-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
7 loài vật có khả năng hủy diệt Địa cầu Thứ Tư, 18/07/2012 - 08:49 Những loài vật nhỏ bé nhưng tốc độ sinh sản khủng khiếp của chúng có thể khiến Trái đất lâm nguy... 1. Trai ngựa vằn Loài trai ngựa vằn bé nhỏ hiện đang phủ kín hệ thống sông ngòi tại Bắc Mỹ. Với tốc độ sinh sản khủng khiếp, mỗi cá thể có thể đẻ đến hàng triệu trứng một năm. Chúng vắt cạn chất dinh dưỡng và các vi sinh vật trong nước, gây thiệt hại nghiêm trọng với rất nhiều loài, trong đó bao gồm các loài không xương sống nhỏ, cá và chim. Trai ngựa vằn còn gây hại vì khả năng bám chặt. Chỉ cần 1 vật cứng như chân vịt, vỏ tàu, động cơ, ống dẫn nước, thậm chí cả sinh vật khác như tôm, rùa… ở trong nước trong vòng 20 giây, chúng sẽ lập tức bám dính lấy, gây thiệt hại cho người dân. 2. Cá đuối gai độc mũi bò Từ khi loài người săn bắt và hạn chế số lượng của cá mập, loài cá có gương mặt khá ngộ này phát triển bùng nổ trên khắp các bờ biển của châu Mỹ, thậm chí đã đến tận ven biển phía Tây châu Phi. Với số lượng khổng lồ, chúng càn quét trai, sò, hàu… ở những nơi chúng đi qua. Do số lượng tăng trưởng quá nhanh, các quan chức ở Mỹ đã có ý tưởng khá độc đáo: đưa loài cá này vào trong thực đơn, đồng thời mở một chiến dịch PR rầm rộ về vị của nó. Tuy nhiên, nhiều người nhận xét, món cá không thực sự ấn tượng. 3. Mối Formosan Mối Formosan có nguồn gốc từ châu Á, du nhập vào Mỹ cuối Thế chiến thứ II và có sức phá hoại rất lớn. Có hàng triệu con mối Formosan cư trú trong 1 chiếc tổ, một năm chúng có thể ăn đến 450 kg gỗ. Đáng sợ hơn, chúng có thể cắn xuyên qua bê tông và nhựa, dẫn đến những vụ nổ ống dẫn, gây thiệt hại rất lớn. 4. Sâu róm sồi Với 63.000 sợi lông chứa độc tố, sâu róm sồi có vẻ ngoài khá đáng sợ. Những sợi lông phát tán trong không khí có thể gây hen suyễn, mù lòa, trầy xước, gây sốc cho những người mẫn cảm, thậm chí tử vong. Trái đất nóng lên đồng nghĩa với việc sâu róm sồi phát triển và lây lan nhanh hơn. Ngoài ra, chúng còn miễn nhiễm với nhiều loại thuốc trừ sâu phổ biến. 5. Lợn rừng hoang dã Trọng lượng khoảng 180kg, lợn rừng hoang dã ít nhiều gây hoang mang cho những kẻ săn mồi. Lợn là loài ăn tạp nên chúng ăn hầu như tất cả mọi thứ. Chúng phá hủy mọi thứ như mùa màng, giao thông, ao hồ, đồng thời hủy diệt hệ sinh thái vì chúng ăn tất cả - chim, bò sát, ếch nhái, các động vật không xương… 6. Bọ xít Có nguồn gốc từ châu Á nhưng bọ xít xuất hiện tại Mỹ vào năm 1998 và có lẽ vì mùi hôi rất khó chịu nên chúng không có kẻ thù trong tự nhiên. Hệ quả là số lượng bọ xít ra tăng rất nhanh, gây ra rất nhiều thiệt hại nghiêm trọng như phá hoại mùa màng, vườn trái cây. 7. Ngỗng Canada Từng bị coi là tuyệt chủng vào những năm 1960, sau nhiều nỗ lực nhân giống và chăm sóc, ngày nay, loài ngỗng khổng lồ đã thoát khỏi bờ vực tuyệt chủng với số lượng lên đến hàng triệu con. Tuy nhiên, chúng bắt đầu gây ra nhiều phiền toái và đe dọa hệ sinh thái. Với số lượng quá đông, lãnh thổ của chúng trải dài khắp Bắc Mỹ, điều này khiến những loài chim khác không thể xâm nhập lãnh thổ và bị lỡ cơ hội sinh sản. Không chỉ có vậy, chúng còn tác động đến ngành hàng không, gây thiệt hại lên đến hơn 600 triệu USD (khoảng 12.480 tỷ VNĐ) mỗi năm do ngỗng bay mắc vào động cơ máy bay. Ngoài ra, một trung tâm giải trí đã phải đóng cửa vì lượng phân ngỗng quá lớn. Theo MASK Đất Việt ==================== Bởi vậy, Lý học Việt - cội nguồn văn hóa Đông phương luôn tôn trọng sự cân bằng của hệ sinh thái - hòa hợp Âm Dương - và sống hòa nhập với thiên nhiên. Tránh tác động cành nhiều đến thiên nhiên càng tốt. Điều này đã được thể hiện bằng luật pháp thời Hùng Vương - cội nguồn Việt sử 5000 năm văn hiến.
-
Vấn đề là lúc này chúng ta đang cần gì. Viethq thân mến ạ.Hôm nào thày trò mình tụ tập bàn sau.
-
Anh chị em thân mến. Sau khi diễn đàn cải tổ, những bài viết mang tính học thuật phải có giá trị tối` thiểu là gợi mở , xác định , hoặc đặt ra một vấn đề, chí ít cũng là một cách giải thích - đúng sai chưa bàn vội. Nếu mới chỉ là ý tưởng không có định hướng học thuật thì thì phải sắp xếp vào một chương mục khác.
-
(Petrotimes) - Sáng 14/7/2012, tại Văn miếu Quốc Tử Giám, nhân 15 năm ngày mất của triết gia Lương Kim Định, Trung tâm Minh triếtphối hợp với Trung tâm Lý Học Đông Phương sẽ lần đầu tiên tổ chức buổi tọa đàm tưởng niệm về ông. Triết gia Lương Kim Định là một gương mặt văn hóa lớn của đất nước, đã để lại một di sản văn hóa đồ sộ hơn 40 đầu sách về những lĩnh vực triết học, văn hóa, đặc biệt là cổ sử Việt Nam… Triết gia Lương Kim Định (bên phải). Ông có công lớn trong việc xây dựng nền tảng cho triết học Việt Nam và là người đề xướng thuyết Việt triết (Việt Nho) với những trụ cột triết lý: An vi, nhân bản, thái hòa, bình sản. Nhiều học giả trong nước tiếp nhận hướng nghiên cứu và phương pháp luận của ông đã có những công trình học thuật có giá trị. Môn đệ của ông ở nước ngoài trong làng An Việt đang tiếp tục công cuộc nghiên cứu của ông và theo đuổi một lối sống minh triết đáng quý. Phát biểu tại buổi tọa đàm có GS.TS. Trần Ngọc Thêm, TS. Trần Ngọc Linh, Nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy, Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Các nhà nghiên cứu đã đề cao công sức của triết gia Lương Kim Định trong công cuộc truy tìm cổ văn hóa sử và minh triết của Việt tộc. Ông đã có những dự đoán tài tình, ngày càng được khoa học liên ngành khảo cổ, cổ thư, nhân chủng xác minh luận điểm của ông là có cơ sở. Buổi tọa đàm có sự góp mặt của 30 nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, những người yêu sử Việt. Đặc biệt, có sự tham gia của ông Nguyễn Văn An, nguyên Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. P.V
-
KIM ĐỊNH VỚI VIỆC NGHIÊN CỨU VĂN HÓA VIỆT NAM GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm[1] Đây là bài viết (có bổ sung) đã trình bày tại Tọa đàm tưởng niệm 15 năm ngày mất của GS. Lương Kim Định do Trung tâm Minh triết phối hợp với Trung tâm Lý Học Đông Phương tổ chức ngày 14-7-2012 tại Văn miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội. Bài viết gồm bốn nội dung: (1) Hiện tượng Kim Định; (2) Những điểm mạnh và những đóng góp của Kim Định; (3) Những điểm yếu và những hạn chế của Kim Định; (4) Cơ hội, thách thức và những trách nhiệm của chúng ta. 1. Hiện tượng Kim Định 1.1. Trong lịch sử nghiên cứu văn hóa Việt Nam, có bốn cái mốc quan trọng được tạo nên bởi bốn nhân vật. Người đầu tiên viết sách về văn hóa Việt Nam là Lê Quý Đôn với “Vân đài loại ngữ” (9 quyển, 1773), và sách đó mang tính bách khoa thư. Người đầu tiên viết chuyên luận về văn hóa Việt Nam và bảo vệ lấy bằng tiến sĩ tại phương Tây (Đại học Sorbonne, Paris, 1934) là Nguyễn Văn Huyên với luận án chính là “Hát đối đáp nam nữ thanh niên ở An Nam” và luận án phụ “Nhập môn nghiên cứu nhà sàn ở Đông Nam Á”, hai luận án này được xếp loại xuất sắc và được xuất bản ở Pháp với sự hoan nghênh của giới dân tộc học châu Âu. Người đầu tiên viết sách giáo khoa về văn hóa Việt Nam theo tiêu chuẩn phương Tây là Đào Duy Anh, và sách đó là “Việt Nam văn hóa sử cương” (1938); ông cũng là một nhà bách khoa thư trong nhiều lĩnh vực. Tất cả những sách bách khoa thư, sách chuyên luận, và sách giáo trình nêu trên đều được soạn thảo rất công phu và đều là những sách rất có giá trị (cho đến tận ngày nay), nhưng cả về hình thức và nội dung đều tuân theo những chuẩn mực của thời đại mình. Vì vậy các tác giả của chúng đều sống một cuộc đời suôn sẻ. Con đường quan lộ của Lê Quý Đôn có phần lận đận nhưng ông cũng từng nhiều lần giữ các trọng trách, khi mất được truy phong là thượng thư Bộ Công. Đào Duy Anh là một nhà giáo khả kính. Nguyễn Văn Huyên là người giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam lâu nhất (gần 29 năm). Trong lịch sử nghiên cứu văn hóa Việt Nam, người đầu tiên làm nên một hiện tượng, gây nên một phong trào, và sống một cuộc đời không thể nói là suôn sẻ, ấy là Kim Định (1914-1997). 1.2. “Hiện tượng” là một sự kiện hay sự việc đặc biệt và bất thường. Điều bất thường về hình thức nằm ở chỗ Lương Kim Định là người đầu tiên và cho đến nay là duy nhất viết nhiều sách nhất về văn hóa Việt Nam. Nếu không kể 7 cuốn chưa in, 5 cuốn in rồi mà bị thất lạc, thì Kim Định có tổng cộng 32 cuốn mà ngày nay chúng ta có thể tiếp cận được[2]. Trong đó có 20 cuốn được xuất bản trong giai đoạn 1965-1975, và 12 cuốn được xuất bản trong giai đoạn 1979-2000. Có hai năm ông xuất bản tới 4 quyển mỗi năm (1970, 1973) và hai năm ông xuất bản 3 quyển mỗi năm (1969, 1987), x. bảng 1. Bảng 1: Tình hình xuất bản sách của Kim Định Giai đoạn 1 - 20 năm Năm...............Số lượng.......Tên sách 1965..................1..............Cửa Khổng 1967..................1..............Chữ Thời 1969..................3............. Vũ trụ nhân linh; Định hướng văn học; Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây 1970..................4..............Tâm tư; Việt lý tố nguyên; Dịch Kinh linh thể; Hiến chương giáo dục 1971..................2...............Lạc Thư minh triết; Triết lý Cái Đình 1972..................1...............Cơ cấu Việt Nho 1973..................4...............Loa Thành đồ thuyết; Vấn đề nguồn gốc văn hóa Việt Nam; Vấn đề Quốc học; Tinh hoa Ngũ Điển 1975..................1...............Triết lý giáo dục 1979..................1............... Hồn Nước với lễ Gia Tiên Giai đoạn 2. 12 năm 1982.....................1................Văn Lang vũ bộ 1984.....................2................Hùng Việt sử ca; Sứ điệp trống đồng 1986.....................1................Hoa Kỳ và thế chiến lược toàn cầu 1987.....................3................Đạo trường chung cho Đông Á; Cẩm nang Triết Việt; Hưng Việt 1988.....................2................Gốc rễ Triết Việt; Việt Triết nhập môn 1997.....................1...............Thái bình minh triết 2000.....................1...............Phong thái An Vi Không rõ năm....3...............Nhân chủ; Kinh Hùng khải triết; Pho tượng đẹp nhất của Việt Tộc Trong 32 cuốn đó, cuốn dày nhất, cũng được chính ông đánh giá cao nhất, là “Chữ Thời” dày 700 trang. Có 2 cuốn dày 430 trang là “Việt lý tố nguyên” (430 tr.) và “Sứ điệp trống đồng” (431 tr.). Hai cuốn mỏng nhất là “Đạo trường chung cho Đông Á” (111 tr.) và “Cẩm nang Triết Việt” (80 tr.). 27 cuốn còn lại dày trung bình khoảng 200-250 trang. 1.3. Dù dày mỏng thế nào thì những gì Kim Định để lại cũng thực sự là một di sản vô cùng đồ sộ. Tuy là một di sản đồ sộ, nhưng điều làm nên HIỆN TƯỢNG KIM ĐỊNH không phải là ở hình thức số lượng và khối lượng, mà là ở nội dung: Trong những cuốn sách đó, Kim Định đã đưa ra những “đề quyết động trời” (như người ta thường nói và chính Kim Định cũng thừa nhận). Ông khẳng định rằng giống người Việt là một sắc tộc đã đến ăn ở trên khắp nước Tàu trước giống người Hoa. Người Việt từng là chủ nhân không chỉ của nước Tàu, mà còn là của phần lớn các giá trị văn hóa tinh thần quan trọng đã bị người Hán dần dần thâu tóm hết là Nho giáo và Ngũ kinh. Theo cách nói của Kim Định, tộc Việt đã xây nền văn hóa minh triết nhân bản rồi người Hoa học theo và chiếm đoạt. Nếu đang tự nhiên mà có người tuyên bố như vậy hẳn sẽ bị xã hội xem là kẻ không bình thường. Và cách ứng xử thông thường với kẻ không bình thường là không ai thèm để ý đến, nếu có nhắc đến thì là để đem ra chế diễu như người ta đã từng làm đối với ông đạo Dừa. Với Kim Định cũng đã từng có cách ứng xử tương tự ở Sài Gòn trước năm 1975 và ở hải ngoại sau năm 1975. Song với một người điên bình thường thì sau đó sẽ là quên lãng, như người Tây Nam Bộ từng quên lãng vô số các ông đạo Đi, đạo Đứng, đạo Nằm, đạo Ngồi, v.v. đến rồi lại đi ở vùng Tây Nam Bộ trong các năm đầu thế kỷ XX. Nhưng với Kim Định thì tình hình không phải như thế mà tệ hơn rất nhiều. Giới học giả giễu cợt chê bai đã đành, người ta “đánh” Kim Định bằng lời nói và ngòi bút đã đành, ngay cả các cha bề trên trong đạo của ông cũng quay lưng lại với ông. Hà Văn Thùy nhận xét rằng “Gần như suốt cuộc đời, Kim Định sống giữa hai làn đạn” [Hà Văn Thùy 2011b]. Theo tôi, phải nói là “Kim Định sống giữa rất nhiều làn đạn” mới đúng! Vì sao người ta lại sợ ông đến thế? Câu trả lời hình như rất đơn giản: Là vì ông có quá nhiều người theo. Mà số người theo này lại mỗi ngày một đông. Mà số người mỗi ngày một đông này lại không phải là người bình dân, gần như tuyệt đại bộ phận họ là trí thức (tuy phần nhiều là những người không chuyên sâu trong lĩnh vực này), và là sinh viên, tức những chủ nhân của tương lai. Tất cả những cái bất thường đó đã làm nên “hiện tượng Kim Định”. 1.4. Lôi kéo được nhiều người theo, ấy hẳn là vì ông có những điểm mạnh. Bị nhiều người chống đối, ấy chắc là vì ông có những chỗ yếu. Những điểm mạnh sẽ là cơ sở để gặt hái các thành công. Những điểm yếu sẽ là nơi xuất phát dẫn đến những hạn chế. Chúng ta hãy lần lượt xác định những điểm mạnh và những thành công cùng những điểm yếu và những hạn chế ấy của Kim Định. 2. Những điểm mạnh và những đóng góp của Kim Định 2.1. Có thể thấy Kim Định có tất cả năm điểm mạnh. Điểm mạnh thứ nhất của Kim Định là ông tốt nghiệp chuyên ngành Triết Tây; nghĩa là ông đã được đào tạo rất bài bản và có phương pháp. Điểm mạnh thứ hai là ông lại còn học cao học chuyên ngành Trung Quốc học (ngành Đông phương học) tại Pháp: Nhờ đó mà ông am hiểu lịch sử và văn hóa Trung Hoa, tiếp xúc được với các tác phẩm nghiên cứu Trung Quốc của người phương Tây; trong ông tri thức Tây và Đông đã bổ sung khá hoàn hảo cho nhau. Điểm mạnh thứ ba là Kim Định làm linh mục tại nhà thờ: do vậy dễ hiểu rằng ông là người ham muốn truyền đạo và rất có phương pháp, kinh nghiệm trong việc tổ chức truyền đạo, gây dựng phong trào. Nếu chỉ hoạt động tôn giáo, chỉ truyền đạo, thì chỉ cần có một niềm tin. Nhưng ông còn có điểm mạnh thứ tư là tham gia giảng dạy triết học tại đại học; điều đó có nghĩa là ông có may mắn sống trong môi trường đại học khuyến khích tư duy sáng tạo. Trong ngành triết học, tư duy sáng tạo ấy đòi hỏi một năng lực suy luận, không loại trừ cả năng lực tưởng tượng phong phú nữa. Điểm mạnh thứ năm nằm ở chỗ Kim Định là người sinh ra ở Bắc Kỳ, song lại sống ở Nam Kỳ. Sinh ra ở đất Bắc (Nam Định) nên trong con người ông có cái “máu” thích làm lý luận. Nhưng chính cái môi trường sống Nam Kỳ mới là yếu tố mang tính quyết định trong việc tạo ra “hiện tượng Kim Định”. Nam Kỳ là nơi mà vào đầu thế kỷ XX từng có một công tử Bạc Liêu sắm máy bay để đi thăm đồng (lúc ấy cả nước chỉ có hai người có máy bay riêng là vua Bảo Đại và công tử Trần Trinh Huy), còn nay thì có những nông dân “Hai Lúa” to gan dám tự mình chế tạo máy bay (như Lê Văn Danh, Trần Quốc Hải ở Tây Ninh). Kim Định học được ở họ lối tư duy phóng khoáng, cách hành xử năng động và mạnh dạn, “dám nghĩ dám làm”. Nam Kỳ lại là nơi ở xa Đất Tổ; mà người trí thức như Kim Định càng ở xa Đất Tổ bao nhiêu thì tấm lòng và tình cảm hướng về nguồn càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Nam Kỳ thời Kim Định còn là mảnh đất tư bản tự do. Cái chất “tư bản tự do” này nếu đặt trong môi trường phương Tây thì sẽ phát triển mạnh xu hướng quốc tế mà coi nhẹ dân tộc quốc gia; nhưng nếu đặt trong môi trường phương Đông thì ngược lại, lại tạo điều kiện cho việc phát huy tinh thần quốc gia dân tộc. Tổng hợp của tất cả năm điểm mạnh ấy đã làm nên ba thành công lớn, cũng là những đóng góp của Kim Định. 2.2. Thành công và đóng góp lớn thứ nhất là trên lĩnh vực hoạt động nghiên cứu khoa học, Kim Định là người đi tiên phong trong việc tìm kiếm những giá trị tinh thần đặc thù của dân tộc. Trong một bài viết công bố năm 2005 nhân dịp 40 năm ngày thống nhất đất nước [Trần Ngọc Thêm 2005], chúng tôi đã nhận xét rằng phe Tư bản Chủ nghĩa hình thành trước ở khu vực phía Tây, nên mang đậm những giá trị đã định hình của văn hóa phương Tây là coi trọng cá nhân, phát huy dân chủ và phổ biến Kitô giáo. Phe Xã hội Chủ nghĩa thì hình thành muộn hơn ở khu vực phía Đông, nên tư tưởng của K. Marx cùng với kinh nghiệm của V.I. Lenin, được thực hiện bởi I.V. Stalin và Mao Trạch Đông đã kết hợp với những giá trị cổ truyền của văn hóa phương Đông mà thành ba cột trụ là coi trọng cộng đồng, tập trung quyền lực (“chuyên chính vô sản”), và đề cao vô thần luận. Bởi vậy mà ở các nước Xã hội Chủ nghĩa trước đây không có chỗ đứng cho các tư tưởng dân tộc, nếu có sẽ lập tức bị coi là “dân tộc hẹp hòi” (Nguyễn Ái Quốc đã từng bị Quốc tế Cộng sản phê phán như thế). Bởi vậy mà trong khi ở miền Nam, Tổng thống họ Ngô vẫn sử dụng trang phục khăn đóng áo dài trong các dịp quốc lễ, thì cán bộ miền Bắc giai đoạn này lại dùng bộ “đại cán” của người Tàu! Chính trong bối cảnh ấy mà ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 đã có nhiều người quan tâm nghiên cứu văn hóa dân tộc như Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Duy Cần, Toan Ánh, Lê Văn Siêu, Kim Định... và đã xuất bản được nhiều công trình nghiên cứu văn hóa dân tộc có giá trị. Trong khi đó, ở miền Bắc giai đoạn này duy nhất chỉ có ngành khảo cổ học gặt hái được nhiều thành công trong việc tìm về