Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Đúng là tại tôi cũng "dân liêu bao cấp". Tôi chỉ xem lướt và thừa nhận 50 nhập trung là đúng. Chứ không phải tất cả đền số 5 - thí dụ: 25, 35, 45....đều nhập trung. Vì hiện nay có hai phương pháp tính Kim Lâu mà tôi biết: 1/ Phương pháp thứ nhất khởi 10 ở Kim Lâu Thân cứ thế tính mỗi 10 tuổi tại một cung . dừng ở cung nào thì đếm tuổi lẻ 1 ở cung kết tiếp cho đến tuổi cất nhà. 2/ Tương tự như vậy , nhưng chỉ ở tuối dưới 40 . Khi đến 50 nhập trung và sau đó tính tiếp như trên. Hai phương pháp này có kết quả khác nhau khi tính tuổi người cất nhà trên 50. Trên cơ sở lý luận của VinhL, tôi xác định phương pháp II - 50 nhập trung là đúng và chưa xác định cứ có số 5 là nhập trung. Để tôi suy nghĩ đã. Mặc dù xác định phương pháp của VinhL có tính quy luật rất cao và anh chị em nên luôn nhớ rằng: Tính quy luật là một trong những tiêu chí xác định một lý thuyết khoa học
  2. Oh! Thế thì ai trả lời cho kết quả mới nhất này - khi tôi chưa trả lời? Trong bài viết không có trả lời, mà chỉ có tác giả đưa luận điểm của mình phần Bách Việt mà không hề có một luận cứ nào gọi là cho có?! Nội họ đặt cái tựa cũng thấy "dở hơi".
  3. ====================== Các quí vị chính khứa của những cường quốc có quyền lợi cốt lõi và quyền lợi căn bản trên biển Đông , hãy lắng nghe thảo dân Thiên Sứ bàn đây: Các quí vị hãy long trong công nhận Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, mọi chuyện sẽ ổn cả. Quí vị hãy nghĩ kỹ xem tôi nói có phải không? Phải thì làm liền cho đỡ phải họp hành lôi thôi, tốn tiền thuế của nhân dân. Tiền họp đó để đi nhậu. Nghe nói bia tươi nấu kiểu Đức cũng ngon lắm! Còn các quý vị nào muốn khai thác nguồn tài nguyên ở biển Đông thì cứ bỏ tiền ra đấu thầu. Rẻ mà! Còn hơn là bỏ tiền ra mua vũ khí dộng vào đầu nhau để bảo vệ cái cốt lõi và cái căn bản.
  4. Đại ý: Xuất hiện những vũ khí làm thay đổi nghệ thuật chiến tranh.... ============================== Tàu ngầm Anh 'hạ gục' tàu ngầm Mỹ Cập nhật lúc :7:45 AM, 19/03/2012 Các quan chức Nhà trắng đã thực sự "choáng" trước khả năng khủng khiếp mà tàu ngầm Anh thể hiện trong một cuộc chiến mô phỏng. (ĐVO) Hải quân Mỹ đã thực sự cảm thấy "choáng váng" khi chứng kiến hiệu suất hoạt động của tàu ngầm HMS Astute S119 của Hải quân Anh trong suốt quá trình thử nghiệm trên biển Đại Tây Dương trong thời gian gần đây, sỹ quan chỉ huy của con tàu, ông Ian Breckenridge cho biết. Ông Breckenridge 45 tuổi, người đã dẫn dắt tàu ngầm HMS Astute qua thời gian hơn 4 tháng thử nghiệm ở bờ biển ngoài khơi phía Đông nước Mỹ cho biết, tàu ngầm này đã chứng minh được "khả năng khủng khiếp" của nó. "Chúng tôi đã được chứng kiến khả năng của con tàu, nó tốt hơn so với bất kỳ tàu ngầm nào khác mà tôi từng được biết", ông Breckenridge, người mà trước đó từng phục vụ trên hai tàu ngầm khác của Hải quân Anh là HMS Superb và HMS Tireless nói. Trong suốt thời gian thử nghiệm trên biển, tàu ngầm HMS Astute đã tham gia một cuộc chiến mô phỏng với tàu ngầm USS New Mexico, thuộc tàu ngầm tấn công tối tân lớp Virginia của Hải quân Mỹ. Tàu ngầm Astute đã di chuyển quãng đường biển dài 16.400 dặm và thực hiện các bài lặn ở vùng nước sâu, tham gia bắn các tên lửa Tomahawk và ngư lôi Spearfish. Trước màn thể hiện này, Astute từng gặp một loạt trục trặc như bị mắc cạn ngay trong lần ra khơi thử nghiệm đầu tiên ở gần đảo Skye, phía Tây Scotland (>> chi tiết), khi trở về căn cứ nó đã bị hư hỏng do một tàu kéo va phải. Ngoài ra, hệ thống hỗ trợ của tàu ngầm cũng gặp phải một sự cố trong tháng 2/2011. Siêu tàu ngầm nguyên tử HMS Astute S119 của Hải quân Anh. "Astute vẫn trong giai đoạn thử nghiệm và nó là tàu ngầm hạt nhân đầu tiên của lớp tàu Astute, con tàu luôn gây cho chúng tôi nhiều vấn đề, nhưng chúng tôi đang bắt đầu lạc quan hơn về những vấn đề đó, tôi hứa là như vậy", Chỉ huy Breckenridge nói. "Chúng tôi đã bắn 4 tên lửa Tomahak, nhắm vào mục tiêu là một khu vực nhỏ thuộc căn cứ không quân Eglin của Mỹ để kiểm tra độ chính xác, và đã bắn 6 quả ngư lôi Spearfish, đây là một loạt bắn đầu tiên của một tàu ngầm Anh trong 15 năm qua", viên chỉ huy tàu ngầm nói. "Sonar trên tàu ngầm của chúng tôi là một "tuyệt tác" và tôi chưa bao giờ trải qua một cảm giác tuyệt vời như khi "khóa" được mục tiêu của chúng tôi là tàu ngầm USS New Mexico. Người Mỹ đã hoàn toàn "sửng sốt", họ choáng váng với những gì đang xảy ra", ông Breckenridge kể lại. Tàu ngầm lớp Astute thứ hai, tàu HMS Ambush đã được hạ thủy trong năm 2011 và đang được chuẩn bị thử nghiệm trên biển vào cuối năm 2012. Hải quân Anh lên kế hoạch sẽ nhận tới 7 tàu ngầm lớp Astute. HMS Astute cùng với HMS Ambush là hai tàu ngầm nguyên tử hạt nhân thế hệ mới nhất của Hải quân Anh. Họ còn gọi các tàu ngầm lớp này là "siêu tàu ngầm" bởi mức giá chi phí đóng tàu cao "ngất ngưởng" 1 tỷ USD/một tàu, cũng như mức độ công nghệ tiên tiến và khả năng tấn công hủy diệt khủng khiếp của nó. Tàu HMS Astute được tuyên bố là tàu ngầm đầu tiên trên thế giới có khả năng tàng hình. Tàu mang được 38 ngư lôi hạng nặng 533 mm Spearfish với 6 ống phóng, các tên lửa hành trình tấn công mặt đất Tomahawk Block IV, và tên lửa chống hạm UGM-84 Harpoon. Tàu được trang bị sonar tầm phát hiện "siêu xa" tới 3.000 dặm (khoảng 4.800 km). Có lẽ chính khả năng tàng hình và sonar cực nhạy của nó đã làm cho tàu ngầm tối tân USS New Mexico của Hải quân Mỹ bị "khóa". >> Anh ra mắt tàu ngầm tấn công mạnh nhất Hải quân Hoàng gia >> Anh hạ thủy 'siêu tàu ngầm' chưa từng có của mình >> Siêu tàu ngầm hạt nhân Anh mắc cạn vì... quá hiện đại Phạm Thái (theo MP) ======================= Cách đây một hai năm, tôi có cho rằng: Tàu ngầm hạt nhân nên cho vào phục vụ du lịch biển. So với siêu tàu ngầm này thì tàu ngầm hạt nhân cổ lỗ nên cải tạo đưa vào phục vụ du lịch biển thật! Tôi cũng lưu ý các quốc gia nào hay sinh sự về biên giới, hải đảo rằng: Đây mới là những thứ vũ khí có thể đem khoe....Còn những thứ vũ khí phải dấu biệt, thậm chí chưa một lần nối mạng để có thể biết được nó tồn tại trên đời thì có lẽ phải xem bói mới biết được. Xem bói là khoa học đấy!
  5. Vusonganh nhiệt tình thật. Tôi lên quẻ thấy rằng: Dù cho thiên tai năm nay mịt mùng hơn năm 2011 cho cả cái thế giới này. Nhưng riêng thành phố Đà Nẵng của Vusonganh vẫn yên bình. Bão không quá cấp 7. Quẻ tặng riêng cho vusonganh.
  6. Chẳng biết tác giả là ai? Cũng chẳng có nguồn. Chịu! Nhưng tôi nghĩ Thảo Châu chỉ có thể thêm mấy chữ: "Trả lời cho". Còn đoạn "Kết quả mới nhất..." là của tác giả.
