng thì Poincaré vẫn chưa giải xong “Bài toán ba vật thể”, vậy tại sao ông vẫn đoạt Giải Oscar II? - Một trong các thành viên hội đồng giám khảo là nhà toán học kiệt xuất Karl Weierstrass đánh giá: “Công trình này chưa thật sự được xem như đưa ra một lời giải đầy đủ của vấn đề đã được đặt ra, nhưng điều vô cùng quan trọng là nó sẽ mở đầu cho một kỷ nguyên mới trong lịch sử của cơ học thiên thể”. - Và dưới ánh sáng khoa học hiện đại, nhà toán học Ian Stewart, giáo sư Đại học Warwick ở Anh, nhận định: “Đúng là ông chưa giải xong bài toán, nhưng ông đã tạo ra một tiến bộ đáng kinh ngạc tiến về phía trước. Ông đã sáng tạo ra một lĩnh vực hoàn toàn mới, một cách tư duy hoàn toàn mới”. 2/ Nếu chuyển động của n vật thể là hỗn độn thì tại sao hệ mặt trời lại ổn định? - Câu trả lời thuộc về các nhà vật lý thiên văn, tuy nhiên chúng ta có thể cho rằng hệ mặt trời thoả mãn những điều kiện xác định, làm cho nó trở thành một hệ đơn giản, thay vì một hệ phức tạp như các đối tượng nghiên cứu của Lý thuyết hỗn độn. 3/ Phải chăng giống như Định lý bất toàn, Lý thuyết hỗn độn chứa đựng yếu tố “chống khoa học”, bởi vì khoa học không thể là cái gì khác ngoài những định luật phản ánh tính quy luật của Tự nhiên? Bản thân khái niệm hỗn độn đã là một cái gì đó phản lại tính quy luật, tức là phản lại khoa học? - Có lẽ cần phải nhận thức lại khái niệm khoa học là gì. Khoa học không đơn giản chỉ là những định luật phản ánh tính quy luật của Tự nhiên, mà còn là tập hợp mọi nhận thức phản ánh trung thực bức tranh hiện thực. Định lý bất toàn và Lý thuyết hỗn độn là khoa học, bởi nó phản ánh bức tranh hiện thực chính xác hơn, đầy đủ hơn, trung thực hơn. 4/ Phải chăng toàn bộ vũ trụ là hỗn độn? Phải chăng tính bất định và hỗn độn tồn tại xen kẽ trong Tự nhiên, hoặc cái này bao trùm lên cái kia? - Câu trả lời vẫn bỏ ngỏ. Hiện nay chúng ta chỉ mới biết một phần nào đó của vũ trụ. Không ai có thể đưa ra một phán quyết rằng toàn bộ vũ trụ là tất định hay hỗn độn. Có những hệ đơn giản thể hiện tính tất định, nhưng cũng có rất nhiều hệ phức tạp mang bản chất bất định và hỗn độn. Có người cho rằng tính hỗn độn chỉ là một biểu hiện tương tác vật chất trong một phạm vi hẹp của một trật tự lớn hơn bao trùm, có nghĩa là quy luật tất định vẫn chiếm ưu thế. Phải nói rằng phần lớn các nhà vật lý hiện nay vẫn là những môn đệ nhiệt thành của Chủ nghĩa tất định, trong đó Albert Einstein có lẽ là môn đệ nhiệt thành nhất, vì ông từng tuyên bố “Tôi muốn biết được ý Chúa”. Đó là lý do để ông quyết tâm xây dựng Lý thuyết trường thống nhất (Theory of Unified Field), và hậu duệ của ông đã tiếp tục sự nghiệp này dưới ngọn cờ Lý thuyết về mọi thứ (TOE – Theory of Everything). Nhưng những nghiên cứu của Gregory Chaitin trong toán học lại ủng hộ tư tưởng bất định và hỗn độn nhiều hơn là tất định: Chaitin đã chứng minh rằng có một số vô hạn những sự kiện toán học nhưng phần lớn những sự kiện đó không liên hệ với nhau và không thể trói buộc chúng với nhau bằng những định lý thống nhất. Nếu các nhà toán học tìm thấy bất kỳ liên hệ nào giữa những sự kiện này thì đó chỉ là may mắn tình cờ. Phần lớn toán học đúng mà chẳng có lý do đặc biệt nào cả, toán học đúng bởi những lý do ngẫu nhiên … Chaitin nhận ra rằng số Omega đã nhiễm độc toàn bộ toán học, đặt ra giới hạn căn bản đối với cái chúng ta có thể biết. Hơn thế nữa, Omega mới chỉ là sự khởi đầu, thậm chí còn có nhiều con số phiền toái khác mà Chaitin gọi là những số Siêu-Omega – những con số thách thức mọi tính toán ngay cả khi chúng ta cố gắng mọi cách để hiểu được Omega. Dòng giống Omega – dòng giống những con số không thể tính được – đã để lộ ra rằng toán học không chỉ bị nhậy cắn thủng lỗ chỗ, mà hầu như đã bị thủng bởi những lỗ hổng toang hoác: Tình trạng hỗn độn, phi trật tự hoá ra là bản chất cốt lõi của Vũ Trụ(2). Ý kiến của Robert May (đã dẫn) có lẽ là công bằng nhất: Tôi muốn nói rằng chúng ta vẫn đang ở trong tình trạng mà hầu hết những gì được dạy trong trường phổ thông và đại học vẫn tuân theo cách nhìn kiểu Newton – phần lớn những điều chúng ta được dạy là thế giới vẫn tuân theo một trật tự … thế giới ấy có thể dự đoán được, còn ở đâu có chuyện rắm rối phức tạp và không thể dự đoán được, chẳng hạn như tại chiếc bàn quay roulette trong các sòng bạc, thì chẳng qua đó chỉ là một đống lộn xộn. Nhưng tình hình đã hoàn toàn thay đổi. Hiện nay chúng ta đã biết rằng khi quy luật đủ đơn giản thì hiện tượng xẩy ra cũng đơn giản, nhưng mặt khác, chúng ta không thể tạo ra “chiếc đồng hồ đơn giản kiểu Newton”. Với những phương trình mô tả chiếc đồng hồ Newton, quả lắc đồng hồ đôi khi có thể dao động bình thường như bạn dự đoán, nhưng nhiều lúc khác nó lại gây nên tình trạng hoàn toàn hỗn độn và không thể dự đoán được. 5/ Liệu có thể “Tây phương hoá”, tức là logic hoá và toán học hoá những lý thuyết có khả năng tiên tri của khoa học Đông phương cổ truyền, như Kinh Dịch hoặc Tử vi, … để bổ sung cho khả năng tiên tri của khoa học Tây phương hay không? Có hai lý do để tham vọng này khó biến thành hiện thực: Một, khoa học Đông phương không dựa trên logic suy diễn và chứng minh, mà chủ yếu dựa trên cảm nghiệm trực giác, mặc dù nó có những nguyên lý cơ bản vô cùng cô đọng đã được hình thức hoá. Vì thế, tham vọng logic hoá các khoa học cổ truyền Đông phương là đi ngược lại phương pháp tiếp cận chân lý của chính Đông phương cổ truyền. Phương pháp suy diễn logic và chứng minh của khoa học Tây phương tự bản thân nó đã không đủ để chứng minh mọi chân lý. Định lý bất toàn gợi ý rằng thế giới nhận thức của con người lớn hơn thế giới logic chứng minh rất nhiều. Chỗ hơn hẳn của con người so với tư duy logic máy móc chính là trực giác: Khả năng cảm nhận chân lý một cách trực tiếp không cần suy luận. Vậy logic hoá và toán học hoá Kinh Dịch e rằng chỉ làm giảm giá trị của Kinh Dịch, thay vì nâng nó lên một tầm cao hơn của nhận thức. Đã có một giáo sư vật lý Việt Nam thực hiện một công trình toán học hoá Kinh Dịch rất công phu(3), nhưng công trình này không để lại một ấn tượng nào đủ lớn trong cộng đồng khoa học Việt nam cũng như thế giới. Có lẽ vì nó không đủ sức thuyết phục. Hai, giả sử toán học hoá và logic hoá Kinh Dịch hoặc Tử vi thành công, tôi e rằng hệ thống dữ kiện ban đầu của nó không đủ để khắc phục được “Hiệu ứng con bướm” – hiện tượng bất định và hỗn độn của các hệ thống phức tạp trong Tự nhiên và xã hội. Chẳng hạn, có trường hợp hai chị em sinh đôi cùng trứng, và tất nhiên là cùng năm cùng tháng cùng ngày cùng giờ và cùng nơi sinh. Vậy mà số phận lại khác nhau một trời một vực. Một người thì liên tục gặp may mắn, một người thì gặp hết rủi ro này đến rủi ro khác. Phải chăng sự khác biệt vô cùng lớn này xuất phát từ một khác biệt vô cùng nhỏ nào đó trong dữ kiện ban đầu (lúc sinh ra đời) của hai chị em này? Nếu nhận định này đúng thì có nghĩa là “hiệu ứng con bướm” và bản chất hỗn độn cũng tác động ngay cả trong khoa học chiêm tinh! Vì thế khoa học chiêm tinh cũng chỉ đúng với những “hệ” đơn giản và ngắn hạn, và sẽ “hỗn độn” với những “hệ” phức tạp và lâu dài! Vậy có cách nào bổ sung cho hệ thống dữ kiện ban đầu của các khoa học Đông phương cổ truyền hay không? Nhưng dù có bổ sung đến mấy đi chăng nữa, như đã nói ở các phần trên, sẽ chẳng bao giờ có một hệ thống dữ kiện ban đầu tuyệt đối chính xác – bản chất bất định của các phép đo dữ kiện ban đầu. Điều đó có nghĩa là “hiệu ứng con bướm” và bản chất hỗn độn là không thể khắc phục được đối với bất kỳ hệ phức tạp nào, dù là Tây phương hay Đông phương! Nhưng tại sao vẫn có những tiên tri đúng đến mức làm mọi người phải kinh ngạc, như tiên tri của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nostra Damus, hay gần đây hơn là Nicolas Tesla, …? Có lẽ các nhà tiên tri này chỉ dựa một phần nào vào những mô hình logic tất định (Tây phương hoặc Đông phương) để đưa ra những tiên tri kỳ lạ của họ, mà chủ yếu dựa trên trực giác đặc biệt – một thứ “Don de Dieu” (một ân huệ của Trời). Sự thật có đúng như vậy không? Điều này vẫn là một ẩn số lớn của chiêm tinh học mà khoa học ngày nay chưa thể giải mã, và cũng vượt quá phạm vi thảo luận của bài viết này. 7. Kết: Xét cho cùng thì “Hiệu ứng con bướm” và bản chất hỗn độn của Tự nhiên cũng đã được kinh nghiệm dân gian truyền tụng từ lâu. Đó là câu ngạn ngữ “Sai một ly đi một dặm”! Theo Phạm Việt Hưng & Wikipedia Nguồn: Math VN ===================================== Có thể sau cuộc gặp với thày Đức, mọi chuyện ầm ĩ một thời. Rồi đến "Hội thảo khoa học về Phong thủy", cũng lại ầm ĩ một thời. Rồi "Thời tiết Đại lễ - Kỷ niệm ngàn năm Thăng Long Hà Nội" cũng lại ầm ĩ một thời. Đã "quá tam ba bận". Nhưng hơn hai năm trôi qua, có một cái gì đó làm như chưa hoàn chỉnh? Phải chăng tôi còn nợ một cái gì đó để thẩm định sự xác quyết rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất. Mà tất cả những hiện tượng ầm ĩ một thời - để rồi quên lãng - chưa đủ sức thuyết phục? Hình như còn một luận chứng nào đó mang tầm cỡ quốc tế mà tôi còn nợ? Hình như ngày ấy Thế Trung nói với tôi về bài viết này và tôi hứa sẽ chứng minh. Phải chăng đây chính là chặng cần vượt qua ám ảnh và chính là "Hiệu ứng con bướm" cho những sự phản biện, đả kích, hoài nghi dưới mọi hình thức trong thời gian qua. Nhân duyên lại đến. Tôi vào trang chungta.com và lại thấy ngay bài này trên trang chủ: Gặp lại cố nhân và nhớ tới món nợ phải trả. Nhưng lần này âm thầm và không ầm ĩ. Tôi đưa vào Quán vắng. Tôi có thể đưa vào blog của tôi. Nhưng trên blog thì bài cuối cùng tôi cũng đang viết dở - tôi không muốn chèn lên khi chưa viết xong. Ở đấy vắng hơn nhiều. Phù hợp với Dương tính, sau ba lần "Âm Động". Phải chăng còn ba lần Dương tịnh nữa mới ra quẻ Địa Thiên Thái? Lý thuyết bất định - một lý thuyết khoa học tầm cỡ quốc tế, xác định không có tính quy luật tổng hợp có thể tiên tri. Hoặc một khả năng tiên tri hạn chế. Hay nói rõ hơn: Nếu lý thuyết này đúng thì không có lý thuyết thống nhất. Đây chính là sự phản biện lớn nhất về mặt lý thuyết cho luận điểm của tôi, khi xác quyết rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất. Tôi đang viết gần xong cuốn sách : "Định mệnh có thật hay không?", chỉ còn sửa lại chính tả do lỗi đánh máy và câu cú cho rõ ràng hơn. Nhưng tôi sẽ ngưng viết cuốn sách này và sẽ chỉ tiếp tục sau khi những luận chứng của tôi chứng minh "Thuyết Bất định là một sai lầm của nhận thức và phương pháp tư duy", như là một chương bổ sung sắc sảo cho luận điểm của tôi trong cuốn sách này. Không chứng minh được điều này thì không có lý thuyết thống nhất. Dù đó là lý thuyết nào nhân danh bất cứ cái gì. Luận đề này có thể rất dài, nhưng cũng có thể rất ngắn. Nhưng nó sẽ là một luận chứng quan trong - ít nhất trong thời điểm này của tri thức phổ biến: Một lý thuyết Bất Định cho rằng: Không thể có sự tính toán chính xác mang toán quy luật cho sự chuyển động của n vật thể. Nó được thống kê bởi những nhà khoa học có uy tín xác nhận: Nhưng tạm thời tôi đặt vấn đề như sau: * Tất cả những nhà khoa học tham gia thí nghiệm đi tìm Hạt của Chúa, cho đến nay - ít nhất cho đến lúc tôi đang gõ hàng chữ này - chưa tìm thấy Hạt của Chúa. Họ cũng đầy uy tín và cũng thuộc những viện Hàn Lâm khoa học tên tuổi trên thế giới. Đây là điều tôi đã xác quyết khi biết đến thí nghiệm này khi nó chưa vận hành. Sự xác quyết này, nhân danh một lý thuyết thống nhất có nguồn gốc từ nền văn hiến Việt trải gần 5000 lịch sử. Bởi vậy, tôi hy vọng rằng sẽ chia sẻ với các bạn không mặc cảm với chính mình. Bởi vậy, tôi đủ tự tin để chứng minh rằng: Thuyết Bất định chính là một sai lầm của nhận thức và phương pháp tư duy. Chưa hết, quí vị xem một đoạn sau đây của bài viết trên: Khi viết bài này cách đây hai năm, anh Phạm Việt Hưng chưa tham khảo một cách đầy đủ khả năng tiên tri của Lý học Đông phương của những nhà ứng dụng hoặc nghiên cứu về vấn đề này - tôi tin chắc là như vậy. Ở đây tôi buộc phải nhắc lại một sự kiện gây quan tâm của dư luận - mà chính tôi là nhân vật được quan tâm - Thời tiết Đại Lễ kỷ niệm ngàn năm Thăng Long Hà Nội. Tất cả các cơ quan khí tượng quốc tế đều sai, ít nhất ở những ngày đầu - chỉ sau đó họ mới xác định được tương đối chính xác thời tiết sau đó. Còn tôi đã khẳng định điều này trước đến hai tháng và đem cả sự nghiệp minh chứng Việt sử ra đặt cọc vào sự kiện này. Muốn giải thích theo kiểu gì, tùy theo trình độ nhận thức. Nhưng Đại lễ đã gọi là "Thành công tốt đẹp". Phải không nhỉ? Hay là: "Trời mưa lạnh dị nhân bó tay?". Tôi thông cảm với những nhà khoa học đặt nền tảng cho lý thuyết Bất Định. Vì nó ra đời từ thế kỷ XIX, còn đây là thế kỷ XXI và lúc đó họ chưa quan tâm lắm đến một mảng văn hóa tri thức của nhân loại - nền văn minh Đông phương - mà cốt lõi của nó chính là nền Lý học Đông phương với thuyết Âm Dương Ngũ hành - và tính quyết định mang tính khoa học của nó phải là - thuộc về lịch sử văn hiến Việt. Cái hệ quả quan trọng sau đó là sự xác quyết của tôi về thới tiết Đại Lễ. Mọi người có thể nhận xét, có thể chỉ ra một vài cơn mưa nhỏ lẻ để chê bai. Tùy. Nhưng tất cả những cơ quan khí tượng quốc tế đều đoán sai - so với tôi - mặc dù họ chỉ có khả năng hạn hẹp về thời gian là đoán trước khoảng một tuần. Bởi vậy, cái cơ sở của Lý thuyết Bất định gọi là ứng dụng trên nhiều phương diên, chưa đủ để là một vật cản đáng kể cho việc xác định "Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất, nhân danh nền văn hiền Việt". Tôi chẳng phải thần thánh, hay pháp sư đạo cao đức trọng gì cả. Cũng uống rượu, ăn thịt chó và gặp người đẹp cũng ngả mũ chào rất lịch sự, mặc dù không quen - với điều kiện không có Mama tổng quản bên cạnh. Cũng có một vài bạn bè hỏi tôi về phương pháp. Tôi rất tiếc là vì tính phức tạp của vấn đề lý thuyết - quá phức tạp, nên không thể trả lời một cách ngắn gọn. Đây là lý do thứ hai để tôi tự tin khi phân tích sai lầm của học thuyết này. (Còn tiếp) ====================== PS: Bài này đang được viết tiếp trên blog của tôi. Cảm ơn quí vị quan tâm. http://vn.360plus.yahoo.com/thiensulacviet/