cội nguồn, còn những công trình nghiên cứu văn hóa dân tộc tương tự như của các đồng nghiệp miền Nam thì hầu như vắng bóng. Trong số những tác giả vừa nêu, Kim Định đã nổi lên một cách khác thường, nổi lên như một hiện tượng đặc biệt. Với thành công này, không ai có thể phủ nhận rằng ông là một người có tinh thần dân tộc đầy nhiệt huyết trong số những người yêu nước, yêu dân tộc. 2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng học thuật, với tất cả những thuận lợi và khó khăn vào thời đại của mình, trên cơ sở những tư liệu và tài liệu chưa phải là nhiều, Kim Định đã đưa được cái tinh thần phóng khoáng “dám nghĩ dám làm” của người Nam Bộ vào trong nghiên cứu khoa học để đưa ra những nhận định khái quát rất mạnh bạo, rất tiên phong, và, tuy còn chứa nhiều sai lầm mang tính bộ phận, nhưng về cơ bản và trên những nét tổng thể thì có thể nói là đúng hướng. Đó là nhận xét về vai trò và đóng góp của văn hóa Bách Việt đối với văn hóa Trung Hoa. Những nhận định này đã góp công khai phóng, giải thoát người Việt khỏi thứ tư duy nô lệ coi cái gì cũng từ Trung Hoa mà ra; chúng trở thành nguồn cảm hứng và động viên cho rất nhiều người tiếp tục bỏ công sức đi theo hướng này. Đó là thành công và đóng góp lớn thứ hai của Kim Định. 2.4. Thành công và đóng góp lớn thứ ba của Kim Định là trên lĩnh vực phong trào. Trong hơn 30 năm (1965-1997), với những sức chống phá dữ dội từ nhiều phía, nhưng Kim Định đã không chỉ nghiên cứu một mình, mà ông đã khởi tạo ra được một phong trào nghiên cứu văn hóa Việt, tư tưởng Việt..., ông đã khơi gợi lên được lòng yêu nước, yêu dân tộc trong một phạm vi rộng lớn trí thức và lớp trẻ. Hội An Việt tại Vương Quốc Anh (do ông Vũ Khánh Thành thành lập năm 1982), Hội An Việt toàn cầu, phong trào Hùng Việt là những minh chứng. Đúng như GS. Trần Văn Ðoàn, nguyên trưởng khoa triết học tại Đại học Quốc gia Đài Loan, đã nhận xét: “Từ các tiểu bang bên Mỹ, cho tới các nước tại Âu Châu, từ Gia Nã Ðại cho tới Âu Châu, nơi đâu cũng có phong trào Hùng Việt hấp dẫn cả ngàn người. Thật là một hiện tượng chưa từng thấy”. “Có thể nói mà không sợ lịch sử chê bai, cụ Kim Ðịnh có lẽ là một người trí thức Việt duy nhất có thể gây lên một ảnh hưởng như vậy” [Trần Văn Ðoàn 1997]. Là người khá gần gũi với GS. Trần trong định hướng nghiên cứu (nên được ông mời làm một trong năm thành viên nòng cốt của Ủy ban Nghiên cứu Tư tưởng Việt [Trần Văn Đoàn 1999]) và cũng gần gũi với GS. Trần trong cách đánh giá về Kim Định, tôi chỉ có thể xin ký thêm một chữ vào nhận định rất xác đáng của ông. Đóng góp này của Kim Định là vô cùng lớn lao. Nếu chỉ đơn thuần là một trí thức, một nhà giáo, một nhà khoa học thì không dễ gì làm được. Đóng góp đó rất đáng tôn vinh, ca ngợi và noi theo. Khơi gọi lên được tinh thần yêu nước ở mọi người, thì cái tinh thần ấy ở người khởi xướng phải lớn gấp chừng nào. Khơi gọi lên được nhiệt tâm của những người khác, thì cái nhiệt tâm ấy ở Kim Định phải lớn biết chừng nào! 3. Những điểm yếu và những hạn chế của Kim Định 3.1. Những cơ sở làm nên các điểm mạnh của Kim Định vừa nêu trên cũng chính là nơi bắt nguồn những điểm yếu của ông. Thứ nhất, việc Kim Định đã ở xa đất tổ trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, mọi thông tin (kể cả thông tin khoa học) bị ngăn chặn, thành ra rất thiếu thốn về tư liệu, lại cộng thêm đối tượng nghiên cứu là môn triết học trừu tượng rất dễ khiến ông sa vào tư biện. Thứ hai, thập niên 1960 là lúc mà ở Sài Gòn gần như có một “phong trào” nghiên cứu về triết Việt với sự tham gia của một số người tự học triết, thậm chí là không chuyên về triết như Nguyễn Ðăng Thục, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn Thọ, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, v.v. [Trần Văn Ðoàn 2000]. Môi trường thiếu chuyên nghiệp này cộng với việc hành nghề tôn giáo (động, coi trọng phong trào) là những lý do dẫn đến khả năng làm giảm tính khoa học, làm phai nhạt tính nghiêm túc hàn lâm, làm nảy sinh tính dễ dãi, lãng mạn ở Kim Định, một người mặc dù đã được đào tạo triết học một cách bài bản. Thứ ba, việc Kim Định thụ hưởng một nền giáo dục Tây phương tại đất phương Tây cộng với văn hóa Ki-tô giáo tạo nên chất văn hóa phương Tây quá mạnh rất dễ khiến ông sinh ra cực đoan. Thứ tư, việc Kim Định nghiên cứu triết học (liên quan đến tư tưởng), nghiên cứu văn hóa (liên quan đến dân tộc), cộng với hoạt động phong trào (liên quan đến quần chúng) rất dễ khiến ông bị hiểu lầm là làm chính trị. Bốn điểm yếu vừa nêu đã dẫn đến hậu quả là các công trình nghiên cứu của Kim Định mắc phải ba hạn chế: Dễ dãi, lãng mạn, tư biện; Cực đoan; và Bị coi là làm chính trị. 3.2. Hạn chế thứ nhất trong các công trình nghiên cứu của Kim Định là tính dễ dãi, lãng mạn và tư biện. Đây chính là hạn chế lớn nhất mà các nhà khoa học thực sự khó có thể chấp nhận được. Và đây cũng là lý do chính đáng dẫn đến sự phản ứng và quay lưng của nhiều người trong giới khoa học. Từ phản ứng dẫn đến mỉa mai châm chọc quá đà chỉ là một bước ngắn. Bài “Về “huyền sử gia” Kim Định và các chi, bàng phái “huyền sử học” Việt Nam?” của Tạ Chí Đại Trường đăng trên mạng talawas.org (sau đăng lại trên tạp chí Xưa và Nay số 377, 378) tuy chứa đựng cái sự mỉa mai châm chọc (đáng tiếc là rất không nghiêm túc!) ấy ngay từ trong tên bài, nhưng một số sự kiện mà ông sử gia họ Tạ đưa ra phê phán không phải là sai. Những suy luận kiểu như ngày giỗ tổ Hùng Vương mồng 10 tháng 3 được đọc thành “Tam Miêu và Bách Việt”, vì “Tam Miêu là tháng 3, còn Bách Việt là mồng 10. Mười là số chẵn [chục nên] có thể thay số chẵn trăm” (Triết lí cái đình, mục “VII. Việt Hùng”) rõ ràng là quá dễ dãi. Hoặc từ khẳng định “người Việt từng cư trú trên khắp đất Tàu” dẫn đến khẳng định Ðông Di (tổ tiên người Mãn Châu, Triều Tiên) là một chi của Việt; mặt khác, Khổng Tử theo Nghiêu Thuấn, mà Thuấn là người Ðông Di, cho nên kết luận sách Khổng Tử là của Việt cả (Pho tượng đẹp nhất của Việt tộc) [Tạ Chí Đại Trường 2008] thì rõ ràng là quá dễ dãi. Không cứ gì Tạ Chí Đại Trường, Hà Văn Thùy cũng chỉ ra những trường hợp mà khi hăng hái quá đà, Kim Định đã sa vào tư biện, dẫn tới sai lầm. Quá say sưa với phương pháp của mình, ông đã viết cả một cuốn sách “Loa thành đồ thuyết” giảng giải về thành Cổ Loa chín vòng, hình trôn ốc là biểu trưng tuyệt vời của văn hóa Việt. Khi khảo cổ học phát hiện thành chỉ có hai vòng do An Dương vương xây, còn vòng thứ ba do Mã Viện đắp, hóa ra không những không có chín vòng thành mà chả làm gì có cái thành hình trôn ốc [Hà Văn Thùy 2011b]. Ngay trong bài viết tưởng niệm Kim Ðịnh vào năm ông ra đi (1997), Trần Văn Đoàn có viết một câu khiến tôi phải suy nghĩ mãi: “Kim Ðịnh vượt xa Trần Ðức Thảo trong lãnh vực suy tư và trong tinh thần ái quốc, cũng như sự nhiệt tâm của kẻ sỹ” [Trần Văn Ðoàn 1997]. Tôi cho rằng với cụm từ “vượt xa Trần Ðức Thảo” này, điều mà vị giáo sư triết học ở Đài Loan muốn nói chính là vượt xa về sự dễ dãi và lãng mạn. Ở một chỗ khác trong chính bài này, ông viết rõ hơn: “tôi tuy khẳng định triết học của cụ, song cũng phê bình tính chất thiếu nghiêm túc và quá lãng mạn trong nền triết học An Vi của cụ” [Trần Văn Ðoàn 1997]. Trong “Việt Triết luận tập”, Trần Văn Đoàn đánh giá cụ thể hơn nữa: “Ngay các tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Ðăng Thục, Kim Ðịnh cũng đều vướng vào những lỗi lầm căn bản như thiếu hệ thống, phân tích rời rạc, lý luận thiếu vững chắc, đôi khi mâu thuẫn, sử liệu mơ hồ, vân vân” [Trần Văn Ðoàn 2000]. Cái tinh thần năng động “dám nghĩ dám làm” Nam Bộ thì quý thật, nhưng dù là để tư duy triết học sáng tạo ra triết Việt hay để thực hành kỹ thuật chế tạo ra máy bay, đều cần phải có một cơ sở lý luận vững chắc mang tính hệ thống chặt chẽ, phi mâu thuẫn như nhau. 3.3. Hạn chế thứ hai trong các công trình nghiên cứu của Kim Định là tính cực đoan. Như đã phân tích ở trên, việc Kim Định được thụ hưởng một nền giáo dục Tây phương tại đất phương Tây cộng với văn hóa Ki-tô giáo đã tạo nên trong ông chất văn hóa phương Tây quá mạnh. Một người ủng hộ ông rất mực, trong một bài viết đăng trên trang mạng “An Việt toàn cầu” cũng phải thốt lên rằng: “Lời văn trong sách [của Kim Định] chứa đầy tinh thần yêu nước mà cái gì Việt Nam cũng nhứt, và tôi sợ quan niệm quá cực đoan thì rất khó dung nạp trong các nước tự do phương Tây” [Lê Hùng 2012]. Trong cuốn “Việt lý tố nguyên” (và nhiều nơi khác) Kim Định từng viết rằng “hễ mình chống đối cái gì thì cuối cùng sẽ sa vào cái đó, trong triết quen gọi là nhị nguyên” (Việt lý tố nguyên, mục XIII). Bản thân Kim Định trong tư duy nghiên cứu, cả đời luôn có nhận thức rất đúng về vai trò tối thượng của sự “quân bình”, luôn có ý thức rất rõ về vai trò của tỷ lệ “tham thiên lưỡng địa”, luôn có chủ trương hành động hướng tới “thái hòa”, luôn mong muốn thông qua con đường “an vi” để tạo nên “An Việt”, thế nhưng nhiều kết luận khoa học của ông lại quá cực đoan. 3.4. Hạn chế thứ ba trong các công trình nghiên cứu cũng như trong cuộc đời của Kim Định là để người đời cho rằng ông “làm chính trị”. Làm chính trị ở mức cao nhất là tìm cách tác động đến tư tưởng của một dân tộc nhằm tạo ra một phong trào quần chúng rồi vạch ra đường lối mà dẫn dắt họ. Như chúng tôi đã phân tích ở trên, sự đan xen và hội tụ của những hoạt động khác nhau mà Kim Định đã thực hiện trong cuộc đời đã tạo nên một thứ rất giống với việc “làm chính trị”: Ông nghiên cứu triết học là cái liên quan đến tư tưởng, ông nghiên cứu văn hóa là cái liên quan đến dân tộc, ông tạo nên các phong trào là cái liên quan đến quần chúng. Quan sát các tác phẩm của ông, một số người cảm thấy cái “chính trị” bao trùm hình như là tinh thần chống cộng. Lê Hùng nhận xét rằng “Kim Định thường lấy cái Duy Vật cộng sản ra diễu cợt nhiều nhất” [Lê Hùng 2012]. Theo Tạ Chí Đại Trường thì “Bị đẩy ra khỏi nước, Kim Ðịnh tức giận, căm thù người cộng sản” [Tạ Chí Đại Trường 2008]. Chúng tôi đã thử thống kê, chỉ trong một cuốn “Việt lý tố nguyên” (bản có bổ sung)[3], đã có 48 lần tác giả nhắc đến từ “cộng sản”. Nếu bỏ ra một bên những từ ngữ mang tính mỉa mai giễu cợt, thì có thể thấy ông chỉ đơn thuần coi đó là một mảng tài liệu thực tế được đưa ra phân tích dưới ánh sáng lý thuyết của mình. Trong suốt cuốn “Việt lý tố nguyên”, Kim Định đã chỉ ra rằng người cộng sản đã đúng khi nhìn ra được vai trò của dân chúng nên không những đã dùng “tiếng dân” (ngôn ngữ bình dân) để tuyên truyền, mà còn trao vào tay thợ thuyền quyền lãnh đạo (mục VI). Theo Kim Định, người cộng sản đã “độc quyền chuyên chế”, “nghi kỵ tự do”, nhưng ông lại tỏ ý đồng tình: “nghi kỵ là phải, vì nếu ai cũng đòi tự do tự trị cả thì làm sao tổ chức xã hội cho mạnh được” (mục XI). Kim Định chỉ ra rằng sở dĩ “Trung cộng, Việt cộng” đã thắng thế là bởi, thay vì chỉ dựa vào thợ thuyền như cộng sản phương Tây thì họ dã biết dựa vào thôn dân: “Mao ... có lý vì đã giữ được y nguyên cái lương tri lành mạnh của thôn dân miền Giang Nam” mà “Tây Âu gọi sự thành công này là một sự Tàu hóa cộng sản (sinisation du coummunisme)”. “Thôn dân (trước kia là Viêm Việt) có một nền triết lý đặc trưng rất ơn ích cho con người và nhờ đó đã trở thành một sức mạnh ghê gớm không một bạo lực nào có thể đàn áp được”. Chính là nhờ biết “đi sát dân, đúng hơn là ở ngay trong lòng dân” mà người cộng sản đã phát động được tinh thần yêu nước của dân chúng, “đoàn kết để đánh bật ngoại bang”. Trong khi “phía quốc gia chỉ là mấy nhóm chính trị tuy thành tâm ... nhưng thiếu hẳn triết lý của quốc gia”, “ý thức thì lại là Tây: lơ mơ như thế ... thì có thua cộng sản cũng là chuyện bình thường” (mục XV). Dù đúng hay sai, thì những phân tích như thế – trong hoàn cảnh thông tin một chiều, rất thiếu thốn về tư liệu cũng như thực tiễn – thực sự là những cố gắng suy tư khách quan của một người làm khoa học. Cuối cùng, nếu nói rằng Kim Định “làm chính trị” (để phủ định những đóng góp của ông) thì phải chỉ ra được ông thuộc phe phái nào? Nhưng điều đó là không thể: “Làm chính trị” kiểu gì mà đứng ở giữa những làn đạn đến từ mọi phía? Sau năm 1975, tên ông từng bị đưa vào danh sách 10 tác giả bị cấm đọc ở Việt Nam. Những người xếp mình vào phái “quốc gia” thì “đánh” Kim Định từ trong nước (trước 1975) ra đến nước ngoài (sau 1975). Còn những người đồng đạo với ông thì đã giam lỏng ông trong những năm cuối đời tại một nhà tu ở nước Mỹ. “Học trò muốn gặp ông phải giả xin xưng tội để hỏi thêm về triết lý, trong sự chứng kiến của người giám sát. Lúc bị đột qụy, bất tỉnh, máy tính của ông bị mất, trong đó có chứa hơn mười tác phẩm đã viết xong hay chưa hoàn tất để chờ xuất bản” [Hà Văn Thùy 2011b]. “Cổ xúy duy trì nền Văn hoá Việt Nam trong cộng đồng hải ngoại và việc làm cuả Linh mục Kim Định trên phương diện văn hoá đã bị hiểu lầm là người làm chính trị, điều mà Giáo hội Thiên chúa giáo không muốn các vị tu sĩ công khai, sợ động chạm, hiểu lầm” [Lê Hùng 2012]. Đến đây thì việc Kim Định có “làm chính trị” hay không, có viết sách theo chỉ thị của một phe phái nào hay không thiết tưởng đã đủ rõ: Cái “lỗi” từ phía chủ quan của ông chỉ là “tạo điểu kiện” để từ phía khách quan người ta vô tình hoặc cố ý “quy tội” cho ông là làm chính trị! 4. Cơ hội, thách thức và những trách nhiệm của chúng ta 4.1. Hiện nay, chúng ta đang sống trong kỷ nguyên toàn cầu hoá. Khi mà yếu tố quốc tế gia tăng thì yếu tố dân tộc, quốc gia có nguy cơ bị suy giảm, lấn át. Chính trong bối cảnh ấy mà vai trò của văn hóa dân tộc đang được chú trọng hơn bao giờ hết. Kỷ nguyên toàn cầu hoá là kỷ nguyên của khoa học kỹ thuật. Khi mà yếu tố khoa học kỹ thuật gia tăng thì yếu tố con người có nguy cơ bị suy giảm, lấn át. Chính trong bối cảnh ấy mà vai trò của văn hóa nói riêng và chất nhân văn nói chung đang được đề cao. Giới trẻ Việt Nam làm việc trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật mang tính toàn cầu thấy rất rõ nhu cầu trở về với truyền thống, với văn hóa, với dân tộc. Đó là một trong những lý do giải thích vì sao mà những tư tưởng kiểu như của Kim Định hấp dẫn họ đến thế. 4.2. Trong bối cảnh đó, những gì mà Kim Định đã viết ra và đã tạo dựng là một di sản có giá trị; nó có ảnh hưởng trong một phạm vi công chúng trí thức khá rộng, thực sự không thể coi thường. Liên quan đến di sản của Kim Định, chúng ta cần làm ba việc: (1) Đánh giá đúng Kim Định. Đây là việc dễ mà khó. Dễ, vì mọi thứ khá rõ ràng. Khó, vì Kim Định cực đoan nên sinh ra những người ủng hộ và chống đối Kim Định cũng cực đoan, nhiều khi còn cực đoan hơn cả chính ông. Mà sự ủng hộ và chống đối một cách cực đoan thì sẽ có nguy cơ mắc phải những sai lầm của chính Kim Định ở một mức độ trầm trọng hơn. Cái khó không nằm ở việc xác định chân lý mà nằm ở sự đối kháng giữa những tư tưởng cực đoan chứa đựng sai lầm ấy. (2) Khi đã đánh giá đúng rồi thì với những gì là đóng góp của Kim Định, chúng ta cần giới thiệu, phát huy. Cái cần giới thiệu ở đây là ý tưởng xác định những đóng góp của văn hóa Bách Việt trong nền văn hóa chung của Trung Hoa (việc này lần đầu tiên đã được chúng tôi thực hiện vào năm 1995, khi đưa 9 cuốn sách của Kim Định vào danh mục “Tài liệu tham khảo” trong bản in chính thức cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam” do Trường Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh xuất bản, x. hình 1). Cái cần phát huy ở đây trước hết là một ý thức dân tộc lành mạnh trên cơ sở một tinh thần đoàn kết rộng rãi mọi người Việt Nam trong và ngoài nước, xếp lại quá khứ, cùng góp công sức hướng đến tương lai. Hình 1: Trích trang 490 cuốn “Cơ sở văn hóa ViệtNam” (1995) (3) Và với những gì chưa rõ ràng, chưa chính xác ở Kim Định, chúng ta cần phải kiểm chứng, cụ thể hóa và chính xác hóa. Với những sai sót, hạn chế của Kim Định, chúng ta cần phải uốn nắn, chỉnh sửa. Công việc này cần tiến hành một cách chu đáo, thận trọng, với sự góp sức của nhiều người. Từ phía mình, chúng tôi đã chỉnh sửa và chứng minh quan niệm về nguồn gốc Đông Nam Á (không phải Việt Nam) của triết lý âm dương và đã trình bày thành công tại Hội thảo quốc tế về Dịch học thời tảo kỳ tổ chức tại Đại học Sơn Đông (Trung Quốc) tháng 10-2011 [x.: Khoa Văn hóa học 2011]. Các quan niệm cực đoan cho rằng Dịch học, Nho học Trung Hoa là của người Việt đã được chúng tôi điều chỉnh và chỉ ra là có hai con đường phát triển của triết lý âm dương; có sự tích hợp văn hóa phương Bắc với văn hóa phương Nam trong Nho giáo nguyên thủy [Trần Ngọc Thêm 1996/2004: 118-121, 481-493]. Tương tự, tương quan “văn hóa nông nghiệp / văn hóa du mục” đã được chúng tôi phát triển thành lý luận về ba loại hình văn hóa trọng tĩnh, văn hóa trọng động, và văn hóa trung gian [Trần Ngọc Thêm 2010], v.v. Thiếu sự thận trọng, cái dễ dãi của Kim Định sẽ có nguy cơ không những không được chỉnh sửa mà còn có thể bị nhân lên. Câu chuyện “người Việt vào nước Tàu trước” là một ví dụ. Nếu nói đơn giản rằng người nguyên thủy sau khi phát sinh tại châu Phi đã men theo bờ biển đi về phía Đông, tới Đông Nam Á thì rẽ ra làm hai nhánh, một nhánh đi lên phía Bắc, nhánh kia rẽ xuống phía Nam, thì hầu như không có gì phải bàn, cũng không cần phải