  7. Giả dối là con đường tắt, lên nhanh xuống nhanh... Giả dối là con đường tắt, đi nhanh về cũng nhanh, nhưng cái kết không hậu, mà buồn tê tái ở chặng cuối cùng. Tôi có hai người bạn chí cốt. Cả ba chúng tôi đều học cùng lớp từ hồi phổ thông, đến bây giờ tuổi ngoài 60 vẫn chơi với nhau mặc dù hơn 40 năm, cuộc đời ba chúng tôi mỗi người mỗi con đường mưu sinh khác biệt. Hồi còn đi học cả ba đều thuộc lòng hai câu châm ngôn, và thường cùng nhau bàn luận. Một của Khổng tử, một của người Việt. Khổng tử nói, đại ý: "Thật thà quá dễ thành thô lỗ, khôn khéo quá dễ thành giả dối", dân gian Việt nói: "Thật thà là cha quỷ quái". Nhưng con đường đời đã dẫn chúng tôi theo ba ngả. Về tôi, không nói, để bạn đọc tìm hiểu. Còn hai người kia. Cũng xin không nói tên, chỉ gọi là M và X. Lên rất nhanh nhờ nói dối... X nổi tiếng là khôn khéo, đến mức trong trường ai cũng phải ngạc nhiên về điểm số học tập của bạn ấy mặc dù sức học vừa phải, thậm chí dưới trung bình. Song, bạn ấy rất được lòng các thầy cô và ban giám hiệu nhà trường. Bạn ấy còn là lớp trưởng, phó bí thư Đoàn. Còn M thì trái ngược, sức học rất khá, trong lớp đôi khi tranh luận bài vở với thầy. Có lần, tranh cãi về "bất bạo động" của Gandhi, M khiến cả lớp chúng tôi "mắt tròn mắt dẹt" còn thầy thì nổi cáu. Khi chiến tranh leo thang, chúng tôi học hết phổ thông vào trung cấp cơ khí, với phong trào vì miền Nam ruột thịt. Tôi và M tham gia đoàn bảo vệ các cung đường giao thông ở Vinh, Bến Thủy, Quảng Bình còn X được ra nước ngoài. Chiến tranh chưa kết thúc. Tôi và M được quay trở về, tiếp tục học. M thi vào ĐH Mỹ thuật. Kể từ năm 1985, là năm X về nước, tôi và M tốt nghiệp ĐH. Ba chúng tôi gặp lại nhau. Chúng tôi vẫn thân với nhau nhưng mỗi đứa một hoàn cảnh. M không có việc làm. X lên tới vụ phó một vụ chức năng ở một bộ. X bảo tôi, chung tiền "lo lót" trưởng phòng nhân sự để chạy chỗ làm cho M: Thời thế thế thời. Các cậu biết đấy, không "chạy" tớ không thể có ngày nay. "Chạy" cũng là bỏ vốn đầu tư, rồi sẽ thu lại! X bảo. Nhưng M không chịu. Anh bảo đó là sự giả dối đáng lên án nhất. Chọn con đường ấy là rất nhục. Thật tiếc cho anh, tiếc cho cả tờ báo mà X muốn gửi anh vào, vì anh là một họa sĩ có tài. Không chỉ vẽ tranh lớn mà các bức ký họa, minh họa, khả năng trình bày (desgined) của M là rất tuyệt... Giả dối là con đường tắt, đi nhanh về cũng nhanh, nhưng cái kết không hậu. Ảnh minh họa Cuộc sống tiếp tục thay đổi. X làm đến hiệu trưởng một trường lớn. Đi làm có xe hơi và lái xe công. Hai đứa con lớn lên trong sự bận bịu thăng tiến. Đứa nào đứa nấy rất sành điệu: Từ ăn mặc thời trang đến xe máy đời mới. Còn M vẫn là họa sĩ tự do. Không là người bán nhiều như dòng tranh thị trường nhưng tranh của anh "bức nào ra bức ấy", người ta đã mua là mua ở mức cao. Nhờ đó anh mua được mảnh đất ở ngoại thành và tự thiết kế một nhà vườn rất đẹp. Đó là nơi các văn nghệ sĩ trong và ngoài nước thường chọn làm địa điểm viếng thăm. Anh lấy vợ muộn, nhưng hai đứa con được học hành cẩn thận. Đi học chúng đi xe đạp. Nhưng sau đó đều tự kiếm được học bổng nước ngoài. Ấy là lúc chúng tôi chuẩn bị về hưu. Xuống rất nhanh vì... sự thật được phơi bầy X "chạy đủ các cửa" mong chuyển sang làm công tác Hội đoàn, nhưng trước đó bị đồng nghiệp tố cáo là dùng bằng giả. Thực tế X chưa tốt nghiệp ở nước ngoài, nên hạ cánh an toàn đã là một may mắn. Về chuyên môn X không biết làm gì, nên bây giờ chỉ ở nhà với lương hưu, cuộc sống khá chật vật vì tất cả những gì kiếm được, dù rất nhiều thời đương chức đều dành lo "chạy" và thăm nuôi đứa con trong trại giam và bù đắp cho đứa con gái bị chồng bỏ. M mỗi lần bán tranh lại rủ tôi đem tiền đến giúp X. Đấy là những lần tinh tế đầu tiên và duy nhất ở M, anh nói khéo để X không chạnh lòng khi nhận. Cả ba chúng tôi không còn bàn đến ý nghĩa sâu sắc của những câu châm ngôn trên nhưng trong lòng thì ai cũng hiểu. Giả dối là con đường tắt, đi nhanh về cũng nhanh, nhưng cái kết không hậu, mà buồn tê tái ở chặng cuối cùng. Ngày nay sự giả dối đạt đến độ tinh vi Ai cũng nói ghét giả dối thích chân thật. Ai cũng biết chân thật là uy lực, là sức mạnh, là tín nhiệm nhưng để giữ cho mình cuộc sống tuân theo các chuẩn mực của chân thật là điều chẳng... dễ dàng gì. Ai cũng thuộc truyện ngụ ngôn về thằng bé hai lần nói dối, hai lần giả vờ kêu bị sói cắn để mọi người chạy đến cứu. Lần bị sói cắn thật lại không ai đến cả vì không ai thích bị lừa như hai lần trước. Song, người đời vẫn chọn giả dối, vì giả không thể", "Tôi không biết", "Tôi không hiểu", "nếu", "có thể", "đôi khi", "không dối lọt tai hơn, có lợi hơn, dễ dàng hơn... Ngày nay sự giả dối đạt đến độ tinh vi. Vào bệnh viện người ta đọc thấy các khẩu hiệu dán từ cổng, hành lang đến cửa phòng khám: "Ở đây không nhận phong bì, ai đưa người đó phải tự chịu trách nhiệm". Nhưng thực tế, thì người bệnh không thể không đưa. Bệnh viện (bác sĩ y tá) đã tạo ra sự sợ hãi vô hình cho bệnh nhân: Không đưa sợ bị rủi ro, thờ ơ và lạnh nhạt... Cũng như thế với một số người vi phạm giao thông và người xử lý vi phạm: Đôi bên cùng chấp nhận dối trá để cùng có lợi. Cũng như thế với một số tội phạm, người chạy án và quan tòa. Cũng như thế với các khẩu hiệu ở học đường, ở trên các phố xá, trong các hội nghị, trong các bản báo cáo... Người ta "hô"nhiều, nói nhiều những điều đạo đức, những kế hoạch nhưng người ta không làm theo lời người ta "hô", người ta nói. Đó là sự giả dối không chỉ ở mức cá nhân nữa mà ở phạm vi cộng đồng. Cuối cùng là sự mất niềm tin xảy ra ở diện rộng. Trần Thị Trường (nhà văn) ============================= Nếu không vì chữ ký tác giả dưới bài viết thì tôi không đưa bài này lên đây để bình luận: Trần Thị Trường. Nhưng Trường ạ! Khi chê người ta thiếu đạo đức, giả dối - tôi không nói Trường - thì xã hội cần có một chuẩn mực đạo đức để so sánh. Thí dụ: Một người bị coi là giả dối thì phải có chuẩn mực thế nào là thật thà. Một sự sa đọa thì phải có chuẩn mực về tính nghiêm túc. Trường hợp của Trường đưa ra - nhân vật X - là trường hợp điển hình có tính hư cấu, mà ngày xưa chúng ta hay gọi là "Trường phái hiện thực tự nhiên" , hay "hiện thực xã hội chủ nghĩa" trong phương pháp tạo hình nhân vật. Nhưng xã hội chứ không phải văn chương. Giả thiết con ông X không ăn chơi để đi tù và con gái ông ta không bị chồng bỏ mà là những doanh nghiệp thành đạt thì câu chuyện sẽ như thế nào? Những vấn nạn hiện nay mà Trường đề cập lấy chuẩn mực gì để so sánh? Đạo đức truyền thống Đông phương cổ điển chăng? Hay lối sống phóng khoáng cá nhân của Tây phương? Trong xu thế hội nhập thì xã hội Phương Tây, những chuẩn mực của nó là kết quả của sự phát triển tự nhiên chịu tác động của luật pháp. Còn trong xã hội phương Đông thì do sức phát triển lấn át của kinh tế và khoa học kỹ thuật, thì nó có sự tranh chấp giữa hai chuẩn mực Đông Tây, trong đó chuẩn mực Tây phương theo cách hiểu của giới trẻ đang thắng thế. Những cậu ấm, cô chiêu hở hang, sộ hàng, sống thử..Thậm chí quay luôn cánh ân ái tung lên mạng, nhưng báo chí và truyền hình vẫn ca ngợi là "vượt qua chính mình" và tôn tạo như sao. Vậy so với thực tế này cái cô con gái bị chồng bỏ của ông X trong tác phẩm của Trường vẫn còn đáng trân trọng theo chuẩn mực Đông phương. Bởi vậy khi giải quyết một vấn nạn xã hội, không đơn giản chỉ là trung thực hay giả dối. Mà nó gồm nhiều yếu tố tương tác phức tạp Trường ạ! Thời trẻ con của chúng ta qua rồi! ================== PS: Có lẽ phải nói thêm thế này: Ông X hạ cánh an toàn . Vậy căn cứ vào đâu để bảo ông ta giả dối? Phải chăng ông ta bị coi là giả dối vì đã "nói thật" với những người bạn của mình về những suy nghĩ của ông ta? Còn người đời - như tôi chẳng hạn - chẳng có cơ sở nào để biết ông ta giả dối cả.
  8. Tôi có thói quen khi pots bài thường ghi rõ chủ đề ngay trong nội dung, ngoài việc ghi chủ để bắt buộc cho một chủ đề mới. Bởi vậy khi xem bài viết của Thảo Châu không xem kỹ chủ đề. Hôm nay xem lại thấy thật buồn cười. Cái chủ đề ghi như sau: Trả lời cho "Kết quả mới nhất thuyết phục nhất về cội nguồn phát tích của Việt Tộc" Bài viết thì nội dung ý trước không ăn nhập gì với ý sau; lập luận thì hoàn toàn áp đặt ý kiến chủ quan, không cần luận cứ hoặc chứng minh. Vậy mà rêu rao là thuyết phục nhất?!. Nội cách đặt tựa cho thấy bài viết của tác giả mang tính quảng cáo sản phẩm, hơn là một nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Ngày xưa khi tôi học vẽ, thày tôi nói: "Khả năng cảm thụ thẩm mỹ của các anh đến đâu thì các anh thể hiện trên tác phẩm đến đấy và luôn cho tác phẩm của mình là tuyệt tác. Theo kiểu 'Vợ người thì đẹp, văn minh thì hay'. Chỉ khi có những bậc thày chỉ ra sai lầm của mình thì mới thấy nó dở". Thực ra điều này không chỉ giới hạn trong nghệ thuật mà cả nghiên cứu khoa học. Trình độ tới đâu thì khả năng tư duy đến đó và cũng cứ tưởng mình là đúng. Trường hợp này là một thí dụ. Dở tệ, nhưng lại tự khen mình là đúng nhất?! So với các bài viết khác mà tôi xếp vào dạng tư duy "Ở trần đóng khố" thì bài này không thuộc đẳng cấp nào.
  9. Tai nạn tăng nặng...... ==================== Tai nạn giao thông nghiêm trọng tại Brazil 18/03/2012 17:00 (TNO) Cú đâm trực diện giữa xe buýt và xe tải trên một con đường tại bang Minas Gerais, thuộc đông nam Brazil, đã khiến ít nhất 15 người tử vong hôm 17.3. Hiện trường vụ tai nạn - Ảnh: Reuters Giới hữu trách cho hay tổng cộng có đến 54 người trên xe buýt, bao gồm cả tài xế vào lúc xảy ra vụ việc. Trực thăng đã chuyển các nạn nhân đến bệnh viện gần đó. Cảnh sát đang điều tra nguyên nhân gây tai nạn, nhưng theo lời nhân chứng, tài xế xe buýt đang cố gắng điều khiển xe vượt qua một chiếc xe hơi đi trước, khiến xe buýt đâm vào một chiếc xe tải chạy theo chiều ngược lại. Thụy Miên
  10. LỜI TIÊN TRI 2012: Đại ý: Khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng đến cuộc sống hạ tầng xã hội....... ============================================================= TƯ LIỆU THAM KHẢO Châu Âu đang quay về cảnh cơ hàn Cập nhật 16/03/2012 06:00:00 AM (GMT+7) Trong quá khứ, các nhà lãnh đạo châu Âu hiếm khi phải lo lắng về công việc nhàm chán là lôi kéo công luận. Nhưng thực tế giờ đây không còn như vậy nữa. Liên minh châu Âu là một công cụ để quản lý hòa bình các mâu thuẫn giữa các quốc gia để những thỏa hiệp vội vàng trong phòng họp tẻ nhạt ở Brussels thay thế cho những đụng độ trên chiến trường. Và tổ chức đã làm khá tốt việc này. Nhưng sự thỏa hiệp trong dự luật về đóng gói bao bì thực phẩm và luật về độ cong của quả dưa chuột không giống như thỏa hiệp về vấn đề bảo vệ biên giới, chính sách quốc phòng và thuế khóa. Anh đơn giản không chấp nhận mức thuế của Bỉ; Pháp sẽ không bao giờ từ chối những khoản trợ cấp nông nghiệp hào phóng của EU; và không nước nào sẽ sẵn sàng con em đi chiến trường vì những giá trị châu Âu nếu họ phản đối hành động quân sự - như Đức đã chứng minh bằng việc không tham gia vào cuộc chiến Libya. Garton Ash viết: "Bản sắc châu Âu vẫn là thứ bản sắc thứ yếu và nhạt nhẽo. Người châu Âu hiện nay không được kêu gọi hy sinh vì châu Âu. Hầu hết trong chúng ta đều thậm chí không được kêu gọi sống vì châu Âu". Đây là mấu chốt của vấn đề. Sẽ không quan trọng nếu EU vẫn là một khối thương mại tự do kiểu NAFTA như hồi trước những năm 1990. Nhưng khi một nước mất đi quyền phủ quyết đối với đạo luật mình phản đối và các quyết định được thực hiện dựa trên tỷ lệ biểu quyết đa số, nước đó đã đánh mất phần lớn quyền quyết định đối với cuộc sống của cộng đồng mình. Khi các nước cùng nhau tạo ra một đồng tiền chung với các luật lệ chung, họ cần tin tưởng mỗi bên sẽ đều tuân thủ nó. Và khi các nước trao quyền kiểm soát biên giới cho người khác, như châu Âu đã làm ở Schengen, họ cần có niềm tin rằng những nước khác cũng sẽ làm như thế. Điều đó cũng quan trọng đối với những người dân thường. Một người Anh nghèo trong một khu