Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. TTCK: Các bàn tay dơ hữu hình lấn át bàn tay vô hình Thứ Bẩy, 18/08/2012 - 10:36 Những hành vi thao túng giá chứng khoán, mua bán chui cổ phiếu… thu lợi lớn nhưng mức phạt lại chỉ như giơ cao đánh khẽ. Sếp chứng khoán vào tù: “Đội lái” chùn tay Sai phạm ở một số công ty chứng khoán: Bộc lộ những mắt xích yếu Vì thế, tuần nào, nhà đầu tư cũng đọc được thông tin về quyết định xử phạt của uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (SSC) nhưng dường như người vi phạm không ngán sợ. Đã vậy, các chiêu mua bán, làm giá ngày càng tinh vi hơn. Từ đầu tháng 8 đến nay, nhiều cá nhân lãnh đạo và công ty chứng khoán bị bắt và khởi tố. Thị trường chứng khoán rúng động nhưng nhà đầu tư không ngạc nhiên. Bởi từ lâu nay, hầu hết họ ít nhiều đều biết đến khả năng thao túng thị trường của vài bàn tay hữu hình. Phạt nhẹ Một lý do quan trọng khiến các vi phạm và tái phạm trên thị trường chứng khoán ngày càng nhiều, là mức chế tài chưa đủ, xử phạt quá nhẹ. Dù cuộc thâu tóm Sacombank đã ngã ngũ, thị trường vẫn còn thắc mắc về mức phạt quá nhẹ dành cho hai đơn vị và một cá nhân do vi phạm quy định giao dịch cổ phiếu Sacombank. Tính theo mức giá 22.000 đồng/cổ phiếu vào thời điểm đó, nhóm này đã bỏ ra khoảng 1.200 tỉ đồng để mua vào cổ phiếu ngân hàng này, trở thành cổ đông lớn mà không công bố thông tin. Quy mô vi phạm, xét theo giá trị giao dịch, thuộc loại lớn, mức độ ảnh hưởng không hề nhỏ vì nó đóng vai trò quan trọng tạo nên sự thay đổi trong hội đồng quản trị nhưng mức xử phạt đồng đều ở mức 60 triệu đồng. Có lẽ do mức xử phạt nhẹ như vậy nên ngay sau đó một trong ba thành viên này, ông Trần Phát Minh, tiếp tục vi phạm qua việc bán ra, giảm tỷ lệ sở hữu mà không công bố. Mức phạt lần này nặng hơn một chút, ở mức 70 triệu đồng. Nếu tính lãi suất cho quãng thời gian năm tháng kể từ lúc vi phạm đến khi bị xử phạt, giá trị món tiền đóng phạt còn thấp hơn. Năm 2010, SSC đã xử phạt bà Nguyễn Kim Phượng, cổ đông lớn của công ty cổ phần vật tư và vận tải xi măng (VTV) 170 triệu đồng do “phi vụ” làm giá cổ phiếu. Mức phạt này so với hai trường hợp kể trên xem ra khá nặng. Tuy nhiên, người nộp phạt hẳn thấy vui vẻ bởi số tiền thu về vào khoảng 1,6 tỉ đồng. Nếu xem mức phạt như trên là một án lệ thì nhà đầu tư rõ ràng có động cơ để vi phạm. Trong sáu tháng đầu năm 2012, SSC đã ban hành 67 quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các tổ chức, cá nhân với tổng số tiền phạt là 3,922 tỉ đồng. Tính trung bình, mỗi tuần giao dịch, có ít nhất hai vụ xử phạt. Năm 2011, IFC (phối hợp cùng diễn đàn quản trị công ty toàn cầu và SSC) thực hiện báo cáo Thẻ điểm quản trị công ty 2011, khảo sát 100 công ty niêm yết có giá trị vốn hóa lớn nhất trên hai sàn TP.HCM và Hà Nội. Qua đó cho thấy việc quản trị công ty ở Việt Nam hiện ở giai đoạn đầu. Trong lúc chất lượng quản trị chưa cao, chất lượng nguồn nhân lực không đều, hệ thống kiểm soát, giám sát chưa hoạt động hữu hiệu, thông tin không minh bạch, thì môi trường giám sát chưa hữu hiệu khiến các hành vi trục lợi như một bàn tay hữu hình vô hiệu hoá khả năng của bàn tay vô hình. Không có giám sát độc lập Tuy nhiên, theo các chuyên gia, một lý do quan trọng khiến các vi phạm và tái phạm trên thị trường chứng khoán ngày càng nhiều, là mức chế tài chưa đủ, xử phạt quá nhẹ. Đơn cử, luật Xử lý vi phạm hành chính vừa được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ 1/7/2013 quy định: “Mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực chứng khoán, thuế, đo lường, sở hữu trí tuệ… theo quy định tại các luật tương ứng”. Có nghĩa là, mức phạt tối đa đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán vẫn ở mức hiện hành 500 triệu đồng, mức phạt được áp dụng cách đây nhiều năm. Ngoài ra, theo quy định hiện hành, chánh thanh tra SSC có quyền phạt tiền tối đa đến 70 triệu đồng, nhưng theo quy định của luật Xử lý vi phạm hành chính, đã giảm xuống còn 50 triệu đồng. Ông Alan Phan, chủ tịch quỹ đầu tư Viasa, cho rằng, khi tác nhân tham gia thị trường gian lận trong một thời gian dài sẽ khiến tính minh bạch của thị trường càng yếu trong khi cơ chế giám sát còn yếu kém. “Trên thế giới, tình trạng thao túng làm giá vẫn diễn ra, song họ có những chế tài nghiêm khắc. Còn tại Việt Nam, không phải gần đây, mà tình trạng thao túng, làm giá chứng khoán đã diễn ra từ lâu, nhưng chế tài như giơ cao đánh khẽ chẳng làm cho người chơi ngán sợ”, ông nói. Ông Nguyễn Hoàng Hải, tổng thư ký hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) cho rằng, một lý do khiến thị trường bị thao túng là biện pháp chế tài không cụ thể, không nghiêm khắc. Quan trọng hơn, hoạt động thanh tra giám sát đã bị hạn chế, cơ quan thanh tra không độc lập, khi SSC vừa là quản lý, vừa là người cấp phép, lại vừa người thổi còi, nên các sự vụ gian lận được phát hiện mới còn lẻ tẻ, đầy tính chất xin cho. Ông Alan ví von, giống như việc vượt đèn đỏ, người đi đường thấy việc vượt đèn đỏ để đến đúng giờ một cuộc hẹn làm ăn có lợi nhiều hơn thiệt hại vài trăm ngàn nếu bị công an phạt. Theo Hồng Sương SGTT ======================== Đầu năm, Thiên Sứ tui xác định: "Bất động sản chế lâm sàng, TTCK ngắc ngoải....." Đại ý vậy! Nhưng đến nay nó vẫn cứ trồi sụt thất thường , chưa chịu ngắc ngoải. Thì ra các đại gia làm giá. Nhưng dù âm mưu kiểu gì thì muốn có lợi nhuận trong cái đặc thù bịp bợm này của CK - khác hẳn cờ bạc bịp - là phải rút tiền mặt ra khỏi những giá trị ảo của cổ phiếu. Bởi vậy, đến lúc nó phải rút ra để thu lợi nhuận. Lúc ấy, sẽ chết những nhà đầu tư cơm.
  2. Nhật tăng cường lực lượng bảo vệ Senkaku Tuổi Trẻ – 1 giờ 5 phút trước TT - Hôm qua 18-8, phía Nhật đã có những động thái khẳng định chủ quyền quần đảo Senkaku sau khi trục xuất 14 người Trung Quốc xâm nhập trái phép quần đảo này. Theo báo Asahi Shimbun, một đoàn 20 thuyền chở các công dân Nhật, bao gồm một số nghị sĩ quốc hội, đã rời bến ở đảo Ishigaki để lên đường tới quần đảo Senkaku. Trong khi đó, nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng Dân chủ Nhật Seiji Maehara kêu gọi chính phủ tăng cường sức mạnh của lực lượng tuần duyên (JCG) để bảo vệ quần đảo Senkaku. “Các quan chức JCG đang nỗ lực hết sức, do đó chính phủ và các đảng sẽ thảo luận việc tăng cường sức mạnh cho JCG - ông Maehara cho biết - Chúng ta cần thảo luận không chỉ về việc tăng cường số lượng con người và tàu mà cả về các hình thức hỗ trợ khác”. Trước đó, một số nghị sĩ Quốc hội Nhật đã chỉ trích JCG không hoàn thành nhiệm vụ khi không thể ngăn chặn nhóm người Trung Quốc tiếp cận quần đảo Senkaku. Trung Quốc tiếp tục cứng rắn Trong khi đó, chính quyền Trung Quốc tiếp tục đưa ra các tuyên bố cứng rắn. Theo Tân Hoa xã, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đòi Nhật phải ngừng mọi hành động “gây phương hại đến chủ quyền lãnh thổ Trung Quốc”. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc mô tả việc JCG bắt giữ người Trung Quốc xâm nhập quần đảo Senkaku là “hành vi xâm hại nghiêm trọng chủ quyền Trung Quốc”. Tờ Thời báo Hoàn Cầu sôi sục luận điệu hiếu chiến. “Trung Quốc sẽ không thỏa hiệp. Trong tương lai, Trung Quốc sẽ thực hiện nhiều hành động khác nhau để khẳng định chủ quyền quần đảo Điếu Ngư (cách Trung Quốc gọi quần đảo Senkaku), buộc Nhật phải dần từ bỏ việc kiểm soát quần đảo này”. Truyền thông Trung Quốc tung hô 14 người bị Nhật trục xuất về nước là “anh hùng dân tộc”. Trên tạp chí The Atlantic, nhà phân tích Sheila A. Smith thuộc tổ chức nghiên cứu Hội đồng Quan hệ quốc tế (Mỹ) cho biết căng thẳng giữa Nhật và Trung Quốc về quần đảo Senkaku âm ỉ từ nhiều năm qua. Nhưng căng thẳng bùng phát dữ dội sau vụ hai tàu cá Trung Quốc cố tình đâm vào tàu JCG ngoài khơi quần đảo Senkaku hồi tháng 9-2010. Giới quan sát nhận định Nhật đã có những nỗ lực làm dịu quan hệ với Trung Quốc, điển hình như việc nhanh chóng trục xuất 14 người Trung Quốc xâm nhập trái phép mới đây. Tuy nhiên, chính quyền Trung Quốc tiếp tục triển khai tàu dân sự và tàu tuần tra xâm nhập vùng biển gần quần đảo Senkaku. Tạp chí Time dẫn lời chuyên gia Brad Glosserman thuộc Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế nhận định các nhà lãnh đạo Trung Quốc không muốn bị coi là “mềm yếu” khi đang thực hiện cuộc chuyển giao quyền lực trong năm nay. Đồng thời nền kinh tế Trung Quốc đang suy giảm, tham nhũng tràn lan, xung đột xã hội bùng nổ. Do đó, Bắc Kinh tận dụng tâm lý dân tộc cực đoan để chủ động “chuyển lửa ra bên ngoài” ở biển Hoa Đông và biển Đông. Theo báo chí Nhật, thậm chí dư luận Trung Quốc và một số quan chức quân đội theo đường lối cứng rắn còn đang đòi chủ quyền cả quần đảo Ryukyu của Nhật, trong đó có đảo Okinawa nơi quân đội Mỹ đặt căn cứ không quân. Nhưng chính Bắc Kinh đang gặp khó khăn trong việc kiểm soát tâm lý dân tộc cực đoan, dẫn tới những va chạm nghiêm trọng với các nước láng giềng như Nhật. Thủ tướng Noda sẽ phải làm gì? Giới quan sát nhận định một điều đáng lo ngại là việc Trung Quốc chủ động gây căng thẳng cũng sẽ khiến dư luận Nhật phẫn nộ và phản ứng mạnh mẽ. Báo Japan Times cho biết Thị trưởng Tokyo Shintaro Ishihara khẳng định chính quyền Tokyo cần phải đẩy nhanh kế hoạch mua lại quần đảo Senkaku, hiện do một gia đình Nhật làm chủ. Kế hoạch của ông Ishihara đến nay đã thu hút được 17 triệu USD tiền quyên góp. Chuyên gia Smith cảnh báo với việc tuần duyên Đài Loan thường xuyên triển khai tàu hỗ trợ tàu cá chủ động xâm nhập vùng biển quanh quần đảo Senkaku và giờ đây là Trung Quốc tham gia, xung đột có thể bùng phát trên biển Hoa Đông. “Việc đổ lỗi và trả đũa chỉ gây ra xung đột và sẽ dẫn tới chiến tranh” - chuyên gia Smith nhận định. Sức ép từ dư luận trong nước đối với Thủ tướng Nhật Yoshihiko Noda về quần đảo Senkaku sẽ rất lớn. Giới quan sát nhận định hiện ông Noda vẫn đang thực hiện chính sách xử lý vấn đề chủ quyền quần đảo Senkaku một cách bình tĩnh và nhất quán. Tuy nhiên, ông sẽ phải phản ứng lại việc tàu từ Hong Kong, Đài Loan và Trung Quốc liên tục tiến tới quần đảo Senkaku. Theo chuyên gia Smith, chính quyền Nhật và đặc biệt là Trung Quốc phải nhắc nhở đất nước rằng đàm phán hòa bình là phương thức duy nhất để giải quyết tranh chấp. SƠN HÀ ===================== Nếu chuyên gia Smith này mà vào diễn đàn lý học Đông phương bàn kiểu này chắc bị ném đá vì chỉ số Bo cao. Chủ quyền quốc gia đã được hiến định làm gì có chuyện đem ra thương lượng. Vớ vẩn! Trong trường hợp này chỉ có vấn đề "mạnh được, yếu thua"; hoặc "Khôn sống, dại mái (Chết)". Vậy thôi. Nước yếu chỉ còn cách đi kiện và nhờ trọng tài quốc tế can thiếp. Lúc đó vấn đề sẽ là "Chân lý thuộc về ai". Chẳng bao giờ có chuyện Trung Quốc kiện Brunei vì chiếm "đường lưỡi bò" cả. Chưa thấy thằng ăn cướp nào ra đồn cảnh sát báo là nó ăn cướp không được. Đề nghị thương lượng để chia đôi của cải. Người ta chỉ thương lượng về chủ quyền với những vùng đất chưa rõ ràng. Thí dụ như Bắc cực. Nhưng ngay cả trường hợp này cũng đã thấy khó khăn. Thằng nào cũng giành miếng to. Hi.
