-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
ĐẠO GIÁO VÀ VIỆT SỬ Nguồn Fb Thien Sư Lạc Việt Thưa tất cả các nhà nghiên cứu Kinh Dịch Việt Nam và trên thế giới thân mến. Thưa tất cả các bạn và anh chị em bạn bè của tôi trên Fb và các thành viên diễn đàn. Dưới đây là một linh phù trấn trạch trong Đạo Giáo của Đông phương . Các bạn sẽ thấy rõ đồ hình Bát quái trong hình chính là đồ hình Hậu Thiên bát quái Lạc Việt. Tất nhiên, linh phù này đã có từ rất lâu và lưu truyền trong dân gian và hoàn toàn độc lập với mọi tư duy của Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh khi chứng minh thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về nền văn hiến Việt với đồ hình nổi tiếng Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ. Đây chính là một di sản còn lại trong Đạo Giáo - có nguồn gốc văn hiến Việt, chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương - chứng minh một cách sắc sảo Kinh Dịch chính thống thuộc về nền văn hiến Việt. So sánh với hình hậu thiên Lạc Việt theo luận điểm của Nguyễn Vũ Tuấn Anh (đổi chỗ Tốn - Khôn) Còn đây là một hình ảnh khác trong Đạo Giáo mô tả một vị đạo sĩ đang cầm sớ tấu trình lên cõi trên trong nghi thức của Đạo Giáo. Vị đạo sĩ trong hình mặc áo cài Vạt bên trái. Đây chính là y phục cổ xưa của Việt tộc mà tôi đã chứng minh. Điều này một lần nữa xác định luận điểm của tôi đã chứng minh rằng: Đạo Giáo chính là của Việt tộc với lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử và chính là cội nguồn của nền văn minh Đông phương. Và vị giáo chủ chính là Chử Đồng Tử và Tiên Dung trong truyền thuyết về thời Hùng Vương. Xin cảm ơn sự quan tâm của quý vị và anh chị em. Nguồn Fb https://www.facebook...vn/?pnref=story
-
Đám thày bà vớ vẩn lúc nào chả có một con ma để doa người khác. Có người thì bị mẹ con con mụ Đậu; người thì bị cha con thằng Đẩu....Bây giờ lại đến bà Ba miếu Mão ám..... Mấy thầy bà này chắc ở miệt vườn đây.Vớ vẩn. Muốn coi tử vi thì ra trang chủ lấy đường link lá số của thằng bé vào đây.
-
Thưa quý vị và anh chị em. Nếu không phải là tất cả thì hầu hết những ký tự của chữ Do Thái đều có trong Chữ Khoa Đẩu của Việt tộc, mà nhà nghiên cứu Khánh Hoài Đỗ Văn Xuyền tìm ra.
-
Từ lâu, lão đã nói rằng: Tất cả các nước Tây Thái Bình Dương - kể cả Nhật, Úc và cả khối ASEAN cũng không phải đối thủ của Trung Quốc có vũ khí hạt nhân. Cho nên, chính Hoa Kỳ phải rất mạnh mẽ và đứng mũi chịu sào trong cuộc đối đầu với Trung Quốc, cùng với Đồng minh chủ chốt của mình. Và đây là bản chất của vấn đề. Nếu Hoa Kỳ không thể hiện được điều này và mơ hồ về chiến lược - chắc không đến nỗi như vậy - thì đây chính là nguyên nhân để Trung Quốc tiếp tục lấn tới và mọi việc sẽ trở nên nguy hiểm cho các nước liên quan và cho chính sách lược của Hoa Kỳ. Quân đội Trung Quốc bàn về khả năng "bất trắc" trên Biển Đông Hồng Thủy 08:26 15/05/16 Thảo luận (0) (GDVN) - Thách thức lớn nhất Trung Quốc đang gặp phải trên Biển Đông hiện nay chính là phán quyết của PCA. Trung Quốc ráo riết vận động thế giới Ả Rập cùng chống PCA Báo Đài Loan: Hải quân Mỹ-Pháp tuần