Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Khi học sinh không chọn môn Sử thi tốt nghiệp PTTH! Nguyễn Quốc Vương (giảng viên khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội) 02/03/14 09:21 (GDVN) - Ở Việt Nam khi đặt ra câu hỏi người ta dễ dàng đáp một cách thuộc làu: học lịch sử để nuôi dưỡng lòng yêu nước; học lịch sử để biết truyền thống dân tộc... Đề xuất mô hình hoàn thiện hơn kì thi tốt nghiệp THPT PGS. Văn Như Cương lại tuyên bố gây sốc về kỳ thi tốt nghiệp năm nay Hoa hậu chui, tiến sĩ chui, pháp luật và nghệ thuật “Tò he” Lo ngại xuất hiện tiêu cực trong xét kết quả học tập, rèn luyện lớp 12 PGS. Văn Như Cương lập luận về tỉ lệ đỗ tốt nghiệp “trên trời” Những điểm mới đáng lưu ý nhất trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2014 Sau khi tuyên bố của PGS. Văn Như Cương, Hiệu trưởng Trường THPT DL Lương Thế Vinh về tỉ lệ học sinh đăng kí chọn môn thi tự chọn trong kì thi tốt nghiệp với 0% ở môn Sử. Báo điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được nhiều ý kiến của các học giả, các nhà chuyên môn, nhà sư phạm xung quanh câu chuyện này. Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của ThS Nguyễn Quốc Vương (giảng viên khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội) về vấn đề trên. Học Sử có phải là “trò chơi trí nhớ”? Sự kiện trường THPT dân lập Lương Thế Vinh công bố không có học sinh nào lựa chọn môn Sử làm môn thi tốt nghiệp đang thu hút sự tham gia chú ý và bàn luận sôi nổi của những người dùng mạng Internet. Sự kiện dễ làm liên tưởng tới sự việc trước đó khi học sinh một trường ở phía nam hò reo xé đề cương môn Sử khi nó không được chọn làm môn thi tốt nghiệp. Nên nhìn nhận kết quả và thái độ này của học sinh như thế nào? Cảnh tượng học sinh xé Đề cương môn Sử khi nghe tin Sử không phải là môn thi tốt nghiệp. Sự việc xảy ra vào năm trước. Ảnh cắt từ clip. Đứng ở lập trường học sinh mà xét thì lựa chọn môn nào để thi là quyền lợi chính đáng theo đúng quy định của Bộ giáo dục. Tốt nghiệp là kì thi quan trọng. Hãy tưởng tượng một học sinh đèn sách 12 năm trời mà lại không may thi trượt trong kì thi tốt nghiệp thì điều gì sẽ xảy ra? Môn Sử với tư duy dạy, học và ra đề thi như hiện tại sẽ khiến cho học sinh cảm thấy lo ngại khi lựa chọn. Lối dạy và học chú trọng ghi nhớ “biên niên sự kiện” và áp đặt sự bình luận, giải thích lịch sử theo quan điểm của sách giáo khoa và người dạy khiến học sinh chán nản. Một khi môn học bị biến thành trò chơi của trí nhớ với những con số và sự kiện thì đương nhiên học sinh sẽ lo sợ khi đó là “kì thi nghiêm túc”. Trừ những học sinh nào thi khối C (Văn, Sử, Địa) lựa chọn môn Sử vì “nhất cử lưỡng tiện” số còn lại chắc không ngần ngại “nói không với môn Sử”. Nhưng sự tính toán trong thi cử nói trên chỉ là một trong nhiều lí do học sinh tránh xa môn Sử. Nó chỉ là lí do biểu hiện bên ngoài. Sâu xa hơn là sự quay lưng của học sinh với môn Sử. Xin nhấn mạnh ở đây là môn Sử chứ không phải là lịch sử. Rất có thể những học sinh không thích học sử lại là những người quan tâm tới những vấn đề lịch sử và có tư duy lịch sử tốt. Những gì trường học không dạy sẽ được các em tìm kiếm trong đời sống thực tiễn hàng ngày. Nghĩ sâu một chút, sự khủng hoảng của giáo dục lịch sử trong trường học hiện nay cũng chỉ là một biểu hiện của cơn đại khủng hoảng của nền giáo dục đã quá lạc hậu và đứng bên lề của dòng chảy thời đại. Và nữa, giáo dục lại nằm trong tổng thể những vấn đề trầm trọng và toàn diện của đất nước. Xét trong suốt chiều dài lịch sử thì thấy không có một cuộc cải cách giáo dục toàn diện nào lại tách rời một cuộc cách mạng xã hội. Nói một cách khác dễ hiểu hơn: cải cách giáo dục nảy sinh từ nhu cầu thay đổi xã hội và nhằm đáp ứng nhu cầu thay đổi ấy. Nếu một cuộc cải cách giáo dục nào đó cho dù quy mô đến đâu, trống dong cờ mở đến cỡ nào nhưng nếu xa rời nguyên lí trên rốt cục cũng thất bại. Cải cách giáo dục kiểu đó chỉ giống như viên thuốc an thần, giảm đau trong chốc lát cho người đang chịu đựng căn bệnh nan y. Vì vậy, có thể thấy lô-gic của một cuộc cải cách giáo dục đúng nghĩa phải bắt đầu từ hình ảnh xã hội mơ ước và hình ảnh con người mơ ước có khả năng tạo ra và bảo vệ xã hội ấy với những phẩm chất và năng lực cần hình thành từ đó tính toán đến việc xây dựng triết lí giáo dục, nội dung, phương pháp, hành chính giáo dục… cho phù hợp. Một cuộc cải cách giáo dục lấy việc thay đổi sách giáo khoa hay đổi mới phương pháp dạy học làm điểm khởi đầu hay trọng tâm cũng giống như xây một căn nhà bắt đầu từ cửa sổ. Vì đâu có sự bế tắc này? Trở lại với giáo dục lịch sử, ở đây, tôi sẽ phân tích tỉ mỉ hơn một chút để giải đáp câu hỏi: “Tại sao học sinh chán học lịch sử?”. Lí do sâu xa của sự bế tắc này nằm trong sự bế tắc tổng thể ở trên. Xét ở góc độ hẹp “giáo dục lịch sử thuần túy” có thể liệt kê ra vài lí do khiến học sinh chán môn lịch sử như sau: Thứ nhất, là sự thiếu vắng hay nói cách khác là lệch lạc của “triết lí giáo dục lịch sử”. Nói ngắn gọn đó là tư duy trả lời cho câu hỏi “học lịch sử để làm gì?”. Một câu hỏi vô cùng quan trọng nhưng nó cũng là câu hỏi mà ít có giáo viên và cuốn sách giáo khoa nào làm hài lòng học sinh. Ở Việt Nam khi đặt ra câu hỏi này người ta dễ dàng đáp một cách thuộc làu: “học lịch sử để nuôi dưỡng lòng yêu nước”, “học lịch sử để biết truyền thống dân tộc, nguồn gốc tổ tiên”, …. Nghe có vẻ có lí. Nhưng nếu ai đó vặn lại là “thế những ai không được học lịch sử là thiếu đi lòng yêu nước?”, “tôi không yêu nước tôi vẫn sống bình thường, giàu có, tại sao tôi lại phải học lịch sử để yêu nước?’… thì người bị hỏi sẽ lúng túng. Những cuốn giáo trình dành cho sinh viên sư phạm lịch sử cũng không giải đáp thấu đáo được câu hỏi này. Thực ra “giáo dục lịch sử để bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống dân tộc, nguồn gốc tổ tiên” là một quan niệm-một lối tư duy đứng trên lập trường “chủ nghĩa dân tộc”. Nghĩa là đứng từ phía “quốc gia”, lợi ích “quốc gia” (nhà nước) mà lí giải. Tư duy này nghe có lí nhưng trong thực tế thiếu đi tính thuyết phục bên trong đối với từng cá nhân học sinh bởi cơ cấu “dân tộc chủ nghĩa” từ thập kỉ 70 của thế kỉ XX đã không còn là cơ cấu chủ đạo để giải thích và tiếp cận lịch sử. Thứ nữa, “con người là động vật hoạt động vì lợi ích” vì vậy, học sinh sẽ không học lịch sử một khi nó không đem lại lợi ích thiết thực cho cuộc sống hàng ngày. Vậy thì, giải đáp câu hỏi này thế nào? Có nhiều cách luận giải khác nhau nhưng xu hướng coi giáo dục lịch sử có vai trò quan trọng trong việc giúp người học “tái xác định Identity của bản thân” (mình là ai, mình từ đâu tới, mình ở đây để làm gì), “cải thiện mối quan hệ giao tiếp với môi trường” (hiểu biết về đa giá trị trong môi trường đa văn hóa, toàn cầu hóa) và “hình thành phẩm chất công dân” trong xã hội dân chủ đang là dòng chảy chính trên thế giới. Chừng nào giáo dục lịch sử Việt Nam còn chưa hòa vào dòng chảy này, chừng đó sẽ còn lúng túng. Thứ hai, là sự “độc quyền chân lí” của chương trình và sách giáo khoa. Ở việt Nam hiện tại học sinh ở các trường phổ thông từ tiểu học đến trung học sử dụng duy nhất một bộ sách giáo khoa lịch sử do Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam phát hành. Sách giáo khoa này được biên soạn bởi những tác giả do bộ giáo dục chỉ định. Nội dung sách được xây dựng trên khung chương trình duy nhất của bộ giáo dục. Phương thức này gọi là “chế độ sách giáo khoa quốc định”. Nhìn một cách tổng quát trên thế giới có mấy phương thức, biên soạn sách giáo khoa là quốc định, kiểm định (nhiều nhà xuất bản làm sách, bộ giáo dục thẩm định và cấp phép) và tự do (sách giáo khoa được xuất bản và bán như sách thông thường). Những nước dùng phương thức sách giáo khoa quốc định là Việt Nam, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên… Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, …dùng sách giáo khoa kiểm định. Các nước bắc Âu như Thụy Điển, Thụy Sĩ chấp nhận và bảo đảm tự do biên soạn sách giáo khoa. Nhược điểm lớn nhất của sách giáo khoa quốc định là “độc quyền chân lí” và “chủ nghĩa liệt kê”. Hệ lụy mà nó tạo ra là cả người dạy, người học, người quản lí đều coi sách giao khoa là “thánh thư” là “chân lí bất biến”. Học sinh thậm chí cả giáo viên coi tất cả lịch sử nằm hết trong sách giáo khoa, chỉ cần nhớ những gì sách giáo khoa viết là …ổn. Và vì thế, trên thực tế hầu như tất cả những gì giáo viên “sáng tạo được” chỉ là sự “vẽ rắn thêm chân” khi đưa vào những chi tiết làm sinh động, cụ thể hơn sự kiện, nhân vật trong sách giáo khoa hay sử dụng các kĩ thuật, công cụ hỗ trợ để giúp học sinh dễ hiểu, dễ ghi nhớ nội dung được viết trong sách giáo khoa. Vì vậy, ở Việt Nam cho dù ở Bắc Bộ hay Nam Bộ, Tây Nguyên, 1000 giáo viên nếu cùng dạy một bài thì bài giảng đó giống nhau đến 90%. Những ghi chép của học sinh trong giờ học cũng giống nhau đến ..kinh ngạc. Thứ ba, là sự bế tắc và nhầm lẫn của “đổi mới phương pháp dạy học lịch sử”. Như một phong trào, cứ nhắc đến cải cách giáo dục là người ta hô hào “đổi mới phương pháp”. Trên thực tế, đó là cái bẫy chết người. Với lối tư duy người thầy là người truyền đạt tri thức cho học sinh thì càng đổi mới phương pháp (dùng tranh ảnh, ứng dụng công nghệ thông tin, đưa học sinh tới bảo tàng…) để tăng hiệu ứng “truyền đạt” càng làm….học sinh chán học lịch sử và càng giết môn Sử nhanh hơn. Trong những giờ học lịch sử như vậy, học sinh đơn thuần là đối tượng tiếp nhận tri thức và quan điểm lịch sử của ông thầy hay sách giáo khoa tức là những chân lí bất biến và đã được quyết định. Cảm xúc và lí trí của học sinh không được đánh thức và dẫn dắt để sáng tạo. Lẽ ra trong giờ học lịch sử học sinh phải được đóng vai trò là nhà lịch sử tí hon để tìm kiếm tư liệu, phê phán xử lí tư liệu, thiết lập giả thuyết để rồi tiến tới thảo luận bác bỏ hay khẳng định giả thuyết. Tức là học sinh có cơ hội được tái khám phá chân lí dưới sự hướng dẫn của thầy. Bởi thế giờ học lịch sử hiện nay ở các trường phổ thông đơn thuần chỉ là trò chơi của trí nhớ, của diễn giải và hỏi đáp đúng-sai. Sự đa dạng của nhận thức lịch sử không được thừa nhận. Lí do cuối cùng nằm ở sự sai lầm trong “kiểm tra đánh giá”. Với tư duy dạy và học sử như trên, kết quả tất yếu là các đề kiểm tra, đề thi đều rơi vào dạng thử thách khả năng ghi nhớ của học sinh. Theo lối tư duy này, những học sinh nào thuộc bài, nhớ nhiều, nhớ chính xác là học tốt. Đôi khi cũng có một vài câu hỏi ra theo kiểu so sánh giữa hai sự kiện hoặc là khái quát một giai đoạn lịch sử nào đó nhưng về bản chất đó cũng chỉ là sự kiểm tra trí nhớ. Hậu quả là lãng phí tài năng của người học và không chọn được nhân tài thực sự. Có người hỏi chúng tôi: “Học sinh không chọn môn Sử, Thầy/Cô có buồn không?”. Chúng tôi đáp: “Không!” Thậm chí là ngược lại. Tuổi trẻ thông minh và nhạy cảm hơn người lớn tưởng. Giữa chán học môn sử trong trường và quan tâm tới lịch sử, có ý thức lịch sử mạnh mẽ hay không lại là chuyện khác. Những gì tôi thu nhận được từ phản hồi của học sinh khi tôi thử nghiệm một vài ý tưởng tại trường học càng giúp tôi củng cố niềm tin ấy. Trong công cuộc tái khai sáng quốc dân mà các trí thức đầu thế kỉ XX đang tiến hành dang dở thì những thanh niên thuộc làu lịch học trong nhà trường và tin rằng đó là chân lí bất biến lại có nguy cơ trở thành những hòn đá cản đường. Cái bi hài của dân tộc Việt nó nằm ở chỗ ấy. Và nữa, biết đâu nếu như 100% học sinh cả nước không chọn môn Sử làm môn thi tốt nghiệp, môn Sử sẽ lại hồi sinh. ======================== Cứ thấy giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ...vv....phát biểu hẳn trên báo thì Lão Gàn vỗ tay. Điều này chứng tỏ Lão Gàn tuy dốt, nhưng rất hiểu những ý tưởng cao siêu của các chức danh khoa học thể hiện trong những phát biểu ý kiến. Chứ đứng đực ra nghe thì người ta lại bảo mình ngu. Cứ phải vỗ tay. Ối giời ơi! Kể từ ngày Lão Gàn liên hệ Việt sử 5000 năm văn hiến với "cải cách giáo dục" đến nay lâu lém - cả tám, chín năm rùi, vưỡn chưa thấy gì nhể?!
  2. TƯ LIỆU THAM KHẢO Lịch sử Thái Bình Thiên Quốc Hồ Bạch Thảo vanhoanghean.com.vn Thứ ba, 25 Tháng 2 2014 16:38 Quân Cờ vàng trong quân đội Thái Bình Thiên Quốc (Thiên Sứ sưu tầm và chú thích. Thay hình trong bài viết vì quá nhỏ) Chương một Quân Thái Bình Thiên Quốc nỗi dậy [1850-1854] 1. Bối cảnh lịch sử sau chiến tranh nha phiến: Dân cùng, tài lực tận, nguyên nhân không xẩy ra trong sớm tối; nhưng chiến tranh nha phiến là giai đoạn tột cùng sức chịu đựng. Quảng Ðông, Chiết Giang, Giang Tô là những chiến trường chủ yếu. Tại Quảng Ðông, quyên lương hướng từ thương nhân, quan lại bắt lính, đòi lương, ngày ngày cấp bách; dân chúng Chiết Giang nửa số lưu ly, không cung cấp nỗi lương và nhân lực; tỉnh Giang Tô phải gánh vác nặng nề. Sau chiến tranh cứ nạp 1 thạch lương, phụ thu thêm 3 thạch; thuế đinh, thuế điền, 1 lạng bạc thu thêm 4,5 ngàn đồng tiền. Sự đóng góp nặng nề của dân đương nhiên do bởi khoản tiền bồi thường cho người Anh, lần thứ nhất 600 vạn nguyên, lấy từ ngân khố các tỉnh Giang Tô, Chiết Giang; số còn lại 1.500 vạn nguyên, thì 8/10 lấy từ các tỉnh. Về phương diện chính trị, sau chiến tranh nha phiến uy tín chính phủ hoàn toàn táng thất, nhưng dân lại vùng lên. Tổng đốc Lưỡng Quảng Kỳ Anh nhận định rằng “ Quan sợ ngoại Di, ngoại Di sợ trăm họ” “ Dân có thể làm sợ cái người mà quan sợ, thì dần dần dân sẽ coi thường nắm quan trong tay; ngoại hoạn tuy bớt nhưng nội hoạn sẽ dấy lên.” Rõ ràng sau chiến tranh nha phiến nội loạn đã xẩy ra không ngớt. Năm 1843 đặc biệt xẩy ra tại các tỉnh Quảng Ðông [Guangdong], Quảng Tây [Guangxi], Hồ Nam [Hunan]; như Thiên Ðịa hội tại huyện Hương Sơn, Quảng Ðông; dân đói nỗi dậy tại Vũ Xương [Wugang], Hồ Nam. Kế đó các mối loạn khác xẩy ra liên tục hàng năm, như vụ dân bị mất mùa đói khát nỗi loạn tại Quảng Tây; Lý Nguyên Phát, Lôi Tái Hạo nỗi dậy tại Tân Ninh [Xinning, Hồ Nam]; tại Quảng Đông, bọn Trương Gia Phúc mang đồ đảng mấy ngàn cướp phá bốn phương. Đến năm 1850 Thiên Ðịa hội hoạt động mạnh tại tỉnh Quảng Ðông, vây thành Triệu Khánh, đánh bại quan quân tại lộ phía bắc, xâm nhập tỉnh Quảng Tây; trong 11 phủ của tỉnh này có 8 phủ bị Thiên Ðịa hội chiếm cứ, đó cũng là lúc Thái Bình Thiên Quốc của Hồng Tú Toàn chính thức cử sự. 2.Cuộc vận động phản Thanh của Hồng Tú Toàn và đồ đảng: Hồng Tú Toàn [1814-1864] là dân ngụ cư tại huyện Hoa [huado], tỉnh Quảng Ðông, lúc nhỏ học 9 năm trường tư, tương đối có tài; năm 18 tuổi mở lớp dạy học. Là một phần tử trí thức lúc bấy giờ, chỉ muốn thi đậu để được công danh phú quí; Hồng 2 lần đến Quảng Châu ứng thí, nhưng không đậu; năm 1843 lại thi rớt thêm một lần nữa. Lúc bấy giờ có Chu Cửu Trù đề xướng Thượng Đế hội, còn gọi là Tam điểm hội, Tú Toàn và người cùng làng theo; Cửu Trù mất, Hồng Tú Toàn được tôn lên làm Giáo chủ. Nhân bị bệnh nặng hơn 30 ngày; sau cơn bệnh kể rằng Thiên sứ đưa lên trời, Thiên phụ Thượng đế sai chém trừ yêu ma, cứu vớt người đời; có Thiên huynh Cơ Ðốc ra sức phù trợ. Trước thời gian đó, Hồng tại Quảng Châu tìm đọc một quyển sách nhan đề ‘Khuyến thế lương ngôn” do Giáo đồ Cơ Ðốc Lương Phát Tiết soạn, nội dung dẫn dụng thánh kinh Cơ Ðốc, cùng ý nghĩa của đạo. Luôn 3 lần thi rớt, đầy phẫn khích, trong lòng ôm chí hướng khác; lại đọc qua quan niệm mới của tôn giáo, thấy có thể lợi dụng được, bèn tạo ra việc lên trời vv… Tuy nhiên trong vòng 7 năm sau, chưa thấy Hồng có hành động thực tế nào, lại còn đi thi thêm 2 lần nữa. Huyện Hoa vốn gần Quảng Châu, trong thời kỳ chiến tranh nha phiến các quan văn võ tại Quảng Châu sợ hãi thất thố, quân binh khiếp nhược không dám đánh; chỉ một vài ngàn quân Anh phụng thờ Thượng đế, ra uy như chỗ không người, dày xéo duyên hải, sông Trường Giang; triều đình nhà Thanh phải cúi đầu khuất phục. Những sự kiện nêu trên, nếu Hồng Tú Toàn không thấy, thì cũng đã từng nghe, nhận ra thời cơ tốt đã tới. Năm 1943, tức sau chiến tranh 2 năm, đọc kỹ lại Khuyến thế lương ngôn, cảm thấy những điều trong sách và cái mà Hồng hư cấu về thần thoại lên trời phù hợp; Hồng xác nhận rằng đã nhận mệnh Thượng đế làm Thiên tử, Khuyến thế Lương ngôn làThiên thư được Thượng đế ban cho, bèn tôn phù Bái Thượng đế hội. Ðồng chí đầu tiên của Hồng là Phùng Vân Sơn, cũng dân ngụ cư cùng làng và bạn học chung trường. Vì hủy hoại bài vị Khổng Tử, khiến hương lý không dung, họ phải rời huyện Hoa. Năm 1844 Hồng và Phùng chu du các huyện chung quanh Quảng Châu, rồi đến huyện Quí [Quigang] tỉnh Quảng Tây để tuyên truyền. Nhưng