-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
LỜI TIÊN TRI TỪ NĂM 2011 Không quá 30 năm nữa, Những chiếc tàu sân bay sẽ chỉ còn là những di sản bảo tàng về lịch sử quân sự của con người. Nếu nó còn biên chế trong hải quân nước nào đó thì chỉ để cho vui. ================================= Tàu sân bay – Cuộc đua chưa kết thúc 19/06/2011 16:03:05 - Tàu sân bay là biểu tượng cho sức mạnh vượt trội của các cường quốc cả về phương diện quân sự và kinh tế. Với chức năng của một sân bay nổi, uy lực của mỗi chiếc tàu sân bay đến từ khả năng tấn công của hàng chục máy bay chiến đấu trên boong, hệ thống hỏa lực chủ động cùng hệ thống tác chiến điện tử tối tân. Ngày nay, tàu sân bay được coi là một trong những con bài quan trọng, quyết định ưu thế chiến lược và thành bại của một trận chiến. Tàu sân bay là sản phẩm công nghệ cao được ứng dụng trong lĩnh vực quân sự. Tuy nhiên, chiếc tàu sân bay đầu tiên lại được chế tạo từ một chiếc tàu buôn. Năm 1914, người Anh đã cải tiến chiếc HMS Ark Royal, vốn là một tàu buôn có trọng tải 7.500 tấn, dài 112m, rộng 15,5m và cao 5,5m, thành chiếc tàu sân bay cho Hải quân Hoàng gia Anh sử dụng. Đầu năm 1915, lần đầu tiên HMS Ark Royal phục vụ với tư cách một chiếc tàu sân bay trong chiến dịch Dardanelles trên biển Địa Trung Hải. Kết thúc Thế chiến I, chiếc tàu “buôn” sân bay này còn được đưa đến biển Đen để trợ giúp lực lượng Bạch vệ trong cuộc Nội chiến Nga. Nước Anh là quê hương của chiếc tàu sân bay đầu tiên, tuy nhiên cái nôi của ý tưởng chế tạo một căn cứ không quân nổi lại xuất phát từ nước Mỹ. Ngược dòng thời gian, trở lại ngày 14/11/1910, thời điểm được coi là mốc khởi đầu cho sự ra đời của tàu sân bay. Đúng ngày này, phi công người Mỹ Eugene Ely đã lái chiếc máy bay Herber Doust Curtis cất cánh thành công từ boong tuần dương hạm bọc thép USS Birmingham CS-2 của Hải quân Mỹ tại bang Virginia. Sau đó, chiếc máy bay do Eugene Ely điều khiển phải hạ cánh trên đất liền tại mũi Willoughby. Chỉ hai tháng sau, ngày 18/1/1911, cũng chính phi công này đã lái một chiếc máy bay khác hạ cánh thành công xuống boong tàu USS Pennsylvania ACR-4 đang neo đậu trên Vịnh San Francisco. Tàu sân bay HMS Ark Royal (1939) Trước khi HMS Ark Royal chính thức được cải tiến thành chiếc tàu sân bay đầu tiên trên thế giới, sự kiện quan trọng nhất chính là việc phi công Charles Samson của Không quân Hoàng gia Anh đã thực hiện thành công việc cất và hạ cánh trên boong chiến hạm HMS Hibernia khi đang di chuyển với vận tốc 19km/h trên Vịnh Weymoth vào ngày 2/5/1912. Thành công này đã khẳng định khả năng có thể chế tạo một loại tàu cỡ lớn chuyên chở máy bay và làm nơi cất hạ cánh cho chúng. Loại tàu này sẽ thay thế một căn cứ không quân mặt đất và có lợi thế hơn nhờ khả năng di chuyển linh hoạt, tầm hoạt động rộng trên biển và các đại dương. Vai trò ngày càng lớn HMS Ark Royal được coi là chiếc tàu sân bay đầu tiên, nhưng nó cũng chỉ dừng lại là một phiên bản “sáng kiến cải tiến kỹ thuật”. Phải mất gần một thập kỷ sau khi tàu sân bay “cải tiến” HMS Ark Royal ra đời, chiếc tàu sân bay thực thụ đầu tiên mới chính thức xuất hiện. Năm 1923, người Anh đưa chiếc HMS Hermes vào hoạt động với đúng nghĩa chiếc tàu sân bay đầu tiên do họ tự thiết kế và đóng mới. HMS Hermes được khởi công đóng mới vào tháng 1/1918 và đến 11/9/1919, nó được hạ thủy và hoàn thiện. Tàu dài 182m, rộng 21,4m và có mớn nước 5,7m với trọng tải gần 11.000 tấn. Tàu sân bay thực thụ đầu tiên HMS Hermes Khi mới xuất hiện, tàu sân bay chưa phải là “nỗi kinh hoàng” thực sự đối với hải quân đối phương. Lực lượng không quân phối thuộc nhỏ, tốc độ di chuyển chậm chạp, khả năng giữ ổn định kém và tầm hoạt động bị hạn chế khiến HMS Hermes cũng như các tàu sân bay cùng thời có nhiều hạn chế, đôi khi chỉ giống như một “chàng khổng lồ” ngốc nghếch. Với trọng tải khoảng 11.000 tấn, HMS Hermes chỉ có thể mang theo 20 máy bay cánh quạt Martlet F4F Swordfish. Vũ khí tự vệ của tàu gồm 6 pháo 140mm, 3 pháo phòng không 102mm, 2 súng phòng không 4 nòng 12,5mm. “Cuộc đời” của HMS Hermes kết thúc vào ngày 9/4/1942 khi nó bị máy bay trinh sát Nhật Bản phát hiện ở ngoài khơi Batticaloa, Sri Lanka và bị cùng lúc 50 chiếc máy bay Aichi D3A1 oanh tạc nhấn chìm. Trong thời kỳ đầu, tàu sân bay chỉ có thể coi là một căn cứ không quân “mini” di động. Phải đến Thế chiến II, tàu sân bay mới có vai trò đáng kể trong các cuộc chiến. Với kích thước “khủng”, sức mạnh tấn công của tàu sân bay không nằm ở hỏa lực trực tiếp như pháo, tên lửa, ngư lôi, thủy lôi, mà nằm ở lực lượng máy bay mang theo. Tàu sân bay giúp hải quân chiếm ưu thế trên không ngoài biển và đại dương cũng như tấn công tầm xa vào các mục tiêu trên bờ. Tuy nhiên, do kích thước quá lớn, khả năng tự vệ bị hạn chế nên tàu sân bay phải có một đội hộ tống hùng hậu gồm hàng chục chiến hạm bảo vệ. Ngược lại, tàu sân bay cũng là một “kho chứa” hậu cần khổng lồ giúp cung cấp nhiên liệu, thực phẩm và nước uống cho các chiến hạm khác khi hoạt động dài ngày trên biển và đại dương. Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, tàu sân bay vừa đóng vai trò của một sân bay nổi, vừa là một pháo đài nổi với hệ thống vũ khí tự vệ chủ động cực mạnh gồm nhiều loại tên lửa khác nhau và hệ thống tác chiến điện tử tối tân. Chúng giữ vị trí trung tâm trong cụm tàu tấn công và ngày càng trở nên thực sự đáng sợ. Cuộc đua chưa kết thúc Với chi phí khổng lồ và đòi hỏi trình độ khoa học công nghệ cao, tàu sân bay được coi là “mặt hàng quân sự xa xỉ”. Không phải nước nào cũng có đủ khả năng sở hữu tàu sân bay dù đi mua hay tự đóng mới. Hiện trên thế giới chỉ có 9 quốc gia có tàu sân bay đang hoạt động, trong đó Mỹ vượt trội với 13 chiếc có trong biên chế. Các quốc gia còn lại chỉ có từ 1 đến 3 chiếc. Điều đáng ngạc nhiên là một cường quốc quân sự như Nga cũng chỉ có duy nhất một chiếc tàu sân bay mang tên Đô đốc Kuznetsov. Tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov Từ cuối những năm 1930, Liên Xô đã chú ý tới việc chế tạo tàu sân bay. Tuy nhiên, vì nhiều lý do mà mãi đến cuối những năm 1950, các dự án chế tạo tàu sân bay vẫn chưa được tiến hành. Năm 1967, Liên Xô hạ thủy chiếc tàu sân bay đầu tiên mang tên Moscow 17.500 tấn. Từ năm 1975, Liên Xô đã hoàn thành nhiều dự án chế tạo tàu sân bay khác và lần lượt đưa vào trang bị các tàu sân bay Kiev, Minsk, Novorossiysk và Đô đốc Gorskov. Các dự án chế tạo tàu sân bay nguyên tử Orel trọng tải 80.000 tấn hay tàu sân bay Ulyanovsk trọng tải 75.000 tấn của Liên Xô đã không thể trở thành hiện thực. Trong cuộc chạy đua “tàu sân bay” với Mỹ, Liên Xô đã tỏ ra hụt hơi. Tàu sân bay Novorossiysk Trong Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã có hàng loạt dự án chế tạo tàu sân bay với các lớp Midway, Saipan, United States v.v. Trong đó, hàng chục chiếc đã được hoàn thành và vẫn còn sử dụng cho đến tận ngày nay. Bắt đầu từ năm 1975, Mỹ khởi động dự án tàu sân bay lớp Nimitz. Đến năm 2009, Mỹ đã đóng được 10 chiếc tàu sân bay lớp này và đưa vào biên chế. Hiện cả 10 chiếc đều đang hoạt động, như USS George Washington, USS John C. Stennis hay USS Harry S. Truman… Ngày nay, nhiều quốc gia đang dốc sức cho việc chế tạo tàu sân bay, trong số đó phải kể đến hai cường quốc mới nổi Trung Quốc và Ấn Độ. Hai quốc gia này đang đẩy mạnh việc tự chế tạo tàu sân bay của riêng mình sau khi đã nhập khẩu “hàng phế thải” của nước ngoài về tân trang và sử dụng. Hàng loạt quốc gia khác như Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Brazil cũng đang triển khai các dự án chế tạo tàu sân bay mới và sẽ sớm đưa các thành quả của họ vào sử dụng trong tương lai gần để thực hiện chiến lược “vươn ra đại dương”. Tàu sân bay USS Harry S. Truman Tàu sân bay Varyag Trung Quốc mua lại của Ucraina Tàu sân bay “đắt” nhất USS George H.W. Bush Tàu sân bay “khổng lồ” USS Enterprise Tàu sân bay Hosho của Nhật Bản Tàu sân bay Chakri Naruebet của Thái Lan Bảo Minh
-
Tai nạn tăng nặng....... ================================================== Lửa thiêu rụi kho dược liệu hàng tỉ đồng 18/06/2011 20:58:58 - Khoảng 12h50 ngày 18/6, kho thành thẩm dược liệu của Công ty Cổ phần PYMEPHARCO (số 170, đường Nguyễn Huệ, phường 7, TP Tuy Hòa, Phú Yên) bỗng nhiên bốc cháy dữ dội, thiêu rụi toàn bộ lượng thuốc chứa bên trong. Đám cháy thu hút sự chú ý của hàng ngàn người dân hiếu kỳ đến xem. Theo thông tin ban đầu, kho thành phẩm cao 3 tầng, chiều dài hơn 30m, rộng gần 20m, được thiết kế theo kiểu nhà làm việc, với nhiều cửa ra, vào và cửa sổ đã bị thiêu rụi gần như hoàn toàn. Được biết, đám cháy đã lan từ tầng 1 (kho thành phẩm) lên tầng 2 (kho bao bì) và sang cả phân xưởng đóng gói nằm ở tầng 3. Vụ cháy xảy ra đúng lúc cán bộ, công nhân nhà máy đang nghỉ trưa khiến mọi người trở tay không kịp. Lực lượng Cảnh sát PCCC Công an Phú Yên đã phải huy động 5 xe cứu hỏa và hàng chục chiến sỹ tham gia dập lửa. Hiện trường vụ cháy Tuy nhiên, do các lối ra vào kho hẹp, không thể tiếp cận bên trong, nên đám cháy, khói và tro bụi ngày càng phát lớn. Đến gần 16h, lửa, khói vẫn bốc lên dữ dội và mùi thuốc nồng nặc, lực lượng chức năng đã phải phá tường, đập kính để tiếp cận bên trong khống chế đám cháy. Các xe chữa cháy phải làm việc hết công suất nhưng do không đủ nước phục vụ cứu hoả, áp lực nước yếu, cùng với việc phân xưởng được xây kín (để bảo quản thuốc) nên lực lượng PCCC rất khó khăn tiếp cận để dập lửa đang ngày càng bùng cao. Đến khoảng 19h, ngọn lửa mới cơ bản được khống chế. Lực lượng phòng cháy chữa cháy nỗ lực dập lửa Rất may không có người bị thương vong nhưng thiệt hại về tài sản lên đến hàng tỉ đồng. Được biết, tại thời điểm đám cháy xảy ra, trong xí nghiệp có khoảng 500 công nhân đang làm việc. Tất cả đều tích cực tham gia chữa cháy. Hiện hiện trường vụ cháu đã được cơ quan chức năng phong tỏa để tiến hành điều tra nguyên nhân vụ việc. Phước Duy ==================================== Khuyến cáo các quí vị doanh nghiệp: Quí vị nào có những nguyên vật liệu, thành phẩm dễ cháy nổ cần có kế hoạch phòng chữa cháy hữu hiệu. Cần cô lập những vùng có khả năng cháy, tạo điều kiện cứu hỏa dễ dàng nếu có cháy.....Năm nay những hiện tượng cháy nổ rất dễ xảy ra bởi đủ thứ nguyên nhân....