viện dẫn đến những nghiên cứu di truyền học để chứng minh. Song nếu nói như Kim Định là “người Việt vào nước Tàu trước”, hoặc như Hà Văn Thùy [2007; 2011] rằng “con đường ven biển Ấn Độ đã đưa người tiền sử tới Việt Nam rồi từ Việt Nam, người Việt cổ đi lên khai phá Trung Quốc” thì lại không chuẩn xác; đơn giản là vì vào lúc đó (khoảng 7-8 vạn năm trước, lúc người nguyên thủy từ châu Phi di cư đến Đông Nam Á rồi rẽ lên Đông Bắc Á) thì làm gì đã có “Việt Nam” với “Trung Quốc” hay “nước Tàu”? Làm gì đã có “tộc Việt” hay “tộc Hoa”? Kể cả “người Việt cổ” lúc ấy cũng chưa hề có. Gán ghép sai lệch về tọa độ giữa chủ thể với không gian và thời gian diễn ra sự kiện như vậy sẽ có nguy cơ kéo theo nhiều kết luận sai lầm khác, kiểu như “Không chỉ sách Dịch mà ngay cả ngôn ngữ người Trung Hoa đang dùng cũng là sản phẩm của tộc Việt” [Hà Văn Thùy 2011a; 2011b]. Đóng góp thực sự của Kim Định không phải ở những khẳng định cực đoan như thế, mà là ở việc khai phóng, giải thoát người Việt khỏi thứ tư duy bị trói buộc. Vào thời của Kim Định, căn bệnh đề cao một chiều văn hóa Trung Hoa là tư duy nô lệ, phát ngôn dễ dãi là đáng trách. Còn vào thời điểm hiện nay – 15 năm sau khi Kim Định đã ra người thiên cổ, những đóng góp của ông cần được đánh giá một cách bình tĩnh, khoa học, khách quan để phát huy những gì có thể phát huy được, trong những phạm vi và theo những cách thức phù hợp. Những hạn chế của ông cần được rút ra làm bài học để tránh lặp lại trong những nghiên cứu khoa học về sau. Tinh thần khoa học, khách quan đòi hỏi phải tránh không chỉ sự phê phán ông một cách cực đoan, mà cả sự ca ngợi ông một cách quá đà. Cần coi chừng quả lắc sau khi đã lắc quá mức sang tả sẽ rơi vào trạng thái ngược lại là vượt khung về bên hữu! Tài liệu trích dẫn 1. Hà Văn Thùy 2007: Hành trình tìm lại cội nguồn. – H.: NXB Văn học. 2. Hà Văn Thùy 2011a: Tìm cội nguồn qua di truyền học. – H.: NXB Văn học. 3. Hà Văn Thùy 2011b: Lần thứ ba thưa chuyện với ông Tạ Chí Đại Trường. - http://lethieunhon.c...ad.php/4987.htm 4. Khoa Văn hóa học 2011: Hội thảo quốc tế Dịch học 2011 - Sơn Đông, Trung Quốc. - http://vanhoahoc.vn/...trung-quoc.html 5. Lê Hùng 2012: Triết Gia Kim Định Dưới Ngòi Viết Sắt. - http://www.anviettoa...Itemid=99999999 6. Tạ Chí Đại Trường 2008: Về “huyền sử gia” Kim Định và các chi, bàng phái “huyền sử học” Việt Nam? - http:// www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12188&rb=0302 7. Trần Ngọc Thêm 1995: Cơ sở văn hóa Việt Nam. - Trường Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh xuất bản. 8. Trần Ngọc Thêm 1996/2004: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. – NXB Tp. Hồ Chí Minh. 9. Trần Ngọc Thêm 2005: Quá trình hoà nhập văn hoá ở Việt Nam trước và sau 1975. - Tạp chí “Văn hoá Nghệ thuật”, số 4 (250), tr. 11-16. 10. Trần Ngọc Thêm 2010: Sự phát triển của Đông Á từ góc nhìn hệ thống - loại hình. - http://vanhoahoc.vn/...-loai-hinh.html 11. Trần Văn Ðoàn 1997: Tưởng niệm cụ Kim Định. - http://www.dunglac.o...v=detailarticle &id=90&ia=1417 12. Trần Văn Đoàn 1999: Chương trình nghiên cứu tư tưởng trong văn hóa Việt và Ủy ban nghiên cứu tư tưởng Việt. - http://www.dunglac.o...le&id=90&ia=355 13. Trần Văn Ðoàn 2000: Việt Triết luận tập, Thuợng tập: Truy nguyên bản chất của Việt triết. - http://www.catholic....t/viettriet.htm <br clear="all"> [1] Giám đốc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH và NV thuộc ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh. [2] Danh mục toàn bộ sách và bản mềm toàn văn các tác phẩm hiện có của Kim Định có thể xem tại: http://anviettoancau...sk=view&id=1223 hoặc http://www.dunglac.o...id=71&m=module2 [3] X. tại: http://anviettoancau...ask=view&id=946
-
Kính thưa quí vị. Như những bài viết gần đây mà tôi đã trình bày trong topic này - một người bạn tôi có chuyên môn sâu về vật lý lý thuyết và có học vị cao về chuyên ngành này - thì các thông tin trên báo mạng đã diễn tả sai về hạt Higgs. Bạn tôi cho rằng: Đây là một trường tạo ra những vi hạt có khối lượng khi các hạt không khối lượng va chạm với trường đó và gọi là "trường Higgs". Nhưng cho dù thực tế các báo mạng đã đăng tải sai thuật ngữ chuyên môn - điều này rất có thể xảy ra - thì ý niệm của những thuật ngữ này cũng nhằm diễn đạt một khái niệm là: Và các nhà khoa học Âu Mỹ đã đi tìm trường này mà họ gọi là trường higgs, hay hạt Higgs.Trong điều kiện này thì Lý học Đông phương nhân danh nền văn hiến Việt - theo cách hiểu của tôi - một lần nữa xác định rằng; Không có thực tại duy nhất đó để tạo ra tất cả các loại vi hạt có khối lượng. Cho dù họ gọi nó là cái gì!
-
Hội nghị đầu tiên về hạt Higgs ở châu Á Thứ Ba, 17/07/2012, 07:40 (GMT+7) TT - Ngày 16-7, tại TP Quy Nhơn (Bình Định), Hội Gặp gỡ VN (Rencontres du Viet Nam) đã tổ chức hai hội nghị vật lý quốc tế với chủ đề “Hạt cơ bản sau mô hình chuẩn” và “Va chạm ion nặng trong kỷ nguyên LHC” với sự tham gia của 120 giáo sư, nhà nghiên cứu khoa học chuyên ngành vật lý hạt và vật lý thiên văn ở 23 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hai hội nghị này nằm trong chuỗi cuộc gặp gỡ quốc tế trong khuôn khổ “Gặp gỡ VN” do giáo sư Trần Thanh Vân hợp tác với giáo sư Nguyễn Văn Hiệu sáng lập từ năm 1993. Giáo sư Trần Thanh Vân - chủ tịch Hội Gặp gỡ VN, chủ trì hội nghị - đặc biệt nhấn mạnh: Đây là hội nghị đầu tiên ở châu Á và là hội nghị thứ hai trên toàn cầu được lãnh đạo Tổ chức Nghiên cứu hạt nhân châu Âu ở Geneva (Thụy Sĩ) trình bày chi tiết những khám phá mới nhất đã và đang làm rung chuyển thế giới khoa học xung quanh việc phát hiện hạt Higgs. Hội nghị lần này kéo dài đến ngày 21-7-2012. XUÂN NGUYÊN ==================== Theo như tinh thần của bài báo này thì có vẻ như hạt Higgs đã đượcxác định là đã tìm thấy và được gọi là "đang làm rung chuyển thế giới khoa học xung quanh việc phát hiện hạt Higgs".. Còn tôi - tôi xác định một lần nữa rằng: Không có hạt Higgs! Cho dù người ta hiểu như thế nào về khái niệm này "boson Higgs", hạt Higgs..vv... Khi tất cả mọi người xác định có hạt Higgs thì tôi chẳng có lý do gì để chứng minh tại sao không thể có hạt này.
-
Hi> Lúc đó tôi đau lưng quá. Nên ra ngoài....hút thuốc.
-
Tiêu chí khoa học: Hệ biểu hiện của một học thuyết phải phản ánh một thực tại cói thể kiểm chứng được. Bạn có thể so sánh hình ảnh vài thiên hà trong vũ trụ với đồ hình Âm Dương Lạc Việt
-
Xày ra chiến tranh cấp quốc gia trên thế giới trong năm 2012....... ========================== TƯ LIỆU THAM KHẢO Mỹ sẽ tấn công Iran vào tháng tới? Thứ sáu 13/07/2012 13:28 (GDVN) - Hải quân Mỹ đã bất ngờ phái một tàu sân bay thứ 4 cùng với một phi đội máy bay không người lái tới vùng Vịnh. Hải quân Mỹ đã bất ngờ phái một tàu sân bay thứ 4 cùng với một phi đội máy bay không người lái tới vùng Vịnh. Đây được coi là động thái mới nhất trong một loạt các hoạt động leo thang khiến giới phân tích lo ngại về khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh chống lại Iran trong tháng tới. Tàu sân bay USS John C. Stennis sẽ tới vùng Vịnh vào tháng tới. Ngoài ra, quân đội Mỹ còn triển khai hàng chục tàu lặn nhỏ không người lái tới vùng Vịnh - một quan chức quân sự cấp cao giấu tên của Mỹ tiết lộ với tờ Los Angeles Times. Tàu tuần tra không người lái SeaFox là một loại tàu đặc biệt. Theo nguồn tin trên, nó được quân đội Mỹ gửi tới vùng Vịnh để làm nhiệm vụ phát hiện và tiêu diệt bất kỳ quả thủy lôi nào mà có thể Iran sẽ thả xuống biển trong nỗ lực đóng cửa eo biển Hormuz. Tờ The Times cho biết, SeaFox dài khoảng 1,2m, nặng khoảng 45 kg, có thể di chuyển với vận tốc 6 hải lý ở độ sâu 90m, được trang bị một máy ảnh công nghệ cao không thấm nước, có hệ thống sonar dẫn đường. Giá của mỗi chiếc SeaFox là 100.000 USD. Mỹ đã ký hợp đồng mua một lô tàu SeaFox hồi tháng 5 vừa qua trong một thỏa thuận với Đức do chỉ huy hàng đầu của Mỹ tại Trung Đông, tướng James Mattis, tham gia đàm phán. Khi đó, cũng đã xuất hiện thông tin cho rằng Mỹ sẽ triển khai đội tàu lặn này tới vùng Vịnh, nhưng nó đã không được xác nhận. Tàu lặn SeaFox Mỹ đã gửi 3 tàu sân bay tới vùng biển gần Iran gồm USS Enterprise, USS Dwight D. Eisenhower và USS Abraham Lincoln. Chiếc tàu sân bay thứ 4 USS John C Stennis sẽ gia nhập nhóm tàu này vào tháng 8 tới. Christopher Harmer, một nhà phân tích cao cấp tại Viện nghiên cứu chiến tranh nói với Times, mặc dù Iran sắp tới có thể thông qua các điều luật cho phép nước này có thể đóng cửa eo biển Hormuz, nhưng sự bổ sung quân lực mới nhất của Mỹ có thể đảm bảo rằng cuộc phong tỏa đó sẽ không kéo dài. Đội tàu SeaFox dự kiến sẽ được gửi đi kèm với 2 tàu sân bay lớn và một đội F-22 Mỹ đã gửi tới vùng Vịnh trước đó. Khi được hỏi về động thái gia tăng sự hiện diện quân sự của Mỹ tại vùng Vịnh vào hồi đầu tuần này, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta cho biết: "Chúng tôi muốn họ biết rằng chúng tôi đã chuẩn bị đầy đủ để đối phó với bất kỳ tình huống bất ngờ nào và tốt hơn là họ nên cố gắng giải quyết vấn đề với chúng tôi thông qua kênh ngoại giao". Nguyễn Hường (nguồn RT)
-
<font face="Times New Roman"><font color="#FF0000"><font size="3"><i>Xày ra chiến tranh cấp quốc gia trên thế giới trong năm 2012.......</i></font><br>==========================<br><font size="4">TƯ LIỆU THAM KHẢO</font></font></font><br><b><font size="3"><font color="#FF0000">Mỹ sẽ tấn công Iran vào tháng tới? </font></font></b><br><b>Thứ sáu 13/07/2012 13:28<br><br></b><font color="#708090"><i><b>(GDVN) - Hải quân Mỹ đã bất ngờ phái một tàu sân bay thứ 4 cùng với một phi đội máy bay không người lái tới vùng Vịnh.</b></i></font><br> <br> <font face="Times New Roman"><font size="5"><font color="#000080">H</font></font></font>ải quân Mỹ đã bất ngờ phái một tàu sân bay thứ 4 cùng với một phi đội máy bay không người lái tới vùng Vịnh. <br><br>Đây được coi là động thái mới nhất trong một loạt các hoạt động leo thang khiến giới phân tích lo ngại về khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh chống lại Iran trong tháng tới. <br><br> <img src="http://giaoduc.net.vn/Uploaded/nguyenhuong/2012_07_13/my-tan-cong-iran-vao-thang-8.jpg"><span style="font-style: italic;"><br></span><font size="2"><font color="#000080"><i>Tàu sân bay USS John C. Stennis sẽ tới vùng Vịnh vào tháng tới.</i></font></font><br> <br> Ngoài ra, quân đội Mỹ còn triển khai hàng chục tàu lặn nhỏ không người lái tới vùng Vịnh - một quan chức quân sự cấp cao giấu tên của Mỹ tiết lộ với tờ Los Angeles Times. <br> Tàu tuần tra không người lái SeaFox là một loại tàu đặc biệt. Theo nguồn tin trên, nó được quân đội Mỹ gửi tới vùng Vịnh để làm nhiệm vụ phát hiện và tiêu diệt bất kỳ quả thủy lôi nào mà có thể Iran sẽ thả xuống biển trong nỗ lực <a href="http://giaoduc.net.vn/Quoc-te/Iran-chuan-bi-dong-cua-eo-bien-Hormuz/187725.gd" target="_blank" class="bbc_url" title="External link" rel="nofollow external">đóng cửa eo biển Hormuz</a>. <br> Tờ The Times cho biết, SeaFox dài khoảng 1,2m, nặng khoảng 45 kg, có thể di chuyển với vận tốc 6 hải lý ở độ sâu 90m, được trang bị một máy ảnh công nghệ cao không thấm nước, có hệ thống sonar dẫn đường. Giá của mỗi chiếc SeaFox là 100.000 USD. <br> Mỹ đã ký hợp đồng mua một lô tàu SeaFox hồi tháng 5 vừa qua trong một thỏa thuận với Đức do chỉ huy hàng đầu của Mỹ tại Trung Đông, tướng James Mattis, tham gia đàm phán. <br><br>Khi đó, cũng đã xuất hiện thông tin cho rằng Mỹ sẽ triển khai đội tàu lặn này tới vùng Vịnh, nhưng nó đã không được xác nhận. <br> <img src="http://giaoduc.net.vn/Uploaded/nguyenhuong/2012_07_13/my-tan-cong-iran-vao-thang-8-1.jpg"><span style="font-style: italic;"><br></span><font size="2"><font color="#000080"><i>Tàu lặn SeaFox<br><br></i></font></font> Mỹ đã gửi 3 tàu sân bay tới vùng biển gần Iran gồm USS Enterprise, USS Dwight D. Eisenhower và USS Abraham Lincoln. Chiếc tàu sân bay thứ 4 USS John C Stennis sẽ gia nhập nhóm tàu này vào tháng 8 tới. <br> Christopher Harmer, một nhà phân tích cao cấp tại Viện nghiên cứu chiến tranh nói với Times, mặc dù Iran sắp tới có thể thông qua các điều luật cho phép nước này có thể đóng cửa eo biển Hormuz, nhưng sự bổ sung quân lực mới nhất của Mỹ có thể đảm bảo rằng cuộc phong tỏa đó sẽ không kéo dài. <br> Đội tàu SeaFox dự kiến sẽ được gửi đi kèm với 2 tàu sân bay lớn và một đội F-22 Mỹ đã gửi tới vùng Vịnh trước đó. <br> Khi được hỏi về động thái gia tăng sự hiện diện quân sự của Mỹ tại vùng Vịnh vào hồi đầu tuần này, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta cho biết: <br><br>"Chúng tôi muốn họ biết rằng chúng tôi đã chuẩn bị đầy đủ để đối phó với bất kỳ tình huống bất ngờ nào và tốt hơn là họ nên cố gắng giải quyết vấn đề với chúng tôi thông qua kênh ngoại giao". <br><br><font color="#000080"><b>Nguyễn Hường</b> (nguồn RT)<br><font face="Times New Roman">=======================<br><font color="#800080" size="3"><i><font color="#FF0000" size="5">T</font>hiên Sứ đã viết: <br>* Trong cuộc chiến này, nhanh đến mức bên thua không biết rằng mình thua.....<br>* Ai gây sự trước dù thằng cũng như mền rách.....<br>* Mang tính hủy diệt.....<br>- Thế nào là gây sự trước? <br>Định nghĩa của Thiên Sứ: <br>Tấn công vào một đơn vị quân sự của đối phương. Thí dụ: một tàu chiến có người điều khiển; căn cứ quân sự....</i></font><br></font></font>
-
Thiên tai tăng nặng....... ===================== Nhật: 250.000 người rời bỏ nhà cửa vì lụt lội Chủ Nhật, 15/07/2012 - 07:45 (Dân trí) - Giới chức Nhật cho biết khoảng 250.000 người ở tây nam nước này đã được yêu cầu rời bỏ nhà cửa để tránh lụt lội do mưa lớn gây ra. Nước lũ tràn vào khu dân cư khi sông vỡ bờ. Trong vòng 3 ngày qua, lụt lội và lở đất trên đảo Kyushu, miền nam Nhật, đã khiến ít nhất 20 người thiệt mạng. Hình ảnh trên truyền hình cho thấy dòng nước đục ngầu quét qua nhà cửa và đường phố khi sông ngòi ở phía bắc đảo vỡ bờ. Cơ quan khí tượng Nhật cảnh báo mưa sẽ chưa dứt và lở đất sẽ tiếp tục xảy ra. Hôm thứ sáu vừa qua, ít nhất 7 người bị mất tích, báo chí Nhật cho hay. Lực lượng phòng vệ Nhật đã được huy động để giúp tìm kiếm người mất tích. Lượng nước mưa hơn 75cm trút xuống thành phố Aso, tỉnh Kumamoto, trong vòng 72 tiếng đồng hồ. Lệnh sơ tán đã được đưa ra đối với 85.000 hộ gia đình ở các tỉnh Fukuoka, Saga, Kumamoto và Oita, Kyodo cho hay. Riêng tại tỉnh Fukuoka, khoảng 190.000 người ở 65.000 hộ gia đình đã được lệnh phải sơ tán, do toàn bộ khu vực của thành phố Yanagawa, Yame và Miyama phải sơ tán. Khoảng 140.000 người khác cũng được khuyên nên đi sơ tán. Những người được yêu cầu đi sơ tán được chỉ dẫn tới các trung tâm lánh nạn được lập như trường học và các cơ sở khác. Vũ Quý Theo BBC
-