  3. Tại sao Lũy Tre đóng học phí từ 1/ 8 đến nay hơn 1/2 tháng rồi ko ai xác nhận?Bắt đầu từ 15/ 7 Việt lịch, Lớp PTLV Nâng cao sẽ do tôi trực tiếp phụ trách. Chúng tôi sẽ khai giảng lớp này vào ngày 15/ 7 Việt lịch.Người đầu tiên - cho dù duy nhất tôi cũng sẽ giảng bài,
  4. Cái lưỡi... "đa nhân cách" và những phát ngôn Ngẫu nhiên trong tuần này, nổi lên nhiều câu chuyện văn chương. Có câu chuyện của trẻ em, có câu chuyện của người lớn. Nhưng nó gặp nhau ở chỗ, đều "tạc" nên cái tham, sân, si của con người. >> Thơ 'nhập đồng' liệu có... sao chép?/ Thơ 'nhập đồng'? Điều lạ, nếu như trẻ em với con mắt nhìn đời quá già dặn, về sự "đi tắt" của cha anh chúng trên hành trình danh- lợi, thì người lớn lại phát ngôn và hành động nông nổi, bồng bột, rút cục cũng ..."thất bát" chỉ vì danh- lợi. Đôi mắt trẻ và cái lưỡi...lắt léo Đó là bài văn của em Hoàng Quỳnh Phương, nữ sinh lớp 11 tỉnh Hải Dương, bình về bài thơ "Đường tắt" của Đặng Chân Nhân, sinh năm 1993 (lúc làm bài thơ, Đặng Chân Nhân mới 15 tuổi). Bài văn của cô bé 16 tuổi bình về bài thơ của cậu bé 15 tuổi, với triết lý về cách "đi tắt" của ... người lớn, có lẽ ngang ngửa nhau về độ già dặn, sắc sảo của tư duy và quan sát xã hội. Xưa nay, trẻ em làm thơ, viết văn là chuyện thường tình. Chúng ta từng có 1 Trần Đăng Khoa được phong "Thần đồng" thơ. Còn mới đây, cậu bé 11 tuổi Nguyễn Bình ra mắt độc giả với 3 tập sách (đã in) trong tổng số 8 tập của bộ tiểu thuyết khoa học giả tưởng "Cuộc chiến với hành tinh Fantom" (Nhà xuất bản Trẻ và NXB Hồng Bàng), làm chấn động dư luận xã hội, tạo nên 1 "hiện tượng", cho thấy tài năng và trí tuệ trẻ em Việt cũng rất đáng nể. Nhưng nếu những bài thơ, bài văn của Đặng Chân Nhân, của Hoàng Quỳnh Phương lại là cái nhìn bất bình của trẻ em về lối sống, về đạo lý hành xử của người lớn, của các bậc cha chú, thì thông điệp gửi cho người đọc báo hiệu điều gì về chính trẻ em, về nền tảng văn hóa xã hội đương thời? Đó là sự thất vọng hay sự ...khinh khi? Đường tắt và ...đường dài luôn là 2 mặt đối lập của cuộc sống, là sự chọn lựa của mỗi cộng đồng cho tới mỗi cá nhân. Đương nhiên, đường tắt là sự lựa chọn khôn ngoan. Nhưng, nó chỉ có ý nghĩa xác tín và thành công, khi nó tôn trọng, hoặc dựa trên quy luật phát triển thực tiễn, dựa trên những thang bậc giá trị đích thực chính trực được thừa nhận. Nếu không, chắc chắn trước sau nó sẽ bị trả giá. Xã hội chúng ta từng phải thay đổi, phải đổi mới cả tư duy, nhận thức và hành động, để phát triển theo quy luật thực tiễn của nhân loại. Thế nhưng, nếu như xã hội từng phải đổi mới cả tư duy, nhận thức và hành động, thì đường tắt vẫn luôn là sự lựa chọn ranh ma và láu cá của không ít kẻ trên con đường danh- lợi, bất kể các thang bậc giá trị, bất kể các giá trị nhân phẩm. Và hệ quả của đường tắt, là... làm "quan tắt". Nhưng vì đường tắt luôn là con đường ngắn nhất nên tự lúc nào nó thành "con đường lớn". Kéo theo hệ lụy của nó là những vấn nạn, như những khối u ác tính làm suy yếu cơ thể xã hội: Vấn nạn tham nhũng, hối lộ, vấn nạn bằng cấp giả, vấn nạn mua quan bán tước, vấn nạn bệnh thành tích, dối trá... Vì sao con đường tắt- mà trong con mắt của cậu bé 15 tuổi Đặng Chân Nhân dứt khoát là con đường nhỏ, con đường sai lại thành "con đường lớn" cho rất nhiều chú, bác, anh, chị..., chen chúc nhau đi? Bởi nó là con đường "ma", con đường "đi đêm" thuận mua vừa bán, con đường ông rút chân giò, bà thò chai rượu, mà tiếc thay ai cũng thích uống rượu, cũng thích nhậu...chân giò? Khiến cậu bé Đặng Chân Nhân, phải lật xới lên con đường tắt, đau xót đặt câu hỏi: Những kẻ trộm đi con đường ấy để trở thành kẻ giàu/ Những kẻ lừa dối đi con đường ấy để trở nên thành công/ Chúng dễ dàng đạt được những thứ người khác đạt được một cách khó nhọc/ Chúng trở nên thành công với những ý nghĩ vô học/ Liệu chúng có thể tồn tại? Khiến cô bé Hoàng Quỳnh Phương phải nhìn bằng con mắt của 1 "thẩm phán" trước tòa án lương tâm: Rằng những người đi đường tắt thì thường ngồi lên chức vị cao. Ngồi ở chức vị cao thì đưa ra những quyết sách quan trọng. Nhưng vì không có năng lực nên quyết sách quan trọng hay bị sai lầm. Một quyết sách sai lầm thì hậu quả nặng nề của nó cả cộng đồng phải gánh chịu...Những cái giả cứ thế lên ngôi, các giá trị cũng bị làm giả một cách trắng trợn. Niềm tin cũng theo đấy đổ vỡ. Xã hội bị gặm rỗng từ bên trong. Cậu bé 15 tuổi Đặng Chân Nhân Đường tắt, rút cục tạo ra nhân- quả, đắng thay, nhân làm - xã hội, nhân dân gánh chịu! Nhưng đường tắt cũng vô cùng đa dạng, nhiều khi lại nhân danh sự...tử tế! Mới đây, dư luận ồn ào vì vụ việc ông Lương Quang Minh (nguyên Giám đốc Ngân hàng Phát triển VN- chi nhánh khu vực Cần Thơ, Hậu Giang) "biếu" đại úy công an Trương Hoài Phú, Phó đội trưởng Đội hướng dẫn điều tra án kinh tế Phòng Cảnh sát điều tra về trật tự kinh tế và chức vụ (PC46) Công an TP Cần Thơ, 100 triệu đồng. Chuyện vỡ lở, do đại úy Trương Hoài Phú báo cáo lãnh đạo và bàn giao số tiền cho cơ quan điều tra. Đáng chú ý, đại úy Phú đang trực tiếp điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại Công ty TNHH An Khang, đóng tại Khu công nghiệp Trà Nóc. Liên quan đến vụ án vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của tổ chức tín dụng, trong đó, Ngân hàng Phát triển Việt Nam - Khu vực Cần Thơ - Hậu Giang có dấu hiệu sai phạm dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Vậy nhưng có ai, thần kinh bình thường, tin được không, phát ngôn ấn tượng của ông Lương Quang Minh: Thấy anh em vất vả điều tra... nhưng rủ Phú nhậu mà không được, nên biếu quà bằng tiền cá nhân để anh em tự đi nhậu chứ không nhờ giúp chuyện gì. Không nhờ giúp chuyện gì! Hay đó mới là cách nhờ giúp thật cao tay? Một cách "đi tắt" theo kiểu im lặng là...tiền bạc? Bởi 100 triệu đồng không phải là 1 khoản tiền nhỏ. Có lòng tốt nào "vô tư" đến độ ấy? Chỉ biết cổ nhân có câu lưỡi không xương lắm đường lắt léo. Đố sai! Nhưng tin chắc, số đông trong dư luận xã hội không hề tin vào lòng tốt "thương người" của ông Lương Quang Minh, dù ông chưa bị pháp luật xử lý nghiêm khắc và thích đáng. Chợt nhớ tới câu hỏi nhức nhối của cậu bé 15 tuổi Đặng Chân Nhân: Liệu chúng có thể tồn tại? Hỏi cũng có thể là đã trả lời! Đôi mắt già và cái lưỡi...nông nổi Câu chuyện cái lưỡi... lắt léo còn chưa lắng xuống, mới đây, xã hội bỗng dậy sóng đàm tiếu bởi 1 câu chuyện văn chương mang đậm tính ...hoang đường. Nhân vật trung tâm của câu chuyện này- GSTS Hoàng Quang Thuận (Viện trưởng Viện Công nghệ Viễn thông - Trung tâm KHTN và CNQG, hiện sống và làm việc tại TP.HCM), tác giả của 2 cuốn Hoa Lư thi tập, và Thi vân Yên Tử. Khi ông "lên báo" cho rằng, đó không phải thơ ông. Mà là của chính các bậc "tiền nhân"- đã mượn bút của ông để viết nên. Trước đó, Thi vân Yên Tử đã được trao giải "kỷ lục châu Á", còn Hoa Lư thi tập đang được ông Hoàng Quang Thuận làm hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận là...di sản ký ức nhân loại. Phủ lên tập thơ Thi vân Yên Tử là những câu chuyện kỳ bí... nửa trần nửa tiên, nửa hư nửa thực. Những câu chuyện kiểu như Truyền kỳ mạn lục (của Nguyễn Dữ, thế kỷ XVI), lại như Liêu trai chí dị (của Bồ Tùng Linh, nhà văn Trung Quốc, cuối thế kỷ XVII) nhưng xảy ra giữa thế kỷ XXI, và được chính tác giả kể lại. Đó là chuyện ông gặp và mua 1 con rắn hổ chúa có cái mào đỏ chót, do 1 thanh niên người dân tộc bắt được, tại gốc cây sứ cổ thụ 700 năm tuổi, sát cạnh mắt rồng của khu lăng mộ tổ vua Trần, được một nhà sư đặt tên Kim Xà. Khi được ông phóng sinh, Kim Xà còn ngóc cao đầu hơn 1 mét, gật gật đầu 3 lần bái biệt, rồi mới chịu trườn vào rừng thiêng Yên Tử. Đó là chuyện ông và nhà thơ Dương Kỳ Anh về "cầu thơ" tại Tràng An- Bái Đính. Thuyền qua Đền Trình, bỗng gặp con chim phượng hoàng tuyệt đẹp cánh trắng, mỏ vàng bay lướt qua. Cũng là khi ấy, thân thể ông như đột nhiên bị chìm vào 1 không gian trầm mặc, trang nghiêm và huyền ảo của mấy nghìn năm trước. Nhưng đặc biệt nhất, lạ lùng nhất là câu chuyện làm thơ như "nhập đồng" của ông. Ông và nhà thơ Dương Kỳ Anh cùng ký tên thỏa thuận vào 141 trang giấy trắng để thi... làm thơ, sau khi làm lễ tại Đền Trần. Đêm khuya ấy, lúc 12 giờ ông bỗng thấy như có luồng gió lạnh thổi qua, bèn lấy 1 tấm chăn choàng lên người và ngồi vào bàn viết. Rồi ông mải mê viết như "nhập đồng", như có "tiền nhân" nhập hồn mách bảo. Giật mình choàng tỉnh đã 4 giờ sáng, ông không tin được vào mắt mình- 121 bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt Đường luật. Trong khi nhà thơ Dương Kỳ Anh cả đêm chỉ làm được vỏn vẹn... 4 câu. Đó là những chuyện ông kể, và các báo đã viết tỷ mỉ. Người viết bài này chỉ muốn nhấn mạnh cái hoàn cảnh, cái không gian tiên ảo đã ra đời của tập thơ. Và không biết sức mạnh của Thi vân Yên Tử được thẩm định đến thế nào, nhưng mới đây, Tạp chí Nhà văn (Hội Nhà văn) đã tổ chức hẳn 1 hội thảo về thơ ông, "Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử", với 21 tham luận ngợi ca, và những lời khen có cánh của rất nhiều nhà thơ, nhà phê bình trong giới. Xin trích dẫn: "Thơ Hoàng Quang Thuận là nghệ thuật cao nhất của thơ ca". "Đối với Hoàng Quang Thuận, không có ma quỷ nào đưa lối dẫn đường cả, mà chỉ có thần, phật phù hộ độ trì từ khi ông phát tâm nguyện làm đệ tử trung thành nơi cửa thiền, để rồi từ đấy những vần thơ thấm đẫm chất linh nghiệm báo ứng của tiền nhân hiện về". "Những câu thơ hay đến lạnh người"... "Thi vân Yên Tử tập hợp những vần thơ vừa thanh tao, tĩnh lặng, vừa huyền diệu, xa vắng, mang nhiều hàm ý sâu xa, lại gần gũi với đời thường dễ dàng thấm sâu vào lòng người". Vv.. và..v..v.. Nhưng khi cánh thơ phù vân Yên Tử bay lên, thì cũng có những cánh cung phê bình đắc địa... bay theo. Rút cục, những gì không phải "thơ thiền" đích thực, không phải là thi ca đích thực rớt xuống...bẽ bàng. Đó là khi nhà phê bình- Cây búa Nguyễn Hòa thẳng thắn: Nếu thực sự "tiền nhân mượn bút" của Hoàng Quang Thuận để "viết thơ" thì xem ra thơ của "tiền nhân" đã sa sút đến mức thê thảm... Với các bài thơ chưa đúng niêm luật, lại sáng tác từ cuối thế kỷ XX đến nay mà được gọi là "nghệ thuật Đường thi trác việt" thì đúng là... hết thuốc chữa! ... Xin chớ nghĩ hễ trong bài thơ có hình ảnh chùa chiền, non cao, bóng núi, cây đa, mây trời, trăng treo, tiếng hạc..., là bài thơ sẽ có "chất thiền". Xin hãy hiểu rành rẽ về Thiền và thơ Thiền rồi hãy viết, kẻo lại rơi vào cảnh ngộ "vẽ rắn thêm chân"! Và ngày 14/8 trên Tuần Việt Nam, người đọc kinh ngạc và sững sờ khi đọc bài viết của Luật sư Nguyễn Minh Tâm, 1 người bạn của ông Hoàng Quang Thuận, đồng thời cũng là 1 Phật tử. Bài viết phát hiện ra rằng, rất nhiều bài "thơ thiền" của ông Hoàng Quang Thuận chỉ là sự... sao chép lại những gì mà ông Trần Trương, Trưởng Ban Quản lý Yên Tử (1992- 2003) viết trong cuốn "Chùa Yên Tử, Lịch sử - Truyền thuyết di tích và Danh thắng". Hai tập thơ của nhà thơ Hoàng Quang Thuận Với những minh chứng, mà càng đọc càng thấy xấu hổ, vì sự sao chép nhân danh...tài thơ. Điều bất ngờ, mới đây, ông Trần Trương lại lên tiếng nhỏ nhẹ "thanh minh thanh nga", rằng Hoàng Quang Thuận không hề sao chép tài liệu của ông. Đến lượt dư luận nghi vấn luôn cả...ông Trần Trương. Vì sao? Vì lòng tốt bạn bè? Vì ông cũng bị "nhập đồng"? Hay vì cái gì khác nữa? Khi câu chuyện sao chép vỡ lở, khiến nhà thơ, "nhà khen thơ" nhìn nhau đâm ra... sượng sùng, người đọc có quyền đặt câu hỏi: Vì sao, là người nghiên cứu khoa học, cái nghề đòi hỏi sự tỉnh táo, tĩnh trí, và tư duy logic thì cho dù, câu chuyện huyền bí xung quanh tập thơ Thi vân Yên Tử mà ông chứng kiến có là thật, nó cũng chỉ nên dừng ở mức "trà dư tửu hậu" chốn bạn bè. Không thể là loại truyện Truyền kỳ mạn lục, hay Liêu trai chí dị thời mới đem ra công bố giữa văn minh của IT, chắc chắn sẽ chỉ chuốc lấy những đàm tiếu, hoài nghi. Hay chính vì ông thích...nổ? Vì sao, Hoàng Quang Thuận "nhập đồng" làm thơ đã đành, lại còn kéo theo cả các nhà thơ chuyên nghiệp, nhà phê bình chuyên nghiệp và cả hội làm nghề chuyên nghiệp... "lên đồng" chẳng kém ông, ca tụng hết lời? Đến nỗi, có người đã trích dẫn cả nhà tâm thần học Gustave Le Bon, để nghi vấn hiện tượng đám đông ca ngợi, tụng xưng một việc làm vô lí cũng được tâm thần học và tâm lí học giải thích bằng hiện tượng "tâm lí đám đông". Bây giờ, thơ ông "rớt giá" thê thảm, thì chẳng ai lên tiếng bênh vực. Hay vô tình họ làm cái việc mà thiên hạ vẫn mỉm cười bảo: Khen cho nó chết! Xấu chàng, hổ... Tạp chí Nhà văn? Chả trách, 1 người bạn thân của ông kể cho người viết bài này, rằng họ luôn phải "hạ nhiệt" Hoàng Quang Thuận. Vì ông thường tự khen mình, và hỏi bạn bè rằng: Công nhận tôi tài không? Cái sự "háo danh" đến mức ảo tưởng, huyễn hoặc ghê gớm đã khiến bạn bè ông từng "diễu": Ông vừa ở kho... thuốc nổ ra? Và với tính cách thích nổ, thì câu chuyện xung quanh thơ Hoàng Quang Thuận là nhất quán. "Kho thuốc" Hoàng Quang Thuận nổ, ông sẽ phải là người chịu thiệt hại đầu tiên! Những tai tiếng, những đàm tiếu xung quanh thơ Hoàng Quang Thuận, là cái "giá đắt" ông phải trả cho sự nông nổi, chỉ vì 2 chữ danh- lợi tai quái. Dù thực sự, ông cũng là người biết làm thơ, hay làm thơ, thích làm thơ. Và cũng có những bài thơ hay... Có điều, ông si mê nàng Thơ. Nhưng nàng Thơ...chưa thực yêu ông. Ông muốn đạt tới "ngộ" (giác ngộ), nhưng có lẽ tục lụy còn quá nhiều, tham, sân, si còn quá lớn, nên ... mới ngộ nhận chăng? Cũng cần làm sáng tỏ thêm 1 điều, Hoàng Quang Thuận cho biết ông không hề gửi bất cứ tập thơ nào đi dự giải Nobel văn chương, mà do những người dịch và giới thiệu tác phẩm làm điều đó. Ở đây, tập Thi vân Yên Tử do GS-TS Nguyễn Đình Tuyến dịch sang tiếng Anh và chính ông Tuyến gửi đi dự giải này. Trộm nghĩ, dự thi giải Nobel là quyền tự do của cá nhân có tác phẩm văn chương, thi ca, đâu phải đặc quyền của riêng ai. Nhưng khổ nỗi, Nobel có chấp nhận được 1 tác phẩm đang mang tiếng là ...sao chép không? Nếu sống dậy, liệu Nobel có nổi đóa vì cái tính háo danh của con người đã làm tên tuổi ông bị tổn thương, bị bẽ bàng không? Chỉ ngạc nhiên. Những đôi mắt trẻ em viết thơ, làm văn đời này, sao nhìn già dặn, sâu sắc và chua chát? Còn những đôi mắt già của các nhà thơ chuyên nghiệp, các nhà thẩm thơ, khen thơ chuyên nghiệp, lại bồng bột và nông nổi, hời hợt đến thế? Đáng mừng hay đáng buồn cho văn chương nước Việt đây? Kỳ Duyên ===================== Tham khảo: http://news.go.vn/gi...e-duong-tat.htm http://vnexpress.net...ong-de-di-nhau/ http://tuanvietnam.v...sa-sut-den-vay- http://tuanvietnam.v...eu-co-sao-chep- http://truongduynhat...du-n-nobel-tho/ http://lethieunhon.c...ad.php/6106.htm ===================== Chịu! Xin lỗi! Không phải chuyên môn của tôi! - Này! Người ta hỏi mà mình không trả lời là mất lịch sự. Bởi vậy, nên Thiên Sứ tui thật tình nói vậy. Lần nào lên taxi, xe vừa lăn bánh là một giọng nói lảnh lót, đầy nữ tính thốt lên: "Cảm ơn quí khách đã sử dụng taxi Vinasun...". Thiên Sứ tui đều trả lời rất lịch sự: "Dạ! Không có chi!".