tra chung trên Biển Đông Trung Quốc tìm cách hòa hoãn tạm thời với Mỹ trên Biển Đông China Times ngày 15/5 đưa tin, truyền thông quân đội Trung Quốc đang đổ lỗi cho Hoa Kỳ "đứng sau thao túng phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực PCA" gây căng thẳng trên Biển Đông. Phán quyết của PCA được Bắc Kinh xem như thách thức lớn nhất mà Trung Quốc đang phải đối mặt. Hình minh họa: China Times. Chính vì vậy Bắc Kinh triển khai "xuất kích chiến lược" một cách chủ động trên tất cả các mặt dư luận, ngoại giao và quân sự để nhằm chống lại ảnh hưởng phán quyết của PCA trong vụ Philippines khởi kiện nước này (áp dụng sai, giải thích sai, vi phạm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 - UNCLOS) ở Biển Đông. Tờ Quốc phòng Trung Quốc ngày 13/5 đăng bài xã luận: "Quân đội Trung Quốc có năng lực đối phó với các sự kiện bất trắc ở Biển Đông". Bài xã luận này cho rằng, trước khi chiến hạm Mỹ tuần tra tự do hàng hải bên trong 12 hải lý đá Chữ Thập, Trường Sa (Khánh Hòa, Việt Nam), hải quân Trung Quốc đã tập trận bắn đạn thật ở Biển Đông, điều này cho thấy hải quân Trung Quốc có khả năng "đề phòng bất trắc". Cuộc tập trận vừa qua của hải quân Trung Quốc có sự tham gia của nhiều chiến hạm chủ lực, bao gồm các loại vũ khí chống tàu ngầm, chống tàu mặt nước, phòng không và lực lượng đặc nhiệm đổ bộ. Đồng thời cuộc tập trận cũng triển khai các khoa mục phối hợp hải quân, không quân với lực lượng đồn trú (bất hợp pháp) trên các đảo nhân tạo diễn tập phòng thủ. Nếu đối phương đổ bộ tấn công đảo nhân tạo, không quân Trung Quốc sẽ xuất kích đầu tiên. Tiếp theo sẽ là lực lượng tàu ngầm tấn công và lực lượng đặc nhiệm. China Times nhận định, Trung Quốc đang phát đi tín hiệu đến "các nước liên quan" rằng, Bắc Kinh sẽ quyết bảo vệ yêu sách (bành trướng) của mình ở Biển Đông đến cùng. Thách thức lớn nhất Trung Quốc đang gặp phải trên Biển Đông hiện nay chính là phán quyết của PCA. Tờ Quốc phòng Trung Quốc vu cáo Hoa Kỳ "thao túng PCA", "giật dây Philippines" và tờ báo này tiếp tục bóp méo bản chất nội dung vụ kiện từ áp dụng, giải thích UNCLOS sang "chủ quyền lãnh thổ" để né tránh phán quyết của Tòa. Tờ Quốc phòng Trung Quốc kiến nghị Trung Nam Hải tăng cường dư luận chiến, tiếp tục tuyên truyền khắp các cấp độ và nhấn mạnh Bắc Kinh không chấp nhận phán quyết của Tòa. Hồng Thủy ==================== Bít ngay mà! Lão phán toàn là từ đúng trở lên. Hổng cần đến một Ukraine, chỉ cần một lý do lãng nhách là uýnh nhau to liền. Vấn đề chỉ còn là thời gian. Nhưng lão đây cũng 'quảng cáo" cho lực lượng quân đội Trung Quốc rằng: "Chỉ cần một lý do lãng nhách xảy ra thì lập tức sẽ loạn cào cào ngay tại Hoa Đồng và Bắc Kinh phải có kế hoạch phòng thủ tên lửa". Lão cũng quảng cáo rằng: Chiến thuật biển người - ý lộn - biển tàu đánh cá có vũ trang của Bắc Kinh ở biển Đông sẽ chẳng có tác dụng gì khi tên đạn vô tình. Tuy nhiên, lão Gàn cũng giữ lời hứa bảo kê đến hết tháng 10 Việt lịch, chưa có uýnh nhau ở đây. Cái này lão cũng nói rồi nha: Sau phán quyết của tòa án PCA mọi chuyện sẽ rất khuých tạp. Hãy chờ xem.