-
Khó hiểu quá! Cái nhà màu vàng được xác định la 2toa 2nha 2Quốcc Hội Hoa kỳ. Nay đánh dấu tòa nhà làm việc của Tổng thống Hoa Kỳ cũng ở đấy luôn? Vậy tòa nhà quốc hội đâu?
-
Ông Bankimo người Cao Ly tái đắc cử Tổng Thư Ký Liên hiệp Quốc.
-
Chúng ta thử xem lại tính phi lý của một luận điểm quan trọng thuộc phái " Ông cha ta ở trần đóng khố ":Họ trích dẫn Việt Sử lược trong đó có đoạn/ Đại ý: Từ đó họ cho rằng: Thời Hùng Vương chỉ bắt đầu từ thế kỷ thứ VII - Tương đương thời Trang Vương nhà Chu. Tôi cho rằng Việt sử lược là cuốn sách chuẩn và tất cả những dữ liệu trong cuốn sách này hoàn toàn đúng! Đây là điều kiện thuận lợi nhất cho họ. Nhưng rất tiếc. Ngay trong cuốn sách này có đoạn - Đại ý: Họ đã lờ tịt đoạn này không giải thích vì sao : Một " liên minh bộ lạc " với những người dân " ở trần đóng khổ ", vùng sinh sống tận " đồng bằng Bắc Bộ " , cách nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn và xa Trung Nguyên đến toàn bộ phần nam Dương Tử - bây giờ thuộc Trung Quốc - mà lại được một quốc gia bá chủ Trung Nguyên là Việt Vương Câu Tiễn đề nghị chung sức để chiếm toàn bộ phía bắc sông Dương tử lên đến Nam Hoàng Hà? Đây chính là sự tráo trở trong học thuật, vì tính phí lý trắng trợn này.
-
Giờ Tý. 19. 5. Tân Mão Việt lịch:Sinh Lưu Niên.
-
Thế giới đề phòng chiến tranh cấp quốc gia...... ============================================= Israel tập trận phòng thủ quy mô lớn Chủ nhật, 19/06/2011, 15:28(GMT+7) VIT - Quân đội Israel cho biết, hôm nay (19/6), Israel đã bắt đầu đợt tập trận phòng thủ quy mô lớn trong vòng 5 ngày nhằm chuẩn bị cho người dân và các cơ quan khẩn cấp phản ứng trước các cuộc tấn công lớn bằng tên lửa. Mang tên “Turning Point 5”, đợt tập trận này bao gồm việc thử nghiệm các hệ thống còi báo động trên toàn quốc, phân phát các bộ khẩn cấp, cải thiện khả năng phối hợp và thực hành thủ tục sơ tán và ẩn nấp. Ảnh minh họa Đây là năm thứ năm Israel tiến hành đợt diễn tập này. Theo nội dung tập trận, tiếng còi sẽ vang lên hai lần, một lần vào buổi sáng, một lần vào buổi tối, từ đó người dân Israel có 2 cơ hội tham gia tập trận. Báo chí địa phương cho hay, trong số các kịch bản được chuẩn bị có các vụ tấn công rocket liên tục nhằm vào khu vực Tel Aviv, hệ thống điện hoặc bệnh viện lão khoa. Israel đã phải hứng chịu các vụ bắn rocket hạng nặng trong suốt cuộc chiến tranh năm 2006 với nhóm tay súng Hezbollah ở Li-băng, và các thị trấn phía Nam gần dải Gaza cũng thường xuyên bị nã rocket từ lãnh thổ Palestine. Đây là lần đầu tiên các nghị sĩ cũng được kêu gọi tham gia phản ứng trước một cuộc tấn công giả định nhằm vào tòa nhà quốc hội ở Jerusalem. Phát biểu trên đài phát thanh quân đội hôm 19/6, Bộ trưởng Bộ An ninh nội địa Matan Vilnai khẳng định rằng không nên coi đợt tập trận này như “sự suy yếu sức mạnh răn đe của Israel”. “Kẻ thù của chúng tôi biết rõ rằng nếu họ tấn công chúng tôi, chúng tôi sẽ đáp trả mạnh mẽ, nhưng chúng tôi phải chuẩn bị bởi vì họ có khả năng bắn tên lửa và rocket vào tất cả các khu vực thuộc lãnh thổ của chúng tôi”, ông khẳng định. Trang Lê (Theo AFP) Tin dịch
-
Đây là câu khó chịu nhất trong bài viết này. http://vn.360plus.ya...=1603&next=1601
-
Biết cũng vậy ah. Nếu tránh được thì còn gì là "Tiên tri " nữa! Mọi nhân duyên bây giờ đều có nguyên nhân từ hàng ngàn năm trước.Giáo sư Trịnh Xuân Thuận nói: Để giải thích một việc dù rất nhỏ. cũng phải viện dẫn đến toàn bộ lịch sử hình thành vũ trụ. Muốn tránh thì phải từ khi sự việc sắp xảy ra, tệ lắm cũng mới xảy ra. Còn nước đến chân mới nhảy thì để chứng nghiệm.
-
Lăng mộ của các vị đứng đầu quốc gia, một thời ghi danh trong Việt sử mà bị đối xử tàn tệ như vậy thật đau lòng. Phải chi, nên cấp tốc có một cuộc khảo sát, xác định khu di tích lăng mộ các vị vua Trần và phục hồi lại của cơ quan chức năng có trách nhiệm..
-
Tàu Hải quân VN đi tuần tra liên hợp và thăm TQ Bee.net 19/06/2011 07:14:34 Chiều 18/6, hai tàu HQ375 và HQ376 thuộc Đoàn M62 (Vùng D hải quân) được Bộ tư lệnh Quân chủng Hải quân giao nhiệm vụ đại diện Hải quân Quân đội nhân dân Việt Nam rời bến đến địa điểm tập kết để cùng với tàu của Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc tham gia chuyến tuần tra liên hợp trên vùng biển vịnh Bắc Bộ. TIN LIÊN QUAN Tướng Nguyễn Chí Vịnh: "VN tăng cường hải quân theo kế hoạch" Xem Hải quân VN tập luyện bảo vệ chủ quyền biển đảo Phó Tư lệnh hải quân VN nói về chủ quyền biển đảo Mỹ tập trận hải quân với các nước ASEAN Đây là đợt tuần tra chung lần thứ 11 kể từ khi hải quân hai nước ký kết thỏa thuận về Quy chế tuần tra liên hợp tháng 10/2005. Đại tá Nguyễn Văn Kiệm, Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân chỉ huy tuần tra phía Việt Nam và làm Trưởng đoàn Hải quân nhân dân Việt Nam đến thăm Trung Quốc. Tham gia đoàn tàu quân sự Việt Nam thăm Trung Quốc có cán bộ chỉ huy các cơ quan Quân chủng Hải quân và thủy thủ hai tàu HQ375 và HQ376. Tàu HQ376 trước khi rời bến lên đường tuần tra Tàu HQ375 trước khi rời bến Theo lịch trình, Hải quân hai nước thực hiện chuyến tuần tra liên hiệp bắt đầu từ 8h ngày 19/6 và kết thúc lúc 10h15 ngày 20/6/2011 (theo giờ Hà Nội). Quãng đường tuần tra 306 hải lý, từ điểm 1 đến điểm 10 của tuyến tuần tra cơ bản. Sau khi kết thúc tuần tra liên hợp, tàu của Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc tiến hành dẫn đường cho hai tàu của Hải quân Quân đội nhân dân Việt Nam hành quân qua eo biển Quỳnh Châu vào cảng Trạm Giang thực hiện chuyến thăm, giao lưu hữu nghị với Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Cán bộ, thủy thủ Đoàn Hải quân nhân dân Việt Nam thực hiện nghi lễ rời bến. Chuyến tuần tra này nhằm tiếp tục phát triển mối quan hệ hợp tác láng giềng hữu nghị truyền thống, tăng cường hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa quân đội và hải quân hai nước. Khu vực tuần tra là vùng biển giáp ranh giữa hai nước trên vịnh Bắc Bộ đã được phân định. Chuyến tuần tra còn nhằm duy trì an ninh, trật tự trên vùng biển; thúc đẩy thực thi Hiệp định nghề cá,duy trì trật tự ổn định các hoạt động sản xuất bình thường của nhân dân hai nước trên vùng biển vịnh Bắc Bộ; trao đổi kinh nghiệm hoạt động của hải quân hai nước. (Theo QĐND)
-