số tín đồ không đông, Hồng lại trở về huyện Hoa, riêng Phùng đến Quế Bình [Guiping, Quảng Tây] thuộc phía đông bắc huyện Quí. Hồng sống tại nhà trong 2 năm, lo việc trước thuật tôn giáo và chính trị; thuyết rằng người trong cõi phàm là một nhà, tất cả đàn ông là anh em, đàn bà là chị em; Thượng đế sinh dưỡng bao bọc, ơn tự đó ra, ai trái với trời chịu tội lớn. Ngày nay “ loạn cực sẽ trị, tối cực sẽ sáng, đó là đạo trời, đêm tan dần, mặt trời sẽ mọc.” Theo đạo của Thượng đế khiến loạn thế biến thành công bình chính trực, cộng hưởng thái bình “Trước lúc sinh Thượng đế chăm lo, lúc chết lên thiên đường, vĩnh viễn tại trời hưởng phúc.” nếu không sẽ biến thành yêu ma “ lúc sống bị quỉ trói, lúc chết bị quỉ đánh, vĩnh viễn tại ngục chịu khổ.” Lại chế ra Thập thiên điều, khuyên: kính bái Thượng đế, không kính bái tà thần, không kêu tên Thượng đế vô cớ, lễ bái trong 7 ngày, hiếu thuận cha mẹ, không giết người hại người, không gian tà dâm loạn, không trộm cướp, không nói hoang ngôn, không động lòng tham. Luận về thời sự, thì khẳng khái ngang tàng “Với 18 tỉnh lớn bị chế ngự bởi 3 tỉnh Mãn Châu, với 5 vạn vạn người Hoa bị chế ngự bởi vài trăm vạn giặc Thát, thực đáng xỉ, đáng nhục. Lại mỗi năm tiền bạc hàng hóa Trung Quốc biến thành khói thuốc, hút máu mở của dân; một năm nặng nề như vậy, thì 200 năm triền miên, dân Trung quốc kẻ giàu biến thành nghèo, kẻ nghèo không khỏi phạm pháp ” Năm 1847, Hồng đến Quảng Châu sống khắc khổ với Giáo sĩ Mỹ I. J. Robert [La Hiếu Toàn] để đọc Cựu Ước, rồi quay lại Quảng Tây. Lúc này Phùng Vân Sơn tại núi Tử Kinh, huyện Quế Bình, tỉnh Quảng Tây đạt thành tựu lớn. Tử Kinh là chốn núi rừng rậm rạp, nằm giữa giao lộ các huyện Quế Bình, Bình Nam [Pingnan], Vũ Tuyên [Wuxuan], Tượng Châu [Xiangzhou]; nơi này tụ tập nhiều dân khai khẩn. Tại vùng đất thuận lợi này, trong 3 năm Phùng Vân Sơn tổ chức được lực lượng cơ bản Bái thượng đế hội. Tín đồ tại Quế Bình khoảng 2.000, các huyện phụ cận đều có đông đồ đảng. Bọn cốt cán như Dương Tú Thanh, Vi Chính, Tiêu Triều Quí, Thạch Ðạt Khai, Tần Nhật Cương, Hồ Dĩ Quang đều nằm trong đó. Lúc Hồng Tú Toàn đến, các nơi tại Quảng Tây bừng lên, khi tan là dân, khi tụ thành giặc; mỗi nhóm đều có Ðầu mục, hoạt động rất mạnh, truyền ngôn rằng “Kiếp vận sắp dấy lên, Bái thượng đế sẽ được miễn” “Trong 10 nhà có 5,3 hoặc 8 người theo, cũng có những người đọc sách rõ ràng thì không theo; người theo phần nhiều thuộc nhà bần khổ.” Hồng Tú Toàn phá tượng thần, dán thiếp “Thiên điều” người xem đông đúc, châu huyện không dám can thiệp. Rồi “xa gần truyền miệng, tín đồ càng đông” dẫn đến việc sĩ tử thân hào địa phương cùng Bái Thượng đế hội xung đột. Lợi dụng địa phương này lắm loạn lạc, Hồng Tú Toàn và Dương Tú Thanh lập Bảo lương công phỉ hội [hội bảo vệ lương dân đánh thổ phỉ], luyện quân, dự trù lương thực, người theo rất đông. Tri huyện Quế Bình dụ đến và bắt được, cùng tịch thu 17 danh sách người theo, nhưng Tuần phủ Trịnh Tổ Thâm không quyết định tội, rồi tha. Từ năm 1847 đến 1848, Phùng Vân Sơn hai lần bị đoàn luyện bắt, nhưng viên Tri huyện Quế Bình ăn hối lộ, cho trả về nguyên tịch Quảng Ðông, rồi giữa đường tìm cách thoát. Hồng nhân Phùng bị bắt, đích thân về Quảng Ðông tìm cách cứu nhưng không thành, rồi cà hai đều quay trở lại Quảng Tây. Lúc Phùng bị bắt, rồi Phùng và Hồng đi Quảng Ðông, Bái Thượng đế hội trãi qua cơn giao động; Dương Tú Thanh, Tiêu Triều Quí giả danh Thiên phụ, Thiên huynh xuống trần để trấn tĩnh nhân tâm; Dương là kẻ đốt than trong núi, có nhiều trí mưu; Tiêu là nông dân tự canh (1), dõng cảm giỏi đánh nhau. Năm 1849, Hồng Tú Toàn từ Quảng Ðông đến, tự cho rằng biết tiếng nói của trời, gọi trời là Gia Hòa Hoa, Gia Tô là anh cả, Hồng là em thứ hai. Rồi nằm trong nhà riêng, không cho ai dòm ngó, không đưa cơm nước; vài ngày sau ra khỏi nhà, bảo rằng đã bàn luận với Thượng Đế, nên ai cũng sợ. Lại chứng thực việc Dương và Tiêu là Thiên phụ, Thiên huynh hạ phàm , vì khi y lên trời đã từng thấy. Kể từ đó Dương trở thành phát ngôn nhân của Thượng đế, Tiêu thành phát ngôn nhân của Cơ Ðốc. Dương rất gian hùng, thỉnh thoảng mượn danh Thiên phụ hạ phàm để đề cao bản thân, quyền ngang ngữa với Hồng Tú Toàn. 3.Hồng Tú Toàn sáng lập Vương triều mới. Lúc bấy giờ tình hình Quảng Tây sôi sục, quan quân không có tháng nào không tổn quân mất tướng; dân chúng có lời đồn rằng năm Tân Hợi [1852] “Thanh tận, Minh phục”. Vào năm 1852, Ðạo Quang mất, lời đồn lại càng mạnh; Bái Thượng đế hội mê hoặc càng lớn, một người vào hội, cả nhà cùng theo. Người vào hội đưa gia tài điền sản hiến vào của công, không cho giữ riêng; tổ chức theo lối quân sự, 5 người 1 ngũ, 5 ngũ 1 lưỡng, 4 lưỡng 1 tốt, 5 tốt 1 lữ, 5 lữ 1 sư, 5 sư 1 quân; mỗi đơn vị đặt Ngũ trưởng, Lưỡng tư mã, Tốt trưởng, Lữ soái, Sư soái, Quân soái; trên Quân soái có Giám quân, Tổng chế, Tướng quân, Chỉ huy, Kiểm điểm, Thừa tướng, Chủ tướng, Quân sư. Tháng 7/1850 Bái Thượng đế hội hiệu triệu các đồ đảng đến “đoàn doanh” tại Kim Ðiền [Jintianzhen], huyện Quế Bình. Ðể quan quân bớt chú ý, Hồng Tú Toàn, Phùng Vân Sơn trú tại Bình Nam, Dương Tú Thanh giả làm người câm điếc. Tổng bộ của Bái Thiên địa hội đặt tại nhà Vi Chính ở Kim Ðiền, đơn vị đến đầu tiên từ châu Quí, dưới quyền Thạch Ðạt Khai. Tháng 11 các địa phương đến tương đối đông, Dương Tú Thanh đầu tiên mang đồ đảng đánh thắng quan quân tại Bình Nam; rồi phối hợp với Hồng Tú Toàn, Phùng Vân Sơn quay lại đánh Kim Ðiền, lại hoạch thắng lợi. Vào ngày 11/1/1851 [10 tháng 12 năm Ðạo Quang thứ 20] Hồng Tú Toàn đặt niên hiệu Thái bình thiên quốc, tự xưng là Thiên vương, vợ Lại thị làm Hoàng hậu; phong cho Dương Tú Thanh, Tiêu Triều Quí, Phùng Vân Sơn, Vi Chính, Thạch Ðạt Khai, chia giữ Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu, Quân chủ tướng. Quân số ước 1 vạn, đánh giỏi khoảng 2,3 ngàn, có cả nữ doanh. Bái Thượng đế hội và Thiên địa hội có điểm tương thông, đó là phản Thanh; nên Hồng Tú Toàn hy vọng có thể thu hút được thế lực này. Số Thiên địa hội theo Hồng không ít, nhưng số chống lại cũng nhiều. Thứ nhất họ không thích qui luật nghiêm khắc của Bái Thượng đế hội; thứ hai là hai bên chủ trương về tôn giáo, chính trị bất đồng. Thiên địa hội thờ 5 vị tổ (2), Bái Thượng đế hội chỉ thờ Thượng đế, Thiên phụ, Thiên huynh. Thiên địa hội hiệu triệu khôi phục nhà Minh, Hồng Tú Toàn thì muốn tự thiết lập vương triều. Tóm tắt về thành viên Thái bình thiên quốc, gồm kẻ sĩ bất mãn như Hồng Tú Toàn, Phùng Vân Sơn; nông, công gặp nghịch cảnh như Dương Tú Thanh, Tiêu Triều Quí; Thân sĩ địa chủ hiểu chút ít thơ văn như Vi Chính, Thạch Ðạt Khai, Hồ Dĩ Quang; chỉ huy hương dõng như Tần Nhật Cương. Lớp dưới thì ngoài nông dân, công nhân; có kẻ gánh thuê, chèo thuyền thuê, buôn bán, lính đào ngũ, du đãng, cướp bóc. Nói về quê quán thì hầu hết là Lưỡng Quảng, nhưng phần lớn là Quảng Tây; cũng có một vài người tại tỉnh khác giữ chức trọng yếu. Triều đình Bắc Kinh đối với tình hình tỉnh Quảng Tây không hiểu một cách rõ ràng. Khởi đầu qua tấu báo, Tuần phủ Quảng Tây chưa đề cập đến Bái Thượng đế hội. Tháng 9/1850 Thiên Ðịa hội đánh đến gần tỉnh thành Quế Lâm [Guilin], mới sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Từ Quảng Thiệu đến liệu biện, điều Hướng Vinh làm Ðề đốc Quảng Tây. Từ lo dẹp loạn tại Quảng Ðông, không rảnh để ứng phó hai bên, lại đưa Lâm Tắc Từ lên làm Khâm sai đại thần. Lâm mất trên đường đi, bèn cải dùng viên Tổng đốc Lưỡng Giang (3) Lý Tinh Trầm thay thế và cử Tổng đốc Hồ Quảng, Chu Thiên Tước, làm Tuần phủ Quảng Tây. Trong văn thư chỉ đề cập đến Thiên địa hội, mãi đến tháng 11/1850 mới bắt đầu chú ý đến Bái thượng đế hội. Vào tháng 1/1851 Hồng Tú Toàn, Dương Tú Thanh đại phá quân Quí Châu [Guizhou] tại Quế Bình, tiến đánh cửa Hoàng Giang tại Bình Nam; Lý Tinh Trầm biết rằng đây là chốn trọng yếu, bèn tập hợp trọng binh trong vòng hơn một tháng, nhưng chỉ qua một trận, lại bị thua. Thái bình quân có niềm tin tôn giáo, hành quân không xâm phạm vật nhỏ của dân, lâm trận chịu sự ước thúc, trở thành một đạo quân mạnh ý chí kiên cường, lại được nhân dân ủng hộ. Chiến lược “lấy cố thủ làm chính, mài mũi nhọn, dưỡng nhuệ khí, không giao chiến với quan quân ngay; tương trì nhiều ngày, đợi lúc quan binh lơ là, thình lình đột xuất, như dời núi triều dâng, không có gì cự nỗi.” Quân Thanh thì tướng soái bất hòa, suy ủy kèn cựa; quân tiếp viện không được tập luyện, hiệu lệnh bất nhất, sợ co lại không dám tiến. Tuần phủ Chu Thiên Tước từng đem thế lực hai bên ra so sánh “Giặc càng đánh càng thêm nhiều, nhưng ta càng đánh càng khiếp; giặc hung hãn nỗ lực không phải là đám ô hợp, bọn chúng kỹ luật nghiêm minh,nhưng quân ta thì không có chút kỹ luật nào, thoái dễ mà tiến rất khó.” “ Giặc dùng thuốc mê,bị thương cũng không màng, đánh đến chết thôi”. Quan quân cho rằng “giặc có tà thuật” hoặc “Giặc dụng binh toàn theo phép Tây Dương”. Ngoài chỗ quan binh đóng quân, thôn xóm đều theo Bái Thượng đế hội; cái gọi là tà thuật chỉ là niềm tin tôn giáo, còn cái gọi là dụng binh theo phép Tây phương chỉ là nỗi lo sợ của chiến tranh nha phiến còn sót lại. Khâm sai đại thần Lý Tinh Trầm thấy tình thế không kham nỗi, tấu xin chọn thống soái và điều thêm quân, nếu không toàn cuộc không cứu vãn được. Tháng 3/1851 quân Thái bỉnh thiên quốc từ cửa Hoàng Giang quay trở về Vũ Tuyên, Tượng Châu rồi hướng lên Quế Lâm phía bắc, bị đánh thua; lại quay về trấn Kim Ðiền [Jintianzhen], bị quân Thanh bao vây. Tháng 8 phá vòng vây rồi theo đường tắt lên phía bắc; ngày 25/9 chiếm được thành trì đầu tiên là châu lỵ Vĩnh An (4). Tại Vĩnh An dừng chân 6 tháng, củng cố lực lượng; lúc bấy giờ khoảng hơn 3 vạn, 5.000 có khả năng chiến đấu. Phong Dương Tú Thanh làm Ðông vương, Tiêu Triều Quí Tây vương, Phùng Vân Sơn Nam vương, Vi Chính Bắc vương; phân biệt coi đông, tây, nam, bắc các quốc; Thạch Ðạt Khai là Dực vương, làm vây cánh cho triều đình. Thiên vương xưng Vạn tuế; các Vương khác theo thứ tự xưng Cửu thiên tuế, Bát thiên tuế vvv…Thiên vương là vạn quốc chân chúa, các vương khác dưới quyền tiết chế của Ðông vương, quyền lực không kém Thiên vương. Trong quân chia ra các trại nam, nữ; Nữ vương, Nữ binh phần nhiều là dân bộ lạc Giao, đi chân trần, xõa tóc, mang khí giới, khỏe mạnh hơn cả đàn ông; nam, nữ phân biệt nghiêm, không cho sống chung. Ngoài tổ chức quân sự, vấn đề kinh tế cũng được họ chú trọng. Lúc khởi đầu kẻ gia nhập Bái Thượng đế hội, cố nhiên phải đem tài sản sung công; sau khi cử sự, những kẻ bị ép gia nhập, ngoài việc nạp tài vật, phải đem nhà cửa thiêu hủy, để tuyệt đường lưu luyến, một lòng theo hàng quân. Khi mới chiếm Vĩnh An, Thiên vương hiệu triệu các binh tướng “ Phàm giết yêu tặc, chiếm thành, tịch thu được vàng bạc, gấm lụa, bảo vật, phải nạp vào Thiên triều thánh khố, kẻ nào trái lệnh bị xử chém.” Về chế lịch, Thái bình thiên quốc có “Thiên lịch”. Lịch mỗi năm 365 ngày, tháng 31 ngày gọi là đơn nguyệt, tháng 30 ngày gọi là song nguyệt; không có ngày tốt, xấu; lịch này không hẳn Trung hay Tây, đây là sự kết hợp giữa Âm và Dương lịch. Lịch cũng chia 7 ngày 1 tuần, nhưng ngày Chù nhật trước Dương lịch 1 ngày; cũng chấp nhận can chi (5) để ghi ngày, nhưng trước lịch Trung Quốc 1 ngày. Ðại biểu cho tinh thần lý luận của Thái bình thiên quốc là 3 thiên cáo văn của Dương Tú Thanh và Tiêu Triều Quí ban bố vào tháng 6/1852; sở dĩ lấy tên 2 người này, vì bọn họ là đại diện cho Thiên phụ, Thiên huynh. Cáo văn có đoạn “ Thiên hạ của Thượng đế, bọn Mãn Châu là rợ Hồ yêu quái, gây độc hỗn loạn, cải biến trung châu hình tượng, y phục, ngôn ngữ; làm nhục phụ nữ Trung Quốc, ức hiếp nam nhân; thủy tai hạn hán không chu cấp, tham ô tước lột. Với 5 ngàn vạn dân chúng Trung Quốc lại bị chế ngự bởi 10 vạn Mãn Châu, thực đáng nhục. Hiện tại Hoàng thiên giận dữ, mệnh Thiên vương giúp quét sạch yêu nghiệt, khuyếch thanh thiên hạ, hưng phục đất nước bị trầm luân, thiết lập cương thường; hy vọng toàn thể đồng tâm đồng lực quét sạch rợ Hồ.” 4.Quân Thái bình trên đà chiến thắng chiếm Nam Kinh rồi khai triển lên phía bắc và quay ngược về hướng tây. Thái bình thiên quốc chiếm Vĩnh An chưa được bao lâu thì bị vây; lúc bấy giờ quân Thanh vũ khí tương đối tốt, quân Thái bình thiếu tiếp tế nên gặp khó khăn. Vào tháng 3/1852, lực lượng phu mỏ tại huyện Quí đến tiếp viện; Hồng Tú Toàn ra lệnh đột vây, đại phá quân Thanh tại doanh Thọ Xuân, tiến chiếm Cổ Thúc Xung, Tiểu Lộ Quan, tại Quảng Tây. Thừa tướng quân Thái bình Tần Nhật Cương đóng tại Tiên Hồi Lãnh [Xianhuixiang, Quảng Tây] bị quân của Phó đô thống Ô Lan Thái đánh thua, chết hàng ngàn, bắt được Thiên đức vương Hồng Đại Toàn, sau đó quân Lan Thái bị phục kích tại rừng thua to. Lúc bấy giờ Hồng Tú Toàn theo mưu của Dương Tú Thanh dùng đường tắt Mã Lãnh [Malingzhen, Quảng Tây] tập kích tỉnh lỵ Quế Lâm, Ô Lan Thái mang bại quân về cứu, bị tử thương tại cầu Tướng Quân phía nam thành. Tháng 4, Hướng Vinh mang quân đi vòng đến tăng viện, nhờ vậy giữ được thành. Quân Thái bình đánh Quế Lâm không hạ được, bèn tiến quân lên phía bắc. Nam vương Phùng Vân Sơn từ Toàn Châu [Quanzhou, Quảng Tây] mang quân theo hướng Trường Sa [Changsha, Hồ Nam], đến bến Xuy Y [Quảng Tây] bị phục kích tử thương, đó là một tổn thương lớn. Tháng 6 vào tỉnh Hồ Nam, bị binh dõng của Giang Trung Nguyên đánh thua; bèn mang quân xuống phía nam chiếm Ðạo Châu [Daoxian, Hồ Nam], dừng lại trong 2 tháng. Tại đây đồ đảng được 2 vạn người, bèn bổ sung quân ngũ, tu tạo chiến cụ, thế quân tăng nhanh. Tháng 7 chiếm được các huyện Giang Hoa [Jianghua, Hồ Nam], Ninh viễn [Ningyuan, Hồ Nam], Gia Hòa [Jiahe, Hồ Nam]. Tháng 8 chiếm Quế Dương [Guiyang, Hồ Nam] bị quân Giang Trung Nguyên đánh đuổi, bèn xua quân sang hướng đông chiếm Lâm Châu [Chenzhou, Hồ Nam] số người theo lên đến 3 vạn. Tháng 9, Tây vương Tiêu Triều Quí cho rằng Trường Sa đơn độc, có thể hành quân gấp chiếm lấy; bèn đốc suất Lý Khai Phương, Lâm Phượng Tường theo hướng Trà Lăng [Chalinh, Hồ Nam], Lễ Lăng [Liling, Hồ Nam] đánh vào phía nam thành Trường Sa [Changsha, Hồ Nam], bị trúng pháo chết; đây là một tổn thất lớn của quân Thái bình. Tháng 10 Hồng, Dương mang quân chủ lực đến đánh Trường Sa, nhưng chưa hạ được. Cuối tháng 11, quân Thái bình ban đêm vượt sông Tương Giang sang phía tây, lấy được hàng 1.000 chiếc thuyền tại Ích Dương [Yiyang, Hồ Nam], bèn theo hồ Ðộng Ðình [Dongting lake, Hồ Nam] vượt sang phía đông chiếm Nhạc Dương [yueyang, Hồ Nam]. Tại đây, chỉ trong một tuần tịch thu được 5000 chiếc thuyền, chở đầy chiến lợi phẩm; thuyền rồng của Hồng Tú Toàn, hộ vệ bởi đại pháo, ban đêm trương 36 ngọn đèn xung quanh, các thuyền khác đều bắt chước, khiến ánh lửa sáng như ban ngày, suốt hàng chục dặm. Hai đạo quân thủy lục theo hướng xuôi dòng sông Trường Giang [Dương Tử, ChangJiang] nhắm Vũ Xương [Wuchang, Hồ Bắc] tiến phát. Trước đó 5 tháng Thái bình thiên quốc đã sai người ngầm dán bố cáo tại Vũ Xương, chứng tỏ sức thâm nhập nhanh. Ngày 22/12, gặp mùa đông nước cạn, quân Thái bình dùng thuyền xiềng dây sắt, làm thành đường băng qua 2 sông, đến ngay dưới chân thành Vũ Xương, có đến 15 vạn người. Trước tiên chiếm Hán Dương [Hanyang, Hồ Bắc] , sau đến Hán Khẩu [Hankou,Hồ Bắc]; ngày 12/1/1853 hạ thành Vũ Xương, đây là tỉnh thành thứ nhất bị chiếm; quân Thái bình chỉ giết quan binh, không giết dân chúng. Tại Vũ Xương đóng hơn 20 ngày, tuyên truyền dân chúng rằng những người theo Bái Thượng đế hội tài sản sung công, nam vào quân doanh, nữ vào nữ quán, những người không theo, có thể đem vàng, ngọc, tiền, gạo đến “Tiến cống sở”, rồi làm dân như cũ. Sau khi Trường Sa bị vây, Từ Quảng Tấn được giao chức Thống soái; đến lúc tỉnh Hồ Bắc bị hãm, triều đình nhà Thanh sai Tổng đốc Lưỡng Giang Lục Kiến Doanh, và Tuần phủ Hà Nam Kỳ Thiện làm Khâm sai đại thần chia phòng thủ tại các tỉnh Giang [Chiết Giang, Giang Tô], Hoán [An Huy], Dự [Hà Nam]; nhắm ngăn quân Thái bình tiến sang phía đông và bắc. Sau khi Vũ Xương thất thủ, Từ Quảng Tấn bị cách chức điều tra, cử Hướng Vinh thay thế. Ngày 9/2/1853 quân Thái bình từ các trấn Vũ, Hán, dùng trên 1 vạn chiếc thuyền xuôi dòng tiến về phía đông, xưng rằng quân 50 vạn. Quân Thanh “ văn võ bỏ thành chạy trốn, quân lính rã ngũ trước” ; lần lượt phá các thành Cửu Giang [Jiujang, Giang Tây], An Khánh [Anquing, An Huy], Vu Hồ [Wuhu, An Huy] dọc sông Trường Giang; đến ngày 19/3 đánh chiếm Nam Kinh, 2 vạn quân bát kỳ bị tiêu diệt! Kể từ khi quân Thái bình mới ra khỏi tỉnh Quảng Tây cho đến nay, trong vòng 9 