liên hợp nhà công cộng có quyền đặt câu hỏi tại sao mình lại phải đóng thuế để trợ cấp cho những nông dân Pháp giàu có. Và nếu một công nhân Đức về hưu chậm 5 năm so với người Hy Lạp, nghĩa là người Đức cũng có quyền được hỏi tại sao lại phải bỏ một phần thu nhập mồ hôi công sức của mình cho người Hy Lạp để họ chỉ phải làm việc ít hơn chứ. Quả thực, các thăm dò cho thấy hầu hết người Đức kịch liệt phản đối cứu trợ Hy Lạp, một thái độ được phản ánh rõ trên các tờ báo quốc gia. "Người Hy Lạp thậm chí còn muốn thêm nhiều tỷ tiền của chúng ta nữa", tựa đề một bài viết trên tờ báo bán chạy nhất năm 2010 Bild viết - và đây thậm chí còn là bài viết trước khi diễn ra làn sóng cứu trợ hàng loạt hồi năm ngoái. Vấn đề này ít nhiều liên quan đến cuộc khủng hoảng niềm tin. Người Hà Lan không tin tưởng người Bulgaria và Romania sẽ bảo vệ biên giới của họ, nên đã rút khỏi Hiệp định Schengen. Người Đức không tin người Hy Lạp tiêu xài tiền của mình một cách hợp lý, nên đã chỉ trao tiền nhỏ giọt. Người Ba Lan và Baltic không tin EU sẽ bảo vệ họ khỏi sự quyết liệt của phương Đông, nên họ cậy nhờ vào NATO và Mỹ. Và người Anh không tin người châu Âu có thể làm gì giỏi hơn họ, có lẽ ngoại trừ cách ăn mặc phong cách hơn và những món ăn có khẩu vị tốt hơn. Bên cạnh đó là cuộc khủng hoảng về tính hợp pháp. EU nắm trong tay những quyền năng đặc biệt, nhưng lại tiến hành nhiều hành động mà không tham khảo ý kiến người dân và không có những chiếc "van an toàn" cơ bản mà ai cũng nghĩ là đương nhiên phải có trong một nền dân chủ. Đơn cử, không ai hỏi người Đứ họ có muốn từ bỏ đồng mark Đức mà họ hằng quý trọng hay không. Chính phủ đã đưa ra quyết định ấy thay họ, với lý do rằng một đồng tiền chung sẽ được ràng buộc bằng những quy định nghiêm ngặt - điều sau đó đã gây bất đồng giữa Paris và Berlin - và rằng một liên minh tiền tệ sẽ không dẫn đến việc đem của cải của nước giàu chia cho nước nghèo - điều đã chứng tỏ hoàn toàn sai trong thời gian qua. Ở đa số các nền dân chủ, nếu bạn không thích một chính phủ, bạn có thể bỏ phiếu buộc họ giải tán. Nhưng trong cơ chế của EU, điều này đơn giản là không thể. Cả Ủy ban châu Âu và chủ tịch của Ủy ban - thứ gần nhất ở EU có thể gọi là cơ quan điều hành - đều không được bầu cử trực tiếp. Chủ tịch Hội đồng châu ÂU, hiện là chính khách người Bỉ Herman Van Rompuy, cũng không phải do dân bầu ra để nắm chức vụ này. Hai cơ quan lập pháp của EU, tức Nghị viện châu Âu và Hội đồng Liên minh châu Âu, có thành phần chủ yếu là các quan chức dân cử, nhưng gần như không người châu Âu nào bận tâm bỏ phiếu cho Nghị viện, và việc thay đổi đại diện của bạn ở Hội đồng hầu như không có nhiều ảnh hưởng đến chính sách tập thể của 27 nước. Nhưng có lẽ nghiêm trọng nhất là, EU đã không thể thuyết phục các cử tri rằng mình có khả năng mang đến những giá trị mới trong một thế giới toàn cầu hóa. Trong các cuộc thăm dò ý kiến gần đây, chưa đầy một nửa số người được hỏi nói rằng việc tham gia vào liên minh này là điều tốt. Trong cuộc thăm dò dư luận năm 2009 của Eurobarometer, 53% người châu Âu không nghĩ tiếng nói của họ được lắng nghe ở EU, trong khi chỉ 38% tin là như vậy. Và đó còn là kết quả khảo sát từ trước cuộc khủng hoảng năm ngoái. EU đã phản ứng lại làn sóng hoài nghi đối với đồng euro bằng cách đòi thêm quyền lực hơn nữa để quản lý các vấn đề chính trị và kinh tế mang tính nhà nước. Tại Hội nghị thượng đỉnh tháng 12 ở Brussels, 26/27 thành viên EU (với nước Anh riêng 1 ý kiến) đã ký vào một thỏa ước tài chính quy định mức trần thâm hụt ngân sách và các mức hình phạt đối với nước nào vượt quá mức trần đó, trao cho Brussels thêm quyền để "vá víu" các thâm hút quốc gia, với tầm nhìn hướng đến một mức thuế hài hòa trong toàn khối. Có chút logic ở đây. Dù sao, các khó khăn hiện nay của đồng euro có nguồn gốc từ quyết định tại Masstricht cách đây 20 năm để theo đuổi một liên minh tiền tệ chứ không phải là một liên minh tài chính, kinh tế hay chính trị. Điều này có nghĩa là các thành viên EU đã đồng ý với mức lãi suất, mục tiêu lạm phát và trần nợ chung, nhưng được tự do quyết định mức thuế đánh vào công dân nước mình, chế độ an sinh và mức lương hưu, và việc theo đuổi các chính sách việc làm. Không sớm thì muộn, những khiếm khuyết của hệ thống sẽ phơi bầy ra và thị trường sẽ phản ứng quyết liệt. Hiện tại, châu Âu không có nhiều lựa chọn tốt: chấp nhận các giải pháp từng phần để ngăn chặn khủng hoảng tài chính lan rộng, hay tạo ra một kiểu Mỹ của châu Âu với các chính sách tài khóa và kinh tế chung và một chính phủ liên bang thực sự ở Brussels. Không lựa chọn nào đặc biệt khả thi. Lựa chọn đầu tiên sẽ dẫn tới khả năng sụp đổ của đồng tiền duy nhất, làm suy giảm tính thanh khoản của nhiều ngân hàng hàng đầu châu Âu, và kéo dài suy thoái ở châu Âu cũng như các nơi khác trên thế giới. Lựa chọn sau sau sẽ cứu thoát được đồng euro nhưng sẽ khiến EU rời xa người dân mà nó có nghĩa vụ đại diện cho. Và dĩ nhiên, việc giải cứu sẽ tiêu tốn của người đóng thuế hàng trăm tỷ euro. Người ủng hộ Liên minh châu Âu thường so sánh câu lạc bộ này với con cá mập: nếu không di chuyển về phía trước, nó sẽ bị chìm. Mục tiêu "liên minh mật thiết hơn bao giờ hết" giữa con người và nhà nước thậm chí còn được nêu trong hiệp ước thành lập EU, như thể đó là một sự kiện không thể không xảy ra của lịch sử. Trong hơn nửa thế kỷ, khi liên minh mở rộng từ 6 thành viên sáng lập lên con số 27, các thành viên đã tự nguyện trao nhiều quyền hơn cho Brussels, và khối này chưa bao giờ ngừng tiến về phía trước. Cuộc khủng hoảng kinh tế có thể cuối cùng dẫn đến đẩy nhanh quá trình nhất thể hóa này, nhưng cái giá phải trả cho tính hợp pháp dài hạn của EU là gì? "Khi Liên minh châu Âu đạt được bước tiến, có vẻ như chúng ta đang đánh mất đi cái gọi là công dân châu Âu ở đâu đó trong quá trình này", Joe Borg, Ủy viên Ủy ban châu Âu, từng nói vào năm 2005. Nếu như điều này còn đúng vào 7 năm trước, thì nó còn đang đúng hơn vào giây phút này, khi các nhà kỹ trị thay thế các chính trị gia dân cử lãnh đạo đất nước Hy Lạp và Italia đầy "thương tích" vì khủng hoảng và khi nhóm các quan chức EU và IMF "hạ mình" tới Athens và Rome, Madrid và Lisbon, để thuyết phục các chính trị gia mạnh tay với những khoản cắt giảm. Trong quá khứ, các nhà lãnh đạo châu Âu hiếm khi phải lo lắng về công việc nhàm chán là lôi kéo công luận. Nhưng thực tế giờ đây không còn như vậy nữa. Triển vọng mở rộng liên minh sẽ nằm trong tay các cử tri Áo và Pháp, do hiến pháp ở cả hai nước đều quy định phải tổ chức trưng cầu dân ý trong vấn đề này - một quy định đã ngăn chặn thành công cơ hội tham gia khối của Thổ Nhĩ Kỳ, do sự thù địch ở cả 2 nước đối với Ankara (thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ). Trong khi đó, việc điều chỉnh hiệp ước EU theo hướng xây dựng các quy định của khu vực eurzone nghiêm khắc hơn có thể không nhận được sự ủng hộ của người dân Ireland, nơi các cử tri từ ban đầu đã phản đối 2 nỗi lực gần đây của EU nhằm sửa đổi điều ước. Ngay trước ngày phát hành đồng euro tháng 1/2002, Duisenberg, chủ tịch Ngân hàng trung ương châu Âu, đã tỏ ra đầy hứng khởi: "Đồng euro còn hơn cả một đồng tiền; nó là biểu tượng của sự hội nhập châu Âu theo mọi ý nghĩa của từ này". Ông đã đúng, nhưng không phải theo cái cách mà ông đã kỳ vọng. Một thập niên trôi qua, hoàn cảnh khó khăn của đồng euro dường như càng đẩy nhanh sự sụp đổ rộng hơn của giấc mơ châu Âu về một tương lai nhất thể. Thay vì đưa Liên minh châu Âu trở nên gần gũi hơn với người dân, đồng tiền đã làm gia tăng khoảng cách giữa người thống trị và kẻ bị trị. Thay vì mở ra một kỷ nguyên thịnh vượng mới, đồng euro đã đẩy hàng triệu người châu Âu vào thập kỷ cơ hàn. Và không thể gắn kết người dân châu Âu, nó còn đang "nhăm nhe" gây chia rẽ hơn nữa trong khối này. Đình Ngân (theo foreignpolicy)
  11. TƯ LIỆU THAM KHẢO VIDEO: Tàu ngầm, tên lửa, pháo hạm, máy bay Triều Tiên "băm nát" các mục tiêu (P2) Chủ nhật 18/03/2012 18:49 (GDVN) - Những thước phim ghi lại cảnh các đơn vị chiến đấu của quân đội Triều Tiên trong một cuộc tập trận quy mô lớn cách đây không lâu (đầu tháng 3). Xuyên suốt cuộc tập trận là hình ảnh nhà lãnh đạo Kim Jong Un và các tướng tá, chỉ huy đang theo dõi diễn tiến cuộc diễn tập. http-~~-//www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=FBpKpoEzzak Nguyễn Hưng
  12. Đại ý: Xảy ra chiến tranh cấp quốc gia.... ===================================== TƯ LIỆU THAM KHẢO Ngoại giao tàu chiến Mỹ nhằm vào Iran Cập nhật 18/03/2012 12:09:58 PM (GMT+7) Washington đang lên kế hoạch triển khai thêm nhiều tàu chiến, tàu ngầm và máy bay lên thẳng tới vùng Vịnh cho dù họ đã có các hàng không mẫu hạm đóng tại khu vực này. Hàng không mẫu hạm của Mỹ đóng tại vùng Vịnh Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ Jonathan W. Greenert đã xác nhận thông tin này. Phát biểu trong một buổi sáng hôm thứ Sáu vừa qua tại Washington, ông Greenert nói với các phóng viên về kế hoạch lớn nhằm triển khai thêm các tàu chiến, tàu quét thủy lôi, các máy bay trực thăng và tàu ngầm do thám. Tất cả các phương tiện này đều nhằm giám sát nhất cử nhất động của Iran. Trước đó, ông Greenert đã thông báo về các kế hoạch tăng cường thêm tàu quét thủy lôi lên thành 8 chiếc vào hôm thứ Tư cùng tuần. Phát biểu mới đây nhát của ông đã làm sáng tỏ hơn viễn cảnh hải quân sẽ đóng lâu dài tại khu vực đang rất căng thẳng này. Trước tiên, ông Greenert nói về việc triển khai thêm 5 tàu tuần tra trang bị súng Gatling và các tên lửa tầm gần (các tên lửa này có khả năng tấn công Iran từ vị trí cách đất liền 5 dặm) Thứ hai là, Hải quân đang lên kế hoạch gửi các ngư lôi phù hợp với điều kiện nước của vùng Vịnh. Thứ ba là các loại tàu ngầm dò mìn không người lái, hay như cách ông Greenert gọi đó là “các đơn vị tự trị trung lập không người lái dưới mặt nước”. Cuối cùng là thêm các hàng không mẫu hạm. Tuy vậy, vấn đề này vẫn đang được thảo luận với Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta. Tất cả các tàu chiến mới này đều được trạng bị các hệ thống nhìn bằng tia hồng ngoại để giúp điều hướng thông con tàu trong môi trường đầy sương mù ở vùng Vịnh vào buổi đêm. Cùng lúc đó, Hệ thống BAE – nhà thầu quân sự của Lầu Năm Góc đang làm việc về hệ thống súng Galting. Căng thẳng tại eo biển Hormuz leo thang khi Iran đòi “đóng cửa” khu vực này, trong khi đây là nơi khoảng 1/5 lượng dầu thế giới được vận chuyển. Đây là một trong những động thái của Iran nhằm trả đũa các lệnh trừng phạt mà Mỹ và EU nhằm vào Iran, để buộc Iran ngừng chương trình hạt nhân. Vào tháng Một vừa qua, Tướng Michael Dempsey đã xác nhận rằng Iran có khả năng “đóng cửa” eo biển Hormuz trong một khoảng thời gian nhất định, và Mỹ sẽ phải chuẩn bị để buộc Tehran “mở cửa lại” bằng vũ lực. Ông Greenert cũng công khai khẳng định rằng sự hiện diện của quân đội Mỹ tại khu vực này vượt trội hơn hẳn so với Iran. Trong khi đó, Mỹ lại có dấu hiệu chùn tay khi tính đến phương án quân sự với Iran. Thực tế này khiến nhiều người nghĩ đến giả thiết, việc Mỹ bố trí “binh hùng, tướng mạnh” áp sát Iran có thể là một chiến lược ngoại giao tàu chiến với mục đích kiềm chế Tehran. Tuy nhiên, Lầu Năm Góc mới đây đã yêu cầu thêm 100 triệu USD để tăng cường sự hiện diện tại vịnh Ba Tư. Và mặc dù Tổng thống Barack Obama vẫn kiên trì theo hướng các lệnh trừng phạt và ngoại giao để gây sức ép lên Tehran về chương trình hạt nhân gây tranh cãi, ông Obama cũng thừa nhận rằng: “không loại trừ bất kỳ phương án nào”. Các đội tàu chiến của Mỹ và Anh đóng tại gần eo biển Hormuz (điểm đỏ là eo biển Hormuz). Ảnh: RIA Lê Thu (theo Truyền hình Nga)
  13. Cảm ơn Tuyết Minh. Như vậy vấn đề nhà nghỉ đã rõ. Để công bằng thày S phải đưa chứng cứ: Lấy cây ở đâu? Liên hệ với ai? Tại sao phải chở em H đi? Kết quả công việc thế nào? Đi từ mấy giờ đến mấy giờ. Chuyện đơn giản mà!