Truy nã quốc tế nguyên tổng giám đốc tài chính Vinashin VITINFO.VN Chủ nhật, 19/06/2011, 09:28(GMT+7) Ngày 18-6, ban tổng thư ký của Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol) đã ra lệnh truy nã quốc tế đối với ông Hồ Ngọc Tùng (ảnh văn bản), nguyên tổng giám đốc tài chính của Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy VN (Vinashin) và Giang Kim Đạt, nguyên trưởng phòng kinh doanh Công ty vận tải viễn dương Vinashin. Hai người này là bị can trong vụ án “cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Vinashin nhưng đã bỏ đi khỏi nơi cư trú. Do đó cơ quan an ninh điều tra đã ra lệnh truy nã toàn quốc. Sau khi xác định hai bị can đã ra nước ngoài, cơ quan chức năng của VN đề nghị Interpol ra lệnh truy nã quốc tế. Bị can Giang Kim Đạt được xác định đã đi nước ngoài trước khi vụ án được khởi tố. Trong khi đó, bị can Hồ Ngọc Tùng xuất cảnh sau đó ít lâu với danh nghĩa đi chữa bệnh nhưng đến nay chưa về nước. Tới nay đã khởi tố 10 bị can, bắt tạm giam tám bị can, truy nã hai bị can là Hồ Ngọc Tùng và Giang Kim Đạt. Khi ông Hồ Ngọc Tùng giữ cương vị tổng giám đốc Công ty tài chính TNHH một thành viên Công nghiệp tàu thủy (VFC) cùng với bị can Trịnh Thị Hậu (khi đó là phó tổng giám đốc) đã chủ trương và ký duyệt giải ngân một số khoản cho vay vốn có tổng giá trị khoảng 60 tỉ đồng từ nguồn vốn trái phiếu quốc tế của Chính phủ trái quy định. Trong đó, một số khoản vay đã bị sử dụng vào mục đích khác không theo đúng dự án và kế hoạch ban đầu dẫn đến mất khả năng thu hồi vốn cho Nhà nước. Điển hình là khoản 42,8 tỉ đồng cho Công ty Hoàng Anh - Vinashin (do bị can Nguyễn Văn Tuyên làm tổng giám đốc và bị can Đỗ Đình Côn làm phó tổng giám đốc) để thực hiện giao dịch mua thép. Tháng 7-2006, bị can Đỗ Đình Côn khi đó làm kế toán trưởng đã cùng Nguyễn Văn Tuyên lập hồ sơ khống mua bán 4.500 tấn thép với Công ty cổ phần đầu tư thương mại Cửu Long nhưng thực chất không có giao dịch nào. Số tiền 42,8 tỉ đồng các bị can sử dụng để nhập hai nhà máy nhiệt điện cũ (thực chất là rác thải công nghiệp độc hại) cho dự án Nhà máy nhiệt điện Sông Hồng - Nam Định. Ngoài ra, theo Thanh tra Chính phủ, ông Hồ Ngọc Tùng còn phải chịu trách nhiệm chung vì để xảy ra hàng loạt sai phạm tại Vinashin về tài chính, kế toán, đầu tư, kinh doanh của tập đoàn. Về trách nhiệm cá nhân, Thanh tra Chính phủ xác định ông Hồ Ngọc Tùng có hành vi cố ý làm trái trong việc cho Công ty Vận tải viễn dương vay 106 tỉ đồng từ nguồn vốn trái phiếu quốc tế để thực hiện dự án hoán cải tàu Bạch Đằng Giang gây thất thoát lớn vốn đầu tư của dự án này. Trong việc tư vấn dự án mua tàu Energy của Công ty vận tải Biển Đông, Công ty VFC do ông Tùng làm tổng giám đốc đã chi hơn 1,5 tỉ đồng tư vấn dự án nhưng thực chất là hợp thức hóa hợp đồng thuê tư vấn, ghi lùi ngày trên chứng từ thanh toán. Ông Hồ Ngọc Tùng còn sử dụng 1.000 tỉ đồng vay từ nguồn vốn trái phiếu quốc tế để mua lại khoản nợ của các đơn vị thành viên và bản thân công ty mẹ, trong đó có nhiều khoản là nợ xấu tại ngân hàng. Đáng chú ý việc mua lại này được thực hiện ngay trong ngày ký hợp đồng vay vốn trái phiếu quốc tế. Đối với bị can Giang Kim Đạt, Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an đã khởi tố về tội “cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Bị can này được xác định là người được giao trực tiếp tiến hành đàm phán mua tàu Cartour của Ý (tàu Hoa Sen). Tàu Hoa Sen là tàu biển cũ đã qua sử dụng nên việc mua không phù hợp với quyết định của Thủ tướng. Quyết định phê duyệt đầu tư ban đầu của dự án là gần 1.400 tỉ đồng nhưng sau khi mua tàu đưa vào sử dụng, ông Phạm Thanh Bình (nguyên chủ tịch HĐQT Vinashin) đã điều chỉnh tổng mức đầu tư lên gần 1.500 tỉ đồng. Đến nay, cơ quan chức năng xác định việc mua tàu Hoa Sen gây thiệt hại ít nhất 550 tỉ đồng. Theo TTO Tin đăng lại
-
Tai nạn tăng nặng......... ===================== Máy bay đâm bổ nhào xuống sông trong triển lãm hàng không Chủ Nhật, 19/06/2011 - 10:33 (Dân trí) - Một chiếc máy bay loại nhỏ đã mất lái và đâm bổ nhào xuống sông khi nó đang trình diễn trong một triển lãm hàng không ở Ba Lan. Vụ tai nạn thảm khốc xảy ra tại Plock, miền trung Ba Lan hôm qua khi đang du khách đang tụ tập bên sông Vistula để ngắm cảnh và xem triển lãm hàng không. Kênh truyền hình tin tức TVN24 đã chiếu cảnh chiếc máy bay đang nhào lộn trên không thì bỗng nhả các cột khói đen và lao sầm xuống mặt nước. Các nhân viên cứu hộ đã kéo phi công ra khỏi các mảnh vỡ của máy bay và cố gắng hồi sức cho anh này trước khi chuyển phi công tới bệnh viện, nơi anh này qua đời sau đó. Phi công đã ở trên máy bay một mình khi chiếc Christen Eagle II - loại máy bay một động cơ thường được sử dụng cho hoạt động bay nhào lộn - gặp nạn. TVN24 cho hay phi công tử nạn là Marek Szufa, một phi công của hãng hàng không Ba Lan LOT. Slawomir Adamkowski, giám đốc câu lạc bộ bay Mazovia, hãng tổ chức cuộc triển lãm, cho hay nguyên nhân vụ tai nạn đang được điều tra. Chiếc Christen Eagle II đang trình diễn trong triển lãm hàng không... ... thì đâm xuống mặt sông. Máy bay bị vỡ tan khi tiếp nước. Đội cứu hộ tiếp cận hiện trường vụ tai nạn. Xem video: http-~~-//www.youtube.com/watch?v=_ilbhB8JkV4&feature=player_embedded An BìnhTheo AP
-
Theo cái nhìn của tôi thì. a/ Danh từ " Lang " là một từ Việt tối cổ, có nhiều ý nghĩa: 1 - Người đàn ông, con trai / " Con gái (Âm) gọi là " Mỵ ", con trai (Dương) gọi là " Lang". Danh từ " Ma mỵ" thường dùng trong ngôn ngữ Việt miêu tả một hiện trạng cực Âm. 2 - Lang/ lan (lan tỏa). Khoai lang là một loại thực vật có sự phát triển lan tỏa. Đồng âm với Lang/ lan Điều này phù hợp với " a /1 " : Âm co, Dương duỗi (Lan tỏa) 3 - Quan Lang/ Người đứng đầu tối cao của một địa phương. b/ Danh từ " Văn " là văn hóa. Quốc hiệu Văn Lang chính là sự xác định những giá trị văn hóa tỏa sáng và phổ biến. Đây chính là danh xưng văn hiến của cội nguồn văn minh Việt tộc, đến nay trải gần 5000 năm lịch sử. ==================================== PS: Cách giải thích này không phủ hợp với tư duy cho rằng " Ông cha ta ở trần đóng khố ". Tất nhiên họ sẽ không thừa nhận luận điểm của tôi.Và đó là chuyện của họ.
-
Nhờ Phạm Hùng đánh dấu vị trí Nhà Trắng - nơi làm việc của Tống Thống Hoa Kỳ ngay trên bản đồ này - bằng màu xanh, để phân biệt với nhà Quốc Hội Hoa Kỳ. Tôi để ý gần đây rất nhiều Cty lớn và cả cơ quan khi xây dựng trụ sở thường đặt núi trước cửa. Điều này chứng tỏ có một - hoặc nhóm cùng quan niệm - đã thiết kế Phong thủy như vậy. Hầu hết các Cty đó đều làm ăn thất bại. Điển hình là Vinashin. Hiện Vinashin đã bỏ hòn núi trước trụ sở và cái mỏ neo đen. Cách đây vài năm, tôi ra Đà Nẵng, cùng đi với một số anh chị em, được biết vị trí tượng trăm trứng là công trình trấn yểm bão của phong thủy gia Tàu - Người ta đồn vậy. Tôi phát biểu: Nếu năm nay bão đành vào Đà Nẵng thì sẽ đánh vào đúng chỗ này để biết người Tàu trần giỏi như thế nào? Năm ấy một con tàu 6000 tấn bị bão đánh bay lên bờ cách tượng đài 300m. Bởi vậy, các phong thủy gia Tàu cũng chưa phải ai cũng giỏi lắm đâu.