GIÁO SƯ LƯƠNG KIM ĐỊNH NGƯỜI CHỈ ĐƯỜNG ĐẾN KHO TÀNG MINH TRIẾT VIỆT. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Giám đốc TTNC LHDP www.lyhocdongphuong.org.vn Kính thưa các vị đại biểu. Kính thưa các vị khách quý có mặt nơi đây. Những lời đầu tiên của bài tham luận này tôi xin được thể hiện sự thành tâm ngưỡng vọng tới anh linh giáo sư Lương Kim Định, người chỉ đường đến kho tàng minh triết Việt. Chính vì những giá trị của giáo sư để lại cho hậu thế về một nền minh triết Việt mà chúng ta có mặt nơi đây. Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến với ban tổ chức đã cho tôi có điều kiện thể hiện những suy tư của mình về những giá trị của cội nguồn minh triết Việt và giáo sư Lương Kim Định – một người mà tôi rất tôn trọng và quý mến, khi được biết đến những trước tác của ông. Tôi cũng xin được bày tỏ sự cảm ơn đối với các vị khách quí đã quan tâm đến chủ đề này và có mặt nơi đây. Kính thưa quí vị. Bài tham luận của chúng tôi xin được bắt đầu với phần thứ nhất có tựa là : I - GIÁO SƯ LƯƠNG KIM ĐỊNH - NGƯỜI CHỈ ĐƯỜNG ĐẾN KHO TÀNG MINH TRIẾT VIỆT. Có lẽ tất cả chúng ta ở đây đều biết đến câu ca dao nổi tiếng của nền văn hóa truyền thống Việt:“Ta về ta tắm ao ta. Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn”. Đây cũng chính là câu ca dao mà giáo sư Lương Kim Định nhắc tới trong lời tựa cuốn sách của ông : “Triết lý cái Đình”. Câu ca dao tưởng như rất trực quan, rất bình thường, dân dã ấy, như chỉ là một ngạn ngữ khuyên con người Việt Nam hãy dùng những gì mình có. Vì nó là của ta. Cho nên nó tự do hơn và khoáng đạt hơn khi phải mượn tạm những gì của người khác. Sâu xa hơn, vì nó là của ta, nên nó là những giá trị đích thực. Nhưng ai cũng biết cái “ao ta” ấy chỉ là một hình tượng cho sự sở hữu của ta. Và chỉ khi nó là của ta thì ta mới có tự do vùng vẫy trong cái “ao ta” ấy, “dù trong, dù đục”. Trong hay đục thì chưa biết. Nhưng đoạn chót của câu ca dao ấy đã khẳng định : “ao nhà vẫn hơn”. Như vậy, nó đã xác định rằng: “Ao ta” hơn hẳn “ao người”. Nhưng “ao ta” ở đâu và “ao người” ở đâu? Phải chăng để đi tìm cái “ao ta” ấy người xưa đã muốn nhắc nhở con cháu tìm về cội nguồn? Và cội nguồn của Việt tộc, chính là cái “ao ta” ấy sẽ hơn hẳn “ao người”!? Một sự tương đồng, nhưng rõ ràng và thẳng thắn hơn với nội dung minh triết sâu xa của câu ca dao trên, chính là bài ca của cô Tấm. Mỗi khi cho cá ăn - tài sản ít ỏi và duy nhất của cô - để chia sẻ tâm tư khi phải sống chung với mụ dì ghẻ độc ác, cô Tấm lại cất tiếng gọi: Bống bống bang bang. Bống ăn cơm vàng, cơm bạc nhà ta. Chớ ăn cơm hẩm, cháo hoa nhà người. Như vậy, đến bài ca của cô Tấm thì những cái gì của ta, nó không còn mơ hồ giữa “trong” hay “đục”. Mà nó đã là sự khẳng định giá trị đích thực của nền minh triết Việt: Cũng là cơm. Nhưng cơm của Tấm là “cơm vàng, cơm bạc” là giá trị đích thực chói sáng của nền minh triết Việt. Còn cái giống như thế, cũng là “cơm”, nhưng là “cơm hẩm, cháo hoa nhà người”. Nhưng những hạt cơm vàng, cơm bạc của cô Tâm từ ngày xửa, ngày xưa ấy, đã rơi vãi đâu đây trong lịch sử thăng trầm của Việt tộc? Có cái gì để thay thế phép lạ của Bụt sai khiến đàn chim đến nhặt hết những hạt sạn sỏi trộn chung với thóc , để trả lại một màu vàng óng, nguyên sơ của thúng thóc được tạo ra với bao công sức cần lao của con người? Phải chăng đấy là những giá trị minh triết Việt, được mã hóa trong những câu chuyện cổ tích, huyền thoại gửi gấm lại đời sau? Nhưng những hình ảnh minh triết ấy đưa chúng ta về đâu và nó muốn nói đến một giá trị đích thực gì ẩn chứa đằng sau của cái “ao nhà vẫn hơn”; của cái “cơm vàng, cơm bạc nhà ta” ấy? Trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, rồi một ngàn năm nữa qua đi với bao thăng trầm của Việt sử. Những ngọn lửa chiến chinh khốc liệt đã không chỉ một lần thiêu đốt, tàn phá nền văn hóa đầy minh triết của Việt tộc. Câu chuyện “cơm vàng cơm bạc nhà ta” của cô Tấm đã trở thành chuyện cổ tích thuộc về “ngày xửa, ngày xưa”. Cái “ ao nhà vẫn hơn “ ấy cũng lùi vào dĩ vãng. Trong cuộc sống náo nhiệt, phồn vinh của nền văn minh kỹ thuật, Việt sử với 5000 năm văn hiến đã trở nên huyễn ảo từ nơi cội nguồn. Đã không ít những học giả lóa mắt trước ánh sáng đèn của nền văn minh Tây phương, nên không nhìn thấy những gía trị đích thực của nền minh triết Việt. Cũng không ít những học giả cả trong và ngoài nước, đặt câu hỏi phản biện những giá trị văn hóa sử Việt 5000 năm văn hiến rằng: Tại sao gọi là văn hiến mà nền văn hiến truyền thống đầy tự hào ấy, thiếu vắng những gía trị minh triết? Tại sao những nền văn minh tồn tại ngắn hơn về thời gian, lại ghi nhận những gía trị minh triết với những triết gia tên tuổi và những di sản như là những kỳ tích của nền văn minh nhân loại? Còn 5000 năm văn hiến Việt được ghi nhận trong lịch sử và truyền thống đầy tự hào ấy còn có gì đâu? Vấn đề đã được đặt ra cho những con người Việt Nam đau đáu đi tìm cội nguồn minh triết Việt. Một trong những con người Việt Nam ấy là giáo sư linh mục Lương Kim Định. Với hàng chục đầu sách nổi tiếng một thời , giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề một cách sâu sắc về minh triết Việt. Ông đã nhìn thấy linh hồn của nền văn minh Việt trong những giá trị căn bản của văn hóa Phương Đông - Trong đó có Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Điều này thể hiện rất rõ trong tác phẩm “Lạc Thư minh triết” và được nhắc lại trong nhiều tác phẩm khác của ông. Trong “Lạc thư minh triết”, ông đã tìm thấy mối liên hệ tương đồng giữa những truyền thuyết về huyền sử Việt với những đồ hình biểu kiến mang tính căn để của Lý học Đông phương. Đó là Lạc Thư và Hà Đồ. Ông cũng đã tìm thấy những điểm tương đồng của minh triết Đông phương bàng bạc, lưu truyền trong những di sản văn hóa truyền thống Việt. Từ đó ông đã đặt vấn đề về một “Cơ cấu Việt Nho” để xác định một nền minh triết Việt đầy nhân bản và tách ra khỏi Hán Nho. Trong tác phẩm “Cơ cấu Việt Nho” – với một trí thức uyên bác, ông đã so sánh hầu hết những tư tưởng minh triết Đông Tây Kim cổ với những mảnh lấp lánh còn lại trong di sản truyền thống văn hóa sử Việt, qua những truyền thuyết , huyền thoại, những câu chuyện cổ tích, trong những câu ca dao và so sánh với hầu hết những giá trị của Lý Học Đông phương, kể cả thuyết Âm Dương Ngũ hành và với hệ thống Thi, Thư vốn được coi là của Hán tộc. Trên những cơ sở đó ông đã mặc định về một hệ thống Việt Nho bàng bạc tương đồng từ thời cổ sử. Trong tác phẩm “Triết lý cái Đình”, ông đã xác định ngay từ đầu: “Việt Nam đã có một nền minh triết”. Có thể nói rằng: Giáo sư Lương Kim Định đã đặt ra một vấn đề trải rộng trên nhiều mặt của những giá trị văn hóa Đông phương - từ hàng thiên niên kỷ nay vẫn được mặc định thuộc về nền văn minh Hán – và ông đã tìm thấy một sự tương đồng đến kỳ lạ ở nền văn hiến Việt. Ông đã khai phá trong sự hỗn độn, huyền bí của nền văn minh Đông phương để chỉ ra một gía trị minh triết Việt tương đồng. Nhưng giáo sư Lương Kim Định vẫn chưa đạt được đến đích. Đây là cái khó của giáo sư. Cái khó ấy ông đã viết ngay trong mục I, phần thứ nhất của cuốn “Cơ cấu Việt Nho”. Ông viết: 1. Tại sao không Việt lại Nho? Thưa vì Nho với Việt là một. Nói Nho hay Việt, Việt hay Nho cũng thế. Đây là một lời quyết đoán khó có thể chấp nhận. Vì chữ Nho tuân theo một cú pháp ngược với cú pháp Việt và nó xuất phát từ nước Tàu chứ có phải của vô thừa nhận đâu, để cho ai muốn kéo về với mình cũng được. Vâng! Thưa quí vị. Đây chính là điều cản trở gây khó cho giáo sư khi tìm về cội nguồn minh triết Việt. Mặc dù ông đã đặt vấn đề một cách hoàn mỹ và toàn diện về sự tương đồng giữa những di sản truyền thống của văn hiến Việt với những giá trị mình triết Đông phương. Nhưng điều cản trở ông, chính là ông vẫn cho rằng những giá trị cốt lõi của minh triết Đông phương vẫn thuộc về người Hán. Vẫn có một thứ Hán nho sừng sững bên cạnh Việt Nho. Một thứ “ao người” bên cạnh cái “ao ta” đầy huyễn ảo giữa hai dòng trong đục. Tuy nhiên, đến đây tôi cũng cần phải nói rõ rằng: Bằng một sự mẫn cảm của một học giả uyên bác, giáo sư Lương Kim Định cũng đã đặt ra vấn đề cội nguồn lịch sử của Hán Nho. Ngay tiếp theo đoạn trích dẫn ở trên, ông đã viết: Thế nhưng lại có thể trả lời rằng: Phải, Nho xuất phát từ nước Tàu. Nhưng nước Tàu ở thời đại nào mới được chứ? Có phải từ thời Hán trở đi hay trước nữa? Và không một học giả nào dám chối rằng nó đã xuất phát từ thời trước, thời còn khuyết sử. Thời mà Bách Việt còn làm chủ hầu khắp nước Tàu. Đến đây, quí vị cũng thấy rằng: Giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề một cách rất xác đáng: Lịch sử của nền minh triết Hán Nho – vốn được coi là cội nguồn của văn minh Đông phương – cũng rất huyễn ảo. Nhưng giáo sư chỉ dừng lại ở đây và vẫn vì sự cản trở của quan niệm cho rằng có một nền minh triết Hán Nho xuất phát từ văn minh Hán. Cội nguồn minh triết Việt vẫn còn đầy huyễn ảo. Cái “ao ta” mầu nhiệm ấy vẫn còn chờ “gạn đục, khơi trong”, khi nó vẫn hỗn mang giữa hai dòng “trong”, “đục”. Miếng “cơm vàng, cơm bạc” của cô Tấm ngày xưa vẫn còn trộn lẫn trong sỏi đá và chờ phép màu của Đức Phật. Phép màu nói theo ngôn ngữ của thời “ngày xửa, ngày xưa”, nhưng diễn ra ngôn ngữ hiện đại thì chúng ta cần một phương pháp đúng để tìm về cội nguồn. Phần tiếp theo đây, chúng tôi xin được đề cập đến là: II – TÌM VỀ CỘI NGUỒN MINH TRIẾT VIỆT Kính thưa quí vị. Tất cả chúng ta có mặt nơi đây đều biết đến những câu nổi tiếng của bài Bình Ngô Đại cáo, do đại danh nhân, anh hùng dân tộc Việt - Nguyễn Trãi viết: Như nước Đại Việt ta thuở trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Trải Triệu, Lê, Lý , Trần xây nền độc lập. Cùng Hán , Đường, Tống , Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau. Nhưng hào kiệt thời nào cũng có. Và trong Hoàng cung Huế, một bức thi pháp của vua Minh Mệnh cũng viết: Văn hiến thiên niên quốc. Xa thư vạn lý đồ. Hồng Bàng khai tịch hậu. Nam phục nhất Đường Ngu. Kính thưa quí vị. Có thể nói rằng: Trong lịch sử văn minh nhân loại, chỉ duy nhất có Việt sử ghi nhận với niềm tự hào là quốc gia văn hiến. Vậy thì cội nguồn văn hiến đó từ đâu, khi mà chính nền văn minh Hán cũng khiêm tốn và chưa sốt sắng lắm khi nhận mình là một quốc gia văn hiến trong lịch sử? Các văn bản còn lại trong chính sử, trong truyền thống văn hóa sử Việt, đã chỉ thẳng đến thời Hùng Vương với quốc hiệu Văn Lang - là quốc gia đầu tiên của Việt tộc - lập quốc vào năm 2879 trc CN và chính là cội nguồn của danh xưng văn hiến Việt. Nhưng – như chúng tôi đã trình bày: Lớp bụi thời gian của hơn 1000 năm Bắc thuộc và tiếp đó là 1000 năm hưng quốc với bao thăng trầm của Việt sử, đã phủ dày lớp lớp rêu phong lên cội nguồn văn hiến Việt. Hàng ngàn năm không phải là con số để đọc trong một giây. Chỉ với ngay cuộc đời của những vị cao niên có mặt nơi đây, đã đủ chứng kiến bao nhiêu cuộc bể dâu trong cuộc sống của chúng ta. Hàng ngàn năm đã trôi qua. Việc tìm về nguồn cội Việt tộc không thể dễ dàng. Nhưng có một câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng trong nền minh triết Việt mà chắc tất cả chúng ta có mặt nơi đây đều biết, mà nội dung của nó như đã an ủi những con người Việt Nam đau đáu tìm về cội nguồn; đó là câu truyện Trê Cóc. Câu chuyện kể lại rằng: Đàn con của cóc là bầy nòng nọc, bị vợ chồng cá trê vốn hiếm muộn thấy nòng nọc giống mình, nên đã bắt về làm con của Trê. Mẹ Cóc thấy mất con và biết Trê đã lấy con của mình, bèn đi kiện. Nhưng trước hình thức khác hẳn Cóc và giống Trê của bầy nòng nọc, nên quan cá Chép đã xử cho Trê thắng kiện. Cóc đau buồn trở về thì Nhái Bén khuyên Mẹ Cóc hãy chờ đợi. Thời gian sẽ làm bày nòng nọc tiến hóa và sẽ trở về với Mẹ Cóc, trở về với cội nguồn. Kính thưa quí vị. Theo cách hiểu hoàn toàn chủ quan của chúng tôi thì đây chính là một câu truyện đầy tính minh triết của Việt tộc. Nòng nọc – tức là nền văn minh Khoa Đẩu của Việt tộc, bị Hán hóa trong hơn 1000 năm Bắc thuộc và 1000 năm sau đó ở miền Nam sông Dương tử, nên đã mang một hình thức khác là văn tự Hán . Cho nên nó có một vẻ bề ngoài thuộc về văn minh Hán – đó là hình tượng trong câu chuyện Trê Cóc, khi nòng nọc có bề ngoài giống Trê. Với hình thức bề ngoài đó và sự mạo nhận của đế chế Hán , khi nền văn hiến Việt sụp đổ ở bờ nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước, khiến ai cũng tưởng nó thuộc về văn minh Hán. Nhưng bản chất di truyền tế vi, mà không dễ ai cũng nhận thức được thì nòng nọc vẫn là con của Cóc. Câu chuyện dân gian Việt Nam độc đáo ấy, muốn chuyển tải một thông điệp vượt thời gian đầy minh triết cho chúng ta thấy rằng: Với sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại thì chính những tri thức của nền khoa học hiện đại, sẽ thấy được bản chất của cội nguồn nền minh triết Đông phương thuộc về nền văn minh Khoa đẩu. Bầy nòng nọc sẽ biến thành cóc và trở về với cội nguồn Việt sử. trong sự chờ đợi mỏi mòn của Mẹ Cóc. Nhưng thời gian ấy là bao lâu trong sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại - kể từ khi nền văn minh Khoa Đẩu của Việt tộc sụp đổ ở miền nam sông Dương tử? Kính thưa quí vị. Có vẻ như là một lời mặc khải huyền vĩ - cách đây xấp xỉ 70 năm về trước - trong nhạc phẩm nổi tiếng của nền âm nhạc hiện đại Việt, như là câu trả lời cho vấn nạn thời gian của việc tìm về cội nguồn Việt sử. Đó là nhạc phẩm bất hủ “Hòn vọng phu” nổi tiếng của nhạc sĩ Lê Thương. Chắc nhiều quý vị lớn tuổi ngồi đây đều biết nội dung một đoạn lời nhạc này trong nhạc phẩm nổi tiếng nói trên: Ta cố đợi ngàn năm. Một ngàn năm nữa sẽ qua. Đến khi núi lở, sông mòn. Mới mong tới hòn Vọng phu. Kể từ khi Việt sử chìm trong bóng tối dưới sự thống trị của đế chế Hán, đến nay hơn 2000 năm đã trôi qua. Qua hơn hai ngàn năm ấy, sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại với những tri thức khoa học, kỹ thuật vượt trội. tri thức khoa học đã tìm thấy những cấu tạo tế vi của vật chất, cũng như sự vận động của những thiên hà khổng lồ. Nó đã tìm thấy được bản chất của sự di truyền. Nó đã kết nối các nền văn minh cổ xưa trong sự hội nhập toàn cầu vĩ đại. Nó đã soi ánh sáng của tri thức hiện đại vào những giá trị của nền văn minh Đông phương huyền vĩ. Phải chăng, đây chính là thời gian được mặc khải trong lời nhạc phẩm Hòn Vọng phu, để đàn nòng nọc tiến hóa trở thành cóc và về với cội nguồn Việt sử? Đến đây, chúng tôi cần nói rõ để mong được quí vị lưu ý rằng: Chúng tôi không coi việc giải mã những truyền thuyết, truyện cổ, ca dao tục ngữ dân gian…vv….. làm bằng chứng khoa học để chứng minh cho lịch sử. Đấy không phải là phương pháp được khoa học công nhận - Chí ít là trong giai đoạn này hiện nay. Bởi vì tri thức khoa học ngày nay, chưa có một tiêu chí để làm chuẩn mực, xác định một phương pháp giải mã những di sản văn hóa phi vật thể truyền thống được coi là đúng. Chúng tôi cũng không dùng sự suy luận chủ quan, hoặc nhân danh ngoài khoa học để xác định luận điểm của chúng tôi, khi chứng minh cội nguồn minh triết Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Kính thưa quí vị. Chúng ta đang tiếp bước theo các bậc tiền nhân để đi tìm về cội nguồn văn hiến Việt với gần 5000 năm lịch sử, mà một trong các vị tiền bối khả kính ấy chính là giáo sư Lương Kim Định – là nguyên nhân để chúng ta có mặt ngày hôm nay - cùng chia sẻ những giá trị mà ông đã để lại, trong công cuộc tìm về cội nguồn văn hiến Việt. Chúng ta có thuận lợi hơn so với thời đại của giáo sư Lương Kim Định đã sống. Đó chính là sự tiến bộ vượt bậc của những tri thức khoa học hiện đại, trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Đó là những phương pháp luận khoa học, những tiêu chí khoa học , cùng với những thành tựu của khoa học hiện đại, để so sánh, đối chiếu thẩm định một lý thuyết, một giả thuyết, một phương pháp ứng dụng được coi là đúng. Từ những giá trị đó của tri thức khoa học hiện đại , chúng tôi coi như là những phương tiện hữu hiệu để tiếp bước các bậc tiền bối tìm về cội nguồn minh triết Việt và khám phá những giá trị thực của nền văn minh Đông phương huyền vĩ. Phần tiếp theo đây, chúng tôi sẽ trình bày về: III. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN NHỮNG GÍA TRỊ CỦA NỀN VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG. Kính thưa quý vị. Chúng ta đang sống trong một thời đại chuyển tiếp của sự hội nhập toàn cầu vĩ đại, lần đầu tiên trong lịch sử tiến hóa của nền văn minh nhân loại với những thành tựu khoa học tiên tiến nhất tính đến ngày hôm nay. Tất cả những gía trị của các nền văn minh từ thời cổ đại đến nay đều được chia sẻ và được biết đến qua mạng thông tin toàn cầu. Nhưng có một nền văn minh cổ xưa vẫn sừng sững một cách huyền vĩ, thách đố tất cả tri thức của nền văn minh nhân loại trong thời hội nhập. Đó chính là nền văn minh Đông phương huyền bí. Phải chăng đó là vì người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. Cái sai đầu tiên và cũng rất phổ biến trong tất cả các nghiên cứu về cội nguồn văn minh Đông phương - mà trong quá trình nghiên cứu về Lý học Đông phương, chúng tôi đã nhận thấy rằng: Đó chính là sự mặc định nó thuộc về văn minh Hán . Từ đó, khiến dẫn đến một hệ quả đương nhiên cho rằng: Những giá trị của nền văn minh Đông phương ghi nhận trong các bản văn chữ Hán là những thành tựu của nền văn minh này. Và đó chính là nguyên nhân khiến người ta sẽ không thể phục chế được một cách có hệ thống và tính nhất quán những giá trị đích thực của nền văn minh Đông phương. Mà nền tảng căn bản của là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Đây cũng chính là điều mà giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề - tôi xin được nhắc lại như sau: Phải, Nho xuất phát từ nước Tàu. Nhưng nước Tàu ở thời đại nào mới được chứ? Có phải từ thời Hán trở đi hay trước nữa. Và không một học giả nào dám chối rằng nó đã xuất phát từ thời trước, thời còn khuyết sử. Thời mà Bách Việt còn làm chủ hầu khắp nước Tàu. Kính thưa quí vị! Để xác định cội nguồn Việt tộc và phủ nhận sự mặc định phổ biến từ ngàn xưa về nguồn gốc Hán của nền minh triết Đông, chúng ta phải viện dẫn đến tri thức khoa học hiện đại và nhân danh khoa học. Tiêu chí khoa học hiện đại đã xác định một học thuyết thuộc về nền văn minh nào đó thì nó phải thỏa mãn ba yếu tố sau: 1/ Lịch sử phát triển của học thuyết phải chứng tỏ một cách hợp lý thuộc về nền văn minh đó. 2/ Nền tảng tri thức xã hội phải phù hợp với sự hình thành nên nội dung của học thuyết đó. 3/ Nội dung của học thuyết phải thỏa mãn tính hợp lý, tính hệ thống, tính nhất quán trong cấu trúc của nó. Trên cơ sở tiêu chí khoa học này chúng tôi đã xác định: Những minh chứng một cách chi tiết cho luận điểm này và mọi vấn đề liên quan, chúng tôi đã trình bày trong các tác phẩm đã xuất bản và trong các tiểu luận được trình bày trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn. Quí vị quan tâm có thể tham khảo ở website trên. Trong phạm vi bài nói hôm nay, chúng tôi xin trình bày một cách tóm tắt như sau: Yếu tố thứ nhất (1). Lịch sử phát triển của học thuyết phải chứng tỏ một cách hợp lý thuộc về nền văn minh đó. Trên cơ sở này chúng ta xem xét lịch sử phát triển thuyết Âm Dương Ngũ hành trong nền văn minh Hán. Trước hết chúng ta hãy xem xét nội dung của cuốn Hoàng Đề nội kinh tố vấn. Đây là cuốn sách về lý luận căn bản của Đông y nổi tiếng với thời gian hình thành được xác định vào thời Hoàng Đế, hơn 3000 năm trước CN. Nội dung của cuốn sách này hoàn toàn sử dụng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành như là hệ quả của một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh. Ở đây, nếu có vị nào đã một lần xem được cuốn Hoàng Đế nội kinh sẽ nhận thấy điều này. Nhưng 1000 năm sau đó - Đây cũng không phải là con số được đọc trong một giây – thì vua Đại Vũ theo cổ thư chữ Hán mới tìm ra Lạc Thư và phát minh ra thuyết Ngũ hành. Sau đó 1000 năm nữa cũng theo cổ thư chữ Hán thì vua Văn Vương nhà Chu mới sáng tạo ra Hậu Thiên Bát quái Văn Vương và làm ra cuốn Chu Dịch. 500 năm sau đó, theo cổ thư chữ Hán thì một vị danh sư được coi là Khổng tử mới bổ sung vào cuốn Chu Dịch và khái niệm Âm Dương trong văn bản cổ nhất xuất hiện vào thời kỳ này. Tóm lại, thuyết Âm Dương Ngũ hành xuất hiện trong lịch sử văn minh Hán với một tiến trình ngược theo kiểu : Sinh con rồi mới sinh cha. Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông. Để xác định rõ hơn: Ngay cả những nhà nghiên cứu lịch sử và Lý học Trung Hoa hiện đại cho đến tận ngày hôm nay - khi chúng ta gặp nhau ở đây - vẫn không thể xác định được Thuyết Âm Dương Ngũ hành xuất hiện vào thời kỳ nào trong lịch sử văn minh Hán. Đúng như giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề từ hơn 40 năm trước. Yếu tố thứ hai (2): Nền tảng tri thức xã hội phải phù hợp với sự hình thành nên nội dung của học thuyết đó. Về vấn đề này thì chúng tôi đã chứng minh rằng: Toàn bộ lịch sử của nền văn minh Hán từ hàng ngàn năm nay không chứng tỏ được một nền tảng tri thức xã hội tạo nên thuyết Âm Dương Ngũ hành. Chỉ tính riêng sự phát triển bất hợp lý trong quá trình hình thành học thuyết này theo bản văn chữ Hán, đã cho thấy nó không thể thuộc về nền văn minh Hán. Còn những hệ quả ứng dụng của nó - tôi thí dụ như bảng Lục thập Hoa giáp – thì chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa hiện đại cũng phải phát biểu rằng: “Không hiểu từ cơ sở nào để các tiền nhân Trung Hoa đặt ra bảng Lục thập hoa giáp này? Từ hàng ngàn năm nay đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về nó, nhưng đến nay vẫn cứ là huyền bí, khó hiểu !” (Thiệu Vĩ Hoa. “Chu Dịch và Dự đoán học”& “Dự đoán theo tứ trụ”) Tóm lại từ hàng ngàn năm nay, chính những người Trung Hoa cũng chỉ biết học thuộc lòng và ứng dụng. Họ không thể phục hồi lại được một học thuyết nền tảng của nền minh triết Đông phương – thuyết Âm Dương Ngũ hành – tiền đề cho các bộ môn ứng dụng là hệ quả của nó. Nếu như nền tảng tri thức của nền văn minh Hán chính là cơ sở hình thành nên học thuyết Âm Dương Ngũ hành và những giá trị của nó chính là thành tựu đạt được trên cơ sở nền tảng tri thức đó - cho dù giải thích bằng tính thất truyền - thì – người ta đã phục hồi được nó từ lâu. Chứ không thể huyền bí hơn 2000 năm nay cho đến tận ngày hôm nay – khi chúng ta đang ngồi ở đây để tưởng niệm giáo sư Lương Kim Định và bàn về những di sản của giáo sư tìm về cội nguồn minh triết Việt. Nòng nọc về bản chất không phải con của Trê. Yếu tố thứ ba (3) là: Nội dung của học thuyết phải thỏa mãn tính hợp lý, tính hệ thống, tính nhất quán trong cấu trúc của nó. Về vấn đề này thì chúng tôi cần xác định rằng: Cấu trúc của thuyết Âm Dương Ngũ hành thể hiện trong các bản văn chữ Hán thậm chí không thể chứng tỏ đó là một học thuyết hoàn chỉnh. Chưa nói đến tính hợp lý, tính hệ thông và nhất quán của nó. Chúng đầy rẫy những mâu thuẫn và có tính tự phủ định trong các bản văn chữ Hán liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Hiện tượng này đã khiến cho những nhà nghiên cứu chuyên môn sâu của chính nền văn minh Trung Hoa từ hàng ngàn năm nay, cũng mâu thuẫn nhau khi giải thích những vấn đề liên quan đến nó. Theo kiểu “thày bói xem voi”, mà một câu truyện nổi tiếng của nền minh triết Việt đã nói đến. Những chứng minh rất cụ thể và chi tiết về vấn đề này, quí vị có thể tham khảo tại website lyhocdongphuong.org.vn của chúng tôi. Ở đây chúng tôi chỉ xin dẫn chứng một số những ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành trong các bản văn cổ chữ Hán, tương đối phổ biến. Đầu tiên là môn phong thủy. Có lẽ hầu hết những người quan tâm đến phong thủy - được coi là xuất phát trong lịch sử văn minh Hán - đều biết rằng có đến 4 trường phái phong thủy lưu truyền. Những trường phái này có những luận điểm mâu thuẫn lẫn nhau trong những ứng dụng cụ thể. Ông thày thuộc trường phái này thì phản đối phương pháp của ông thày theo trường phái khác. Và hệ quả của nó là nội cái bếp của gia chủ, nếu có nhiều ông thày theo cổ thư chữ Hán đến sửa thì nó quay đủ các hướng khác nhau. Hoặc cụ thể hơn chính là câu chuyện được ghi nhận trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, có tựa là “Nhật giả liệt truyện”. Trong câu chuyện này, Tư Mã Thiên đã miêu tả việc các thày bói Trung Hoa được Hán Vũ Đế triệu tập, để chọn ngày cưới vợ cho nhà vua. Nhưng các thày cãi nhau ỏm tỏi cả ngày, đỏ mặt tía tai, mà vẫn không thống nhất được ngày nào được coi là tốt để cưới vợ cho vị Hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Hoa. Như vậy, với sự giới thiệu những luận cứ tiêu biểu, căn cứ vào tiêu chí khoa học , chúng tôi đã xác định rằng: Cội nguồn minh triết Đông phương không thể thuộc về văn minh Hán. Tiếp theo đây, chúng tôi xin giới thiệu một cách nghiêm túc những cách giải thích khác cho sự bí ẩn của nền văn minh Đông phương, nhằm làm sáng tỏ them tính bế tắc khi xác định sai lầm về cội nguồn văn minh Đông phương thuộc về văn minh Hán. Kính thưa quí vị. Cách giải thích thứ nhất, mà có lẽ các quí vị ít được nghe, cho rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành là do người ngoài hành tinh có một nền văn minh vượt trội đã đem đến trái Đất. Vì kiến thức vượt trội của nền văn minh ngoài trái Đất, nên chúng ta không thể hiểu nổi!? Chúng tôi bác bỏ giả thuyết này, vì những giá trị của nó phục vụ cho con người và xuất phát từ những thực tại khách quan trên chính trái Đất này. Do đó nó không thể là của người ngoài hành tinh ban cho trái Đất này. Nhưng còn một giả thuyết nữa thì đã có từ lâu và có thể ít nhiều trong chúng ta được nghe nói tới. Đó là việc cho rằng: thuyết Âm Dương Ngũ hành do các bậc tiên thánh làm ra, nên người phàm không thể hiểu nổi. Một câu “thành ngữ” thuộc về “ chuyên ngành bói toán” tồn tại từ cách đây mới ngót nửa thế kỷ trờ về trước, mà những vị lớn tuổi đều biết, đó là: “Theo quẻ này thì Thánh dạy rằng:….”. Và Thánh ở đây được hiểu là những bậc siêu phàm từ cõi trên, không thuộc về cõi trần gian này. Tất nhiên đây không phải cách giải thích nhân danh khoa học. Nhưng nó gián tiếp phủ nhận nền tảng tri thức của nền văn minh Hán không phải là cơ sở tạo ra thuyết Âm Dương Ngũ hành. Vì nó thuộc về trí tuệ của tiên thánh. Tất cả hai cách giải thích trên, cũng mặc nhiên xác định cội nguồn lý học Đông phương thuộc về văn minh Hán. Và nó đã phản ánh sự bế tắc, khi không thể khám phá được những bí ẩn của lý học Đông phương bằng một tư duy khoa học. Bởi vì bản chất của nền minh triết Đông phương không thuộc về văn minh Hán. Tiếp theo đây chúng tôi minh chứng sự xác định cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt trong phần III của bài tham luận này: III .THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH THUỘC VỀ VĂN HIẾN VIỆT Kính thưa quí vị. Khi xác định cội nguồn Lý học Đông phương không thuộc về văn minh Hán, chúng tôi đã xóa bỏ được sai lầm ngay từ dữ kiện đầu vào của việc đi tìm cội nguồn minh triết Đông phương. Từ đó, chúng tôi xác định với một giả thiết có cơ sở là nó thuộc về nền văn hiến Việt với lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử. Đây cũng chính là vấn đề mà giáo sư Lương Kim Định đã đặt ra trong các trước tác của ông. Cũng trên cơ sở của giả thuyết này thì vấn đề hợp lý tiếp theo được đặt ra là: Những gì được ghi nhận trong cổ thư chữ Hán liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành có thể sai lệch và không phản ánh đúng nội dung nguyên thủy của nó – khi nền văn minh Việt đã sụp đổ ở miền nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước. Điều này đã phản ánh trên thực tế bằng những thất bại của những học giả nghiên cứu theo hướng này, không phải bây giờ, hoặc vài chục, vài trăm năm. Mà là đã hàng thiên niên kỷ. Kính thưa quí vị. Những tiêu chí khoa học được trình bày ở trên với những luận cứ phù hợp đã xác định rằng: Cơ sở nền minh triết Đông phương mà nền tảng là thuyết Âm Dương Ngũ hành không thuộc về nền văn minh Hán. Đồng thời những tiêu chí khoa học đó , cũng chính là những yếu tố cần để xác định những giá trị đích thực của nền văn minh Đông phương và tìm về cội nguồn minh triết Việt - một cách sòng phẳng, công bằng và nhân danh tính khách quan khoa học. Nhưng để chứng minh cội nguồn thuyết Âm Dương ngũ hành thuộc về văn hiến Việt, còn cần phải đối chiếu, so sánh với nhiều tiêu chí khoa học khác với những luận cứ khách quan có thể kiểm chứng. Cụ thể là: *Sử dụng những tiêu chí khoa học hiện đại gồm những yếu tố cần và đủ cho việc xác minh tính khoa học của một giả thuyết, một phương pháp, một lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng. *Những tiêu chí khoa học kết hợp với những thành tựu của tri thức khoa học hiện đại đã được kiểm chứng làm cơ sở so sánh, đối chiếu với những gía trị còn lại của nền minh triết Đông Phương . Đồng thời kết quả nghiên cứu phải phù hợp với tiêu chí khoa học. Việc chứng minh cội nguồn thuyết Âm Dương ngũ hành thuộc về văn hiến Việt, chúng tôi cũng bắt đầu so sánh với ba tiêu chí xác định một học thuyết thuộc sở hữu của nền văn minh nào, đã trình bày ở trên. Yếu tố thứ nhất (1). Lịch sử phát triển của học thuyết phải chứng tỏ một cách hợp lý thuộc về nền văn minh đó. Chúng tôi đã xác định rằng : Nền văn hiến Việt chính là cội nguồn lịch sử của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Và đây chính là giả thiết mà chúng tôi đặt ra nhân danh khoa học, sau khi bác bỏ cội nguồn thuyết Âm Dương Ngũ hành không thuộc về văn minh Hán. Những tiêu chí khoa học xác định rằng: Một giả thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng, nếu nó giải thích một cách hợp lý hầu hết những hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó một cách nhất quán, có tính hệ thống, tính hoàn chính, tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Đây chính là cơ sở cho những luận cứ phù hợp với tiêu chí khoa học của một giả thuyết nhân danh khoa học, xác định cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về Việt tộc. Vấn đề lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về nền văn hiến Việt là một giả thuyết nhân danh khoa học. Do đó, chúng tôi phải chứng minh giả thuyết này phù hợp với tất cả những tiêu chí khoa học xác định một giả thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng, thông qua hai yếu tố còn lại của tiêu chí xác định cội nguồn văn minh cho một học thuyết đã trình bày ở trên. Yếu tố thứ hai (2): Nền tảng tri thức xã hội phải phù hợp với sự hình thành nên nội dung của học thuyết đó. Chứng minh được giả thuyết này là một việc cực kỳ khó khăn. Vì lịch sử thăng trầm với hơn một ngàn năm đô hộ của Bắc Phương và 1000 năm hưng quốc sau đó với bao cuộc chiến tranh xâm lược hủy diệt văn hóa Việt, đã xóa nhòa những dấu ấn của nền văn minh Việt tộc. Nhưng chính bề dày của nền văn hiến có cội nguồn từ thời Hùng Vương dựng nước từ gần 5000 năm trước, đã để lại cho chúng ta những dấu ấn qua những di sản văn hóa phi vật thể - mà những dấu ấn đó chính là những phát hiện của giáo sư Lương Kim Định trong các tác phẩm của ông – đã được chúng tôi đã bổ sung, làm sáng tỏ hơn trong những luận cứ của mình. Ở đây chúng tôi cũng xin được lưu ý các quí vị quan tâm là: Vào tháng 5. 2002, cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc đã thống nhất xác định rằng: Những di sản văn hóa phi vật thể là những bằng chứng khoa học để chứng minh cho lịch sử. Như vậy, di vật khảo cổ, tư liệu văn bản cổ..vv… không phải là bằng chứng không thể thay thế chứng minh cho lịch sử. Kính thưa quý vị. Chúng tôi đã chứng minh một cách chi tiết nền tảng minh triết Việt là cơ sở phục hồi và phù hợp với sự hình thành nên học thuyết Âm Dương Ngũ hành, trong các sách đã xuất bản với những tiểu luận được đăng tải trên website lyhocdongphuong.org.vn. Nhưng trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin được giới thiệu một di sản văn hóa phi vật thể quen thuộc với tất cả những con người Việt Nam, trong kho tàng di sản văn hóa Việt còn lại qua hơn 2000 năm thăng trầm của lịch sử Việt tộc. Xin quý vị xem bức tranh dân gian dưới đây: Kính thưa quí vị. Tôi tin chắc rằng bức tranh dân gian đầy chất dân dã này , quá quen thuộc với tất cả con người Việt Nam - Từ những đứa trẻ bắt đầu có nhận thức cho đến những vị cao niên. Tùy theo góc nhìn, chúng ta có thể hiểu nội dung bức tranh dưới nhiều góc độ. Nhưng chúng tôi xin lưu ý quí vị về biểu tượng chiếc vòng xoáy trên bụng con lợn mẹ trong tranh và so sánh với một biểu tượng gần giống cũng rất đỗi quen thuộc với chúng ta, là đồ hình dưới đây: Tất cả chúng ta đều biết rằng đồ hình trên chính là biểu tương cho sự minh triết Hán nho thể hiện trong Kinh Dịch và những vấn đề liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nó có mặt ở khắp nơi và mang dấu ấn của nền văn hóa Hán. Nó ăn theo sự bí ẩn huyền vĩ của minh triết Đông phương và trở thành vật thiêng để trấn yểm trước của nhiều ngôi nhà ngay ở Hanoi này. Tất nhiên nó là sản phẩm của văn hóa Hán, trong quá trình nghiên cứu minh triết Đông phương . Bản quyền phát minh ra đồ hình này là Chu Đôn Di vào đời Tống cách đây ngót 1000 năm. Nhưng như một sự mặc khải, cũng trong lời bài hát của nhạc phẩm nổi tiếng Hòn Vọng phu của nhạc sĩ Lê Thương, chắc nhiều vị còn nhớ đoạn này: Từ bóng cây, gốc rạ ven đường. Từ mái tranh, góc đình trong làng. Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống…. Nhưng trong di sản văn hóa truyền thống Việt – nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống ấy lại tồn tại một đồ hình minh triết khác hẳn cho đồ hình Âm Dương có nguồn gốc Hán trên. Đó chính là Đồ hình Âm Dương Lạc Việt thể hiện một nền minh triết Việt khác hẳn minh triết Hán nho. Xin quý vị so sánh hai hình như sau: Rõ ràng chúng có một hình thức khác hẳn nhau , mặc dù bề ngoài có vẻ gần giống, như Trê với Nòng nọc vậy. Đồ hình Âm Dương Lạc Việt, không phải chỉ duy nhất thề hiện ở bức tranh Đàn lợn nổi tiếng của làng tranh Đông Hồ. Mà chúng tôi còn thấy rải rác ở nhiều nơi đình chùa cổ và trên các di sản văn hóa khác trong kho tàng văn hóa truyền thống Việt. Dưới đây là những hình ảnh mô tả đồ hình Âm Dương Lạc Việt trên các di sản mà chúng tôi sưu tầm được. Đồ hình Âm Dương Việt trong đền thờ Mẫu thân sinh ra Thánh Gióng tại Bắc Ninh Đồ hình Âm Dương Việt ở chùa Bạch Y Tuyết Sơn Bồ Tát - được xây dựng vào năm đầu tiên của thế kỷ XIX 1801, tại Xóm 8, xã Nghi Tiến, huyện Nghi Lộc (Nghệ An). Đồ hình Âm Dương Việt trên chùa Vô Vi Tự. Chùa nằm ở phía Bắc núi Tử Trầm, thuộc xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Hình Âm Dương Lạc Việt ở chùa Bối Khê thuộc xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hanoi. Đồ hình âm - dương Lạc Việt trên cái giá đặt văn tế (Đền thờ tướng quân Lê Thành - một vị tướng thời Lê Lợi , Làng Định Hòa - Đông Cương - Thanh Hóa) Đồ hình Âm Dương Lạc Việt trên văn bia "Khiêm Cung Ký" trong lăng Vua Tự Đức. Kính thưa quí vị. Đồ hình Âm Dương Lạc Việt không chỉ có trong di sản văn hóa Việt,mà còn ở những cộng đồng người Hoa có nguồn gốc Nam Dương tử, lãnh thổ của nước Văn Lang, cội nguồn nền minh triết đầy huyền vĩ của Việt tộc. Đồ hình Âm Dương Lạc Việt ở Hội quán Phúc Kiến tại Hội An. Đồ hình Âm Dương Lạc Việt trong chùa cổ Trung Hoa trên đất Malaysia. Trên đây, chúng tôi chỉ xin giới thiệu những Đồ hình Âm Dương Lạc Việt tiêu biểu sưu tầm được trong di sản văn hóa truyền thống Việt và các vùng lãnh thổ quôc gia lân bang. Việc thể hiện những đồ hình Âm Dương Lạc Việt ở đây – vốn không hề có mặt trong bất cứ bản văn chữ Hán nào tìm được tính đến ngày hôm nay ,liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành và kinh Dịch - để so sánh với Đồ hình Âm Dương Hán, chúng tôi muốn trình bày mấy vấn đề sau đây: * Đồ hình Âm Dương nói chung là hình tượng biểu kiến của Thuyết Âm Dương Ngũ hành, một học thuyết nền tảng của Lý học Đông phương. Như vậy, nền minh triết Việt một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử, đã có một đồ hình biểu kiến riêng tồn tại trong di sản văn hiến Việt, bên cạnh đồ hình Âm Dương biểu kiến của văn minh Hán. Điều đó chứng tỏ rằng nền minh triết Việt đã quan niệm khác hẳn về nguyên lý căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ hành qua hình tượng biểu kiến về học thuyết này, qua đồ hình Âm Dương Lạc Việt. * Những di sản còn lại sau hơn 2000 năm bị vùi lấp trong lịch sử thăng trầm của Việt tộc, nhưng đủ để xác định bề dày của nền tảng minh triết Việt liên quan đến học thuyết Âm Dương Ngũ hành. Hệ thống luận cứ chứng minh nền tảng tri thức của Lý học Đông phương có cội nguồn minh triết Việt – mà đồ hình Âm Dương Lạc Việt là chỉ là một thí dụ - chúng tôi không thể trình bày một cách hoàn chỉnh trong bài tham luận này. Nên cũng xin trân trọng kính mới quý vị quan tâm quán xét trên website lyhocdongphuong.org.vn. * Lịch