  4. Tôi không giỏi Tử Vi lắm vì bỏ lâu rồi. Nhưng cũng nghĩ giờ Gà.
  5. NĂNG LƯỢNG CỦA TƯƠNG LAI Điện năng được tạo ra bởi những đập thủy điện và nhà máy điện hạt nhân, đã chứng tỏ sự thất vọng của môi trường. Những bất cập do phương tiên sản xuất điện năng nói trên đang chứng tỏ sức hủy hoại môi trường ngày càng rõ nét. Có quá nhiều ví dụ về vấn đề này. Nhưng sự phát triển của cuộc sống rất cần những nguồn năng lượng để sản xuất điện. Bởi vậy, chúng tôi nghĩ rằng: Điện gió, điện mặt trời, điện sinh học sẽ là những nguồn năng lương vô tận, an toàn và thuộc về năng lương của tương lai trong sự ổn định về nhu cầu và dân số. Tuy nhiên, đi cùng với việc sử dụng năng lượng loại này là việc phân bố lại khu dân cư. ============================================================ Tây Ban Nha: điện gió cung cấp 21% nhu cầu Thứ Bảy, 02/04/2011, 06:23 (GMT+7) TT - Điện gió trở thành nguồn cung cấp điện năng chính ở Tây Ban Nha lần đầu tiên vào tháng 3-2011 trong nỗ lực tập trung vào nguồn năng lượng thay thế. Các tuôcbin điện gió ở Tây Ban Nha - Ảnh: AFP “Các nhà máy điện gió cung cấp 21% nhu cầu điện năng, tăng 5% so với tháng 3-2010” - AFP dẫn tuyên bố của Cơ quan điện lực REE. Trên tổng thể, nguồn năng lượng có thể phục hồi (bao gồm năng lượng điện gió) giải quyết 42,2% nhu cầu điện năng của Tây Ban Nha, điện mặt trời 2,6%, thủy điện 17,3% và điện hạt nhân 19%. “Các số liệu cho thấy tỉ lệ sử dụng năng lượng điện gió đạt đến một cột mốc lịch sử. Điện gió sạch trở nên cạnh tranh hơn và có khả năng cung cấp điện cho 3 triệu hộ gia đình Tây Ban Nha” - chủ tịch Hiệp hội Năng lượng điện gió Jose Donoso cho biết. Tây Ban Nha trở thành nhà cung cấp điện gió đứng hàng thứ tư thế giới vào năm 2006 vì Chính phủ Tây Ban Nha có nhiều chính sách ủng hộ năng lượng sạch trong nhiều năm gần đây. Trong khi đó, các nhà khoa học Tây Ban Nha đang nghiên cứu thành công một loại nhiên liệu sinh học được sản xuất từ tảo và CO2 trong một dự án phát triển nguồn nhiên liệu sinh học. DUY PHÚC (Theo AP, AFP) ============================================================ Mẫu hình mới về nhà máy điện mặt trời Trong số các nguồn năng lượng tái tạo, nguồn năng lượng mặt trời (NLMT) là khá phong phú. Sử dụng năng lượng mặt trời thay thế cho các dạng năng lượng truyền thống là một chiến lược lớn và lâu dài, có ý nghĩa về mặt kinh tế, an ninh quốc phòng và phát triển đất nước. Hiện nay trên thế giới Nhà máy điện mặt trời đang sử dụng ba dạng pin mặt trời để chuyển hoá quang năng thành điện năng và tích luỹ năng lượng: pin mặt trời đơn tinh thể (monocrystal, c-Si), đa tinh thể (polycrystal, p-Si) và màng mỏng vô định hình (amorphous, a-Si). Một nhà máy điện mặt trời được xây dựng tại Tây Ban Nha Pin màng mỏng vô định hình gọi tắt là pin màng mỏng, hoặc pin vô định hình, có nhiều loại như: silic vô định hình (a-Si), đồng inđi diselenua (CIS), cadmi telurua (CdTe),... Trong đó loại a-Si, đã trải qua thời gian và chứng minh được độ bền, có hiệu quả khai thác năng lượng cao. Tập đoàn NovaSolar, của Mỹ về NLMT, chuyên chế tạo, lắp đặt dây chuyền sản xuất, vận hành, bảo dưỡng các nhà máy điện mặt trời quy mô lớn, vừa giới thiệu một hình mẫu nhà máy điện mặt trời dựa trên công nghệ tiên tiến, đảm bảo môi trường sạch, giá thành thấp. NovaSolar lựa chọn công nghệ pin vô định hình a-Si. Mặc dù hiệu suất pin a-Si thấp hơn pin c-Si và pin p-Si nhưng điện năng thu được bình quân trong một năm lại cao hơn 15%, do cứ có ánh sáng là nó có thể hoạt động được (dù trời mây mù), và cả trong môi trường không khí có nhiệt độ cao, mà các pin c-Si, p-Si bị hạn chế. Hơn nữa, công nghệ hiện đại của NovaSolar a-Si tráng trên một tấm kính, vừa đảm bảo độ bền do tính đồng nhất, lại giảm 50% trọng lượng so với cách tráng a-Si trên kính kép. Với những ưu điểm về công nghệ và chiến lược triển khai xây dựng nhà máy điện mặt trời quy mô lớn theo phương thức chìa khóa trao tay, NovaSolar mang lại giải pháp toàn diện, độ tin cậy cao nhằm giải quyết vấn đề thiếu điện tại các khu vực, quốc gia trên thế giới đặc biệt ở những nơi có bức xạ mặt trời cao và chưa có lưới điện quốc gia. Theo Vietnamnet ============================================================ Phú Thọ đầu tư nhà máy điện sinh học tái tạo vốn 1.160 tỉ đồng Thứ tư, 20 Tháng 10 2010 10:52 Nhà máy điện sinh học Biomass có công suất 40MW, sản lượng điện dự kiến là 331,5 triệu kWh/năm với dây chuyền công nghệ hiện đại của châu Âu. Ngày 18/10, UBND tỉnh Phú Thọ đã cấp giấy chứng nhận đầu tư dự án xây dựng nhà máy điện sinh học Biomass có vốn đầu tư 1.160 tỉ đồng tại khu Rừng Xanh, thị trấn Phong Châu, huyện Phù Ninh cho Công ty cổ phần năng lượng sinh học tái tạo công nghệ cao Việt Nam. Nhà máy điện sinh học Biomass có công suất 40MW, sản lượng điện dự kiến là 331,5 triệu kWh/năm với dây chuyền công nghệ hiện đại của châu Âu. Đây là dự án sản xuất điện bằng nguồn năng lượng tái tạo từ rơm, rạ, thân cây ngô, sắn, đỗ, lạc, cây củi sau khai thác rừng..., vừa cung cấp điện vừa góp phần giải quyết ô nhiễm môi trường. Tổng mức đầu tư xây dựng nhà máy là 1.160 tỉ đồng, dự kiến, năm 2013 nhà máy đi vào hoạt động sẽ giải quyết việc làm cho gần 3.500 lao động địa phương. Ngoài ra, nhà máy còn giúp bà con nông dân tiêu thụ phế thải hữu cơ nông nghiệp và rác thải sinh hoạt nông thôn. Theo baocongthuong.com.vn ============================================================ Scotland xây nhà máy điện thủy triều lớn nhất thế giớiNhà máy phát điện sử dụng năng lượng thủy triều sẽ được xây dựng ngoài khơi bờ biển phía Tây Scotland. Chính quyền Scotland đã chính thức phê chuẩn dự án này với tổng trị giá đầu tư 40 triệu bảng Anh (64 triệu USD). Nhà máy phát điện này sẽ có tổng công suất 10MW/năm. Nhà máy điện thủy triều của Scotland sẽ được đặt ngoài khơi đảo Islay nằm ở phía Tây Scotland, bao gồm một tổ hợp 10 turbin phát điện có khả năng cung cấp nhu cầu điện sinh hoạt cho hơn 5.000 hộ gia đình ở hai đảo Islay và Jura. Chủ dự án là Scottish Power Renewables, một công ty năng lượng tái sinh hàng đầu ở Anh. Các turbin phát điện sẽ được đặt dưới mực nước biển và lợi dụng thủy triều để tạo ra điện năng Bộ trưởng Tài chính Scotland, ông John Swinney, cho biết đây là dự án điện thủy triều lớn nhất thế giới và sẽ là một cột mốc trong ngành phát triển năng lượng thủy triều toàn cầu. Khi hoàn thành, dự án Islay sẽ là nhà máy điện thủy triều đầu tiên trên thế giới và sẽ giúp tăng 3 lần công suất các dự án sản xuất điện hải dương ở Anh hiện nay. Scotland đã đặt mục tiêu đưa năng lượng tái sinh chiếm 80% tổng nhu cầu sử dụng điện năng. Scotland nói riêng và nước Anh nói chung được đánh giá dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực nghiên cứu phát triển năng lượng thủy triều. Lĩnh vực này cũng thu hút sự quan tâm của một số quốc gia khác, như Canada, Mỹ và Na Uy. Việt Báo (Theo Bee)
  6. Ông Nguyễn Anh Tuấn nói lời chia tay VietNamNet 31/03/2011 10:23:25 - Từ ngày 1/4/2011, ông Nguyễn Anh Tuấn, nguyên Tổng biên tập báo điện tử VietNamNet chính thức thôi việc tại tờ báo này. Sáng nay, ông Tuấn đã có thư chia tay với bạn đọc và cộng tác viên VietNamNet. Chúng tôi xin đăng nguyên văn bức thư này: Kính gửi bạn đọc và cộng tác viên quý mến của VietNamNet! Tôi xin trân trọng báo tin đến các bạn, là bắt đầu từ ngày 1 tháng 4 năm 2011, tôi chính thức thôi việc ở VietNamNet. Trong suốt 14 năm qua, tôi đã luôn luôn được hưởng sự ủng hộ và giúp đỡ đầy tình nghĩa cao quý của bạn đọc, cộng tác viên, bạn đồng nghiệp, đặc biệt là bạn đồng nghiệp trong giới báo chí, và anh chị em cùng tôi công tác tại VietNamNet. Ông Nguyễn Anh Tuấn và tỷ phú Ấn Độ Rahul Bajar, Chủ tịch tập đoàn Bajar tại cuộc họp Hội đồng cố vấn Trường kinh doanh Havard năm 2008 Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc, khắc ghi trong tâm khảm không bao giờ quên sự trợ giúp hào hiệp vô giá đó. Kiểm điểm lại hoạt động của VietNamNet, tôi nhận thấy có nhiều việc lẽ ra phải làm tốt hơn và có nhiều việc cần làm mà chưa làm được hoặc làm chưa đầy đủ. Tôi chân thành xin lỗi bạn đọc và cộng tác viên về những khiếm khuyết ấy. Trong công việc mới, dù đi đâu, làm gì, tôi xin nguyện tiếp tục phấn đấu cố gắng xứng đáng trở thành người con hiếu thảo của dân tộc, như tâm nguyện của những người làm báo VietNamNet. Thưa anh chị em, tôi có niềm mong ước và niềm tin tưởng rằng trong tấm lòng, trong việc làm, trong cuộc sống, chúng ta vẫn luôn luôn gần nhau, cùng nhau đồng hành, hết sức góp phần của mỗi anh chị em ta vào công cuộc phát triển đất nước. Ngày 31 tháng 3 năm 2011 Nguyễn Anh Tuấn ================================================Việc ông Nguyễn Anh Tuấn ra đi khiến cho tôi một cảm xúc ngậm ngùi vì một kỷ niệm: Tờ Vietnamnet.vn là tờ bào duy nhất, nếu không thì cũng là tờ báo đầu tiên đăng bài viết về "Y phục thời Hùng Vương", chứng minh rằng: Tổ tiên ta có một nền văn minh rực rỡ qua y phục dân tộc và tầng lớp cao cấp trong xã hội thời bấy giờ.