tháng, hành quân trên 3.000 dặm, quét qua 5 tỉnh (6) dọc sông Trường Giang, binh lực tăng đến 30 vạn; tuy có kẻ bị ép, nhưng số người tình nguyện cũng không ít. Nguyên nhân chính do niềm tin tôn giáo và tuyên truyền, nhưng yếu tố kinh tế, quân sự cũng đóng vai trò quan trọng. Từ khi vào đến tỉnh Hồ Nam “chuyên cướp phá thành thị, không những không cướp bóc tại nông thôn, lại còn lấy y phục tại thành thị chia cho các dân nghèo” và truyền ngôn rằng sẽ miễn thuế 3 năm, nên dân quê “mong muốn giặc đến” Người nghèo thường ghét hận người giàu, còn quân Thái bình đến không hại đến họ, lại còn có lợi, nên “giặc chưa đến tâm lòng đã xa lìa, giặc đến thì trở nên vui vẻ” tranh nhau nghênh đón. Quân Thái bình hiệu lệnh nghiêm, kỹ luật vững, không tao nhiễu; lúc mới đến ra vẻ lễ phép với người hiền, rồi sau đó uy hiếp, nên dân đều sợ phục. Quân Thanh thì cướp bóc gian dâm, thấy giặc thì tan vỡ, nhìn ngó bồi hồi; bởi vậy quân Thái bình ở thế chẻ tre, hướng về đâu đánh tan nơi đó. Quân Thái bình đã có dự định chiếm Nam Kinh từ trước, khi chưa ra khỏi Quảng Tây mỗi lần đánh nhau với quan quân thường nói “ Ta sẽ đánh Giang Nam, đâu có sợ gì quan quân các ngươi.” Dương Tú Thanh từng nói “Thượng sách ngày nay là bỏ Quảng Tây không ngó đến, tiến thẳng theo Trường Giang mà đánh các đồn ải, bỏ nơi lợi hại, lấy cho được Kim Lăng [Nam Kinh] để làm nơi căn cứ; sau đó sai tướng đi bốn phương, phân đánh nam bắc, tuy chưa hoàn toàn thành công, thì ta cũng có được phia nam sông Hoàng Hà.” Lại xưng Kim Lăng là tiểu thiên đường, là nơi Minh Thái Tổ đánh dẹp rợ Hồ quang phục đất Hoa Hạ, có ý nghĩa lịch sử. Đầu tiên sau khi chiếm được, Hồng Tú Toàn yết kiến lăng Minh Thái Tổ, cử hành lễ điển, đọc chúc từ có đoạn “Con cháu hèn kém là Hồng Tú Toàn thu phục được đất phía nam của tiên Đế, bèn lên ngôi tại Nam Kinh, nhất nhất tuân theo hiến chế của tổ vào năm Hồng Vũ thứ nhất.” Dương Tú Thanh chủ trương tiến chiếm Nam Kinh xong cải tên là Thiên Kinh, thực hiện kế hoạch ngăn trở vận lương nam bắc, chiếm Trấn Giang [Zhenjiang, Giang Tô], Dương Châu [yangzhou, Giang Tô] Thiên Kinh làm 3 chân vạc. Lý do không tiếp tục tiến chiếm phía đông phía biển, vì ý muốn tiến lên phía bắc và quay lại sang phía tây, ngược theo dòng sông Trường Giang. Vào đầu tháng 5/1853, mệnh Thiên quan phó Thừa tướng Lâm Phượng Tường, Ðịa quan chánh Thừa tướng Lý Khai Phương đánh phía bắc; Xuân quan chánh Thừa tướng Hồ Dĩ Quang, Hạ quan chánh Thừa tướng Lại Hán Anh mang quân quay trở lại đánh phía tây. Quân bắc phạt vẫn theo chiến lược xung kích như cũ “Quân đi theo đường tắt, đến Yên đô [bắc Kinh] gấp, không tham đánh thành lấy đất, phí thời gian.” Ðạo quân phía tây với nhiệm vụ thu phục phía tây sông Trường Giang, khống chế phía nam sông Hoàng Hà. Thuyết đáng tin cậy cho rằng Hồng, Dương đã phạm sai lầm vì mang quân lên phía bắc quá ít. Lực lượng của Lâm, Lý có thuyết cho rằng chỉ 3 ngàn, có thuyết 2 vạn; nói tóm lại không đủ. Quân khởi hành từ phía bắc tỉnh An Huy, lên đến phía đông tỉnh Hà Nam [Henan], định vượt qua sông Hoàng Hà [Yellow River]. Vì quân Thanh đã dự phòng, kéo hết thuyền sang phía bắc, nên quân Thái bình bất đắc dĩ phải chuyển theo hướng tây. Sau khi đánh thành Khai Phong [Kaifeng, Hà Nam] không hạ được, phải đi tiếp đến phía tây Trịnh Châu [Zhengzhou, Hà Nam] rồi qua sông đến tỉnh Sơn Tây [shanxi]. Tiếp tục tiến sang đông đến tỉnh Trực Lệ (7), đại phá quân của Tổng đốc Trực Lệ, rồi thừa thắng đến Bảo Ðịnh [baoding]; bấy giờ Bắc Kinh giới nghiêm, quan dân chạy trốn đến mấy vạn người. Lúc đó quân viện tại kinh kỳ đến, tập trung chống cự, nên quân Thái Bình tổn thất, phải chuyển sang phía đông, rồi lại theo Vận Hà tiến lên phía bắc. Ngày 20/12 quân Thái Bình 3 vạn người, tấn công mạnh Thiên Tân [Tianjin]; quân Thanh phải cho tháo đê Vận Hà để ngăn, nên hai bên ở thế tương trì. Kể từ khi xuất phát tại Nam Kinh cho đến Thiên Tân [cách Bắc Kinh 240 dặm]; quân hành 4.000 dặm, thời gian 5 tháng. Tháng 2/1854 quân bắc phạt lương hết, thời tiết trở nên lạnh, tay chân tê cóng, chết không ít; lại bị kỵ binh của Tăng Cách Lâm Thấm đánh bại, đành phải rút lui phía nam. Lúc này Thiên kinh phái viện quân lên phía bắc, vào trung tuần tháng 4 đến phía tây bắc tỉnh Sơn Ðông [shandong], cuối cùng không gặp được quân bắc phạt rút về phía nam. Vào tháng 5/1855 quân bắc phạt hoàn toàn bị tiêu diệt. Nguyên nhân bắc phạt thất bại, thứ nhất do binh lực không đủ, lại còn do bộ binh không địch được kỵ binh của Tăng Cách Lâm Thấm trong trận chiến tại đất bằng. Thứ hai do ngôn ngữ bất đồng, người phương bắc cẩn trọng, theo quân Thái bình không nhiều. Từ đó trở về sau, quân Thái bình không vượt được sông Hoàng Hà, nhờ đó nhà Thanh giữ gìn được vùng đất căn bản. Quân Thái bình tiến công tại Hoa bắc thất bại, cuộc chiến miền tây cũng không được đắc ý. Quân tây chinh có trên 1000 chiến thuyền, quân số cũng vượt trội quân đánh miền bắc. Tháng 8/1853 tái chiếm An Khánh, Hồ Dĩ Quang lưu lại giữ, riêng Lại Hán Anh xua quân sang phía tây vào tỉnh Giang Tây bao vây Nam Xương [Nanchang], Giang Trung Nguyên đốc quân cố thủ, quân Thái bình phản công nhưng không thắng. Tháng 9 bỏ vây Nam Xương, tiến chiếm Cửu Giang; vào tỉnh Hồ Bắc, tái chiếm Hán Dương và Hán Khẩu, rồi rút về phía đông tỉnh. Cánh quân của Hồ Dĩ Quang tại An Khánh, vào tháng 1/1854 tiến chiếm tỉnh lỵ lâm thời An Huy tại Lô Môn [Hefei, Hợp Phì], Tuần phủ Giang Trung Nguyên thua chết, hơn 20 châu thuộc tỉnh An Huy đều bị quân Thái bình chiếm. Tháng 2/1854 quân Thái Bình thắng lợi tại phía đông tỉnh Hồ Bắc, chiếm Hán Dương, Hán Khẩu lần thứ ba. Một mặt vây thành Vũ Xương, một mặt tiến xuống Hồ Nam chiếm Nhạc Dương, rồi vòng qua Trường Sa, đánh chiếm Tương Ðàm {Xiangtan, Hồ Nam]. Lúc này Tương quân tại Hồ Nam mới huấn luyện xong, bắt đầu ra tay; quân Thái Bình đụng phải đối thủ mạnh; từ nay trở về sau, hai bên tranh đoạt vùng đấtphần lớn dọc theo sông Trường Giang. 5.Các nước Tây phương tiếp xúc với Thái bình thiên quốc. Từ khi các nước Tây phương vào tranh dành buôn bán tại Trung Quốc, thì sự biến loạn tại Trung Quốc không còn là vấn đề nội bộ của nước này. Các Giáo sĩ và thương nhân ngoại quốc nhận thấy Thái bình thiên quốc là thế lực mới trong công cuộc vận động cách mạng, đối với tôn giáo này họ cảm thấy hứng thú; nếu Trung Quốc là một quốc gia theo đạo Cơ Ðốc thì sẽ có ích lợi trong việc buôn bán và truyền giáo; báo chí của họ đều biểu đồng tình. Về các quan chức ngoại giao muốn nhân lúc này, thu nhiều quyền lợi từ triều Thanh hoặc quân Thái bình. Sau khi quân Thái bình chiếm Nam Kinh, Tổng đốc Thượng Hải kiêm Công sứ Anh, S.J. Bonham [Văn Hàn], phái viên Thông dịch Thomas Taylor Meadows [Mật Ðịch Lạc] theo đường Tô Châu [suzhou, Giang Tô], Thường Châu [Changzhou, Giang Tô] tìm cách liên lạc ngoại giao. Ngày 27/4/1853 S.J Boham đến Nam Kinh, sai Hạm trưởng E. G. Fishbourne [Phí Sĩ Ban] đưa thư cho quan chức Thái bình thiên quốc, nội dung “đến đây có việc muốn thương lượng, chứ không phải giúp quân Thanh đánh nhau.” Thomas Taylor Meadows lên thành, gặp Bắc vương Vi Chính, Dực vương Thạch Ðạt Khai; nói rõ nước Anh đứng trung lập và muốn biết lập trường đối ngoại của quân Thái bình có định tấn công Thượng Hải hoặc tiếp sứ Anh hay không. Bắc vương đề cao Thiên vương và quyền lực tôn giáo, nếu người Anh giúp quân Thanh cũng không đáng sợ. Lại bảo Thiên vương nói Trung Quốc có chân chúa thì cũng là chân chúa của vạn nước, từ nay trở về sau hai bên cùng an tâm, trở thành bạn tốt. Ngày hôm sau S.J. Bonham nhận được “dụ” phúc đáp của Ðông vương Dương Tú Thanh với lời lẽ kiêu ngạo, bèn đem tất cả văn kiện trả lại, kèm theo Nam Kinh điều ước để biểu thị quyền lợi nước Anh tại Trung Quốc. Lại gửi chiếu hội thanh minh nước Anh không bang trợ cho quan quân Mãn Châu thuyền máy, lại không chuẩn cho mướn thương thuyền người Anh “đối với quí Quốc vương và Mãn Châu đối địch, nước Anh tình nguyện không can dự vào hai bên.” . Sau đó bảo rằng “Nghe tin quân của quí Quốc vương định đến Tô [suzhou, Chiết Giang], Tùng [songjiang], sau đó đến Thượng Hải. Lúc đó quí Quốc vương định cư xử với nước Anh như thế nào, xin nguyện nghe biết”. Qua những lời này, biết được nước Anh rất chú ý đến hành động của Thái bình thiên quốc đối với Thượng Hải. Ðông vương phúc đáp rằng “Thiên hạ vốn một nhà, bốn biển là anh em” “Các ngươi là người xa xôi nguyện đến làm phiên thuộc, thiên hạ hoan lạc; Thiên phụ, Thiên huynh cũng hoan lạc. Ðã có lòng trung qui thuận, giáng chỉ cho Ðầu mục các ngươi cùng các huynh, đệ có thể đến Thiên kinh; hoặc hiệu lực, hoặc thông thương, ra vào cửa thành, đều không cấm chỉ, đó là ý trời. Lại cấp cho vài loại Thánh thư, muốn hiểu chân đạo có thể dùng để tu tập.” S.J. Bonham dùng lời lẽ nghiêm khắc bác bỏ “Thư đến lời lẽ thiếu rõ ràng không hiểu nỗi. Trung Quốc đã chuẩn cho chúng tôi thông thương, thì vô luận người nào làm tổn thương sự buôn bán, nước tôi chỉ biết dùng binh.” Rồi khi thuyền nước Anh theo hướng đông ra khỏi Trấn Giang, lại nhận được thư của viên tướng Thái bình Lại Ðại Cương, nội dung nguyện đối xử hữu hảo, khuyên người Anh đừng trợ giúp quân Thanh, đừng buôn nha phiến. S.J. Bonham đáp lời, xác định đứng trung lập, nhưng không đề cập đến vấn đề nha phiến. La Ðại Cương là người Lưỡng Quảng, được cho là “người có khả năng trong đám giặc”, ứng đối đắc thể hơn Ðông vương và Bắc vương. Qua lần đi này S.J. Bonham thấy được thế lực quân Thái bình lớn mạnh, tất sẽ thành công, trong tương lai nước Anh có thể thay đổi chính sách; trước mắt nên giữ thế trung lập. Riêng Thomas Taylor Meadows có nhiều cảm tình với quân Thái bình, cho rằng nếu như họ thành công thì không những có thể khuyếch trương việc truyền giáo và giao thương, riêng Trung Quốc cũng có thể bước lên con đường tiến bộ. Tuần phủ Giang Tô [Jiangsu] đối với việc S.J. Bonham đến Nam Kinh, tỏ vẻ hết sức không an lòng , bèn gửi chiếu hội cho Lãnh sự Anh, Mỹ “Nghĩ rằng hai nước thông thương hòa hảo đã lâu, nay việc buôn bán bị quấy nhiễu, mậu dịch ngưng trệ, vả lại giặc phỉ cấm nha phiến rất nghiêm, gặp một người nước tôi hút thuốc là bị sát hại; hy vọng sẽ mang thuyền máy vào sông Trường giang đánh dẹp giúp.” Vào tháng 6/1854 người kế nhiệm S.J. Bonham là John Bowring [bao Lệnh] sai viên Thông dịch Walter H. Medhurst Jr. [Mạch Hoa Ðà] đến Nam Kinh quan sát. Nhà đương cục Thái bình thiên quốc tuy vẫn nói rằng “Vạn quốc thông thương, trong thiên hạ đều là anh em” , nhưng vẫn giữ thái độ muốn “Thiên hạ ngoại quốc đến đầu hàng”, nếu không là yêu ma. Tháng 1/1855 John Bowring thấy rằng thế lực quân Thái bình không thể khinh thường, vả lại lúc bấy giờ nước Anh đang có tranh chấp quân sự với Nga không rảnh tại viễn đông, nên bố cáo rằng nước Anh nghiêm giữ trung lập. Người Pháp theo Thiên chúa giáo, đối với tân giáo của Thái bình thiên quốc lúc đầu có cảm tình tốt. Tháng 12/1853, Sứ giả Pháp Bố Nhĩ Bố Long đến Nam Kinh, sai người vào thành trước, gặp vị thừa tướng họ Lại [Hán Anh?], hai bên tỏ vẻ hy vọng hòa hảo. Vài ngày sau Bố Nhĩ Bố Long gặp Ðỉnh thiên hầu Tần Nhật Cương, biểu thị trung lập và lưu tâm đến Thiên chúa giáo tại Hoa. Chuyến đi của viên Sứ giả có ấn tượng tốt, thừa nhận quân Thái bình kỹ luật nghiêm, trật tự tại Nam Kinh yên ỗn. Tháng 5/1853 Giáo sĩ người Mỹ, I. J. Robert [La Hiếu Toàn], từng quen biết với Hồng Tú Toàn, từ Quảng Ðông lên Thượng Hải, rồi trên đường đi Nam Kinh, nhưng đường ngăn trở nên không đến được. Lại có Giáo sĩ Mỹ, Charles Taylor [Ðái Tác Sĩ], gặp La Ðại Cương tại Trấn Giang, hai bên có cảm tình. Số đông thương nhân Mỹ đều muốn Thái bình thiên quốc thành công, Sứ giả Mỹ tại Hoa, Humphrey Marshall [Mã Sa Lợi], cũng cho rằng triều Thanh sắp sụp đổ, có ý thừa nhận Thái bình thiên quốc. Chính phủ Mỹ ban huấn lệnh cho người kế nhiệm Humphrey Marshall là Robert McLane [Mạch Liên] rằng: đối với nội loạn tại Trung Quốc nghiêm giữ chính sách trung lập; nếu nhà Thanh không chịu sửa đổi điều ước, sẽ đàm phán với Thái bình thiên quốc. Vào tháng 5/1854 Robert McLane đến Thượng Hải, ngày 27 đáp quân hạm đến Nam Kinh, ngày 28 Hạm trưởng F. L. Buchanan [bố Gia Nam] gửi chiếu hội xưng rằng Toàn quyền nước Mỹ muốn chiếu hội với Thừa tướng, Nguyên soái Thái bình thiên quốc, cùng xưng ngày hôm sau người Mỹ muốn thăm tháp chùa Báo Ân tại cửa phía nam thành. Ðầu tiênmột viên Kiểm điểm Thái bình thiên quốc gửi “trát dụ” đòi phải cho biết ý tại sao muốn đến, và phải tuân thủ qui định, mới được vào xem. Kế đó có “trát dụ” của hai vị Thừa tướng, mệnh “Tuân chiếu lễ tiết, bẩm tấu Ðông vương. Thiên vương là chân chúa của vạn quốc, chuẩn cho hàng năm đến cống.” Ngày 30/5 F. L. Buchanan phúc đáp, trách “Lời phúc đáp không có tình hữu nghị, lại không tôn trọng nước Mỹ, nên không thể không tạm ngưng chiếu hội.” Robert McLane cho rằng quân Thái bình kiêu mạn, nếu như thành công, cũng không có ích cho người nước ngoài; ông ta báo cáo với bộ Ngoại giao rằng Thái bình thiên quốc không có năng lực thống trị; muốn cải biến chính sách tại Trung Quốc, nên duy trì áp lực triều đình nhà Thanh trong vòng trật tự, nhắm khuếch trương thương vụ và giữ quyền lợi điều ước. Robert McLane báo cho Tổng đốc Lưỡng Giang, Di Lương, biết rằng nếu như hứa sửa điều ước về việc thông thương trên sông Trường Giang thì sẽ giúp dẹp loạn, nhưng bị triều đình Bắc Kinh bác. Qua việc tiếp xúc với 3 nước Anh, Pháp, Mỹ; thấy được đường lốiđối ngoại của Thái bình thiên quốc đầy vụng về, tự cao, thiếu hiểu biết; còn quá tệ hơn cả triều Thanh trước thời chiến tranh nha phiến. Tuy thuyết giảng “Thiên hạ một nhà, bốn biển là anh em” nhưng chỉ thừa nhận độc tôn địa vị và tôn giáo của Thiên vương. ===================== Chú thích: 1.Tự canh: người cày ruộng nhà, không cày mướn. 2.Năm vị tổ tức ngũ tổ đều thuộc phái Thiếu Lâm, bí mật khai triển tổ chức phản Thanh phục Minh. 3.Lưỡng Giang: gồmGiang Tô, An Huy, Giang Tây. 4.Châu Vĩnh An: năm 1914, đổi thành huyện Mông Sơn [Mengsan]. 5.Can chi: Âm lịch có 10 can, 12 chi; can như giáp, ất vv…; chi như tý, sửu vv.. 6.Năm tỉnh: Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây, An Huy, Giang Tô. 7.Trực Lệ: thuộc tỉnh Hà Bắc [Hebei] ngày nay. Các bài viết liên quan: Lịch sử Thái Bình Thiên Quốc (II) Sách Việt kiệu thư trong con mắt giới sử học đương đại (Nhân những băn khoăn của ông Hồ Bạch Thảo) Thử lý giải tại sao những sử liệu thời Minh do Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trưng lên từ Việt Kiệu Thư khác với Minh Thực Lục Xét về phương diện lịch sử, nghĩ về một thế ứng xử ngoại giao hiện nay của đất nước Chiến tranh nha phiến, nguyên nhân cùng hậu quả [4] Chiến tranh nha phiến - Nguyên nhân cùng hậu quả [3] Chiến tranh nha phiến, nguyên nhân cùng hậu quả [1] Giặc khách: Lý Dương Tài Tìm hiểu văn từ ngoại giao của cha ông ta với Trung Quốc Vị trí chiến lược vùng đất Hà Giang qua đánh giá của Nguyễn Công Trứ Cải cách hành chánh dưới thời vua Minh Mệnh Tìm Hiểu Về Con Người Vua Tự Đức Hành trình mười lăm năm lưu lạc của nàng Kiều Vua Càn Long tìm cách từ chối trao trả Hoàng Công Toản cho An Nam Trung Quốc từng nêu việc đánh chiếm An Nam để gây áp lực với các nước Ðông Nam Á Ðường tiến quân của kẻ thù phương Bắc qua các cuộc xâm lăng nước ta