-
"Mất bò mới lo làm chuồng" - Trung Quốc khống chế 90% số gói thầu. Thứ sáu, 17/06/2011, 02:24(GMT+7) Thủ tướng Chính phủ đã chỉ thị phải rà soát và siết lại công tác quản lý đối với hoạt động đấu thầu. Theo đó, các gói thầu mà doanh nghiệp trong nước đảm nhận được trên 50% thì không đấu thầu quốc tế nữa, mà chỉ đấu thầu rộng rãi trong nước. Ống dẫn nước nhà máy thủy điện Đạm Bol bằng nhựa Trung Quốc bị vỡ gây chểt người. Do nguồn vốn vay thương mại và ODA là của Trung Quốc, nên đối với rất nhiều gói thầu, chỉ nhà thầu của nước họ mới được tham gia. Phần lớn là các dự án năng lượng, luyện kim, hóa chất trị giá hàng trăm nghìn tỷ đồng đang bị các nhà thầu Trung Quốc khống chế và trì hoãn thực hiện. Tình trạng này không chỉ gây ra sự mất cân đối ngày càng lớn trong cán cân thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc mà còn làm tăng sự lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Khoảng 90% các gói thầu xây lắp thực hiện theo phương thức chìa khóa trao tay đã thuộc về các công ty Trung Quốc! Nhà thầu Trung Quốc áp đảo Tại một hội thảo diễn ra vào đầu tháng 6-2011, Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam cho biết, đến 90% các gói thầu xây lắp thực hiện theo phương thức EPC đã thuộc về các công ty Trung Quốc. Còn theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, gần một nửa trong tổng số 248.000 tỉ đồng giá trị các gói thầu xây lắp bằng vốn nhà nước và vay của nước ngoài trong năm 2010, do công ty Trung Quốc thực hiện. Điều thực sự gây lo lắng ở đây không chỉ là sự mất cân đối ngày càng lớn trong cán cân thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc mà còn ở sự lệ thuộc ngày càng lớn vào các nhà cung cấp thiết bị của Trung Quốc. Thực trạng nêu trên cũng không phải là mới. Năm 2009, ông Tạ Văn Hường, Vụ trưởng Vụ Năng lượng thuộc Bộ Công Thương, đã cảnh báo về tình trạng đến 80% dự án nhiệt điện than do Trung Quốc làm tổng thầu hoặc giữ vai trò chính trong liên danh. Đồng thời, Việt Nam cũng đã phải gánh chịu cái giá không nhỏ bởi chất lượng kém của các công trình xây lắp do doanh nghiệp Trung Quốc làm tổng thầu gây ra. Nhưng vì sao tình trạng này vẫn chưa được cải thiện, thậm chí còn nặng nề hơn, khi nhà thầu Trung Quốc lại tiếp tục được giao những dự án nhiệt điện rất lớn khác, bất kể sự chậm trễ và những sự cố liên quan đến chất lượng thiết bị ở những nhà máy điện trước đó. Những nguyên nhân thiếu thuyết phục Những tham luận trình bày ở hội thảo do Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam tổ chức vừa qua và trong các diễn đàn bàn về vấn đề tương tự trước đây, đại diện các cơ quan quản lý nhà nước, hội nghề nghiệp đã phân tích và cho rằng nguyên nhân của sự thắng thế của các nhà thầu Trung Quốc ở Việt Nam là do họ chào giá quá thấp. Trong khi đó, Luật Đấu thầu lại không cho phép chủ đầu tư đưa ra sự khống chế về xuất xứ thiết bị, công nghệ khi xét thầu, mà chỉ có thể đưa ra các điều kiện về hiệu quả, chất lượng công trình. Ngoài ra, nhiều dự án được đầu tư bằng nguồn vốn vay thương mại và ODA của Trung Quốc, nên chỉ nhà thầu của nước này mới được tham gia. Tuy nhiên việc lý giải rằng các công ty Trung Quốc thắng thầu vì họ chào giá thấp là không thuyết phục. Với những dự án lớn về năng lượng, luyện kim... giá cả không thể xếp trên những yếu tố về chất lượng, tính ổn định trong vận hành và mức độ lệ thuộc vào một nhà cung cấp. Việc quyết định thực hiện một dự án không thể chỉ dựa vào mỗi một tiêu chí là chi phí đầu tư ban đầu mà hiệu quả vận hành mới là yếu tố quan trọng nhất. Ngoài ra, giá cả của công ty Trung Quốc chào chưa hẳn đã rẻ, mà các dự án nhiệt điện than là ví dụ. Tập đoàn Khí Đông Phương được trúng thầu dự án nhiệt điện Duyên Hải 1 công suất 1.245 MW, do tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) làm chủ đầu tư, với giá 1,4 tỉ đô la Mỹ. Trong khi đó, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (Lilama) nhận thầu dự án nhiệt điện Vũng Áng 1 công suất 1.200 MW của tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) chỉ với giá 1,17 tỉ đô la Mỹ. Gần đây, PVN lại giao cho Lilama một dự án 1.200 MW nữa với giá 1,2 tỉ đô la Mỹ. Nhà máy này sử dụng toàn bộ thiết bị, công nghệ của Nhật Bản, Mỹ. Còn công ty Trung Quốc thì nhận được dự án Duyên Hải 3, cũng với công suất 1.200 MW nhưng giá thầu là 1,3 tỉ đô la Mỹ và lắp đặt thiết bị của Trung Quốc. Luật Đấu thầu của Việt Nam tuy còn khiếm khuyết, nhưng đó cũng không thể là nguyên nhân giải thích cho sự thắng thế của các nhà thầu Trung Quốc. Nếu nói là tại luật, thì vì sao trong ba doanh nghiệp nhà nước đang đầu tư lớn vào nhiệt điện, gồm PVN, EVN và tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV), chỉ những dự án do EVN và TKV làm chủ đầu tư, nhà thầu Trung Quốc mới thắng thế, còn các dự án của PVN thì nhà thầu trong nước chi phối hết? Riêng với TKV, hầu hết các dự án lớn của tập đoàn này, gồm sáu nhà máy nhiệt điện và các dự án luyện kim như đồng Sin Quyền, bauxite ở Tây Nguyên đều do các công ty của Trung Quốc đảm nhận. Liên quan đến nguồn vốn, lẽ đương nhiên nước nào cấp vốn cho Việt Nam thì doanh nghiệp nước đó được độc quyền đấu thầu. Nhưng đã bao giờ chúng ta tự hỏi, vì sao các nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Pháp… chủ yếu cung cấp ODA cho các chương trình phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội của Việt Nam. Còn Trung Quốc hầu như chỉ tập trung vào các dự án công nghiệp, nhất là công nghiệp năng lượng và những ngành khai thác tài nguyên trong nước. Rủi ro khó lường Sau khi thắng thầu, các tổng thầu Trung Quốc mang sang Việt Nam từ những thiết bị lớn cho đến những con bù lon, ốc vít. Thậm chí, như ở dự án phân đạm Cà Mau, đến thiết bị làm vệ sinh và công nhân dọn dẹp vệ sinh cũng được mang từ Trung Quốc sang. Vấn đề các công ty Trung Quốc chiếm lĩnh hầu hết các gói thầu xây lắp lớn đã được mổ xẻ nhiều trong ba năm qua. Điều khiến các chuyên gia kinh tế lo ngại nhất là khả năng bị phụ thuộc vào các nhà cung cấp vật tư, thiết bị thay thế của nước này. Điều gì sẽ xảy ra nếu các nhà máy nhiệt điện dùng thiết bị của Trung Quốc bị hư hỏng, nhưng không được cung cấp phụ tùng kịp thời để thay thế, nhất là trong thời điểm căng thẳng về cung - cầu điện? Hơn nữa, chuyện hư hỏng đối với thiết bị Trung Quốc lại xảy ra khá thường xuyên. Mùa khô năm ngoái, Việt Nam rơi vào tình trạng thiếu điện nghiêm trọng, mà nguyên nhân chính là do các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than bị hư hỏng và tiến độ xây dựng chậm. Liệu chúng ta có thể đạt được mục tiêu hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả đầu tư với những thiết bị và công nghệ rẻ tiền nhập từ Trung Quốc hay không? Ngoài ra, tình trạng các gói thầu xây lắp lớn rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc còn góp phần làm cho tình trạng nhập siêu thêm trầm trọng. Các nhà thầu cho biết, ở các công trình xây lắp do các công ty Nhật Bản, châu Âu… làm tổng thầu, các doanh nghiệp trong nước thường được giao đảm nhận những công việc phụ, với giá trị có thể lên đến 30% tổng giá trị hợp đồng. Nhưng với tổng thầu Trung Quốc thì khác hẳn. Họ mang sang Việt Nam từ những thiết bị lớn cho đến những con bù lon, ốc vít. Thậm chí, ở dự án phân đạm Cà Mau, đến thiết bị làm vệ sinh và công nhân dọn dẹp vệ sinh họ cũng mang từ Trung Quốc sang. Tháng trước, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ thị phải rà soát và siết lại công tác quản lý đối với hoạt động đấu thầu. Theo đó, các gói thầu mà doanh nghiệp trong nước đảm nhận được trên 50% thì không đấu thầu quốc tế nữa, mà chỉ đấu thầu rộng rãi trong nước. Trong trường hợp thiết bị công nghệ trong nước không sản xuất được, thì chủ đầu tư có thể tách riêng để tổ chức đấu thầu quốc tế. Đây là một quyết định kịp thời và nếu thực hiện nghiêm túc, nó sẽ mang lại nhiều hy vọng cho các nhà thầu trong nước và được kỳ vọng sẽ giải quyết vấn đề nhập siêu với Trung Quốc. Tin đăng lại Nguồn tin: Thesaigontimes
-
Anh Quocdata đưa lại bài viết. Không xem được vì lỗi. Chúng tôi sẽ xóa bài này trong 4 giờ nữa. Chúng tôi sẽ tìm bài gốc để đưa lên.
-
LỜI TIÊN TRI Trước 2011 Đại ý: Hoa Kỳ sẽ rút quân khỏi Afghanixtan vào năm 2011 ================================================ Mỹ “đàm phán hòa bình với Taliban” Thứ Bẩy, 18/06/2011 - 17:50 (Dân trí) - Mỹ đang tham gia các cuộc đàm phán với Taliban, Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai cho hay. Đây là lời xác nhận cấp cao đầu tiên về sự tham gia của Mỹ trong các cuộc đàm phán như vậy nhằm chấm dứt cuộc chiến kéo dài cả thập niên. Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai. Ông Karzai cho hay “quân đội nước ngoài và đặc biệt là Mỹ” đã tham gia các cuộc đàm phán hòa bình với Taliban. Hồi đầu tháng này, Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates cũng nói có thể sẽ diễn ra các cuộc đàm phán chính trị với Taliban vào cuối năm nay. Mỹ dự kiến sẽ bắt đầu rút 97.000 quân khỏi Afghanistan vào tháng 7 tới. Washington muốn dần chuyển giao tất cả các chiến dịch an ninh cho lực lượng Afghanistan đến năm 2014. “Trong năm nay, đã diễn ra các cuộc đàm phán hòa bình với Taliban và các quan chức của chúng ta”, ông Karzai nói trong một cuộc họp báo ở Kabul. “Các cuộc đàm phán hòa bình với họ đã bắt đầu và đang tiến triển tốt. Các quân đội nước ngoài, đặc biệt là Mỹ, cũng đang tham gia các cuộc đàm phán này”. Ông Karzai không nói rõ liệu các cuộc đàm phán giữa Taliban và Mỹ diễn ra trực tiếp hay qua trung gian. Ngay sau tuyên bố của ông, các tay súng đã tấn công một đồn cảnh sát gần Bộ Tài chính ở thủ đô Afghanistan. Lập trường chính thức của Taliban là các lực lượng quốc tế phải rời khỏi Afghanistan trước khi nhóm này tham gia các cuộc đàm phán hòa bình, và khi đó chỉ đàm phán với chính phủ Afghanistan. Các nhà ngoại giao trước đó đã nói về các cuộc đàm phán sơ bộ đang được tổ chức bởi cả hai bên về cuộc xung đột đang tiếp diễn. Taliban đã lãnh đạo Afghanistan trước khi bị Mỹ và liên quân lật đổ khỏi vị trí quyền lực năm 2001. Nhóm này đã che chở cho al-Qaeda và thủ lĩnh của mạng lưới khủng bố này, Osama bin Laden. An Bình Theo BBC