  5. Điều này cũng như ngay từ đầu, người ta đã mặc định Lý học Đông phương có cội nguồn từ văn minh Trung Hoa vậy. Từ sự mặc định này, nó khiến người ta đương nhiên xác định tất cả những gì giải thích sau đó của đám Hán Nho là những thành tựu và sự phát triển tiếp nối. Kết quả là:2000 năm cho đến tận ngày hôm nay, văn minh Đông phương vẫn thách đố trí tuệ của cả nhân loại. Người ta không thể làm ra một cái đúng từ một cái sai. Thế giới này sẽ vĩnh viễn chìm trong chiến tranh,loạn lạc, nếu phủ nhận Việt sử 5000 năm văn hiến. Đây là lời tiên tri của tôi.
  6. 40 năm hành trình khám phá “hành tinh Đỏ” Thứ Bẩy, 18/08/2012 - 17:14 (Dân trí) - Tham vọng khám phá sao Hoả trải dài vài trăm năm, bắt đầu với việc phát minh kính thiên văn vào những năm 1600. Từ những bức ảnh mờ nhạt đầu tiên cho tới các bức ảnh màu 360 độ, hành trình thăm dò 40 năm đã giúp con người hiểu về “hành tinh Đỏ”. Bức ảnh cận cảnh đầu tiên chụp được về sao Hoả, được tàu thám hiểm Mariner 4 chụp trong sứ mệnh của nó, kéo dài từ 1964-1967. Mặt trời lặn phía dưới đường chân trời trên vùng Chryse Planitia của sao Hoả. Tàu đổ Viking 1 đã chụp được bức ảnh này trong sứ mệnh kéo dài 7 năm từ 1975-1982. Một lớp sương mỏng có thể được nhìn thấy trên bề mặt sao Hoả tại vùng Utopia Planitia. Bức ảnh này do tàu đổ bộ sao Hoả Viking 2 gửi về trái đất trong sứ mệnh từ năm 1975-1980. Một bức sảnh màu toàn cảnh về địa điểm hạ cánh của tàu thăm dò sao Hoả Pathfinder. Sứ mệnh của tàu này kéo dài chỉ hơn 3 tháng năm 1997. Odyssey chụp khu vực Noctis Vista trên sao Hoả, ở phía tây thung lũng Valles Marineris. Tàu Odyssey được phóng lên “hành tinh Đỏ” năm 2001 và vẫn hoạt động cho tới nay. Ảnh chụp hố Eberswalde trên sao Hoả, vốn hình thành hơn 3,7 tỷ năm trước. Một khu vực núi đá được đặt tên là “El Capitan”, nằm gần địa điểm hạ cánh của tàu thăm dò Opportunity. Khu vực này đang được nghiên cứu chi tiết, sử dụng các thiết bị khoa học trên tàu Opportunity. Ảnh một khối đá được đặt tên là “Adirondack” một cánh tay robot đang tiến lại gần nó. Tàu đổ bộ sao Hoả Phoenix của NASA đào vài hố đất đá trên sao Hoả. Bức ảnh ảnh màu gần thực này do một thiết bị tên gọi Hệ thống chụp ảnh nổi bề mặt (Surface Stereo Imager) trên Phoenix chụp được. Các đụn cát tại Hố Lyot trên sao Hoả trong một bức ảnh chụp tháng 8/2008. Bức ảnh 360 độ này kết hợp 817 bức ảnh được camera toàn cảnh trên tàu thăm dò Opportunity chụp trong khoảng thời gian từ tháng 12/2011-5/2012. Curiosity và dù hãm của nó đang tiếp cận bề mặt “hành tinh Đỏ” hôm 6/8. Curiosity là tàu thăm dò mới nhất và hiện đại nhất của NASA, được phóng lên ngày 26/11/2011 và đã bộ thành công lên sao Hỏa ngày 6/8 vừa rồi. Ngay sau khi hạ cánh, Curiosity đã gửi về những bức ảnh đen trắng đầu tiên. Xe tự hành Curiosity tự chụp ảnh chân dung mình vào ngày 8/8/2012. Curiosity dự kiến sẽ hoạt động trên sao Hoả 2 năm trong sứ mệnh nhằm tìm kiếm các bằng chứng về việc liệu “hành tinh Đỏ” có thể hỗ trợ sự sống hay không. Trần Hải Theo Time ====================Với tinh thần của bài báo này thì không phải là tìm kiếm sự sống trên sao Hỏa, mà là Sao Hỏa có hỗ trợ sự sống hay không. Tôi luôn xác định rằng: Trên sao Hỏa không tồn tại sinh vật sống dưới bất cứ hình thức nào. Còn bây giờ vấn đề được đặt lại là nó có hỗ trợ sự sống không thì lại là chuyện khác. Tôi tin rằng Lý học Đông phương sẽ trả lời được cho vấn đề này. Nhưng đây lại là vấn đề phức tạp hơn rất nhiều so với kết luận: Không có sự sống trên sao Hỏa.
  7. Nhân dân nhật báo TQ “điểm mặt” nhóm chỉ huy đánh chiếm Hoàng Sa 1974 Thứ bảy 18/08/2012 13:05 (GDVN) - Sau khi dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, tháng 5/1974 Mao Trạch Đông đã chỉ thị điều động 3 tàu hộ vệ mang tên lửa đạn đạo từ hạm đội Đông Hải xuống tăng cường cho hạm đội Nam Hải Ngày 6/8 vừa qua, Tân Hoa Xã dẫn nguồn tin tờ Nhật báo Tế Nam giật tít: “Quyết định đánh trận cuối cùng trong đời Mao Trạch Đông: Đồng ý đánh Hoàng Sa” nói thẳng, việc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 là quyết định “đánh trận cuối cùng” của Mao Trạch Đông và là quyết định “đánh trận đầu tiên” của Đặng Tiểu Bình khi được phục chức. Tân Hoa Xã: Mao Trạch Đông là người ra lệnh đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 Tiếp đó, ngày 9/8, Nhân dân nhật báo Trung Quốc bản điện tử lại tiếp tục đăng bài “Chiến tranh Hoàng Sa giữa Trung Quốc – Việt Nam 1974: Những tình tiết ít người biết đến” nhằm tiếp tục luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử. Trong bài viết này, chính tờ Nhân dân nhật báo Trung Quốc đã “điểm mặt” 6 viên chỉ huy cao nhất của Trung Quốc thực hiện mệnh lệnh của Mao Trạch Đông, dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam lúc đó đang do hải quân miền nam Việt Nam quản lý và thực thi chủ quyền. Sau khi Mao Trạch Đông bút phê: “Đồng ý đánh!” vào báo cáo tình hình Hoàng Sa – Biển Đông do Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh soạn thảo, Chu Ân Lai lập tực triệu tập hội nghị thành lập nhóm chỉ huy đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam ngay trong ngày 17/1/1974. Cùng ngày, Chu Ân Lai quyết định phương án điều động lực lượng quân khu Quảng Châu tham gia đánh chiếm Hoàng Sa. Đặng Tiểu Bình (phải) và nhóm chỉ huy đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 8 giờ tối ngày 17/1/1974, Chu Ân Lai chủ trì hội nghị thành lập nhóm chỉ huy đánh chiếm Hoàng Sa gồm 5 nhân vật: Diệp Kiếm Anh (cầm đầu), Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Đặng Tiểu Bình, Trần Tích Liên, sau này bổ sung thêm Tô Chấn Hoa. chỉ huy đánh chiếm Hoàng Sa đã lập tức điều động 2 chiến hạm phá ngư lôi 396 và 389 của hạm đội Nam Hải thuộc căn cứ Quảng Châu, 2 chiến hạm 271 và 274 hạm đội Nam Hải thuộc căn cứ Du Lâm đổ bộ ra nhóm đảo Lưỡi Liềm tuần tra phục sẵn, đồng thời phái 4 đội dân binh vũ trang ra các đảo Duy Mộng, Quang Hòa Tây và đảo Quang Hòa. đó quân Trung Quốc phái 2 chiến hạm 281 và 282 tiến ra phía tây đảo Phú Lâm, đồng thời điều động 2 máy bay thuộc trung đoàn không quân 22 hạm đội Nam Hải tham gia yểm trợ. Phía Trung Quốc bài binh bố trận đã xong. Chu Ân Lai (giữa) và Đặng Tiểu Bình (phải) chỉ đạo quân Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 Sáng sớm 19/1/1974, Chu Ân Lai lại nhóm họp 5 viên chỉ huy đánh chiếm Hoàng Sa bàn phương án, đồng thời bổ sung thêm Tô Chấn Hoa vào nhóm này và giao việc chỉ huy đánh chiếm Hoàng Sa cho Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình phụ trách. Theo tài liệu Nhân dân nhật báo Trung Quốc đang tuyên truyền, cũng trong sáng sớm 19/1/1974, 3 tàu khu trục và một tàu hộ vệ của hải quân miền nam Việt Nam đang tuần tra tại khu vực nhóm Lưỡi Liềm thì phát hiện các tàu Trung Quốc đã xuất hiện gần đó. Từ trái qua: Đặng Tiểu Bình, Diệp Kiếm Anh, Vương Hồng Văn Theo tài liệu tuyên truyền của Nhân dân nhật báo, trận chiến đánh chiếm Hoàng Sa nổ ra ngày 19/1/1974. 10 giờ 22 phút sáng cùng ngày, 1 tàu Trung Quốc bị trúng đạn pháo của tàu hải quân miền nam Việt Nam. Tuy nhiên do quân Trung Quốc quá đông, chúng thực hiện chia cắt 4 tàu hải quân miền nam Việt Nam và dồn dập dội hỏa lực, chỉ 13 phút sau, quân Trung Quốc đã chiếm thế thượng phong. Ưu thế quân đông, tàu nhiều, quân Trung Quốc tấn công dồn dập, đến 2 giờ 52 phút chiều, theo tờ Nhân dân nhật báo Trung Quốc, quân Trung Quốc đã chiếm được các đảo chính thuộc quần đảo Hoàng Sa. Diệp Kiếm Anh báo cáo Mao Trạch Đông, Mao Trạch Đông chỉ thị tiếp tục đánh chiếm các đảo Quang Ảnh, Hoàng Sa và Hữu Nhật. 9 giờ 35 phút sáng 20/1/1974, quân Trung Quốc đổ bộ chiếm nốt 3 đảo này. Từ trái qua: Trương Xuân Kiều, Tô Chấn Hoa, Trần Tích Liên Theo tài liệu phía Trung Quốc đang tuyên truyền, trong trận đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974, phía Trung Quốc chết 18 người, trong đó có Phùng Tùng Bách – Chính ủy tàu 274, bị thương 67 người, tàu 389 bị trúng đạn hỏng nặng. Tài liệu tuyên truyền của Nhân dân nhật báo không nhắc đến con số thương vong của hải quân miền nam Việt Nam trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974. Sau khi dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, tháng 5/1974 Mao Trạch Đông đã chỉ thị điều động 3 tàu hộ vệ mang tên lửa đạn đạo từ hạm đội Đông Hải xuống tăng cường cho hạm đội Nam Hải và chính Tưởng Giới Thạch đã đồng ý cho 3 tàu này đi qua eo biển Đài Loan xuống Biển Đông nhằm thực hiện âm mưu chiếm đóng lâu dài. Bấm vào đây để viết bình luận - Bấm xem tất cả bình luận hay Hồng Thủy ================== Trong những nhân vật này có Trương Xuân Kiều và Vương Hồng Văn là 2 trong nhóm "bẻ lũ bốn tên" bị Mạo Trạch Đông triệt, mà thời huy hoàng đã từng xử ngay Đặng Tiểu Bình đi cải tạo. Híc! Còn Diệp Kiếm Anh đã từng sang Việt Nam.
  8. Tổng thống Iran gọi Israel là “khối u ung thư” Thứ Bẩy, 18/08/2012 - 07:40 (Dân trí) - Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad hôm qua nói rằng Israel là một “khối u ung thư” cần sớm bị loại bỏ. Những bình luận này diễn ra trong bối cảnh Israel công khai thảo luận liệu có tấn công chương trình hạt nhân của Iran hay không. Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad. Nhà lãnh đạo Iran đưa ra bình luận trên trong bài phát biểu tại một cuộc biểu tình thường niên nhằm thể hiện tinh thần đoàn kết và ủng hộ đối với người Palestine và phản đối người Do thái cũng như sự chiếm đóng của Israel ở Jerusalem. “Chính quyền Do Thái và người Do Thái là những khối u ung thư. Các quốc gia trong khu vực cần sớm xoá sổ những kẻ chiếm đóng Do Thái khỏi đất của người Palestine… Một Trung Đông mới chắc chắn sẽ được hình thành. Với hồng ân của Thượng đế và sự trợ giúp của các quốc gia, trong Trung Đông mới sẽ không có dấu vết của người Mỹ hay người Do Thái”, ông Ahmadinejad nói. Những lời chỉ trích mạnh mẽ của ông Ahmadinejad diễn ra trong bối cảnh căng thẳng đang gia tăng giữa Israel và Iran vì chương trình hạt nhân gây tranh cãi của Cộng hoà Hồi giáo. Trong vài tuần gần đây, Israel đã gia tăng những lời đe doạ về khả năng không kích các cơ sở hạt nhân của Iran nhằm ngăn chặn nước này có khả năng sở hữu vũ khí nguyên tử. Iran, vốn đang chịu các lệnh trừng phạt nghiêm khắc của phương Tây, khẳng định chương trình hạt nhân của nước này chỉ phục vụ mục đích hoà bình. Quân đội Iran đã lên tiếng cảnh báo rằng nước này sẽ phá huỷ Israel nếu bị tấn công. “Người Israel biết rất rõ ràng họ không có khả năng” tấn công Iran, hãng tin ISNA dẫn lời phát ngôn viên Bộ ngoại giao Iran Ramin Mehmanparast ngày 17/8. “Nếu họ mắc sai lầm, sự đáp trả của đất nước chúng tôi sẽ dẫn tới sự kết thúc của chính quyền Do Thái”, ông Mehmanparast tuyên bố. Trong bài phát biểu hôm qua, ông Ahmadinejad khẳng định người Do Thái đã gây ra Thế chiến I và II, và đã “kiểm soát các vấn đề của thế giới kể từ giây phút họ lấn át chính phủ Mỹ”. Những bình luận của ông Ahmadinejad đã vấp phải sự chỉ trích của phương Tây. Washington gọi các lời lẽ của nhà lãnh đạo Iran là “đáng bị chê trách”, trong khi Paris xem chúng là “mang tính xúc phạm”. “Chúng tôi lên án mạnh mẽ hàng loạt bình luận mang tính công kích và đáng bị chỉ trích của các quan chức cấp cao Iran nhằm vào Israel”, phát ngôn viên Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ Tommy Vietor nói. An Bình Theo AFP ======================== Với luận điểm và cái nhìn của người Iran với Isarael thế này thì làm sao họ không lo ngại người Iran có vũ khí hạt nhân được. Người Iran nói họ ko chế tạo vũ khí hạt nhân, nhưng chỉ cần sự vu cáo trắng trợn cho người Do Thái gây ra chiến tranh thế giới, cũng đủ là việc không thể tin được.