sử xuất hiện của Đồ hình Âm Dương Việt ở khắp các vùng lãnh thổ và trong nước Việt Nam hiện nay cho thấy một di sản văn hóa còn lại mang tính phổ biến ở Nam Dương tử và phải có trước đồ hình Âm Dương Hán - Vốn xuất hiện từ thời Tây Hán. * Trên cơ sở những di sản văn hóa truyền thống Việt mà chúng tôi phát hiện trong quá trình nghiên cứu văn hóa cổ và Lý học Đông phương , chúng tôi đã xác định và chứng tỏ rằng: Lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành phải thuộc về cội nguồn văn hiến Việt và chính những di sản còn lại, dù tan tác với thời gian hơn 2000 năm thăng trầm của Việt sử, cũng đủ phục hồi lại một cách có hệ thống, nhất quán và khả năng hoàn chỉnh học thuyết này trên cơ sở so sánh, đối chiếu những thành tựu của khoa học hiện đại và những tiêu chí khoa học. Đây chính là bằng chứng sắc sảo – nhân danh khoa học - xác định một cách chắc chắn - nền tảng tri thức Việt là chủ nhân đích thực của nền minh triết Đông phương. Bây giờ chúng ta quán xét đến yếu tố cuối cùng theo tiêu chí khoa học để tìm về những giá trị huyền vĩ của nền văn minh Dông phương. Yếu tố thứ ba (3): Nội dung của học thuyết phải thỏa mãn tính hợp lý, tính hệ thống, tính nhất quán trong cấu trúc của nó. Đây chính là vấn đề cực kỳ khó khăn. Sự bế tắc trải trên 2000 năm trong lịch sử khám phá những bí ẩn của Lý học Đông phương của tất cả các triết gia Đông phương từ cổ đại và cả trí tuệ của nền văn minh hiện đại , trong sự hội nhập của các nền văn minh đã chứng tỏ điều này. Bởi vậy, khi những di sản còn lại của nền văn minh Lạc Việt được xác định chính là nền tảng tri thức còn lại của Lý học Đông phương – mà cốt lõi là thuyết Âm Dương Ngũ hành được xác định thuộc về nền văn hiến Việt - thì nó phải chứng tỏ là một học thuyết có tính hệ thống, tính nhất quán và tính hợp lý trong cấu trúc nội dung và khả năng phục hồi một cách hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống lý thuyết này. Nếu xác định đó là một học thuyết khoa học thì còn phải thỏa mãn những yếu tố về tính khách quan, tính quy luật và khả năng tiên tri….và còn rất nhiều những tiêu chí khoa học khác cho một học thuyết nhân danh khoa học, như: Khả năng phản biện, khả năng tiếp tục hoàn thiện và phát triển trong việc giải thích các vấn đề liên quan đến nó…vv…. Kính thưa quí vị. Đến đây, tôi cần xác định một yếu tố rất quan trọng nữa, mang tính đặc thù trong việc tìm hiểu nghiên cứu thuyết Âm Dương Ngũ hành - vì đây là trường hợp chưa có tiền lệ trong sự phát triển của lịch sử văn minh nhân loại. Trên thực tế quá trình phát triển của lịch sử văn minh nhân loại nhận thức được - thì - tất cả mọi học thuyết dù khoa học hay phi khoa học, duy vật hay duy tâm….vv…đều hình thành bắt đầu từ những nhận thức trực quan, được tổng hợp với tư duy trừu tượng và sau đó mới hình thành nên cấu trúc một học thuyết nào đó, để giải thích những hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó. Đây là một quy luật. Do đó, bất cứ một học thuyết nào - kể các các học thuyết mang tính tôn giáo, thần quyền, hay khoa học – khi hình thành trong lịch sử phát triển của nền văn minh nhân loại, đều có thể kiểm chứng được và xác định tính chân lý của trên cơ sở nền tảng tri thức xã hội của nền văn minh tạo ra nó,hoặc thẩm định được tính chân lý trong lịch sử phát triển tiếp theo của nền văn minh liên quan đến nó.. Nhưng ở đây thì thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết đã có sẵn. Mặc dù sự hình thành học thuyết này cũng không nằm ngoài quy luật lịch sử và phát triển nội tai của nó . Và nếu như giả thuyết nó thuộc về nền văn minh Việt là đúng thì đấy lại là một nền văn minh đã sụp đổ bên bờ nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước. Tất cả những nền tảng tri thức duy trì học thuyết này cũng bị vùi lấp trong hơn 1000 năm Bắc thuộc và 1000 năm sau đó của Việt sử. Ở đây chúng tôi chưa nói đến nó còn có thể thuộc về một nền văn minh xa xôi hơn nữa, từ hàng vạn năm trước mà chúng tôi đã chứng minh sau này. Đây chính là tính đặc thù rất quan trong của việc nghiên cứu Lý học Đông phương. Chính vì vậy mà việc chứng minh cho nội dung của học thuyết này khó khăn hơn rất nhiều . Một khó khăn dễ nhận thấy là những khái niệm, biểu tượng, ký hiệu, tiên đề, nguyên lý…vv…thuộc về thuyết Âm Dương Ngũ hành , mà người xưa đúc kết từ những hiện tương khách quan và trên nền tảng tri thức của nền văn minh đã tạo ra nó nhận thức được và kiểm chứng được - thì - nó lại không thuộc về nền tảng tri thức của nền văn minh hiện đại. Nhưng những tiêu chí khoa học đòi hỏi: Sự phục hồi học thuyết này phải chứng tỏ được tính hợp lý trong toàn bộ cấu trúc thuộc hệ thống của nó một cách nhất quán và khả năng hoàn chỉnh học thuyết này. Nếu không chứng minh được điều này và vượt qua được sự cách biết giữa nền tảng tri thức của các nền văn minh , thì hệ quả vẫn là dẫn đến sự bế tắc. Cho dù chúng ta đã bắt đầu từ một giả thuyết có cơ sở và đáng tin cậy là cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về nền văn minh Lạc Việt, sau khí đã chứng minh tính mâu thuẫn trong nội dung và lịch sử cội nguồn của học thuyết không thuộc về văn minh Hán. Một yếu tố cần quan tâm và là hệ quả của tính chất đặc thù trong việc khám phá bí ẩn của nền Lý học Đông phương – chính là nó không đơn giản chỉ là tính thất truyền và những mảng còn lại đều chính xác là những thành tựu của nó - thì - người ta đã phục hồi được lý thuyết này từ lâu rồi. Nhưng ở đây đã hơn 2000 năm trôi qua trong lịch sử văn minh nhân loại, để cho đến tận ngày hôm nay những gía trị huyền vĩ của nền văn minh Đông phương vẫn sừng sững thách đố trí tuệ của văn minh nhân loại. Như vậy, cần phải xác định rằng đã có những sai lệch cần phải hiệu chỉnh trong những giá trị còn lại của Lý học Đông phương - thể hiện trong những bản văn chữ Hán – khi xác định rằng: Nền văn minh Hán không phải là cội nguồn đích thức của Lý học Đông phương. Trên cơ sở so sánh, đối chiếu với những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết và phương pháp khoa học, chúng tôi đã chứng minh rằng chính những di sản văn hóa truyền thống Việt – là nền tảng tri thức Việt qua những di sản văn hóa truyền thống còn sót lại - là những yếu tố quan trọng góp phần hiệu chỉnh nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành có tính hệ thống, tính nhất quán và sự hợp lý lý thuyết trên toàn bộ những vấn đề liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Những cơ sở của những luận điểm có tính hệ thống chứng minh cho vấn đề này, chúng tôi không thể chuyển tại trong nội dung một bài tham luận ngắn và có tính giới hạn về thời gian. Một lần nữa chúng tôi trân trọng mời các quí vị quan tâm tham khảo website lyhocdongphuong.org.vn. Nhưng ở đây tôi có thể minh họa qua một thành tựu của chúng tôi. Kính thưa quí vị. Cuộc Hội thảo “ Tính khoa học trong Phong thủy” do TTNC LHDP tổ chức thành công tại Hanoi vào ngày 15. 12 . 2009, trước khoảng 400 đại biểu với sự tham dự của nhiều nhà khoa học tên tuổi thuộc nhiều ngành khoa học khác nhau. Đây chính là một thành tựu xác định tính đúng đắn và khoa học của việc chứng minh cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về lịch sử văn hiến Việt. Những mảnh vụn còn sót lại thể hiện trong các phương pháp ứng dụng của ngành Phong thủy - được miêu tả trong các bản văn chữ Hán như là những trường phái và mâu thuẫn với nhau – đã được chúng tôi đã hệ thống hóa và chứng minh tính nhất quán và khả năng lý giải một cách hợp lý mọi vấn đề liên quan đến nó của ngành phong thủy học thuộc về văn minh Việt và xác định nó hoàn toàn phù hợp với những tiêu chí khoa học hiện đại. Chính sự phù hợp với tiêu chí khoa học của Phong Thủy Lạc Việt xác định tính khoa học của ngành Phong thủy có cội nguồn từ văn minh Việt. Tuân thủ theo những tiêu chí khoa học cho việc thẩm định một lý thuyết, hoặc một giả thuyết, một phương pháp, một ý tưởng khoa học được coi là đúng – chúng tôi đã chứng minh và xác định thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là một hệ thống lý thuyết vũ trụ quan hoàn chỉnh và những ứng dụng của nó – miêu tả từ sự hình thành vũ trụ, từ những cấu trúc vật chất không khối lượng cho đến những thiên hà khổng lồ, những quy luật tương tác hoàn toàn khách quan trong sự vận động của vũ trụ ảnh hưởng đến thiên nhiên, cuộc sống và con người. Không chỉ dừng lại ở ngành phong thủy học, chúng tôi cũng xác định rằng Thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về cội nguồn văn hiến Việt là một học thuyết khoa học, hoàn chỉnh và thỏa mãn đầy đủ những tiêu chí khoa học cho một học thuyết nhân danh khoa học. Tiến xa hơn nữa và cũng chứng tỏ sự phát triển tất yếu từ một giả thuyết ban đầu đúng đăn – Cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về Việt sử 5000 năm văn hiến – chúng tôi đã xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà những nhà khoa học đang mơ ước. Ra ngoài khoa học một chút - thì - thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nền văn minh trong tương lai của nhân loại, mà bà Vanga đã tiên đoán. Kính thưa quí vị. Đây chính là cái “ao ta” hơn hẳn “ao người”;, đây cũng chính là ”cơm vàng , cơm bạc” từ ngày xửa, ngày xưa mà tổ tiên đã để giành cho những hậu duệ của nền văn minh Việt một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử. Những gía trị huyền vĩ của nền văn minh đó đã bắt đầu tỏa sáng sau hơn 2000 năm bị vùi lấp trong cuộc bể dâu của lịch sử. Và chính sự phát triển theo những quy luật của tự nhiên, sự tiến bộ của tri thức khoa học hiện đại với sự xuất hiện của những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học và đó cũng là sự tiến hóa của tự nhiên, để nền văn minh Khoa Đẩu, những con nòng nọc trở về với Mẹ Cóc , trở về với cội nguồn. Kính thưa quí vị Những thành tựu của chúng tôi có được ngày hôm nay. Chính là bắt đầu từ những sự nghiệp của các bậc tiến bối, đã đặt những viên gạch nền tảng cho công cuộc trở về cội nguồn vĩ đại của toàn thể dân tộc Việt. Bởi vậy, trước khi kết thúc bản tham luận này, chúng tôi xin được một lần nữa kính cẩn nghiêng mình bày tỏ lòng ngưỡng mộ với những bậc tiên liệt của dân tộc Việt đã dày công tạo dựng nên một nền văn hiến sử huyền vĩ, trải gần 5000 năm và là cội nguồn của Lý học Đông phương. Chúng tôi kính cẩn bày tỏ sự ngưỡng vọng trước công lao của giáo sư Lương Kim Định với những đóng góp của ông cho công cuộc tìm về cội nguồn Việt sử. Chúng tôi cũng bày tỏ sự cảm ơn với ban tổ chức và các quí vị có mặt ngày hôm nay, đã quan tâm đến công trình nghiên cứu của TTNC LHDP. Xin trân trọng kính chào quí vị. T/p HCM. 12. 7. 2012
-
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU SỰ NGHIỆP TRIẾT GIA KIM ĐỊNH Hà Văn Thùy Tôi xin trình bày ba vấn đề: Thứ nhất, Đôi dòng về cuộc đời triết gia Kim Định Thứ hai, Bước đầu tìm hiểu sự nghiệp triết gia Kim Định Và thứ ba, Thử đánh giá công hiến của triết gia Kim Định. I. Đôi dòng về cuộc đời triết gia Kim Định. Triết gia Kim Định sinh ngày 15.6.1914 tại Nam Định. Sau khi tốt nghiệp triết học tại Chủng Viện Giáo Hoàng Sait Albert Le Grand, ông dạy triết tại Đại Chủng Viện Bùi Chu (1943-1946). Từ năm 1947, ông sang Pháp 10 năm nghiên cứu về triết học tại Học viện Cao học Trung Hoa (Institut des Hautes Etudes Chinoise) để thu thập tài liệu xây đắp nền triết lý Việt Nam. Trở về nước năm 1957, triết gia Kim Định dạy triết Đông tại Học Viện Lê Bảo Tịnh, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, Đại Học Vạn Hạnh và Đại Học Đà Lạt. Từ năm 1960, ông bắt đầu xuất bản những cuốn sách về triết Việt: Dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây, Cửa Khổng, Triết Lý Giáo Dục, Nhân Bản, Căn Bản Triết Lý Trong Văn Hóa Việt Nam . . . Trong suốt 16 năm trời tại giảng đường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, giáo sư đã ảnh hưởng sâu rộng cho cả một thế hệ thanh niên và sinh viên. Mặc dầu bao chống đối, ông đã im lặng xây dựng hệ thống triết lý Việt Nho. Từ Đại Học Văn Khoa Sài gòn, ông mở rộng mặt trận tới Đại học Đà Lạt, Vạn Hạnh, Minh Đức, Thành Nhân và An Giang. Chính trong giai đoạn này ông đã sáng lập chủ thuyết Việt Nho và An Vi. Sau Tháng Tư năm 1975, ông di tản sang Hoa Kỳ. Tại đây, ông tiếp tục nghiên cứu, trước tác và xiển dương triết Việt cùng văn hóa Việt. Năm 1987, tại hội nghị Quốc Tế về “Khổng Học Với Thế Giới Ngày Nay” (International Symposium on Confucianism and the Modern World) tổ chức tại Đài Bắc, Đài Loan, qui tụ 400 học giả khắp thế giới, Triết gia Kim Định cùng với Lm Vũ Đình Trác đã thuyết trình đề tài “Đạo Trường Chung Cho Đông Nam Á” (A Tao-Field for South East Asia). Bài tham luận đã gây tiếng vang rất lớn trong giới Nho học Á Châu. Sau đó ông còn tham dự Hội Nghị Triết Học tại Brighton Anh Quốc năm 1988 (The World Congress of Philosophy) – Hội Nghị Triết Học Á Châu và Bắc Phi lần thứ 33 tại Toronto Canada năm 1990 (The XXXIII International Conference on Asian and North African Studies). Do công khai thác và biên khảo, sáng tác của giáo sư, những bậc thức giả khắp nơi đã suy tôn ông là Triết Gia Việt Nam. Ảnh hưởng Việt Triết và Việt Nho của ông đã gây ý thức cho người Việt khắp nơi nhìn lại thực tại văn hóa của mình. Các đồ đệ của ông đã đáp ứng nguyện vọng của Thầy để khai thác và phổ biến Việt Lý qua tổ chức An Việt. An Vi đã như một luồng gió mang tinh thần dân tộc bùng lên khắp nơi có người Việt định cư. Ảnh hưởng của Triết Gia còn lan rộng tới các học giả, triết gia Âu Mỹ và Viễn Đông. Triết gia Kim Định từ trần ngày 25 tháng 3 năm 1997 tại dòng Đồng Công hải ngoại, Carthage, Missouri, Hoa Kỳ, hưởng thọ 83 tuổi. Ông để lại bộ triết Việt Nho và An Vi, gồm 42 cuốn, với ngót 8000 trang in, mở ra kỷ nguyên mới cho văn hóa dân tộc. II. Bước đầu tìm hiểu sự nghiệp triết gia kim Định Những năm học ở Chủng Việt Giáo hoàng tại La Mã và Học viện cao học Trung Hoa tại Paris đã giúp ông có điều kiện thu nhận khối tri thức khổng lồ về văn minh nhân loại. Có thể nói là, ngay bước khởi đầu, Kim Định được trang bị năng lượng tri thức ở tầm mức hàng đầu của nhân loại. Trong khi phần lớn học giả trong nước phải lần mò chủ yếu trên những trang cổ thư Trung Hoa cùng một vài tài liệu phương Tây hiếm hoi thì Kim Định được bơi trong biển kiến thức mênh mông về phương Đông mà phần quan trọng đã được giải mã theo nhãn quan khoa học của các học giả phương Tây. Tiếp đó, trong suốt cuộc đời, Kim Định đã không ngừng tự học, trang bị cho mình những tri thức mới nhất của nhân loại từ khảo cổ học, nhân chủng học, văn hóa học, ngôn ngữ học, phân tâm học, huyền học, hiện tượng học, cấu trúc luận và những kiến thức của khoa học vật lý hiện đại… Chính nhờ vậy, cái nhìn của ông không bị giới hạn trong phạm vị khu vực hạn hẹp mà là cái nhìn toàn thế giới với nhãn quan khoa học liên ngành. Trong khi phần lớn học giả người Việt chỉ biết văn minh Trung Hoa từ sau thời Tần Hán thì Kim Định có điều kiện để nhận ra rằng, cái khoảng trống trước Tần Hán mới là quan trọng, mới là quyết định cho văn hóa phương Đông. Khi kiên tâm cày xới mảnh đất còn hoang hóa đó, ông đã nhận được những tín hiệu mang ý nghĩa định hướng sáng suốt về những yếu tố làm nên nước Trung Hoa cổ: “Không nên nói nước Tàu mà phải nói những nước Tàu: có nuớc tàu mạn Bắc gọi là Cathay, có nước Tàu mạn Nam gọi là Manzi. Có nước Tàu mạn Bắc mặc áo len lông thú, uống sữa. Có Tàu xanh phương Nam mặc áo bông ăn gạo. Có Tàu đường sá, có Tàu sông ngòi, có Tàu ngựa xe, có Tàu thuyền bè.” (Paul David: Arts et Styles de la Chine, Larouse 1951). Không chỉ vậy, ông còn được những gợi ý về phương pháp luận tìm sự thực qua huyền thoại, truyền thuyết của Marcel Granet, Paul Mus… Triết gia Kim Định cũng là người rất sớm sử dụng cấu trúc luận trong nghiên cứu. Quan niệm triết là triệt - triệt để, nên ông luôn đặt nhiệm vụ khám phá tới chiều sâu tận cùng của mọi đối tượng nghiên cứu bằng cách truy tìm bốn tầng cấu trúc cùa chúng, bắt đầu từ thể tức thể chế - là tên gọi, hình thức tồn tại của đối tượng, đến từ - ngôn ngữ phản ánh đối tượng, rồi ý – tư tưởng của đối tượng và cuối cùng là cơ – cơ cấu của đối tượng. Chính nhờ vậy, sau nửa thế kỷ tốn tại, sách của ông không những không cũ mà vẫn nói với ta những gì sâu nhất không chỉ về tri thức mà cả trong chiều sâu thẳm của tâm linh Việt. Có thể nói, chính Kim Định là người mở đường đưa ta vào tận đáy sâu của minh triết phương Đông. Hôm nay, tôi xin trình bày hai cống hiến lớn nhất của triết gia Kim Định. Từ nửa thế kỷ trước, ông tuyến bố: Người Việt chiếm Trung Hoa trước người Tàu và người Việt đã xây dựng nền văn hóa nông nghiệp Việt nho nhân bản và minh triết. Người Hoa đã học rồi thể chế thành kinh điển đồng thời cũng làm sa đọa Việt nho theo tư tưởng của văn minh du mục Mông Cổ. Từ chứng lý rất mong manh, Kim Định cho rằng, chính người Việt là chủ nhân của kinh Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc... Không những thế, tiếng Trung hoa và cả chữ vuông Hán ngữ cũng là của người Việt! Đề xuất của Kim Định quả đã gây chấn động, như sấm giữa trời quang khiến những đầu óc yếu đuối hoảng hốt và chống trả ông quyết liệt. Nhưng nay, khoa học đã làm phát lộ một thực tế còn hơn cả dự cảm của Kim Định: Người Việt chiếm lĩnh đất Trung Hoa trước nhưng không phải từ tây bắc xuống mà lại từ chính Việt Nam lên. Và do là cái nôi của dân cư Đông Á nên Việt Nam là cội nguồn văn minh phương Đông. Bằng những chứng cứ không thể tranh cãi, chúng ta đã chứng minh được rằng, không chỉ Dịch, Thư, Thi… là sáng tạo của người Việt mà tiếng Việt là chủ thể tạo nên tiếng Trung Hoa. Không những thế, chữ Việt cũng là chủ thể tạo nên chữ Trung Hoa... Tuy nhiên thiên tài của Kim Định là trong văn minh phương Đông vô cùng đa tạp, ông lọc ra Việt nho là nền văn hóa cội nguồn do tộc Việt sáng tạo, gồm bốn thành phần: 1. Quan niệm về vũ trụ tham thiên lưỡng địa. “Nhất âm, nhất dương chi vị đạo”: Âm và Dương đó là đạo! Đạo ấy là sự vận hành của vũ trụ. Đúng là Âm và Dương tạo ra đạo. Nhưng cái “đạo” đang lưu hành trong vũ trụ là bao nhiêu Âm cùng với bao nhiêu Dương? Nếu là cân bằng tĩnh một Âm (-1) + một Dương (+1) thì vũ trụ triệt tiêu, không tồn tại! Trên thực tế, vũ trụ vận hành theo chiều hướng đi lên, tích cực, có nghĩa là Dương chiếm ưu thế. Nhưng ưu thế tới mức nào? Người phương Đông khôn ngoan đã nhận ra Âm và Dương vận động hòa hợp trong phạm vi con số 5 vũ trụ! Dương + Âm = 5= con số vũ trụ! Nhưng vấn để đặt ra là, trong con số vũ trụ đó, Dương bao nhiêu và Âm bao nhiêu? Chỉ có 2 đáp án: hoặc Dương 4, Âm 1 hoặc Dương 3, Âm 2! Đó là hai cách lựa chọn của con người cho sự phát triển. Minh triết phương Đông nhận ra 3 Dương + 2 Âm là con số vàng của vận hành vũ trụ. Cuộc sống là đi lên, là tăng trưởng, là Dương nhưng trong đó phần của Dương của Trời là 3 còn giành cho Đất, cho Mẹ 2 phần sẽ đạt tới sự hài hòa cao nhất. Nhận thức ra bí mật lớn này của vũ trụ nhưng phương Đông không cứng nhắc nói “tam thiên nhị địa” mà ghi nhận theo minh triết “tham thiên lưỡng địa”: đúng là 3 /2 đấy nhưng không phải là tương quan toán học bất định mà là tương quan biện chứng: lúc 3 nhưng có khi du di lớn hoặc nhỏ hơn 3 chút ít, đảm bảo sự năng động của phát triển. Quan niệm như vậy của phương Đông khác hẳn quan niệm phương Tây. Vốn từ những người săn bắt hái lượm trọng động, chuyển sang du mục cũng trọng động, phương Tây quan niệm về một phương thức sống năng động, triệt để khai thác thiên nhiên cùng cạnh tranh với những bộ lạc khác. Trong con mắt của người phương Tây, vũ trụ cũng như cuộc sống vận hành theo tỷ lệ Dương 4 Âm 1. Đó là sự phát triển nóng, dẫn tới Dương cực thịnh, Âm cực suy, cuối cùng là phá vỡ cân bằng của thiên nhiên, của xã hội, gây ra thảm họa cho con người. 