  14. Tác giả viết bài này chỉ chứng thực được một điều - hay nói đúng hơn là - làm rõ một cách chưa hoàn hảo một yếu tố là tính di truyền để xác định câu nổi tiếng trong sử ký của Tư Mã Thiên: "Nam Dương tử là nơi Bách Việt ở, có cùng chủng tính". Sở dĩ tôi cho rằng chưa hoàn hảo vì còn thiếu yếu tố về gen di truyền của dân tộc Nhật Bản. Điều này do chính các nhà khoa học Nhật Bản đã xác định trong những công trình nghiên cứu mới nhất của họ về vấn đề này trong những năm gần đây. Việc phát hiện ra sự khác biệt về di truyền giữa các chủng người ở Nam Dương tử và các vùng Đông Nam Á khác người Hán ở Bắc Dương tử là một chứng minh tính khoa học không thể chối cãi về địa bàn cư trú của Việt tộc theo truyền thống văn hóa sử Việt để lại và đã được chính thức ghi nhận trong Việt sử - phù hợp một cách hợp lý với các bản văn cổ liên quan , như Sử Ký Tư Mã Thiên. Nước Văn Lang Bắc giáp Động Đình hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba thục và Đông giáp Đông Hải. Tôi được biết những người có quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt đã ngầm bác bỏ điều này. Họ cho rằng sự phát hiện ra tính di truyền của những nhà khoa học chưa phải là bằng chứng thuyết phục. Nhưng vì họ không dám công khai bác bỏ sự phát hiện tính di truyền của các nhà khoa học chuyên ngành nói trên liên hệ với một thực tại của cổ sử; mà chỉ ngầm ngầm nói sau lưng. Bởi vậy tôi cũng chưa chính thức lên tiếng chỉ ra sai lầm của họ. Tuy nhiên, những nội dung miêu tả các công trình nghiên cứu về gen di truyền trong bài viết này, một lần nữa cho chúng ta thấy rằng: Một hiện tượng khách quan cấu trúc di truyền được phát hiện của chủng người Việt ở Nam Dương tử và các vùng phụ cận hiện nay đã xác minh rõ ràng cho sự xác định của Sử ký: "Nam Dương tử là nơi Bách Việt ở, cùng một chủng tính". Và quan trong hơn nữa chính là tính di truyền của Việt tộc là yếu tố gen căn bản để đối chiếu tính đống nhất về gen với các chủng khác ở vùng đất Đông Nam châu Á lịch sử này - kể cà Nhật Bản. Điều này xác định một cách sắc xảo về cội nguồn của chủng tộc Việt - từ hàng ngàn năm trước - đã phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng đến một vùng địa lý rộng lớn ở Đông Nam Á từ Nam Dương tử xuống đến tân Indo và xa hơn đến tận Guam ở trên Thái Bình Dương.... Tuy nhiên - ngoài yếu tố cóp nhặt từ những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học quốc tế và Việt Nam - thì các phần khác thể hiện những luận cứ của tác giả lại tỏ ra không nhất quán, thiếu tính hệ thống với những quan hệ hợp lý của các hiện tượng liên quan và gần như không đếm xỉa đến yếu tố thời gian với những lập luận rất chủ quan. Hay nói rõ hơn: Chẳng có một cái gì gọi là "cơ sở khoa học". Chúng ta có thể thấy điều này qua một số lập luận sau đây: - Cho rằng Lạc Việt , hay người Việt hiện nay ở Việt Nam chỉ là một nhóm thuộc Bách Việt. Lập luận này tôi đã bác bỏ và chứng minh rằng: Lạc Việt chính là danh xưng chỉ toàn bộ Việt tộc ở Nam Dương tử trong bài viết gần đây: "Lạc Việt và Bách Việt" - http://vn.360plus.ya...rticle?mid=1692 . Những danh xưng Đông Việt, Mân Việt, Điền Việt , Dạ Lang...vv... chính là những quốc gia chỉ xuất hiện sau khi Văn Lang sụp đổ vào thế kỷ III sau CN. Trước đó chỉ là địa danh vùng miền trên lãnh thổ Văn Lang. Chu Dịch - Hệ từ viết: "Vua chạy ra đất Mân" - chính là vùng sau này có địa danh tương đương Phúc Kiến - Quảng Đông bây giờ. Việc đất Mân xuất hiện trong Chu Dịch chứng tỏ địa danh này đã có từ trước cả hiện tượng gọi là Khổng Tử "mần ra" cái Thập Dực - 500 năm BC - và vào thời mà chính các nhà nghiên cứu Hán cũng thừa nhận địa bàn cư trú của người Hán không vượt qúa bờ nam Dương tử. Tính thiếu nhất quán và không mang tính hệ thống của tác giả còn thể hiện mà quí vị quan tâm có thể quán xét qua những đoạn trích sau đây: Như vậy, tác giả đã nhầm lẫn giữa hiện tượng khách quan về sự giống nhau của cấu trúc gen di truyền của các dân tộc vùng Đông Nam Á - bao gồm cả Nam Dương tử - với mối tương quan với những giá trị văn hóa sử. Những biến cố của thiên nhiên từ hàng chục ngàn năm trước không có liên quan trực tiếp với suy luận của tác giả về cổ văn hóa sử Việt với tư cách là quốc gia văn hiến , cội nguồn của Lý học Đông phương và những mối quan hệ lịch sử của các nhóm cư dân Đông Nam Á - bao gồm cả Nhật Bản và Đài Loan liên quan đến chủng tộc Việt.... Nhất là việc tác giả căn cứ vào những luận điểm của Đào Duy Anh: Ông Đào Duy Anh vốn là một học giả nghiên cứu về Việt sử từ hơn nửa thế kỳ trước - mà những lập luận chủ quan , cũng như sự thiếu tính hệ thống và mâu thuẫn trong những luận cứ của ông ta đã bị tôi bác bỏ trong những sách và bài viết liên quan , trong nhiều lĩnh vực về cổ sử Việt và cả những định nghĩa không mấy sâu sắc về văn hóa của ông này (quí vị có thể tham khảo trong diễn đàn và trang chủ, trong sách "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục Thập hoa giáp". Chương V). Một thí dụ cho khả năng tư duy của ông Đào Duy Anh là định nghĩa về văn hóa của ông ta trong "Việt Nam văn hóa sử cương": "Văn hóa là sinh hoạt". Như vậy khái niệm văn hóa thuộc phạm trù hoạt động của mọi sinh vật sống, chứ không phải của riêng trong xã hội con người có tổ chức và văn minh. Trong bài viết này của tôi về phần này, chỉ chứng minh một cách khái quát như vậy và không đi vào chi tiết liên quan đến ông Đào Duy Anh, vì tôi đã minh chứng điều này trên các bài viết và sách vở liên quan. Nhưng tôi cần phải xác định rằng: Chính ông Đào Duy Anh với những luận điểm sai lầm của ông đã được không ít người trong đám "hầu hết" và "cộng đồng" căn cứ vào đấy để là chỗ dựa cho sự phủ nhận truyền thống văn hiến của Việt sử. Đương nhiên người ta không thể tìm ra cái đúng từ một cái sai. Bây giờ quí vị xem lại toàn bộ phần tôi trích dẫn sau đây và cũng là đoạn kết của tác giả: Qua phần kết được trích dẫn này và đối chiếu với các phần trên trong toàn văn bài viết mà Thảo Châu đã đưa lên thì một điều dễ nhận thấy là: Chúng không hể có một sự liên hệ nào đến cái gọi là "văn hóa Hòa Bình" và cái mà tác giả buộc phải thừa nhận về mối quan hệ cấu trúc gen của Việt tộc - là những hiện tượng khách quan - mà các nhà khoa học tự nhiên đã xác định, với những luận cứ mà tác giả nêu ra trong phần kết của bài viết với tựa Bách Việt mà tôi trích dẫn ở trên. Qua đó thấy ngay tính thiếu hệ thống, không có sự liên hệ hợp lý và không nhất quán và có những mâu thuẫn trong bài viết của người này. Tất nhiên với những yếu tố đó đủ xác định tính phi khoa học của bài viết theo tiêu chí khoa học. Từng đoạn một trong phần cuối có tựa Bách Việt của tác giả, càng thấy sự xuyên tạc Việt sử 5000 năm văn hiến của tác giả một cách rất chủ quan và thiếu tính hệ thống hợp lý trong việc liên hệ các sự kiện liên quan. Tôi trình bày với các bạn quan tâm lần lượt từng đoạn sau đây trong phần Bách Việt đã trích dẫn: A - Cá nhân tôi nhận thấy rằng: Tác giả hoàn toàn tự mâu thuẫn trong những luận điểm thể hiện. Ở đoạn trên tác giả viết: . Nhưng đấy cũng chỉ là phần tác giả lấy những công trình nghiên cứu khoa học của các học giả khác thể hiện một thực tế khách quan với những phương tiên và công cụ khoa học không thể phủ nhận về cấu trúc gen Việt trong các chủng tộc bao trùm Đông Nam Á. Chứ không phải là tầm nhìn của ông ta . Chính đoạn Bách Việt viết ở phần cuối bài viết trên mới là những luận điểm của tác giả. Ông ta đã xác định một cách không cần chứng cớ khi cho rằng: Như vậy, tác giả đã phủ nhận hoàn toàn một quốc gia Văn Lang tồn tại từ 2622 năm BC và cho rằng nó chỉ hình thành trên cơ sở khi nước Việt Câu Tiễn bị xóa sổ và di cư đến Nam Dương tử vào 333 năm BC. Qua đoạn này thì chúng ta dễ dàng thấy tác giả đã lờ đi rất nhiều những tư liệu lịch sử liên quan và một nền văn hóa ở Nam Dương tử qua những di vật được tìm thấy, như: Trống đồng, tục ăn trầu...vv...Ở đây chưa nói đến những tư liệu lịch sử liên quan đến chính Việt Vương Câu Tiễn - thế kỷ thứ VI BC. Tức là trước thời điểm mà tác giả cho rằng nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn bị sụp dổ 333 năm BC - được ghi nhận trong Việt sử lược, rằng - Đại ý: Khi Việt Vương câu Tiễn làm bá chủ Trung Nguyên, có sai sứ sang đề nghị Hùng Vương cùng liên kết tấn công nhà Chu để chiếm Trung Nguyên. Nhưng bị Hùng Vương từ chối. Cũng qua đoạn trích dẫn A trên, các bạn cũng nhận ra rằng: Tác giả có ý đồ chứng minh rằng: Chính những người Việt của nươc Việt Câu Tiện tràn xuống Nam Dương tử mới tạo ra những chủng tộc Việt sau đó. Điều này thể hiện những mâu thuẫn sau: - Thời Xuân Thu - thế kỷ V BC - có rất nhiều quốc gia như Tần , Sở, Tấn , Lỗ , Tế và Việt của Việt Vương Câu Tiện. Vậy Khi những quốc gia này bị xóa sổ như nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn thì các chủng này đi đâu? Hay chỉ có người Việt của Việt Vương Câu Tiễn mới là Việt, còn các chủng khác là Hán? - Tác giả lập lờ khi xác định người Việt của nước Việt Vương Câu Tiễn với người Việt ở Nam Dương tử, mà chúng ta nhận thấy ngay ở đoạn này: "Ở đấy, họ gặp những người đồng tộc đã di cư đến từ trước. Song người nước Việt có lẽ đã đạt đến một trình độ văn hóa cao hơn, cho nên sau khi họ hỗn cư với những người thị tộc chiếm ở miền Nam". Vậy người Việt ở miền Nam Dương tử chỉ là những ngườin đồng tộc và thị tộc và thấp kém. Chỉ khi người Việt của Việt Vương câu Tiên xuống hòa nhập mới tiến hóa. Vậy cái bản chất Việt ấy nó như thế nào và liên hệ gì với cái mà tác giả buộc phải thừa nhận về "văn hóa Hòa Bình" từ 8500 năm trước? Vậy thì Việt nào đồng hóa Việt nào? Tại sao lại có nươc Việt của Việt Vương là Việt, còn các Việt khác ở Nam Dương tử thì lại phải chờ đến thế kỷ thứ IV mới "lập thành những bộ lạc lớn mà tự xung là quận trưởng (tù trưởng), hoặc lập thành những quốc gia phôi thai mà tự xưng vương". Rõ ràng những lập luận của ông ta hoàn toàn mang tính chủ quan và không hề có sự minh chứng nào gọi là khoa học khi xác định điều này. Tất nhiên nhưng cái gọi là luận điểm chủ quan của ông ta không có chỗ đứng trong một bài viết ở tầm nghiên cứu, dù chỉ là ở mức giả thuyết. Tóm lại, xem từ đầu đến cuối bài viết thì chẳng có cơ sở nào để liên hệ giữa cái "văn hóa Hòa Bình" và cấu trúc gen của Việt tộc trải khắp vùng Đông Nam Á - mà tác giả viết ở đoạn trước - với cái liên minh bộ lạc. thị tộc Việt ở nam Dương tử được Việt hóa bởi nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn để trở thành Bách Việt như tác gỉa nói. Vậy mà bài viết mao xưng là kết quả mới nhất về cội nguồn Việt tộc. Thực ra chỉ là một sự lập lờ trước những nghiên cứu khoa học không thể phủ nhận được gắn một cái nhìn chủ quan phản khoa học của tác giả. Tôi hy vọng lần sau những bài viết mang tính phủ nhận Việt sử của đám tư duy "ở trần đóng khố" phải có chức danh kèm theo và nguồn gốc rõ ràng. Tôi sẽ xóa những bài phủ nhận truyền thống gần 5000 năm văn hiến sử Việt , nếu không có chức danh tác giả và nguồn trích dẫn.