  3. TƯ LIỆU THAM KHẢO Lịch sử Thái Bình Thiên Quốc (II) Hồ Bạch Thảo vanhoanghean.com.vn Thứ sáu, 28 Tháng 2 2014 08:09 II. Những nét đặc trưng về Thái bình thiên quốc 1.Ngự trị bởi tín ngưỡng. Ðối với Thái bình thiên quốc, tôn giáo ảnh hưởng không gì lớn bằng. Hồng Tú Toàn tự xưng được Thiên phụ thượng đế phong làm chân chúa, địa vị và quyền lực do trời ban. Nhưng tôn giáo của Hồng không phải chân chính CơÐốc Tây phương, có thể gọi đây là một loại Thượng đế giáo, hoặc “Hồng giáo”. Từ năm 24 tuổi trở về trước, sách đọc của Hồng chỉ là kinh, sử, những tín ngưỡng nghe biết là Phật, Ðạo, Thần tiên; kiến thức sơđẳng về CơÐốc giáo cùng quan niệm về Thượng đế chỉ lấy từ quyển sách Khuyến thế lương ngôn cạn hẹp. Từ những điều lượm lặt được, Hồng tự lý luận; lợi dụng tôn giáo đểđạt mục đích chính trị. Nói tóm lại Hồng không phải là tín đồ của tôn giáo nào, Hồng là Giáo chủ. Lúc đầu Hồng cho rằng Thiên phụ Thượng đế có 2 con, con trưởng là Thiên huynh Gia Tô, con thứ là Hồng Tú Toàn. Thiên huynh Gia Tô tại Tây phương, xã thân cứu đời, nối theođại đạo. Tại Trung quốc sau đời Tần, mởđường cho thần tiên quỉ quái; Mãn Thanh vào chiếm cứ “dụ người tin quỉ thần càng sâu, thì yêu ma tác quái càng dữ”, nên Thiên phụ sai con thứ, Hồng Tú Toàn, xuống trần, cứu vớt kẻ trầm luân. Từ năm 1848 trở về sau lại xưng Thiên phụ có con thứ 3, thứ 4, thứ 5, thứ 6 là Phùng Vân Sơn, Dương Tú Thanh, Vi Chính, Thạch Ðạt Khai; riêng Tiêu Triều Quí lấy em gái Hồng Tú Toàn, thìđược gọi là Thiên tế, tức con rể trời. Dương Tú Thanh được cho là hóa thân của Thiên phụ xuống thế gian để chuộc bệnh, nên còn gọi là “Thục bệnh vương”. Hồng còn có sáng kiến dùng các hiện tượng của tạo hóa: gió, mưa, mây, sấm, chớp, sương v v…. để ban phong; như: Dương là Phong sư, Tiêu là Vũ sư, Phùng là Vân sư, Vi là Lôi sư, Thạch là Ðiện sư, Tần Nhật Cương là Sương sư, Hồ Dĩ Quang là Lộ sư. Thượng đế giáo qui điều nghiêm khắc dị thường, nghi thức chi tiết vụn vặt. Kẻ bái Thượng đế phải hướng Thượng đế hối tội, học thuộc Thập thiên điều; vi phạm bị xử tội chết. Ngày thường sáng tối tụng niệm, mỗi bữa ăn cảm tạ Thượng đế; gặp tai nạn, bệnh tật, sinh nhật, cuối tháng, cưới xin, xây bếp, làm nhà, động thổ, đều cầu đảo tế cáo. Cứ 7 ngày lễ bái một lần, trước đó 1 ngày đánh phèng la cao hô “Ngày mai lễ bái, mọi người tuân kính, không được lười chậm.” Lần đầu không đến bịđóng gông, đánh 1.000 roi; lần thứ 2 bị xử chém. Trong khi lễ bái, tụng Thượng đếânđức, đọc thơ xưng tán Thiên vương. Ðông vương, cho đến Dực vương; sau đóđọc Thánh kinh, Thiên điều, một lời xướng trăm lời họa; lại tụng tấu chương hối tội, sau đó cao hô “ tận giết ma quỉ”. Cứ 25 nhà có một lễ bái đường, khi hành quân, chọn phòng ốc khoáng đãng làm chỗ lễ bái. Các nơi thờthần , các bài vị, thần chủđều bị thiêu hủy. Việc giáo dục hoàn toàn tôn giáo hóa, các sách cho sĩ tử học nhưTam thiên tự,Ấu học thi, Cựu ước,Tân ướcđều nặng màu tôn giáo, văn nghĩa thông tục; khi quân Thanh tịch thu được, phải dùng xe bò chở, chất hàng đống, chứng tỏđã in ra rất nhiều. Tư tưởng Nho gia đối với giáo lý của Thượng đế giáo không tương dung. Giáo lý kể rằng Hồng Tú Toàn lúc lên trời, Thượng đế từng bảo “Khổng tử di truyền sáchthư, phần lớn sai lầm… dạy người việc hồ đồ”. Gia Tô cũng bảo sách này làm hỏng người. Khổng Khâu chạy trốn, bị Thiên sứ bắt về trói, dùng roi đánh đau, không cho phép xuống trần. Năm 1853 tuyên bố “Phàm các sách Khổng, Mạnh, Bách gia, yêu thư tà thuyết, phải đốt sạch, không được buôn bán tàng trử.” Các sách cóđóng dấu ấn “cái tỷ” của Thái bình thiên quốc mới được lưu hành “ Thế gian có sách không tâu lên, sách không đóng dấu cái tỷ mà đọc, đều bị tội.”. Lại thiết lập “San thư nha”, đem những lời “yêu thoại “ trong Tứ thư,Ngũ Kinh, để Thiên vương ngự phê cải chính. Ðối với phần tử trí thức, Thái bình thiên quốc ra sức tranh thủ; quân đến nơi, dán bảng chiêu hiền “Tự cống sở trường ….Lượng tài lục dụng”. Năm 1853 mở khoa thi, cũng có Tú tài, Cử nhân, Tiến sĩ; đề thi thuộc loại như, soạn “Thiên mệnh chiếu chỉ thư” Nhưng đối với quan lại, Nho sinh bị bắt thìđối xử lăng nhục ngược đãi “ Hoặc giam cấm đến chết, hoặc chia cho các quán để chép các tấu chương , cáo dụ, cáo thị, hoặc soạn sách riêng cho các nhà.” 2.Binh dân hợp nhất. Lúc mới cử sự, Thái bình thiên quốc định quân chế, được ghi lại trong sách Thái bình quân mục. Ðơn vị lớn nhất là quân, đặt Quân soái; dưới Quân soái có Sư soái, Lữ soái, Tốt trưởng, Lưỡng tư mã, Ngũ trưởng. Sau khi vào tỉnh Hồ Nam, đặt thêm Thổ doanh, Thủy doanh; Thổ doanh làđơn vịđặc biệt chuyên đào địa đạo đánh thành, Thủy doanh đảm đang thủy chiến cùng chuyên chở hàng hóa. Lại có các doanh lo về kỹ năng chế tạo hậu cần, không trực tiếp tác chiến như Mộc doanh, Kim doanh, Chức doanh, Hài doanh; gọi chung là Tượng doanh. Lúc đầu đặt Nữ doanh, mỗi doanh 2500 người, nữ binh vào khoảng ¼ số quân; sau khi hành quân đến sông Trường Giang, vì phụ nữ vùng này yếu đuối không tòng quân tác chiến được, nên lập Nữ quán. Lại còn lập quân thiếu niên gọi làÐồng tử quân, lâm trận dõng cảm , tín ngưỡng một chiều, trở thành cán bộ trung kiên. Sau khi chiếm Nam Kinh, tổng kê toàn thể quân binh nam, nữ hơn 30 vạn. Phân chia thành các quân, do Quân soái chỉ huy, phụ tá có Tổng chế và Giám quân; mỗi quân 12.500 người, gồm 5 sư. Mỗi sư gồm 2.500 người, đứng đầu là Sư soái, chia thành 5 lữ; mỗi lữ 500 người, đứng đầu là Lữ soái, chia thành 5 tốt; mỗi tốt 100 người, đứng đầu là Tốt trưởng, chia thành 4 Lưỡng tư mã; mỗi Lưỡng tư mã chia thành 5 ngũ, mỗi ngũ 5 người, đứng đầu là Ngũ trưởng. Về trận pháp có 4, gồm: Khiên chế pháp, chủ tiến thoái có trật tự, không loạn trận; Bàng giải trận, chủ biến hóa như chân cua, xòe ra nhiều ít do nhu cầu; Bách điểu trận, trận này ứng dụng tại đất bằng, chủ tụ tán như chim bầy, lúc chia nhỏ ra để dụ địch, lúc tập trung lại để đánh; Phục địa trận, chủ chuyển bại thành thắng, bằng cách giả thua rút đến nơi có địa hình thích hợp để phục kích, rồi theo hiệu lệnh cờ mai phục, đợi địch đến thì xông ra. Về quân luật, huấn luyện, được ôn tập thường xuyên; điểm chính là nghiêm đội ngũ, thưởng phạt phân minh, không xâm phạm cho đến các vật nhỏ, không được tao nhiễu dân chúng. Trời tạnh thao luyện binh sĩ, trời mưa thì học tập Thiên thư “Người người đều hiểu lòng trời, vĩnh tuân chân đạo; nếu gặp yêu ma đến, một tiếng trống cất lên, tập trung nghe lệnh, hăng hái hướng tiền, một lòng một dạ.” Sách Tặc tình hối toản cũng khen qui chế quân Thái bình, chiến thuật tốt, quân kỷ nghiêm “ Nghịch tặc hoang đản bạo ngược, duy quân chế có phép tắc..” Lại có nhận xét “ Giặc lớn mạnh mau, nhờ vào hành quân có phép tắc, kỹ luật nghiêm. Kẻ chiến trận thất lợi đi đến chỗ bại, trái lệnh, tiêu dùng riêng tài vật; nặng tức xử chém, nhẹ thì trách giáng, chứ không tha thứ. Có công thì phá lệ thăng nhanh; mới buổi sáng là tên lính, buổi chiều đã thăng làm tướng ngụy.” Thái bình thiên quốc chủ trương binh dân hợp nhất “ Mỗi nhà trang bị nhung phục, người người cầm khí giới.” “ Có báo động thì Thủ lãnh dùng làm lính, giết địch bắt giặc; vô sự thì Thủ lãnh điều đi làm nông, cày ruộng sản xuất.” Trên lý thuyết theo qui chế“ 5 người thành 1 ngũ, 4 ngũ 1 lưỡng, 5 lưỡng 1 tốt, 5 tốt 1 lữ, 5 lữ 1 sư, 5 sư 1 quân; tạo nên quân lữ,hoặc dùng canh tác ruộng đất…”, nhưng thực tế thì chưa thi hành được triệt để, phần lớn nguồn binh lực đều cung cấp bởi cưỡng bách uy hiếp. 3.Chế độ quan lại và chính sự. Chính thể của Thái bình thiên quốc được quân sự hóa, đại lược chia thành: triều nội quan, quân trung quan, thủ thổ quan, hương quan; từ trung ương đến địa phương đều theo quân hàm. Triều nội quan tại trung ương, trong đó có Thiên vương cung, Ðông điện tức Ðông vương phủ, Bắc điện tức Bắc vương phủ, Dực điện tức Dực vương phủ; Ðông điện qui mô lớn hơn cả Thiên vương cung. Quân trung quan có Tổng chế, Giám quân, Quân soái trở xuống. Thủ thổ quan tức địa phương quân, cũng có riêng Tổng chế, Giám quân; mỗi quận đặt Tổng chế, các châu đặt Giám quân. Hương quan đặt viên chức từ Quân soái cho đến Lưỡng tư mã, căn cứ nhân khẩu nhiều ít, phần lớn dùng người địa phương. Ngoài việc quân sự Hương quan còn phụ trách các vấn đề tôn giáo, giáo dục, tư pháp, chính trị, kinh tế. Mỗi ngày Lưỡng tư mã phụ trách dạy học các trẻ em trong 25 nhà, vào ngày Chủ nhật trai gái đến học giáo lý, tụng niệm Thượng đế. Cứ 7 tuần có Sư soái, Lữ soái, Tốt trưởng thay phiên đến giảng thánh kinh, và kiểm soát mọi việc; nếu địa phương không giải quyết được thìđào đạt lên trên. Sau khi định đô tại Nam Kinh, Thiên vương Hồng Tú Toàn sống kiêu xa trong cung, ít xuất hiện, gặp đại khánh mới thiết triều hội; Ðông vương thường đến triều kiến lãnh chiếu chỉ. Việc chính trị do các Hầu, Thừa tướng bàn định ỗn thỏa bẩm lên Dực vương, Dực vương xét có thể thi hành được bèn thay mặt Ðông vương soạn cáo dụ, rồi gửi sang Ðông vương xin dấu ấn, gửi sang Bắc vương ghi vào sổ bạ. Ðiều gì cũng sử dụng giấy tờ, nên bịứđọng “Lệnh cấm thì lập khoa điều, quân vụ đều dựa vào văn cáo, khí mạch không thông, trở thành tê liệt.” Ngoài ra lãnh tụ cao cấp của Thái bình thiên quốc sống xa hoa. Thiên vương dùng dinh cũ của Tổng đốc Lưỡng Giang làm cung điện, cho phá các nhà nhỏ xung quanh, dùng hàng vạn nhân công trai ,gái xây cất trong vòng nữa năm trời, chu vi hơn chục dặm, tường cao mấy trượng, trong ngoài hai lớp, trang sức bằng màu vàng, kim thạch huy hoàng; tại các cửa trang sức bằng lụa đoạn màu vàng, thay đổi hàng tháng. Các phủ từÐông vương trở xuống đều tranh nhau trang hoàng tráng lệ, y phục xa hoa, đẳng cấp nghiêm nhặt. Cấp thấp như Lưỡng tư mã cũng có 4 phu kiệu; riêng Ðông vương mỗi lần ra ngoài, hộ tống có hàng trăm người, các quan viên to nhỏđều tránh ra khỏi đường đi, nếu không kịp phải quì bái. Thái bình thiên quốc dùng tôn giáo để trị nước, nên địa vị của Ðông vương Dương Tú Thanh, là hóa thân của Thiên phụ, lại cao hơn một bực. Bởi vậy những tấu chương khẩn yếu chưa có dấu ấn của Ðông vương thì Thiên vương không duyệt; tuy Dực vương, Bắc vương cũng không được gửi thẳng đến Thiên vương; ngoại trừÐông vương không ai được gặp Thiên vương. 4.Thánh khố và điền mẫu chế độ. Cùng hưởng chung là chính sách căn bản của Thái bình thiên quốc; “nhắm cho thiên hạ cùng hưởng đại phúc của Thiên phụ Hoàng đế, không có ai không được no ấm”. Nhu cầu hàng ngày của quân dân đều do chính phủ trù tính cung cấp, với lý tưởng một xã hội giàu không có tài sản riêng, khống chếđược bèđảng, ngăn tuyệt tham ô. Ðể thực hiện lý tưởng này, Thánh khố vàđiền mẫu chếđộđược đặt ra. Thánh khố là kho quản lý mọi tài vật, kể từ thời khởi sự tại Kim Ðiền [Jintianzhen] Quảng Tây, đãđược đặt ra. Sau đóđánh chiếm các nơi, tịch thuđược vàng, bạc, y phục đều nạp vào Thánh khố. Trên đường hành quân, nông dân các nơi giao nạp lúa gạo, chỉđể lại mỗi năm 1 thạch cho người lớn, 5 đấu cho trẻ nhỏ. Sau khi đến Nam Kinh, chia ra Thánh khố quán, và Thánh lương quán; đặt Tổng điển Thánh khố quán và Tổng điển Thánh lương quán; Thánh khố quán chủ yếu giữ tiền, Thánh lương quán chủ yếu giữ gạo. Lại còn có kho cho các nhu yếu phẩm đặc biệt như dầu, muối; hoặc kho cho các nghề chuyên môn như “tượng doanh”. Các quan chức lớn nhỏ không có lương hàng tháng, được phát gạo, dầu, muối, tiền mua rau theo qui chế; cứ 7 ngày do Ðiển quan cấp; riêng thịt thì chỉ phát cho từng lớp trên, từ Thiên vương đến Tổng chế. Còn đối với nhân gian thì nguyên tắc tương đồng, nhưng phải phối hợp với điền mẫu chếđộ. Sách Thiên triều điền mẫu chế độ ban hành, bao quát kinh tế, giáo dục, tiến cử, khảo hạch; nhưng chỉ mới hình thành trên lý thuyết, chưa kịp thực thi. Nguyên tắc của điền mẫu chếđộ gồm: Thứ nhất, đất đai của công, chiếu theo sản lượng chia ruộngđất thành 9 hạng. Thứ hai, không luận trai gái, căn cứ nhân khẩu mà nhận ruộng đất; trong 9 hạng, nhận một nữa tốt một nữa xấu. Thứ ba, lấy chỗđược mùa bù cho chỗ mất mùa “Rưộng đất trong thiên hạ, người trong thiên hạ cùng cày; nơi này không no đủ thì mang nơi khác đến…”. Thứ tư, cứ 25 nhàđặt một quốc khố, trừ số lúa gạo ănđủđến mùa sau, kỳ dư sung vào quốc khố. Lễ cưới, lễđầy tháng, đều theo qui chế lấy từ quốc khố. Thứ năm, tự cung tự cấp; mỗi nhà lo trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, nuôi gà, hết mùa lúa thì làm thêm đồ gốm, đồ gỗ. Thánh khố chếđộ từng được nghiêm khắc thi hành. Thời gian tiến quân từ Quảng Tây đến Hồ Nam, thìđối tượng phải nạp là những phú hộ tại nông thôn; lúc đến sông Trường Giang thìđối tượng chính là nhà giàu tại thành thị; sau khi đến Nam Kinh phạm vi kiểm soát rộng, thì chúýđến toàn cõi “ lấy nhà giàu trong thiên hạ làm kho, lấy những nhà chứa lúa làm kho lương, tùy nơi mà thu cấp”. Chính sách “tát cạn ao để bắt cá” được thi thố, chứng tỏ hữu hiệu trong đoản kỳ, nhưng quyết không thể làđường lối kinh tế tốt đẹp có thể tồn tại lâu dài. Thực thi chếđộđiền mẫu cần có thời gian ỗn định đểđiều tra hộ khẩu, điền địa; không thể thực hiện cấp tốc trong thời binh đao. Bởi vậy quan chức địa phương đành theo cách thu tô, chỉ khác trước là người nông dân thay vì nạp lúa cho chủ ruộng, thì nạp vào Thánh khố. 5. Ðịa vị phụ nữ. Thái bình thiên quốc đối xử với phụ nữ khác xưa. Ðứng về phương diện tôn giáo quan niệm nam đều anh em, nữ đều chị em. Về phương diện chính trị phụ nữ cũng có thể làm quan, phần lớn làm việc tại Thiên vương cung hoặc các Vương phủ “đều mặc áo gấm, ăn đồ ngon, ra vào rung chiêng trống cưởi ngựa, che lọng vàng, thị tỳ theo hầu mấy người.” Về kinh tế, được cấp ruộng đất như nam giới. Về phương diện tục lễ, hôn nhân không luận tiền bạc, cấm đa thê, không phải bó chân, không được phép làm con hát, cấm tà dâm; trai gái không hỗn tạp, phụ nữđều ở riêng trong nữ quán. Tuy nhiên đem thực tế so sánh với những lý thuyết nêu trên thì có những chỗ mâu thuẩn; phụ nữ vẫn chưa được chân chính giải phóng bình đẳng. Thứ nhất, tuy nam nữ phân biệt, nhưng đối với các Vương thì vợ chồng sống chung, còn có nhiều tỳ thiếp; Chấp sự, Nữ quan có hàng trăm, hàng ngàn. Thứ hai, phụ nữđối với nam giới vẫn phải phục tòng; nam lo việc bên ngoài, nữ lo việc trong nhà, kính chồng như kính trời, kính chúa, như vậy mới được hưởng vinh hoa phú quí, được lên trời; quan niệm này đối với luân lý truyền thống cũng không khác mấy. Nói một cách tổng quát, ý thức phong kiến của Thái bình thiên quốc còn nặng hơn các Vương triều trước. Cũng giống như lệ cũ, tước Vương con được thế tập; nhưng ngoài ra con các chức Thừa tướng, Kiểm điểm, Chỉ huy, Tướng quân cũng đều được thế tập. Các cấp phân biệt phục sức, dân gian không được dùng màu hồng, màu vàng. Chức vị cao thấp, trên dưới xưng hô một cách rõ ràng chi tiết; đối với kẻđịch khắc chữ “yêu” vào nón; cLịch sử Thái Bình Thiên Quốc ác vua chúa đời trước trong lịch sửđổi thành Hầu, riêng Hồng Tú Toàn thì xưng là Thiên vương. Một số chữ viết, tên người, tên đất cũng thay đổi. Các tục bất lương nhưđánh bạc, đồng bóng nhất luật cấm chỉ. Không được hút ngửi mua bán thuốc phiện, yên thảo; không tuân bị xử chém “Thuốc phiện Tây phương là thứ yêu ma di hại người đời, hút vào thành nghiện, bệnh vào xương cốt, không có thuốc cứu…” Hồng Tú Toàn thi hành thay đổi lớn tại Trung Quốc, muốn cải tạo Trung Quốc và thậm chí cả lịch sử thế giới. Hồng muốn phá trừ mọi tín ngưỡng có sẵn, thiết lập tín ngưỡng riêng; khống chếđể sử dụng mọi tài nguyên nhân lực vật lực. Hồng ôm tư tưởng đại đồng không tưởng, tự cho mình độc quyền, “bất cận nhân tình”, chỉ cầu cho được việc. (Còn tiếp)
  4. Thuyết Âm Dương Ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử chính là lý thuyết thống nhất mà những tri thức khoa học hàng đầu đang tìm kiếm. Cho dù tất cả các nhà khoa học hàng đầu trên thế giới hoài nghi điều này thì tôi tin rằng: Tôi sẽ thuyết phục được họ. Tuy nhiên, tôi luôn tiên quyết rằng: Việt sử 5000 năm văn hiến phải được công nhận trên cơ sở xem xét như một chân lý khách quan, cho dù nhân danh bất cứ một tiêu chí nào: Tôn giáo, tâm linh, khoa học...Bởi vì một lý thuyết thống nhất không thể từ trên trời rơi xuống, mà nó phải có lịch sử của nó. Vài lời chia sẻ. Hôm nay lang thang trên mạng để tìm một số bài viết cũ, tôi xem lại bài này. Đến nay vẫn "Không có Hạt của Chúa". Điều mà tôi chờ từ trước khi cỗ máy LHC hoạt động vào năm 2008.Thật là buồn! Có bà hàng xóm của tôi vẫn luôn luôn dùng máy tính bảng lên facebook, like mọi sự phát triển của khoa học kỹ thuật, thể hiện sự quan tâm đến trật tự an toàn xã hôi, nhận xét về kinh tê thế giới, phân tích tình hình chính trị ở Ucraine, sự lộn xộn ở Thái Lan....và cho rằng không có lý thuyết thống nhất. "Đấy là điều không tưởng!" - bà ta nói - " WS Hawking cũng thừa nhận điều này!" . Nói xong, bà mở máy tính bảng, dẫn đường link đến bài viết ngay đầu topic này từ một trang web khác, để chứng minh cho tôi thấy những luận cứ của SW Hawking; đồng thời cũng là quan điểm của bà. Rất nhanh nhẹn và quyết đoán là bản tính của bà hàng xóm của tôi. Bà nói: "Anh tham khảo nha! Em xin phép về vì phải đóng tiền điện". Trước khi ra tới cửa, bà lên giong:"Gớm! sao tháng này tiền điện cao quá!".
  5. Trong học thuật mang tính khách quan, cho nên chỉ có thể đặt vấn đề đúng sai. Theo tôi sự bốc đồng - nếu có - không ảnh hưởng tới tính chân lý của vấn đề. Tôi trân trọng ông Hà Văn Thùy về sự nghiêm cẩn với văn hóa dân tộc. Do đó, nếu ông Thùy có giật tít" Chân lý tuyệt đối về chiếc bánh chưng, bánh dày" thì cũng chẳng sao cả. vấn đề ở nội dung bài viết thể hiện cái tuyệt đối đó đến đâu.
  6. =========================== Dòng chữ chú thích phía dưới thì rất hùng hồn. Hay! . Nhưng bạn hãy nhìn kỹ hình minh họa vua Quang Trung - Thậm chí người ta không dám có ý nghĩ vẽ một cái áo giáp lên người của ngài khi xung trận. Vâng! Vì sợ nó không có"cơ sở khoa học". Bởi vậy! Vớ vẩn cả.