-
Trung Quốc: mâu thuẫn xã hội bùng nổ Thứ Ba, 14/06/2011, 08:26 (GMT+7) TT - Những mâu thuẫn xã hội gay gắt đã dẫn tới hàng loạt cuộc biểu tình bạo động và những vụ đánh bom nhắm vào cơ quan công quyền tại Trung Quốc trong thời gian qua. Cảnh sát và người dân đối đầu trong vụ biểu tình ở Lichuan ngày 9-6 - Ảnh: AFP Thời báo Hoàn Cầu ngày 13-6 đưa tin hai ngày trước, hơn 1.000 người lao động nhập cư từ tỉnh Tứ Xuyên đã đổ ra đường phố thị trấn Tân Đường, tỉnh Quảng Châu để đập phá cửa sổ, đốt các tòa nhà công quyền, ném chai lọ, gạch đá vào cảnh sát và lật xe cảnh sát. Lực lượng cảnh sát chống bạo động đã bắn hơi cay và điều xe bọc thép để trấn áp đám đông biểu tình. Tổng cộng 25 người đã bị bắt giữ, hàng chục chiếc xe cảnh sát bị đốt cháy. “Nhiều người chạy trên đường phố như điên khùng, tôi phải đóng cửa hàng từ 19g và không dám bước ra đường” - báo South China Morning Post dẫn lời một chủ cửa hàng trong khu vực xảy ra bạo động. Theo South China Morning Post, vụ việc bắt đầu từ tối 10-6 khi cảnh sát Tân Đường đi dẹp hàng rong trên phố. Một cặp vợ chồng bán hàng rong người Tứ Xuyên đã cãi cọ dữ dội với cảnh sát và người vợ mang thai bị đẩy ngã. Vụ việc khiến cộng đồng người lao động nhập cư từ Tứ Xuyên bức xúc, từ sáng 11-6 cả ngàn người đã bao vây đồn cảnh sát Tân Đường để phản đối và bạo lực bùng phát. Cuối tuần trước, hơn 1.500 người dân thành phố Lichuan, tỉnh Hồ Bắc đã đụng độ dữ dội với cảnh sát sau vụ một ủy viên hội đồng nhân dân địa phương bị chết trong đồn cảnh sát. Thời báo Hoàn Cầu cho biết người này bị bắt vì tội nhận hối lộ từ nhà thầu xây dựng, nhưng người dân địa phương lại cho biết trước đó ông đã vận động người dân chống lại việc chính quyền địa phương thu hồi một diện tích đất đai lớn trong thành phố. Nhà chức trách đã phải bắt giữ hai công tố viên địa phương có liên quan đến cái chết của nạn nhân. Cảnh sát phải điều xe bọc thép đến tuần tra ở Lichuan để giữ gìn an ninh. Nhân Dân Nhật Báo đưa tin ngày 6-6 ở Triều Châu, Quảng Đông, khoảng 200 công nhân nhập cư cũng từ Tứ Xuyên đã đụng độ với cảnh sát địa phương và đập phá xe cộ. Ít nhất 40 chiếc xe đã bị đập nát. Vụ việc xảy ra sau khi một công nhân nhập cư làm việc tại một nhà máy đồ gốm địa phương bị ông chủ đâm do cãi cọ về chuyện lương bổng. Cha của nạn nhân cũng bị đánh trọng thương. Cộng đồng công nhân nhập cư đã nổi giận, đòi chính quyền địa phương phải trừng phạt kẻ thủ ác và bạo lực xảy ra. Tháng trước, ở khu tự trị Nội Mông, hàng trăm người gốc Nội Mông bản địa đã đổ ra đường biểu tình phản đối vụ xe tải một mỏ than đâm chết một người chăn nuôi gia súc địa phương. Người dân Nội Mông cũng bức xúc với việc ngành khai thác than do người Hán kiểm soát đã hủy hoại sinh thái và môi trường sống ở Nội Mông, cũng như đe dọa tới truyền thống sinh hoạt du mục của người bản xứ. Trong ba tuần vừa qua cũng xảy ra liên tiếp ba vụ đánh bom ở Trung Quốc. Theo Tân Hoa xã, hôm 10-6 một người đàn ông “muốn trả thù xã hội” đã cho nổ bom bên ngoài tòa nhà chính quyền địa phương ở thành phố cảng Thiên Tân, làm ít nhất hai người bị thương. Người này mang theo tới 20 quả bom tự tạo và ném bốn quả vào tòa nhà chính quyền huyện Hexi. Không rõ bao nhiêu quả bom đã nổ. Một ngày trước đó, một cảnh sát đã thiệt mạng và hai người khác bị thương trong vụ nổ ở đồn cảnh sát thị trấn Hoàng Thạch, tỉnh Hồ Nam. Toàn bộ đồn cảnh sát bị phá hủy. Chính quyền địa phương cho biết nguyên nhân vụ nổ là do tai nạn, xuất phát từ chất nổ chứa trong đồn. Tuy nhiên, một số nguồn tin khẳng định đây là vụ tấn công báo thù cảnh sát tham nhũng. Hai tuần trước đó, một người đàn ông 52 tuổi cho nổ ba quả bom ở trước tòa nhà hành chính thành phố Phúc Châu, tỉnh Giang Tây. Hung thủ, bị chết trong vụ nổ, đã bày tỏ sự tuyệt vọng trên Internet về việc không thể đòi bồi thường vì bị thu hồi đất đai. Những vụ bạo động và đánh bom này đang làm lộ rõ sự bất ổn đáng báo động trong xã hội Trung Quốc vốn xuất phát từ những bức xúc xã hội liên quan đến tình trạng bất bình đẳng, khoảng cách giàu nghèo và nạn tham nhũng, đặc biệt là từ việc thu hồi đất đai. Tân Hoa xã cho biết ý thức sâu sắc trước nguy cơ này, mới đây Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã lên tiếng cảnh báo về những “mâu thuẫn xã hội sâu sắc” tại nước này. Ông yêu cầu chính quyền cần có những nỗ lực khẩn cấp và lâu dài để giải quyết các vấn đề liên quan đến “hệ thống hành chính, luật pháp và cách thức điều hành đất nước”. HIẾU TRUNG ================================================= Trong " Lời tiên tri 2011 " , một thành viên của diễn đàn đã dự báo: " Trong năm nay sẽ xuất hiện một cuộc đàn áp đẫm máu của chính quyền Trung Quốc với dân chúng " . Sự việc có vẻ đang từ từ chứng nghiệm. Nhận xét thực trạng và ý tưởng là một chuyện. Để có ý tưởng này không cần đến cấp Chủ tịch một quốc gia. Có điều là chỉ có Chủ tịch một quốc gia mới dám thẳng thừng như vậy. Nhưng yếu tố căn bản là phương pháp nào để thực hiện thì thật là khó khăn lắm thay!
-
LỜI TIÊN TRI 2011 Đại ý: Sau tháng Ba Việt lịch, các cuộc xung đột, bất ổn ở trung tâm các đại lục địa giảm dần, nhưng lại nẩy sinh ở nơi khác. Nằm trên trục Tây Bắc Đông Nam so với Trung tâm ..... ============================================ Sudan: xung đột lại bùng nổ vì dầu hỏaThứ Bảy, 18/06/2011, 07:32 (GMT+7) TT - Các lực lượng của Tổng thống Sudan Omar el-Bechir tuyên bố sẽ chiến đấu “bằng mọi phương tiện” chống lại lực lượng của Nam Sudan, bất chấp việc Liên Hiệp Quốc kêu gọi hai bên ngừng bắn để tránh gây thêm những thiệt hại cho dân thường, AFP ngày 17-6 cho biết. Trước đó, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon bày tỏ lo ngại về tình hình an ninh tại vùng Nam Kordofan của Sudan, kể từ khi giao tranh bùng nổ từ ngày 5-6. Ông kêu gọi các bên chấm dứt các hành vi xung đột vũ lực và tạo điều kiện cho lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tại Sudan và các tổ chức nhân đạo được phép đi vào khu vực này. Theo Liên Hiệp Quốc, khoảng 60.000 người dân đã phải chạy lánh nạn do lo ngại bạo lực. Căng thẳng giữa Bắc và Nam Sudan bùng nổ chỉ vài tuần trước khi nền độc lập của Nam Sudan dự kiến có hiệu lực vào ngày 9-7 sau cuộc trưng cầu ý dân vào tháng 1-2011, theo đó đa số dân Nam Sudan đòi tách khỏi Sudan. Dư luận đang lo ngại các cuộc giao tranh có nguy cơ bùng lên thành một cuộc chiến tranh trên quy mô lớn kể từ sau thỏa thuận hòa bình đã được hai miền ký kết vào năm 2005. Các nhà bình luận cho rằng nguyên nhân của cuộc xung đột này không phải là do nền độc lập của Nam Sudan mà là do dầu hỏa. 75-80% sản lượng dầu hỏa của Sudan là từ những giếng dầu ở Nam Sudan và nguồn tài nguyên này chiếm đến 56% ngân sách của Bắc Sudan vào năm 2009. Từ sau thỏa thuận hòa bình năm 2005, nguồn thu từ dầu hỏa được chia đều giữa Khartoum (Bắc Sudan) và Juba (Nam Sudan). Do vậy, việc mất nguồn thu này sẽ đe dọa nghiêm trọng ngân sách của Bắc Sudan. KHÔI NGUYÊN
-
Việt Nam và Hoa Kỳ cùng kêu gọi hòa bình ở Biển Đông Cập nhật lúc 18/06/2011 11:27:12 AM (GMT+7) Trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Bắc Kinh và các nước láng giềng về chủ quyền hàng hải, Mỹ và Việt Nam đã cùng nhau kêu gọi tự do hàng hải và bác bỏ sử dụng vũ lực ở Biển Đông. Các hãng thông tấn quốc tế đưa tin, sau cuộc hội đàm tại Washington, hai bên đã khẳng định “duy trì hòa bình, ổn định, an toàn và tự do hàng hải ở Biển Đông là lợi ích chung của cộng đồng quốc tế”. Hai bên nhấn mạnh: "Toàn bộ tranh chấp ở Biển Đông nên được giải quyết thông qua một tiến trình ngoại giao hợp tác, không ép buộc hay sử dụng vũ lực”. Tại Washington, cuộc Đối thoại về chính trị-an ninh-quốc phòng Việt-Mỹ lần thứ tư đã khai mạc tối qua, 17/6 (giờ Việt Nam). Đoàn Việt Nam gồm một số quan chức thuộc Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an do Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh làm trưởng đoàn. Đoàn Mỹ gồm quan chức của Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và một số bộ ngành khác do ông Andrew J. Shapiro, Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách các Vấn đề Chính trị và Quân sự, dẫn đầu. Đối thoại về Chính trị-an ninh-quốc phòng Mỹ - Việt Nam lần thứ tư tại Washington. Ảnh: TTXVN Tuyên bố sau cuộc hội đàm này có đoạn: "Phía Mỹ lần nữa khẳng định rằng, những sự việc gây phiền hà trong vài tháng gần đây không thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực”. Gần đây, đã xảy ra nhiều vụ việc liên quan tới hành động của các tàu Trung Quốc ở khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam cũng như Philippines. Ngày 26/5 và 9/6, các tàu Trung Quốc đã cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam tại khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông. Manila cũng cáo buộc trong năm nay, Trung Quốc đã nhiều lần xâm nhập vùng biển mà Philippines tuyên bố chủ quyền. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tại một diễn đàn khu vực hồi tháng 7 năm ngoái đã khẳng định rằng, Mỹ có một lợi ích quốc gia quan trọng trong tự do hàng hải ở Biển Đông. Thời gian này, Trung Quốc đã ngày càng gia tăng các hành động gây hấn trong tranh cãi chủ quyền Biển Đông – vùng biển giàu tài nguyên dầu khí và là nơi cả Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippines tuyên bố chủ quyền với một phần hay toàn thể. Giữa lúc căng thẳng, Trung Quốc hôm thứ Ba nói rằng sẽ không sử dụng vũ lực tại Biển Đông và thúc giục các nước khác “làm nhiều hơn nữa vì hòa bình và ổn định khu vực”. Tuy nhiên, hôm qua, báo chí Trung Quốc đã đưa tin về việc nước này tiến hành các cuộc tập trận quân sự kéo dài ba ngày ở Biển Đông. Theo tờ Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc, 14 tàu hải quân nước này gần đây đã tiến hành tập trận ở vùng biển gần đảo Hải Nam bao gồm cả hoạt động diễn tập chống tàu ngầm và đổ bộ vào bờ biển. Báo này cho hay, các cuộc tập trận ở Biển Đông nhằm mục tiêu “phòng thủ các đảo và bảo vệ những tuyến đường biển”. Còn Nhân dân nhật báo nói rằng, ngoài các tàu tuần tra, còn có tàu đổ bộ và tàu săn ngầm, cùng máy bay quân sự. Trước đó một ngày, báo Ta Kung Pao của Hong Kong đưa tin, Trung Quốc đã điều động tàu Hải Tuần 31, nặng 3.000 tấn với bãi đáp trực thăng, với sứ mệnh kiểm tra các tàu nước ngoài và những cơ sở dầu khí tới khu vực tranh chấp ở Biển Đông. Trong tuyên bố sau Đối thoại về chính trị-an ninh-quốc phòng, Việt Nam và Mỹ cùng thể hiện sự ủng hộ các cuộc hội đàm theo khuôn khổ một thỏa thuận năm 2002 giữa Trung Quốc và 10 nước ASEAN (Tuyên bố DOC). Ở thỏa thuận này, hai bên cam kết cùng làm việc cho bộ quy tắc hành xử về Biển Đông. Trung Quốc và ASEAN trong 9 năm qua đã không có nhiều tiến triển để đạt được bộ quy tắc trên. Theo các nhà ngoại giao, Trung Quốc thích đàm phán song phương với từng nước kiểu như “chia để trị”. Cũng trong tuần này, Thượng nghị sĩ Mỹ Jim Webb đã nhiều lần lên tiếng về vấn đề chủ quyền ở Biển Đông. Ông khẳng định, Mỹ cần lên án việc Trung Quốc sử dụng vũ lực và thúc đẩy các cuộc đàm phán đa phương để giải quyết tranh chấp lãnh thổ ở vùng biển này. Ông Webb và Thượng nghị sĩ James Inhofe đã đệ trình lên Thượng viện Mỹ nghị quyết lên án các hành động của Trung Quốc. Nghị quyết ủng hộ việc tiếp tục các hoạt động của lực lượng Mỹ nhằm bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông và thúc giục Mỹ tạo điều kiện cho một tiến trình đa phương để giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Trước đó, ngày 10/6, trang web của văn phòng Thượng nghị sỹ Webb đã đăng tải thông cáo báo chí nêu rõ: “Các quan chức ở bộ ngoại giao và Bộ chỉ huy Thái Bình Dương cho biết, vào ngày 9/6, ba tàu an ninh hàng hải của Trung Quốc đã lao vào và làm hỏng cáp của một tàu thăm dò Việt Nam, tàu Viking 2, trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam. Hành động này diễn ra tiếp theo các vụ việc tương tự ngày 26/3 ở gần Việt Nam và trong tháng 3 ở gần Philippines, cũng như các vụ việc trên biển vào năm ngoái tại quần đảo Senkaku dưới sự quản lý của Nhật Bản”. Thông cáo nhấn mạnh: “Kiểu đe dọa của Trung Quốc gây quan ngại sâu sắc. Mỹ có lợi ích chiến lược rõ ràng trong việc tạo điều kiện cho việc tiếp cận đa phương, hòa bình hướng tới giải quyết các tranh chấp và đảm bảo sự tiếp cận cởi mở cho thương mại cũng như tôn trọng luật pháp quốc tế”. Nười phát ngôn bộ Ngoại giao Mỹ Mark Toner cũng tuyên bố. "Chúng tôi lo lắng bởi những báo cáo gần đây về tình hình Biển Đông và tin tưởng rằng, nó chỉ làm gia tăng căng thẳng, không góp phần cho hòa bình và an ninh khu vực. Chúng tôi ủng hộ một tiến trình hợp tác ngoại giao…và kêu gọi tất cả các bên tuyên bố chủ quyền, cả trên đất liền và trên biển, tuân thủ luật pháp quốc tế”. Thái An
-
Thiên tai tăng nặng.......... =========================================== Bão lớn tàn phá miền đông Ấn Độ Thanhnien Online 18/06/2011 0:42 Hôm qua, ít nhất 10 người chết và 33 tàu cá mất tích trong đợt bão mạnh đang hoành hành tại bang West Bengal, miền đông Ấn Độ. AFP dẫn thông tin từ cảnh sát cho hay trong số những người thiệt mạng có 4 người bị đất chuồi chôn vùi ở vùng Kurseong và 4 người khác chết đuối sau khi thuyền của họ bị chìm ở sông Hoogly. Thủ phủ Kolkata của bang West Bengal chìm trong làn nước và điện bị cắt ở nhiều nơi. Ngoài ra, AFP dẫn lời đại diện của hiệp hội ngư dân địa phương cho hay 33 tàu cá mất tích tại vịnh Bengal và trên mỗi tàu có ít nhất 16 người. Cùng ngày, giới chức Trung Quốc cho hay đã sơ tán hơn 1 triệu người ở miền nam từ khi khu vực này hứng đợt lũ lụt lớn, bắt đầu hôm 9.6. Đến nay thiên tai đã khiến ít nhất 168 người thiệt mạng và chính quyền đang chuẩn bị sơ tán thêm khoảng 500.000 người nữa, theo BBC. Lê Loan
-
Bằng chứng lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa Tác giả: Nguyễn Quang Ngọc Bài đã được xuất bản.: 1 giờ trước Cuốn sách xưa nhất và ghi chép khá đầy đủ và cụ thể về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải là Phủ biên tạp lục của nhà bác học Lê Quý Đôn viết vào năm 1776. Việt Nam có bờ biển dài, với vùng biển rộng. Biển và đảo suốt tiến trình lịch sử luôn luôn giữ vị trí trọng yếu trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Từ thời kỳ tiền sử cho đến ngày nay, con người ở các vùng nội địa Việt Nam liên tục tiến ra chiếm lĩnh, khai phá, sinh cơ lập nghiệp trên các đảo, quần đảo. Bắt đầu từ các thời Lý - Trần - Lê, Biển Đông đã trở thành chiến lược phát triển của quốc gia Đại Việt. Con đường mở mang bờ cõi xuống phía nam của dân tộc Việt Nam cũng đồng thời là con đường tiến ra chiếm lĩnh biển, đảo. Đây chính là cơ sở hết sức quan trọng, một bước chuẩn bị thiết yếu để trong bối cảnh lịch sử mới, các chính quyền Đàng Trong đã thực hiện được kỳ tích tuyệt vời là xác lập và thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa. 1. TỔ CHỨC CÁC ĐỘI HOÀNG SA VÀ BẮC HẢI, HÌNH THỨC ĐỘC ĐÁO DUY NHẤT CỦA QUÁ TRÌNH XÁC LẬP VÀ THỰC THI CHỦ QUYỀN TRÊN CÁC VÙNG QUẦN ĐẢO NGOÀI BIỂN ĐÔNG TRONG CÁC THẾ KỶ XVII-XVIII Cuốn sách xưa nhất và ghi chép khá đầy đủ và cụ thể về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải là Phủ biên tạp lụccủa nhà bác học Lê Quý Đôn viết vào năm 1776. Sách chép: "Phủ Quảng Ngãi ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù Lao Ré...; phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải vật và những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi 3 ngày 3 đêm thì mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải.... Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đây tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tàu, như là gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về... Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản... Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hoá nói rằng: năm Kiền Long thứ 18 (1753) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Liềm (Cát Vàng?) huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam ngày tháng 7 đến Vạn Lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu (Nguyễn Phúc Khoát?) sai cai bạ Thuận Hoá là Thức Lượng hầu làm thư trả lời" [1]. Như vậy, thông qua một hệ thống các tư liệu gốc, khách quan, xác thực và có giá trị sử liệu cao, Lê Quý Đôn đã giớí thiệu tương đối đầy đủ vị trí, đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của hai đội Hoàng Sa, Bắc Hải. Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) là bộ chính sử do Quốc sử viện thời Lê Trịnh biên soạn, trong đó đoạn ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa trên căn bản không khác ghi chép của Lê Quý Đôn. Ý nghĩa củaĐại Việt sử ký tục biên chính là nó đã biến ghi chép khoa học, khách quan của Lê Quý Đôn thành một nội dung của bộ Quốc sử, chuyển tinh thần cơ bản của bản chép tay của Lê Quý Đôn thành bản khắc in chính thức trên danh nghĩa quốc gia. Đại Nam thực lục Tiền biên là phần đầu bộ chính sử của triều Nguyễn được khởi soạn năm 1821, hoàn thành và khắc in năm 1844, có đoạn mô tả Vạn Lý Trường Sa và các đội Hoàng Sa, Bắc Hải không khácPhủ Biên tạp lục và Đại Việt sử ký tục biên. Toản tập An Nam lộ của Đỗ Bá Công Đạo soạn năm 1686, phần bản đồ phủ Thăng Hoa và phủ Quảng Ngãi phía ngoài biển có vẽ Bãi Cát Vàng và ghi chú rõ mỗi năm đến tháng cuối đông Chúa Nguyễn đưa 18 chiếc thuyền đến đó nhặt vàng bạc. Khoảng một thập kỷ sau, vị Hoà thượng Trung Quốc Thích Đại Sán sau khi sang Đàng Trong, trên đường trở về nước đã mô tả khá chi tiết về bãi cát Vạn Lý Trường Sa và cho biết: "các Quốc vương [Chúa Nguyễn] thời trước hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc theo các bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào"[2]. Thật ra từ thế kỷ XVI trở về trước, các nhà hằng hải phương Tây đã có nhiều ghi chép và bản đồ xác định vùng quần đảo giữa Biển Đông là Baixos de Chapar (Bãi đá ngầm Chămpa) hay Pulo Capaa (Đảo của Chămpa)[3] và đoạn bờ biển tương đương với khu vực từ cửa biển Đại Chiêm (Quảng Nam) đến cửa biển Sa Kỳ (Quảng Ngãi) được gọi là Costa da Pracel (Bờ biển Hoàng Sa)[4]. Như thế từ rất lâu đời các nhà hằng hải phương Tây đã coi các quần đảo giữa Biển Đông có quan hệ hữu cơ với vùng bờ biển Đàng Trong. Bước sang thế kỷ XVII, số lượng tầu thuyền của người phương Tây đi đến vùng biển này thường xuyên hơn và nhận thức của họ về các quần đảo giữa Biển Đông cũng phong phú và chính xác hơn. Nhiều tư liệu chép đến các vụ đắm tầu ở Paracel được người Đàng Trong ra tận nơi cứu hộ rồi đưa các nạn nhân về Quảng Nam. Chính quyền Đàng Trong đã dành cho mình quyền giải quyết hậu quả và xử lý các hàng hoá tiền bạc trên các tầu bị đắm ở Hoàng Sa. Chính vì thế mà vào năm 1701, các giáo sĩ người Pháp trên tầu Amphitrite khẳng định: "Paracel là một quần đảo thuộc về vương quốc An Nam"[5]. Như thế các tư liệu đương đại của cả Việt Nam, Trung Quốc và phương Tây thế kỷ XVII đều chép rất cụ thể, rõ ràng và thống nhất về sự hiện diện của đội Hoàng Sa. Tuy nhiên cũng cần phải xác định rõ trong thế kỷ XVII, đội Hoàng Sa được đề cập đến sớm nhất vào thời điểm nào và trong nguồn sử liệu nào? Sử sách nhà Nguyễn đều chép thống nhất đội Hoàng Sa được tổ chức ngay từ thuở quốc sơ,tức là từ thời các Chúa Nguyễn đầu tiên. Tuy nhiên sách cũng không xác định rõ là Nguyễn Hoàng hay Nguyễn Phúc Nguyên hoặc Nguyễn Phúc Lan...? Tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh (thôn Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) còn giữ được tờ đơn đề ngày 15/Giêng/1775, do Hà Liễu là Cai hợp phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh đứng tên xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa. Đơn cho biết: "Nguyên xã chúng tôi xưa có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương. Vào năm Tân Mùi (1631), Đốc chiến là Võ Hệ đã đệ đơn xin tâu được lập hai đội nữa là đội