  15. Cần xác định rằng: Kinh Dịch + Thuyết Âm Dương Ngũ hành là của Việt Nam. Điều này đã quá rõ ràng. Nhưng cũng cần xác định rằng: Kinh Thư, Kinh Thi; Kinh Lễ là của Việt tộc. Hơn 1000 năm Hán hóa và sau đó là ảnh hưởng luận điểm, san định của Tống Nho , nên đã làm sai lệch rất nhiều tính nhân bản ban đầu của Việt tộc. Nhưng tôi tin rằng: Những trí giả Việt tộc sau này sẽ nhận ra được điều này và chứng minh một cách sắc sảo cội nguồn đích thực của Ngũ Kinh. Thí dụ một câu sau đây trong Kinh Thi: Quan quan thư cưu. Yều điệu thục nữ. Quân tử hảo cầu. Theo cổ thư chữ Hán, Khổng tuy một thời làm quan nước Lỗ. Nhưng rất ngắn ngủi. Nho giáo thời Khổng tử không phát triển. Khổng tử phải than: "Than ôi! Đạo ta cùng!". Vậy thì quan niệm về "Người quân tử" không thể phổ biến tới tận dân chúng Hán để mà họ làm ra những bài ca dân dã mà gọi là Khổng tử sưu tầm được làm thành Kinh Thi được. Hơn nữa - cũng theo cổ thư chữ Hán - thì đến đời Hán Vũ Đế thế kỷ II BC - Khổng An Quốc mới san định mớ sách ở trong vách nhà Khổng tử bằng chữ Khoa Đẩu (Đây là chi tiết đáng chú ý), san định lại và phổ biến, lúc đó Nho Giáo mới thịnh hành trong xã hội Hán. Nhưng cả 300 năm trước thì trong Kinh Thi - những bài thơ gọi là dân dã được coi là Khổng tử sưu tầm được - thì đầy những khái niệm. ý tưởng cứ làm như có sẵn rồi. Bài thơ trên là một ví dụ.
  16. Xung đột là định mệnh trong quan hệ Mỹ - Trung? Cập nhật lúc :1:43 PM, 05/03/2012 40 năm sau chuyến thăm Trung Quốc của TT Mỹ Nixon, giữa 2 cường quốc vẫn tồn tại xung đột về hệ thống chính trị dù đã cùng đeo mặt nạ "chia sẻ lợi ích kinh tế". Giáo sư Minxin Pei (ĐVO) Giáo sư Minxin Pei, ĐH Claremont Mc Kenna (bang California, Mỹ) người chuyên theo dõi hoạt động đối ngoại Mỹ - Trung Quốc, đã có bài viết về mối quan hệ quốc tế này, nhân dịp kỷ niệm 40 năm chuyến thăm lịch sử của Tổng thống Nixon tới Bắc Kinh (1972).Dưới đây là nội dung bài viết: Hiếm có sự kiện địa chính trị nào trong thế kỷ 20 có thể so sánh với chuyến thăm lịch sử của Tổng thống Richard Nixon đến Trung Quốc cách đây 40 năm. Ngày nay, "tuần lễ thay đổi thế giới" ấy, chủ yếu được nhớ đến như là canh bạc mang của tổng thống Mỹ Nixon nói riêng và nước Mỹ nói chung. Xích lại gần nhau chỉ nhất thời Nhiều học giả nhận định, chuyến thăm của Nixon mở đường cho sự tái xuất của "Vương quốc Trung Hoa" với vai trò và quyền lực mới. Về an ninh, quan hệ gần gũi với Mỹ giúp Bắc Kinh chống lại Liên Xô mạnh mẽ. Bản thân Liên Xô, trước thời điểm diễn ra chuyến thăm, đã điều động 30-40 sư đoàn áp sát Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ đã đánh bại Liên Xô trong cuộc Chiế tranh Lạnh mà không có mấy sự đóng góp của Trung Quốc. Còn trong nước, với những biến động, khủng hoảng chính trị từ Cách mạng Văn hóa (1966-1976), sự chia sẻ lợi ích kinh tế giữa Mỹ - Trung phải chờ thêm vài năm nữa, mãi đến khi Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền và tiến hành cuộc cải cách kinh tế. Điều này cũng lý giải tại sao, chuyến thăm nước ngoài đầu tiên Đặng Tiểu Bình lại là tới Mỹ (tháng 12/1978, lúc này, Bắc Kinh và Washington đã chính thức bình thường hóa quan hệ). Cuộc gặp gỡ giữa Mao Trạch Đông và Nixon đánh dấu sự gần lại của hai nước do cùng phải đối mặt với "đe dọa từ Liên Xô". Ông biết rằng, cải cách kinh tế và mở cửa Trung Quốc không thể thành công mà không có đầu tư và công nghệ từ Mỹ. Trước chuyến thăm của Nixon, thị trường Mỹ đóng cửa với hàng hóa với Trung Quốc, các công ty Mỹ cũng bị cấm đầu tư vào Trung Quốc. Nhìn vào đây thực trạng hiện nay sẽ thấy, rõ ràng Trung Quốc đã là người giành nhiều lợi ích hơn trong quan hệ này. Điều may mắn là, Mỹ không mất mát gì. Đây là trò chơi cùng thắng (win - win) về địa chính trị. Số mệnh vẫn là xung đột Đo đếm những lợi ích tương đối như vậy, người ta tự hỏi, tại sao giới thượng lưu chính trị và tinh hoa Trung Quốc vẫn luôn nuôi dưỡng tâm lý oán giận chống Mỹ cho đến ngày nay. Cần xem xét, lý do cơ bản cho mối quan hệ lợi ích hai bên Mỹ - Trung Quốc. Nixon và Henry Kissinger, hai đại diện của chính sách thực dụng, bỏ qua bản chất của chế độ Trung Quốc tại thời điểm đó (1972), thay vì sự tin tưởng chiến lược lâu dài, đã tìm kiếm sự hợp tác do bản năng sống còn. Nhưng ngày nay, cấu của mối quan hệ Mỹ - Trung đã thay đổi chóng mặt. Về an ninh, họ gần như đã trở thành đối thủ cạnh tranh, thay vì "bán đồng minh", nước này coi nước kia là một mối đe dọa tiềm năng và phải lập kế hoạch chiến lược quốc phòng quốc gia phù hợp. Buổi gặp gỡ của Nixon và Chu Ân Lai không đủ để xóa đi xu hướng cạnh tranh về an ninh, chính trị do sự khác biệt về thể chế. Đến nay, dù quan hệ kinh tế của hai nước đã phát triển, phụ thuộc lẫn nhau và hình thành cơ sở vững chắc nhất để tiếp tục hợp tác, nhưng ngay cả trong điều kiện này, những hạn chế cũng phát sinh. Đặc biệt trong các hình thức thâm hụt thương mại khổng lồ song phương, bắt nguồn từ chính sách tiền tệ Trung Quốc được định giá thấp và hạn chế về tiếp cận thị trường của các công ty Mỹ. Cuộc xung đột ý thức hệ giữa dân chủ tự do kiểu Mỹ và thể chế tập quyền của Trung Quốc đã phát triển hơn trong những năm gần đây. Những người ủng hộ quan điểm "Mỹ - Trung là đối tác" lập luận, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế sẽ thúc đẩy sự thay đổi chính trị và làm cho Nhà nước Trung Quốc "dân chủ" hơn. Tuy nhiê, lý thuyết "tiến hóa về tự do” lại không diễn ra như mong muốn. Kết quả, trong ba trụ cột của quan hệ Mỹ - Trung: an ninh, kinh tế và hệ tư tưởng, chỉ có trụ cột chia sẻ lợi ích kinh tế còn đứng vững. Trong lĩnh vực an ninh và hệ tư tưởng, quan hệ Mỹ - Trung đang thể hiện xu hướng cạnh tranh và đối kháng. Chiến lược cạnh tranh có thể sẽ trở thành đặc tính chính của quan hệ Mỹ - Trung trong tương lai gần chừng nào Nhà nước Trung Quốc vẫn duy trì thể chế hiện tại. Quan điểm phương Tây cho rằng, các nhà lãnh đạo Trung Quốc không nên than vãn sự "xói mòn lòng tin" vì chính họ biết rõ lý do. Ngoài ra, nền kinh tế tự do (ưu tiên cạnh tranh tự do) và chế độ ưu tiên sự kiểm soát của nhà nước về cơ bản mâu thuẫn với nhau, sẽ sớm đẩy tới sự va chạm tất yếu. Vì vậy, dù vẫn chia sẻ lợi ích kinh tế giữa Mỹ và Trung Quốc, vẫn tồn tại rủi ro làm xói mòn quan hệ 2 nước, là hệ quả của việc đụng độ giữa hai hệ thống chính trị. Mạnh Thắng (theo Diplomat) =============================== Định mệnh thì đúng rồi! Nhưng phân tích nguyên nhân như trên thì chưa đúng hẳn. Đây là canh bạc cuối cùng để xác định ngôi bá chủ thế giới. Quy luật tất yếu - định mệnh - của sự hội nhập toàn cầu, khi nó thiếu một lý thuyết thống nhất.