  7. Chân dung quan tham nhũng có cả đội bồ nhí (Tin tức 24h) - Dung túng cho cán bộ tham nhũng và có một tiểu đội bồ nhí, Kim Đạo Minh, từng công tác tại cơ quan kiểm tra kỉ luật bị cách ly điều tra. Ngày 27/2, Ủy ban kiểm tra kỉ luật trung ương (KTKLTW) Trung Quốc thông báo, Kim Đạo Minh, đại biểu Quốc hội, Phó chủ tịch Đại hội Đại biểu (HĐND) tỉnh Sơn Tây, nguyên phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ủy ban kiểm tra kỉ luật tỉnh ủy đã bị cách ly để điều tra do “vi phạm kỷ cương pháp luật nghiêm trọng”. Kim Đạo Minh khi còn tại vị Kim trở thành quan chức cấp tỉnh và Bộ thứ 21 bị ngã ngựa kể từ sau Đại hội 18, quan chức thứ 3 bị xử lý kể từ đầu năm 2014. Đáng chú ý, Kim Đạo Minh là người đã công tác trong hệ thống cơ qua kiểm tra kỉ luật hơn 23 năm, có quan hệ gắn bó với con trai Chu Vĩnh Khang, là Ủy viên Ủy ban KTKLTW 3 khóa 15, 16, 17, đại biểu đại hội đảng lần thứ 17, 18. Sinh năm 1953 tại Bắc Kinh, năm 17 tuổi, Kim Đạo Minh làm công nhân. Sau khi vào Đoàn tháng 12/1972, Kim thăng quan tiến chức như diều gặp gió trong hệ thống cán bộ Đoàn và trở thành Ủy viên Hội nghị Chính Hiệp (Mặt trận Tổ quốc) thành phố Bắc Kinh. Từ năm 1987, Kim chuyển sang công tác trong ngành kiểm tra kỉ luật đảng; từ một cán bộ trong văn phòng Bộ Giám sát quốc gia, Kim leo dần lên chức Cục trưởng, rồi Phó Tổng thư ký Ủy ban KTKLTW (năm 1997). Năm 2002, ở tuổi 49, Kim Đạo Minh được giao giữ chức Tổ trưởng điều tra của Ủy ban nằm tại Bộ Giao thông, Ủy viên Đảng đoàn Bộ. Đến năm 2006, Kim được điều về Sơn Tây giữ các chức Ủy viên thường vụ tỉnh ủy, Bí thư Ủy ban kiểm tra kỉ luật; đến tháng 9/2010 được thăng làm Phó Bí thư kiêm Bí thư Ủy ban kiểm tra kỉ luật. Năm 2011, Kim thôi giữ chức Bí thư Ủy ban kiểm tra kỉ luật, chuyển sang làm Hiệu trưởng trường đảng tỉnh, kiêm thêm chức Bí thư Ủy ban Chính trị - pháp luật. Năm 2014, ở tuổi 61, Kim Đạo Minh được bầu bổ sung làm Phó chủ tịch thứ nhất HĐND tỉnh, nhưng chỉ ngồi lên ghế này được 37 ngày thì bị bắt. Kim có cả một “tiểu đội bồ nhí”, hầu hết đều làm nghề kinh doanh địa ốc. Thường các chủ doanh nghiệp tìm đến đám bồ nhí của Kim, cho họ vay tiền để xây dựng các hạng mục; sau khi xây xong, các doanh nghiệp sẽ mua lại. Các đại gia làm ăn ở Sơn Tây đều biết rõ: “Muốn lấy lòng Kim Đạo Minh, mua chuộc được đám bồ nhí của ông ta là ổn”. Kim Đạo Minh ngông nghênh đến mức khi từ Bắc Kinh về Sơn Tây liền dẫn theo một cô bồ xinh đẹp người Đại Liên – một đại gia giới địa ốc. Kim còn bao luôn cả một cặp chị em họ Hồ, kinh doanh địa ốc ở Thái Nguyên, trong đó có tháp đôi Song Tử nổi tiếng. Báo chí Trung Quốc cho rằng, vấn đề của Kim Đạo Minh đã được Tổ điều tra số 6 của Ủy ban KTKLTW về nằm vùng ở Sơn Tây từ cuối tháng 10/2013 phát hiện do liên quan đến vụ việc của Bạch Bồi Trung, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Than Tiêu Môi – doanh nghiệp nhà nước lớn nhất tỉnh. Tháng 11/2011, nhà Bạch Bồi Trung bị cướp, vợ Bạch khai bị mất số tài sản trị giá 3 triệu tệ; nhưng sau khi nghi phạm vụ cướp bị bắt, cơ quan điều tra đã thu giữ số tang vật trị giá 50 triệu tệ. Dư luận xôn xao bàn luận; đến tháng 12 cùng năm thì Bạch Bồi Trung bị bãi chức. Tháng 12/2012, Tòa án thành phố Tấn Trung xét xử vụ cướp nhà Bạch Bồi Trung, 2 tên cướp nhận án tử hình (hoãn 2 năm) và tù chung thân. Tuy nhiên, sau đó Ủy ban kiểm tra kỉ luật tỉnh ủy do Kim Đạo Minh phụ trách chỉ xử lý Bạch ở mức “cách chức lưu đảng 1 năm”. Việc này đã khiến nhiều cán bộ và quần chúng nhân dân nổi giận. Khi Tổ điều tra số 6 về, nhiều cán bộ lão thành đã làm đơn tố giác Kim ăn tiền để bao che Bạch Bồ Trung và một loạt vụ khác. Lược theo TPO ======================= Cái này nói lâu rùi! Còn lắm chuyện. Ngày cả khi tất cả những ai tham nhũng - cả "ruồi lẫn hổ" bị bắt hết - thì cũng còn lắm chuyện.
  8. Thảm sát tại Trung Quốc 33 người chết: Ám ảnh Tân Cương (Tin tức 24h) 33 người chết, 130 người bị thương. Trên sàn nhà ga tàu, la liệt xác đàn ông và phụ nữ nằm trên những vũng máu lênh láng. Ngày 2/3, nhà chức trách Trung Quốc cho biết vụ thảm sát ở ga tàu Côn Minh khiến 33 người chết và 130 người bị thương tối 1/3, là một vụ tấn công khủng bố do những kẻ ly khai người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương thực hiện. Những kẻ tấn công mặc đồ đen, mang dao dài đã xông vào ga tàu ở Côn Minh ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Nhiều người đổ gục Tại bệnh viện, nhân chứng Yang Haifei cho biết khoảng 10 tên khủng bố bịt mặt mặc đồ đen mang dao kiếm đã tràn vào nhà ga xe lửa ở Côn Minh, tỉnh Vân Nam và bắt đầu chém giết hành khách đang chờ tàu ở đó. Anh cũng cho biết những người chạy chậm đã bị đốn hạ bằng dao. Một số người khác thoát khỏi vụ tấn công nhưng lại lạc mất người thân. Ông Yang bàng hoàng kể lại: “Tôi thấy một tên cầm thanh kiếm dài tiến thẳng về phía mình, nên tôi vội vàng bỏ chạy cùng mọi người. Những người chậm chân đều trở thành nạn nhân của những nhát chém oan nghiệt. Họ cứ thế ngã vật xuống mặt đất.” Yang Ziqing thì cho biết, cô đã bị lạc mất chồng sau khi thấy một người đàn ông mặc áo đen, cầm dao đột nhiên xuất hiện trước họ “Tôi không thể tìm thấy chồng và điện thoại của anh ấy không trả lời”, cô cho hay. Tờ China News Service dẫn lời các nhân chứng cho biết “một nhóm nam giới mang vũ khí đã xông vào khu mua sắm của ga tàu và khu mua vé, đâm bất kỳ ai chúng thấy”. Một nhân chứng nói với tờ Beijing News, cô đã nhìn thấy 2 phụ nữ mặc đồ đen đi về phía nhà ga và một số kẻ tấn công đã che mặt, chúng đâm chém một cách bừa bãi. Hiện trường vụ tấn công. Ảnh Reuters Tân Hoa Xã tuyên bố vụ tấn công “là cuộc khủng bố có tổ chức và được lên kế hoạch từ trước”. Đến nay vẫn chưa công bố động cơ vụ tấn công. Bộ trưởng Công an Mạnh Kiến Trụ đã tới hiện trường ngay trong đêm. 5 kẻ tấn công bị cảnh sát bắn chết tại chỗ. Lực lượng an ninh đang truy lùng những tên còn lại. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình kêu gọi "nỗ lực hết mình" trong cuộc điều tra và những kẻ tấn công phải bị "trừng trị theo pháp luật". Theo BBC, hình ảnh được đăng tải lên mạng xã hội Trung Quốc cho thấy đàn ông và phụ nữ nằm trên những vũng máu trên sàn nhà sau vụ tấn công. Nhà chức trách phong tỏa một vùng rộng quanh nhà ga. Cảnh sát đang lấy lời khai mọi người trong khu vực. Ban quản lý nhà ga Côn Minh cho biết, tình hình đã ổn định trở lại và các chuyến tàu khởi hành từ nhà ga này không bị ảnh hưởng bởi vụ việc trên. Những người bị thương đã được đưa vào bệnh viện trong khi cảnh sát phòng tỏa hiện trường xảy ra vụ bạo lực để tiếp tục điều tra. Thủ phạm vụ tấn công này sẽ bị khởi tố tội danh khủng bố theo luật pháp Trung Quốc. Một vụ tấn công hồi tháng 10 năm ngoái ở Bắc Kinh, với sự tham gia của 3 người trong một gia đình người Ngô Duy Nhĩ đã khiến họ và 2 người khác thiệt mạng. Họ đã táo tợn cho lao xe vào Quảng trường Thiên An Môn. Thái An (tổng hợp)
  9. Về Lý học, Việt Nam chỉ cần cầm cự qua tháng 4 Việt lịch là an toàn. Còn chắc ăn thì đến hết tháng Bảy Việt lịch. Tuy nhiên, những vùng miền quốc gia khác trên thế giới khó tránh khỏi một sự khủng hoảng về dịch bệnh.
  10. Chấn động phát hiện 120 bài báo khoa học giả Thứ Sáu, 28/02/2014 15:25 (NLĐO) - Nhà xuất bản tạp chí khoa học Springer và IEEE (Viện kỹ sư điện và điện tử) cho biết sẽ gỡ bỏ 120 bài báo khoa học sau khi một nhà nghiên cứu người Pháp phát hiện ra những tác giả của bài báo sử dụng phần mềm máy tính viết ra thay vì nghiên cứu thật sự. Các bài báo về nghiên cứu khoa học được tạo ra từ phần mềm máy tính Vụ việc xấu hổ trong giới khoa học này lộ ra nhờ sự phát hiện của nhà khoa học máy tính người Pháp Cyril Labbé (41 tuổi) của ĐH Joseph Fourier, Grenoble. Ông đã phát triển được 1 phương pháp dò tự động những bài viết được soạn bởi phần mềm chuyên chắp vá những từ ngữ, câu văn, đoạn văn lấy một cách ngẫu nhiên từ những bài báo khác có tên là SCIgen. Phần mềm này được phát minh vào năm 2005 bởi 3 sinh viên tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) ở Cambridge. Vào tháng 4-2010, Labbé đã thử sử dụng SCIgen để tạo ra một tác giả ảo có tên Ike Antkare với 102 bài báo để thêm vào cơ sở dữ liệu của Google Scholar. Sau một thời gian, cái tên Ike Antkare đã được xếp ở vị trí 21 trong danh sách các nhà khoa học được trích dẫn nhiều nhất trên thế giới, trong khi Einstein chỉ xếp ở vị trí 36. Trong hơn hai năm qua, nhà khoa học Pháp này đã tìm ra 16 bài báo “rởm” được công bố trên Tạp chí Springer có trụ sở ở Heifelberg (Đức) và hơn 100 bài đăng trên IEEE có trụ sở tại New York (Mỹ) từ năm 2008 đến năm 2013. Theo ông Labbé, hầu hết những hội nghị đều diễn ra ở Trung Quốc và hầu hết những bài báo giả đều có tác giả người Trung Quốc. Monika Stickel - Giám đốc truyền thông của IEEE - cho biết nhà xuất bản này đã gỡ bỏ ngay lập tức các bài báo "vô nghĩa" trên và trong tương lai sẽ sử dụng quy trình của Labbé để ngăn chặn các bài báo tương tự không đủ tiêu chuẩn xuất bản. Phía Springer cũng đã liên hệ với phía biên tập và tác giả để giải quyết các vấn đề liên quan để gỡ bỏ những bài báo không đạt chất lượng. H.Trang (Theo Nature, The Guardian). ==============================- Từ lâu, trong chuyên mục "Lời tiên tri" Lão Gàn đã dự báo về khả năng của trí tuệ nhận tạo. Và năm đó (Không nhớ rõ năm nào,cách đây khoảng 4 hay 5 năm gì đó), đã được chứng nghiệm là người ta đã phát minh ra robot bác học chuyên ngành. Qua đó cho thấy rằng: Tư duy khoa học thật sự phải là sự sáng tạo, chứ không thể là sự tích hợp những kiến thức có sẵn và không có gì mới. Nếu không có sự sáng tạo thì có thể thay thế giáo sư, tiến sĩ bằng những robot loại này. Có thể robot giáo sư mắc tiền hơn một tý.
  11. Truyền thông Trung Quốc ví Đại sứ Mỹ như ‘trái chuối’ 01/03/2014 17:40 (TNO) Hãng thông tấn nhà nước China News Service (CNS), đứng thứ hai sau Tân Hoa xã, có một bài xã luận miệt thị Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc Gary Locke vừa thôi chức, rời khỏi Trung Quốc vào ngày 1.3. Bài xã luận CNS ví ông Locke (64 tuổi) như một “trái chuối” và "chó dẫn đường". Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc Gary Locke phát biểu trong buổi họp báo “chia tay” tại Bắc Kinh ngày 27.2 - Ảnh: AFP “Ông ta là một trái chuối với da màu vàng và trái tim màu trắng”, CNS miệt thị nguồn gốc ông Locke vốn là người Mỹ gốc Trung Quốc, theo AFP ngày 1.3. CNS cho rằng Mỹ dùng chiêu bài đưa ông Locke đến Trung Quốc để được nhiều người Trung Quốc ủng hộ trong khi tìm cách gây rối trong khu vực. “Nhưng lớp ‘vỏ màu vàng’ của các trái chuối sẽ thối rửa, để lộ ra ‘lõi trắng’ bên trong nhưng rồi cũng sẽ chuyển sang lõi màu đen thối rữa”, theo CNS. Ông Locke vốn được xem là người đi tiên phong khi lên tiếng nói về tình hình bầu không khí Trung Quốc ô nhiễm nghiêm trọng chứa đầy các hạt bụi PM 2.5, khiến dư luận Trung Quốc chú ý và giúp người dân Trung Quốc tăng cường ý thức vấn đề ô nhiễm không khí. Tuy nhiên, bài xã luận CNS cho rằng bởi vì Locke đến, nên Bắc Kinh có sương khói mù mịt. CNS còn chỉ trích ông Locke có lối sống xa xỉ với nhà ở trị giá nhiều triệu USD và đi lại trong chiếc xe chống đạn đắt đỏ. Ngoài ra, CNS còn ví ông Locke như “một con chó dẫn đường” cho luật sư khiếm thị Trần Quang Thành cùng vợ con lên máy bay rời Trung Quốc đến Mỹ hồi năm 2012. Luật sư Trần bị quản thúc tại gia ở làng Đông Sư Cổ, tỉnh Sơn Đông, đã trốn khỏi nhà, chạy đến Đại sứ quán Mỹ ẩn náu, sau đó chuyển đến điều trị tại một bệnh viện ở Bắc Kinh, trước khi lên đường sang Mỹ. Theo AFP, nhiều cư dân mạng xã hội Trung Quốc đã lên tiếng chỉ trích bài xã luận CNS và lên tiếng bảo vệ ông Locke. Trong buổi họp báo tạm biệt ngày 27.2 trước khi rời khỏi Trung Quốc, ông Locke nhấn mạnh vai trò của Đại sứ quán Mỹ trong việc tăng cường ý thức người dân Trung Quốc về vấn đề chất lượng không khí và các vấn đề khác. Cũng buổi họp báo này, ông Locke kêu gọi Trung Quốc và Nhật Bản phải xoa dịu căng thẳng trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ ở biển Hoa Đông để tránh “những hậu quả nghiêm trọng khôn lường”. Nữ phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh trong tuần này cho rằng ông Locke đã “có nhiều đóng góp tích cực cho sự hợp tác giữa Trung Quốc và Mỹ”. Ông Locke hồi tháng 11.2013 tuyên bố sẽ từ chức vào đầu năm 2014 vì những lý do cá nhân. Theo Reuters, sau khi ông Locke rời khỏi Trung Quốc vào ngày 1.3, Thượng nghị sĩ Mỹ Max Baucus sẽ thay thế vị trí Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc. Phúc Duy ============== "Củ chuối" thật!
  12. Gia Lai Chữa cháy lớn, xe cứu hỏa cũng... bốc cháy Thứ Bẩy, 01/03/2014 - 12:59 (Dân trí) - Khoảng 11h15’ ngày 1/3, lửa đã bùng lên tại xưởng gỗ của Công ty Việt Gia (548 Lê Thánh Tôn, TP Pleiku, Gia Lai), do lửa cháy quá lớn nên một xe cứu hỏa cũng đã bốc cháy. Theo thông tin ban đầu, vào thời điểm trên, những công nhân trong xưởng gỗ đã đóng cửa để đi ăn cơm, một lúc sau, người dân sống gần khu vực xưởng gỗ phát hiện cháy và gọi điện đến lực lượng PCCC- Công an tỉnh Gia Lai để báo tin. Nhận được tin, ngay lập tức đơn vị PCCC đã nhanh chóng có mặt tại hiện trường vụ việc để chữa cháy. Tuy nhiên, do trong xưởng tinh chế gỗ có rất nhiều gỗ, mùn và sơn cộng với thời tiết nắng to, gió lớn nên lửa bùng cháy rất lớn. Trong lúc chữa cháy, một xe cứu hỏa trong 6 xe của Công an cũng đã bốc cháy theo. Lực lượng chữa cháy đang dốc sức cứu hỏa Tính đến thời điểm hơn 12h trưa cùng ngày, đám cháy vẫn còn rất lớn và chưa thể khống chế. Rất may, sát cạnh khu vực cháy không có nhà dân nào nên không bị ảnh hưởng, và do lúc sự việc xảy ra công nhân đã nghỉ trưa nên chưa phát hiện thiệt hại về người. Chiếc xe cứu hỏa cũng bị bốc cháy nhẹ Thiệt hại ban đầu ước tính lên đến tiền tỷ. Hiện, đám cháy vẫn đang bùng phát rất lớn và khó có thể khống chế được. Đám cháy ngày càng cháy lớn Thiên Thư
  13. "Trí thì cao siêu,lễ thì khiêm hạ. Cao là bắt chước trời. Thấp là bắt chước đất".Tức là ngay cả những hình thái ý thức xã hôi - Lễ chẳng hạn - cũng thuận theo tự nhiên.
  14. Trường đầu tiên không có học sinh đăng ký thi tốt nghiệp Sử Thứ sáu, 28/2/2014 17:21 GMT+7 THPT dân lập Lương Thế Vinh có 75,6% học sinh đăng ký thi tốt nghiệp môn Lý, hơn 56% thi Tiếng Anh, 0% đăng ký thi Sử. PGS Văn Như Cương, hiệu trưởng trường THPT dân lập Lương Thế Vinh vừa công bố tỷ lệ học sinh đăng ký môn thi tốt nghiệp tự chọn. Theo đó, Lý 75,6%, Tiếng Anh 56,3%, Hóa 50,8%, Địa 11,4%, Sinh 5,3% và Sử 0%. "Tôi rất buồn khi Bộ đề ra chủ trương cho học sinh tự chọn môn thi. Họ đã không suy xét được hậu quả sẽ như thế nào. Tôi được biết, nhiều trường khác cũng không có học sinh nào đăng ký dự thi môn Sử", thầy Cương nói. Dự đoán tỷ lệ đăng ký thi tốt nghiệp môn Sử năm nay sẽ rất thấp. Ảnh: HH. Giải thích về việc tại sao học sinh trường mình không chọn Sử, vị giáo già cho biết, nguyện vọng của các em khi vào trường là thi đại học khối A, D. Dù học đều và những năm trước thi Sử với kết quả khá nhưng Sử không phải là môn trọng tâm khi thi đại học nên bị bỏ qua - nghĩa là không phải do học sinh ghét Sử, mà do so sánh thì những môn khác có lợi hơn. Sử thi 90 phút tự luận, sẽ mệt mỏi và khó lấy điểm hơn những môn khác. "Nếu cả nước chỉ dưới 1% học sinh đăng ký thi Sử thì vô tình môn Sử lại bị giáng một đòn chí mạng", thầy Cương nhận định. Trước đó, thầy Văn Như Cương đã dự đoán với phương án thi năm nay tỷ lệ đỗ tốt nghiệp có thể lên tới 99,9%. Nguyên nhân là do năm ngoái thi 6 môn bắt buộc (ba môn cố định, ba môn biết trước 2 tháng) thì năm nay chỉ thi 4 môn, trong đó hai môn bắt buộc, hai môn tự chọn tùy thích trong 6 môn còn lại. Như vậy áp lực lên học sinh giảm đi rất nhiều. Năm trước, nếu trung bình một môn thi dưới 5 điểm (4,9 chẳng hạn) thì học sinh chắc chắn trượt, không có cách gì cứu. Năm nay học sinh có một cái phao cứu to đùng: đó là điểm tổng kết lớp 12. Công thức để xác định điểm tốt nghiệp là lấy điểm trung bình môn thi cộng với điểm tổng kết cuối năm lớp 12, rồi chia cho 2. Vậy, nếu em A chỉ được trung bình môn thi là 4 điểm, nhưng điểm lớp 12 là 6 thì vẫn tốt nghiệp đàng hoàng vì (4+6):2 = 5. Thực tế, để có điểm 6 của lớp 12 là chuyện rất dễ. Hoàng Thùy ============================Tôi không đưa bài sai chủ đề. Tôi giới thiệu một hệ quả liên quan đến môn sử.
  15. Ăn mày là ai?Ăn mày là ta. Đói cơm, rách áo thì ra ăn mày. Ấy là các cụ nhà ta bảo thế!