  7. Ông Nguyễn Anh Tuấn sẽ làm việc tại Harvard 01/04/2011 20:50:52 “Tôi hy vọng Tổng biên tập mới sẽ truyền được lửa cho anh em", ông Nguyễn Anh Tuấn nguyên Tổng biên tập báo VietNamNet đã có buổi trò chuyện với phóng viên sau khi chính thức thôi việc. “Tôi hy vọng Tổng biên tập mới sẽ truyền được lửa cho anh em,” ông Tuấn nói. Ông Tuấn cho biết, điều quan tâm nhất của ông bây giờ chính là nghĩ tới một giai đoạn mới, nghiên cứu và sáng tạo. Từ năm 2008, ông Tuấn là cố vấn của Trường kinh doanh Harvard. Trước khi quyết định nộp đơn nghỉ việc tại VietNamNet [ngày 2/3/2011 - PV], ông đã được mời làm cán bộ nghiên cứu tại Trung tâm Báo chí chính trị và chính sách công (thuộc Đại học Harvard, Mỹ) vào đầu tháng 2/2011. “Harvard là nơi tập trung trí tuệ của thế giới. Khi làm việc ở đây, tôi sẽ có điều kiện học hỏi, nâng cao trình độ.” Ông nói, sẽ “không nhập quốc tịch Mỹ,” và trung bình mỗi năm ông sẽ về Việt Nam ở và làm việc khoảng 4-5 tháng. Nói về chức danh Phó Chủ tịch Hội truyền thông số Việt Nam, ông Tuấn cho hay được mời tham gia Hội nhưng chắc chỉ ở góc độ tham gia phụ giúp, còn vai trò chính là Chủ tịch và Tổng thư ký Hội. Song, ông hy vọng Hội Truyền thông số sẽ phát triển “cho ra Hội” và ông sẽ dành thời gian suy nghĩ để đưa ra ý tưởng đóng góp cho Hội. (Theo TTXVN)
  8. Người lái xe vô trách nhiệm - Khi đến gần đường xe lửa vẫn vừa lái vừa nghe điện thoại. Người dân đã la ó, ra hiệu ngừng xe. Nhưng vì mải nghe DT nên không biết gì cả. Hậu quả thật thảm khốc.Bởi vậy, chỉ cần mỗi người có trách nhiệm một chút. Hoặc lệnh cấm tất cả các lái xe nghe dt trong lúc đang lái. Hoặc qui định lái xe phải tắt điện thoại khi lái xe. Chỉ cần phát hiện lái xe mở dt không tắt là phạt, tôi hy vọng tại họa loại này sẽ giảm nhiều. Chúng ta không phải cầu nguyện. Tiếc thay! Năm náy Thái Tuế chiếc trục Đông Tây, Trục Tuyệt mạng lại gia thêm Nhi Ngũ nên tai nạn sẽ nhiều hơn.
  9. Tổng hợp tất cả mọi vấn đề, thì năm nay là năm rất cẩn cẩn trọng. Xã hội không chỉ kinh tế. Vấn đề là cân đối nó sẽ tự phát triển.
  10. Thiên Luân biên tập lại cho tôi toàn bộ luận đề "Luận tuổi Lạc Việt", Tôi sẽ in thành sách với người biên soan là Thiên Luân. Rất cần thiết đề giúp các đôi nam nữ yếu nhau sẽ đến được với nhau.
  11. Vậy hai người viết chung. Cùng đứng tên tác giả.Ai đấy! Miễn ba tháng học phí cho học viên đó. Nhưng mọi quyền lợi khác liên quan vẫn được giữ nguyên.
  12. Cảm ơn Nguyên Anh.Tôi cũng hy vọng vậy!
  13. TƯ LIỆU THAM KHẢO Khủng hoảng hạt nhân Nhật: Thách thức hiện hữu và giải pháp Thứ Bẩy, 02/04/2011 - 12:56 (Dân trí) - Nguy cơ ô nhiễm phóng xạ không chỉ xuất phát từ các chất phóng xạ của nhà máy điện Fukushima I, mà còn từ nước làm mát có chứa phóng xạ từ các lò phản ứng chảy ra ngoài theo các rãnh dưới đất. Nhật Bản bắt đầu các biện pháp đối phó. Theo thống kê gần đây nhất, trận thiên tai khủng khiếp nhất trong lịch sử nước Nhật hậu chiến đã gây ra số nạn nhân tử vong và mất tích là 28.000 người Vấn đề đặt ra … Sau trận động đất/sóng thần ngày 11/3, tại các nhà máy điện hạt nhân Fukushima I và Fukushima II của Nhật Bản đã ban bố tình trạng khẩn cấp do hệ thống làm mát bị hư hại. Nguy hiểm nhất là tại Fukushima I đã xảy ra những vụ nổ trong tổ máy số 1, số 2 và số 3 cùng đám cháy trong tổ máy số 4. Những sự cố này đã dẫn đến rò rỉ phóng xạ. Vấn đề đau đầu hiện nay là Công ty Điện lực Tokyo (TEPCO) vẫn chưa thể biết những gì đang xảy ra ở bên trong lò phản ứng, trong khi số đo mức phóng xạ trong và xung quanh nhà máy điện hạt nhân Fukushima mỗi lúc một tăng theo hướng nghiêm trọng. Bơm chất lỏng bị ô nhiễm và hạ thấp nhiệt độ trong các tổ máy hiện là công tác chính mà các chuyên gia Nhật Bản tập trung tiến hành. Tuy nhiên, họ liên tục phải ngưng công việc do mức độ phóng xạ cao trong nhà máy. Ví dụ như về nguyên nhân nhiễm xạ của nước biển, cho đến nay, Nhật Bản vẫn chưa có kết luận chính thức. Theo phỏng đoán thì có thể nước bị nhiễm phóng xạ trong các lò phản ứng đã rò rỉ ra ngoài theo lỗ thoát và chảy ra biển. Cũng có thể là do quá nhiều nước đã được đổ vào nhằm làm nguội lò (vì hệ thống làm nguội đã bị trục trặc sau trận sóng thần), nước bị nhiễm xạ đã tràn ra ngoài gây ô nhiễm. TEPCO vẫn đang phải tiếp tục đổ nước để làm mát các lò phản ứng số 1, 2 và 3 cũng như các bể chứa các thanh nhiên liệu phóng xạ đã qua sử dụng. Các tầng hầm của các tòa nhà có chứa các lò phản ứng từ 1 đến 4 đang bị ngập trong nước nhiễm phóng xạ hàm lượng cao. TEPCO cho hay các chuyên viên của họ đã thử nghiệm nước ở bên ngoài nhà máy và đã thấy mức nhiễm xạ cao hơn bình thường. Tỉ lệ phóng xạ i ốt 131 trong nước biển tính đến ngày 31/3 đã gấp 4.385 lần so với mức độ bình thường. Một ví dụ nữa, phóng xạ plutoni cũng được tìm thấy trong đất ở những khu vực xung quanh nhà máy, cũng không rõ nguyên nhân từ đâu. Mặc dù theo TEPCO, lượng plutoni được phát hiện là nhỏ nhưng nhiều người vẫn quan ngại về vụ rò rỉ phóng xạ này. Nguyên nhân là do đồng vị phóng xạ plutoni-239 có chu kỳ bán rã lên tới 24.000 năm, trong khi chu kỳ bán rã của cesium-137 chỉ là 30 năm và đồng vị phóng xạ i ốt-131 chỉ là 8 ngày. Chưa hết, hôm qua, TEPCO xác nhận chất phóng xạ đã được xác nhận có trong nước ngầm lần đầu tiên kể từ khi xảy ra sự cố với các lò phản ứng hạt nhân sau thảm hoạ 11/3. Nước ngầm ở khu vực nhà máy Fukushima I có chứa i ốt phóng xạ cao gấp 10.000 lần ngưỡng cho phép. Vấn đề đặt ra là cho tới nay, các chuyên gia cũng chỉ biết một cách mơ hồ về tính chất của đất và đá tại khu nhà máy Fukushima I. Đá dưới lòng đất chỉ cần bị nứt là cũng đủ để những phân tử phóng xạ ngấm vào, do nước bị nhiễm. Điều đáng lo ngại hơn nữa khi biết rằng những chất như plutoni hay những hóa chất nặng gây ô nhiễm rất dài lâu. … và những giải pháp Về giải pháp ngăn hơi nước có phóng xạ phát tán ra ngoài, các kỹ sư muốn phủ lên các nhà xưởng bị hư hại của 3 trong số 6 lò phản ứng của Fukushima I một lớp bạt được sản xuất bằng vật liệu đặc biệt, có thể hạn chế hơi nước có phóng xạ thoát ra. Ngày 1/4, Nhật Bản đã bắt đầu tiến hành rải nhựa thông đặc biệt nhằm ngăn chặn việc phán tán chất phóng xạ ở Nhà máy Điện hạt nhân Fukushima I. Các nguồn tin từ Chính phủ Nhật Bản trước đó xác nhận nước này dự định sử dụng một rôbốt điều khiển từ xa mượn của quân đội Mỹ để xịt nhựa thông lên khoảng 80.000m2 trong tổng diện tích 120.000m2 của nhà máy điện. Ở một mức độ nào đó, nguyên liệu này sẽ giúp ngăn ngừa chất phóng xạ lan rộng. Điều này cho phép công việc sửa chữa tại nhà máy này diễn ra thuận lợi hơn. Chiến dịch này có thể sẽ kéo dài khoảng 2 tuần. Trước đó, báo chí Nhật Bản xác nhận một ý tưởng đang được cân nhắc là phủ lên các tòa nhà có chứa lò phản ứng này bằng các kết cấu được bao phủ bởi các tấm vải bạt cực bền. Mặc dù phương án này khó kiềm chế các tia gamma và neutron có khả năng xâm nhập cao nhưng nó có thể ngăn không cho hơi nước có chứa chất phóng xạ lan rộng ra bên ngoài. Tuy nhiên, phương án này cũng cần phải có thời gian bởi vì, nó đòi hỏi phải tìm một số lượng lớn vải bền để bao phù toàn bộ các tòa nhà này. Về giải pháp để tháo nước bị nhiễm phóng xạ, Nội các Nhật Bản đã quyết định khẩn trương xây dựng một hồ chứa để bơm nước phóng xạ từ Fukushima I. Thứ nước phóng xạ này đã đầy tràn các hệ thống của bốn lò phản ứng trong nhà máy bị hư hại. Hồ chứa sẽ được dùng để lọc nước với hỗ trợ của chất tinh khiết đặc biệt, sau đó nước một lần nữa sẽ được dẫn vào hệ thống của lò phản ứng. Trong những ngày đầu tai nạn, khi các lò phản ứng bốc khói, nhân viên TEPCO đã phải phun nước để làm hạ nhiệt các lò phản ứng và làm nguội các thanh nhiên liệu. Khối nước này đã bị nhiễm phóng xạ. Giờ đây khối nước này phải được thải đi nơi khác. Trước đó, có kế hoạch nữa được phác thảo là một chiếc tàu chở dầu thả neo trước nhà máy điện nguyên tử Fukushima có thể được sử dụng để tháo bớt lượng nước bị nhiễm xạ cao. Kế hoạch này dùng các tàu quân sự của Lực lượng Phòng vệ trên biển (MSDF) để vận chuyển các thùng chứa nước nhiễm xạ ra các tàu chở dầu neo đậu ở ngoài khơi. Tuy nhiên, Bộ Quốc phòng cho rằng phương án này quá mạo hiểm. Có ý kiến cho rằng giải pháp trước đây từng được áp dụng với Chernobyl cũng có thể phát huy hiệu quả trong trường hợp này. Một số chuyên gia đã đề xuất giải pháp tương tự giải pháp đã được sử dụng đối với nhà máy nguyên tử Chernobyl, đó là bao bọc toàn bộ nhà máy bằng bê tông, tức là xây dựng một “quan tài bằng đá” cho nó. Chính phủ Nhật Bản đã lưu tâm đến giải pháp này và cho biết kế hoạch bao bọc các nhà máy điện nguyên tử ở Fukushima bằng một loại vải đặc biệt, đồng thời tiến hành sửa chữa các ống dẫn khí để hạn chế việc phóng xạ thoát ra ngoài. Nhật Bản cho biết đã tiến hành mọi biện pháp có thể và về cơ bản, việc xem xét các hình thức rò rỉ phóng xạ khác cũng cần được chú trọng hơn nữa. Chính quyền Tokyo ngày 31/3 đã loại trừ khả năng mở rộng khu vực sơ tán xung quanh nhà máy điện nguyên tử Fukushima từ 20km lên 40 km, cho dù Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (AIEA) đã khuyến cáo. Có thể suy ra rằng Chính quyền Nhật Bản đặt tin tưởng vào năng lực của các kỹ sư, trong việc làm nguội các lò phản ứng đang nóng quá độ. Thiệt hại vật chất và cơ sở hạ tầng sau thảm họa 11/3 ước tính lên tới từ 16.000 đến 20.000 tỷ yen. Nhiều hoạt động kinh tế bị ngừng lại do tác động của động đất và sóng thần gây thiệt hại dây chuyền cho khu vực sản xuất. Thuế thu vào qua đó cũng bị giảm theo. Nguyễn Viết
  14. Không có chiều thời gian thứ hai trở lên. Quan niệm nhiều chiếu không/ thời gian là một sai lầm của nhận thức cho rằng: "Không gian/ Thời gian có thuộc tính vật chất và là một dạng của vật chất. Thực ra nó chỉ là khái niệm của con người để qui ước quán xét vật chất. Nếu nghiên cứu theo hướng này sẽ bế tắc. Nhưng có những cấu trúc và vận động tương tác của vật chất chưa được khám phá.
  15. Xin tiền đầu tư thì được. Nhưng e không thành.Giờ Dậu ngày 29. 2. Tân Mão Việt lịch: Đỗ Vô Vong. Nếu Phale là học viên của lớp Phong Thủy Lạc Việt do tôi phụ trách thì hãy đến nhà, tôi sẽ hướng dẫn cụ thể. Gõ mệt quá. Nói nhanh hơn. Nhưng dù thế nào thì thành công phải là kiên trì và biết chờ đợi.