  17. Đại ý: Tai nạn tăng nặng....Việt Nam cẩn thận cháy nổ (Lời tiên tri bổ sung trong bài viết thuộc topic này). =============================================== Cháy kho đông lạnh và xưởng gỗ, thiệt hại gần 30 tỉ đồng 17/03/2012 20:30 (TNO) Vào rạng sáng ngày 17.3, một vụ hỏa hoạn đã xảy ra tại khu nhà xưởng chứa gỗ của Công ty TNHH Minh Huy và kho thủy sản đông lạnh của DNTN Hiệp Long (cùng tọa lạc tại ấp Tân Thuận, xã Bình Đức, H.Châu Thành, Tiền Giang và nằm cạnh nhau). Nhận được tin báo, Phòng Cảnh sát PCCC và cứu hộ, cứu nạn Công an Tiền Giang và đơn vị Sư đoàn 8 (đóng trong khu vực) đã điều động gần 50 cán bộ, chiến sĩ cùng 5 xe chữa cháy chuyên dụng, 2 canô, 3 máy bơm đến cứu hỏa. Đến khoảng 10 giờ sáng thì đám cháy cơ bản được dập tắt, nhưng toàn bộ kho thủy sản đông lạnh gần 900m2 của DNTN Hiệp Long và khu nhà xưởng chứa gỗ xẻ, gỗ thành phẩm 500m2 của Công ty TNHH Minh Huy bị lửa thiêu rụi. Theo ước tính ban đầu, mức thiệt hại của DNTN Hiệp Long khoảng 18 tỉ đồng (khoảng 300 tấn thủy sản xuất khầu) và Công ty TNHH Minh Huy bị thiệt hại khoảng 10 tỉ đồng. Một số ảnh về hiện trường vụ cháy: Tin, ảnh: Thanh Nga
  18. Thảo Châu thân mến. Trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, nói đến cô 9 là Thánh tổ ngành bói toán của Việt tộc. Trước điện thờ cô 9 bao giờ cũng có hình tượng con gà Trống ( Xem bài viết trong "Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam"/ Nguyễn Vũ Tuấn Anh). Đương nhiên, theo tập tục thì những người dụng nghề phải thờ Thánh Tổ. Tức thờ cô 9. Vậy có mâu thuẫn gì khi sách cổ viết: và từ đó "mần ra" Hồng Phạm cửu trù trong đó trù thứ 7 là "Kê Nghi" - nghĩa đen tức là "Hỏi Gà". Và hình tượng con gà - Kê Nghi - lại bên cạnh cô 9 Thánh tổ thông tin? Sao không gọi là cô 7? Tôi xác định rằng: Đây là một hình tượng nữa xác định rằng: Hà Đồ mới chính là đồ hình căn để của Lý học Đông phương nhân danh nền văn hiến Việt. Đây chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ - và là bí ẩn lớn nhất của mọi nền văn minh nhân loại. Trên cơ sở Hà Đồ thì Kê Nghi phải nằm ở trù thừ 9 (Lạc thư nằm ở trù thứ 7/Ly). Đây cũng là ý nghĩa của việc đổi chỗ Ly / Đoài trong Phong thủy Lạc Việt và những bí ẩn của Huyền không Lạc Việt) do nguyên lý căn để của văn minh Lạc Việt là Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt. Gía trị của trù thứ 9 chính là những phương pháp bói toán, khả năng bói toán , dự báo trong mọi lĩnh vực - hệ quả cuối cùng cùng một hệ thống Lý thuyết huyền vĩ , nên nằm ở giai đoạn kết của chu ký vận động với độ số 9 thuộc Dương - nên biểu tượng bằng con gà trống - cung Dâu - phương Tây/ Đoài - Thiếu nữ. Tinh thần thuộc Dương - phương pháp bói toán - thì hình tướng thuộc Âm nên gọi là "Cô 9". Đấy là ý nghĩa huyền vi của danh xưng "Cô 9" trong truyền thuyết về Đạo Tứ phủ của Việt Nam. Vài lời chia sẻ. ..
  19. Đại ý: Khủng khoảng kinh tế 2012 ảnh hưởng đến hạ tầng xã hội.... ========================== TƯ LIỆU THAM KHẢO 2012: Rủi ro nào từ cú sốc dầu mỏ? Tác giả: Hùng Anh (Theo Economist) Vef.vn Đánh giá những nguy hại gây ra do giá dầu tăng cao đồng nghĩa với việc trả lời bốn câu hỏi: Đâu là “lực đẩy” của giá dầu? Giá dầu còn leo cao đến đâu? Tác động của nó đến nền kinh tế cho tới nay là gì? Và rồi những lần tăng giá tiếp theo trong tương lai sẽ gây ra những thiệt hại gì? Khi cuộc khủng hoảng đồng Euro đang tạm được thời được kiểm soát, giá dầu lại trở thành mối bận tâm "sát sườn" nhất của kinh tế thế giới ở thời điểm hiện tại. Tâm lý lo sợ là điều dễ hiểu khi thị trường dầu mỏ vốn nhạy cảm, trong khi căng thẳng với Iran lại ngày một leo thang. Giá dầu thô Brent tăng vọt thêm hơn 5 USD/ thùng trong ngày 1/3, cán mốc 128 USD/thùng sau khi một tờ báo Iran đưa tin về vụ nổ phá hủy một đường ống dẫn dầu quan trọng của Ảrập Xêút. Mặc dù đã hạ nhiệt sau khi Ảrập Xêút bác bỏ tin đồn, giá dầu thô vẫn ở mức 125 USD, cao hơn 16% so với đầu năm. Đánh giá những nguy hại gây ra do giá dầu tăng cao đồng nghĩa với việc trả lời bốn câu hỏi: Đâu là "lực đẩy" của giá dầu? Giá dầu còn leo cao đến đâu? Tác động của nó đến nền kinh tế cho tới nay là gì? Và rồi những lần tăng giá tiếp theo trong tương lai sẽ gây ra những thiệt hại gì? Căn nguyên của sự tăng giá Những cú sốc về nguồn cung còn tác động tiêu cực tới tăng trưởng toàn cầu một cách mạnh mẽ hơn nhiều so với tác động của việc dầu tăng giá - kết quả từ sự gia tăng nhu cầu sử dụng. Người ta vẫn cho rằng nguyên nhân của đợt tăng giá dầu thời gian qua là do bàn tay hào phóng của ngân hàng trung ương các nước. Trong những tháng gần đây các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới đều đồng loạt hỗ trợ thanh khoản, mở rộng chính sách nới lỏng định lượng (NLĐL) như in tiền để mua trái phiếu; hoặc hứa hẹn kéo dài thời gian hạ thấp lãi suất. Từ đây lại nổ ra cuộc tranh luận về việc liệu có phải chính dòng tiền "giá rẻ" này đã đưa đẩy các nhà đầu tư đến với những tài sản "vật chất", đặc biệt là dầu. Nhưng bởi vì thị trường tự nó đã có tính định hướng, chỉ cần một lời tuyên bố thôi chứ chưa phải ban hành chính sách NLĐL thì chừng đó cũng đã đủ làm giá dầu "nhúc nhích"; thực ra, từ tháng trước, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, Ben Bernanke, đã gửi đến thị trường hai chữ "thất vọng" khi không phát đi bất cứ tín hiệu nào về một đợt NLĐL nữa. Thêm nữa, nếu giá dầu tăng do yếu tố đầu cơ thì lượng dầu cất trữ cũng phải tăng, điều này hoàn toàn trái ngược với những gì đã và đang diễn ra. Ngân hàng trung ương các quốc gia cũng có thể gián tiếp tác động tới thị trường dầu bằng cách nâng cao mức dự báo tăng trưởng toàn cầu - một yếu tố "trung gian" góp phần nâng mức kỳ vọng về nhu cầu sử dụng dầu của thế giới. Luận điểm này có thể được chứng minh bằng nhiều ví dụ cụ thể. Lần tăng giá dầu vừa qua xảy đến đồng thời với những tín hiệu lạc quan về nền kinh tế thế giới: một thảm họa trong khu vực đồng Euro và một "cú tiếp đất" nhọc nhằn của "chiếc phi cơ" Trung Quốc có vẻ khó xảy ra hơn và nền kinh tế Mỹ dường như đang phục hồi ổn đình hơn. Tuy nhiên, sự lạc quan, dù ít, về triển vọng tăng trưởng mới chỉ là một phần của câu chuyện. Gián đoạn nguồn cung mới là tác nhân góp phần nhiều hơn vào sự đắt đỏ của giá dầu. Tính tổng cộng, trong vài tháng vừa qua, nguồn cung trên thị trường dầu có thể đã sụt giảm hơn 1 triệu thùng mỗi ngày. Một loạt các rắc rối không liên quan đến Iran, từ tranh chấp đường ống dẫn dầu với Nam Sudan cho tới những vấn đề cơ khí ở Biển Bắc, đã làm "lỡ nhịp" 700.000 thùng mỗi ngày. Đó là chưa kể, hàng ngày có khoảng 500.000 thùng nữa của Iran đang tạm thời "khoanh tay đứng nhìn" thị trường do vấp phải lệnh trừng phạt từ châu Âu và tranh chấp thanh toán với Trung Quốc. Nguồn cung dự trữ quá ít. Dự trữ dầu tại các nước giàu đang ở mức thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Việc OPEC tăng khả năng dự trữ vẫn chưa có gì là chắc chắn. Ảrập Xêút đang cố gắng thu được khoảng 10 triệu thùng/ngày, gần đạt mức kỷ lục (xem Biểu đồ 1). Và mối đe dọa về sự thiếu hụt nguồn cung sẽ còn lớn hơn nhiều nếu Iran hiện thực hóa lời cảnh báo đóng cửa eo biển Hormuz, nơi tiếp đón 17 triệu thùng dầu qua lại mỗi ngày, tương đương khoảng 20% nguồn cung toàn cầu. Thậm chí chỉ cần một hành động đóng cửa tạm thời của Iran cũng đủ để tạo nên "cú hẫng" nghiêm trọng hơn bất kỳ cú sốc dầu mỏ nào trước kia. Ngay như mức độ ảnh hưởng từ lệnh cấm vận dầu mỏ đối với Ả rập năm 1973 cũng mới chỉ dừng lại ở 5 triệu thùng/ngày. Tách bạch từng nhân tố nói trên không đơn giản chút nào, nhưng Jeffrey Currie của Goldman Sachs cho rằng chính các nguyên lý cơ bản về cung và cầu đã đẩy giá dầu lên khoảng 118 USD/thùng. Ông nhận định phần tăng còn lại là do những lo ngại về Iran. Nếu thực tế đúng như vậy thì một khi các mối quan hệ với Iran được cải thiện, giá dầu có thể đi xuống vài đô la, nhưng vẫn sẽ dao động quanh 120 USD. Ai được, ai mất? Trên bình diện toàn cầu, thiệt hại từ việc dầu tăng giá, tính đến thời điểm hiện tại, có lẽ vẫn còn khá khiêm tốn. Kinh nghiệm cho thấy nếu giữ giá dầu tăng 10% thì thế giới sẽ phải đánh đổi chừng 0,2% tăng trưởng trong năm đầu tiên, chủ yếu là do khi giá dầu tăng cao, thu nhập cá nhân của người tiêu dùng dầu sẽ chuyển sang thành thu nhập của nhà sản xuất, những người có xu hướng chi tiêu ít hơn. Ở thời điểm này, gần như bất kỳ một tác động tiêu cực nào của giá dầu cũng đều có thể được "xí xóa" bởi những tín hiệu lạc quan đang diễn ra ở nơi nào đó trên thế giới, ví dụ như sự hạ nhiệt của cuộc khủng hoảng đồng euro. Vậy nên cho dù dầu có đắt đỏ, triển vọng về tăng trưởng toàn cầu vẫn còn sáng sủa hơn so với hồi đầu năm. Tuy nhiên tác động của giá dầu đến tình hình tăng trưởng và lạm phát ở từng quốc gia sẽ khác nhau.Tại Mỹ, một nước nhập khẩu ròng vốn khá nhẹ tay trong việc đánh thuế nhiên liệu, có một nguyên tắc căn bản là giá dầu cứ tăng 10 USD (tương đương giá xăng tăng 25 xu) thì tổng sản lượng quốc dân giảm xấp xỉ 0.2% trong năm đầu tiên và 