  9. Tại sao Tây Tạng ? 17/08/2012 3:00 Thanh Niên ngày 31.7.2012 đăng tin chính quyền Trung Quốc cấm du khách 6 nước: Anh, Na Uy, Áo, Hàn Quốc, Philippines và Việt Nam đến Tây Tạng mà không cho biết lý do vì sao đưa ra lệnh cấm này. Câu hỏi được đặt ra là, trên thế giới có hàng trăm quốc gia và vùng lãnh thổ, nhưng vì sao chỉ có 6 nước nêu trên bị cấm, và cấm đến Tây Tạng chứ không một vùng đất nào khác trên lãnh thổ rộng mênh mông của Trung Quốc? Tây Tạng là một vùng đất “nhạy cảm” xét về lịch sử trong quá khứ và cả những gì diễn ra hiện nay. Trung Quốc thế kỷ 21 có khá nhiều “vùng nhạy cảm” chứ không riêng gì Tây Tạng. Tân Cương với thủ phủ Urumqui là một ví dụ. Những cuộc đụng độ sắc tộc nảy lửa diễn ra giữa cư dân bản xứ theo đạo Hồi với người Hán ở Urumqui trước đây cũng khiến cho chính quyền Trung Quốc ra quyết định cấm du khách bén mảng đến vùng đất này, nhất là nhà báo. Tôi chưa có dịp đến Tân Cương, nhưng Tây Tạng thì có. Bất kể du khách vào Tây Tạng bằng đường nào cũng đều phải có giấy phép đặc biệt do cơ quan chuyên trách ở Bắc Kinh cấp. Nếu một người ngoại quốc vào được Tây Tạng mà chưa có giấy phép, khi bị phát hiện sẽ gặp rắc rối to, thậm chí bị coi là gián điệp. Tây Tạng vốn là vùng đất Phật mà nay ra nông nỗi như vậy há phải có nguyên nhân? Ngày 25.7.2012, TS Mai Hồng - nguyên Trưởng phòng Tư liệu thuộc Viện Hán Nôm đã tặng cho Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam tấm bản đồ Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ xuất bản ở Thượng Hải năm 1904 và tái bản 1910 dưới triều đại nhà Thanh. Tấm bản đồ ấy chỉ rõ: cực nam đất nước Trung Hoa thời bấy giờ là Nhai Châu, một địa danh thuộc đảo Hải Nam, không có Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông. Thế rồi một ngày nọ, Trung Quốc trưng ra tấm bản đồ lạ hoắc có 9 đoạn bao gần hết biển Đông, còn gọi là đường lưỡi bò, “liếm” luôn 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chuyện chưa dừng lại ở đó. Căn cứ vào những tấm bản đồ địa chính trị xuất bản vào đời nhà Thanh đầu thế kỷ 20 ở Trung Hoa, Tây Tạng với thủ phủ Lhasa vẫn còn là một quốc gia độc lập. Một góc thủ phủ Lhasa của Tây Tạng - Ảnh: Đoàn Xuân Hải Nguyện cầu trước cung điện Potala - Ảnh: Đoàn Xuân Hải Nỗi đau Lhasa Ngày 22.2.1940, cậu bé 5 tuổi tên Tenzin Gyatso xuất thân trong một gia đình nông dân miền bắc Tây Tạng - hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, đã được tôn lên ngôi Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 trong một nghi thức trang trọng ngay tại thánh địa Lhasa. Tây Tạng lúc ấy chịu ảnh hưởng của đế quốc Anh, đang thâu tóm một vùng rộng lớn bao gồm cả Ấn Độ, Nepal, Butan và Miến Điện (Myanmar) - những quốc gia sát nách Tây Tạng. Năm 1947, Ấn Độ tuyên bố độc lập, thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Anh. Kể từ đây, người Anh mất dần ảnh hưởng ở Tây Tạng. Thời điểm này cũng bước vào giai đoạn cuối của cuộc nội chiến Trung Hoa giữa Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch. Năm 1949, Mao Trạch Đông giải phóng Trung Hoa lục địa, đuổi Quốc dân đảng và Tưởng Giới Thạch ra đảo Đài Loan cho đến tận ngày nay. Theo quan điểm của chính quyền Trung Quốc hiện nay, Đài Loan là “vùng đất không thể tách rời” đối với Trung Hoa lục địa. Theo lịch sử địa chính trị thì Đài Loan thuộc Trung Hoa từ thời xa xưa, vấn đề ở chỗ “sáp nhập” theo cách nào mà thôi. Thế còn Tây Tạng? Tháng 10.1950 tức là chỉ mới 1 năm sau khi giải phóng Trung Hoa lục địa, 80.000 binh lính Trung Quốc bắt đầu tràn qua và chỉ đúng 1 năm sau, tháng 10.1951, Mao Trạch Đông đã kiểm soát thủ phủ Lhasa - trái tim của Tây Tạng. Trước tình cảnh đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma 14 vẫn theo đuổi chính sách biến Tây Tạng thành vùng đất trung lập nhưng có vẻ khó thành hiện thực. Năm 1954, Đạt Lai Lạt Ma thân chinh đến Bắc Kinh để diện kiến lãnh tụ Trung Quốc Mao Trạch Đông. Ngài lưu trú ở Bắc Kinh cả tháng trời để tìm kiếm một nền hòa bình lâu dài cho vùng đất Tây Tạng thời hiện đại vốn xa lạ với chuyện binh đao, giết chóc. Chuyến đi ấy của vị lãnh tụ tinh thần Tây Tạng chẳng hứa hẹn điều gì sáng sủa cho số phận của vùng cao nguyên lạnh giá. Đạt Lai Lạt Ma về đến Tây Tạng với tâm trạng nặng trĩu, bất an vì lúc này người ta có thể ngửi thấy “mùi chiến tranh” phảng phất khắp thủ phủ Lhasa. Và chuyện gì đến cũng đã đến. Tháng 3.1959, binh lính Trung Quốc với số đông áp đảo đã đồng loạt nổ súng và làm chủ hoàn toàn Lhasa trước sự kháng cự yếu ớt của binh sĩ “nghiệp dư” Tây Tạng. Trước khi chiến sự nổ ra, Đạt Lai Lạt Ma 14 đã kịp cải trang và cùng đoàn tùy tùng rời khỏi Lhasa. Sau nửa tháng di chuyển bằng đường bộ băng qua dãy Hy Mã Lạp Sơn, ngài đến Dharamsala, vùng đông - bắc Ấn Độ sống lưu vong cho đến ngày nay. Có người gọi Dharamsala là “Little Lhasa”. Đoàn Xuân Hải
  10. Hồi nhỏ tôi rất thích chơi trò "suy luận logic", theo kiểu: Ba ông thần,một ông khôn ngoan, một ông thật thà và một ông nói dối. Ông thật thà luôn nói thật,ông khôn ngoan cứ một câu thật lại một câu nói dối, ông nói dối thì toàn nói dối....hỏi vị trí ba ông thần ấy như thế nào. Có nhiều bài toán logic kiểu này khó hơn nhiều. Một trong những trò chơi đòi hỏi suy luận hợp lý chính là trò chơi Trí Uẩn. Tôi nghĩ ô chữ này là một trò suy luận rất chặt chẽ. Trong nghiên cứu phục hồi thuyết Âm Dương Ngũ hành, nếu không có một khả năng suy luận hợp lý rất dễ "tầu hỏa nhập ma". Các bạn thử chơi ô chữ này xem. Còn bây giờ bọn trẻ con toàn chơi game, cứ bấm bấm lia lịa. Chết rồi sống lại "uýnh" tiếp, chẳng cần logic nào cả. Cho nên, khi có kẻ bảo ông cha ta "ở trần đóng khố" và sống trong thời "liên minh bộ lạc", chúng nó tin ầm ầm. Bởi vậy, không có logic, không có trật tự, không loạn cào cào cả cái thế giới này sao được?
  11. “Bom thông minh” điều trị ung thư 14/08/2012 9:40 Nhóm các bác sĩ tại Đại học Y khoa Yale (Mỹ) đã thử nghiệm thành công trên chuột một loại “bom thông minh” có khả năng tấn công các tế bào ung thư và tăng cường hệ miễn dịch. Nhóm nghiên cứu đã thí nghiệm trên chuột mắc bệnh ung thư da ác tính đã di căn đến phổi. Sau khi điều trị bằng “bom thông minh”, họ nhận thấy sự phát triển của các khối u giảm đáng kể và khả năng sống của chuột thí nghiệm được cải thiện rõ rệt. “Bom thông minh” sẽ giải phóng thuốc trị ung thư và protein giúp tăng cường khả năng miễn dịch - Ảnh: PA Bác sĩ Stephen Wizesinski cho biết các quả bom hình cầu rất nhỏ này sẽ giải phóng thuốc chữa trị ung thư vào trong máu, đồng thời giải phóng một loại protein tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể người bệnh. Theo Anh Thư / Nature Materials / Tuổi Trẻ
  12. Thiên Sứ tôi thất bại trong việc dự báo hướng đi của cơn bão này. Nhưng tôi vẫn xác định rằng: Tàu "lạ" nên biến khỏi biến Đông, nếu không sớm hay muộn cũng dính thiên tai, bởi bão tố, lốc xoáy, vực nước xoáy ..... Hai hoặc ba ngày nữa lại có một cơn bão nữa uýnh vào biển Đông. Lần này thì chưa biết nó sẽ đi thế nào.
  13. Vào khu vực khắc nghiệt nhất vũ trụ 18/08/2012 3:03 Được trang bị áo giáp công nghệ cao, cặp vệ tinh song sinh của NASA đã sẵn sàng cho hành trình đến Vành đai Van Allen. Vệ tinh đôi RBSP sẽ đảm nhận một trong những sứ mệnh không gian khó nuốt nhất - Ảnh: NASA Phác thảo Vành đai Van Allen NASA đang chuẩn bị triển khai 2 tàu thăm dò Vành đai bão bức xạ (RBSP) cho sứ mệnh tìm hiểu những môi trường khắc nghiệt của các hạt điện tích vần vũ xung quanh hành tinh của chúng ta. Để chống chọi được sự tổn hại từ những đợt tấn công dày đặc và liên tục, các vệ tinh đã được trang bị lớp lá chắn mỏng nhưng chất lượng cao, với hy vọng có thể sống sót trong lúc thi hành nhiệm vụ. Theo NASA, bộ đôi RBSP trị giá 670 triệu USD dự kiến sẽ được phóng lên quỹ đạo bằng tên lửa Atlas V tại căn cứ không quân Mũi Canaveral vào ngày 23.8. Chúng sẽ di chuyển theo 2 quỹ đạo khác nhau, nhưng xuyên qua các vành đai bức xạ Van Allen, khu vực chứa đầy hạt proton và electron xuất phát từ mặt trời và bị từ trường trái đất tóm lại, theo Barry Mauk, chuyên gia về dự án RBSP tại Phòng Thí nghiệm vật lý ứng dụng ở Maryland (APL). Quản lý dự án RBSP Rick Fitzgerald thừa nhận đây là một trong những sứ mệnh khó khăn nhất mà ông từng đảm nhiệm. Bên cạnh việc phải bảo vệ tàu du hành bằng cách bọc giáp đặc biệt dày 8,5 mm, các chuyên gia phải chú ý thiết kế tàu để chúng đạt được trạng thái cân bằng phức tạp, cho phép vừa giảm bớt các đòn bắn phá của bức xạ nhưng vẫn điều khiển được các thiết bị đo đạc. Cả hai vệ tinh đều mang theo 5 loại thiết bị bên trong khung 8 cạnh, với bề ngang khoảng 1,8 m, chiều dài 90 cm và nặng tổng cộng 670 kg/tàu. Các chuyên gia đã quyết định phóng 2 thay vì 1 tàu, với mục tiêu thí nghiệm tại 2 nơi khác nhau trong cùng thời điểm để xác định liệu một sự thay đổi của lượng bức xạ sẽ dẫn đến thay đổi theo thời gian hay không gian, theo trang Space.com. Vành đai Van Allen được chuyên gia không gian James Van Allen người Mỹ phát hiện vào năm 1958, nhưng cho đến nay đây vẫn là khu vực chứa đầy bí ẩn. Giới chuyên gia không thể nào đoán được chuyện gì diễn ra trong vùng hoạt động này. RBSP sẽ lập bản đồ về mật độ của các hạt mang điện tích chạy dọc theo các vành đai, vốn chia ra thành 2 phần: vành đai ngoài và vành đai trong. Vành đai trong thường mở rộng từ 1.600 đến 13.000 km bên trên trái đất. Sau khoảng lặng, vành đai ngoài xuất hiện từ khoảng cách 19.000 đến 40.000 km. Trong thời gian bão mặt trời nổi lên, các vành đai có thể giãn nở hết cỡ, theo chuyên gia Mona Kessel cũng thuộc chương trình RBSP tại trụ sở chính của NASA ở Washington. Khi chúng nở rộng, các vệ tinh quay xung quanh trái đất có thể hư hại, thậm chí các phi hành gia trên Trạm không gian quốc tế cũng gặp nguy hiểm. Và nhiệm vụ của RBSP là phải phân tích được cơ chế phức tạp của Vành đai Van Allen. Hạo Nhiên ====================== Chỗ Dương khí vượng nhất là hai cực của Địa cầu. Chỗ Âm khí mạnh nhất là khoảng không gian giữa trục Đông Tây và mặt phẳng Hoàng Đạo. Có thể vì thế mà trục Đông Tây bị coi là trục Tuyệt mạng chăng?
  14. Câu "Nam mô A Di Đà Phật" được Đức Phật A Di Đà hộ trì. Ngài nói trong một tang kinh ghi nhận: "Ai trước khi chết dù mắc nạn kiếp , nghiệp chướng đến đâu; nếu niệm chú 'Nam mô A Di Đà phật" trước khi chết thì lập tức sẽ không sa vào địa ngục và sẽ lên cõi trời Dục giới!". Hồi còn trẻ - lúc ấy mới gần 40 tuổi - tôi có thắc mắc hỏi một cư sĩ Phật giáo" "Nếu thế thì những kẻ ác niệm chú thì họ sẽ không bị trừng phạt sao? Vậy thuyết nhân quả của Phật giáo sai hay sao?". Vị cư sĩ cười, nói với tôi: "Những kẻ ác và nghiệp chướng đầy mình, liệu họ có đủ duyên mà đến lúc sắp chết niệm chú 'A Di đà' không?". Sau này suy nghiệm, tôi nhận thấy rằng: Những kẻ tham lam, độc ác, nghiệp chướng trùng trùng, không dễ gì trước phút lâm chung nhớ lại để niệm "Nam mô A Di đà Phật" thật. Kể cả tôi nếu có những giây phút sao lãng thì đến Phật cũng quên, đừng nói đến "A Di Đà Phật".
  15. Tham thì thâm. Phật đã bảo thầm rằng chớ có tham. Ca dao Việt Của trời, trời lại lấy đi. Giương đôi mắt ếch làm chi được trời. Ca dao Việt Nhân tham tài nhi tử. Điểu tham thực nhi vong. Ca dao Việt Có từ thời Hùng Vương dựng nước chứ gì nữa. Bằng chứng chính là tính minh triết liên quan đến cội nguồn Lý học Đông phương. Nếu không từ thời Hùng Vương thì làm sao có được sự minh triết có tính phản biện của một học thuyết lớn sâu sắc như vậy? Thí dụ như hình Âm Dương Việt trên bức tranh Đàn Lợn và câu phương ngôn "Mẹ tròn con vuông" đã xác định thuộc nền văn hiến Việt.