Đại Mạo Hải Ba và đội Quế Hương Hàm với số đinh 30 người...". Tư liệu cho phép suy đoán lúc đầu chúa Nguyễn chỉ cho tổ chức một đội Hoàng Sa 70 suất, sau lập thêm đội Quế Hương và đến năm 1631 lại có thêm hai đội Đại Mạo Hải Ba và Quế Hương Hàm 30 suất nữa.Năm 1636, nguời Hà Lan đã đuợc phép mở một thuơng điếm ở Hội An, dưới quyền điều hành của Abraham Duijcker. Ngày 6-3, tại Hội An chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan đã tiếp Duijcker và nhân đó, Duijcker khiếu nại việc "chiếc tàu mang tên Grootenbroeck bị đắm ở ngoài khơi bãi cát Paracels, đoàn thuỷ thủ đã được các người Việt xứ Đàng Trong cứu giúp, nhưng đồng thời cũng lấy đi tổng số tiền là 25.580 réaux". Ông có nhiệm vụ xin được bồi hoàn số tiền đó. Chúa Nguyễn Phúc Lan cho rằng "những việc đó đã được xảy ra từ thời chúa trước (tức chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên), không nên đề cập đến nữa, ngược lại, người Hà Lan từ nay sẽ được hoàn toàn tự do mang hàng hoá đến buôn bán, được miễn thuế, vả lại, sau này nếu có tàu Hà Lan bị đắm ở ngoài khơi thì sẽ không có chuyện tịch thu hàng hoá được cứu hộ nữa". Phải chăng những người Việt cứu giúp tầu Grootenbroeck bị đắm ở Hoàng Sa nói trên chính là người của đội Hoàng Sa, và như vậy càng có cơ sở để khẳng định đội Hoàng Sa chí ít đã xuất hiện từ đầu những năm 30 của thế kỷ XVII, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635). Bước sang thế kỷ XVIII, hoạt động chủ quyền của chúa Nguyễn ở các vùng quần đảo giữa biển Đông càng trở nên nhộn nhịp thu hút sự chú ý nhiều người trong nước và nước ngoài. Tư liệu về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, bên cạnh các tài liệu chính thức của nhà nước, của các địa phương còn có những ghi chép của các thương nhân, giáo sĩ, các nhà quân sự, các phái bộ ngoại giao nước ngoài và các học giả trong ngoài và nước. Cũng đúng vào năm 1776 khi Lê Quý Đôn viết sách Phủ biên tạp lục khảo tả rất cụ thể về vị trí, đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của đội Hoàng Sa, thì ở quê hương của đội Hoàng Sa, dân phường Cù Lao Ré làm đơn nói rõ đội Hoàng Sa đã có lịch sử lâu đời và bên cạnh chức năng thu lượm hoá vật, hải vật còn có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ an toàn vùng biển đảo: "Nguyên xã chúng tôi từ xưa đã có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương... Bây giờ chúng tôi lập hai đội Hoàng Sa và Quế Hương như cũ gồm dân ngoại tịch, được bao nhiêu xin làm sổ sách dâng nạp, vượt thuyền ra các đảo, cù lao ngoài biển tìm nhặt các vật hạng đồng thiếc, hải ba, đồi mồi được bao nhiêu dâng nạp. Nếu như có tờ truyền báo xảy ra chinh chiến, chúng tôi xin vững lòng ứng chiến với kẻ xâm phạm. Xong việc rồi chúng tôi lại xin tờ sai ra tìm báu vật cùng thuế quan đem phụng nạp..."[6]. Không chỉ thống nhất với các nguồn tư liệu chính thức của Nhà nước mà nguồn tư liệu này còn gắn liền với các di tích và truyền thuyết ở địa phương như miếu Hoàng Sa, những bến bãi đội Hoàng Sa xuất phát, thậm chí cả những ngôi mộ giả, những nghĩa địa giả với những nghi lễ hết sức đặc biệt của làng quê đưa tiễn những người con quả cảm của mình đi làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa, nguyện dấn thân vào cõi chết vì một vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc: "Hoàng Sa đi có về không; Lệnh vua sai phái quyết lòng ra đi". Nguồn: Báo Giác Ngộ 2. TRIỂN KHAI HÀNG LOẠT CÁC HÌNH THỨC THỰC THI CHỦ QUYỀN Ở CẢ HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TRONG GẦN TRỌN THẾ KỶ XIX Dưới thời Nguyễn, những ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa phong phú, đa dạng với nhiều thông tin cụ thể trên cả hai khu vực tài liệu chính thức của vương triều và tài liệu của các học giả.Bộ sách đồ sộ và có nhiều thông tin hơn cả về Hoàng Sa, Trường Sa là bộ Đại Nam thực lục Chính biên. Trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long đã nhiều lần quan tâm đến việc kiểm tra, kiểm soát Hoàng Sa được sách ghi lại như: "sai mộ dân ngoại tịch lập làm đôi Hoàng Sa" năm 1803; "sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển" năm 1815 và năm 1816; nhận địa đồ đảo Hoàng Sa từ thuyền Mã Cao năm 1817... Nhưng hoạt động thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đã phát triển lên trình độ cao hơn dưới thời trị vì của vua Minh Mệnh. Năm 1833, ông lập kế hoạch phái người ra Hoàng Sa dựng miếu, lập bia và trồng cây. Các năm 1834, 1835, ông cho người ra dựng miếu, đền thờ thần, lập bia đá và xây bình phong ở khu vực toà miếu cổ. Năm 1836, ông quyết định hàng năm phái người ra Hoàng Sa xem xét, đo vẽ tỉ mỉ và lập thành bản đồ các đảo, hòn, bãi cát. Khi ra đo đạc ngoài Hoàng Sa đội thuỷ quân Phạm Hữu Nhật đã mang theo 10 bài gỗ, trên mặt khắc dòng chữ "Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, thuỷ quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ". Liên tục từ năm 1834 đến năm 1839 vua Minh Mệnh thưởng công cho những người đi vẽ bản đồ ở ngoài đảo Hoàng Sa về. Đối với những người không may gặp gió bão ngoài biển mà bảo toàn tính mạng trở về cũng có thưởng; còn những người không hoàn thành nhiệm vụ tuần phòng ngoài biển thì bị phạt nặng...Bên cạnh Đại Nam thực lục Chính biên, dưới thời Minh Mệnh, Quốc sử quán còn được giao nhiệm vụ biên soan bộ Minh Mệnh chính yếu, trong đó quyển 25 có chép nhiều vụ tầu đắm ở ngoài Biển Đông, trôi dạt vào bờ đã được cứu giúp chu đáo. Chẳng hạn vào năm 1836 thuyền buôn nước Anh gặp gió bão ở Hoàng Sa, tạm ghé vào hải phận tỉnh Bình Định, đã được nhà vua "sai quan tỉnh tuyên cáo chỉ dụ của triều đình cho họ nghe, đồng thời mở cuộc phát chẩn...". Điều này không chỉ nói lên lòng nhân đạo cao cả của người Việt, mà quan trọng hơn chính là nghĩa vụ, trách nhiệm cứu hộ trên biển của Nhà nước và cư dân Việt Nam với tư cách là chủ nhân của vùng biển đảo này.Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là bộ sách do triều thần nhà Nguyễn vâng mệnh vua ghi chép những việc làm của triều đình thuộc lục bộ về điển chương, pháp luật.... được hoàn thành trong khoảng thời gian từ năm 1843 đến năm 1851. Trong sách có đoạn chép về việc lập miếu, dựng bia, trồng cây ở Hoàng Sa và khảo sát, đo vẽ bản đồ toàn bộ khu vực, về cơ bản không khác so với Đại Nam thực lục Chính biên. Quốc triều chính biên toát yếu là bộ sử trích các phần quan yếu của Đại Nam thực lục Chính biên, trong đó quyển III có các đoạn chép về việc xây miếu và dựng bia, đo vẽ bản đồ và việc cứu hộ tầu Anh bị mắc cạn ghé vào bãi biển Bình Định. Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú là bộ bách khoa thư lớn nhất của thế kỷ XIX, được hoàn thành vào năm 1821 có phần Dư địa chí chép về bãi Hoàng Sa và đội Hoàng Sa cũng giống như Phủ biên tạp lục. Việt sử cương giám khảo lược là bộ sách địa lý lịch sử của Nguyễn Thông chép về Vạn Lý Trường Sa ngoài những đặc điểm địa lý, tự nhiên và dấu tích của người Việt Nam trên đảo Hoàng Sa, ông còn nói khá cụ thể về đội Hoàng Sa như việc tuyển đinh tráng các xã An Vĩnh, An Hải, thời gian tồn tại của đội Hoàng Sa... Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán thời Tự Đức biên soạn từ năm 1865 đến năm 1882. Hoàng Sa, Trường Sa được giới thiệu trong quyển 8 (tỉnh Quảng Ngãi) phỏng theo Phủ biên tạp lục và những tư liệu tập hợp được trong Đại Nam thực lục. Riêng đoạn cuối sách cung cấp thêm: "Năm Minh Mệnh thứ 16, sai thuyền công chở gạch đá đến đây xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào được lá đồng và gang sắt có đến hơn 2000 cân".Nhiều công trình chuyên khảo hay những ghi chép khách quan của các quan chức, học giả đương thời khác cũng cung cấp thêm những thông tin có giá trị. Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bảng cũng chép "đảo Hoàng Sa (ở giữa bể, thuộc huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi), dài rộng vài nghìn dặm). "Bài thơ Vọng kiến Vạn Lý Trường Sa của Lý Văn Phức có một đoạn chú dài viết khá cụ thể về khu vực biển đảo mà chính tác giả suýt mắc nạn. Theo nguồn tài liệu này thì ngay từ đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đã từng thuê các thuỷ thủ dày dạn kinh nghiệm và các phương tiện kỹ thuật hiện đại của phương Tây trực tiếp dẫn dắt một số con thuyền vượt Biển Đông. Điều này cũng góp phần giải thích bản đồ khu vực biển đảo của Việt Nam tuy vẫn giữ phong cách vẽ truyền thống, nhưng đã sớm cập nhật những thông tin mới và độ chính xác cao của bản đồ hằng hải các nước phương Tây đương đại. Cũng thuộc nguồn tài liệu thư tịch và có giá trị cao để khẳng định quá trình các Nhà nước Việt Nam dưới thời Nguyễn thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa là các Châu bản triều Nguyễn. Qua nghiên cứu khảo sát 144 tập của hai triều Minh Mệnh và Thiệu Trị, chúng tôi tìm ra được một số tư liệu là bằng chứng rõ ràng về quá trình thực thi chủ quyền của các nhà nước phong kiến Việt Nam ở hai quần đảo này như bản dụ của vua Minh Mệnh (13/7/1835 và 13/7/1837) về các đoàn đi công vụ ở Hoàng Sa; các bản tấu của Thủ ngự Đà Nẵng về việc thuyền của Pháp mắc cạn ở Hoàng Sa (21/6/1830); các bản tấu của Bộ Công về việc phạt những người đi Hoàng Sa không lập xong bản đồ (13/7/1837), về việc phái đoàn công vụ lên đường ra Hoàng Sa nhưng do gặp gió lớn mà không xuất phát được... Đặc biệt có tờ tấu của Bộ Công (21/6 /1838) cho biết đoàn khảo sát Hoàng sa trở về báo cáo đã đến được 25 đảo (trong 3 sở), còn 1 sở hơi xa lại gặp gió lớn nên chưa tới được... Dưới thời Nguyễn bên cạnh việc triển khai đo vẽ thực tế ở Hoàng Sa, Trường Sa là việc nhà nước cho hoàn thành nhiều bộ bản đồ quan trọng, trong đó tiêu biểu nhất là Đại Nam nhất thống toàn đồ hoàn thành trong khoảng từ năm 1838 đến năm 1840 dưới thời vua Minh Mệnh. Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong bản đồ được vẽ chung thành một cụm hình lưỡi dao kéo dài gồm khoảng ba chục đảo lớn, trong đó Hoàng Sa ở phía cực bắc được nối liền với Vạn Lý Trường Sa (tức Trường Sa) ở phía nam trong một chuỗi các đảo chưa có dấu hiệu phân tách. Thật ra vào năm 1830 cũng đã xuất hiện tấm Bản đồ vẽ theo phong cách này, nhưng đang còn ở dạng bản thảo và sau này thời Thiệu Trị có Đại Nam toàn đồ, dưới thời Tự Đức có Đại Nam nhất thống toàn đồ (Nam Bắc kỳ hội đồ) là sự tiếp nối của phong cách vẽ bản đồ hiện đại.Xuất hiện trước và sau Đại Nam nhất thống toàn đồ có khá nhiều bản đồ khác vẽ Hoàng Sa, Trường Sa vẫn theo phương pháp tryền thống như Nam Việt bản đồ, Thiên tải nhàn đàm, An Nam dư địa chí, Khải đồng thuyết ước, Nam Việt địa dư trích lục, Nam Việt địa đồ cựu lục... Các bản đồ này tuy không cung cấp thông tin mới, nhưng lại xác nhận một thực tế là suốt trong thế kỷ XIX, Hoàng Sa, Trường Sa đã được đưa vào sách giáo khoa dạy cho học sinh hay dùng làm sách phổ biến kiến thức để mọi người dân Việt Nam ghi nhớ phần lãnh thổ không thể tách rời của nước Việt Nam thống nhất. Ngay từ khi mới bắt đầu thiết lập Vương triều, Nguyễn Ánh tiếp tục công cuộc thám sát và phòng thủ biển nhằm củng cố chính quyền. Một người Pháp trở thành một đại thần trong triều là Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) trong khi làm quan ở Huế xác nhận: "Xứ Đàng Trong mà Quốc vương ngày nay mang danh hiệu Hoàng đế bao gồm xứ Nam Hà theo đúng nghĩa của nó, xứ Bắc Hà, một phần vương quốc của Cao Miên, một vài đảo có người ở không xa bờ biển và quần đảo Hoàng Sa, gồm có những đảo nhỏ, bãi đá ngầm và mỏm đá không người ở. Chỉ đến năm 1816 thì nhà vua hiện nay mới chiếm hữu được quần đảo này". Các tác giả phương Tây lúc đó, trong các tác phẩm của mình, cũng đều công nhận chủ quyền pháp lý của các vua nhà Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa. Giám mục Jean Louis Taberd người Pháp, người nhiều năm truyền giáo ở Đàng Trong cho rằng: "Quần đảo Pracel... Vào năm 1816, nhà vua đã tới long trọng cắm lá cờ của mình và đã chính thức giữ chủ quyền ở các bãi đá này, mà chắc là sẽ không có một ai sẽ tìm cách tranh giành với ông ta". Ông còn cho xuất bản cuốn Từ điển La Tinh An Nam và kèm theo tấm bản đồ An Nam đại quốc hoạ đồ, trong đó ở khoảng vĩ tuyến 170 bắc và kinh tuyến 1100 đông, bản đồ có vẽ một cụm các đảo nhỏ với dòng chữ ghi chú: Paracel Seu Cát Vàng.Tiến sĩ Gutzlaff, hội viên của Hội địa lý Hoàng gia Luân Đôn, biên soạn cuốn sách Geography of the Cochinchinese Empire cho biết: "Chính phủ An Nam nhận thấy lợi ích có thể đem lại được nếu như dựng lên một ngạch quan thuế và đã duy trì những thuyền đánh thuế và một đội quân nhỏ đồn trú ở tại chỗ để thu thuế đối với tất cả những ai đến đó, và để bảo vệ những dân chài của nước họ". Năm 1850, M. A Dubois de Jancigny, cựu đại uý, phái viên của Chính phủ Pháp ở Trung Quốc và Đông Dương đã viết sách nói rõ: "Chúng tôi chỉ muốn nhận xét rằng đã từ 34 năm nay, (tức là từ 1816 đến 1850), quần đảo Paracels (mà những người An Nam gọi là Cát Vàng), thật là một chốn mê cung chằng chịt những hòn đảo nhỏ, đá ngầm và bãi cát thật sự đã làm những người đi biển kinh hãi và chỉ có thể kể đến trong số những địa điểm hoang vu cằn cỗi nhất của địa cầu, quần đảo do đã bị các người xứ Đàng Trong chiếm giữ. Chúng tôi không rõ họ đã có đặt một cơ sở nào không (có thể với mục đích là bảo vệ công việc đánh cá), nhưng chắc chắn rằng nhà vua Gia Long đã chủ tâm đính thêm đoá hoa độc nhất vô nhị đó vào chiếc vương miện của ông, bởi vì ông đã xét thấy cần thiết phải đi tới việc đích thân chiếm giữ lấy quần đảo đó, và chính vì thế mà năm 1816 ông đã long trọng kéo lá cờ xứ Đàng Trong lên mảnh đất đó". Trong những thập kỷ cuối thế kỷ XIX, khi Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, triều đình Tự Đức không còn đủ sức chống lại đã lần lượt để mất chủ quyền về tay Thực dân Pháp, trong đó có cả chủ quyền các vùng biển đảo. Tuy nhiên vùng đất máu thịt của tổ tông vẫn là niềm thôi thúc các thế hệ con dân đất Việt đấu tranh đến cùng để giành lại chủ quyền bằng mọi giá. Tư liệu về nguồn gốc, chức năng và hoạt động của các đội Hoàng Sa và Bắc Hải (trong đó đặc biệt là đội Hoàng Sa) càng ngày càng được tập hợp phong phú hơn, đa dạng hơn. Chúng ta không chỉ biết về các đội Hoàng Sa Bắc Hải trong chủ trương thành lập và chỉ đạo hoạt động của các chúa Nguyễn, của vương triều Tây Sơn và các vua nhà Nguyễn, mà còn biết khá cụ thể các chủ trương ấy đã được chính quyền và nhân dân các địa phương tự giác chấp hành và thực hiện một cách đầy đủ và hết sức nghiêm chỉnh. Đây không chỉ dừng lại ở những văn bản chính thức của Nhà nước và những hoạt động phong phú đa dạng ở các địa phương, mà còn được tập hợp trong những ghi chép của các học giả, các nhà chức trách Việt Nam, các thương nhân và giáo sĩ phương Tây, thậm chí đến cả nhà sư Trung Quốc đương đại, những người đã thông qua quan sát trực tiếp hay khảo cứu công phu từ những văn bản gốc về hoạt động của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải mà ghi chép lại một cách khách quan, trung thực. Tất nhiên các đội Hoàng Sa và Bắc Hải với chức năng chủ yếu là bảo vệ và khai thác các vùng quần đảo xa giữa Biển Đông, cũng có lúc thiên về công việc khai thác, cũng có lúc thiên về công việc bảo vệ, nhưng dù là thiên về chức năng nào thì cũng không thể thay thế được các đội Thuỷ quân. Vì thế trong lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, có những lúc hoạt động của đội Hoàng Sa rất nổi bật, nhưng cũng có những lúc bị lu mờ, thậm chí có khi bị ghép chung vào công việc của đôi Thuỷ quân. Chúng ta từng biết có triều đình đã từng quyết định bãi bỏ đội Hoàng Sa và chuyển công việc của đội Hoàng Sa cho đội Thuỷ quân, nhưng ngay sau đó họ lại phải tính chuyện tái lập trở lại... Các đội Hoàng Sa, Bắc Hải dù hoạt động độc lập hay phụ thuộc vào đội Thuỷ quân, thậm chí có là hoạt động dưới danh nghĩa của đội Thuỷ quân đi nữa, thì cứ vẫn là một tổ chức độc đáo của các Nhà nước Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII, XIX trong chủ trương khẳng định chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa mà không có bất cứ một quốc gia nào trong khu vực có được. Đến giữa thế kỷ XIX trước cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, mặc dù dân các đảo Lý Sơn, Phú Quý, các xã An Vĩnh, An Hải, Bình An... vẫn tiếp tục đi ra Hoàng Sa, Trường Sa thu lượm hoá vật, hải sản dâng nộp cho triều đình Huế - nghĩa là vẫn thực hiện một chức năng của đội Hoàng Sa, Bắc Hải xưa, nhưng chức năng bảo vệ biển đảo đã chuyển hẳn cho các đội Thủy quân. Đến khi triều đình Huế thất thủ, không còn khả năng tổ chức lại quân đội, củng cố các đội Thuỷ quân để bảo vệ trực tiếp kinh thành Huế, thì đương nhiên họ cũng không còn khả năng khôi phục hoạt động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải nữa. Sự chấm dứt hoạt động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải tuyệt nhiên không phải là do Nhà nước phong kiến Việt Nam từ bỏ chủ quyền của mình trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông. Tư liệu cho biết các Nhà nước Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa dưới các hình thức và biện pháp khác nhau như vãng thám kiểm tra kiểm soát, khai thác các hoá vật và hải sản, tổ chức thu thuế và cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát, đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền, dựng bài gỗ lưu dấu để ghi nhớ, trồng cây để cho người qua lại dễ nhận biết... Lực lượng ra làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa không chỉ có các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, các đội Thuỷ quân, biền binh, vệ giám thành mà cả binh đinh, dân phu. Mỗi chuyến đi ra Hoàng Sa Trường Sa đều phải có quyết định của Nhà nước dưới hình thức "tờ sai để thi hành công vụ" và nhiều khi chính nhà vua trực tiếp chỉ đạo việc quyết định cho thuyền ra khơi hay tạm dừng lại. Sau khi kết thúc công việc họ phải chạy thuyền thẳng về Kinh đô để báo cáo tình hình, khai nộp hoá vật, hải vật. Nhà vua thông qua Bộ Công để kiểm tra, đánh giá và tuỳ mức độ đóng góp hay vi phạm mà luận công hay định tội, thưởng phạt công minh. Những người hoàn thành nhiệm vụ đều được Nhà nước cấp bằng xác nhận. Công việc ở Hoàng Sa và Trường Sa là vô cùng gian nan nguy hiểm, nhiều trường hợp có đi mà không có về. Thậm chí có khi người ta phải làm lễ truy điệu sống, làm đám tang trước để an ủi người đi. Ý thức được đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm với quê hương đất nước, nhiều người thản nhiên đi vào cái chết, tự giác coi đó là lẽ sống của chính mình. Trang lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa được viết bằng máu, được đánh đổi bằng cả cuộc đời của lớp lớp những con người như thế. Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những trang đẹp nhất, bi hùng nhất của lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta, mà bất cứ người Việt Nam chân chính nào cũng cần phải biết trân trọng và gìn giữ, không chỉ cho hôm nay, mà còn cho muôn đời sau. ----------- [1] Lê Quý Đôn: Toàn tập (Phủ Biên tạp lục), T.1, Bản dịch Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr 116. [2] Thích Đại Sán: Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế tr.125. [3] Bản đồ Thế giới của Mercator xuất bản tại Amsterdam (Hà Lan) 1606, in lại trong cuốn Asia in Maps from Ancient time to the Mid-19th Century, Lepzig, 1989. [4] Bản đồ Bartholomeu Lasso vẽ năm 1590 và 1592-1594, in trong cuốn sách Les Portugains sur les côtes du Vietnam et du Cămpa của P.Y.Manguin, Paris, 1972; Bản đồ Van Langren 1598, in trong cuốnIconographie Historique de l'Indochine của P.Boudet và A.Masson, Paris, 1931. [5] Jean.Yves Clayes: Journal de Voyage aux Paracels (Indochine No 45, 1941, tr.7). [6] Đơn của phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh ngày 15 tháng Giêng năm 1776 (lưu tại nhà thờ họ Võ thôn Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi). Theo Tạp chí Xưa và nay
-
Mức độ khắc nghiệt của Định mệnh sẽ tùy thuộc vào con đường mà hạm đội này quay trở về...... Chúng ta chờ xem.