-
Mỹ cần một "Ukraine" để xoay trục về Thái Bình Dương! Chủ nhật, 20/03/2016 - 23:00 Với mục tiêu xoay trục về Châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ một lẫn nữa muốn quay trở lại và hiện diện tại khu vực đông đúc và phát triển nóng nhất thế giới hiện nay. >> Mỹ triển khai “xoay trục” giai đoạn hai >> Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Mỹ: Washington tăng tốc xoay trục sang châu Á Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách xoay trục của Mỹ không chỉ đơn thuần là tiếp tục sát cánh cùng các nước đồng minh cũ, mở rộng và tăng cường ảnh hưởng, phụ thuộc với các đối tác mới; điều quan trọng là họ cần một lý do để đứng chân lâu dài và gây ảnh hưởng một cách mạnh mẽ. Một cuộc xung đột và phong trào cách mạng màu kiểu như cuộc chiến ở miền Đông Ukraine cũng là một lựa chọn không tồi với Mỹ. Tất cả các cường quốc đều có không gian riêng và vùng đệm bất khả xâm phạm trong chiến lược địa chính trị của mình. Nhìn lại bản đồ địa chính trị rộng lớn của thế giới suốt hơn một thập kỷ qua, nếu chỉ là một người quan sát ở mức độ thường xuyên, không chuyên sâu. Chúng ta cũng có thể đưa ra một nhận định rằng: Ở bất kỳ điểm nóng xung đột nào mà Mỹ có dính líu, vai trò hòa giải của họ cũng khá mờ nhạt. Trước tiên, hãy nhìn lại cuộc xung đột dài lê thê không biết khi nào mới kết thúc của Israel-Palestine mà Mỹ nhận “đỡ đầu” giải quyết. Sau bao nhiêu năm, nguyện vọng lập quốc và xác lập chính thể, những quyền và lợi ích cơ bản của người Palestine vẫn chỉ là ước mơ còn Israel thì cứ tiếp tục mở rộng mãi các khu định cư cho người Do thái. Tiếp sau đó là cuộc xung đột ở miền Đông Ukraine, với hy vọng sẽ thoát khỏi ảnh hưởng của Nga và gia nhập vào ngôi nhà chung Châu Âu, xác lập những giá trị “tự do, dân chủ” kiểu Mỹ, một số người Ukraine đã mù quáng chống lại, tiêu diệt và cầm súng bắn thẳng vào đồng bào mình để giờ đây đất nước Ukraine xinh đẹp biến thành tan hoang, kinh tế lụi bại trong khi trông chờ một cách tuyệt vọng vào các đối tác phương Tây đang “ngó lơ” và người hùng “ban phát” dân chủ đang cố quay mặt đi hướng khác. Và đương nhiên là bài học “tiền nhãn” của đất nước Syria, bị chia năm sẻ bảy, các phe cánh nổi lên, cuộc sống nhân dân lầm than, tan tác đến nỗi phải liều mình bỏ xứ đi tị nạn chỉ vì một lý do hết sức mơ hồ, được nghe phương Tây rao giảng các giá trị dân chủ phi thực tế. Quay về hiện tại, khi Mỹ “xoay trục” về châu Á - Thái Bình Dương thì có người sẽ tin rằng Mỹ sẽ trở thành người duy trì hòa bình, giúp khu vực này ổn định. Nhưng cũng có ý kiến khác cho rằng: dựa theo các kết quả “tốt đẹp” mà Mỹ gây ra ở Trung Đông (Iraq, Libya, Syria,...) thời gian gần đây, thật khó để tin vào thiện chí của Mỹ. Vậy Mỹ đang làm gì ở biển Đông? Ngoài việc “lên án mạnh mẽ” chỉ bằng những phát ngôn ngoại giao “suông” thì những hành động thực tế của họ không thể xem là nỗ lực để “tái cân bằng” với Trung Quốc. Có ý kiến nói Mỹ không còn đủ khả năng để chạy đua vũ trang với Trung Quốc ở khu vực Thái Bình Dương, khi mà Mỹ còn đang căng mình đấu với Nga ở mặt trận Trung Đông và Đông Âu. Ý kiến khác thì nói Mỹ có thể có khả năng, nhưng họ vẫn đang chờ cơ hội “bùng nổ” cùng với một (vài) “con thiêu thân” nào đó, như trong các ván bài địa chính trị gần đây của Mỹ. Tại Đông Âu, Mỹ có Gruzia và đặc biệt là Ukraine xung phong đấu với Nga để Mỹ chỉ đạo từ xa. Nhưng ở Thái Bình Dương, Mỹ vẫn “vật vã” để tìm cho ra một phiên bản Ukraine như vậy. Không chỉ các nước ASEAN mà ngay cả