  16. Thao túng giá cổ phiếu: Vi phạm nhiều, xử được bao nhiêu? Tác giả: Mạnh Hà Bài đã được xuất bản.: 16/08/2012 05:00 GMT+7 (VEF.VN) - Hàng loạt các lãnh đạo cũ và mới của các công ty chứng khoán (CTCK) bị bắt gần đây đang rấy lên niềm tin cho rằng năm nay sẽ năm của thanh lọc, tái cấu trúc. Tuy nhiên, không ít người nghi ngờ điều này. Lý do của những nghi ngờ này là bởi, thao túng giá nói riêng và sai phạm trong lĩnh vực chứng khoán nói chung trong quá khứ quá nhiều và thậm chí lộ liễu nhưng thực tế xử lý chẳng được bao nhiêu. Liêu năm 2012 có gì khác không? Sờ gáy từng CTCK Thị trường chứng khoán (TTCK) trong phiên cuối tuần xôn xao sau khi Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) chiều 10/8 công bố thông tin bất thường cho biết, Cơ quan An ninh Điều tra Công an Hà Nội đã khởi tố vụ án hình sự tại Công ty cổ phần Chứng khoán Sacombank (SBS). Về cơ bản, đây là vụ án về "công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, thao túng giá chứng khoán" xảy ra tại công ty. SBS bị "sờ gáy" đợt này dường như bởi đây là 1 CTCK có quá nhiều điểm nổi bật mang tính tiêu cực và thu hút sự chú ý của đa số các nhà đầu tư chứng khoán về độ tăng giảm bất thường của cổ phiếu này cũng như các vụ việc mà CTCK có liên quan tới. Trước hết, có thể thấy, SBS là cổ phiếu hiếm hoi "có sóng" tưng bừng với 9 phiên tăng trần liên tiếp gần đây trong khi TTCK đang u ám và buồn tẻ. Điều đáng nói là SBS tăng trần trong khi cổ phiếu này đang bị báo động đỏ với hầu hết các thông tin về doanh nghiệp này đều là tiêu cực như thua lỗ nặng nề (lũy kế hơn 1.400 tỷ đồng), báo cáo tài chính kém tin cậy; thanh khoản kém (từ 19/7 rơi vào diện kiểm soát, chỉ được giao dịch 15 phút cuối); chưa có báo cáo quý II/2012, báo cáo kiểm toán 2011; toàn bộ lãnh đạo gắn bó lâu năm với công ty đều đã bán sạch cổ phiếu trong 6 tháng đầu năm; bị tố cáo làm giá 4 cổ phiếu, trong đó có cổ phiếu của chính SBS... SBS bị khởi tố còn được cho là do CTCK này có thể có liên quan tới vụ Dược Viễn Đông (DVD). Hồi giữa năm 2011, 1 nhân viên môi giới chứng khoán của SBS đã bị khởi tố vì tội làm giá chứng khoán, liên quan tới DVD và cổ phiếu Dược Hà Tây (DHT). Cũng trong ngày 10/8/2012, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) và HOSE ra thông báo về việc ông Phan Minh Anh Ngọc - Chủ tịch HĐQT Công ty CP Chứng khoán Cao su (RUBSE), nguyên tổng giám đốc Công ty Tài chính TNHH một thành viên Cao su Việt Nam, đã bị bắt tạm giam. Không nêu rõ lý do cụ thể vì sao ông Phan Minh Anh Ngọc bị bắt, thông báo nói trên chỉ nêu: RUBSE là một trong 6 công ty chứng khoán bị Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) đưa vào diện kiểm soát đặc biệt từ ngày 23/4 do tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro nhỏ hơn 120%.. Trước đó, ngày 3/8, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an đã thực hiện lệnh khởi tố bị can, bắt tạm giam đối với 2 ông: Phan Huy Chí, Chủ tịch HĐQT Công ty chứng khoán SME và ông Phạm Minh Tuấn, Phó chủ tịch HĐQT để điều tra về hành vi "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" thông qua hợp đồng hợp tác đầu tư - 1 hình thức góp vốn thường để "đánh" chứng khoán rất thịnh hành vài năm trước đây. Câu chuyện nguyên Tổng giám đốc CTCK Liên Việt (LVS), ông Hoàng Xuân Quyến, bị bắt hồi cuối tháng 5, đầu tháng 6 cũng cho thấy 1 điều là sai phạm trong các CTCK là rất nhiều. Những sai phạm kiểu như thao túng giá, sai phạm trong repo cầm cố, trong hợp tác đầu tư... có lẽ là rất nhiều và có thể sờ đâu cũng thấy và dường như không có nhà lãnh đạo CTCK nào trong những năm TTCK bùng nổ như 2007 không khỏi lo lắng. Thao túng và vi phạm tràn lan Mặc dù những thông tin về xử phạt hay khởi tố các hành vi thao túng hoặc vi phạm công bố thông tin (CBTT) gần đây là khá nhiều và có vẻ như các cơ quan chức năng đang "làm mạnh", nhưng trên thực tế tình hình xử lý các sai phạm, trong đó có thao túng giá chứng khoán trong vài năm qua chưa nhiều, chậm và mức xử phạt nhẹ không đủ sức răn đe. Vụ thâu tóm cổ phiếu STB của Ngân hàng Sacombank là 1 điển hình. Nó khiến cho nhiều nhà đầu tư cảm giác rằng, cứ có tiền là làm được tất cả, có thể qua mặt các cơ quan quản lý dễ dàng bằng cách cứ làm rồi chịu phạt. Mức phạt thông thường là không đáng so với những gì mà các đại gia đạt được. Câu chuyện mua chui bán lén cổ phiếu 1 cách công khai và lặp đi lặp lại nhiều lần, mua rồi lại bán và các cá nhân sai phạm chỉ bị phạt sau 1 thời gian rất lâu sau đó - khi mà mục đích của những người làm sai dường như đã đạt được, cho thấy dường như đây không còn là vi phạm CBTT thông thường mà có sự việc lặp đi lặp lại và dường như có hệ thống thì hẳn là 1 vấn đề. Tuy nhiên, mức xử phạt vài chục triệu động/1 lần vi phạm như vậy có thể không đủ sức răn đe. Một trường hợp lộ liễu bị liệt vào tội thao túng giá chững khoán là bà Nguyễn Thị Kim Phượng chào mua công khai 1,3 triệu cổ phiếu CTCP Vật tư và Vận tải Xi măng (VTV), nhưng lại lặng lẽ bán ra hơn 557.000 cổ phiếu này. Trước đó, từ ngày 1/10/2009 đến ngày 12/1/2010, bà Phượng đã có hành vi thông đồng với ông Nguyễn Quang Hưng, ông Ngô Quốc Đạt và ông Ngô Quang Tài để thực hiện mua, bán cổ phiếu VTV nhằm tạo ra cung cầu giả tạo đối với cổ phiếu này; giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết với người khác liên tục mua, bán cổ phiếu VTV để thao túng giá. Tuy nhiên, sau một thời gian điều tra, bà Phượng chỉ bị phạt hành chính với tổng số tiền là 170 triệu đồng. Trên thực tế đây là 1 khoản tiền phạt vào loại nhiều nhất (đối với 1 cá nhân) trên TTCK nhưng thực tế nó có đủ làm chùn chân các đại gia hay không thì hẳn các nhà đầu tư và cơ quan chức năng đều có thể thấy được được. Rồi vụ đẩy giá mà "ai cũng có thể cảm nhận" tại CTCP Khoáng sản Sài Gòn - Quy Nhơn (SQC). Theo đó, bằng kỹ xảo đặt lệnh tạo cung cầu ảo, ông Hoàng Minh Hướng và bà Quách Thị Nga đã thực hiện thao túng giá cổ SQC. Theo kết quả điều tra của UBCK, trong thời gian từ ngày 17/12/2009 đến ngày 7/1/2010, ông Hướng và bà Nga đã đặt nhiều lệnh mua khối lượng lớn cổ phiếu SQC với giá trần hoặc sát trần trong nhiều phiên liên tiếp, gây ảnh hưởng đến giá của cổ phiếu SQC. Vụ 3 cá nhân thông đồng với nhau để thực hiện thao túng giá cổ phiếu SHI trong khoảng thời gian từ 30/12/2009 đến 9/7/2010; vụ tạo cung cầu ảo đẩy giá chứng khoán CTCP Bê tông Hòa Cầm - Intimex (HCC) trong khoảng thời gian từ 16/4/2010 đến 30/6/2010... là những ví dụ khác. Trên thực tế, kể từ khi TTCK được đưa vào hoạt động đến nay có vô vàn các trường hợp thao túng giá hoặc nghi án thao túng giá được nhắc đến hoặc được truyền tai trong giới đầu tư. Đó là chưa kể đến những vụ sai phạm trong CBTT mà ranh giới giữa sai phạm với thao túng là khá mong manh. Một điểm chung trong hầu hết các vụ thao túng giá chứng khoán nói trên là được phát hiện khá chậm (bởi quy trình phức tạp và thanh tra UBCK thiếu thẩm quyền, hình thức thao túng ngày càng tinh vi...) và đều được xử lý theo khung ở mức có vẻ như chưa đủ nặng. Trường hợp bị xử nặng nhất cho đến nay có lẽ là vụ thao túng giá cổ phiếu DVD và DHT của chủ tịch kiêm tổng giám đốc DVD, Lê Văn Dũng với cái kết là 4 năm tù cho ông Dũng. Đây là cũng là người đầu đầu tiên (cùng 3 đồng phạm) bị xử lý hình sự về hành vi thao túng giá chứng khoán kể từ khi tội danh mới này được bổ sung vào Bộ luật Hình sự, có hiệu lực từ 1/1/2010. Hiện cựu tổng giám đốc này đang tiếp tục bị khởi tố để điều tra hành vi làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức để vay vốn ngân hàng. Theo thống kê, hàng năm UBCK phát hiện và xử lý hàng chục trường hợp vi phạm, có hành vi thao túng giá đối với một số loại cổ phiếu. Riêng trong năm 2010, số vụ thao túng lên là trên 50 trường hợp. Tuy nhiên, đa số các nhà đầu tư cho rằng, nếu xét kỹ thì số lượng các vi phạm thao túng có thể cao gấp nhiều lần. Điều mà dư luận hết sức quan tâm, thậm chí là bức xúc trước những biểu hiện vi phạm như: sử dụng thông tin nội gián để làm giá chứng khoán của một số nhà đầu tư được coi là "đại gia" trên TTCK. Việc thao túng của những tay chơi lớn này thường rất tinh vi và khó xử lý nặng theo quy định hiện tại. Red
  17. Thiên tai tăng nặng....... ==================== Giặc lửa hoành hành, tàn phá miền Tây nước Mỹ Cập nhật lúc :6:06 PM, 17/08/2012 (ĐVO) Hàng chục nghìn lính cứu hỏa Mỹ đang phải chật vật chống trả tình trạng cháy rừng đang ngày càng lan rộng ở miền Tây nước Mỹ. Theo kênh truyền hình CNN, chỉ riêng 14 bang ở phía Tây sông Mississippi đã có tới 70 đám cháy lớn. Giặc lửa hoành hành ở miền Tây nước Mỹ. Ảnh AFP Các đám cháy nói trên đang ngày càng bùng phát dữ dội do những làn gió khô nóng do nạn hạn hán thế kỷ hiện nay ở Mỹ gây ra. Hơn 2/3 diện tích nước Mỹ hiện đang bị hạn hán nặng nề, với nhiệt độ không khí lên tới 40 độ C, có nơi còn cao hơn. Theo Cục kiểm lâm Mỹ, các bang ven Thái Bình Dương như Washington, Oregon, California và các bang Nevada, Utah, Idaho chịu nhiều tổn thất nhiều nhất. Nhiều máy bay cứu hỏa đã được huy động làm việc ngày đêm để dập tắt các đám cháy. Bang California đã phải huy động tới 8.000 lính cứu hỏa để chống trả hang chục đám cháy lớn và chỉ riêng khu vực Lake County đã có tới 480 ngôi nhà có nguy cơ làm mồi cho giặc lửa. Theo Reuters, các vụ cháy rừng ngày 16/8 đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát ở các khu vực miền Tây nước Mỹ. Hơn 200.000 ha rừng đang chìm trong biển lửa từ Idaho, Washington, Oregon tới California. Nhiều nhà cửa và những công trình xây dựng tại khu vực này đã bị thiêu trụi. Trung tâm Giám sát hỏa hoạn quốc gia Mỹ cho biết từ đầu năm đến nay, hơn 2,42 triệu ha rừng đã bị lửa thiêu trụi. Trong khi đó, dự báo thời tiết cho biết tình trạng khô hạn ở Mỹ còn kéo dài. Kênh truyền hình CNN dẫn lời một quan chức cứu hỏa ở bang Washington than thở: “Nếu mẹ thiên nhiên không nương tay, chúng tôi chỉ còn một cách duy nhất là tiếp tục chiến đấu chống giặc lửa”. Sau đây là một số hình ảnh cháy rừng ở Mỹ: Minh Châu (theo Welt.de, Reuters)
  18. Quan hệ Trung - Nhật sẽ rơi vào khủng hoảng? Cập nhật lúc :2:19 PM, 17/08/2012 Va chạm tàu cá và tàu tuần tra, các nhà hoạt động bị bắt giữ, báo giới đồng loạt lên tiếng chỉ trích lẫn nhau dữ dội, các tuyên bố ngoại giao mạnh mẽ, cứng rắn… dường như Trung Quốc và Nhật Bản sắp bước vào một giai đoạn căng thẳng mới. Tranh chấp xung quanh các quần đảo trên biển Hoa Đông không ít lần khiến quan hệ giữa hai cường quốc châu Á rơi vào sóng gió đặc biệt khi nó được "đổ thêm dầu" với các vấn đề lịch sử cộng với tranh chấp nguồn tài nguyên và ảnh hưởng khu vực gần đây. Căng thẳng leo thang Bắc Kinh hôm 16.8 nhắc lại yêu cầu đòi Nhật Bản phải thả các nhà hoạt động Trung Quốc bị bắt trước đó khi đổ bộ xuống quần đảo đang tranh chấp Điếu Ngư/Senkaku. Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Zhang Zhijun trong cuộc điện đàm với một quan chức ngoại giao Nhật Bản "thúc giục Tokyo phải ngay lập tức và vô điều kiện thả ngay người và tàu". Cùng ngày, một số cuộc biểu tình nhỏ lẻ đã diễn ra trước cửa Đại sứ quán Nhật Bản tại Bắc Kinh đang được bảo vệ an ninh cẩn mật và trước lãnh sự quán Nhật Bản tại Hong Kong. Tờ China Daily (Trung Quốc) chỉ trích, Nhật Bản "đã đi quá xa trong vụ khiêu khích này" khi nói vụ bắt giữ trên là "xúc phạm" vì "công dân Trung Quốc có quyền tới thăm lãnh thổ Trung Quốc trong khi Tokyo không có quyền bắt giữ công dân Trung Quốc trên lãnh thổ Trung Quốc". Nhật Bản quyết định trục xuất các nhà hoạt động Hong Kong. AP Trong khi đó, mặc dù Kyodo nói Nhật Bản đã quyết định trục xuất các nhà hoạt động Hong Kong nhưng chiều 16.8, cảnh sát Okinawa vẫn tiếp tục thẩm vấn nhóm người này. Tờ Asahi shimbun cùng ngày thì cho rằng, Trung Quốc đang gia tăng các nỗ lực tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Trong những năm trước, Trung Quốc thường ngăn cản các tàu thuyền tới khu vực này còn lần này thì không. Bộ Ngoại giao Trung Quốc trước đó còn đưa ra thông báo yêu cầu Nhật Bản phải đảm bảo an toàn cho nhóm người trên và theo báo này, Bắc Kinh hiện đang theo dõi xem Tokyo sẽ xử sự làm sao. Theo chuyên gia nghiên cứu quốc tế Đại học Thanh Hoa (Trung Quốc) Liu Jiangyong thì "đang có sự thay đổi chiến thuật khi Bắc Kinh tin rằng đối thoại không thể giải quyết tranh chấp và nước này cần phải làm nóng tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư". Khó thành khủng hoảng Mặc dù vậy, hai nước dường như vẫn chưa muốn căng thẳng leo thang quá mức như từng xảy ra trong năm 2010 khi Nhật Bản bắt giữ và đưa ra xét xử một thuyền trưởng Trung Quốc. Trong sự kiện mới nhất này, Nhật Bản có thể sẽ theo hình thức năm 2004, đó là trục xuất tất cả những người xâm nhập trái phép lãnh thổ nước này "nếu không phạm thêm tội gì khác". Bên cạnh đó, việc chính phủ Trung Quốc đối mặt với áp lực không nhỏ trước sự kiện thay đổi lãnh đạo dự kiến vào cuối năm nay còn chính phủ Nhật Bản đang chịu sức ép nặng nề về suy thoái kinh tế cộng với chỉ trích yếu kém cũng khiến Tokyo và Bắc Kinh phải bàn cách giải quyết. Theo báo Asahi shimbun hôm 16.8, các nguồn tin từ Lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản (JCG) cho biết, trước khi nhóm người Hong Kong tiếp cận quần đảo tranh chấp, giới chức hai nước đã có cuộc gặp và lên kế hoạch giảm thiểu hậu quả ngoại giao. Hai bên nhất trí tránh gây thương vong cho các nhà hoạt động chính trị cũng như không làm hư hại con tàu quá nặng. "Tình huống có thể xấu đi ví dụ nếu chúng tôi buộc phải thực hiện đáp trả mạnh mẽ hơn hoặc một vụ đụng độ với tàu JCG", nguồn tin trên cho biết. theo đài NHK, ngay tối 15.8, một tàu hải giám Trung Quốc đã xuất hiện gần khu vực quần đảo Điếu Ngư sau khi 14 nhà hoạt động Hong Kong bị bắt giữ nhưng sau đó rút lui. Mỹ hôm 15.8 kêu gọi các bên liên quan tránh hành động khiêu khích." Chúng tôi hy vọng các bên tranh chấp giải quyết vấn đề thông qua các biện pháp hòa bình, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Victoria Nuland nói, bất kỳ hành động khiêu khích nào cũng không phải là hữu ích trong vấn đề này". Theo hãng tin Reuters hôm 15.8, Mỹ và Nhật đang thảo luận về việc nâng cấp hệ thống phòng thủ tên lửa cho hai tàu chiến của Nhật Bản nhằm đối phó với các hoạt động tấn công tên lửa đạn đạo. Kế hoạch trị giá hàng triệu USD này sẽ nâng cấp cho hai tàu chiến trang bị tên lửa dẫn đường lớp Atago của Nhật một hệ thống tên lửa đạn đạo tiên tiến Aegis tương tự như những trang bị của tàu Hải quân Mỹ. Trước đó, năm 2003, Nhật Bản quyết định nâng cấp cả 4 tàu khu trục lớp Kongo có trang bị tên lửa Aegis với khả năng bắn hạ tên lửa đạn đạo. Hà Anh (tổng hợp) ======================== Cãi nhau chơi cho vui. mới sủi tăm chứ chưa đủ độ sôi. Nhưng rút khỏi biển Đông đi mấy ông "Pú hảo" à!