  16. TƯ LIỆU THAM KHẢO Bói chữ ký của Bill Gates, Adolf Hitler... Bee.net 01/04/2011 07:24:47 Hãy tránh xa những ai có chữ viết quay cuồng như lá cỏ lau trong không khí . Những người sử dụng chữ viết bay bướm thái quá (nghiêng ngả đủ hướng và với nhiều góc độ khác nhau), tính khí hay thất thường, tránh giao cho họ nhiệm vụ và vị trí quan trọng, các chuyên gia tướng chữ xác nhận. Rất khó kiểm soát đặc điểm chữ viết, bao giờ chữ viết cũng tiết lộ cá tính của người viết. Và điều đó không lệ thuộc vào việc ta ghi chép bằng cách cầm bút bằng tay, cắn răng ngậm bút hay buộc bút vào ngón chân. Ngay từ thế kỷ XIX, giáo sư tâm lý học nổi tiếng người Đức Wilhelm Preyer đã chứng minh rằng, việc phân tích chữ viết của những cá nhân bị cụt tay và buộc phải viết bằng cách khác, cũng không khác gì phân tích ghi chép bằng những cách thông thường. Thuật xem tướng chữ cho phép vẽ chân dung tâm lý khá chính xác của người viết. Không phải vô cớ, khi chúng ta nói về đặc điểm, thay vì nói về dạng hay phong cách chữ viết. Thông qua chữ viết, có thể xác định cách thức đối tượng được nghiên cứu cư xử với người khác và bản thân; đối tượng đi đến quyết định dựa trên cơ sở phân tích, hay linh cảm; liệu đối tượng có khả năng tự kiểm soát hay lập trường kiên định không. Vì thế, trong quá trình tuyển người, thuật xem tướng chữ được sử dụng trong hơn 50% tổng số doanh nghiệp ở Pháp, và tới 89% ở Thụy Sĩ. Thuật xem tướng chữ cũng được sử dụng trong quá trình tuyển nhân viên tại nhiều tập đoàn kinh tế và cơ quan có uy tín thế giới, trong đó có General Motors, Renault, FBI (Cơ quan điều tra liên bang Mỹ) và Mosad (Tình báo Israel). Tất nhiên, trước tiên người ta lựa chọn ứng viên trên lý lịch cá nhân. Tiếp theo, đơn xin việc viết tay của những ứng viên được lựa chọn sẽ được các chuyên gia phân tích. Nhờ thế tuyển dụng mới có cơ may phát hiện sự khác biệt giữa hàng trăm bản sao chép từ Internet với nội dung giống nhau. “Ứng viên muốn trúng tuyển cần phải viết thế nào? – Còn phụ thuộc vào công việc, mà ứng viên mong muốn” – TS Ellen J. Nusbaum, tác giả cuốn sách “Nghiên cứu ứng viên và nhân viên trên cơ sở chữ viết”, trả lời. Thí dụ, sếp cần có năng lực ngoại giao, giàu ý tường, làm chủ bản thân, vậy chữ viết anh ta phải khá phẳng. Năng lực tổ chức, kế hoạch tốt sẽ bộc lộ rõ qua nhiều đặc điểm, trong đó có khoảng cách đều đặn giữa các dòng chữ, còn những chữ cái thẳng và rành mạch sẽ biểu thị trí thông minh. Nếu giám đốc có trách nhiệm quản lý những vấn đề về tài chính, quan trọng nhất là những chữ cái viết hoa “M” và “N” bắt đầu bằng cái móc nhỏ. Trường hợp muốn làm giám đốc có đầu óc sáng tạo của hãng quảng cáo, sẽ được chấm điểm cao khi những chữ “m”, “n” và “h” có góc nhọn ở trên (giống chữ viết của Mahatma Gnadhi). “Tất nhiên mỗi cá tính mong muốn cần thấy rõ qua vài đặc điểm khác nhau của chữ viết, không chỉ dựa vào những thí dụ đã đưa” – TS Nusbaum cảnh báo. Đối với thầy tướng chữ có kinh nghiệm, thậm chí tính khí tình dục của tác giả chữ viết cũng không còn là bí mật. “Về phương diện này có thể khai thác được đặc biệt nhiều từ chữ viết của phụ nữ. Phụ nữ viết theo cách như rất muốn để ai đó giải mã được khả năng làm tình của họ” - TS Artur Wojtowicz, tác giả cuốn sách “Eros và Tanatos trong chữ viết” khẳng định. Cần tìm kiếm chỉ dẫn chủ yếu ở vùng dưới chữ viết có tính biểu tượng, cụ thể - những cái đuôi ở các chữ như “g”. “y”, “J”. Những vòng to chứng tỏ nhãn quan lãng mạn đối với tình dục hoặc như cầu tình dục lớn. Trường hợp chữ rộng mở, là biểu thị tính phóng khoáng và sẵn sàng thực hiện những nhu cầu đó. Nếu đuôi chữ chỉ là những vạch thẳng, chủ sở hữu coi tình dục như trò giải trí, hoặc đáp ứng nhu cầu sinh lý bình thường thay vì biểu hiện tình cảm hay nghĩa vụ. Các nhà khoa học cũng biết rõ những người bị ảnh hưởng của rượu, ma túy, cũng như bệnh nhân các bệnh thoái hóa thần kinh có đặc điểm chữ viết thế nào. GS Christina Strang đã tiến hành công trình nghiên cứu tại bệnh viện Pool ở Vương quốc Anh, nơi dựa vào đặt điểm chữ viết, nhà khoa học xác định những cá nhân bị bệnh cơ bắp – tim. Đó trước hết là những chấm nhỏ nghỉ giữa dòng (tức những vị trí người ta ngừng tay viết giây lát) thường xuất hiện nhiều nhất ở phần trên những chữ cái “a”, “e”, và “o”. Trong cách viết cũng bộc lộ những dấu hiệu mắc các bệnh tâm thần cùng thiên hướng phạm pháp, bạo lực hoặc những hành vi chống đối xã hội khác. Đặc biệt dễ nhận ra chữ viết của người mắc bệnh tâm thần. Thường thông qua chỉ một đặc điểm, nhưng rất đặc trưng. Trong trường hợp Hitler, đó là chữ ký được viết gần như thẳng đứng. Người mẹ kẻ bị kết án đã sát hại ba con nhỏ của mình thì không có khả năng viết hai chữ “trái tim” và bà phải mô tả bằng hình vẽ. “Gần đây, ngoài các hợp đồng tuyển người trên cơ sở phân tích tướng chữ, chúng tôi còn nhận được rất nhiều yêu cầu “bói chữ” cho bản thân và người thân. Việc kiểm tra, xem tương lai chung sống có hợp nhau hay không trên cơ sở chữ viết cũng là nhu cầu ngày càng đông đảo của đối tượng chuẩn bị xây dựng gia đình” – GS Tadeusz Widla, chủ nhiệm khoa hình sự học, đại học Slask (Ba Lan) khẳng định. Barack Obama Hành động theo logic và quy luật. Rất thận trọng. Trong mối quan hệ với người khác luôn quan tâm đến phép xã giao. Sự quan tâm vào phần dưới bên trái chữ viết đã chứng tỏ điều đó. Kết thúc kéo dài đuôi chữ bộc lộ tính cởi mở của Obama. Bill Gates Chữ ký Bill Gates thể hiện đặc tính nhanh nhẹn và quyết đoán, cả trong hoạt động cũng như tư duy. Đồng thời thấy rõ nội lực lớn, nhiệt huyết và ham muốn thực hiện mục đích đã đặt ra. Con người tự làm mệt mình, không bao giờ nghỉ ngơi. Osama Bin Laden Hành động vì tác động của mặc cảm thấp hèn. Tính hung hãn bắt nguồn từ khát vọng trả thù, nhiều khả năng cảm thấy bản thân bị ai đó hãm hại. Bin Laden lo sợ một cách hoảng loạn cái chết và có thể gặp khó khăn trong phân biệt sự thật và giả dối. Adolf Hitler Chữ ký đổ, gần như thẳng đứng. Điều đó cho thấy tình trạng tính khí suy sụp, thậm chí trầm cảm. Chữ đổ rõ rệt về phía bên phải là dấu hiệu cần sự gần gũi, nhiều khả năng với nhân vật cụ thể. Nét bút nhấn mạnh và làm dáng chữ “H” khẳng định nhu cầu tự chịu sự chi phối của hoàn cảnh cũng như nhu cầu thu hút sự chú ý vào mình. Họ tên khó đọc có thể là biểu hiện mặc cảm. Albert Einstein Những chữ cái trong chữ ký của Einstein liên kết với nhau, song cách nhau khá xa, tín hiệu cho thấy nhà bác học là con người phóng khoáng. Chữ viết nhuần và ngả về bên phải chứng tỏ Einstein quan tâm đến tất cả những gì hoạt động quanh mình. Gạch ngang chữ “t” đặt cao là dấu hiệu tự đặt cho bản thân những mục đích phấn đấu cực cao. Việc sử dụng duy nhất chữ cái đầu tên mình cho thấy tình cảm mạnh mẽ với gia đình và việc đặt nhu cầu của người thân lên trên nhu cầu của mình. Theo Tri thức Trẻ
  17. Người ta căn cứ trên đường nét của chữ ký theo tiêu chí riêng của môn dự báo này. Trong tiêu chí đó, không đặt vấn đề ký tự đó của dân tộc nào và thuộc hệ gì.
  18. Cuộc tranh luận "Triết học có phải là Khoa học" không? Bùi Quang Minh thực hiện Chungta.com Lời dẫn của chungta.com: Tranh luận “A có phải là B hay không?” là dạng tranh luận cơ bản mà chúng ta rất hay gặp. Thông thường nếu khái niệm về A, B được nhiều người cùng hiểu một cách tương đối thống nhất (đã xác định rõ nội hàm của A và của B ) thì “A coi là B” khi xác thực được theo 1 trong 2 hướng sau: * Hướng 1: “A là B” nếu như A mang hầu hết các nội hàm cơ bản, bản chất của B. * Hướng 2: “A là B” nếu ngoại diên của A thuộc (nằm trong hay xấp xỉ) ngoại diên của BNhưng trong trường hợp tranh luận mà: A là “Triết học” còn B là “Khoa học”, nhiều người trong chúng ta còn chưa xác quyết được “Triết học có là Khoa học hay không?” do 4 nguyên nhân sau đây: Nguyên nhân 1- Không hiểu rõ về A - định nghĩa khoa học: có thể hiểu rất rõ một vài ngành khoa học cụ thể như vật lý học, toán học hay tâm lý học,… nhưng một số người lại chưa hiểu hết về khoa học nói chung. * Khoa học theo từ gốc tiếng La tinh là Tri thức; làm khoa học là làm công tác nghiên cứu, khám phá ra những kiến thức mới, học thuyết mới, … về tự nhiên và xã hội. Công việc của khoa học gia là tìm cách gia tăng hiểu biết của con người về cách thức hoạt động của thế giới vật chất xung quanh. Phạm vi của khoa học là nghiên cứu thực nghiệm và dùng sự suy lý để suy xét hiện tượng tự nhiên. Các khoa học gia quan sát các dấu hiệu biểu hiện mang tính vật chất và bất thường của tự nhiên nhằm thu thập dữ liệu, phân tích thông tin để giải thích cách thức hoạt động, tồn tại của sự vật hiện tượng. Một trong những cách thức đó là phương pháp thử nghiệm nhằm mô phỏng hiện tượng tự nhiên dưới điều kiện kiểm soát được và các ý tưởng thử nghiệm. * Kiến thức khoa học thu được bao gồm một hệ thống tri thức về qui luật của vật chất và sự vận động của vật chất, những qui luật của tự nhiên, xã hội, và tư duy. Hệ thống tri thức này hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội. * Ta phân biệt 2 hệ thống tri thức: tri thức thông thường và tri thức khoa học. Nhận thức khoa học là bậc thang cao hơn của nhận thức thông thường: Nhận thức thông thường (tiền khoa học): hình thành tự phát/ bán tự phát, mang tính kinh nghiệm, trực tiếp từ cuộc sống. Nó có trước và là nguồn tư liệu của khoa học. Sắc thái phản ánh trực tiếp, cụ thể và phong phú. Nó tác động thường xuyên, phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong đời sống. Nhận thức khoa học: bước tiến mới tự giác mang tính khái quát, trừu tượng hóa và chính xác hóa cao. Nghiên cứu các khách thể khách quan, quy luật biến đổi của khách thể dựa theo sự thật và lý trí. Tri thức tạo ra mang tính hệ thống, tính chặt chẽ logic và có căn cứ. Có sử dụng hệ thống các phương tiện và phương pháp chuyên môn. Nguyên nhân 2 - Không hiểu rõ hay thống nhất được về B - định nghĩa “triết học” là gì? – đây là một điều hay gặp, kể cả triết gia (nhất là nhiều người chưa hiểu sứ mệnh, vấn đề triết học giải quyết, công cụ/ phương pháp làm việc, kết quả triết học…)* Triết học theo từ gốc tiếng Hy Lạp là quý chuộng và lòng yêu mến sự thông thái - một thái độ luôn tìm kiếm, luôn nghi vấn với lý tưởng để đời sống con người luôn tốt đẹp hơn. Triết học không có chủ đề xác định, chưa được đồng thuận, với nhiều người nó rất huyền bí và có nhiều nội dung, có nhiều sứ mệnh khác nhau dựa theo những quan điểm khác nhau. * Sản phẩm của triết học là tri thức đặc biệt là minh triết về con người, thế giới, Thượng Đế, đời sống cá nhân tốt đẹp, đời sống xã hội tốt đẹp... mọi thứ từ cứu cánh cuộc đời đến bản chất của vạn vật. Do đó nó bao quát nhiều chủ điểm của khoa học, vượt trên cái thực nghiệm đi vào cái lý tưởng/ siêu việt, nó là mối quan tâm của tất cả mọi người và nếu ai đó còn khao khát chân lý tối hậu, ưa thích, say mê sự thông thái, hỏi đáp câu hỏi "Tại sao" cho đến cùng đều có thể tham gia triết học.Nguyên nhân 3 - Sử dụng định nghĩa ““triết học là ngành khoa học về tự nhiên, xã hội, tư duy... “” theo một số SGK về triết học của Việt Nam có nghĩa là Triết học đã được định nghĩa thông qua Khoa học. Với cách hiểu A thông qua B như vậy thì đã hình thành cách hiểu ngầm “A là B” mất rồi. Với trường hợp này, để tránh sự hiểu nhầm “A chính là B” hay A và B là một, cần xem xét lại định nghĩa của A để phân định được thế nào là A, thế nào không phải là A; cũng như xem lại định nghĩa của B để phân định thế nào là B, thế nào