các đồng minh của Mỹ (như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan) cũng đều từ chối vai trò “xung kích trong mặt trận chống Trung Quốc”. Nhà cầm quyền Ukraine (hậu cách mạng Maidan) từng tuyên bố rằng: “họ tình nguyện là tiền đồn chống Nga cho Mỹ và Châu Âu” nhưng Mỹ tìm đâu thấy một nhà cầm quyền nào “lý tưởng” như vậy ở Thái Bình Dương? Tất nhiên, các láng giềng của Trung Quốc ở Thái Bình Dương đều không lạ gì dã tâm của “chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh”. Nhưng họ cũng hiểu rằng đối phó với một láng giềng đang thời hùng mạnh như thế này thì “sự liều mạng của Chí Phèo” là không đủ. Nhật Bản - quốc gia có tranh chấp lãnh thổ trực tiếp với Trung Quốc - cũng theo đuổi chính sách đàm phán và giữ gìn ổn định khu vực chứ không leo thang quân sự với Trung Quốc (hoặc nếu có thì cũng rất kín đáo, thầm lặng). Các quốc gia Đông Nam Á thì hầu như toàn bộ đều theo đuổi chính sách cân bằng quan hệ Mỹ - Trung. Chẳng có quốc gia nào là muốn giải quyết tranh chấp biển đảo với Trung Quốc bằng con đường mà Mỹ đang khơi gợi . Làm những việc vừa sức và trong khả năng của mình, đó dường như là cách mà ASEAN chọn ứng xử để cố gắng hết sức giữ nguyên hiện trạng chứ không tự đẩy mình vào thế đối đầu trực diện với Trung Quốc một cách đầy rủi ro. Sự xoay trục của Mỹ ở Biển Đông cả vùng Thái Bình Dương chỉ có thể trở nên hữu ích cho an ninh và ổn định ở khu vực nếu Mỹ từ bỏ chính sách ngàn đời là “lái buôn chiến tranh” của mình. Rõ ràng, nếu thực tâm muốn tái cân bằng với Trung Quốc ở Thái Bình Dương, Mỹ phải tận dụng sức mạnh sẵn có của mình để gây áp lực với Trung Quốc thay vì cứ “xúi giục, kích động” các bên như hiện tại. Không có gì ngạc nhiên khi trong thời gian tới, Mỹ vẫn tiếp tục chiến thuật “nói nhiều, làm ít” để lôi kéo khu vực Thái Bình Dương vào cuộc chạy đua vũ trang không hồi kết với Trung Quốc. Đó luôn là chính sách địa chính trị của Mỹ và chính sách này hiện chưa thành công, vì một nguyên do cơ bản: chỉ còn thiếu một... “Ukraine” nữa thôi! Theo Tiến Đạt PetroTimes ==================== Tác giả Tiến Đạt chắc phải dạng có hạng trong xã hội, bởi tính tập hợp những ý kiến nhiều chiều trong vấn đề Hoa Kỳ và biển Đông. Tuy nhiên, ông ta đặt vấn đề "một Ukraine" ở Châu Á Thái Bình Dường thì thực chất vấn đề không nhất thiết như vậy. Do bản chât của vấn đề khác nhau. Cuộc tranh chấp giữa Nga Mỹ ở Ukraine, tuy cũng mang tính chiến lược, nhưng nó không phải "canh bạc cuối cùng". Nước Nga của Putin không có tham vọng cạnh tranh với Hoa Kỳ, ít nhất trong lúc này. Về bản chất, người Nga chỉ muốn thành một siêu cường trong bàn cờ thế giới. Nhưng với Tàu thì khác hẳn. Người Tàu có tham vọng bá chủ thế giới và chia đôi thiên hạ với Hoa Kỳ. Họ đã thẳng thắn đề nghị Hoa Kỳ để họ "bảo vệ hòa bình thế giới" ở Tây Thái bình Dương. Bởi vậy, không cần Ukraine, "canh bạc cuối cùng" vẫn xảy ra ở đây với những lý do vô cùng lãng nhách. Từ lâu, lão đã nói rằng: Tất cả các nước Tây Thái Bình Dương - kể cả Nhật, Úc và cả khối ASEAN cũng không phải đối thủ của Trung Quốc có vũ khí hạt nhân. Cho nên, chính Hoa Kỳ phải rất mạnh mẽ và đứng mũi chịu sào trong cuộc đối đầu với Trung Quốc, cùng với Đồng minh chủ chốt của mình. Và đây là bản chất của vấn đề. Nếu Hoa Kỳ không thể hiện được điều này và mơ hồ về chiến lược - chắc không đến nỗi như vậy - thì đây chính là nguyên nhân để Trung Quốc tiếp tục lấn tới và mọi việc sẽ trở nên nguy hiểm cho các nước liên quan và cho chính sách lược của Hoa Kỳ.