  19. CÓ CẦN PHẢI VIẾT LẠI TÊN BÁCH VIỆT? Hà Văn Thùy Ý tưởng “Người Hán vượt Hoàng Hà chiếm đất, đuổi người Việt chạy có cờ qua sông Dương Tử, sau đó chế ra chữ Việt bộ Tẩu để nhạo báng kẻ thua trận” không chỉ có ở Tiến sĩ Nguyễn Đại Việt* mà từ lâu xuất hiện dai dẳng ở nhiều người khác. Tiếc rằng đó là một ý tưởng mang tính tự kỷ ám thị tệ hại nhất của người Việt dựa trên sự thiếu hiểu biết về lịch sử và ngôn ngữ Việt. 1. Về phương diện lịch sử. Sang thế kỷ này, bằng việc kết nối những khám phá di truyền nhân học với những tri thức khảo cổ học, cổ nhân học và văn hóa học, chúng ta biết rằng, người vượt sông Hoàng Hà chiếm đất Bách Việt 4500 năm trước, lập vương triều Hoàng Đế là chủng Mông Cổ phương Bắc (North Mogoloid). Tuy chiến thắng nhưng do số người ít và văn hóa chưa phát triển, vào Trung Nguyên, người du mục Mông Cổ bị người Việt đồng hóa cả về di truyền lẫn văn hóa. Do chung đụng với người Việt, lớp con lai Mông - Việt ra đời, tự nhận là người Hoa Hạ. Người Hoa Hạ học tiếng nói, chữ viết cùng văn hóa của tổ tiên Bách Việt. Theo sử Trung Hoa, Hoàng Đế cai trị khoảng 100 năm (2698-2598 TCN), tiếp theo là Thiếu Hạo, Chuyên Húc. Nhưng sau đó, vương quyền chuyển về người Việt với Đế Cốc, Đế Chí, Đế Du Võng rồi Đế Nghiêu (2337 –2258 TCN), Đế Thuấn, Đế Vũ (2205 –2198 TCN), Đế Ất (Thành Thang 1766-1122 TCN). Chỉ sau khi diệt nhà Ân, Vũ vương lập nhà Chu, người Hoa Hạ mới nắm quyền bính. Tuy xưng bá nhưng nhà Chu bị kẹp giữa những quốc gia Việt hùng mạnh: Ba Thục phía tây-nam, Ngô, Việt, Sở phía đông và Văn Lang phía nam. Tần Thủy Hoàng người Việt, diệt lục quốc, gồm thu đất đai, con người và văn hóa của khối dân cư Việt khổng lồ vào đế quốc Trung Hoa. Diệt nhà Tần, Lưu Bang, một người Việt bên sông Hòn cùng những hào kiệt người Việt khác như Anh Bố, Quý Bố lập ra vương triều với tên Việt là Hòn, chỉ tới đời Đường mới gọi là Hán theo quan thoại thời đó. Như vậy, huyền thoại “người Hán vượt Hoàng Hà vào chiếm đất rồi đuổi người Việt chạy vượt sông Dương Tử” là sai lầm, ngộ nhận đã bị thực tế lịch sử bác bỏ! 2. Về phương diện ngôn ngữ Cho tới cuối thế kỷ trước, từ học giả thế giới tới Việt Nam tin như đinh đóng cột rằng, tiếng Việt mượn 70% từ tiếng Trung Hoa. Nhưng tới năm 2006, bằng khảo cứu không thể phản bác của mình, tôi chứng minh rằng: “Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa.” Sau đó, từ năm 2009, bằng loạt bài viết đầy thuyết phục như Phát hiện lại Việt nhân ca, Phục nguyên Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn và nhiều bài khác, nhà nghiên cứu Đỗ Thành công bố hàng trăm hàng ngàn chứng cứ cho thấy, tiếng Việt từ Việt Nam theo người di cư lên phía nam Dương Tử thành tiếng Mân Việt, Đông Việt, Việt Quảng Tây, Hải Nam… Từ đây, theo chân người Việt, tiếng Việt vào Trung Nguyên, là chủ thể tạo thành ngôn ngữ Trung Hoa. Từ thời Chu, Khổng Tử coi tiếng của phương Nam là tiếng chuẩn mực nên gọi là Nhã ngữ. Thời Tần thống nhất ngôn ngữ theo Nhã ngữ của phương Nam. Từ những phát hiện văn bản chữ tượng hình trên bình gốm Bán Pha 2, cách nay 12.000 năm; chữ tượng hình mang nội dung bói toán, cúng tế trên yếm rùa ở di chỉ Giả Hồ 9.000 năm trước và văn tự của bộ lạc Thủy với 250.000 người hiện sống ở Quảng Tây, tôi tiên liệu rằng, chính người Lạc Việt – chủng Indonesian, giữ vị trí lãnh đạo dân cư Đông Á về xã hội và ngôn ngữ - đã sáng tạo chữ vuông tượng hình. Đầu năm nay, đàn cúng tế của người Lạc Việt ở di chỉ Cảm Tang Quảng Tây (4000 tới 6000 năm trước) với hàng ngàn mảnh rìu đá (còn được gọi là xẻng đá) khắc ký tự tượng hình nói về cúng tế và bói toán được phát hiện. Kết nối ký tự Cảm Tang với văn bản Bán Pha, ký tự Giả Hồ và Giáp cốt-Kim văn Ân Khư, cho thấy một quá trình sáng tạo liên tục của chữ tượng hình trên đất Trung Hoa mà chủ nhân của nó là người Lạc Việt. Từ đó có thể đưa ra nhận định: Giáp cốt và Kim văn là sáng tạo văn tự của người Lạc Việt. Sang thời Chu, chữ tượng hình vốn khắc trên yếm rùa, xuơng thú, đồ đồng được chuyển thành chữ viết trên lụa và thẻ tre. Thời Tần, Hán, trí thức Hoa Việt cùng nhau cải tiến chữ viết tượng hình thành chữ của nhà Hán. Như vậy, chữ Việt cũng là chủ thể tạo nên chữ Trung Hoa! Do người Việt sáng tạo nên trong chữ tượng hình Lạc Việt có vô số chữ Việt: Nhật (日) là Việt, Nguyệt (月) là Việt, thậm chí Hán (漢) cũng là Việt… Chữ Việt trên gươm của Câu Tiễn phía bên trái gồm chữ Nhật với nghĩa Việt phía trên còn phía dưới chữ Long (rồng) là chữ duy nhất biểu trưng cho vương vị của Việt vương. file:///C:%5CUsers%5CTHIENSU%5CAppData%5CLocal%5CTemp%5Cmsohtmlclip1%5C01%5Cclip_image002.jpg Trong vô số chữ Việt hiện có, nhiều học giả xác định, có ba chữ là tên gọi của tộc Việt. Đầu tiên là Việt - người cầm rìu (戉). Chữ này có thể xuất hiện trước 15.000 năm cách nay, khi người Việt sáng tạo ra rìu đá mài, công cụ lao động ưu việt nhất của nhân loại thời đó. Chữ Việt thứ hai, vẫn quen gọi là chữ Việt bộ Mễ (粵) là tên gọi của tộc Việt xuất hiện sau 15.000 năm cách nay, khi người Việt thuần hóa được cây lúa nước, phát minh quan trọng nhất của lịch sử nhân loại. Chữ này hiện được dùng để gọi người Việt phía nam Dương Tử. Chữ Việt bộ Tẩu (越) được dùng làm tên của tộc Việt vào thời Đồ đồng. Là người đầu tiên phát minh kỹ thuật đúc đồng, làm trống đồng, rồi vũ khí mà tiêu biểu là chiếc qua trong chinh chiến, hình tượng chiến binh cầm qua đồng truy đuổi kẻ thù được dùng làm biểu trưng cho người Việt. Căn cứ vào tự dạng thì hình tượng người cầm qua chạy có hai nghĩa tương phản: chạy tới là tiến công còn chạy lui là trốn tránh. Về mặt ngữ pháp, “tẩu” là động từ chỉ sự di chuyển, mang nghĩa trung tính. Vì vậy, để có nghĩa hoàn chỉnh, người ta phải thêm xu hướng động từ: tới và lui. Do vậy, chỉ áp cho nó duy nhất nghĩa bỏ chạy là không đúng. Nếu việt là trốn chạy thì giải thích thế nào về những chữ như ưu việt nói về phẩm chất vượt trội, việt vị nói việc chạy vượt qua mốc quy định. Mặt khác, trong Hán ngữ, nói về việc chạy trốn, đã có chữ Đào (逃). Như vậy là, từ lịch sử tới ngữ nghĩa, chữ Việt (越) hoàn toàn không phải trốn chạy mà mang nghĩa tích cực của sự tiến công, tiến bộ, vượt trội. 3. Kết luận Trước đây, do không hiểu đúng lịch sử của tộc Việt nên một số trí thức yếm thế gán cho chữ Việt bộ Tẩu cái nghĩa người cầm qua bỏ chạy rồi từ đó nghĩ rằng người Hán chế ra chữ đó để nhạo báng người Việt. Đó là sự ngộ nhận mang tính tự kỷ ám thị tệ hại không chỉ về lịch sử mà còn về ngôn ngữ. Nay, nhờ khoa học nhân loại, sự thật đã sáng tỏ: tổ tiên ta không chỉ sinh ra người Hoa Hạ mà còn trao cho họ nền văn hóa Việt rực rỡ, trong đó có tiếng nói và chữ viết. Cùng với hình tượng người cầm qua, chữ Việt bộ Mễ, chữ Việt bộ Tẩu cũng do chính tổ tiên chúng ta sáng tạo. Đó là chữ chính danh khẳng định sự ưu việt của Tổ tiên không chỉ của 90 triệu người Việt Nam mà còn của hàng trăm triệu đồng bào đang sống ở nam Dương Tử, những người mang dòng máu Việt, vẫn nhớ cội nguồn Việt và giữ gìn tiếng nói cùng nhiều vốn quý của văn hóa Việt! Đáng tiếc là vẫn còn một số người vô tình hay hữu ý bưng tai nhắm mắt trước những phát hiện mới về lịch sử. Như người bệnh tưởng, họ tự giam mình trong cõi vô minh rồi buồn tủi, than thân trách phận về căn bệnh giả tưởng! Cố gắng viết lại chữ Việt thể hiện cái tâm đáng trân trọng. Nhưng việc làm này không chỉ vô nghĩa đối với khoa học mà còn gây nhiễu tâm trí những người nhẹ dạ, cả tin, tiếp tục giam hãm họ trong vòng ngu dân. Một lần nữa, xin khẳng định: chữ Việt bộ Tẩu do chính tổ tiên chúng ta sáng tạo, không chỉ là biểu trưng của vinh quang quá khứ, mà bằng minh triết của mình, người Việt sẽ giữ vị trí hàng đầu dẫn dắt nhân loại đi lên trong thiên niên kỷ mới. Vì vậy chữ Việt (越) không có lý do gì phải viết lại! Tân Phú, 3. 3. 2012
  20. Anh chị em thân mến. Nếu như chúng ta đọc một bài nói về cuộc tranh luận của các nhà sử học Urugoay về nguồn gốc của dân tộc này chắc chắng ai buồn xem. Cũng tương tự như vậy với người nước ngoài với nguốn gốc Việt sử vậy. Nhưng cội nguồn dânto6c5v Urugoay quan trọng với dân tộc họ và cội nguồn dân tộc Việt quan trọng với dân tộc Việt. Tuy nhiên, cội nguồn dân tộc Việt còn một ý nghĩa nữa la 2no1 làm sáng tỏ toàn bộ những bí ẩn của nền văn minh Đông phương. Và còn quan trọng hơn thế là cốt lõi của nền văn minh Đông Phương chính la 2mo6t5 lý thuyết thống nhất vũ trụ đấy bí ẩn nắm trong những gia 1tri5 của văn hoa 1truye6n2 thống Việt. Bài chưa hoàn chình
  21. Đề nghị anh chị em kỹ thuật đưa bài của tiến sĩ Nguyễn Đại Việt ra trang chủ của lyhocdongphuong.org.vn Xin cảm ơn.
  22. VIỆT LẠI TÊN BÁCH VIỆT. Nguyễn Đại Việt Sau khi hợp lực đánh đổ nhà Tần năm 206 trước Công Nguyên (TCN), Lưu Bang bất thần xé bỏ hòa ước Hồng Câu xua quân bao vây Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ và diệt nước Sở năm 202 TCN. Cùng năm đó, ông lên ngôi hoàng đế sáng lập ra nhà Hán còn gọi là nhà Tiền Hán hay nhà Tây Hán. Về chữ viết, Hán triều tiếp tục chính sách của Tần Thủy Hoàng trong việc sửa đổi và tiêu chuẩn hóa một loại cổ ngữ thành một hệ thống chữ viết gọi là Hán ngữ. Trong khoảng từ năm 109 đến năm 91 TCN, Tư Mã Thiên, một sử gia nổi tiếng đời Tây Hán, dùng Hán ngữ biên soạn bộ Sử Ký dài 130 tập, theo chú thích trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, ông là người đầu tiên viết hai chữ Bách Việt trong tập Ngô Khởi Truyện của bộ Sử Ký nổi tiếng đó. "Bách Việt" được dịch sang Hán ngữ hiện đại là 百 越. Hình 1: Chữ "Việt" (bên trái) viết theo lối chữ Triện thời Tây Hán. Chữ "tẩu" (thứ hai từ trái sang phải) dùng để xác định ý nghĩa và chữ "người cầm qua" (bên phải) dùng xác định cách phát âm. Chữ cuối phát âm là "Việt" có hình tượng giống như một người cầm cái qua (戈). Trong Hán ngữ chữ "qua" (戈) có nghĩa là "cái mác" hoặc "chiến tranh". Một bộ sử khác do Ban Bưu khởi xướng, bộ Hán Thư (漢書) gồm 100 tập, cũng được soạn thảo vào thời Tây Hán chép rằng: “Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Hội Kế (Cối Kê), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình.” Bách Việt mà hai bộ Sử Ký và Hán Thư đề cập đến chính là chủ nhân của vùng đất rộng lớn, bao trùm toàn cõi Hoa Nam và miền Bắc Việt Nam ngày nay; ngoại trừ Lạc Việt (Việt Nam) các thị tộc Bách Việt khác đều bị Hán tộc tiêu diệt, đồng hóa và chiếm đoạt hết lãnh thổ. Theo Hán ngữ hiện đại, tên các thị tộc của Bách Việt được viết là 於 越 (Ư Việt), 揚 越 (Dương Việt), 閩 越 (Mân Việt), 南 越 (Nam Việt), 東 越 (Đông Việt), 山 越 (Sơn Việt), 雒 越 (Lạc Việt), 甌 越 (Âu Việt), v.v…tất cả các tên đều gắn liền với chữ 越, gọi là "chữ Việt bộ Tẩu". "Tẩu" có nghĩa là "chạy" nhưng không hiểu vì sao sử gia Lê Văn Hưu thời nhà Trần khi biên soạn quyển Đại Việt Sử Ký (大越史記) năm 1272 và sử gia Ngô Sĩ Liên, triều vua Lê Thánh Tông, khi viết quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (大越史記全) năm 1479, vẫn sử dụng chữ "Việt bộ Tẩu" của nhà Tiền Hán. Bài viết này gồm 2 phần. Phần chính giới thiệu chữ "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ đồng thời chứng minh "chữ Việt bộ Tẩu" của nhà Tây Hán là một bản dịch sai của chữ "Việt" đó. Phần còn lại, phần phụ, trình bày một cái nhìn, một cảm nhận cá nhân về chữ "Việt" của một vị vua sống trong thế kỷ thứ 5 TCN. CHỮ "VIỆT" CỦA BÁCH VIỆT Tại sao chủng tộc Bách Việt lại tự nhận diện qua một cái tên không phản ảnh một chút sắc thái nào của mình? Nguyên do nào khiến tên của một chủng tộc từng làm chủ một lãnh thổ rộng lớn lại mang ý nghĩa bi quan như thế? Ngày nay, khi tìm hiểu ý nghĩa chữ "Việt" giới nghiên cứu không tránh khỏi ngạc nhiên và băn khoăn bởi những câu hỏi tương tự trên đây. Mặc dù có những nổ lực bỏ ra nhằm khám phá những bí ẩn đàng sau chữ "Việt bộ Tẩu", nhưng đến nay tuyệt nhiên vẫn chưa có một giải thích thuyết phục nào được công nhận một cách rộng rãi. Sỡ dĩ có sự bế tắc đó là vì họ đã nghiên cứu một cái tên sai. Quả vậy, chữ 越 hay "Việt bộ tẩu" không phải là do người Việt cổ đặt ra, nó chỉ là một phiên bản được các sử gia và học giả của triều đình Tây Hán dùng Hán ngữ dịch từ chữ "Việt" nguyên thủy vốn đã xuất hiện trước đó ít nhất là 300 năm. Từ văn tự cổ đến trống đồng và những cổ vật khai quật được đặc biệt là thanh gươm của vua Câu Tiễn, chúng ta sẽ tìm câu trả lời chính xác cho câu hỏi Việt là gì, nó sẽ giải tỏa nghi vấn kéo dài suốt hơn 2000 năm kể từ khi Tư Mã Thiên dùng Hán ngữ đặt bút viết chữ " Việt bộ Tẩu" (越) trong bộ Sử Ký của ông đến nay. Trong phần này các chữ "Việt" thuộc thời đại đồ đồng sẽ được trình bày và phân tích. Kế đó, thành phần cấu tạo của chúng sẽ được so sánh với thành phần cấu tạo của chữ "Việt bộ Tẩu" và chữ "Việt bộ Kim". 