  16. KHÔNG HỀ CÓ CÁI GỌI LÀ " TỪ HÁN VIỆT" :.. Tác giả: HÀ VĂN THÙY Xuanduc.vn: Một bài viết về ngôn ngữ quá đặc biệt xuất sắc. Xin đăng để biếu bạn đọc Trúc Sơn Trang món quà năm mới. Trên trang mạng Bách Việt, ông Trần Kinh Nghị có bài "Di sản Hán Việt"*. Sau khi nhận định: quãng trên dưới 70-80 % từ vựng tiếng Việt có thành tố Hán-Việt, ông cho rằng "nếu vì một lý do nào đó mà để ngôn ngữ nước mình bị một ngôn ngữ khác lấn át và tình trạng lấn át kéo dài chắc chắn sẽ dẫn đến nguy cơ bị đồng hóa hoặc thoái hóa." Kết thúc bài viết, ông đề nghị Nhà nước có biện pháp hạn chế việc dùng từ Hán Việt để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Đồng cảm với nỗi bức thúc của ông nhưng nhận thấy đây là vấn đề lớn và không hề đơn giản, chúng tôi xin thưa lại đôi lời. I. Có đúng tiếng Việt vay mượn từ ngôn ngữ Hán? Muốn giải quyết thỏa đáng chuyện này, không còn cách nào khác là phải đi tới tận cùng cội nguồn ngôn ngữ, không chỉ của người Việt mà cả của người Trung Hoa. Nửa sau thế kỷ XIX, ngay khi chưa đặt xong ách đô hộ trên toàn cõi Vệt Nam, những học giả người Pháp đã có mặt để nghiên cứu thiên nhiên, con người, văn hóa, xã hội xứ Annam. Từ kết quả nghiên cứu, năm 1898, nhà nước bảo hộ Pháp cho thành lập Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội. Đứng đầu lĩnh vực khoa học nhân văn là những nhà Hán học như E. Aymonier, L. Maspéro... Là học giả phương Tây, họ mang quan niệm Âu trung: châu Âu là trung tâm của văn minh nhân loại. Là nhà Hán học, họ theo thuyết Hoa tâm: Trung Hoa là trung tâm của châu Á. Họ cũng chịu ảnh hưởng của tri thức sai lầm đương thời cho rằng, con người từ Tây Tạng xâm nhập Trung Quốc rồi sau đó xuống Việt Nam và Đông Nam Á nên ánh sáng văn minh cũng từ Trung Hoa lan tỏa tới phương Nam. Khi nghiên cứu tiếng nói của người Việt Nam, họ có trong tay những bộ từ điển Trung Hoa đồ sộ như Từ Hải, Tứ khố toàn thư, Khang Hy... Trong khi đó, tiếng Việt chỉ có Từ điển Việt-Bồ-La của Alexander de Rhodes cùng Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, hai cuốn sách nhỏ, tập hợp từ ngữ Việt chữ Latinh mới có khoảng 300 tuổi. Bằng thao tác đơn giản là thống kê, so sánh những từ được cho là gốc Hán có trong tiếng Việt, họ eureka: "Tiếng Việt mượn khoảng 70% từ Hán ngữ!" Sự thật có đúng như vậy không? Vào năm 1898, H. Frey, một đại tá người Pháp, từng công tác ở Tây Phi sau đó có mặt ở Việt Nam, đã xuất bản cuốn Tiếng Annam, mẹ của các ngữ (L'Annamite, mère des langues): Tiếng Annam, xuất xứ của các ngôn ngữ: Cộng đồng các chủng tộc Xentơ, Xémit, Xuđăng và Đông Dương. Bằng kinh nghiệm ở Châu lục đen, nhà ngữ học chân thực này cho rằng tiếng Việt gần gũi với tiếng các sắc dân châu Phi và là nguồn cội của mọi ngôn ngữ phương Đông. Tiếp đó ông còn cho ra hai cuốn khác khẳng định quan điểm của mình. Tuy nhiên, các viện sĩ của Viễn Đông Bác Cổ "không thèm chấp" gã tay ngang võ biền. Không chỉ vậy, vào năm 1937-1938 còn có cuộc tranh luận giữa nhà ngữ học trẻ người Ba Lan Prilusky với viện sĩ Maspéro. Từ khảo cứu của mình, Prilusky phát triển quan điểm của H. Frey nhưng kết cục phần thắng thuộc về bậc lão làng! Kết luận của Viện Viễn Đông Bác Cổ dáng đòn hủy diệt không chỉ vào văn hóa mà cả vào tương lai dân tộc Việt Nam! Do ngón đòn ác hiểm này mà sau đó, khi phân loại ngôn ngữ phương Đông, đề xuất một họ ngôn ngữ Annam bị bãi bỏ do "không xứng đáng vì vay mượn quá nhiều từ nước ngoài!" Thay vào đó là họ ngôn ngữ mang cái tên không tiêu biểu: ngôn ngữ Mon-Khmer. Kết quả là cho đến nay, trong sách giao khoa ngôn ngữ của nhiều đại học hàng đầu thế giới vẫn viết "Tiếng Việt vay mượn khoảng 60% từ ngôn ngữ Trung Hoa (!)" Dù sao thì cũng được an ủi phần nào vì 60% ít hơn con số chúng ta tự nhận! Điều khủng khiếp nhất là, vào thập niên 1920, các học giả tiên phong người Việt như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố... tiếp nhận tri thức sai lầm đó, dạy cho con dân Việt. Ý tưởng tiếng Việt vay mượn tiếng Hán như cỏ dại lan rộng trên cánh đồng tư tưởng, thấm tới toàn bộ người có học Việt Nam hiện nay! Gần suốt thế kỷ, học giả Việt không một lời cãi lại. Ở thập niên 80, trong công trình ngữ học công phu Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nguyễn Tài Cẩn "khám phá": ngoài cái gọi là "từ Hán Việt", trong tiếng Việt còn lớp từ Hán cổ và lớp từ Hán Việt Việt hóa (1). Không đưa ra con số thống kê nhưng với hai lớp từ được bổ sung đó, có lẽ tỷ trọng vay mượn của tiếng Việt còn tăng lên gấp bội! Nhưng dù sao, đấy chỉ là tính toán của nhà bác học, còn với người dân Việt, ít người tin, chỉ vì lý do đơn giản: một dân tộc vay mượn đến bằng nấy tiếng nước ngoài không thể là dân tộc trưởng thành, chắc chắn đã bị đồng hóa sau nghìn năm nô lệ! Năm 2006, từ nghiên cứu của mình, chúng tôi công bố bài viết Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa (2). Rất may là ý tưởng "điên rồ" đó chẳng những không bị ném đá mà còn không rơi vào im lặng. Ít lâu sau, từ Sacramento nước Mỹ, nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thành gửi cho chúng tôi những bài viết chấn động: Phát hiện lại Việt Nhân ca, Phục nguyên Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn, Đi tìm nguồn gốc chữ Nôm...(3) trong đó dẫn ra hàng nghìn bằng chứng không thể phản bác cho thấy, tiếng nói nguyên thủy của người Trung Hoa là tiếng Việt. Người bạn Việt Triều Châu của tôi khẳng định: "Tất cả các chữ tượng hình được làm ra là để ký âm tiếng Việt. Vì vậy, mọi chữ vuông chỉ khi đọc và giải nghĩa bằng tiếng Việt mới chính xác!" Một sự ủng hộ vô giá! Càng may hơn là đầu năm 2012, chúng tôi nhận được tin: Hội nghiên cứu văn hóa Lạc Việt tỉnh Quảng Tây Trung Quốc phát hiện chữ Việt cổ khắc trên xẻng đá, giống với chữ Giáp cốt (4)! Từ những nguồn tư liệu phong phú và vững chắc, chúng tôi nhanh chóng hoàn thành bài viết: Chữ Việt là chủ thể tạo nên chữ viết Trung Hoa (5)! Như vậy, sang thế kỷ này, nhờ tiến bộ của khoa học thế giới, nhờ tấm lòng và công sức của cộng đồng người Việt, không những chúng ta xác định được người Việt có đa dạng di truyền cao nhất trong dân cư châu Á, có nghĩa, Việt Nam là cái nôi của các dân tộc phương Đông mà còn chứng minh được, tổ tiên ta để lại trên đất Trung Hoa không chỉ tiếng nói mà cả chữ viết. Chúng tôi hình dung quá trình hình thành tiếng nói và chữ viết trên đất Trung Hoa như sau: Nhiều dữ liệu khoa học cho thấy, 40.000 năm trước, người Việt cổ đã từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa. Tới 4000 năm TCN, người Việt đã xây dựng ở đây nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ do Hiên Viên dẫn đầu, vượt Hoàng Hà vào chiếm đất Việt, dựng vương triều Hoàng Đế. Trong vương quốc Hoàng Đế, người Mông Cổ hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ. Người Hoa Hạ bú sữa mẹ Việt, học tiếng nói Việt. Do ngôn ngữ Mông Cổ nghèo nên tiếng Việt thành chủ thể của tiếng nói vương triều. Cùng với thời gian, người Hoa Hạ thay cha ông Mông Cổ lãnh đạo xã hội, đã áp đặt dân chúng nói theo cách nói Mông Cổ (Mongol parlance: tính từ đứng trước danh từ, hay như ta vẫn gọi là cách nói ngược.) Trên thực tế, ngôn ngữ của dân cư vương triều Hoàng Đế là tiếng Việt được nói theo văn phạm Mông Cổ. Sau này, nhà Tần, nhà Hán mở rộng lãnh thổ, ngôn ngữ tại các vùng bị kiêm tính cũng chuyển hóa theo cách tương tự. Do người Việt sống trên địa bàn rộng với thổ nhưỡng, khí hậu khác nhau, nên ngôn ngữ bị phân ly thành nhiều phương ngữ. Trong đó, tiếng nói vùng Quảng Đông (Việt Đông), Phúc Kiến (Mân Việt) là chuẩn mực nên được gọi là Nhã ngữ với ý nghĩa ngôn ngữ thanh nhã. Đời nhà Chu, rồi nhà Hán, triều đình khuyến khích nói theo Nhã ngữ. Vấn đề khác cũng cần minh định là ảnh hưởng của chữ viết tới sự hình thành ngôn ngữ phương Đông. Chữ tượng hình được phát hiện sớm nhất ở văn hóa Giả Hồ 9000 năm rồi ở văn hóa Bán Pha tỉnh Sơn Tây 6000 năm trước. Khảo cổ học cũng cho thấy, khoảng 4000-6000 năm cách nay, chữ tượng hình được khắc trên xẻng đá ở di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây. Chữ Lạc Việt sau đó được đưa lên đồng bằng Trong Nguồn, bây giờ là Trung Nguyên, vốn là một trung tâm lớn của người Dương Việt, để khắc lên xương thú và yếm rùa, về sau được gọi là văn Giáp cốt. Chữ viết trên yếm rùa và xương thú là chữ đơn lập, không thể ghép vần. Tiếng Việt cổ vốn đa âm nên muốn được ký âm buộc phải đơn âm hóa. Do đó, tại trung tâm đầu não của người Việt, ít nhất là từ Quý Châu Quảng Tây tới Hà Nam, tiếng nói chuyển dần thành đơn âm. Một vấn đề khác nảy sinh: tiếng nói thì nhiều nhưng số chữ chế ra có hạn nên chỉ có những tiếng tiêu biểu mới được ký tự. Do vậy, chữ tượng hình tập hợp được những tiếng nói tiêu biểu nhất của người Việt. Đây là quá trình độc lập, diễn ra trong cộng đồng Việt mà người Hoa Hạ từ thời Hoàng Đế tới giữa đời Thương không biết. Khi vua Bàn Canh chiếm đất Hà Nam, lập nhà Ân (1384 TCN), mới biết chữ Giáp cốt của người Dương Việt. Với nhà nước được tổ chức tốt, Bàn Canh đã tiếp thu và cải tiến chữ của người Việt để ghi việc bói toán, cúng tế cùng địa lý, lịch sử (5). Trong triều đình nhà Ân, những "họa sư"- người vẽ chữ, "bốc sư"- thày bói, người Việt, được "lưu dụng" làm công việc này. Thay nhà Thương, nhà Chu chuyển sang viết chữ trên thẻ tre, trên lụa, cũng sử dụng nhiều ông thầy người Việt. Nhà Tần vốn là bộ lạc người Việt, khi dựng nước đã thể chế chữ Giáp cốt thành chữ Triện tồn tại tới nay. Như vây, có thể nói, không chỉ sáng tạo ra chữ Giáp cốt mà người Việt còn tích cực góp phần cải tiến, hoàn thiện chữ viết. Do đó quá trình đơn âm hóa tiếng nói được đẩy mạnh. Sau đời Hán, Trung Quốc loạn lạc, nhiều triệu người thiểu số phía Tây thâm nhập, khiến cho tiếng nói bị pha tạp, theo hướng tăng cường giọng điệu du mục. Tiếng nói của cư dân trong vương triều thay đổi, dẫn tới việc người trong nước không hiểu được nhau. Để khắc phục, các vương triều dùng tiếng nói của kinh đô làm chuẩn mực giao tiếp của triều đình: quan thoại ra đời. Nhà Đường lấy tiếng nói của kinh đô Tràng An làm tiếng nói chính thức, được gọi là Đường âm. Đường âm là tiếng Việt được người Tràng An nói thời nhà Đường. Đấy là bộ phận tinh hoa của tiếng Việt được ký tự bằng chữ vuông. Đường âm được mang sang dạy và giao dịch ở Việt Nam. Khi giành được quyền tự chủ, nước ta thoát ách đô hộ của phương Bắc về chính trị, kinh tế, văn hóa. Tuy nhiên, văn tự tượng hình vẫn là chữ viết chính thống và Đường âm được duy trì dưới tên gọi là chữ Nho, chữ Thánh hiền. Trong khi đó, quan thoại của Trung Hoa biến cải theo sự thay đổi của vương triều và kinh đô. Tới giữa thế kỷ trước, tiếng Bắc Kinh là tiếng nói chính thống của Trung Hoa, chỉ được số lượng nhỏ người dùng. Nhà Mãn Thanh rồi chính quyền Quốc dân đảng không làm nổi việc thống nhất ngôn ngữ. Chỉ tới năm 1958, sau gần 20 năm nhà nước Trung Hoa nỗ lực thực hiện cuộc đồng hóa khốc liệt, tiếng Bặc Kinh mới được phủ sóng trên phần lớn lãnh thổ. Tuy nhiên, tới nay trong vùng Nam Dương Tử vẫn có khoảng 20% từ địa phương, truyền miệng trong dân gian mà không được ký tự. Một vấn đề từ lâu được đặt ra: chữ Nho xuất hiện ở nước ta từ bao giờ? Chưa ai xác định được ! Chúng tôi không biết, hàng nghìn năm trong nước Văn Lang, vùng đất bây giờ là Việt Nam, chỉ cách Cảm Tang, Quý Châu khoảng 150 km, có sử dụng chữ tượng hình? Nhưng biết chắc, bộ lạc Thủy, di duệ của người Lạc Việt ở Quảng Tây, từ thời Tần Hán trốn vào rừng, bị thiểu số hóa, vẫn giữ được sách cổ ghi bằng chữ Thủy, tương tự Giáp cốt văn của tổ tiên Bách Việt, gọi là Thủy thư (5). Nay được coi là văn tự hóa thạch sống, một bảo vật văn hóa nhân loại. Một điều chắc chắn khác là, muộn nhất, chữ Nho có mặt ở nước ta thời Triệu Vũ Đế. Việc khám phá lăng mộ Triệu Văn Đế ở Quảng Châu với rất nhiều di vật khắc chữ Nho chứng tỏ điều này. Chắc chắn rằng, trong 100 năm xây dựng và bảo vệ Nam Việt, nhà Triệu đã dùng chữ Nho trong hành chính, luật pháp và dạy học. Vì vậy, khi sang nước ta, Mã Viện phát hiện "Luật Giao Chỉ có tới 10 điều khác luật nhà Hán"(6). Có phần chắc là luật Việt được viết bằng chữ Nho. Chúng tôi cũng nghĩ rằng, muộn nhất, tiếng Việt vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ, được đơn âm hóa từ thời nhà Triệu. Và cùng với việc phổ biến chữ Nho, tiếng Kinh ngày càng trở nên đơn âm. Một câu hỏi: khi sang nước ta, người của Triệu Đà rồi quan quân nhà Hán nói tiếng gi? Sử ký viết, "Đà giết trưởng lại người Tần rồi đưa người của mình lên thay." Triệu là một tiểu quốc của người Việt, nên Triệu Đà và tâm phúc của ông là người Việt (7). Xuống Giang Nam, người của ông gặp tiếng Việt Quảng Đông, Mân Việt, thứ tiếng Việt thanh nhã chuẩn mực. Thời Hán cũng tương tự, vì ngoài một số không nhiều quan cao cấp người phương Bắc thì tới nước ta phần lớn là người Giang Nam. Họ là người Việt, cho dù có nói ngược theo cách nói Hoa Hạ thì vẫn là tiếng Việt. Vì lẽ đó, rất có thể hai bên gần như hiểu được nhau. Vì vậy, việc học chữ Nho khá dễ dàng. Về sau, qua mỗi thời đại, tiếng của quan quân phương Bắc lại khác đi. Đến thời Đường, tiếng nói của kinh đô Tràng An được dùng làm quan thoại. Thực chất, đó là tiếng Việt ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường. Điều này cho thấy một bộ phận tiếng Việt trải qua quá trình biến đổi dài từ đa âm, không thanh điệu, tới đây đã thành đơn âm và sáu thanh. Có lẽ, tiếng nói của bộ phận cư dân mà sau này là người Kinh cũng được chuyển hóa như vậy? Sau thời Đường, nước ta độc lập, chữ Nho trở thành quốc ngữ. Theo dòng thời cuộc, tiếng nói của người Trung Hoa thay đổi, ngày càng xa gốc Việt. Chẳng những người Việt không hiểu tiếng người phương Bắc mà người Trung Quốc cũng không còn nói được Đường âm. Di sản vô giá thơ Đường chỉ còn người Việt Nam thưởng thức trong âm điệu tuyệt vời. Từ phân tích trên chứng tỏ rằng, tiếng Việt không những không vay mượn mà trái lại, còn là gốc gác, là mẹ đẻ của ngôn ngữ Trung Hoa. Cái mà nay người ta quen gọi là "từ Hán Việt" là sự lầm lẫn lớn bởi chưa hiểu cội nguồn sinh học cũng như văn hóa dân tộc, trong đó có quá trình hình thành tiếng nói và chữ viết. II. Vai trò của lớp từ Việt cổ trong văn hóa dân tộc Như đã nói ở trên, tiếng thì nhiều nhưng chữ làm ra quá ít nên tổ tiên ta bắt buộc phải chọn thật kỹ những tiếng cần ký tự. Đó là những tiếng có nội dung sâu sắc, hàm chứa ý nghĩa uyên thâm, mà sau này được gọi là ngôn ngữ hàn lâm. Dù có áp dụng cách tạo từ đồng âm dị nghĩa thì cũng còn vô số tiếng không được ký âm vì không đủ chữ. Ở phía bắc Trung Hoa, dần dần những tiếng không được ký tự bị mai một. Trong khi đó, ở miền nam, chúng trở thành từ địa phương, được truyền miệng trong dân gian. Ở Việt Nam tình hình tương tự. Khi làm chủ đất nước, người Việt thấy quá nhiều tiếng không có chữ, nên vào đời Trần đã mô phỏng chữ Nho để tạo ra chữ Nôm. Tuy nhiên, vì nhiều lẽ, chữ Nôm không được coi là văn tự chính thức. Mọi giao dịch hành chính đều phải dùng chữ Nho, nên nhiều địa danh phải chuyển sang chữ Nho, việc làm bất khả kháng ngày xưa khiến nay nhiều người bức thúc. Một vấn đề cũng cần bàn cho ra lẽ, đó là tìm tên gọi xác đáng cho lớp từ đặc biệt này. Thoạt kỳ thủy, nó là Đường âm. Tới lúc nào đó được gọi là chữ Nho. Ở miền Nam cho tới năm 1975, gọi là cổ văn. Vào thập niên 1960, các học giả miền Bắc gọi là "từ Hán Việt". Một thời gian dài nửa thế kỷ ta chấp nhận tên gọi đó vì tưởng rằng hợp lý. Nhưng bản thân khái niệm "từ Hán Việt" lại mâu thuẫn và vô nghĩa. Thuật ngữ này hàm ý: chữ của Hán, còn cách đọc của Việt, ghép lại thành "từ Hán Việt." Nhưng như phát hiện của Nguyễn Tài Cẩn, cách đọc đó chính là tiếng nói ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường! Như vậy, theo cách hiểu hiện nay, cả chữ viết và cách đọc đều của người Hán, nên không thể là "từ Hán Việt!". Nay ta thấy không thể tiếp tục dùng thuật ngữ sai lầm cũ. Nhưng dùng tên nào thích hợp hơn? Đường âm là đúng nhưng bây giờ không thể trở lại tên gọi này vì đó là sản phẩm của một thời điểm lịch sử. Tiếng Hán không đúng vì đó không phải là tiếng nói thời nhà Hán, càng không phải tiếng nói của người Trung Hoa hôm nay. Có lẽ tên gọi chữ Nho phù hợp hơn cả, vì nó có nghĩa là chữ của nhà nho, sâu xa hơn, như phát hiện của triết gia Kim Định, là sản phẩm của văn hóa Việt nho nguồn cội. Sở dĩ gọi là "từ Hán Việt" vì người ta lầm tưởng đó là sản phẩm vừa của Hán vừa của Việt. Tuy nhiên cách hiểu như thế vừa không chính xác vừa gây phản cảm, đè nặng lên tâm trí chúng ta một cảm giác lệ thuộc bên ngoài. Thực chất, đó không phải "từ Hán Việt" mà là tiếng Việt cổ. Khác với nhiều ngữ khác, tiếng cổ là tử ngữ, thì trong ngôn ngữ Việt, tiếng Việt cổ vô cùng sống động. Lý do nó trở thành cổ ngữ là vì lịch sử dân tộc có biến động lớn, chữ Nho bị bãi bỏ để thay bằng thứ chữ viết khác. Mấy trăm năm trước, khi chuyển giao chữ La Tinh quốc ngữ cho chúng ta, một học giả phương Tây từng nói đại ý: Chúng ta trao cho người Annam một thứ chữ dễ học, giúp họ nhanh chóng bắt kịp đà văn minh. Nhưng chắc chắn nó sẽ làm cho thế hệ tương lai của họ cắt đứt với nguồn cội. Hôm nay, lời cảnh báo đó đã trở thành hiện thực với toàn bộ nền văn hóa Việt. Về ngôn ngữ thì đó là lớp lớp người Việt không hiểu tiếng nói của tổ tiên, như tác giả Trần Kinh Nghị than phiền. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần nhìn nhận lại gia sản quý giá này để sử dụng tốt nhất. III. Kết luận Hàng ngàn năm nay do ngộ nhận nên ta cho rằng, bộ phận tinh hoa, quan trọng nhất của tiếng Việt là đồ vay mượn! Sự lầm lẫn này đã tạo nên nỗi đau ngàn năm khi ta vừa căm ghét một công cụ mà trong quá khứ kẻ thù dùng để đồng hóa, nô lệ mình lại vừa không thể chối bỏ! Không thể không dùng nhưng rồi mỗi khi dùng lại day dứt nỗi niềm cay đắng mặc cảm vay mượn! Nay chúng ta phát hiện ra sự thật: không hề có cái gọi là "Từ Hán Việt"! Đó chính là chữ Việt, tiếng Việt được tổ tiên ta sáng tạo trong quá khứ. Việc khẳng định bản quyền tiếng Việt cổ là khám phá có ý nghĩa đặc biệt, nó giúp ta tự tin, làm chủ tài sản vô giá của dân tộc. Vấn đề hiện nay là tuyên truyền để mọi người cùng hiểu. Công việc quan trọng khác là nghiên cứu sử dụng vốn tài sản này, làm phong phú ngôn ngữ, góp phần xây dựng văn hóa dân tộc. Cái to nhất ngăn trở ta dám nhận lại tài sản vô giá này là thói nô lệ, thói tự kỷ ám thị nặng nề khiến ta vô thức đẩy nhiều di sản quý báu của tổ tiên cho người ngoài để rồi cúc cung làm chú học trò ngu ngơ, bị đè bẹp dưới cái bóng hoang tưởng! Một khi nhận ra chủ quyền, ta sẽ làm gì với tài sản vô giá này? Nhiều người đã hiểu cơ sự nên kiến nghị khôi phục việc học chữ Nho. Đấy là việc không thể không làm. Trước hết vì giá trị lớn lao của chữ Nho. Tính triết lý sâu xa, ý nghĩa thâm thúy của nó khác với bất cứ chữ viết nào, giúp người học rèn trí thông minh, luyện tư duy... Chỉ điều này mới giúp chúng ta tiếp nối với truyền thống, tránh được mối nguy mất gốc như học giả nước ngoài cảnh báo mấy trăm năm trước. Đó là việc cần chủ trương và kế hoạch lớn. Trước mắt, việc có thể làm ngay là, trong chương trình tiếng Việt phổ thông, nên bổ sung một số tiết giảng tiếng Việt cổ,nhằm giải nghĩa những từ thường dùng để học sinh hiểu và sử dụng đúng, đồng thời tập cho họ cách tra Từ điển tiếng Việt. Chúng tôi xin mạo muội đề nghị, cần một cuộc cách mạng loại bỏ thuật ngữ "từ Hán Việt" khỏi ngôn ngữ Việt để thay vào đó tên gọi đúng: tiếng Việt cổ! Đồng thời dùng lại thuật ngữ chữ Nho để gọi văn tự của tổ tiên mà xưa nay vẫn lầm tưởng là chữ nước ngoài. ================== *http://trankinhnghi....n-han-viet.html Madrak, 1. 