không phải là B. Và sau khi hiểu về A rồi, về B rồi chúng ta mới có thể trả lời chính xác "A có là B không?" Nguyên nhân 4 - A và B đang vận động, biến đổi chính nội hàm về nó làm cho A trở nên ngày một khác A, B ngày một khác B. Cụ thể, “Triết học” và “Khoa học” đang phát triển (khoa học phát triển hết sức mạnh mẽ), đang tương tác lẫn nhau và vẫn đang liên tục xác định lại phạm vi nghiên cứu của mình. 1. Theo lịch sử phát triển, triết học luôn gắn liền với khoa học và cùng ảnh hưởng thay đổi cuộc sống của con người, xã hội. Thời cổ đại, triết học đồng nhất với khoa học tự nhiên, triết gia đồng thời là nhà khoa học. Khoa học ngày một phát triển, khoa học tách dần khỏi triết học, trở nên độc lập. Ngay trong khoa học, đến mức hiểu biết nhất định, các ngành khoa học phân ngành/ hợp ngành liên tục hình thành nên vô số ngành khoa học liên thông và độc lập tương đối với nhau, đối tượng/ hiện tượng ngày một chuyên biệt, câu hỏi đặt ra và công cụ/ phương pháp của khoa học ngày một gia tăng. Ví dụ ta có một số loại hiện tượng khách quan như sau: a- Hiện tượng có cộng đồng nghề nghiệp làm công tác nghiên cứu và ứng dụng các ngành khoa học khác nhau dẫn tới hình thành chuyên ngành “khoa học về khoa học – Khoa học luận” tách riêng khỏi khoa học xã hội, nhằm mục đích chuyên môn hóa hoạt động khoa học*)<br style="font-family: Arial;"> b- Hiện tượng có nhiều triết gia trên thế giới suy tư triết học dẫn tới hình thành chuyên ngành “khoa học về triết học” tách riêng khỏi khoa học xã hội. Tiến hành so sánh, phân loại, tổng hợp và hệ thống hóa thành tựu, ý tưởng triết học của các triết gia trong lịch sử loài người, cung cấp để tăng cường hiệu quả, tính chuyên nghiệp của triết gia, công tác triết lý.<br style="font-family: Arial;"> c- Hiện tượng có nhiều người theo đuổi và mang những trạng thái hạnh phúc rất đa dạng dẫn tới hình thành chuyên ngành “hạnh phúc học”. Quan điểm và biện pháp khác nhau để có hạnh phúc của mọi người là dữ liệu để các nhà khoa học nghiên cứu về hạnh phúc. 2. Trong khi đó, triết gia vẫn bám đuổi một số câu hỏi căn bản, gốc gác nhất là những câu hỏi muôn thuở về cuộc đời, vẫn trong phạm vi tư biện và suy ngẫm bất tận mà kết quả là các dòng, các đạo giáo, các trường phái, quan điểm khác nhau làm nên bức tranh trí tuệ, đạo đức phong phú của loài người. Do triết học bị phấn tách nhiều chủ điểm, vấn đề và chuyển sang khoa học như các môn khoa học tự nhiên, tâm lý học, các môn khoa học, môn đạo đức học, môn mỹ học, môn logic học… nên một số vấn đề vũ trụ quan, bản thể luận, các vấn đề nhận thức luận, phương pháp luận, nhân sinh quan như ý nghĩa cuộc sống, phong cách sống… Ngay các vấn đề đó cũng đang bị co hẹp lại nhưng nó vẫn giữ vị trí riêng biệt bên ngoài các ngành khoa học cụ thể. Mối liên hệ giữa triết học với khoa học là: a- thành tựu khoa học để thẩm định, minh chứng, làm rõ hay phản bác cho các kết luận triết học. Khoa học càng tiến bộ thì càng giải đáp được một số câu hỏi của triết học, đặc biệt là những câu hỏi về thế giới, tư duy, ý thức… Một số thành tựu khoa học đặt ra những vấn đề mới thậm chí tạo nên sự khủng hoảng hay bước nhảy mới cho triết học (ví dụ: chủ nghĩa duy khoa học, vấn nạn mê tín & ảo tưởng về khoa học, giá trị / ý nghĩa của khoa học)<br style="font-family: Arial;"><br style="font-family: Arial;">b- các kết luận triết học gợi ý cho khoa học các giả thiết và định hướng tiến bộ, lộ trình khám phá chi tiết, toàn diện thế giới cũng như cung cấp cho khoa học phương pháp luận nghiên cứu các đối tượng Tranh luận “Triết học có là khoa học hay không” chính là dịp tìm hiểu lại, làm rõ nét các nội hàm của khái niệm “Triết học”, “Khoa học” cũng như xem lại sự hình thành và phát triển của “Triết học”, “Khoa học” từ xưa đến nay. Kết luận “Triết học là khoa học không?” sẽ phản ánh, chịu chi phối và hoàn thiện quan điểm về triết học của mỗi người. Nếu quan tâm đến Triết học, bạn cần tìm hiểu rõ mục đích và giá trị của triết học, những vấn đề triết gia lý giải và biện pháp triết gia trả lời các vấn đề đặt ra trong tương quan giống nhau và khác nhau với mục đích, phương thức và sử dụng kết luận khoa học từ các nhà khoa học. Đó là ý nghĩa của việc tranh luận Triết học có là khoa học hay không. Sau đây, mời các bạn theo dõi một đoạn chungta.com ghi chép được buổi tranh luận về chính chủ điểm “Triết học có phải là Khoa học hay không?” giữa một số vị khách… Xem thêm: Triết học là gì? Triết học - Khoa học Liệu triết học có phải là khoa học không? Minh triết phương Đông & Triết học phương Tây Vài so sánh giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây Tiến sĩ Phạm Huy Thông: Chỉ có triết học Mác - Lê nin cho rằng triết học là một môn khoa học, chỉ có giáo trình SGK Triết của ta mới cho rằng triết học là một môn khoa học. Ông Nguyễn Hoàng Đức: - Nếu là khoa học thì triết học không có ai công nhận đúng. Anh Thông không trả lời khoa học là triết học. Anh Thông trả lời khẳng định triết học có tính khoa học nhưng triết học không phải là khoa học. Theo tôi, Triết học hiển nhiên là Khoa học. Cá nhân cần có cá tính và chính kiến. Tôi rất buồn cười cho những người nghi ngờ triết học không phải là khoa học. Theo tôi họ cực kì ấu trĩ. Triết học là 1 khoa học. Xét trên lịch sử triết học và nhận thức nhân loại cũng như toàn bộ cấu chức và nhận thức của nó, triết học không còn gì khác hơn là một nhận thức khoa học. Trước Socrates, nhân loại chỉ có môn vật lý học sơ khai bao gồm kim mộc thủy hỏa thổ ở phương Đông, đất nước gió lửa ở phương Tây. Chỉ có Socrates với nhận thức luận phương Tây mới được gọi là cha đẻ của nền triết học cổ điển duy niệm toàn cầu. Sau đó đến Platon là học trò của Socrates, đã đề ra hữu thể luận, chính là hạt nhân, hạt giống, mẹ đẻ của triết học toàn bộ lịch sử nhận thức triết học. Đến Aristote mở ra đồng nhất luận, a = a, và tam đoạn luận - căn gốc của mọi logic trên đời, không ai phản bác được kể cả Heghen. Như vậy cả 3 ông tổ này đã xây dựng nên logic đầu tiền cho loài người. Mà cái gì không phải là logic chắc chắn không phải là khoa học. (Chính Nietzsche đã nói: Chúng ta không làm được gì nhiều hơn các tổ sư của chúng ta. ) Ông Bùi Quang Minh: - Tại sao nguồn gốc của triết học Mác là tính xác thực trong khoa học, nhưng mọi loại triết học khác lại đề cao tính siêu hình, nhưng ông đề cao cả 2. Chẳng cần nói mấy ông trích dẫn là triết gia hay nhà khoa học, triết học và khoa học không trùng nhau vì có sự khác biệt rất lớn ở mấy biểu hiện chính: Nhà triết học không nhất thiết là nhà khoa học; và cộng đồng triết học không phải là cộng đồng khoa học Thao tác làm việc của nhà triết học và nhà khoa học khác nhau Sản phẩm, tư liệu của nhà triết học khi làm việc và sản phẩm, tư liệu của nhà khoa học hoàn toàn khác nhau; các mệnh đề của triết học đưa ra không phải là dạng mệnh đề khoa học. Việc kiểm chứng mệnh đề khoa học là cực kỳ quan trọng, trong khi rất nhiều mệnh đề triết học không mang tính chất để kiểm chứng. Các tác phẩm triết học khác với các công trình khoa học, các vấn đề khoa học và triết học khác nhau, các giải pháp ứng dụng khác nhau, sống theo triết học khác sống theo khoa học. Điểm khác nhau chính là Triết học và Khoa học luôn có những vùng đất riêng biệt. Những vấn đề triết học trả lời và khoa học trả lời là khác nhau. Khoa học trả lời thế giới bản chất là gì thuộc về Chân/ Giả, cái khoa học trả lời chỉ đưa ra dự báo những kịch bản cho cuộc sống. Triết học còn trả lời thêm những câu hỏi thuộc dạng: Thiện / Ác, Đẹp / Xấu, Lợi/ Thiệt, Thiêng/ Tục...Ông Nguyễn Hoàng Đức Câu hỏi cho ông Minh: theo ông tiêu chuẩn của một môn khoa học căn bản nhất là gì? Ông Bùi Quang Minh: Căn bản nhất của khoa học là phải hiểu được bản chất & hoạt động thế giới quanh ta, và phải hiểu được tất cả dựa trên khoa học, phán đoán được hoạt động của tất cả trong những thời điểm khác nhau. Nếu không khẳng định được mình hiểu biết cái gì đó, không phải là nhà khoa học chuyên tâm nghiên cứu đối tượng hơn hẳn người bình thường. Ông Nguyễn Hoàng Đức: Tôi không thỏa mãn với câu trả lời của anh Minh. Tôi hỏi anh hãy cho tôi một câu ngắn về cái gọi là điều kiện và điều kiện tiên quyết làm nên khoa học. Điều kiện tiên quyết của khoa học là gì? Ông Bùi Quang Minh: Điều kiện tiên quyết là thực chứng và đúng với khách quan. Ngoài quan sát hiện tượng đã diễn ra khoa học còn theo dõi thực chứng các giả thuyết phán đoán khoa học trong tương lai. Nhiệm vụ là việc giải thích tính nhân quả giữa các hiện tượng khách quan, tìm được mối liên hệ giữa các hiện tượng trong tương lai và các hiện tượng thuộc quá khứ, tức là tìm mối liên hệ giữa quá khứ và tương lai. Ông Nguyễn Hoàng Đức: Theo tôi lời của anh Minh rất sai, khoa học hay mọi ngành thứ nhất là có chủ tri, thứ hai là khách quan. Anh Minh đã bảo rằng phải nhìn vào hiện tượng khách quan. Anh Minh đã quên điều đầu tiên là hữu chủ tri đó mới là cái hữu làm nên khoa học và nhân loại. Còn lại những thứ bay trên không là bọt xà phòng. Ông Bùi Quang Minh: Ông Đức nói là cái sai, theo tôi "cái thiếu" và "cái sai" là khác nhau. Tôi cho rằng triết học và khoa học đều là sản phẩm của con người, đều có tính chủ quan. Chúng ta chưa có một loài người thứ hai và không có triết học, khoa học của loài thứ hai đó. Cái chính là khoa học xác lập mối liên hệ bản chất giữa hiện tượng trong tương lai và hiện tượng của quá khứ, đều của thế giới khách quan. Ông Nguyễn Hoàng Đức: Anh Minh tiếp tục sai. Vì tôi hỏi anh điều kiện tiên quyết của khoa học là gì. Anh trả lời như thế là đánh rơi cái chủ tri là đánh rơi cái đặc tính của loài người, khoa học là phổ quát của tất cả, không có khoa học phổ quát của một ai cả. TS Nguyễn Văn Vịnh: Tôi nghĩ rằng việc tranh luận như thế này là quá cần thiết và luôn luôn là câu hỏi minh bạch để thắc mắc, khoa học, sẽ được định nghĩa rất rõ ràng bằng khái niệm phát hiện, các phát hiện của khoa học dựa trên dự quan sát của ý chí con người, đối với thế giới khách quan. Vì vậy, trong mọi trường hợp các kết quả của các ngành khoa học nói chung chỉ là sự phát hiện về thế giới mà chúng ta đang sống, với những phát hiện này, con người có thể mô phỏng, có thể bắt chước thế giới như là một sự chứng minh về trí tuệ của mình, thấy chim bay làm ra máy bay, cá lặn làm ra tàu ngầm, thấy các hiện tượng khác lại tiếp tục đặt ra các câu hỏi tại sao và cố gắng giải thích. Sự tiện ích của khoa học mang lại cho loài người đến ngày hôm nay chúng ta vẫn tin đó là niềm tự hào rất lớn của lý trí. Hy vọng lớn nhất của triết học sẵn sáng tìm kiếm phân tích để làm ra những cỗ máy nhỏ như con kiến và thông minh như con kiến, biết truyền sinh, đây là những thí dụ về những bất tận mà khoa học chưa làm được. Triết học, trong nhiều trường hợp bị nhầm lẫn như là một khoa học, đó là những cách định nghĩa, là quan niệm. Tôi thật sự lấy làm tiếc về quá trình nghiên cứu triết học của ông Đức, khi ông có một cử chỉ rất đáng yêu, là nghĩ rằng mình có thể hiểu về triết học. Theo tôi, triết học, là một định hướng cho các hành vi ứng xử lớn hơn nữa, Những định hướng này có tìm kiếm được sự chia sẻ của một nhóm người hay một cộng đồng, trong một giai đoạn hay trong các thời đại. Điều này tôi nói để tôi thấy triết học lớn hơn khoa học rất nhiều, nếu đơn giản nhất đó là một thái độ sống, một con đường chọn để các triết gia sống chết với các ý tưởng của mình, điều này rất khác với các triết gia được gọi là chuyên nghiệp