1. Chữ "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ trong thời đại đồ đồng Giáp Cốt văn là loại văn tự khắc chạm trên mai rùa hay xương động vật. Chữ trên mai rùa gọi là Giáp văn còn chữ trên xương những động vật khác gọi là Cốt văn. Chữ viết khắc chạm trên đồng và kim loại gọi là văn tự thời đồ đồng. Cả hai loại văn tự đều có từ đời nhà Thương và Giáp Cốt văn là loại văn tự cổ xưa nhất. Triều đại nhà Thương xuất hiện trong khoảng từ năm 1600 đến 1046 TCN, kinh đô đóng tại đất Ân thuộc tỉnh Hà Nam, Trung quốc ngày nay. Giặc Ân trong huyền sử Phù Đổng Thiên Vương của người Việt chính là nhà Thương này. Hiện nay có hơn 4.000 văn tự thời đồ đồng được khai quật và trong đó một số chữ "Việt" được ghi nhận. Xin lưu ý là các văn tự đồ đồng và Giáp Cốt văn dùng trong tài liệu này đều được cung cấp từ chineseetomology.org, một website về cổ ngữ rất phong phú và hữu ích của ông Richard Sears. Sau đây là 5 chữ "Việt" viết bằng loại "chữ chim", có nơi gọi là "chữ sâu bọ và chim", một loại cổ ngữ rất phổ biến và thông dụng ở các nước Sở, Việt, và Chu. a) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01747 Hình 2: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng Nhận xét chữ mang ký hiệu B01747: - Người đeo lông chim trên đầu và thắt lưng. Từ đây về sau sẽ gọi là "Người Chim". - Người Chim đứng với hai chân dang rộng, tay cầm một cây gậy dựng đứng trên mặt đất và trên thân gậy có 2 cái móc nhỏ. - Chữ này chỉ có một thành phần là chính nó. - Niên đại: không rõ. b ) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01748 Hình 3: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng Nhận xét chữ mang ký hiệu B01748: - Thành phần bên phải là Người Chim. - Tay Người Chim cầm một vật giống như cái qua (mác). - Người Chim trong tư thế của một vũ điệu. - Thành phần bên trái là ký tự gồm một hình tròn nằm trên chữ mang hình tượng có đầu tròn to với một cái đuôi. - Niên đại: không rõ. c) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01750 Hình 4: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng Nhận xét chữ mang ký hiệu B01750: - Thành phần bên phải là Người Chim. - Thành phần bên trái gồm một hình tròn nằm trên ký tự có hình tượng giống thân rắn với 2 sừng. - Niên đại: không rõ. d) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01751 Hình 5: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng Nhận xét chữ mang ký hiệu B01751: - Thành phần bên phải là Người Chim trong tư thế nhảy múa. - Người Chim không cầm qua hoặc binh khí. - Thành phần bên trái là một hình tròn nằm trên một cái đầu có đuôi cong. - Niên đại: không rõ. e) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01749 Hình 6: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng Nhận xét chữ mang ký hiệu B01749: - Thành phần bên phải là Người Chim. - Tay phải của của Người Chim cầm một vật có hình dạng của một cái qua. - Thành phần bên trái gồm một hình tròn có chấm bên trong và nằm ngay trên ký tự có hình tượng uốn lượn như thân rắn với một cái đầu to, miệng (hoặc 2 sừng) và mắt. - Niên đại: 496 - 465 TCN. Đây là chữ "Việt" được khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn nước Việt (khác với Việt Nam). Kết luận: Khảo sát các chữ "Việt" trên đây chúng ta rút ra được 2 điểm quan trọng, - Thứ nhất, chữ "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ có niên đại trong khoảng từ 496 đến 465 TCN, nghĩa là chúng xuất hiện trước chữ "Việt bộ Tẩu" của nhà Tiền Hán ít nhất 3 thế kỷ. - Thứ hai, yếu tố chủ đạo của các chữ "Việt" là "Người Chim". "Qua" hay binh khí là yếu tố phụ. 2. Chữ "Nước" (Quốc gia) trong thời đại đồ đồng Theo định nghĩa của chữ 邑 (ấp), một trong các ý nghĩa của nó là "nước" hay "quốc gia". Ví dụ như "nước Chu" (邾: Chu quốc) hay "nước Hàn" (邗: Hàn quốc) thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Hình 7: Chữ "ấp" trong thời đại đồ đồng. Chữ này có nghĩa là "nước", "quốc gia", "kinh đô, "thành thị" hoặc là vùng đất được vua ban cho. Hình 8: "Chu quốc" nghĩa là "nước Chu" theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái) và thời chữ Triện (phải). Trong chữ "Chu quốc" nghĩa là "nước Chu" (hình 8), chữ "nước" được đặt sau chữ "Chu", khác với cách viết của người Việt là chữ "nước" được đặt trước như trong các chữ "Việt" của thời kỳ đồ đồng và cách viết hiện nay của người Việt Nam. Tương tự, chữ "nước" được dùng trong chữ "Hàn quốc" (nước Hàn) trong hình 9. Hình 9: "Hàn quốc" nghĩa là "nước Hàn" theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái) và theo lối chữ Triện (phải). Hiện nay có tất cả 31 chữ "邑" (ấp) thuộc thời kỳ đồ đồng (hình 7) được ghi nhận. 3. Chữ "Tẩu" trong thời đại đồ đồng Chữ 走 (Tẩu) là thành phần bên trái của chữ 越, chữ "Việt bộ Tẩu", viết theo Hán ngữ hiện đại. Hình 10: Chữ "Tẩu" (Hán ngữ hiện đại: 走) trong thời kỳ đồ đồng. So sánh chữ "nước" (hình 7) với chữ "tẩu" của thời kỳ đồ đồng (hình 10) thì hai chữ này hoàn toàn khác nhau từ hình thức đến nội dung. Hơn nữa "nước" là một danh từ còn "tẩu" là một động từ. Hiện có 17 chữ "Tẩu" thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận (hình 10). 4. Chữ "Kim" thời đại đồ đồng Trong hình 11 và phía trên là một số cách viết chữ chữ "Kim" trong thời đại đồ đồng. Ở dưới và bên phải là chữ "Gươm", chữ cuối trong 8 chữ được khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Thành phần bên trái của chữ "Gươm" chính là chữ "Kim". Hình 11: Các cách viết chữ "Kim" trong thời đại đồ đồng (trên). Chữ "Kim" là phần trái của chữ "Gươm" (hình dưới, bên phải) và chữ "Nước" là phần trái của chữ "Việt" (hình dưới, bên trái) trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Cũng trong hình 11, ở dưới và bên trái, chữ "Việt" là chữ đầu tiên trong 8 chữ cổ trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Phần bên trái của chữ "Việt" không thể là chữ "Kim" vì không bao giờ có 2 chữ "Kim" khác nhau được khắc trên cùng một thanh gươm, nhất là thanh gươm của một ông vua. Hơn nữa về hình thức thì 2 chữ 邑 (Ấp, hinh 7) và 金 (Kim, hình 11) hoàn toàn khác nhau. Hiện nay có tất cả 82 chữ "Kim" thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận. Kết luận: Thành phần bên trái của chữ "Việt" nguyên thủy chính là chữ "邑" (ấp) và được viết bằng "văn tự chim", một loại chữ cổ có trước Hán ngữ và rất thông dụng ở các nước Sở, Việt, và Chu. 5. Chữ "Người Chim" trong chữ "Việt" nguyên thủy và chữ "người cầm qua" (戉) trong "chữ Việt bộ Tẩu" của nhà Tây Hán "Chữ Việt bộ Tẩu" của triều đình nhà Tây Hán viết theo Hán ngữ hiện đại gồm 2 thành phần. Phần bên trái là chữ "Tẩu" dùng để xác định ý nghĩa của toàn chữ và phần bên phải là chữ "Việt" dùng để phát âm (hinh 12). Hình 12: "Việt bộ tẩu" viết theo Hán ngữ hiện đại. Chữ bên phải của chữ "Việt bộ Tẩu" mang hình tượng một người cầm qua, chữ này có gốc từ chữ 戈 của Hán ngữ và có nghĩa là "Qua", 'Mác" hay "Chiến tranh". Chữ 戉 (người cầm qua) trong chữ "Việt bộ Tẩu" không phải là thành phần cấu tạo của chữ "Việt" nguyên thủy. Hình 13: Một cách dịch chữ "Người Chim" của người Việt cổ sang Hán ngữ hiện đại. Lưu ý là Hán ngữ không có chữ này. Thật vậy, từ chữ "Việt" trong thời kỳ đồ đồng đến hàng trăm trống đồng được khai quật ở Việt Nam và vùng Hoa Nam, tất cả đều thể hiện một quan niệm đồng nhất của người Việt cổ khi dùng các yếu tố chủ đạo để tự nhận diện và yếu tố đó chính là "Người Chim" tay cầm qua hay binh khí (hình 13). Hình 14: "Người Chim" trên trống đồng Ngọc Lũ. Nguồn: Wikipedia. Cho đến nay số lượng chữ "Việt" thuộc thời đại đồ đồng khai quật được tuy không nhiều nhưng quan trọng là tất cả đều thể hiện tính nhất quán cả về nội dung lẫn hinh thức. Vì vậy, có thể tiên đoán rằng đối với bất kỳ chữ "Việt" nào có trước thời Tiền Hán và được viết theo "văn tự chim" thì xác xuất để nó mang cùng nội dung và hình thức với 5 chữ "Việt" trình bày trên đây rất cao. Hình 15: Một ví dụ của chữ "Việt" được dịch sang Hán ngữ hiện đại từ chữ "Việt" nguyên thủy. Bên trái là chữ ấp (邑: nước), bên phải là chữ "Người Chim" tay cầm qua và phát âm là "Việt". Toàn chữ viết và đọc là "nước Việt". Trong Hán tự không có chữ này. Hán ngữ hiện đại dùng chữ 國 (quốc, nước, quốc gia) thay thế cho chữ 邑 (ấp, nước, quốc gia). Kết luận: Chữ "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ viết bằng cổ ngữ "chim", có niên đại từ 496 - 465 TCN, và xuất hiện trước chữ "Việt bộ Tẩu" viết bằng Hán ngữ của nhà Tây Hán ít nhất 300 năm. Chữ "Việt" của Bách Việt được cấu tạo bởi hai thành phần duy nhất là chữ "Nước" (邑: ấp, quốc gia) ở bên trái và chữ "Người Chim" tay cầm qua ở bên phải. "Người Chim" là yếu tố chủ đạo, phát âm là "Việt", "qua" hay binh khí là yếu tố phụ (hình 15). oOo Từ các chứng cớ lịch sử vững chắc đã được công bố bao gồm văn tự của thời đại đồ đồng, hoa văn trên trống đồng, và cổ ngữ trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, những phân tích trên đây chứng minh rằng dù được viết bằng Hán ngữ thời Tây Hán hoặc hiện đại thì nội dung và hinh thức của chữ 越, chữ Việt bộ tẩu và 2 thành phần của nó 走 và 戉, hoàn toàn không phải là chữ "Việt" của Bách Việt, nó chỉ là một phiên bản được dịch từ chữ "Việt" nguyên thủy vốn đã có trước khi nhà Tây Hán thành lập 3 thế kỷ. Hán sử không trung thực khi ghi chép về Việt tộc, đó là sự thật, và điều đáng tiếc là Tư Mã Thiên, dù với bất kỳ lý do nào, đã xem nhẹ kiến thức và uy tín của tác giả bộ Sử Ký nổi tiếng khi dịch sai tên một chủng tộc. Ông đã bị chính trị ảnh hưởng, hay nói một cách chính xác hơn, đó là một nhầm lẫn được suy tính chu đáo của triều đình nhà Tây Hán trong chính sách tiêu diệt và đồng hóa các thị tộc Bách Việt. PHỤ LỤC: MỘT CÁCH DỊCH CHỮ "VIỆT" SANG HÁN NGỮ Chúng ta bắt đầu phần này bằng một câu chuyện về nước Oa (Wa), một quốc gia nằm trong vùng biển phía đông của Hoa lục. " Oa" viết theo Hán ngữ là 倭, là tên do người Hán đặt cho dân tộc này và được họ dùng trong nhiều thế kỷ để tự nhận diện và khi giao tiếp với các triều đình Trung Hoa. Mãi đến thế kỷ thứ 8, sau khi khám phá ra thâm ý phía sau tên Oa, học giả và trí thức người Oa lập tức dùng một tên khác để thay thế. Chữ Oa (倭) mang ý nghĩa châm biếm và xúc phạm như "phục tùng" hay "thằng lùn", còn tên mới 和 có nghĩa là "hài hòa, hòa bình, và quân bình. "Đại Hòa" (大 和) từng là tên của nước Oa sau thế kỷ thứ 8. Ngày nay người Oa dùng một tên khác mà người Việt thường ưu ái gọi họ là "con cháu Thái Dương Thần Nữ". Đó là đất nước và dân tộc Nhật Bản (日本). Trong phần chính chữ "Việt" được phân tích theo phương pháp khoa học và căn cứ trên những chứng cớ cụ thể đã được công nhận. Trong phần này ý nghĩa của chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn được suy diễn đơn thuần dựa theo phong tục tập quán của người Việt và vì vậy cách dịch chữ "Việt" ở đây sẽ không hoàn toàn khách quan. 1. Chính sử: Thanh gươm của vua Câu Tiễn Câu Tiễn là một người Việt cổ, làm vua nước Việt từ năm 496 đến 465 TCN. Vương quốc của ông lúc bấy giờ bao gồm Thượng Hải, Chiết Giang và Giang Tô ngày nay và kinh đô đặt tại Hội Kế (Cối Kê) trong tỉnh Chiết Giang. Tỉnh Chiết Giang là nơi có con sông Tiền Đường, giòng sông nơi Thúy Kiều gieo mình tự vẫn nhưng được sư Giác Duyên cứu sống trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn Du. Khoảng năm 333 TCN, dưới thời của vua Vô Cương là cháu đời thứ 6 của vua Câu Tiễn, nước Việt bị nước Sở thôn tính và thị tộc U Việt mất nước từ đây. Tuy vậy, câu chuyện của vị vua người Việt cổ chưa chấm dứt ở đó. Vào năm 1965 người ta khai quật được thanh gươm của ông ở tỉnh Hồ Bắc, Trung quốc và hiện được trưng bày tại viện bảo tàng của tỉnh này (hình 16). Hình 16: Thanh gươm của vua Câu Tiễn được khai quật năm 1965 hiện được trưng bày tại viện bảo tàng Hồ Bắc, Trung quốc. Nguồn: uncleicko. 2. Chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn: một cái nhìn khác Cảm nhận đầu tiên là sự khác thường của chữ "nước" ( 邑) trong chữ Việt trên thanh gươm so với chữ "nước" ( 邑) của các chữ "Việt" khác trong thời đại đồ đồng. Chính sự khác thường đó là nguồn cảm hứng cho phần này, ngoài "Người Chim", trong chữ "Việt" còn có thêm 2 yếu tố khác. Hình 17: Tám chữ cổ khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Tám chữ này được viết theo lối điểu ngữ (còn gọi là trùng ngữ). Theo thứ tự chúng được dịch là "Việt Vương Câu Tiễn Tự Tác Dụng Gươm" có nghĩa là "Thanh gươm của Vua Câu Tiễn nước Việt tự làm để dùng". Hán tự không có chữ "Gươm". Nhà nghiên cứu Đỗ Thành có phân tích về chữ "Gươm" và "Kiếm" trong bài "Chữ Kiếm trong thanh Gươm của Việt Vương Câu Tiễn". Nguồn: Wikipedia. Trong hình 18, theo nhận xét thiên về mặt phong tục tập quán và huyền sử hơn là phương diện khoa học và ngữ văn thì chữ "Việt" trên thanh gươm gồm 3 thành phần thay vì 2 như đã trình bày. Ba thành phần đó là các chữ "Mặt Trời", "Rồng", và "Người Chim". Hình 18: Chữ "Việt" (bên trái) trên thanh gươm của vua Câu Tiễn và 3 thành phần cấu tạo của nó. Trong các phần kế tiếp, các chữ "Mặt Trời" và "Rồng" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn sẽ được so sánh với cách viết các chữ "Mặt Trời" và "Rồng" trong thời kỳ Giáp Cốt Văn và thời đại đồ đồng. Kế tiếp, hoa văn khắc trên trống đồng sẽ được dùng để thiết lập mối tương quan với các chữ "Mặt Trời", "Rồng", và "Nguời Chim" trong chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Cuối cùng, huyền sử "Rồng Tiên" phát xuất từ đời sống thực tế hằng ngày của người Việt cổ được dùng để góp phần nêu lên sắc thái chung mà người Việt cổ dùng để tự nhận diện và phân biệt họ với các chủng tộc khác. 3. Chữ "Mặt Trời" trong Giáp Cốt Văn và trong chừ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn Theo Giáp Cốt Văn (hình 19) và cổ ngữ trong thời đại đồ đồng (hình 20), chữ "Mặt Trời" được viết như là một hình tròn hoặc là một hình có 4 cạnh với một cái chấm hay một gạch ngang nằm bên trong. Hình thức hay cách viết của chữ "Mặt Trời" trong các thời kỳ đó thì duy nhất, nghĩa là: a. Không có bất kỳ chữ nào mang ý nghĩa khác được viết với hình thức đó. b. Bất kỳ chữ nào được viết với hình thức như vậy đều có nghĩa là "Mặt Trời". Vì vậy, một thành phần của chữ "Việt", chữ thứ hai tính từ trái sang phải trong hình 18, được xem là chữ "Mặt Trời". Hình 19: Chữ "Mặt Trời" trong thời đại Giáp Cốt Văn. Hình 20: Chữ "Mặt Trời" trong thời đại đồ đồng. 4. Chữ "Rồng" trong Giáp Cốt Văn và trong chừ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn Trong Giáp Cốt Văn (hình 21), chữ "Rồng" là một hình thù cong như thân rắn với một cái đầu to có 2 sừng và đôi khi trên đầu đội vương miện. Hình 21: Bên phải là một số cách viết chữ "Rồng" trong thời kỳ Giáp Cốt văn. Bên trái là một thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, nó giống chữ "Rồng" của Giáp Cốt văn, có thân uốn lượn như mình rắn với một cái đầu to có mắt và 2 sừng. 5. Chữ "Rồng" trong thời đại đồ đồng và trong chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn Hình 22 trình bày là các chữ "Rồng" trong thời kỳ đồ đồng. Trong giai đoạn này chữ "rồng" được viết sắc sảo hơn với đầu to, miệng và răng, có hai sừng và đội vương miện. Hình 22: Bên phải là các cách viết chữ "Rồng" trong thời đại đồ đồng. Bên trái là một thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, nó giống chữ "Rồng" của thời đại đồ đồng, có thân uốn lượn như mình rắn với một cái đầu to có mắt và 2 sừng. So với chữ "Rồng" của các thời kỳ Giáp Cốt văn và đồ đồng thì một trong các thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, chữ thứ 3 tính từ trái sang phải trong hình 18 được cho là chữ "Rồng". 