2. Quan niệm nhân sinh: Nhân chủ, Thái hòa, Tâm linh. Từ văn hóa nông nghiệp lúa nước quán chiếu nhân sinh cùng vũ trụ, người phương Đông thấy rằng, vũ trụ hợp thành từ 3 yếu tố: Thiên, Địa và Nhân, trong đó con người là trung tâm. Là chủ thể của vũ trụ, con người giữ quan hệ thái hòa với thiên nhiên vũ trụ cũng như với đồng loại. Và một khi con người đã Nhân chủ, Thái hòa như vậy thì đó là con người Tâm linh, cảm thông, linh ứng với những thế giới siêu nhiên khác. 3. Quan niệm kinh tế: Bình sản Hai hạt nhân trên sở dĩ tồn tại được là do đứng trên cơ chế bình sản. Đó là cơ chế đảm bảo sự công bằng nhất định trong phân chia thu nhập của cộng đồng. Không hề là chủ nghĩa bình quân vì không có ai toàn quyền phân phối của cải mà là bình sản nhằm đạt tới sự công bằng tương đối về tài sản. Trong ký ức phương Đông còn ghi lại cách phân chia tài sản thời cổ, đó là phép tỉnh điền: Cộng đồng chung tay vỡ khu ruộng, người ta cố làm cho khu ruộng vuông vức, sau đó chia làm 9 phần đều nhau. Tám gia đình cày cấy 8 phần xung quanh đồng thời chung tay chăm sóc phần ruộng giữa, gọi là ruộng giếng (tỉnh điền). Phần thu hoạch từ “tỉnh điền” được nộp vua. Sau này, cơ chế bình sản được chuyển sang hình thức công điền. Đến trước năm 1945 ở Việt Nam vẫn còn 20% công điền, ba năm một lần làng chia cho người nghèo cày cấy. 4. Quan niệm sống: Đạo Việt an vi. Để sống được trong mối quan hệ như vậy với vũ trụ và đồng loại, con người cần thi hành đạo An vi. Trái với hữu vi là mọi hoạt động đều vì mối lợi nên tranh giành, chiếm đoạt. Trái với vô vi bị động, tiêu cực không ước mơ, không ham muốn, bàng quan, lánh đời… An vi là đạo sống tích cực hết lòng và làm việc hết lòng nhưng không phải do thôi thúc từ tư lợi mà do sự cần thiết của lợi ích chung. Trong khi phương Tây làm việc và sáng tạo vì lợi ích cá nhân thì phương Đông cũng làm việc, sáng tạo hết mình vì lợi ích chung trong sự đam mê của niềm vui và danh dự. Bốn yếu tố kể trên là những thuộc tính của văn hóa Việt cổ, làm nên minh triết phương Đông, được hình thành từ xa xưa. Sau khi diệt nhà Ân của người Lạc Việt, nhà Chu, một bộ lạc Hoa Hạ, đã thấm nhuần văn hóa Việt, thực hành vương đạo, tập hợp được phần lớn tâm lực của người dân và trí thức Việt, xây dựng nền văn hóa Việt nho rực rỡ: Hoàn chỉnh chữ vuông tượng hình từ chữ khắc trên giáp cốt và đồng thành chữ viết trên thẻ tre và lụa; san định Ngũ kinh: Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc. Chuẩn hóa tiếng nói theo ngôn ngữ phương Nam gọi là Nhã ngữ… Khoảng 500 năm TCN, khi nhà Chu tan rã, nền văn hóa này sụp đổ theo. Từ thời Tần Hán, văn minh du mục bộc phát đã làm đọa lạc văn hóa Việt nho thành Hán, Tống, Minh, Thanh nho... Suốt 2.000 năm nhân loại lầm tưởng toàn bộ gia tài văn hóa trên đất Trung Hoa là khối thống nhất mà chủ nhân duy nhất là người Trung. Sự phân định của triết gia Kim Định giúp ta nhận ra nền văn hóa cội nguồn do tổ tiên Lạc Việt sáng tạo để học hỏi và áp dụng trong công cuộc xây dựng đất nước Việt trong tương lai. III. Thử đánh giá công hiến của triết gia Kim Định. Hàng nghìn năm nay, do không biết cội nguồn cùng văn hóa, lại bị cớm nắng dưới cái bóng khổng lồ Trung Hoa, nhiều người Việt đau buồn cảm thấy dân tộc như bầy trôi sông lạc chợ… Từ nửa thế kỷ trước, Kim Định như nhà tiên tri thấu thị tuyên bố: người Việt chiếm đất Trung Quốc trước người Hoa và xây dựng nền văn hóa Việt nho nhân bản, minh triết! Cùng chung số phận những nhà tiên tri, suốt năm mươi năm Kim Định bị ghẻ lạnh và ném đá! Nhưng ngày nay, thời gian và khoa học minh chứng cho Kim Định. Thuyết Việt nho và An vi của ông trở thành báu vật không chỉ giúp dân tộc Việt tìm lại bản thể của mình để xây dựng một dân tộc Việt Nam mới mà còn thắp lên ngọn lửa minh triết soi đường cho nhân loại. Thế giới đang trong cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế chưa từng có. Truy nguyên sự cố này, triết gia phương Tây cho rằng do nam quyền lấn át nữ quyền. Và phương thuốc cứu chữa là trả lại quyền cho phụ nữ (!) Kim Định có cách nhìn khác. Biết rằng cuộc khủng hoảng như vậy tất phải nổ ra nhưng ông cho rằng, do 300 năm qua, chủ nghĩa tư bản phương Tây mang văn minh du mục duy lợi, đề cao chủ nghĩa cá nhân cực đoan, triệt để khai thác thiên nhiên, bóc lột đồng loại, nâng khoảng cách giầu nghèo lên quá xa, khuếch trương lòng tham và sự tiêu thụ quá mức… dẫn thế giới tới sụp đổ. Nữ quyền bị chén ép chỉ là biểu hiện cụ thể của sự vận hành lớn lao bao quát hơn mà do thiếu minh triết, phương Tây không nhìn ra: đó là sự mất cân bằng Âm Dương. Trong khi vũ trụ vận hành hài hòa là ba Dương hai Âm thì chủ nghĩa tư bản đẩy thế giới đi theo chiều bốn Dương một Âm khiến Dương cực thịnh Âm cực suy, dẫn tới đổ vỡ. Muốn cứu thế giới, chỉ có con đường là toàn thể loài người đồng tâm hiệp lực nắn lại chiều vận hành của thế giới theo minh triết phương Đông tham thiên lưỡng địa. Trong cuộc khủng hoảng này, Việt Nam bị ảnh hưởng dữ dội. Là cái nôi của minh triết phương Đông, con người và xã hội Việt Nam giữ trong mình những kháng thể bền bỉ của văn hóa nông nghiệp Việt nho. Nhưng do tác động mãnh liệt và kéo dài của văn minh du mục ngoại lai, kháng thể của xã hội Việt bị hủy hoại, dẫn tới cuộc suy thoái không chỉ kinh tế mà còn văn hóa, xã hội, đạo đức… Tuy nhiên, do là cội nguồn của minh triết phương Đông, nếu biết phát hiện lại mình, thực thi bốn đặc điểm của Việt nho, Việt Nam không chỉ cứu được mình mà còn là ngọn cờ dẫn đắt nhân loại trên con đường phục hưng. Do lẽ đó, di sản của triết gia Kim Định là báu vật vô cùng quý giá mà chúng ta phải trân giữ, học hỏi và truyền dạy cho hậu thế. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng Sáu 2012
-
LỜI KHAI MẠC TỌA ĐÀM TƯỞNG NIỆM TRIẾT GIA LƯƠNG KIM ĐỊNH Gs. Nguyễn Khắc Mai Giám đốc Trung tâm Minh triết Việt Giáo sư Nguyễn Khắc Mai đọc lời khai mạc Kính thưa các học giả, các nhà nghiên cứu, các nhà báo, các bạn thanh niên, sinh viên quan tâm đến lĩnh vực văn hóa của nước nhà, Kính thưa các vị đại diện của Ủy ban đoàn kết Công giáo Kính thưa TS Đặng kim Ngọc GĐ TTVHVMQTG, Chúng tôi vinh dự được chào đón các quý vị trong cuộc Tọa đàm tưởng niệm cố Triết gia Linh mục Lương Kim Định. Trong sách Thi thiên của Kinh thánh, quyển III, mục 75, câu 6 có nói: “Vì chẳng phải phương Đông, phương Tây. Hay là từ phương Nam mà có sự tôn cao đến”. Có thể câu này là của Thiên chúa dành cho một người con của ngài, mà chúng ta tôn kính và hôm nay họp mặt để tưởng nhớ, để tìm hiểu những đống góp nhằm tôn cao cổ văn hóa Việt từ phương Nam đến. Cố triết gia linh mục Lương Kim Định sính ngày 15 – 6 – 1915 tại làng Trung Thành, Nam Định, tốt nghiệp Triết học tại Chủng viện Albert le grand. Từ năm 1944 – 1946 dạy Triết học tại Chủng viện Bùi Chu. Năm 1947 đi học ở Pháp tại Học viện cao học Trung Quốc học – Institut des Hautes e’tudes Chinoises – Paris. Năm 1958 về nước, dạy Triết học ở Học viện Lê Bảo Tịnh – Gia Định,và ỏ nhiều trường ĐH ở MN. Sau 1975, cụ định cư tại Hoa Kỳ, từ trần ngày 25 – 3 – 1977 tại Missouri Hoa Kỳ, hưởng thọ 82 tuổi. Thưa các quý vị, Triết gia Lương Kim Định, một gương mặt văn hóa lớn của đất nước. Ông là Linh mục, là triết gia, nhưng trước hết là nhà nghiên cứu cổ văn hóa sử Việt Nam, từng để lại một di sản văn hóa đồ sộ với 46 đầu sách về những lĩnh vực trên. Ông đề xướng thuyết Việt Nho với những cột trụ triết lý: an vi, nhân bản, thái hòa, bình sản ... Lập thuyết của ông từng có dư luận khen – chê mà ông từng đề cập trong các trước tác của mình. Tuy nhiên, nhiều học giả trong nước tiếp nhận hướng nghiên cứu và phương pháp luận của ông đã có những công trình học thuật có giá trị. Môn đệ của ông ở nước ngoài trong làng An Việt đang tiếp tục cuộc nghiên cứu của ông và theo đuổi một lối sống minh triết đáng trân trọng. Riêng về hai chữ Minh Triết thì có thể coi Lương Kim Định là người hiện đại đầu tiên đã cho sống lại khái niệm ấy và đã cho nó một hàm nghĩa khá có lý. Trước đó vào thế kỷ XVIII, Ngô Thì Nhậm đã đề cập đến khái niệm này trong bài phú Thiên quân thái nhiên. Trung tâm Minh triết cho rằng việc tổ chức nghiên cứu những tác gia và tác phẩm của họ là một nhiệm vụ văn hóa, vừa là để tỏ lòng biết ơn vừa là sự trân trọng đối với những giá trị học thuật mà họ để lại cho đời. Với tinh thần ấy, hôm nay chúng tôi xin mời quý vị lắng nghe hai diễn giả: Nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy và GsTs Trần Ngọc Thêm trình bày những kiến giải của mình về học giả Triết gia Lương Kim Định. Đồng thời là những ý kiến của Giáo sư Sử học Chương Thâu, của nhà Lý học Đông phương Nguyễn Vũ Tuấn Anh và của Ts triết học Trần Ngọc Linh. Ban Tổ chức cũng sẽ dành thì giờ để nghe những ý kiến trao đổi. Xin gửi cho chúng tôi phiếu đăng ký phát biểu. Cuộc Tọa đàm này mở đầu cho những nghiên cứu tiếp theo về những vấn đề học thuật mà Triết gia Lương Kim Định đã đề xuất, Tọa đàm sẽ kết thúc vào lúc 12 giờ phút sáng hôm nay.Xin cảm tạ các quý vị
-
CÁC BÀI VIẾT & TƯ LIỆU LIÊN QUAN ĐẾN TỌA ĐÀM TƯỞNG NIỆM TRIẾT GIA LƯƠNG KIM ĐỊNH Thư của cụ Vũ Khánh Thành, Tộc trưởng làng An Việt Anh Quốc Tiến sĩ văn hóa học Tú Anh đọc thư của ông Vũ Khánh Thành An Việt Anh quốc Thưa Giáo Sư Nguyễn Khắc Mai thân mến, Tuần trước tôi được anh Hà Văn Thùy cho biết, giáo sư sẽ tổ chức thảo luận về Kim Định tại Văn Miếu Hà Nội. Đáng lẽ tôi phải viết thư cho Giáo Sư sớm hơn nhưng tôi phải nằm bệnh viện để giải phẫu cục u ở cổ nay mơi có vài dòng cảm ơn Giáo Sư được. Xin giáo sư thứ lỗi. Tôi rất vui khi được tin này lại được tổ chức tại Văn Miếu nữa, như một chỉ dấu về sự phục hưng văn hóa Việt Nam. Anh Trần Ngọc Thêm, Hà Văn Thùy cũng cộng tác với Giáo Sư về việc này thì thật đáng quí. Xin.cho tôi gửi lời cảm ơn anh Thêm (tôi lạc mất email của anh Thêm rồi - Tôi đã gặp anh Thêm tại London và anh Thêm cũng đã nói chuyện về văn hóa VN cho đồng bào VN tại Trung Tâm An Việt). Sự nghiệp của Kim Định cho văn hóa VN rất lớn lao. Tôi không biết nói gì hơn là lập lại lời của Gs Nguyễn Ngọc Bích, Giáo Sư Đại Học Geoge Maison Hoa Kỳ đã viết về Kim Định trong một cuộc Hội Thảo về Văn Hóa VN tại Washington năm 1989 như sau: Chân thành cảm ơn và xin kính chào Giáo Sư. Chúc buổi Hội Luận thành công. Vũ Khánh Thành Giám Đốc Hội An Việt tại Vương Quốc Anh www.anvietuk.org www.anviettoancau.net
-
"Khủng hoảng kinh tế sẽ đạt đỉnh vào năm 2013" 14/07/2012 15:46 Ngày 13.7, Bộ trưởng Điều phối các vấn đề kinh tế của Indonesia, ông Hatta, cho biết Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo khủng hoảng kinh tế toàn cầu sẽ lên tới đỉnh điểm vào năm 2013 và hối thúc Indonesia tiến hành công tác chuẩn bị để ứng phó với nguy cơ này. Phát biểu tại một cuộc họp báo chung với Giám đốc điều hành WB Sri Mulyani Indrawati tại Jakarta, ông Hatta cho biết các đề xuất của WB đối với Indonesia trùng hợp với những biện pháp mà Chính phủ nước này đã tiến hành. Ảnh minh họa Về phần mình, bà Sri Mulyani cho rằng kinh tế thế giới sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều thách thức, đồng thời đề nghị các nước phải tiến hành các biện pháp ứng phó, đặc biệt là việc bảo vệ nhóm người dễ bị tổn thương nhất, nhóm người nghèo, cũng như duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định. WB cũng dự báo tăng trưởng kinh tế của Indonesia có thể sẽ đạt mức 6,1% trong năm 2012. Trong khi đó, ngày 12/7 Ngân hàng Trung ương Indonesia đã hạ dự báo tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của nước này xuống còn 6,1% đến 6,5%, so với mục tiêu đưa ra lúc đầu là từ 6,3% đến 6,7%, đồng thời hạ dự báo tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trong năm 2013 xuống còn 6,3%-6,7% so với mục tiêu dự kiến là 6,4%-6,8%. Cùng ngày, Ngân hàng này cũng đưa ra quyết định tiếp tục duy trì trần lãi suất cơ bản không đổi tháng thứ 5 liên tiếp ở mức 5,75% nhằm kiềm chế áp lực lạm pháp và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Indonesia. Ngân hàng Trung ương Indonesia đã cam kết tăng cường can thiệp vào thị trường trái phiếu và tiền tệ nhằm ổn định đồng rupiah. Tuần trước, Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) Christine Lagarde trong chuyến thăm Indonesia đã cảnh báo nước này về những ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng nợ công tại khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), đồng thời ca ngợi thành tích kinh tế của Indonesia. Theo Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ. =================================== Cái này nói lâu rồi.... =================================== Tỉ phú thế giới "méo mặt" vì khủng hoảng 03/06/2012 12:05 (TNO) Tình hình bất ổn của kinh tế toàn cầu được cho là nguyên nhân chính làm những người giàu nhất thế giới mất hàng tỉ USD chỉ trong tuần qua. Carlos Slim, người đứng đầu danh sách các nhân vật giàu nhất thế giới theo bình chọn của Bloomberg với tổng tài sản trị giá 63 tỉ USD, đã "bốc hơi" 3,1 tỉ USD trong tuần vừa rồi sau khi giá cổ phiếu của tập đoàn truyền thông Mexico America Movil SAB giảm hơn 3%. Carlos Slim - người giàu nhất thế giới theo bình chọn của Bloomberg - Ảnh: Reuters Tương tự, ông trùm lĩnh vực kinh doanh sòng bạc Sheldon Adelson - người giàu thứ 22 thế giới - cũng "bay mất" 2,2 tỉ USD chỉ trong một tuần khi giá cổ phiếu của tập đoàn casino lớn nhất thế giới Las Vegas Sands giảm mạnh đến hơn 10%. Hôm 1.6, các sòng bạc tại Macau công bố doanh số tháng 5.2012 chỉ tăng 7,3%, mức thấp nhất kể từ tháng 7.2009. Thị trường tài chính suy yếu cũng khiến khối tài sản trị giá 24,9 tỉ USD của Eike Batista, ông trùm trong lĩnh vực khai thác khoáng sản, giảm đến 8,1%. Người đàn ông giàu nhất Brazil và xếp hạng thứ 12 thế giới này đang lên kế hoạch bán bớt cổ phần trong hoạt động kinh doanh vàng của mình, dấy lên những lo ngại về tình hình kinh tế tiếp tục khó khăn. Các ngân hàng Tây Ban Nha buộc phải sáp nhập hôm 30.5 để giải quyết tình trạng nợ xấu từ tín dụng bất động sản. Nhiều ngân hàng tầm trung tại nước này đang chịu áp lực rất lớn sau khi chính phủ Tây Ban Nha công bố các khoản lỗ lớn từ việc bong bóng thị trường nhà đất tan vỡ. Thống kê của Bộ Lao động Mỹ, số lượng việc làm mới tại nước này vào tháng 5 vừa qua chỉ đạt 69.000 việc làm, thấp hơn nhiều so với con số dự kiến 150.000, vốn đã được xem là mức dự kiến ảm đạm nhất từ trước đến nay, theo Bloomberg. Tỷ lệ thất nghiệp theo đó tiếp tục tăng từ mức 8,1% lên mức 8,2%. Hoàng Uy =================================== Không riêng gì tỷ phú. Triệu phú, ngàn phú, cho đến bà ve chai lông vịt cũng méo mặt vì nợ. Trong đó có cả Thiên Sứ. Híc!