ở phương Tây. Họ có thể đưa ra những hệ thống triết lý và triết học nhưng học khôn cần chịu trách nhiệm và sống với triết lý và triết học đó. Sứ mệnh của triết học không phải là minh chứng những kết quả có tính chân lý. triết học lớn hơn chân lý. Vì triết học đủ sự rộng lớn bao dung, chỉ những điều loài người chưa biết đến, đơn giản như các lý tưởng, đơn giản hơn là các thái độ sống, bất ngờ hơn đó là sự an ủi với những thất bại của con người, Trong trường hợp này, tôi không nghĩ triết học sẽ đồng nghĩa với tôn giáo. Triết học liên quan nhiều hơn đến chiều hướng bi quan thất bại buồm thảm của loài người. Trong trường hợp này tôi có thể định nghĩa triết học là khoa học về những nối buồn và thất vọng của nhân loại. Ông Bùi Quang Minh: Theo tôi đây là những khác biệt cơ bản làm cho không thể coi triết học là khoa học: - Sứ mệnh của triết học là cung cấp ý nghĩa sống, thái độ sống cho một người, một nhóm người và cả nhân loại còn khoa học thì cung cấp hiểu biết để hiểu rõ hơn cơ chế hoạt động của tất cả vật chất. Để thực hiện sứ mệnh này, mỗi triết gia ghi dấu ấn rất đậm bản sắc cá nhân, còn nhà khoa học với sứ mệnh của khoa học sẽ vì chân lý khách quan, yếu tố chủ quan cá nhân phải được tối thiểu hóa. - Triết gia cung cấp hệ thông thuật ngữ có thể hoàn toàn mới theo quan điểm của ông ta, với phong cách logic, cảm xúc hết sức tự do. Khoa học gia giải thích những thuật ngữ chủ yếu dựa theo các khái niệm cũ, làm rõ chúng và có tể đưa ra thêm vài thuật ngữ mới. Triết gia có thể thông qua các tác phẩm nghệ thuật (tiểu luận, tản văn, truyện ngắn, tiểu thuyết, thậm chí cuộc đời mình...) để đưa ra luận điểm triết học theo phong cách và bản sắc cá nhân, không giáo điều và duy lý. Còn Khoa học thì khác hoàn toàn, đưa ra những sản phẩm khoa học có quy chuẩn về định dạng tài liệu khoa học, bằng các dữ kiện chứng minh và phương pháp/ công cụ thể phù hợp với đối tượng khảo sát. Mà trong thực tế, chúng ta đã thấy rõ cuộc sống của một xã hội, một con người theo một cuộc thí nghiệm khoa học, vĩ đại khổng lồ đến cùng khác biệt như thế nào với cuộc sống mà theo sự đa dạng những minh triết, những khôn ngoan mà được các tư tưởng triết lý soi sáng. TS. Phạm Huy Thông: Tranh luận kiểu này để cùng đưa đến những điểm chung, dựa trên lý trí, tư duy logic, có cái khác, cái đồng nhất thì chính là cách làm việc kiểu khoa học gia. Thực ra triết học Mác Lê nin coi là nhóm triết học dựa trên khoa học, vì dựa rất nhiều luận điểm khoa học, phép chứng minh khoa học, duy lý nhưng với triết học, đó cũng chỉ là một phương án tiếp cận trong nhiều phương án tiếp cận của các triết gia. Nhưng thực ra chúng ta đang tranh luận kiểu các nhà triết gia... Ông Nguyễn Hoàng Đức: Tôi không đồng ý với ông Vịnh ở 1 điểm rất cốt yếu, ông nói rằng: triết học lớn hơn chân lý?! Tôi cho rằng cả triết học và khoa học đều thuộc về con người, và chúng ta đi tìm chân lý không bao giờ có chuyện chúng ta hoặc triết học của chúng ta lại lớn hơn chân lý, về điểm này ông Vịnh đã sai tuyệt đối. TS. Nguyễn Văn Vịnh: Trong trường hợp này, tôi nhận ra 1 điều, ông Đức có 1 sự nhầm lẫn quá lớn về mục đích sống của loài người. Chân lý không phải là 1 mục đích tối thượng, điều lớn hơn để loài người luôn bay lượn được trong ý tưởng là sự lãng mạn. Cứu cánh của loài người không phải là chân lý, điều lớn hơn chân lý là loài người phải vượt qua chính mình bằng ý tưởng mang tính nghệ thuật. Sự khác biệt của các tư duy lý tính và tư duy cảm tính của nghệ thuật, ở chỗ tư duy lý tính mang lại phương tiện phục vụ con người, tư duy triết học gần với nghệ thuật nhiều hơn, mang đến sự bay bổng của con người, được hiểu trong một khái niệm rộng lớn, không đơn giản chỉ là 7 ngành nghệ thuật và tôi nghĩ rằng triết học nằm ở 2 bên, có 1 góc giường của khoa học, phần lớn hơn lại là ở nghệ thuật. Ông Nguyễn Hoàng Đức: Nếu không có khoa học, nếu chỉ sống bằng mộng mơ, như triết gia Schopenhauer nói: Chúng ta chỉ sống bằng sự thụ động mà thôi. Một ngôi nhà không có khung cột không bao giờ có thể đứng vững, một cuộc đời không có lý trí làm căn gốc, đôi cánh của mộng mơ không bao giờ cất lên được. TS. Nguyễn Văn Vịnh: Khi đồng nhất khái niệm giá trị tinh thần với giá trị chân lý đây là sự thất bại về nhận thức, vì một lý do những sinh thể được gọi là con người luôn có 2 cái: - sự hướng đến công lý, chân lý. - Và sự tiếp tục sáng tạo, chỉ dùng trong nghệ thuật, vì khoa học chỉ là sự phát mình sáng kiến, tại sao chúng ta không chấp nhận nghệ thuật để nuôi dưỡng linh hồn , khoa học là phương tiện phục vụ con người. Ông Nguyễn Hoàng Đức: Một bức tượng không có khung không bao giờ vững. Mà bức tượng chính là nghệ thuật ấy. Ông Bùi Quang Minh: Tôi không đồng tình với ông Đức sử dụng các hình tượng: "bức tượng", "cột kèo" để chỉ nói về sự cần thiết của khoa học mang tính cơ bản. Khoa học, triết học, nghệ thuật, tôn giáo... đều có thể là cột, là kèo cả. Thậm chí ta có thể thiếu kết luận khoa học mới nhất nhưng không thể thiếu triết học dẫn đường một cách căn bản cho cuộc đời. "Thế giới đang diễn ra những gì" - là khoa học trả lời, còn triết học cung cấp nền tảng cho khoa học luận. Điều gì được coi là có gía trị và không có giá trị cho con người chỉ triết học cung cấp. "Tương lai sẽ diễn ra như thế nào", khoa học đưa ra phán đoán nhưng "tương lai nên chọn như thế nào" là dựa theo triết học cung cấp. "Nếu hành động như thế nào hiệu quả" khoa học có thể trả lời, triết học cung cấp ý nghĩa của cuộc đời. Và vì các mục tiêu khác nhau, các cách tiếp cận khác nhau nên thao tác làm việc của họ khác nhau. Và vì thế, ai cũng có thể là triết gia, nhưng không phải ai cũng có thể là nhà khoa học. *) Một vài thuật ngữ về khoa học: - Khoa học (science) là một lĩnh vực hoạt động xã hội, xây dựng hệ thống tri thức của nhân loại thể hiện bằng những khái niệm, phán đoán, học thuyết. Chức năng xã hội của khoa học là làm cho con người nắm được những quy luật của hiện thực khách quan để ngày càng làm chủ được những điều kiện sinh hoạt tự nhiên và xã hội, xây dựng có ý thức và hợp lý đời sống. - Khoa học luận (còn gọi là khoa học về khoa học - science of science) là ngành khoa học hình thành từ giữ thế kỷ 20, có đối tượng nghiên cứu là lĩnh vực hoạt động xã hội nhằm sản xuất ra tri thức về thế giới, tìm những quy luật chi phối sự vận động phát triển của hoạt động sáng tạo một hệ thống nhất thể các tri thức khoa học. - Xã hội học khoa học (sociology of scientific knowledge) là ngành khoa mới hình thành từ năm 1975 nghiên cứu những thuộc tính xã hội nổi bật của khoa học như: tác động của khoa học với những biến đổi xã hội; những điều kiện văn hóa và xã hội tác động đến khoa học; cơ cấu xã hội của khoa học; các quá trình xã hội liên quan đến việc tạo ra tri thức khoa học - Một số thuật ngữ Scientology, scientism là giáo phái hoặc trào lưu triết học phi khoa học, thậm chí phản khoa học bị một số người nhầm lẫn đáng tiếc với thuật ngữ chỉ "khoa học luận" là một bộ môn khoa học. Nguồn: Chungta.com ====================================== Tôi xin mượn tạm tựa của bộ phim hoạt hình dành cho trẻ em của Liên Xô cũ để làm lời dẫn: Hãy đợi đấy! Bởi vậy, khi tri thức mà con người qua các giác quan và những phương tiện nghiên cứu khoa học tự tạo, nhận thực trực quan những thực tại khách quan và tổng hợp được những quy luật của thiên nhiên, vũ trụ và con người để phát triền thành những lý thuyết một cách hạn chế phản ánh có tính cục bộ những quy luật cuả tự nhiên. Khi tất cả các phương tiên khoa học trợ giúp cho nhận thức trực quan của con người không thể tiếp tục nhận thức trực tiếp những thực tế tồn tại của vật chất, mà chỉ nhận thức gián tiếp qua những tương tác giữa những thực tại đã nhận thức được và chưa thể nhận thức được, để xác định sự tồn tại đó - thì - lúc đó sẽ là sự phát triển hơn nữa của khoa học lý thuyết. Hay nói hình ảnh hơn: Đó sẽ là thời kỳ hoàng kim của những lý thuyết khoa học. Lúc ấy , người ta sẽ xác định rằng: Triết học và khoa học chỉ là một mà thôi. Lúc ấy người ta sẽ tiến gần hơn đến một lý thuyết thống nhất. Đây chính là nền tảng tri thức xã hội để con người có thể nhận thức được một lý thuyết thống nhất. Và lúc ấy tất cả các nhà khoa học sẽ phải thừa nhận Thuyết Âm Dương Ngũ hành - Học thuyết căn bản của nền Lý học Đông phương chính là Lý thuyết thống nhất vũ trụ. Khi nòng nọc trở thành Cóc thì tự nhiên con của Cóc sẽ trở về với Mẹ Cóc: Việt sử 5000 năm văn hiến - Một thời huy hoàng bên bờ Nam Dương Tử. Lâu wá nhỉ? Bà Vanga cũng nói thế! Bà cụ bảo "Còn nâu nắm". Một lý thuyết khoa học phải có tính tiên tri mà lỵ. Chính cái khoa học nó bảo thế mà lỵ. Vậy mà cái "Pha học" cứ bảo bói toán là "Mê tín dị đoan"!? . Tự mâu thuẫn thế là không tốt! Gọi là học dốt đấy! Không thuộc bài. Này! Nhưng không phải vì bói toán là bản chất cần của khoa học, mà lợi dụng giảng giải theo kiểu "mê tín dị đoan" lại là chuyện khác đấy nhé! Chính bởi khoảng cách giữa nhận thức hiện tại với một lý thuyết cao cấp - bói toán là hệ quả - nên đẻ ra cái hiện tượng "nửa dơi, nửa chuột" này. Tại Thiên Sứ tôi vốn nóng ruột vì minh chứng Việt sử 5000 năm văn hiến, mà lại dùng Lý Học để chứng minh như một phương tiện đắt giá. Nên hơi bực mình, hay cáu gắt. Thành thật xin lỗi! Hãy đợi đấy! Câu này còn dùng cho chính tôi nữa thì phải. Lịch sử tiến hóa của nhân loại thì có thể đợi được, vì nó còn dài. Chưa Tận thế đâu mà lo (Nhưng cũng đừng có coi thường sự phẫn nộ của thiên nhiên). Nó còn phải tồn tại để công nhận "Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại" mà. Nhưng bản thân Thiên Sứ tôi thì không sống lâu theo thời gian được. Nên nếu tiếp tục sử dụng phương tiện này thì đành phải chờ "Cóc mọc râu" vậy! Định mệnh đã an bài vậy rùi! SW Hawking phát biều: Chúng ta hy vọng đến một ngày nào đó , chúng ta sẽ tìm ra lý thuyết thống nhất , nếu chúng ta có khả năng. Tiếc quá! Bây giờ chưa thấy có khả năng ấy! Buồn nhỉ!? Lúc này, chính câu: "Khi nòng nọc trở thành Cóc thì tự nhiên con của Cóc sẽ trở về với Mẹ Cóc", lại là câu an ủi!
  19. Bác Liêm Trinh thân mến.Bác Liêm Trinh nhìn vấn đề như vậy. Xin hỏi bác: Liệu những lãnh đạo Cty ấy có tự nguyên họp "giai cấp công nhân " lại để bàn về việc giá xăng dầu tăng - ảnh hưởng thế nào về thu nhập của người lao động và cùng bàn về phương pháp tăng giá taxi không? Muốn tăng giá taxi lãnh đạo Cty có phải nộp văn bản xét duyệt không? Hay lãnh đạo Cty muốn tăng thì tăng? Hay là lãnh đạo Cty tự nguyện bớt lợi nhuận của họ để bảo đảm đời sống của "giai cấp công nhân"? Cái này hình như Marx không nói thế. Bởi vậy, một vấn đề cần phải xem xét nhiều mặt. Trịnh Xuân Thuân nói: "Để giải thích một hiện tượng dù rất nhỏ cũng phải viện dẫn đến toàn thể lịch sử hình thành vũ trụ". Thuyết Lượng tử phát biểu: "Một con bướm vỗ cánh ở rừng Amazon có thể gây một cơn bão ở Thái Bình Dương". Đức Phật nói: "Một con cá quẫy đuôi cũng ảnh hường đến Tam thiên, đại thiên thế giới". Tất cả những điều phát ngôn đó miêu tả quy luật tự nhiên. Lý học Đông phương nhận thức được diều này nên phát biểu: "Cân bằng Âm Dương". Suy rộng ra: Không có sự cân đối nhiều mặt thì rất phiền! Nhưng thế nào là cân bằng Âm Dương thì phải là sự tổng hợp tri thức - Đôi khi còn thất bại - Vì cân bằng Âm Dương phản ánh nhận thức của con người - còn quy luật tự nhiên là tuyệt đối. Đấy là nhận xét của tôi. Tùy! Còn đây là cụ Lý Ninh nói: "Dốt nát cộng nhiệt tình thành phá hoại".