12. 2013 - Tài liệu tham khảo: 1. Nguyễn Tài Cẩn - Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1979 2. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học, 2008. 3. Đỗ Ngọc Thành. Nhannamphi.com 4. Hà Văn Thùy. Chữ Việt chủ thể sáng tạo chữ viết Trung Hoa http://huc.edu.vn/ch...-Trung-Hoa.html 5. Lịch sử hình thành chữ viết Trung Hoa http://khoahocnet.co...viet-trung-hoa/ 6. Hậu Hán thư- Mã Viện truyện 7. Hà Văn Thùy - Nỗi bất an của lịch sử http://trannhuong.co...ua-lich-su.vhtm ================== Bài này có nhiều tư liệu xác đáng và lập luận chặt chẽ. Nhờ anh chị em quản trị viên đưa bài này ra ngoài trang chủ. Cá nhân tôi sẽ đưa bài này vào mục Lý học Đông phương. Bài này bác Thùy viết rất có lý. Cảm ơn bác Thùy. Từ lâu tôi cũng xác định rằng: Ngôn ngữ Việt là một loại ngôn ngữ rất cao cấp. Bằng chứng nó có thể dịch tất cả các ngôn ngữ của các dân tộc trên thế giới ra ngôn ngữ Việt. Còn các ngôn ngữ của cả thế giới khó thể dịch một cách hoàn hảo ngôn ngữ Việt ra ngôn ngữ của họ. Kể cả tiếng Anh hiện đại. Tất nhiên, ngôn ngữ Việt phải là sản phẩm của một nền văn minh rất cao cấp, nó mới có hệ quả là một hệ thống ngôn ngữ cao cấp của dân tộc Việt. Tính hệ thống, sự tương quan hợp lý trong cấu trúc ngôn ngữ Việt rất cao cấp, đến mức độ tự hệ thống ngôn ngữ Việt đã mang trong nội hàm cấu trúc của nó tính minh triết vượt trội. Điều này làm nhà nghiên cứu và là triết gia Phạm Công Thiên phải thốt lên: Đấy là xét một cách tổng quát. Đi vào chi tiết hơn một tí thì cái hệ thống ngôn ngữ mà người ta có thói quen gọi là "từ Hán Việt" trong tiếng Việt ấy có xuất xứ từ đâu? Nếu chỉ nhìn một cách cục bộ với "tư duy của những con ếch mô tả bầu trời qua cái miệng giếng của nó", thì người ta thấy rằng: Tất cả những từ gọi là Hán Việt ấy đều có ký tự chữ Hán kèm theo. Và thế là rất trực quan - rất có "cơ sở khoa học" - và được "giáo dục" từ hàng trăm năm trước vào bộ nhớ của cả những người có chức danh "giáo sư, tiến sĩ" . Và từ cái nền tảng tri thức được ghi trong bộ nhớ ấy - Phật giáo gọi là "tính chấp" - người ta sì ra những công trình nghiên cứu liên quan - có đóng dấu chức danh "giáo sư, tiến sĩ" - khiến càng ngày chân lý càng bị xóa mờ. Trên 30. 000 (Ba mươi ngàn) từ Hán Việt được thống kê (Lê Gia), trong khi đó chính người Trung Quốc - vào thập niên đầu thế kỷ XX - chỉ cần học 1000 (Một ngàn) chữ phổ thông để gọi là "biết đọc biết viết". Vậy tất cả những cái gọi là "Hệ thống từ Han Việt" đồ sộ với 30. 000 từ ấy - ai, tổ chức nào, nhà nước nào trong lịch sử cả Việt lẫn Hán, đã chuẩn hóa nó bằng tiếng Việt và phổ biến trong lịch sử đời sống Việt tộc? Xin lỗi! Chỉ để phố biến một thứ chữ của một vị tiến sĩ nào đó phát ngôn: Bánh "Dầy" trong tiếng Việt nên gọi là bánh "Giầy" - báo chí đăng tải tùm lùm - nhưng chẳng thấy ma nào viết là bánh "giầy" cả. Ngay cả bây giờ - thí dụ - Bộ Giáo Dục có yêu cầu cả nước phải viết "bánh Dầy" là "bánh giầy" thì nó cũng phi logich vì tính cấu trúc bất hợp lý giữa khái niệm "giầy" và "dầy" trong mối liên hệ có tính hệ thống tương quan những khái niệm trong ngôn ngữ Việt về sự mô tả cái bánh dầy và cái giầy trong ngôn ngữ Việt. Huống chi là trên 30. 000 từ gọi là Hán Việt phổ biến ấy - được phát âm bằng tiếng Việt phi Hán - mà người ta cứ tưởng nó dễ như việc ngủ với con mẹ hàng xóm góa chồng. Bác Thùy đã dẫn chứng những tư liệu và luận cứ thích hợp để chỉ ra cho những nhận thức trực quan, nhận thấy được bản chất của vấn đế. Tính minh triết thực sự cao cấp trong nền văn hiến Việt, không chỉ thể hiện ở ngôn ngữ Việt. Mà nó chính là sản phẩm của một nhận thức chân lý tuyệt đối: Nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm văn hiến, đang giữ một kho tàng tri thức vô cùng lớn lao đã tồn tại trong văn minh nhân loại. Đó chính là "Lý thuyết thống nhất" mà tất cả tri thức của nền văn minh nhân loại hiện đại đang mơ ước. Thiên Sứ tôi rất nghiêm túc và có trách nhiệm trong phát ngôn của mình về việc này. "Lý thuyết thống nhất" thuộc về nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Không phải là một câu nói được đọc trong 10 giây. Tất nhiên nó cũng không phải là một khái niệm đơn giản trong tư duy của cả nền văn minh này. Nếu "quy ra thóc" thì có thể dùng một hình ảnh thế này: Tỷ phú Waren Bufet cho dù có đến 100 tỷ dollar - được tính là tài sản tri thức tiêu biểu của một nền văn minh - thì cũng không thể tưởng tượng minh lại có một tài sản lớn hơn rất nhiều, khi tài sản đó là "lý thuyết thống nhất". Newton có một thời xác định rằng lý thuyết của ông bao trùm mọi vấn đề của thế gian. Nhưng lịch sử đã chứng minh rằng: Lý thuyết của ông chỉ là một phần tử trong một tập hợp lớn hơn của sự phát triển nền văn minh nhân loại. Nhưng không bao giờ có hai Lý thuyết thống nhất. Không bao giờ có "tính thấy" này nhận thấy được "tính thấy" kia (Phật Giáo). Không bao giờ có hai tập hợp bao trùm lên tất cả mọi tập hợp, nhưng lại là hai tập hợp khác nhau (Nghịch lý Cantor). Do đó chỉ có một "lý thuyết thống nhất". SW Hawking phát biều: "Nếu quả thực có lý thuyết thống nhất thì chính nó sẽ quyết định chúng ta tìm ra nó hay không?". Hoàn toàn chính xác! Đúng là phát biểu của một thiên tài của nền khoa học Anh quốc. Thiên Sứ tôi bày tỏ sự khen ngợi với SW Hawking vì nhận thức này. Với tất cả sự khiêm tốn, Thiên Sứ tôi giới thiệu nền văn hiến Việt, trải gần 5000 năm lịch sử, một thời huy hoàng ở bờ nam sông Dương Tử, chính là nền văn minh đang cất giữ kho tàng vô gía của những mơ ước của cả nền văn minh hiện đại. Nhưng nếu bất kể ai trên thế gian này mà bắt đầu cho rằng văn minh Phương Đông có cội nguồn từ văn minh Hán thì không phải đối tượng để bàn về việc này. Lý thuyết thống nhất không bắt đầu được tiếp thu từ một nền tảng tri thức ngu dốt. Nền tảng trí thức đầu tiên để tiếp thu những giá trị của nó phải là thừa nhận Việt sử 5000 năm văn hiến. Còn nếu không thừa nhận Việt sử 5000 năm văn hiến thì lý thuyết ấy đã quyết định rằng: Nền văn minh này không thể tìm ra lý thuyết thống nhất! (*) Điều này đồng nghĩa với cái gì thì tôi tin rằng các nhà khoa học hàng đầu - cỡ SW Hawking tự suy luận. Tôi tin rằng những nhà khoa học đầu bảng của nền văn minh này hiểu được hậu quả của việc không tìm ra lý thuyết thống nhất ,mà không cần Thiên Sứ tôi gợi ý. ================= * Gần đây, chính ông Hawking xác định rằng: Nhân loại không thể tìm ta "Lý thuyết thống nhất". Đây là một vế trong sự quyết định của chính "lý thuyết thống nhất",mà ông Hawking đã thừa nhận.
  17. Bài này có nhiều tư liệu xác đáng và lập luận chặt chẽ. Nhờ anh chị em quản trị viên đưa bài này ra ngoài trang chủ. Cá nhân tôi sẽ đưa bài này vào mục Lý học Đông phương. Bài này bác Thùy viết rất có lý. Cảm ơn bác Thùy. Từ lâu tôi cũng xác định rằng: Ngôn ngữ Việt là một loại ngôn ngữ rất cao cấp. Bằng chứng nó có thể dịch tất cả các ngôn ngữ của các dân tộc trên thế giới ra ngôn ngữ Việt. Còn các ngôn ngữ của cả thế giới khó thể dịch một cách hoàn hảo ngôn ngữ Việt ra ngôn ngữ của họ. Kể cả tiếng Anh hiện đại. Tất nhiên, ngôn ngữ Việt phải là sản phẩm của một nền văn minh rất cao cấp, nó mới có hệ quả là một hệ thống ngôn ngữ cao cấp của dân tộc Việt. Tính hệ thống, sự tương quan hợp lý trong cấu trung ngôn ngữ Việt rất cao cấp, đến mức độ tự hệ thống ngôn ngữ Việt đã mang trong nội hàm cấu trúc của nó tính minh triết vượt trội. Điều này làm nhà nghiên cứu và là triết gia Phạm Công Thiên phải thốt lên: Đấy là xét một cách tổng quát. Đi vào chi tiết hơn một tí thì cái hệ thống ngôn ngữ mà người ta có thói quen gọi là "từ Hán Việt" trong tiếng Việt ấy có xuất xứ từ đâu? Nếu chỉ nhìn một cách cục bộ với "tư duy của những con ếch mô tả bầu trời qua cái miệng giếng của nó", thì người ta thấy rằng: Tất cả những từ gọi là Hán Việt ấy đều có ký tự chữ Hán kèm theo. Và thế là rất trực quan - rất có "cơ sở khoa học" - và được "giáo dục" từ hàng trăm năm trước vào bộ nhớ của cả những người có chức danh "giáo sư, tiến sĩ" . Và từ cái nền tảng tri thức được ghi trong bộ nhớ ấy - Phật giáo gọi là "tính chấp" - người ta sì ra những công trình nghiên cứu liên quan - có đóng dấu chức danh "giáo sư, tiến sĩ" - khiến càng ngày chân lý càng bị xóa mờ. Trên 30. 000 (Ba mươi ngàn) từ Hán Việt được thống kê (Lê Gia), trong khi đó chính người Trung Quốc - vào thập niên đầu thế kỷ XX - chỉ cần học 1000 (Một ngàn) chữ phổ thông để gọi là "biết đọc biết viết". Vậy tất cả những cái gọi là "Hệ thống từ Han Việt" đồ sộ với 30. 000 từ ấy - ai, tổ chức nào, nhà nước nào trong lịch sử cả Việt lẫn Hán, đã chuẩn hóa nó bằng tiếng Việt và phổ biến trong lịch sử đời sống Việt tộc? Xin lỗi! Chỉ để phố biến một thứ chữ của một vị tiến sĩ nào đó phát ngôn: Bánh "Dầy" trong tiếng Việt nên gọi là bánh "Giầy" - báo chí đăng tải tùm lùm - nhưng chẳng thấy ma nào viết là bánh "giầy" cả. Ngay cả bây giờ - thí dụ - Bộ Giáo Dục có yêu cầu cả nước phải viết "bánh Dầy" là "bánh giầy" thì nó cũng phi logich vì tính cấu trúc bất hợp lý giữa khái niệm "giầy" và "dầy" trong mối liên hệ có tính hệ thống tương quan những khái niệm trong ngôn ngữ Việt về sự mô tả cái bánh dầy và cái giầy trong ngôn ngữ Việt. Huống chi là trên 30. 000 từ gọi là Hán Việt phổ biến ấy - được phát âm bằng tiếng Việt phi Hán - mà người ta cứ tưởng nó dễ như việc ngủ với con mẹ hàng xóm góa chồng. Bác Thùy đã dẫn chứng những tư liệu và luận cứ thích hợp để chỉ ra cho những nhận thức trực quan, nhận thấy được bản chất của vấn đế. Tính minh triết thực sự cao cấp trong nền văn hiến Việt, không chỉ thể hiện ở ngôn ngữ Việt. Mà nó chính là sản phẩm của một nhận thức chân lý tuyệt đối: Nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm văn hiến, đang giữ một kho tàng tri thức vô cùng lớn lao đã tồn tại trong văn minh nhân loại. Đó chính là "Lý thuyết thống nhất" mà tất cả tri thức của nền văn minh nhân loại hiện đại đang mơ ước. Thiên Sứ tôi rất nghiêm túc và có trách nhiệm trong phát ngôn của mình về việc này. "Lý thuyết thống nhất" thuộc về nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Không phải là một câu nói được đọc trong 10 giây. Tất nhiên nó cũng không phải là một khái niệm đơn giản trong tư duy của cả nền văn minh này. Nếu "quy ra thóc" thì có thể dùng một hình ảnh thế này: Tỷ phú Weren Bufet cho dù có đến 100 tỷ dollar - được tính là tài sản tri thức tiêu biểu của một nền văn minh - thì cũng không thể tưởng tượng minh lại có một tài sản lớn hơn rất nhiều, khi tài sản đó là "lý thuyết thống nhất. Newton có một thời xác định rằng lý thuyết của ông bao trùm mọi vấn đề của thế gian. Nhưng lịch sử đã chứng minh rằng: Lý thuyết của ông chỉ là một phần tử trong một tập hợp lớn hơn của sự phát triển nền văn minh nhân loại. Nhưng không bao giờ có hai Lý thuyết thống nhất. SW Hawking phát biều: "Nếu quả thực có lý thuyết thống nhất thì chính nó sẽ quyết định chúng ta tìm ra nó hay không?". Hoàn toàn chính xác! Đúng là phát biểu của một thiên tài của nền khoa học Anh quốc. Thiên Sứ tôi bày tỏ sự khen ngợi với SW Hawking vì nhận thức này. Với tất cả sự khiêm tốn, Thiên Sứ tôi giới thiệu nền văn hiến Việt, trải gần 5000 năm lịch sử, một thời huy hoàng ở bờ nam sông Dương Tử, chính là nền văn minh đang cất giữ kho tàng vô gía của những mơ ước của cả nền văn minh hiện đại. Nhưng nếu bất kể ai trên thế gian này mà bắt đầu cho rằng văn minh Phương Đông có cội nguồn từ văn minh Hán thì không phải đối tượng để bàn về việc này. Lý thuyết thống nhất không bắt đầu được tiếp thu từ một nền tảng tri thức ngu dốt. Nền tảng trí thức đầu tiên để tiếp thu những giá trị của nó phải là thừa nhận Việt sử 5000 năm văn hiến. Còn nếu không thừa nhận Việt sử 5000 năm văn hiến thì lý thuyết ấy đã quyết định rằng: Nền văn minh này không thể tìm ra lý thuyết thống nhất! (*) Điều này đồng nghĩa với cái gì thì tôi tin rằng các nhà khoa học hàng đầu - cỡ SW Hawking tự suy luận. =================* Gần đây, chính ông Hawking xác định rằng: Nhân loại không thể tìm ta "Lý thuyết thống nhất". Đây là một vế trong sự quyết định của chính "lý thuyết thống nhất",mà ông Hawking đã thừa nhận.
  18. Cá chết nổi trắng hàng cây số trên sông Vinh Thứ sáu, 28/2/2014 23:41 GMT+7 Xác hàng nghìn con cá to bằng bàn tay, bốc mùi nồng nặc, kéo dài hơn 4 cây số trên sông Vinh khiến người dân lo ngại về mức độ ô nhiễm của khúc sông này. Đêm 27/2, người dân tại khối 2 và 3 phường Trung Đô sống ven sông Vinh (thành phố Vinh, Nghệ An) bất ngờ phát hiện tình trạng cá chết hàng loạt trên khúc sông này từ đêm 27/2. Mùi hôi thối bốc lên gây ô nhiễm cả khu vực. Anh Lê Hoài Tuấn (43 tuổi) ở phường Trung Đô cho biết cá rô, cá mè, cá trắm... to bằng bàn tay chết nổi khắp sông. "Ước tính hàng nghìn con, nhưng đã hôi thối nên người dân chẳng ai vớt", anh Tuấn nói. Cá chết nổi trắng trên sông Vinh, địa phận phường Trung Đô chiều 28/2. Ảnh: Minh Đăng Sáng hôm sau, phường kiểm tra, ghi nhận cả khúc sông dài khoảng một cây số chảy qua địa bàn phường đều rải rác thấy xác cá nổi trên mặt nước với mật độ trung bình 3 con một mét vuông. Mật độ dày đặc hơn nằm ở khu vực Bara Bến Thủy. "Chúng tôi không phát hiện cống nước thải bẩn nào của nhà máy đổ vào khúc sông này. Nguyên nhân cá chết có thể do nước bị ô nhiễm", ông Nguyễn Xuân Huân - Chủ tịch UBND phường Trung Đô, cho biết thêm. Ông Huân cho hay chiều 28/2 đã báo cáo lên Phòng tài nguyên môi trường thành phố về tình trạng trên để tìm hiểu nguyên nhân. Hiện trên sông Vinh ngoài tình trạng cá chết ở khu vực phường Trung Đô thì phía đầu nguồn từ Cửa Tiền đến Bara Bến Thủy cũng xuất hiện tình trạng cá chết hàng loạt kéo dài chừng 3 km. Hải Bình
  19. Anh nói hai tuổi này Anh phân tích cho chúng tôi biết kỵ như thế nào? Chứ không nói chung chung như vậy được.
  20. Vụ người TQ giết hại dã man cháu bé 9 tuổi ở Lạng Sơn sẽ xử ra sao? VIẾT CƯỜNG 28/02/14 14:56 (GDVN) - Việc người nước ngoài giết người man rợ tại Việt Nam thì có thể giải quyết theo con đường ngoại giao hoặc vẫn theo quy định trong bộ luật hình sự của Việt Nam? Chiếc áo trắng "tố cáo" kẻ sát hại dã man bé gái chăn bò Valentine đặc biệt của giới trẻ: Gieo yêu thương đừng gieo chết chóc Cụ bà 85 tuổi bị trộm thắt cổ suýt chết vào lúc chập tối Thảm án 3 người chết tại Hà Nội: "Nhiều người không thể lý giải nổi" "Nghi vấn Nguyễn Mạnh Tường đã đốt xác Huyền để phi tang" Ngày 26/2, vụ 2 công dân Trung Quốc giết hại dã man cháu bé 9 tuổi tại Văn Lãng, Lạng Sơn làm rúng động dự luận. Theo thông tin ban đầu, hai nghi phạm này đã nhiều lần sang Việt Nam đòi nợ nhưng bố cháu bé trốn. Do đó, hai đối tượng trên đã ra tay bắt cóc và sát hại dã man cháu bé. 2 nghi phạm giết hại dã man một cháu bé bị bắt giữ tại CQĐT Việc vi phạm pháp luật của công dân Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam có thể coi là không phải lần đầu tiên, đặc biệt là ở các địa phương có biên giới giáp với Trung Quốc. Sự việc đang gây nhức nhối trong dư luận, không chỉ ở Việt Nam mà có thể ngay cả với người dân Trung Quốc. Trao đổi với PV Báo Giáo dục Việt Nam, Luật sư Nguyễn Phú Thắng, Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội cho hay, Việt Nam và Trung Quốc đã ký hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề hình sự từ năm 1999. Do vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam xét thấy cần thiết có thể yêu cầu phía Trung Quốc hỗ trợ, xác minh, điều tra thu thập chứng cứ về nhân thân của hai nghi can và các vấn đề liên quan khác đến việc điều tra, kết luận về hành vi phạm tội của hai đối tượng này. Luật sư Nguyễn Phú Thắng - Đoàn Luật sư TP. Hà Nội Luật sư Thắng dẫn giải thêm về một số điều khoản đối với việc người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam. Khoản 2, Điều 5 Bộ luật hình sự quy định: Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao. Như vậy, nếu đọc qua có thể nhiều người lo ngại rằng, vụ việc sẽ được giải quyết theo con đường ngoại giao. Tuy nhiên, Luật sư Thắng cho biết thêm, Công ước Viên về quan hệ ngoại giao năm 1961 và Công ước Viên về quan hệ lãnh sự năm 1963 của Liên hợp quốc quy định với các đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao, miễn trừ lãnh sự. “Nếu đối chiếu với các quy định tại hai văn bản này và quy định trên đây, trách nhiệm hình sự của hai công dân Trung Quốc kia không được giải quyết theo con đường ngoại giao. Do vậy, hai người này phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 BLHS Việt Nam” – Luật sư Thắng nói. Cũng theo vị Luật sư này cho biết, theo nội dung báo chí phản ánh cho thấy, hành vi của hai người này đã có dấu hiệu thỏa mãn hàng loạt tình tiết định khung của “Tội giết người” quy định tại Khoản 1 Điều 93 của Bộ luật hìn sự, đó là: Giết trẻ em; Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; Thực hiện tội phạm một cách man rợ; Vì động cơ đê hèn (đối trừ công nợ). Bởi vậy Luật sư Thắng cho rằng, với những thông tin ban đầu, Cơ quan tố tụng chỉ cần chứng minh được một trong các tình tiết định khung nêu trên là có thể đề nghị truy tố hai nghi can “Tội giết người” với mức hình phạt cao nhất là tử hình. Ngoài ra, do phạm tội thực hiện bởi hai người, nên có thể bị áp dụng thêm tình tiết tăng nặng là phạm tội có tổ chức. Việc thi hành án sẽ được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam do Trung Quốc và Việt Nam không có hiệp định chung về chuyển giao người bị kết án. Sau khi có kết luận điều tra về hành vi phạm tội của hai nghi can Trung Quốc này, nếu cần thiết, cơ quan tố tụng sẽ thông qua cục Lãnh sự, Bộ ngoại giao Việt Nam để thông báo về vụ án cho Đại sứ quán hoặc lãnh sự quán của quốc gia mà nghi can có quốc tịch tại Việt Nam. Qua phần phân tích nêu trên, có thể khẳng định vụ việc đặc biệt nghiêm trọng này sẽ được khởi tố, điếu tra, truy tố, xét xử và thi hành án nghiêm minh theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết. ================ Đã rõ ràng như thế còn hỏi làm gì? Nếu đưa hai kẻ giết người này về Trung quốc thì không khác gì tất cả mọi người Trung quốc ở Việt Nam đều "thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự". Vớ vẩn!