-
Người Cam pu chia đã quên mất rằng: Nếu không có người Việt Nam, thì cánh đồng chết của họ không chỉ có hai triệu người Khơ me nằm ở đó. Người Lào cũng cần phải nhớ đến mối quan hệ lịch sử từ hàng trăm năm trước. Người Việt không đòi hỏi gì lãnh thổ của họ mà lịch sử để lại, cũng không có đồng hóa văn hóa của họ - và đây là vấn đề cốt lõi của sự tôn trọng và bình đẳng giữa các dân tộc. Đúng lúc vào thời điểm nhạy cảm thì người Căm pu chia tỏ ra thiếu kiên quyết ủng hộ Việt Nam. Điều này chứng tỏ có một sự chuẩn bị khá đồng bộ từ lâu của những âm mưu ngoại bang liên quan, trong việc thâm nhập hai nước láng giềng của Việt Nam này. Nhưng đấy là tôi phân tích chơi cho vui vậy thôi. Với cái nhìn Lý học thì đấy chỉ là những trò lặt vặt ở cõi trần gian. Nhưng nó làm rõ một quyết tâm chi phối thế giới - mà không chỉ những phó thường dân dự khuyết hạng hai như tôi nhìn thấy - mà những chiến lược gia quốc tế cũng thấy rõ điều này. Từ đó sẽ dẫn đến mốt sự đụng độ quy mô lớn trong "Canh bạc cuối cùng". Hùng Nguyen khuyên tôi bỏ chữ "nếu". Thực ra thì tôi khiêm tốn vậy thôi. Bỏ hay không bỏ không phải do chủ quan của tôi muốn hay không. Mà là tàu của Trung Quốc thể hiện như thế nào ở biển Đông. Tôi đã nhiều lần nói rằng: Quỹ thời gian của họ để tránh cuộc sát phạt cuối cùng trong canh bạc còn lại rất ít. Hải quân Hoa Kỳ đến Tây Thái Bình Dương không phải để hát KaraOke.
-
Thiên tai tăng nặng..... ==================== Mỹ tuyên bố thảm họa hạn hán ở 26 bang Thứ Sáu, 13/07/2012, 17:25 (GMT+7) TTO - Bộ Nông nghiệp Mỹ đã tuyên bố thảm họa hạn hán tại 26 bang và hơn 1.000 quận, theo Hãng tin CNN ngày 13-7. Đây là lần tuyên bố thảm họa quy mô lớn nhất trong lịch sử Mỹ. Nước Mỹ nếm mùi biến đổi khí hậu Những vùng màu đỏ là vùng bị tuyên bố thảm họa hạn hán của Mỹ. Vùng màu xám là vùng tiếp giáp có nguy cơ ảnh hưởng - Ảnh: USDA Trải dài từ bang Ohio đến California, 61% diện tích nước Mỹ đang hứng chịu nạn hạn hán nghiêm trọng trong hơn thập niên qua. Một quận sẽ được tuyên bố thảm họa nếu khu vực này đã trải qua hạn hán tám tuần liên tiếp. Vùng tuyên bố thảm họa chủ yếu nằm ở khu vực tây nam, một phần khu vực chuyên trồng ngô ở miền trung tây và vùng đông nam. Thành phố Indianapolis (bang Indiana) bị cơ quan khí tượng nhận định đang trải qua đợt hạn nặng nề nhất trong vòng 104 năm. Thị trưởng Greg Ballard đã cảnh báo về khả năng thiếu nước, cấm việc tưới nước cho các bãi cỏ và hạn chế việc sử dụng nước. Một cánh đồng ngô bị khô hạn ở quận DeWitt, bang Iowa. Bang này đang trải qua đợt "khô hạn bất thường" nhưng chưa được tuyên bố thảm họa - Ảnh: Reuters Bang Iowa, khu vực sản xuất ngô lớn nhất của Mỹ, không nằm trong vùng thảm họa. Tuy nhiên bang này đang được đánh giá là “khô hạn bất thường”, 13% diện tích bang đang bị hạn nghiêm trọng. “Nếu trong hai tuần tới mà không có mưa thì tình hình sẽ tồi tệ hơn” - ông Bob Bowman, chủ một trang trại ngô lớn của bang Iowa, nói. Việc tuyên bố thảm họa giúp nông dân và các chủ trang trại tại 1.016 quận ở hơn một nửa bang trên đất Mỹ được nhận các khoản vay lãi suất thấp nhằm chống chọi cơn hạn hán, cháy rừng và nhiều thiên tai khác đang diễn ra ở Mỹ. Hạn hán cướp đi hi vọng vụ mùa ngô bội thu của nông dân Mỹ. Trong năm nay, vùng gieo trồng ngô của nước Mỹ là gần 39 triệu ha trên toàn quốc, lớn nhất trong 75 năm qua. Tuy nhiên, sau đợt nắng nóng kỷ lục từ tháng 6 thì chỉ còn 40% vùng gieo trồng phát triển tốt tính đến ngày 8-7. Bộ Nông nghiệp Mỹ đã hạ chỉ tiêu thu hoạch ngô trong năm nay. Theo Cơ quan Đại dương và khí quyển quốc gia Mỹ, nhiệt độ ở nước này luôn đạt các mức cao nhất trong sáu tháng đầu năm nay, làm nghiêm trọng thêm tình hình hạn hán ở miền tây nước Mỹ. Đã xảy ra nhiều trận cháy rừng liên tục ở bang Utah, Idaho, Arizona, đặc biệt là trận cháy rừng ở Colorado. TẤN KHOA (Reuters, Guardian, CNN) ============================= Nhanh thì ba ngày - không tính ngày hôm nay 13. 7. 2012 - và theo thời gian Dương lính có mốc từ đất Việt, tức là ở Hoa Kỳ sẽ vào ngày 15.7. 2012. Chậm không quá ba tuần, tất cả các vùng khô hạn ở Hoa Kỳ trong bài viết trên phải có mưa. ít nhất là đủ để thoát khỏi thiên tai này.
-
Tai nạn tăng nặng...... ==================== Cháy xe xăng, hơn 100 người mót xăng thiệt mạng Thứ Năm, 12/07/2012, 22:37 (GMT+7) TTO - Ngày 12-7, hơn 100 người Nigeria đã thiệt mạng trong vụ cháy xe bồn chở xăng ở bang Rivers, miền nam Nigeria. Nạn nhân đa số là những người dân nghèo đang tìm cách mót xăng tràn ra mặt đường. Chiếc xe bồn chở xăng đã phát nổ ở Okogbe, Nigeria và hơn 100 người đã thiệt mạng trong vụ nổ này - Ảnh: AFP Tai nạn xảy ra vào rạng sáng 12-7 tại Okogbe thuộc khu vực châu thổ sông Niger. "Hơn 100 người đã thiệt mạng và khoảng 50 người bị phỏng trong ngọn lửa kinh hoàng bùng phát từ chiếc xe bồn chở xăng"- quan chức địa phương Ibim Semenitari cho biết. Chiếc xe bồn đã bị chệch hướng và lật sau khi cố tránh ba chiếc xe gắn máy đang cùng lưu thông trên đường, tai nạn đã khiến xăng trong bồn đổ ra mặt đường. Ngay sau đó, hàng trăm người dân địa phương, trong đó có nhiều trẻ em đã lao đến bên cạnh chiếc xe để thu gom xăng. Song, bất ngờ chiếc xe đã phát nổ và lửa bùng phát dữ dội bao trùm toàn bộ chiếc xe và nhóm người đang thu gom xăng. Hàng trăm người ở Nigeria đã thiệt mạng trong 10 năm qua khi cố lấy xăng rò rỉ từ các đường ống dẫn dầu bị thủng hoặc bị cố ý phá hoại. Nigeria là quốc gia xuất khẩu dầu lớn trên thế giới nhưng hàng triệu người dân nước này vẫn sống trong cảnh đói nghèo. MỸ LOAN (Theo AFP, Reuters) ========================= Thật tội nghiệp những con người vì nghèo khổ phải đi mót xăng và chịu thảm họa này. Gặp giờ tốt, Thiên Sứ tôi lên quẻ đoán rằng: Từ nay tất cả các xe bồn chở xăng ở đất nước Nigeria này, dù bị lật, cũng không bao giờ bốc cháy.
-
Trần Phương thân mến. Những bài viết chỉ bị xóa khi vi phạm nghiêm trong nội quy diễn đàn, hoặc chú trương của diễn đàn. Bài viết của Trần Phương chỉ thể hiện một cái nhìn. Mà suy cho cùng, đôi khí cái nhìn cứ tưởng của mình , nhưng thực ra lại là từ người khác nói mà mình cho lá đúng. Trong trường hợp này, tôi không có ý nghĩ gì với cá nhân Trần Phương cả. Nếu Trấn Phương không viết ra thì nó vẫn bàng bạc đâu đây. Tôi phản bác cái bàng bạc đâu đây đó. Nến không cần phải xóa bài đâu.
-
Tưởng kết thúc lâu rồi mà? Học gì mà mãi chưa xong vậy?
-
Từ nay đến cuối năm, tình hình biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp. Thái Tuế chiếu 2 sơn Ất Thìn. Tức đúng vào biển Đông của Việt Nam . Do sự dịch chuyển ngước của trái Đất nên Thái Tuế chiếu thuận theo kim Đồng hồ. Sau Phi Luật Tân là đến Việt Nam.Tôi tin các nhà lãnh đạo Việt Nam đủ cương quyết, khôn ngoan để bảo vệ chủ quyền.
-
Nhưng cũng phải mai mới đưa longphibaccai vào lớp lại được. Anh chị em nên cảnh giác với những bài dùng nhiều mỹ từ, sáo ngữ về nền văn minh thời Hùng Vương, có nền văn minh tiên tiến đã đúc ra trồng đồng đồng Đông Sơn, nhưng kết luận thì lại là "liên minh 15 bộ lạc" và "ở trần đóng khố"....Đại loại vậy. Từ nay tất cả những bài viết về cổ sử Việt anh chị em thấy hay thì tốt nhất hãy cho tôi đường link, tôi xem trước đã. Họ có một bề ngoài ồn ào, nhưng thực chất là giả khoa học và phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt có bài bản, hệ thống. Ngay cả những người có những bài viết bênh vực văn hóa sử Việt, nhưng khả năng không tới, chúng ta còn không sử dụng được kiến thức của họ. Huống chi là những kẻ chống lại văn hóa sử Việt ra mặt. Họ nhân danh khoa học thì chúng ta cũng nhân danh khoa học. Nhưng bài mà anh chị em thấy phủ nhận ra mặt truyền thống văn hóa sử Việt thi cho vào topic "sưu tầm những luận điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống". Chúng ta có đủ luận cứ khoa học để chi ra sai lầm của họ.
-
Bài viết này trên trang thienvanhoc.org. Xin đưa lên để tham khảo. ================================== Đã tìm thấy boson Higgs - "Hạt của Chúa" Trong buổi hội nghị chuyên đề vào buổi chiều ngày 4/7/2012 Melbourne, các nhà khoa học của CERN đã công bố kết quả sơ bộ mới nhất của họ trong việc tìm kiếm hạt Higgs. Họ đã tìm được một hạt mới có khối lượng vào khoảng 125-126 GeV (GeV là đơn vị năng lượng chứ không phải khối lượng, tuy nhiên với những hạt có khối lượng nhỏ người ta dùng đơn vị này) với độ chuẩn xác 5 sigma. Một phần của máy gia tốc hạt lớn (LHC) - cỗ máy dùng để săn tìm "hạt của Chúa" Hai phòng thí nghiệm cộng tác trong phát hiện này là CMS và ATLAS - hai máy dò (detectors) khổng lồ và hàng trăm giáo sư, tiến sĩ và sinh viên tốt nghiệp làm việc để lấy và xử lý dữ liệu. Cả hai nơi đã làm việc trong khoảng 3 năm và đã tìm ra tín hiệu của Higgs boson - một hạt được cho là tồn tại trong mô hình chuẩn (Standard Model) - thuyết mô tả những viên gạch cơ bản của vũ trụ. Biên giới Thụy Sĩ - Pháp nhìn từ trên không, với cỗ máy LHC (minh họa bằng vạch tròn trắng) nằm ở dưới lòng đất Tại sao chúng ta lại cần Higgs boson ? Mô hình Chuẩn của vật lý hạt được mô tả bởi sự đối xứng của nó - hay nhóm đối xứng. Tính đối xứng này nói cho chúng ta biết các hạt tương tác với nhau như thế nào. Trong thực tế, điều đó làm cho Mô hình Chuẩn trở thành một hệ thống khiên cưỡng. Tuy nhiên, sự đối xứng này còn cho chúng ta biết tất cả các hạt đáng ra phải không có khối lượng. Chính vì thế chúng ta phải phá vỡ sự đối xứng này, vấn đề là làm thế nào ? Chúng ta không chỉ đơn giản là thêm một số hạt phá-vỡ-đối-xứng vào (điều đó làm toàn bộ kết cấu ban đầu sụp đổ) mà phải làm một cách gián tiếp. Và thế là xuất hiện ý tưởng về sự tồn tại của một trường vốn tương tác với tất cả các trường được giới thiệu trong Mô hình Chuẩn. Trường đó cũng phải tương tác với chính nó và tạo nên một giá trị condensate (ví dụ như một giá trị khác không cho mật độ năng lượng của chân không). Cơ cấu này tạo nên khối lượng cho cả hạt electroweak gause boson, quark và lepton. Hạt biểu hiện cho hiệu ứng này có tên boson Higgs.Higgs là mảnh ghép cuối cùng của Mô hình Chuẩn. 11 hạt khác được dự đoán trong mô hình này đều đã được tìm thấy, và Higgs là mảnh ghép phức tạp nhất. Nếu hạt Higgs được chứng minh là không tồn tại, đồng nghĩa với việc xé tan hoàn toàn Mô hình Chuẩn. Thí nghiệm ATLAS và CMS tại CERN đều cho thấy cấp độ của kết quả là 5 sigma - thang đo được các nhà vật lý hạt sử dụng để miêu tả độ chính xác của một phát hiện, với 5 là cấp độ cao nhất. Nhà vật lý học người Anh Peter Higgs (phải) được chào mừng bởi tổng giám tốc Cơ quan nghiên cứu hạt nhân Châu Âu (CERN) Rolf-Dieter Heuer (trái) Phát ngôn viên thí nghiệm CMS Joe Incadela cho biết: "Mặc dù kết quả chỉ là sơ bộ nhưng tín hiệu 5 sigma về khoảng 125 GeV mà các nhà khoa học vừa tìm ra thực sự gây ấn tượng. Đây thực sự là một hạt mới. Chúng ta biết chắc chắn rằng nó là một boson và là boson nặng nhất từng được tìm thấy".Phát hiện quan trọng của vật lý này còn mang ý nghĩa đặc biệt cho nhiều ngành khác y học, tin học và chế tạo máy. thaisonsd================================== Qua bài này tôi thấy rằng: Với trần kiến thức hiện đại, thì con người dễ công nhận những gì được số đông ủng hộ. Nhưng rõ ràng tôi thì không từ lâu rồi - trong vấn đề này - và sau đó cũng có vài nhà bác học cũng có ý kiến tương đồng.