  20. Rubi cho hỏi: Vậy sao Hỏa cũng quay quanh mặt trời - có ứng với Âm Thổ không?
  21. Đám đông và nhà khoa học Lê Đình Phương Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần Nguồn: Chungta.com Tôn vinh tri thức, khoa học là việc tốt đẹp muôn đời, tốt hơn xuýt xoa với những giá trị ảo, những bằng cấp học vị nhan nhản được mua bằng tiền. Nhưng Toán học nào có thể thăng hoa trong vòng vây của một đám đông đang vỗ tay ồn ào kia được? 1. Sáng tạo thì luôn đòi hỏi sự cô đơn và tránh xa mọi tạp niệm của đời sống. Giữ lòng thanh tĩnh trong hân hoan là điều kiện phải có cho mọi sáng tạo tinh thần. Nhà khoa học phải đạt đến trạng thái này để bùng nổ hay kết tinh lại năng lực trí tuệ ngoại hạng của mình. Trạng thái solitude đó (tạm dịch: hoan tịnh) đòi hỏi rất nhiều điều kiện, từ mức độ cá nhân cho đến xã hội, mới có thể đưa đến một sự tĩnh tại, solitude tuyệt đối, nền tảng cho mọi sự thăng hoa và bùng nổ của trí tuệ. Hiểu theo nghĩa đó, các trường đại học danh tiếng Âu Mỹ, cùng với vị trí địa lý nơi nó tọa lạc, quả là môi trường tuyệt hảo cho mọi sáng tạo. Nơi đó, thư viện là thánh đường, thời khắc nghiên cứu thì đầy ắp niềm vui trí tuệ, lề thói xã hội thì trật tự thong dong... Rất ít bụi trần ai chen được vào sân trường đại học của họ. Cái môi trường giáo dục và xã hội tuyệt đối cần thiết cho thái độ solitude, nền tảng của sáng tạo ấy, chúng ta chưa có được! 2. Trong những ngày này, rất nhiều người Việt Nam như phát sốt lên vì giải thưởng toán học Fields. Cũng như họ, tôi hoàn toàn mù tịt về Bổ đề cơ bản cho chương trình Langlands mà Ngô Bảo Châu đã chứng minh. Lại càng không thể hình dung được thành tựu toán học này sẽ tăng được bao nhiêu phần trăm trong GDP cả nước (?). Chắc là không, nhưng chúng ta vẫn hoan hỉ, tin tức vẫn tràn ngập trên báo chí theo cách người ta ăn mừng một bàn thắng bóng đá (vốn chỉ là một trò chơi), hay một cuộc đăng quang của một cô hoa hậu chân dài nào đó. Chúng ta ăn mừng một giải thưởng toán học cao cấp, vốn là lĩnh vực am hiểu của một thiểu số rất nhỏ. Chúng ta đòi xuống đường vì Ngô Bảo Châu đã thắng trong một cuộc tranh tài mà 99% người Việt Nam không hề hiểu lấy một phân. Chúng ta vui mừng với tâm thế thèm khát sự vượt trội, với ám ảnh bệnh thành tích từ thuở sưu tập phiếu bé ngoan mỗi tuần. Tôi chắc chúng ta sẽ không hoan hỉ đến thế, nếu không có giải thưởng kia. Chúng ta cần một sự hơn thua, để tự tin xác tín Ngô Bảo Châu là người lỗi lạc. Phải chăng, chúng ta đang mừng chiến thắng với một tâm lý đầy mặc cảm, thua chị kém em đã bị dồn nén quá lâu? 3. Có lẽ, với tâm thế mặc cảm mang lớp áo dân tộc tính đó, báo chí, dân chúng, quan chức... đã quên sự mực thước trong việc tôn vinh nhà khoa học trẻ kia. Sung sướng vì Ngô Bảo Châu là người Việt đã hẳn, nhưng không thể nhận vơ để "lên mặt" về những hoa trái tri thức mà bạn ấy gặt hái được từ nước ngoài. Chúng ta nghiễm nhiên coi thành quả này là của nền giáo dục Việt Nam, vốn có sinh mà không dưỡng. Và từ đó, phóng chiếu rất nhiều can dự, cãi vã vào lộ trình khoa học của nhà toán học trẻ tuổi: chức vụ, huân chương, tặng nhà, bỏ bạc tỉ xây Viện Toán cao cấp... Thậm chí lôi cả đời tư lên mặt báo: nhà toán học "si tình" thì đã sao? 4. Tôn vinh tri thức, khoa học là việc tốt đẹp muôn đời, tốt hơn xuýt xoa với những giá trị ảo, những bằng cấp học vị nhan nhản được mua bằng tiền. Bạn giáo sư kia ắt sẽ rất hạnh phúc trong những ngày này. Công cha nghĩa mẹ ơn thầy chỉ trong một ngày, coi như đã báo đáp xong. Nhưng phải cảnh giác với cái giá của sự nổi tiếng (theo kiểu Việt Nam), đang bị khoanh vùng và mang màu sắc quốc gia thiển cận. Cái giá đó sẽ rất đắt, nếu những lời tung hô rộn ràng kia đánh mất thái độ trung dung và tâm thế an nhiên của nhà khoa học. Toán học nào có thể thăng hoa trong vòng vây của một đám đông đang vỗ tay ồn ào kia được? Chúng ta cũng vậy, đừng để những tình cảm háo thắng náo nhiệt xâm thực vào không gian sáng tạo rất yên tĩnh kia. Vui dăm bữa rồi thôi, hãy để khối óc lỗi lạc kia quay trở lại thánh đường toán học của mình, trong niềm hoan tịnh. Đừng cột vào con người ấy những tước hiệu, gánh nặng vô bổ và cồng kềnh, thừa thãi cho niềm vui toán học, vốn dĩ không dành cho số đông. Đó là cách tốt đẹp nhất mà chúng ta biểu lộ niềm tự hào của một dân tộc vừa thông minh xuất chúng, vừa... thanh lịch. Nguồn: Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần ======================================== Đời nó thế! Không ít kẻ trong đám vỗ tay ấy vì danh vọng của Ngô Bảo Châu, chứ đâu phải vì chân lý được tôn vinh đâu! Nhắc lại câu chuyện này ra thì hơi khắc nghiệt - nhưng dù sao nó cũng là câu chuyện được in thành sách rồi: Khi Napoleon chiến thắng Ai Cập trở về, lúc ấy, ông ta chỉ là Tổng Tư Lệnh của quân đội Pháp ở Ai Cập. Dường như cả thành Pari đổ ra đường đón ông ta. Nhưng vẻ mặt của ông ta lạnh như tiền. Một sĩ quan tùy tùng hỏi ông ta: "Thưa tướng quân! Ngài không thấy vinh dự khi cả nước Pháp chào đón ngài?". Napoleon trả lời: "Khi ta lên đoạn đầu đài thì họ cũng ra xem đông như thế này!".
  22. Vấn đề khoa học trong nền tư tưởng hiện đại Nguyễn Mạnh Tường, Kiều Mai Sơn (Sưu tầm & giới thiệu) Văn hóa Nghệ An Chungta.com GS.TS Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) người trí thức lỗi lạc, khi mới 22 tuổi đã lập kỉ lục giành 2 bằng Tiến sĩ Quốc gia chuyên ngành Văn chương và Luật khoa tại Đại học Montpellier (Pháp) trong cùng một năm 1932. Đây là kỉ lục “cổ lai hãn hữu” mà cho đến nay (2011) gần 80 năm vẫn chưa có người thứ hai, kể cả người Pháp và người ngoại quốc phá được. Người trí thức lỗi lạc ấy còn là một nhà giáo, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, do nhiều lí do khách quan, những tác phẩm của ông tản mát và không có điều kiện đến với bạn đọc.Trong hành trình tìm lại di sản văn hóa của ông, chúng tôi đã thấy được một số bài viết trên báo chí đương thời. Chúng tôi xin giới thiệu cùng các nhà nghiên cứu, các bạn. Trong học giới nước ta, mấy năm nay, phong trào khoa học rất thịnh hành. Nhiều người nếu không dùng hai chữ “khoa học” vài lần trong một ngày, đêm không ngủ yên. Tác giả nào không đội lốt khoa học tự thấy yếu bóng vía và rất sợ độc giả chỉ trích. Trong lắm phạm vi không thể dùng phương pháp khoa học được, họ cũng cố ép khoa học vào. Họ tưởng nếu không có thần khoa học ủng hộ thì không thể nào xong được công việc. “Mốt” khoa học bành trướng một cách rất oanh liệt. Thậm chí có người nghĩ rằng thể thao cũng có thể theo khoa học được. Ta vẫn thường thấy lắm kẻ tâng bốc nhà võ sĩ này biết cách khoa học dùng hai quả đấm, nhà lực sĩ kia có cách khoa học đá quả bóng hay múa cái vợt. Nghe đâu như trong nghề chơi cũng có khoa học. Sự đó không lấy gì làm lạ. Nếu ta đắm đuối về khoa học, chẳng qua là tại ta mới biết khoa học chưa được bao lâu. Khoa học như người vợ mới cưới, ta thích ngắm, ta thích chiều. Chính ngay nước Pháp đã qua một thời kỳ như vậy. Cuối thế kỷ thứ mười chín, Ernest Renan viết một cuốn sách chứa chan hy vọng về tương lai khoa học. Taine đinh ninh rằng khoa học sẽ làm cho ta hiểu hết tâm lý, cắt tính nghĩa hết tính của loài người. Tiên sinh coi trái tim như cái máy đồng hồ, có thể tháo tung giây tóc, bánh xe để xem xét, lau chùi, chữa chạy. Theo ý tiên sinh, biệt tài của một thi sĩ chẳng khác gì một bài tính đố dùng phương pháp khoa học có thể giải quyết được. Trong thời kỳ đó, nhiều người tưởng rằng khoa học sẽ xé tan những màn huyền bí của tạo hóa, cho phép ta hiểu thế nào là sự sống, sự chết, nâng ta lên ngang hàng Hóa công, thế ta vào thay Hóa công! Muốn hợp thời, các thi sĩ nhất định không tìm nguồn thơ trong tâm hồn như phái lãng mạn nữa. Họ theo gương sử gia, cố làm xuất hiện thi vị của những văn hóa bị tiêu diệt. Leconte de l’Isle lúc nào cũng tiếc nhớ văn hóa Hy Lạp và Ấn Độ. Héredia chạm gọt những bài thơ tuyệt diệu để ca tụng dĩ vãng tốt đẹp, lộng lẫy của các văn minh Âu, Á. Hai thầy trò đồng ý giữ thái độ khách quan, theo phương pháp khoa học, không bao giờ chịu thổ lộ tâm trạng của mình cùng độc giả. Nhưng một ngày kia, học giả nhận thấy khoa học không giải quyết được những vấn đề cốt yếu cho nhân loại. Các bác sĩ vẫn chưa biết sau khi chết, linh hồn ta còn toàn vẹn không và có thể hoạt động được đến đâu. Cùng lúc đó, các nhà triết học nghiệm thấy thuyết của Taine tiên sinh không thể cắt nghĩa được những hành vi của tư tưởng và những đặc tính của tinh thần. Thật là may! Nếu phương pháp khoa học có thể vạch tỏ ra cái khuất khúc của tâm lý, thì trong người ta hết bí mật. Nếu các nhà bác sĩ khám phá được thực tại, của cái chết, thì đời ta hết nghĩa lý. Nếu nhờ khoa học mà ta hiểu được thiện ác và tới được địa vị của Hóa công thì quang cảnh trời [giời] xanh buồn lẻ và bóng tối của đêm hôm vô vị. Nếu trong người ta, ta biết rõ những cơ quan của thân thể, những tính tình của tâm trạng, thì ta không muốn ở với ta nữa, ta chán ta vô cùng. Nếu ta biết ngày mai, ngày kia, sẽ xẩy [sẩy] ra sự gì, ta không chắc ta có can đảm sống đến mai không. Nói tóm tắt lại, trong người ta cần phải có bí mật, trong đời ta phải có tình cờ, trong thế giới cần phải có trời [giời] đất quỷ thần thì ta mới [mấy] muốn sống. Ảo tưởng là sự cần dụng thiết yếu của ta. Ta chỉ có thể sinh hoạt được ở trong bầu không khí đầy những sương mù. Tâm địa ta phải lo sợ, ước ao, hy vọng, thì ta mới [mấy] đủ sức mà sống, thì đời ta mới thú vị. Tuy rằng ở cõi tiên mà Từ Thức vẫn khao khát trở về trần tục, chỉ vì trên bồng lai tiên cảnh không biết lo sợ, ước ao, hy vọng. Một pho tượng đẹp đến đâu thì đẹp, ta không thể yêu như một mỹ nữ, vì mỹ nữ có tâm hồn, biết khóc, biết cười, lúc làm ta say đắm, lúc làm ta bực mình, lắm khi khôn ngoan, lắm khi ngu đần, thỉnh thoảng hành vi hợp lý, nhiều khi cư xử [mờ chữ] hay vô lý. Huyền bí của thiễu nữ, thú vị của ái tình ở trong đó mà ra. Tại sao Tú Uyên yêu một hình ảnh. Pygmalion yêu một pho tượng đều nhận rằng sự yêu đương không đầy đủ hoàn toàn, lại cầu trời khấn phật cho phép người trong mộng hiển hiện ra thành người thật, tuy họ biết người thật rất nhiều thói xấu và làm cho họ điêu đứng? Là vì một hình ảnh, một pho tượng thiếu linh hồn. Lúc các nhà triết học dùng ánh sáng khoa học để giải minh những sự ám mờ, bí mật của tinh thần, trí não, tâm địa ta, lúc các nhà thi sĩ theo gương các bác sĩ muốn giữ thái độ khách quan để tả mỹ cảnh của vũ trụ hay tìm thi vị của đời quá khứ thì chẳng khác gì như họ ép ta phải yêu hình ảnh hay pho tượng chỉ có vật chất, mà không có linh hồn của một mỹ nữ. Thế giới họ đẩy ta vào thật là sáng sủa, mặt trời lúc nào cũng chói lọi, nhưng tiếc thay, cây thì không có bóng, ngày không có đêm, đường đi bao giờ cũng thẳng không quanh co. Tất cả người ta, chỉ còn trí khôn để hiểu, nhưng mất tri giác không biết cảm nữa. Ta sống ở trong một lâu đài đầy kim cương, nhưng kim cương đó không xúc động lòng người ta như mấy giọt lệ lóng lánh trong đôi mắt hữu tình. Không khí ta thở thấy nóng, khô khan vô cùng, ta rất thèm thuồng chén nước lã, mong mỏi