0.5% trong năm tiếp theo. Điều này sẽ kéo chậm lại, chứ chưa đến mức tuột dốc, một đầu tàu kinh tế được kỳ vọng sẽ tăng trưởng hơn 2% trong năm nay. Vài năm trở lại đây, trong bất kỳ trường hợp nào cũng không khó để tìm ra lý do giải thích tại sao nước Mỹ ngày càng khéo xoay xở mỗi khi dầu tăng giá. Giá xăng có nhảy vọt thì vẫn còn thua xa năm 2011 hoặc 2008. Công ăn việc làm được tạo ra ngày một nhiều mang lại thêm thu nhập cho người dân để trang trải các chi phí nhiên liệu. Và kinh tế Mỹ ngày nay cũng ngày càng bớt đau đầu hơn với bài toán năng lượng, ít phụ thuộc hơn vào hàng hóa nhập khẩu. Mức tiêu dùng dầu đã giảm trong hai năm qua, ngay cả khi GDP tăng đều đặn. Người dân Mỹ bây giờ có xu hướng lái xe ít hơn và quay sang tìm mua những chiếc xe tiết kiệm nhiên liệu. Nhập khẩu ròng đối với mặt hàng dầu đã rời xa mức đỉnh năm 2005, đồng nghĩa với việc người dân Mỹ, dù vẫn phải "nghiến răng" mua dầu đắt đỏ, thì khoản tiền đó cũng được coi là tiêu dùng trong lãnh thổ nước Mỹ. Nguồn khí đốt tự nhiên dồi dào góp phần giảm giá xăng, kết hợp với một mùa đông ấm áp lạ thường, đã làm giảm gánh nặng chi tiêu sưởi ấm cho các hộ gia đình Mỹ xuống mức thấp không ngờ. Trong tháng 1, phần chi phí dành cho năng lượng của người tiêu dùng đã gần chạm ngưỡng thấp kỷ lục của 50 năm qua. Những yếu tố này không hàm ý nước Mỹ đã "trơ" với dầu, mà chỉ là tác động của giá dầu tăng cho đến nay vẫn còn ở mức khiêm tốn. Châu Âu lại chịu ảnh hưởng nhiều hơn. Tại các quốc gia châu Âu, nơi chính sách thuế đối với mặt hàng dầu khắt khe hơn nhiều so với Mỹ, tác động của giá dầu đến tăng trưởng thường ở mức độ "nhẹ nhàng" hơn. Nhưng lần này, tình hình có thể sẽ khác do hầu hết các nền kinh tế đã rơi vào trạng thái trì trệ hoặc thu hẹp. Tệ hơn nữa, những nền kinh tế ngoại vi thuộc nhóm yếu kém nhất của châu Âu lại chính là những nước nhập khẩu ròng mạnh mẽ nhất (xem biểu đồ 2). Hy Lạp là ví dụ điển hình khi phụ thuộc quá nhiều vào nguồn năng lượng nhập khẩu, 88% trong số đó là dầu. Chỉ cần vài lần dầu nhích giá như hiện nay cũng đã đủ làm trầm trọng thêm cuộc suy thoái khu vực đồng euro; thì một cú tăng phi mã hoàn toàn có thể gây nên một cuộc khủng hoảng sâu rộng và bóp vụn niềm tin của cả thị trường. Nước Anh tương đối "thong dong". Mặc dù là một nước nhập khẩu ròng đối với dầu, Anh lại có những nguồn tài nguyên quan trọng ở Biển Bắc. Thiệt hại đối với người tiêu dùng do giá nhiên liệu tăng sẽ ngay lập tức được bù đắp phần nào bởi lợi nhuận từ chính hoạt động dầu khí của quốc gia này. Dẫu vậy, ngay cả ở Anh, tính đi tính lại thì hệ quả của việc tăng giá cho đến nay là tiêu cực hơn mức thông thường, đặc biệt kể từ khi tỷ lệ lạm phát giảm nhanh chóng. Lạm phát thấp hơn, thu nhập thực tế cao hơn là một lý do mà các nhà hoạch định chính sách của Anh đặt nhiều hy vọng rằng nền kinh tế có thể sẽ được cải thiện ngay trong năm nay. Đối với các nền kinh tế mới nổi, bức tranh thậm chí còn hiện lên rất khác nhau tùy từng góc nhìn. Những nhà xuất khẩu dầu, từ Venezuela sang Trung Đông, thì đang "kiếm được"; còn ai nhập khẩu dầu thì sẽ chỉ thấy cán cân thương mại ngày một xấu đi. Trong các năm 2008 và 2011, đối tượng chịu tác động chính của giá dầu tại các nền kinh tế mới nổi chính là tỷ lệ lạm phát. Giờ thì nỗi lo đó đã bớt nặng nề hơn, chủ yếu nhờ sự ổn định của giá lương thực, nhân tố đang chiếm tỷ trọng ngày một lớn trong rổ hàng tiêu dùng của các nền kinh tế mới nổi. Tuy nhiên, đâu đó một vài quốc gia sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề. Trong ngắn hạn, một số nền kinh tế mới nổi ở Đông Âu sẽ phải hứng chịu nhiều nhất. Họ vừa bị ảnh hưởng bởi giá dầu đắt đỏ hơn, vừa bị "vạ lây" từ sự suy yếu của thị trường xuất khẩu châu Âu. Ấn Độ cũng là một mối bận tâm. Nhiên liệu là một cấu phần lớn khi tính chỉ số giá bán buôn của nước này, vì thế khi giá dầu tăng, chi phí nhiên liệu trong nước sẽ tăng và kéo tỷ lệ lạm phát tăng theo. Khi mọi việc vượt quá mức cho phép, đến lượt ngân sách sẽ bị ảnh hưởng. Ở Ấn Độ, chính phủ ấn định - và cũng trợ giá đáng kể - giá dầu diesel và dầu hỏa. Theo Deutsche Bank, giá dầu diesel chỉ tăng có 31% kể từ tháng 1 năm 2009, trong khi giá dầu thô tính bằng đồng rupee đã tăng 180%. Sự khác biệt đó là kết quả từ hành động trợ giá, điều này lại đi "ngược chiều" với những nỗ lực nhằm giảm thâm hụt ngân sách mà Ấn Độ đang hướng đến. Hiện tại, dầu có đắt hơn thì cũng chẳng tổn hại gì cho tăng trưởng toàn cầu. Nhưng nó cũng không giúp được gì cho những nền kinh tế mong manh ở châu Âu. Và nếu eo biển Hormuz bị đe dọa, dầu sẽ lại tăng giá và đặt dấu chấm hết cho nỗ lực phục hồi của kinh tế thế giới.
  20. Tài liệu này lấy từ đâu ra vậy? Nguyên tắc của diễn đàn là tài liệu phải ghi rõ nguồn. Hãy xem kỹ lại thì thấy tính vô lý của nó trong tính liên hệ về thời gian. .Mặc dù có quan điểm minh chứng Việt sử 5000 năm văn hiến. Nhưng đừng để những đám tư duy "Ở trần đóng khố" phản bác một cách có cơ sở.
  21. Đại ý: Sẽ không có chiến tranh xảy ra ở Biển Đông và hòa bình ở Biển Đông gắn liền với hòa bình ở Đông Bắc Á... ========================== TƯ LIỆU THAM KHẢO Kim Jong-un “chỉ huy vụ nã pháo đảo Hàn Quốc” Thứ Bẩy, 17/03/2012 - 11:15 (Dân trí) - Báo Hàn Quốc đưa tin chính ông Kim Jong-un, tân lãnh đạo Triều Tiên, là người đã trực tiếp ra lệnh và chỉ huy cả vụ tấn công tàu chiến Cheonan của Hàn Quốc và vụ nã pháo vào đảo Yeonpyeong hồi cuối năm 2010. Ông Kim Jong-un lâu nay đã chỉ huy các vụ thử hạt nhân Ảnh do hãng KCNA công bố cho thấy nhà lãnh đạo Kim Jong-un (trái) đang theo dõi cuộc tập trận quân sự phối hợp gồm cả hải quân và không quân Triều Tiên mới đây. Tờ Rodong Sinmun, tờ báo chính thức của Đảng Lao động Triều Tiên, đã đăng một bài xã luận vào ngày 16/2, ngày sinh của cố chủ tịch Kim Jong-il. Bài xã luận được một người Ấn Độ ủng hộ Triều Tiên, lấy tên là Vishwanath, viết. Ông là người đứng đầu Viện Ý tưởng quốc tế Juche. Bài báo cho biết khi Hàn Quốc tiến hành hành động khiêu khích quân sự gần đảo Yeonpyeong, đội quân dưới sự chỉ huy của ông Kim Jong-un đã đáp trả khiêu khích và biến hòn đảo thành biển lửa. Bài báo cũng xác nhận rằng trong cuộc nã pháo quân đội Triều Tiên cũng gánh chịu tổn thất, thương vong do Hàn Quốc bắn trả. Hồi tháng 4 năm ngoái, tờ Rodong Sinmun cũng thừa nhận có tổn thất trong vụ nã pháo. Tờ báo cho biết các nông dân ở tỉnh Nam Hwanghae đã giúp đỡ người binh sỹ bị bắn trong vụ nã pháo Yeonpyeong. Chỉ huy cả vụ tấn công tàu chiến Cheonan? Trong khi đó tờ Chosun Ilbo của Hàn Quốc cho biết tờ báo này tiếp cận được tài liệu của Trung Quốc cho thấy ông Kim Jong-un còn chỉ huy cả vụ tấn công tàu chiến Cheonan của Hàn Quốc. Tờ báo cho biết bản tài liệu là do một nguồn tin ở Trung Quốc cung cấp. Với nhan đề “Lecture Materials”, bản tài liệu có vẻ như được đúc kết cho các sỹ quan tuyên truyền trong quân đội. Theo bản tài liệu, ông Kim Jong-un đã nói với các nhà lãnh đạo quân sự rằng tình hình liên Triều “sẽ trở nên rất căng thẳng vào tháng 2 và tháng 3”. Ông đưa ra bình luận này vào khoảng cuối tháng 1, 2 tháng trước vụ tàu Cheonan của Hàn Quốc bị đắm. Phía Hàn Quốc cho rằng Triều Tiên đã tấn công ngư lôi tàu, làm 46 thủy thủ thiệt mạng, song phía Triều Tiên kịch liệt phủ nhận. Bản tài liệu cũng cho biết Hàn Quốc và Mỹ “đã bịa ra âm mưu về vụ đắm tàu Cheonan, nhưng đã thất bại”. về vụ nã pháo đảo Yeonpyeong, tài liệu cho biết: “Khi miền Nam (Hàn Quốc) nhặng xị về việc bảo vệ Đường giới hạn miền Bắc (đường biên giới biển được đưa ra sau chiến tranh Triều Tiên 1950-1952, song không được Triều Tiên chấp nhận), thì ông Kim Jong-un nhấn mạnh đến sự cần thiết phải đá vào răng kẻ thù”. “Ông ấy quả quyết rằng các máy phóng tên lửa đa năng và các khẩu pháo dọc bờ biển sẽ được điều động và hàng loạt quả đạn pháo đã rơi xuống vùng biển gần đảo Baeknyeong và Yeonpyeong rất nhiều lần”, tài liệu cho biết thêm. Triều Tiên đã nã hàng loạt quả đạn pháo vào vùng biển gần phía đông đảo Baeknyeong vào cuối tháng 1 năm 2010 và 10 tháng sau, nước này nã pháo vào đảo Yeonpyeong. Cũng theo Chosun Ilbo, bản tài liệu có vẻ như thừa nhận các thủy thủ đã bị thương trên tàu tuần tra của Triều Tiên, tàu đã bị phá hủy một phần sau vụ nã bom của tàu tuần tra Hàn Quốc trong cuộc đụng độ gần đảo Daecheong hồi tháng 9/2009. Ngay sau vụ đụng độ, ông Kim Jong-un đã lệnh cho hải quân sơ tán và điều trị cho những người bị thương, bản tài liệu cho biết. “Phải cứu họ bằng mọi giá để họ có thể trả thù. Đây là mệnh lệnh của tôi”, bản tài liệu trích lời ông Kim Jong-un cho hay. Vào thời điểm đó, Triều Tiên không tiết lộ thông tin về thương phong trong vụ đụng độ. Tờ Chosun Ilbo cho rằng bản tài liệu là nhằm cho thấy nhà lãnh đạo trẻ Kim Jong-un là một người có tài trong về quân sự. Báo chí Triều Tiên cũng nhiều lần ca ngợi ông là “thiên tài”. Phan Anh Theo KBS ==================== Hòa bình ở Biển Đông gắn liền với hòa bình ở Đông Bắc Á - hy vọng quí vị quan tâm hiểu theo cách nói của những nhà ngoại giao.