6. Trống đồng: Chính sử của Bách Việt Khi toàn bộ Bách Việt ở vùng Hoa Nam bị tiêu diệt và đồng hóa, sử sách của họ cũng cùng chung số phận. Tuy Lạc Việt (Việt Nam) tránh được nạn diệt vong và mất nước nhưng sử sách cũng bị Hán tộc thiêu hủy. Quyển quốc sử cổ xưa nhất của Lạc Việt còn lưu lại là quyển Đại Việt Sử Ký (大越史記) của sử gia Lê Văn Hưu thời nhà Trần, quyển này cũng chỉ mới được biên soạn vào năm1272. May thay, để bổ sung phần nào vào thiếu sót đó là hàng trăm trống đồng cùng những di tích và cổ vật của người Việt cổ được khai quật ở Việt Nam và vùng Hoa Nam trong các thế kỷ qua. Sau đây là sự thật đã được xác lập: - Hán tộc không có trống đồng. - Trống đồng do chính người Việt cổ thiết kế và chế tạo. - Minh văn trên trống đồng phản ảnh sắc thái chủ đạo trong đời sống thực tế của người Việt cổ. Vì vậy trống đồng là một quyển chính sử của chủng tộc Bách Việt. 7. "Mặt Trời" trong chính sử trống đồng Về yếu tố "Mặt Trời" thì hiển nhiên không cần lời giải thích dài dòng vì tất cả những trống đồng khai quật được đều có chạm trổ mặt trời ở chính giữa tang trống. Do đó "Mặt Trời" đương nhiên là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của người Việt cổ. Hình 23: Một ví dụ của chữ "Việt" nguyên thủy được dịch ra Hán ngữ hiện đại. Nó gồm chữ "Nhật" (Hán ngữ: 日 nghĩa là mặt trời - phần bên trái và nằm ở trên), chữ "Long" (Hán ngữ: 龍 nghĩa là "rồng" - phần bên trái, ở dưới), và bên phải là chữ "người đeo lông chim trên đầu và thắt lưng, tay cầm cái qua" , lưu ý là Hán ngữ không có chữ này. 8. "Rồng" từ đời sống thực tế đến huyền sử Huyền sử “Con rồng cháu tiên” là câu chuyện thần thoại không có thật nhưng nó phát xuất từ sự việc có thật trong đời sống hằng ngày của người Việt cổ. Chính sử Việt và Trung Hoa ghi nhận rằng dân Bách Việt có tục xâm mình, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép như sau: Vua nói: "Người man ở núi khác với các loài thủy tộc; các thủy tộc ấy ưa cùng loài mà ghét khác loài, cho nên mới bị chúng làm hại. Rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái ở mình. Từ đấy thuồng luồng trông thấy không cắn hại nữa. Từ nhận định trên người Việt cổ đã nghĩ ra phương pháp xâm mình để tự bảo vệ khi di chuyển và mưu sinh trên sông hồ. Xâm mình là để thuồng luồng hay giao long "tưởng" họ cùng đồng loại nên sẽ không bị chúng gia hại. Thoạt tiên mục đích xâm mình đơn thuần chỉ là một biện pháp tự vệ đơn giản, nhưng dần dà, khái niệm tự nhận mình cùng đồng loại hay cho mình là con cháu của rồng được hình thành một cách tự nhiên trong tâm thức của những thế hệ sau. Đồng loại với rồng không phải là câu chuyện thần thoại dựa trên một việc hoang đường, trái lại nó bắt nguồn từ ngay trong đời sống thực tế hằng ngày của người Việt cổ nên "Rồng" được xem là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của dân Bách Việt. 9. "Người Chim" trong chính sử trống đồng Tùy theo niên đại và thị tộc khác nhau, các trống đồng được khai quật có kích thước, phẩm chất và những minh văn khác nhau, nhưng đặc biệt hầu hết các trống đồng đều có chạm trổ những Người Chim, tay cầm qua hay binh khí và ở trong tư thế nhảy múa. Tương tự như sự hình thành khái niệm “con Rồng”, khái niệm “cháu Tiên” được bắt nguồn từ phong tục hóa trang thành Người Chim, một trong những tập quán nổi bật nhất của của người Việt cổ. oOo Tóm lại nếu có ai hỏi Việt là gì thì câu trả lời nên là: Việt là "Mặt Trời", là "Rồng", là "Người Chim" (Tiên). Đó là 3 yếu tố chủ đạo để nhận diện chủng tộc Bách Việt. Khái niệm Rồng của Bách Việt phát xuất từ đời sống thực tế qua phong tục xâm mình còn khái niệm Rồng của Hán tộc thì bắt nguồn từ đâu? Thắc mắc này được dùng để kết thúc phần phụ lục. KẾT LUẬN Tại sao nhà Tiền Hán không sửa đổi tên các nước Chu, Tề, Hàn, Triệu, v.v... mà họ lại đặc biệt làm điều này đối với Bách Việt? Chắc chắn sẽ có nhiều câu trả lời và chúng có thể không giống nhau. "Việt" là tên gọi chung của các chủ nhân vùng đất phía nam Trường Giang, dùng "Việt" thì có khã năng hiệu triệu và thống nhất toàn thể Việt tộc, tạo nên một sức mạnh có khã năng đối đầu và thách thức quyền lực của Hán triều trên toàn vùng Lĩnh Nam và Giao Chỉ. Chẳng hạn như sự trỗi dậy và hùng cường của các vương quốc Việt tộc như Sở, Ngô, và Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, hoặc chính nhờ sự hậu thuẫn của Bách Việt nên Triệu Đà mới dám xưng Nam Việt Vũ Đế tạo được thanh thế ngang ngửa với nhà Tây Hán, hay sự đồng loạt hưởng ứng của các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đối với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40, v.v... Nói chung nếu không tiêu diệt và đồng hóa được Bách Việt thì Hán tộc sẽ không bao giờ chiếm và bình định được vùng đất phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh. Bắt đầu chính sách ấy với việc cấm dùng chữ "Việt" nguyên thủy và thay bằng một tên khác, chữ "Việt bộ Tẩu", người Hán đã thành công lấy được toàn cõi Hoa Nam; nhưng chưa dừng lại ở đó, họ vẫn đang tiếp tục tràn xuống và mục tiêu lần này là Biển Đông Nam Á và căn cứ cuối cùng của Việt tộc. Lịch sử Bách Việt chứng tỏ không kém phần phong phú khi được hé lộ qua kỹ thuật đúc gươm, trống đồng, cùng những di tích và cổ vật khác được khai quật trong vài thế kỷ qua, đáng tiếc là nền văn minh và văn hóa ấy đã liên tục bị tiêu diệt trong suốt hơn 1000 năm, lãnh thổ thì mất cả chỉ còn lại một dãi nhỏ hẹp. Bị gián đoạn hơn 10 thế kỷ khiến sử Việt thiếu hẳn phần đầu, có chăng thì cũng mù mờ, đầy bí ẩn; phần sau của lịch sử cũng chỉ mới bắt đầu khi người anh hùng xứ Đường Lâm, Tiền Ngô Vương Ngô Quyền, thành công bảo vệ thành trì cuối cùng của Bách Việt bằng một trận đánh đẫm máu trên sông Bạch Đằng năm 938. Từ kỷ nguyên Internet đọc lại chính sử trên văn tự cổ, trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, trên trống đồng, và đời sống thực tế của người Việt cổ, hậu duệ của họ không những có trách nhiệm viết đúng lại tên Bách Việt để phản ảnh sự nhất quán của cổ nhân về tên chủng tộc, mà còn có bổn phận đào xới và minh bạch hóa lịch sử của chủng tộc vốn là chủ nhân của một lãnh thổ rộng lớn và trù phú. Vì vậy, viết lại tên Bách Việt là khởi đầu cho công cuộc làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử bị gián đoạn, đồng thời cũng là lời mở đầu cho một quyển sử mới với hy vọng trong đó có chép cuộc hành trình về lại vùng Lĩnh Nam của hậu duệ người Việt cổ. Thung lũng Hoa vàng Mồng Một Tết Nhâm Thìn tức ngày 23 tháng 1 năm 2012 Tác giả là tiến sĩ trong ngành điện toán, chuyên nghiên cứu và phát triển Integrated Circuits và Microprocessor cho kỹ nghệ Semiconductor. Ông là thành viên trong Ban nghiên cứu Á Châu của Nguyễn Thái Học Foundation.
  23. Tôi nghĩ rằng: Việt sử 5000 năm văn hiến, lập quốc vào năm 2879 BC với quốc hiệu Văn Lang, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử là một chân lý không thể chối cãi. Nền văn hiến Việt là cội nguồn của Lý học Đông phương - mà cốt lõi là thuyết Âm Dương Ngũ hành cũng là một chân lý không thể chối cãi. Đấy là những giá trị căn bản. Còn những diễn biến lịch sử sau đó và những vấn đề chi tiết sau đó như nguồn gốc nhà Tần, nhà Hán...vv...là những vấn đề cần nghiên cứu kỹ. Để xác định tính chất khoa học của một luận điểm, TTNC LHDP luôn tuân thủ những tiêu chí khoa học cho một giả thiết khoa học được cho là đúng và không mơ hồ. Tôi rất quí trọng nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy, nhưng tôi cũng chưa tán thành một số luận cứ của ông. Thí dụ như việc coi nhà Tần Hán liên quan đến gốc Việt: Đây là những luận điểm mà cá nhân tôi chưa tán thành, bởi những sự mâu thuẫn của luận điểm này với các hiện tượng lịch sử văn hóa liên quan. Thì dụ: Nhà Tần đốt sách chôn Nho (Tức hủy diệt văn hóa Việt), Nhà Hán tuy phục hưng Nho giáo nhưng lại mạo danh, thí dụ: Thay đổi tên tác giả của tứ thư Ngũ kinh thành của Khổng tử. Không phục hồi được sự chính thống và nhất quán của thuyết Âm Dương Ngũ hành...vv.... Tuy nhiên tôi xác định luôn ủng hộ tinh thấn làm sáng tỏ Việt sử của nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy. Cuộc minh chứng Việt sử 5000 năm văn hiến rất gian khổ, không chỉ vì sự vùi lấp của Việt Sử trên 2000 năm (Tôi nhắc lại đây không phải con số được đọc trong một giây), cho nên chúng ta cần có một trí tuệ và tư duy thật sự khoa học và sáng suốt; mà còn là sự đối phó với những thế lực hắc ám cản trở công cuộc minh chứng chân lý này, dưới mọi khia cạnh. Theo đường link của nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy, tôi đưa bài viết của ông Nguyễn Đại Việt lên để chúng ta tiện tham khảo.
  24. Kính bác Mây Ngàn. Cảm xúc với những kỷ niệm xưa tàn phai theo thời gian, tôi xin mạo muội cảm tác hai bài thơ của tiền bối Mây Chiều và của bác. TÌNH KHÚC 1 Mây chiều Ngàn thông bát ngát tuyết bay bay Ngả ngả nghiêng nghiêng cánh hạc say Gió núi thổi xanh thề hẹn trước Hoa trời rụng trắng mộng mơ này Trà kia nào đượm hương thanh thoát Rượu đó có nồng vị ngất ngây Châu ngọc buồn rơi ngày tuyết lạnh Mây ngàn bay mãi tận ngàn mây TÌNH KHÚC 1 Cảm tác Vạt nắng nghiêng chiều cánh hạc bay. Nước trời thu cũ một màu say Ngàn mây thổn thức lời thề hẹn Gió núi ru buồn khúc đắng cay. Gót ngọc phiêu du mùa lá rụng. Lệ ngà buông nhớ chợt dâng đầy. Người đi gửi lại màu thu chết. Để lạnh trong ai giữa chốn này. TÌNH KHÚC 2 mayngan Ngàn thông thấp thoáng ánh trăng lan Tịch mịch cô liêu tiếng vạc tàn Đêm trắng thề nguyền trôi biển Bắc Ngày hoang ước nguyện trải sông Ngân Hồn cầm réo rắt buồn hoang mạc Tình khúc thiết tha buốt đại ngàn Thả cánh thơ say lay bóng nguyệt Trăng xưa trầm tưởng áng mây tan TÌNH KHÚC 2 Cảm tác Ngậm ngùi sóng nước ánh trăng tan. Tiếng quạ kêu sương bóng nguyệt tàn. Bến cũ, đò xưa tình khắc khoải. Cây đa, giếng ấy dạ miên man. Về đâu sương khói muôn thu trước. Còn đấy rêu phong ngập tiếng đàn. Cõi thế bao lần ru tiễn biệt Một trời buông lạnh gót quan san.
  25. Cảm ơn bác Mây Ngàn đã tìm lại được bài thơ của mẹ tôi. Cũng vào khoảng thời gian ấy, tôi có về thăm bà. Bà sống bằng nghề bán trà 5 xu. Nhưng suốt ngày chỉ văn chương - như chính bài thơ trên đã nói tới. Tiền bán trà còn hay mất, ít hay nhiều bà không quan tâm. Tôi thấy bà rất nghèo. Bởi vậy tôi xót ruột và nói với mẹ tôi: "Sao mẹ nghèo mãi thế?". Mẹ tôi cười trả lời tôi: "Nếu mẹ muốn giàu thì giàu lâu rồi. Để làm giàu mẹ không cần phải có chí thông minh". Nhờ câu nói của mẹ tôi mà tôi chợt ngộ ra chân lý đích thực của cuộc đời. Tiền không phải mục đích cuối cùng của con người. Ngày ấy tôi chỉ là gã thanh niên mới lớn. Thấy người ta làm gì cũng bắt chước mà thôi. Cũng có lần những va chạm cuộc đời làm tôi chán nản. Tôi than với mẹ tôi: "Con chán đời qua mẹ ạ!" Lúc ấy tôi còn nhớ, bà đang đọc cuốn thơ của ai đó. Nghe tôi nói bà ngước mắt nhìn tôi qua cái gọng kính, tỏ vẻ ngạc nhiên:" Ơ! Cái thằng này nói gì lạ vậy? Tao lại cứ tưởng đời nó chán mày lâu rồi chứ!".Tôi có nhiều kỷ niệm với mẹ tôi, mặc dù lâu mới gặp lại bà. Bởi vậy, được bác cho biết bài thơ một thời kỷ niệm này , tôi rất cảm ơn bác. Nhớ độ hoa còn ấp ủ hương. Sắc tài hồ dễ mấy ai đương. Một cười trăng nước như nghiêng ngả. Ngày bước chân đi...ấy đoạn trường. Ngân Giang Đấy là tâm sự của mẹ tôi. Qua cuộc đời của bà và của chính bản thân, tôi mới nhận thấy được định mệnh - được hiểu là những quy luật chi phối con người và vũ trụ - mới khắc nghiệt làm sao. Bởi vậy, sự phiêu du của một kiếp người, bất lực trước tự nhiên thì đành phải tìm vào những giá trị nội tâm mà thôi.