ngọn gió nam, ước ao cây um tùm. Ta đợi chờ bông hoa tươi ở giữa đám cỏ xanh. Ta cần dùng một thi vị mát mẻ, êm đềm, âm thầm, mờ ám, huyền bí, thi vị của cảm giác chứ không phải thi vị của trí khôn. Cái bi kịch đó mà các nhà trí thức nước Pháp trải qua về cuối thế kỷ thứ mười chín, văn sĩ P. Bourget đã kể trong cuốn tiểu thuyết nhan đề: “Người môn đệ”. Cậu Robert Greslou là môn đệ cụ triết học Sixte. Hai thầy trò đều chịu ảnh hưởng của Taine tiên sinh một cách sâu sa. Cậu Greslou chỉ biết dùng lý tính để phân tích và giải quyết những vấn đề quan trọng của tinh thần. Cậu là một người “thất tâm” không hiểu tính tình đồng loại, coi tâm địa như một vật để thí nghiệm. Cậu dùng trái tim của một thiếu nữ để tra xét sự sinh nở, hoạt động, bành trướng của ái tình. Cậu giữ thái độ khách quan, theo phương pháp khoa học để quyến rũ cô, dắt cô vào trong tay cậu. Trong tất cả cuộc thương yêu này, quả tim của cậu chưa hề đập mạnh chỉ có tinh thần cậu hồi hộp thấy kết quả mỹ mãn của sự thí nghiệm của cậu. Cô kia yêu cậu đến nỗi hy sinh cho cậu không những tâm hồn mà cả thân thể cô. Cô tưởng cậu thực tình, sau cuộc ái ân sẽ cùng cô uống chén thuốc độc để chết theo cô. Cô có ngờ đâu sau khi cậu đạt tới khoái lạc cuối cùng của ái tình, cậu chỉ sướng rằng sự thí nghiệm của cậu được hoàn toàn. Cậu bị giải ra tòa đại hình để xử việc cậu đã đầu độc cô. Nhưng đối với luật lệ, cậu vô tội, được trắng án. Chẳng may cho cậu, lúc cậu ở tòa ra, người anh cô thiếu nữ bắn cậu chết để trả thù cho em… Trong mấy trang cuối cùng quyển tiểu thuyết, cụ triết học A. Sixte quỳ gối trước linh sàng cậu Greslou, giọt lệ chứa chan, cầu kinh cho môn đệ được siêu sinh tĩnh độ. Cử chỉ của cụ trái hẳn thuyết từ xưa đến nay cụ vẫn dạy. Cụ nhận thấy rằng trên có Thượng đế, dưới có nhân loại, cụ hiểu rằng tinh thần bao giờ cũng đánh đôi với trí giác, ái tình là một sự hệ trọng trong đời người, trái tim của người đàn bà không phải là một vật thí nghiệm và ở bên trên thế giới vật chất mà khoa học có thể cắt nghĩa được, có tâm giới thoát khỏi vòng khoa học pháp tác, chỉ theo luân lý quy tắc và lương tâm mệnh lệnh. Chính nhà triết học Bergson đã tìm được cách giải quyết vấn đề khoa học trong nền tư tưởng hiện đại. Tiên sinh đối chiếu vật chất với tinh thần. Ta tiếp xúc với thế giới vật chất bằng ngũ quan. Trí khôn ta gây nên phương pháp khoa học để hiểu và cắt nghĩa thế giới vật chất. Nếu dùng phương pháp đó trong thế giới tinh thần thật là vô lý, chẳng khác gì dùng cái cốc để đóng đanh, hay dùng đanh để đẽo gỗ. Trí khôn ta, từ thuở nhân loại mới xuất hiện trên mặt đất lúc nào cũng giao thiệp với thế giới vật chất lợi dụng vật chất để tìm kế sinh nhai thành ra tiêm nhiễm những tính thói của vật chất, nặng vật chất, cũng như chậu hoa ta để dưới đất, lúc nắng, lúc mưa, bị bụi, bùn, bám chặt. Vì vậy không thể nhập vào thế giới tinh thần được. Dù có vào đó nữa thì cũng như người nhà quê ra tỉnh, bỡ ngỡ, sinh lắm chuyện buồn cười. Muốn cho trí khôn ta hiểu được thế giới tinh thần thì cần phải rửa sạch bùn lầy của vật chất, cũng như muốn cô con gái thôn quê thành người thiếu nữ ngoài tỉnh, thì phải cạo răng trắng, ăn mặc tân thời, cắt tóc, uốn tóc! Lúc trí khôn ta đã hoàn toàn sạch sẽ, thu lại tính chất trong sạch thuở xưa, sẽ có thể nhập vào trong thế giới tinh thần, không sợ thất lạc nữa. Nói tóm lại, theo thuyết của Bergson tiên sinh, trí khôn ta khó lòng hiểu được thế giới tinh thần, chỉ có thể hiểu được thế giới vật chất thôi, nhưng dùng phương pháp khoa học có thể đi tới được biên giới tận cùng của vật chất. Từ khi tư tưởng của Bergson thuyết minh trong làng trí thức ai cũng tưởng rằng vừa được ra khỏi ngục tối. Mọi người ngắm cảnh thiên nhiên tạo hoá đều nhận có nhiều huyền bí đầy thi vị và trông trời xanh thẳm cũng rùng mình mà than như Pascal: “Trạng thái luôn luôn yên lặng của không gian làm ta ghê sợ”. Nếu khoa học không đủ thế lực phá tan bí mật của vũ trụ, nếu nhân loại chưa hiểu chết là gì, nếu trên trời còn Hoá công, nếu trong người ta còn linh hồn, còn cảm giác, nếu trên đường đời, tương lai còn mù mịt, nếu quang cảnh êm đềm của ngôi sao lóng lánh trong đêm thanh vắng còn làm ta mê man trong giấc mộng thì ta chưa đến nỗi thất vọng. Trí khôn tung hoành trong một thế giới nhật quang chói lọi. Thế giới đó có một thi vị riêng, thi vị của một cánh đồng quê lúc trưa mặt trời giữa đỉnh đầu, thi vị của một eo bể nước trong vắt, nhìn thấy tận đáy của hòn đá xanh lơ, con cá lặn, thi vị của một hạt kim cương tuôn ra tia sáng. Thi vị đó là nhục dục của thi sĩ thuộc về phái Parnasse như Leconte de l’Isle, Héredia… Chung quanh biên thuỳ thế giới đó, có một thế giới mênh mông, u ám, toàn rừng sâu bể thẳm. Thi vị của thế giới này là thi vị u minh của cái miền tịch mịch dưới bóng cây um tùm, của cái suối róc rách trong khe đá, của con đom đóm lập loè trong chỗ tối. Thi vị này là nguyện vọng của Baudlaire đã khám phá những ẩn tình éo le, kỳ dị của tâm trạng, những phát biểu lạ lùng, sâu xa của cảm giác. Thi vị này là sở cầu của Rimbaud đã phát lộ những huyền bí của một thế giới mà nhân loại dùng ngũ quan không trực tiếp được vì bí ẩn trong hình thức của muôn vật. André Gide sẽ theo gương của Baudlaire đạt tới những đặc tính lạ thường của nhân loại từ xưa đến nay vẫn lọt qua lưới của ý thức. Paul Claudel cũng như Rimbaud dùng tri giác đi tới thực tại của ngoại giới và phát minh ẩn ý của Thượng đế trong vũ trụ. Paul Claudel dùng ngụ ngôn để tả cảnh giao thiệp giữa trí khôn và cảm giác. Trí khôn và cảm giác gây nên đạo vợ chồng. Trí khôn là chồng, tự phụ hiểu thấu mọi việc, cai quản gia đình, có bề khinh bỉ cảm giác là người đàn bà ngu si chỉ biết tề gia nội trợ. Một buổi, trí khôn đi vắng, bất thình lình trở về, nghe thấy cảm giác lên tiếng hát mấy điệu hay vô cùng. Tuy rằng trí khôn không thể hiểu tiếng hát gì nhưng cũng phải nhận mấy điệu đó tuyệt diệu. Nhưng lúc hắn mở cửa vào nhà, cảm giác thôi không hát nữa, thành ra mỗi lần trí khôn muốn nghe điệu hát đó phải giả vờ đi vắng rồi trốn một xó nhà để nghe cảm giác lên tiếng ca ngâm. Như vậy vấn đề khoa học trong nền tư tưởng đã giải quyết được rồi. Khoa học là sự nghiệp của trí khôn. Trí khôn chỉ có thể hiểu và cắt nghĩa được ngoại giới dưới quyền ngũ quan mà thôi. Còn như nội giới của nhân loại, hay là ẩn giới của tạo hoá, phải để dành cho tri giác. Đây là vương quốc của các nhà thi sĩ và triết học. Cách giải quyết vấn đề này kể không lấy gì làm mới mẻ cho lắm. Bốn trăm năm về trước, Montaigne đã chỉ trích những đại vọng của khoa học. Tiên sinh dạy rằng trí khôn phải dùng đến ngũ quan để trực tiếp với ngoại giới. Nhưng ngũ quan thường làm ta bị nhầm lẫn. Trí khôn lại còn bị sức tưởng tượng ám ảnh nữa. Nếu ta phải đi trên tấm ván bắc ngang qua hai tháp thật cao, dù tấm ván rộng và chắc chắc đến đâu mặc dầu, ta vẫn run lẩy bẩy. Tuy trí khôn ta biết rằng ta đi trên tấm ván đó, không thể nguy hiểm được cho tính mệnh ta, nhưng ta bị ảnh hưởng của sức tưởng tượng, ta vẫn run như thường. Vậy nếu trí khôn ta theo ngũ quan nhiều khi bị sai lầm, mà lại còn chịu ảnh hưởng của sức tưởng tượng thì khoa học là sự nghiệp của trí khôn còn gì là chắc chắn nữa? Khoa học thật là vô giá trị. Montaigne nghĩ như vậy là quá đáng. Thuyết của Bergson đáng tin hơn. Không nên tâng bốc khoa học quá, nhưng cũng không nên mạt sát. Nên đặt khoa học trúng vào địa vị của khoa học và nên dùng phương pháp khoa học một cách hợp lý. Mấy ý kiến tôi giãi bầy trên nầy cốt để xin các bạn trí thức hiểu kỹ địa vị và phạm vi của khoa học và tránh khỏi lòng mê tín đối với khoa học./ (TN 98, 13 Janvier 1945) Nguồn: Văn hóa Nghệ An ======================================== Thì ra cụ viết bài này từ năm 1945 lận. Thưa cụ! Đến bây giờ cũng chưa thấy ai định nghĩa thế nào khoa học. Hay nói chính xác hơn: Một định nghĩa khoa học được cộng động khoa học thế giới ủng hộ. Nhưng để phủ nhận văn hóa sử truyền thống của tổ tiên người Việt, có một lũ nhân danh khoa học đấy cụ ah. Họ xác định: "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "Cộng đồng khoa học thế giới" ủng hộ quan điểm của họ đấy! Nhưng thật buồn cho họ. Cái khoa học ấy hiện đang loay hoay tìm lối thoát. Đến cả ông khoa học SW Hawking - ông hoàng khoa học Vật lý Thiên Văn cũng chạy độ khi phát biểu: "200 năm nữa nhân loại đi hành tinh khác mà ở". Ấy là ông ta chỉ mới nhân danh chính cái khoa học trở thành công cụ của sự tàn phá môi trường sống của con người và chưa đề cập đến sự phẫn nộ của thiên nhiên. Mà những trận động đất trong những năm gần đây là một vài cái làm ví dụ! Kẻ hậu bối nói điều gì khí không phải, xin anh linh cụ miễn thứ: Cái gì cũng vừa vừa phai phải thôi phải không cụ. Hic! Thiên Sứ tôi muốn phát biểu rằng: Cái khoa học tự nhiên phát triển thì cái khoa học nhân văn phải cân đối với nó. Không thì rất phiền đấy! Nhớ nha! Và câu này không giành cho đám tư duy "Ở trần đóng khố".
  23. NGÀY 1. 4 - NGÀY CÁ THÁNG 4. Kính thưa quý vị quan tâm. Để chuẩn bị cho ngày Cá Tháng Tư. Tôi đề nghi cần phải đề cao tính thật thà trong toàn thể mỗi con người chúng ta. Nếu không chúng ta sẽ bị nghe nói dối trong ngày hôm nay. Thí dụ như những câu chuyện sau đây: * Một bệnh nhân được người nhà hốt hoảng đẩy vào phòng cấp cứu của bệnh viện trong trạng thái bất tỉnh. Y , bác sĩ xúm vào tận tình khám. Bổng anh ta tỉnh dậy: "Xin lỗi! Hôm nay là ngày Cá Tháng 4". * Một người thò tay vào quấy hàng của một siêu thị lấy ra một chai nước hoa đắt tiến. Chủ tiệm hô hoán: "Ăn căp! Ăp cắp! Bắt giúp tôi thằng ăn cắp". Kẻ cắp mỉm cười từ tốn nói: "Ông hãy bình tĩnh! Tôi vốn là người thật thà! Hôm nay là ngày Cá Tháng Tư, sẽ chẳng ai tin ông bảo tôi ăn cắp đâu!". Nói xong y gật đầu chào rất lịch sự và cầm chai nước hoa ra khỏi tiệm. Ra ngoài cửa, ông ta ngoái lại nói với: "Ngày mai, tôi sẽ mang tiền lại trả ông! Xin cám ơn!". * Con bò Misu nói với con bò Kitu: "Hôm nay là ngày Cá Tháng Tư, mọi người có quyền nói dối đấy!". "Tiếc thật!" - Kitu phàn nàn: "Loài người vĩ đại thế mà còn có ngày nói dối! Chẳng ai thật thà như loài bò chúng ta!". * Trong ngôi đền nổi tiếng linh thiêng, hai vị thần hỏi nhau: "Hôm nay là ngày Cá Tháng Tư! Chúng ta có nên đóng cửa đền không vậy?". "Sao ngài lại dạy thế?". "Bởi vì tôi sợ những lời cầu nguyện của chúng sinh toàn là giả dối!". "Vậy ngài cứ tưởng những lời cầu nguyện của chúng sinh vào những ngày khác là thật thà lắm hả?". * Trên bảng hiệu của một cửa tiệm vốn nổi tiếng về hàng chất lượng cao, có ghi dòng chữ: "Hàng chất lương cao, giá rẻ". Ngày 1. 4 hàng năm, ông chủ tiệm ra tháo bằng hiệu xuống, thay bằng băng rôn ghi dòng chữ: "Ở đây toàn đồ giẻ rách và bán giá trên trời".
  24. Trên chuyến taxi tôi vừa đi về chiếu này, ông tài xế nói: "Giá xăng tăng quá, mà tiền xe không tăng, phần % tài xế hưởng không tăng, trong khi tài xế chịu tiền xăng. Tôi muốn bỏ nghề. Nhưng chưa biết làm nghề gì sống?" Vấn đề chính ở đây là: Sự điều chỉnh cân đối giữa các mặt liên quan. Lý học gọi là hài hòa Âm Dương ấy mà.