  21. Cảnh báo "mùa đông hạt nhân" ở Trung Quốc Thứ Sáu, 28/02/2014 17:37 (NLĐO) – Theo các nhà khoa học, tình trạng ô nhiễm không khí và lượng khói bụi dày đặc che kín cả bầu trời hiện nay ở Trung Quốc có nhiều yếu tố tương đồng với giả thuyết “Mùa đông hạt nhân”. Trung Quốc “xuất khẩu” ô nhiễm sang Mỹ Bắc Kinh “ngụp lặn” trong không khí ô nhiễm Ô nhiễm không khí ở Thượng Hải đạt mức kỷ lục Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc từ chức vì "Bắc Kinh ô nhiễm"? Trung Quốc đối mặt với ô nhiễm không khí tồi tệ Vấn đề ô nhiễm môi trường ở Bắc Kinh đã thực sự trở thành một cuộc khủng hoảng, với khói và bụi trùng trùng lớp lớp bao phủ toàn bộ 6 tỉnh miền Nam trong những tuần vừa qua. Tổng cộng có 19 thành phố bị xác định vượt chuẩn an toàn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về mức độ ô nhiễm. Hôm 25-2, người ta đo được nồng độ hạt vi mô – đủ nhỏ để xâm nhập vào phổi gây ra các vấn đề về sức khỏe nghiêm trọng – đạt 505 microgram/m3 trong khi chuẩn an toàn của WHO là 25 microgram/m3. Bên cạnh đó, khói bụi dày đặc che khuất tầm nhìn của máy bay, khiến nhiều tuyến đường phải đóng cửa và làm giảm đáng kể lượng khách du lịch. Khói bụi dày đặc đe dọa sức khỏe người dân Trung Quốc và các nước láng giềng. Ảnh: Reuters Giáo sư He Dongxian, Trường ĐH Nông nghiệp Trung Quốc, nói với tờ South China Morning Post: “Nếu tình trạng kể trên vẫn tiếp diễn, chúng ta có thể sẽ trải qua một điều gì đó tương tự như “Mùa đông hạt nhân”. Bà He còn cho biết thêm một thử nghiệm tại Bắc Kinh gần đây cho thấy quá trình quang hợp của cây xanh đã bị suy giảm đáng kể. Ớt và cà chua phải mất thời gian 20 ngày mới nảy mầm và tới 2 tháng để phát triển thành cây con. Điều này có thể làm sụt giảm sản lượng nông sản, ảnh hưởng đến nguồn cung cấp thực phẩm của Trung Quốc. Chính quyền Bắc Kinh tuần rồi chịu sự chỉ trích nặng nề từ các tổ chức môi trường vì không tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Các ngôi trường vẫn mở cửa khiến học sinh ngày ngày bị ảnh hưởng bới khói bụi độc hại, gây hại cho sức khỏe. Ngồi trong xe hơi, người đàn ông này vẫn phải bịt khẩu trang. Ảnh: Reuters Hơn nữa, vấn đề ô nhiễm còn lan ra các nước láng giềng. Mới đây, hôm 26-2, các quan chức tỉnh Kumamoto ở tây nam Nhật Bản đã cảnh báo người dân về mức độ ô nhiễm không khí gia tăng đáng kể. Cơ quan chức năng khuyến cáo người dân nên ở trong nhà và không tập thể dục ngoài trời. Bộ trưởng các nước Trung-Nhật-Hàn sẽ có một cuộc họp vào tháng 5 sắp tới để thảo luận giải pháp giảm thiểu vấn nạn ô nhiễm trong khu vực. Các nước láng giềng chỉ trích Trung Quốc lạm dụng các nhà máy điện sử dụng than, tạo ra nhiều khói và bụi độc hại. “Mùa đông hạt nhân” là một giả thuyết mà các nhà khoa học Mỹ đưa ra vào thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Họ cho rằng, sau chiến tranh hạt nhân, thời tiết và khí hậu trái đất sẽ bị tàn phá nghiêm trọng. Đại chiến hạt nhân sẽ làm cho nhiệt độ bề mặt trái đất giảm mạnh. Nhiệt độ dưới 0 độ C sẽ kéo dài liên tục nhiều tháng. P.Nghĩa (Theo RT)
  22. Cảnh báo "mùa đông hạt nhân" ở Trung Quốc Thứ Sáu, 28/02/2014 17:37 (NLĐO) – Theo các nhà khoa học, tình trạng ô nhiễm không khí và lượng khói bụi dày đặc che kín cả bầu trời hiện nay ở Trung Quốc có nhiều yếu tố tương đồng với giả thuyết “Mùa đông hạt nhân”. Trung Quốc “xuất khẩu” ô nhiễm sang Mỹ Bắc Kinh “ngụp lặn” trong không khí ô nhiễm Ô nhiễm không khí ở Thượng Hải đạt mức kỷ lục Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc từ chức vì "Bắc Kinh ô nhiễm"? Trung Quốc đối mặt với ô nhiễm không khí tồi tệ Vấn đề ô nhiễm môi trường ở Bắc Kinh đã thực sự trở thành một cuộc khủng hoảng, với khói và bụi trùng trùng lớp lớp bao phủ toàn bộ 6 tỉnh miền Nam trong những tuần vừa qua. Tổng cộng có 19 thành phố bị xác định vượt chuẩn an toàn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về mức độ ô nhiễm. Hôm 25-2, người ta đo được nồng độ hạt vi mô – đủ nhỏ để xâm nhập vào phổi gây ra các vấn đề về sức khỏe nghiêm trọng – đạt 505 microgram/m3 trong khi chuẩn an toàn của WHO là 25 microgram/m3. Bên cạnh đó, khói bụi dày đặc che khuất tầm nhìn của máy bay, khiến nhiều tuyến đường phải đóng cửa và làm giảm đáng kể lượng khách du lịch. Khói bụi dày đặc đe dọa sức khỏe người dân Trung Quốc và các nước láng giềng. Ảnh: Reuters Giáo sư He Dongxian, Trường ĐH Nông nghiệp Trung Quốc, nói với tờ South China Morning Post: “Nếu tình trạng kể trên vẫn tiếp diễn, chúng ta có thể sẽ trải qua một điều gì đó tương tự như “Mùa đông hạt nhân”. Bà He còn cho biết thêm một thử nghiệm tại Bắc Kinh gần đây cho thấy quá trình quang hợp của cây xanh đã bị suy giảm đáng kể. Ớt và cà chua phải mất thời gian 20 ngày mới nảy mầm và tới 2 tháng để phát triển thành cây con. Điều này có thể làm sụt giảm sản lượng nông sản, ảnh hưởng đến nguồn cung cấp thực phẩm của Trung Quốc. Chính quyền Bắc Kinh tuần rồi chịu sự chỉ trích nặng nề từ các tổ chức môi trường vì không tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Các ngôi trường vẫn mở cửa khiến học sinh ngày ngày bị ảnh hưởng bới khói bụi độc hại, gây hại cho sức khỏe. Ngồi trong xe hơi, người đàn ông này vẫn phải bịt khẩu trang. Ảnh: Reuters Hơn nữa, vấn đề ô nhiễm còn lan ra các nước láng giềng. Mới đây, hôm 26-2, các quan chức tỉnh Kumamoto ở tây nam Nhật Bản đã cảnh báo người dân về mức độ ô nhiễm không khí gia tăng đáng kể. Cơ quan chức năng khuyến cáo người dân nên ở trong nhà và không tập thể dục ngoài trời. Bộ trưởng các nước Trung-Nhật-Hàn sẽ có một cuộc họp vào tháng 5 sắp tới để thảo luận giải pháp giảm thiểu vấn nạn ô nhiễm trong khu vực. Các nước láng giềng chỉ trích Trung Quốc lạm dụng các nhà máy điện sử dụng than, tạo ra nhiều khói và bụi độc hại. “Mùa đông hạt nhân” là một giả thuyết mà các nhà khoa học Mỹ đưa ra vào thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Họ cho rằng, sau chiến tranh hạt nhân, thời tiết và khí hậu trái đất sẽ bị tàn phá nghiêm trọng. Đại chiến hạt nhân sẽ làm cho nhiệt độ bề mặt trái đất giảm mạnh. Nhiệt độ dưới 0 độ C sẽ kéo dài liên tục nhiều tháng. P.Nghĩa (Theo RT)
  23. Pháp có nguyện vọng bảo tồn nguyên trạng cầu Long Biên Thứ Ba, 18/02/2014 - 16:06 (Dân trí) - Bảo tồn cầu Long Biên không chỉ là yêu cầu của Việt Nam mà còn là nguyện vọng của Chính phủ Pháp. Pháp đã có công hàm đề nghị bảo tồn nguyên trạng cầu Long Biên, dừng hướng xây dựng cầu mới được gợi ý trước đó… “Bứng” cầu Long Biên ra chỗ mới là làm… đồ giả cổ (!?) Lập phương án di dời cầu Long Biên và xây cầu mới vượt sông Hồng Vào tháng 10 năm 2001 tại Hội thảo quốc tế về chủ đề “Cầu và các công trình nghệ thuật bằng kim loại - Di sản, biểu tượng và sử dụng” tổ chức ở Paris do chính phủ Pháp và Tổ chức Di sản không biên giới chủ trì. Hội thảo đã dành cho Cầu Long Biên của Việt Nam một vị trí trang trọng với một phiên thảo luận riêng. Hội Thảo đã đi đến sự thống nhất về quan điểm, cần tôn vinh sự hiện diện của cầu Long Biên ở Hà Nội như một biểu tượng của lịch sử, công nghệ, vẻ đẹp cũng như sự trường tồn qua 2 cuộc kháng chiến. Chính ý kiến từ diễn đàn này đã góp phần làm thay đổi quan điểm về dự án khôi phục lại cây cầu từ phía Chính phủ Pháp, khi có đến 34 báo đài của nước Pháp đã đồng loạt đưa tin với thông điệp, cầu Long biên là biểu tượng của công nghệ và thời thuộc địa của Thế giới nữa. Chính phủ Pháp đã tỏ rõ trách nhiệm, ngay sau cuộc hội thảo có công hàm đề nghị bảo tồn cầu Long Biên, dừng xây dựng cầu mới trên vị trí cây cầu lịch sử với nguồn vốn 200 triệu USD do Nhật Bản tài trợ. Theo hướng này, Chính phủ Pháp cam kết tài trợ 1,5 triệu Fr xây dựng dự án bảo tồn nguyên vẹn cầu Long Biên để phía Việt Nam lên phương án bảo tồn cầu Long Biên tại vị trí hiện tại và đồng ý xây cầu mới cách cầu cũ 85m về phía thượng lưu. Một phương án Bộ GTVT đưa ra là bảo tồn nguyên trạng 9 nhịp cầu về phía Hà Nội chưa bị bom đạn phá hủy, đoạn sau đấu nối với cầu mới. Việc Bộ GTVT nêu phương án di dời cầu Long Biên và xây dựng cầu mới tại tim cầu cũ được biết do gặp khó khăn về việc giải phóng quỹ đất giao thông tại 2 đầu cây cầu mới. Như vậy là phải xây một lúc hai cây cầu, có quá lãng phí? Điều đáng nói hơn, khi đó, cây cầu Long Biên sẽ biến đổi hình thức và công năng hoàn toàn do bị “nhổ” đi khỏi nơi nó tồn tại và trở thành lịch sử hơn 100 năm với bao biến cố của dân tộc. Nó bị tước đoạt sự sống, biến thành “phế tích” trưng bày, chỉ để làm cảnh? Chúng tôi rất hy vọng Hà Nội sẽ có nhiều cuộc toạ đàm khoa học về số phận cầu Long Biên trước khi đặt bút quyết định chấp nhận hay không phương án di dời cây cầu này. Các cuộc tranh luận cần có mặt rộng rãi các ngành, giới, xã hội của Việt nam và Hà nội - vốn rất cần cho một quyết định ảnh hưởng tới lịch sử và văn hóa, cho số đông dân cư mà một vài cá nhân lãnh đạo không thể đại diện đủ. Cầu Long Biên – khởi động đô thị Hà Nội Việc xây dựng cầu Long Biên năm 1898 (tên gọi khi đó là Paul Doumer) khánh thành năm 1902 đánh dấu một giai đoạn chuyển hoá từ một đô thị truyền thống sang đô thị hiện đại theo trào lưu của thế giới. Cây cầu kim loại có qui mô lớn nhất thế kỷ (dài 1862m với 18 nhịp, 20 trụ đỡ cao hơn 20m) do người Pháp thiết kế đã được xây bằng chính những người thợ Việt Nam. Có thể nói chính sự kiện này đã thể hiện sức mạnh của văn minh và kỹ thuật, đi đầu trong công cuộc hiện đại hoá đất nước cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Chỉ đến khi cầu Long Biên xuất hiện tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh mới hình thành, nghĩa là Hà Nội chỉ trở thành hoặc sắp thành đô thị bên đôi bờ con sông khi xuất hiện cầu Long Biên, cầu Chương Dương và những con cầu khác nữa trong tương lai. Trong quá khứ, khi cây cầu được xây dựng, nhà nghiên cứu lịch sử người Pháp Pino đã thống kê được sự tăng đột biến dân số Hà Nội thêm 1,2 vạn. Con số 2 vạn dân nội thành của Hà Nội năm 1945 cho thấy vai trò của cây cầu trong phát triển đô thị - vai trò kiến tạo đô thị. Nhờ đó, đô thị Hà Nội sau thời thuộc Pháp đã có cấu trúc không gian khá hoàn chỉnh với 3 thành phần cơ bản: 1.Thành cổ; 2. Khu phố buôn bán cổ của người Việt (khu 36 phố phường); 3. Khu phố Pháp cho các công sở. Với cây cầu này cấu trúc không gian của Hà Nội không còn bị giới hạn, bởi sông Hồng mà dã trở thành một cấu trúc lớn do sự thống nhất lãnh thổ đưa lại. Trong qui hoạch phát triển đô thị Hà Nội đến năm 2020, Hà Nội sẽ có qui mô gấp 4 lần hiện nay. Đặc biệt là sự phát triển lên phía Bắc và Đông Bắc với các dự án lớn: Khu đô thị Bắc Thăng Long, Khu công nghiệp Sài Đồng; Khu đô thị Đông Anh và Gia lâm, Ô Cách. Điều này cũng có nghĩa là chuyển sông Hồng từ con sông phân định địa giới phía Bắc Hà Nội, thành con sông chảy qua khu vực trung tâm đô thị, theo kiểu sông Sen (Paris), sông Đanuyt (Budapest) với một hệ thống cầu đồ sộ nối liền 2 bờ Nam-Bắc gồm tám chiếc cầu, từ cầu vành đai liên tỉnh đến cầu cận trung tâm và cầu trung tâm. Trong qui hoạch này, rõ ràng cầu Long Biên trở thành cầu dân dụng của khu dân cư trung tâm Hoàn Kiếm - Gia Lâm chứ không phải cầu vận tải, nó mang một ý nghĩa mới, cùng với cầu Tứ Liên và cầu Chương Dương tạo cảnh quan đô thị có sông chảy qua giữa thành phố. Di dời cầu = làm lịch sử biến mất? Cần xem xét để bảo tồn cầu Long Biên như biểu tượng của lịch sử và biểu tượng kỹ thuật - công nghệ của Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ 20. Cây cầu cũng là biểu tượng bất khuất của cuộc kháng chiến chống Mỹ khi nó mang trên mình những vết thương mà vẫn đứng vững, là biểu tượng của văn hoá, lịch sử, cuối cùng là biểu tượng tinh thần bởi sự gắn kết của nó với cuộc sống của những người cần lao Trong dự án phục chế cầu Long Biên, người ta đã đánh giá đúng giá trị của cây cầu với ý định sẽ phục chế nó, nhưng có một thiếu sót lớn nếu đề xuất xây dựng cạnh nó thêm một cây cầu đường sắt mới. Hướng đề xuất phá hủy cây cầu bằng cách di dời nhường vị trí cho cây cầu mới càng bất ổn hơn. Có nhiều cách để lịch sử biến mất nhưng cách làm này thô bạo hơn cả. Điều này cần thận trọng bởi chỉ xây sát cầu Long Biên thêm 1 cây cầu mới là chúng ta đã tự phá vỡ ý định bảo tồn cầu Long Biên. Lý do rất đơn giản, cây cầu cần được bảo tồn không chỉ bản thân nó, mà cả cảnh quan xung quanh nó một cách khoa học. Khó có thể hình dung cầu Long Biên có được vẻ đẹp như nó vốn có nếu vây xung quanh tới 2 - 3 cây cầu hiện đại, che khuất vẻ thanh nhã và êm đềm mà nó mang lại cho cảnh quan khu vực nhạy cảm này. Một lý do nữa, mặc dù là công trình giao thông, nhưng đã coi nó là di sản văn hoá (nếu không thì phục chế làm gì) thì nó cần được đối xử tinh tế như mọi đối tượng bảo tồn khác, có nghĩa là phải tôn trọng tuyệt đối tính nguyên mẫu của di tích. Mọi can thiệp như tăng thêm qui mô, nâng cao toàn bộ, sai lệch cấu trúc cũ, dáng vẻ, màu sơn v.v. đều có thể làm hỏng cây cầu, làm mất tính nguyên bản tức đánh mất lịch sử - cái cần để lại cho con cháu mai sau. PGS.TS Nguyễn Hồng Thục (Bộ Xây dựng)
  24. Nổ kinh hoàng tại nhà hàng thủ đô Qatar, 12 người chết Thứ Sáu, 28/02/2014 - 07:13 (Dân trí) - Một vụ nổ kinh hoàng tại một nhà hàng ở thủ đô Doha của Qatar ngày 27/2 đã khiến ít nhất 12 người thiệt mạng, truyền thông và giới chức địa phương khẳng định. Theo hãng tin AP, các nhân viên cấp cứu tại địa phương nhận định đây hầu như chắc chắn là một vụ nổ khí gas. Đến nay đã có 12 người được xác định thiệt mạng, 4 trong số này tử vong tại chỗ, 8 người còn lại chết trên đường đi cấp cứu. Vụ nổ khiến một phần nhà hàng bị sập Những dấu hiệu ban đầu cho thấy một thùng khí gas tự nhiên đặt trên nóc một nhà hàng Thổ Nhĩ Kỳ đã phát nổ, và là nguyên nhân gây ra thảm kịch. Vụ nổ xảy ra vào khoảng 10 giờ sáng giờ địa phương, gần trung tâm mua sắm nổi tiếng Landmark Mall tại Doha. Sức công phá của vụ nổ lớn đến mức một phần nhà hàng Istanbul bị sập và thổi mảnh vỡ bay xa tới 50m, các quan chức địa phương cho biết. Vụ việc đang được ghi nhận như một tai nạn, mặc dù đến nay vẫn chưa thể xác định nguyên nhân chính xác khiến chiếc bồn gas phát nổ. Theo trung tướng cảnh sát Saad bin Jassim al-Khleifi, tư lệnh lực lượng cảnh sát Qatar, toàn bộ 12 người thiệt mạng đều là người châu Á hoặc Ả rập. Dù vậy ông không cho biết thêm về danh tính hay quốc tịch của các nạn nhân. Ông al-Khleifi khẳng bịnh có 31 người khác bị thương, một số trong tình trạng nguy kịch. Một chiếc ô tô bị các tấm bê tông đè bẹp Theo trang Tin tức Doha, Thủ tướng Qatar Khalifa Al Thani cam kết sẽ tiến hành một vụ điều tra toàn diện và minh bạch đối với vụ việc. Hiện chính quyền địa phương đang kêu gọi người dân hiến máu để cấp cứu các nạn nhân. Alexandra Permuy, 25 tuổi, sinh viên tốt nghiệp đại học tại Miami, Mỹ và sống gần hiện trường cho biết cô đã giật mình tỉnh dậy sau vụ nổ. “Ban đầu tôi nghĩ đó là tiếng sâm…những khi nhìn ra ngoài cửa sổ, trên trời không hề có mây”, Permuy nói. Nhà hàng nêu trên vừa mở cửa trở lại sau một thời gian sửa chữa, và nằm ngay tại một khu vực thường rất đông đúc vào buổi tối. Hồi tháng 5/2012, một vụ hỏa hoạn tại trung tâm mua sắm Villaggio Mall của Qatar cũng đã khiến 19 người thiệt mạng, trong đó có 13 trẻ em tại một trung tâm giữ trẻ nằm trong khu mua sắm này. Các cơ quan điều tra sau đó khẳng định nguyên nhân do chập điện. Thanh Tùng Tổng hợp
  25. Dù bà Yingluck có từ chức và chính phủ do phe áo vàng nắm giữ thì Thái Lan vẫn chưa thể ổn định. Chỉ có nhà vua Thái và làm đúng phương pháp thì mới ổn được. Hình thể đất nước Thái xét về phong thủy hơi dở. Ít nhất bắt đầu từ vận 7,