  22. TƯ LIỆU THAM KHẢO Thủ tướng Israel chuẩn bị cho chiến tranh 16/03/2012 12:04 (TNO) Giới quan sát ở Israel hôm 15.3 đã bàn tán xôn xao việc Thủ tướng Benjamin Netanyahu đang dọn đường dư luận cho một cuộc tấn công Iran sau khi ông này đưa ra bài diễn văn quả quyết nhất về mối đe dọa hạt nhân từ quốc gia thù nghịch, theo Independent. Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu - Ảnh: Reuters Chỉ hơn một tuần sau khi trở về từ chuyến công du Washington, ông Netanyahu có vẻ như gợi ý rằng Isreal có thể tấn công những cơ sở hạt nhân của Iran ngay cả khi không có sự ủng hộ từ phía Mỹ. “Israel chưa bao giờ đặt số phận của mình vào tay người khác, ngay cả những người bạn tốt nhất”, ông Netanyahu tuyên bố trước nghị viện Israel, viện dẫn đến những lần Israel làm trái ý Mỹ trong quá khứ. Lãnh đạo "diều hâu" Isreal đã đưa ra ba ví dụ về việc những người tiền nhiệm chống đối hướng dẫn của Mỹ và đưa ra những quyết định quan trọng liên quan đến tương lai Israel. Đó là tuyên ngôn độc lập năm 1948, khai mào cuộc chiến sáu ngày vào năm 1967 và đánh bom lò phản ứng hạt nhân ở Iraq năm 1981. Trong một bài bình luận, Tổng biên tập tờ Haaretz Aluf Benn nhận xét rằng ông Netanyahu muốn nói ông cũng sẽ không lo lắng vì thái độ chống đối của Tổng thống Mỹ Barack Obama, như những người tiền nhiệm David Ben-Gurion, Levi Eshkol và Menachem Begin từng nói không với Nhà Trắng. Tờ báo Israel Maariv tiết lộ các bộ trưởng nội các nước này đã nói riêng với nhau rằng bài phát biểu “nghe như là bài diễn văn chuẩn bị cho một cuộc tấn công”. Phát biểu của ông Netanyahu trùng thời điểm với tin tức nội các Israel đã thiên về việc tấn công phủ đầu Iran ngay cả khi không có sự ủng hộ công khai của Washington. Đây là sự thay đổi mang tính quyết định đến khả năng ông Netayahu bất chấp những lời kêu gọi kiềm chế của quốc tế. Liên hệ đến những vụ tấn công bằng rốc-két từ dải Gaza gần đây, ông Netanyahu nói ông không thể chịu đựng được tình huống những nhóm khủng bố được một cường quốc hạt nhân hậu thuẫn. “Tôi hy vọng toàn thế giới hiểu rằng các tổ chức khủng bố ở Gaza - Hamas và Jihad - và cả Hezbollah ở Li-băng, được che chở dưới chiếc ô của Iran. Các bạn có thể tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu đó là chiếc ô hạt nhân?”, tờ Independent trích phát biểu của ông Netanyahu. Sơn Duân
  23. Đại ý: Khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng đến cuộc sống hạ tầng xã hội, dẫn đến khủng khoảng xã hội.... ========================================= Công nhân ngành thép đụng độ với cảnh sát tại Pháp 16/03/2012 18:15 (TNO) Hôm 15.3, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã phải nhanh chóng rời khỏi một địa điểm ở thủ đô Paris diễn ra chương trình vận động tranh cử để tránh đám đông biểu tình. Ngay khi ông Sarkozy rời đi, một đám đông 200 công nhân của nhà máy thép Arcelor Mittal French đã tổ chức biểu tình nhằm phản đối tình trạng nhiều cơ sở phải đóng cửa khiến thất nghiệp tăng. Công nhân của nhà máy thép Arcelor Mittal French đã tổ chức biểu tình Sau đó, nhóm biểu tình và cảnh sát đụng độ quyết liệt và biến thành trận ẩu đả. Mặc dù, Tổng thống Sarkozy không trực tiếp đối mặt với người biểu tình nhưng sự việc vẫn khiến ông mất điểm vì tuyên bố phục hồi ngành sản xuất của Pháp. Ngô Minh Trí
  24. Cá nhân tôi tuy rất quý ông Hà Văn Thùy - qua nhưng tác phẩm của ông - cũng như tất cả những ai có ý thức minh chứng sự huy hoàng của Việt sử trải 5000 năm văn hiến - một thời huy hoàng ở bờ nam sông Dương tử. Nhưng không vì thế mà ủng hộ phương pháp chứng minh và cách suy luận, phân tích của ông. Bởi vậy, tôi vẫn chỉ có một mình một ngựa về học thuật là vậy. Về đoạn này, tôi cho rằng chứng minh của ông Thủy chưa thuyết phục. Cổ thư ghi lại dưới dạng truyền thuyết và huyền thoại về trận Hoàng Đế chiến Xuy Vưu và chiến thắng ở Trác Lộc. Ông ta dừng vó ngựa ở Bắc Dương Tử và phát biểu: "Phương Nam khó đánh" - có nhiều dị bản về câu nói này của ông Hoàng Đế mà người Hoa Hạ vẫn tôn vinh là tổ của họ. Cấu nói này của ông Hoàng Đế đã xác nhận ở Nam Dương tử có một xã hội hùng mạnh ở đây từ khoảng 6000 năm trước ngày nay. Đây là thời điểm trước khi quốc gia Văn Lang thành lập ở Nam Dương tử mà chính những học giả Trung Hoa hiện đại gọi là: Một nền văn minh biến mất một cách bí ẩn vào thế kỷ thứ ba BC; hoặc những học giả Trung Hoa và quốc tế nói về nền văn minh thứ V tồn tại ở Nam Dương tử. Theo Việt sử thì vào gần 5000 năm cách ngày nay - trước đó - ở nam Dương tử đã tồn tại nước Xích Quỷ, sau đó đổi tên thành Văn Lang và được coi là nhà nước chính thức của Việt tộc. Tiêu chí lịch sử xác định rằng: Lịch sử của một dân tộc chỉ được coi là bắt đầu từ khi dân tộc đó lập quốc. Đây cũng là mục đích chứng minh của tôi qua những tác phẩm đã xuất bản và các bài viết trên diễn đàn. Tôi không tán thành mấy luận điểm sau của ông Hà Văn Thùy là: Tôi cho rằng sau chiến thắng của Hoàng Đế với Xuy Vưu về căn bản người Hoa Hạ ở Bắc Dương tử chưa bị đồng hóa về văn hóa của Việt tộc. Hoặc sự đồng hóa không đáng kể. Bằng chứng: Vào thế kỷ thứ V BC Khổng từ viết trong sách Luận Ngữ: "Nếu không có Quản trọng thì người Hán mặc áo cài vạt bên trái như người Man rồi!". Như vậy - gần 2500 năm sau tính từ thời Hoàng Đế - sự giao lưu văn hóa của người Hoa Hạ với Việt tộc ở Nam Dương tử gần như rất không đáng kể. Nếu có thì có thể chỉ là sự giao lưu giữa các gía trị thể hiện tính văn minh, như trao đổi công cụ, buốn bán vải vóc, lương thực thực phẩm, kỹ nghệ đương thời.... .Không có sự trao đổi tiếp thu những gía trị nền tảng tri thức xã hội. Tình trạng này có thể kéo dài đến cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc. Bằng chứng: Việt sử lược viết - đại ý: "Vào thời Việt Vương Câu Tiên làm bá chủ Trung Nguyên, có sai sứ giả sang tiếp kiến vua Hùng đề cùng cùng liên minh chiếm Trung Nguyên. Nhưng vua Hùng từ chối". Ông Hà Văn Thùy cho rằng: Cá nhân tôi xác định thời Nghiêu Thuấn là của Việt tộc - một quốc gia danh xưng văn hiến, một thời huyền vĩ ở nam Dương tử. Bằng chứng: Y phục thời nghiêu Thuấn ghi trong Thương Thư - Thiên Hồng Phạm hoàn toàn trùng khớp với y phục trên trống đồng của Việt tộc. Nhưng tôi không cho rằng Vua Nghiêu Thuấn thuộc nhà Hạ theo sử Trung Quốc. Không thể căn cứ vào văn bản vốn bị Hán hóa và thất truyền để xác định: Vua Nghiêu truyền ngôi cho vua Thuấn - 4000 năm cách ngày nay - Thuấn truyền cho Vũ rồi Vũ lập nên nhà Hạ - từ đó suy luận nhà Hạ là của Việt tộc độc được. Có mấy lý do sau đây để tôi bác bỏ cho rằng Nghiêu Vũ Thuấn là vua nhà Hạ trong sử Tàu.- Sử Hán xác định chỉ tương đối rõ ràng từ khoảng hơn 800 năm BC . Còn trước đó đều là huyền thoại, truyền thuyết. Tức là sau nhà Hạ truyền thuyết đó hơn 1000 năm. Nên không thể cho Nghiêu Thuấn Vũ của Việt tộc là tổ nhà Hạ - khi mà những vần đề liên quan đến y phục thời Nghiêu Thuấn hoàn toàn phủ hợp với hình ảnh trên trống đồng Lạc Việt và các vấn đề khác liên quan - Đã minh chứng trong "Y phục dân tộc Việt thời Hùng Vương" . Sự thay thời Hùng Vương thứ V thành thời nhà Hạ thì cũng không có gì là lạ- khi Không Tử làm ra Kinh Dịch đưa thuyết Âm Dương vào sách của Chu Dịch, nhưng Ngũ hành lại có trước đó 1500 năm năm vào thời vua Vũ và Thuyết Âm Dương Ngũ hành lại ứng dụng trước đó 3500 vào thời Hoàng Đế trong "Hoàng Đế nội kinh tố vấn". Về vấn đề này thì tôi ủng hộ về nguyên tắc rằng: Tiếng Việt là một ngôn ngữ đã hình thành một cách độc lập, không phụ thuộc và căn cứ vào ngôn ngữ Hán. Không hề có sự vay mượn trong vấn đề từ Hán Việt một cách ngớ ngẩn như đán tư duy "ở trần đóng khố" rao giảng. Tôi không phải chuyên gia về ngôn ngữ. Nhưng tôi luôn xác đinh điều này và đã chứng minh theo cách của tôi trong nhiều bài viết trên diễn đàn. Nhưng đây là một vấn đề mà làm tôi mặc dù rất tôn trọng và quí ông Hà Văn Thùy nhưng không tán thành phương pháp phân tích của ông. Trong đoạn I ở trên ông Viết: Nhưng đoạn II dưới ông lại viết: Vậy người Việt Bắc Dương tử từ 4600 năm trước mà người Hán vượt sông Hoàng Hà tấn công chiếm Trung Nguyên từ đâu lai? Tôi biết rằng - những nhà nghiên cứu cội nguồn Việt sử đã căn cư vào một nghiên cứu về sự di cư của người thượng cổ từ châu Phi đến Đông Nam Á rồi vòng lên Đông Bắc Á....vv.... qua eo biển Berin sang chấu Mỹ.....Tôi cũng có tài liệu này, nhưng không sử dụng vào việc minh chứng cho cội nguồn Việt sử. Bởi vì khoảng cách của sự di cư này hàng chục vạn năm, trong khi chúng ta đang bàn về chỉ hơn 6000 năm trở lại đây. Tôi rất tránh sự lầm lẫn giữa lịch sử tiến hóa và lịch sử dân tộc đã qui ước. Tóm lại, tôi trân trong những nhà nghiên cứu hết mình cố tìm những bằng chứng dù còn lại rất ít ỏi để xác định sự huy hoàng của Việt sử. Giáo sư Bùi Văn Nguyên, Hoàng Phương, Lê Văn Sửu, Hà Văn Thùy, Nguyễn Thiếu Dũng, Đỗ Văn Xuyền, Lê Mạnh Thát, Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Ngọc Thơ.....vv...trong nước cũng như quốc tế. Nhưng chân lý là khách quan. Tôi hi vọng và mong muốn tất cả những học giả yêu chuông chấn lý bổ sung kiến thức và trao đổi kiến thức một cách thẳng thắn để làm sáng tỏ Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ bền bờ nam sông Dương tử. Quốc gia duy nhất với danh xưng văn hiến, cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông Phương huyền vĩ đang sừng sững thách đố trí tuệ của nền văn minh toàn cầu hiện nay. Và cũng là dân tộc duy nhất nắm giữ những bí ẩn của một lý thuyết thống nhất vũ trụ. Cá nhân tôi đang chở đợi kết quả của việc có hay không Hạt của Chúa để xác định rõ hơn về điều này.
  25. TƯ LIỆU THAM KHẢO Mỹ tăng gấp đôi tàu phá thủy lôi ở vùng Vịnh Thứ Sáu, 16/03/2012 08:54 (NLĐO) - Hải quân Mỹ ngày 15-3 cho biết sẽ tăng gấp đôi số tàu và trực thăng rà phá thủy lôi đóng tại vùng Vịnh. Tư lệnh phụ trách các hoạt động của Hải quân Mỹ, Đô đốc Jonathan Greenert, cho biết tại Ủy ban Quân lực Thượng viện Mỹ rằng đang có kế hoạch điều 4 tàu rà phá cùng các trực thăng phát hiện thủy lôi đến khu vực, nâng tổng số phương tiện mỗi loại này lên 8 chiếc. Tàu phá thủy lôi Mỹ trong một lần diễn tập. Ảnh: Navy Times Động thái tăng cường khả năng phòng thủ của Mỹ ở khu vực nói trên diễn ra sau khi Iran dọa đóng cửa eo biển Hormuz chiến lược. Tuy vậy, ông Greenert tỏ ra lưỡng lự khi được hỏi động thái trên có phải nhằm chuẩn bị lực lượng cho chiến dịch đặc biệt hay không. “Tôi sẽ không khẳng định điều này” – ông nói. Mỹ đang có 4 tàu phá thủy lôi thuộc Hạm đội số 5 đóng tại Bahrain. 4 chiếc bổ sung sẽ rời căn cứ ở San Diego và có thể đến Bahrain trong vài tuần tới. Ngoài Mỹ, Anh cũng duy trì nhiều tàu phá thủy lôi ở vùng Vịnh và thường xuyên hợp tác với các tàu Mỹ. Theo nhiều nguồn tin, một khi Hải quân Mỹ công khai thông báo phái tàu phá thủy lôi đến vùng Vịnh, điều đó có nghĩa là Mỹ đang chuẩn bị chiến tranh với Iran bởi lẽ phái tàu thủy lôi đi làm nhiệm vụ không giống các nhiệm vụ 6 tháng điển hình của tàu chiến Mỹ. Hiện thời, các nhà quan sát đang theo dõi các điều động quân sự tiếp theo của Mỹ. Nếu Mỹ đưa các khẩu đội chống tên lửa đến Bahrain, điều các đơn vị xây dựng và cứu hộ đến các vị trí dọc bờ biển phía tây của vịnh Persian…, mọi việc sẽ rõ ràng. Bằng Vy (Theo Navy Times)