-
Mỹ - Nhật thắt chặt vòng vây Trung Quốc từ vịnh Cam Ranh? VietTimes 13/03/2016 04:18 GMT VietTimes -- Trung Quốc đang phải đối mặt với thách thức mới khi Việt Nam nâng cấp, cải tạo vịnh Cam Ranh, chiến hạm nước ngoài hoàn toàn có thể tiến vào vùng vịnh này bởi đây là một trong những cảng nước sâu lý tưởng nhất thế giới thích hợp cho mọi loại tàu chiến - kể cả tàu sân bay. Tàu ngầm Kilo của Hải quân Việt Nam hiện diện trên quân cảng Cam Ranh Ngày 11/3, một số cơ quan truyền thông lớn – đặc biệt là cơ quan quân sự của Trung Quốc bất ngờ công bố thông tin một trung đoàn lực lượng hàng không của Hạm đội Nam Hải, hải quân Trung Quốc ngày 10/3 đã tổ chức huấn luyện bay cường độ lớn. Trung đoàn này đã sử dụng các máy bay chiến đấu J-11BH và J-11BSH lần lượt triển khai huấn luyện 5 khoa mục gồm không chiến một đối một, cơ động chiến thuật tầng trời thấp và siêu thấp, tấn công các mục tiêu trên biển (tàu chiến) và mặt đất. Tổng cộng có gần 30 lượt bay tăng cường năng lực tác chiến, các máy bay chiến đấu mang theo đạn thật diễn tập. Cuộc tập trận này nhằm mục đích hù dọa Mỹ và Nhật Bản, trong bối cảnh hai quốc gia này tăng cường hợp tác quân sự với Việt Nam, vịnh Cam Ranh có thể trở thành căn cứ quân sự mới để đối phó với những động thái bành trướng của Trung Quốc trên biển Đông. Tàu sân bay USS John C.Stennis tiến vào biển Đông đầu tháng 3/2016. Từ đầu tháng 3/2016 trở lại đây, quan hệ giữa hai nước Trung – Mỹ ngày càng trở nên căng thẳng hơn. Đầu tháng 3/2016, lực lượng hải quân Mỹ tiến vào vùng biển “đường lưỡi bò” mà Trung Quốc đưa ra yêu sách chủ quyền, và ngày 5/3, Mỹ công bố một bản tin rằng, lực lượng tấn công với tàu sân bay tàu USS John C. Stennis (CVN 74) đóng vai trò trụ cột đã bị tàu hải quân Trung Quốc bao vây khi tiến vào biển Đông. Phía Mỹ nhấn mạnh “tình huống này chưa bao giờ xuất hiện”. Sau đó, ngày 8/3, tại Australia, Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ nhấn mạnh, trước những hành vi của Trung Quốc trên biển Đông, có thể Mỹ sẽ cùng quân đội Australia luân phiên bố trí máy bay oanh tạc chiến lược tại phía Bắc Australia. Ngày 10/3, tổng thống Obama đã thẳng thắn nói rằng “Mỹ đã thành công trong việc huy động đa số các nước châu Á cô lập Trung Quốc”. Hàng loạt động thái cho thấy, Mỹ ngày càng tỏ thái độ cứng rắn hơn đối với Trung Quốc trong vấn đề biển Đông. Cùng với đó, với vai trò là một đồng minh lớn của Mỹ đặc biệt quan tâm đến vấn đề biển Đông, Nhật Bản cũng đang tăng tốc các hành động trên biển Đông. Ngày 29/2, hai nước Nhật Bản và Philippines thực hiện hiệp điện ký kết ngày 25/1 mới đây, phía Nhật sẽ cung cấp nhiều vũ khí khí tài – bao gồm máy bay quân sự cho Phiplippines. Ngày 6/3, Bộ quốc phòng Nhật Bản cũng cho biết, Lực lượng phòng vệ Nhật Bản đã bắt đầu triển khai thảo luận với Phillippines về vấn đề tàu ngầm Nhật Bản đồn trú tại căn cứ hải quân Subic, sớm nhất là tháng 4, tàu chiến của Nhật Bản sẽ có mặt ở khu vực này. Đến ngày 11/3, chính phủ Nhật Bản chính thức công bố Sách Trắng hợp tác khai thác phát triển phiên bản năm 2015 và chỉ ra rằng, để bảo đảm cho an ninh trên biển Đông, cần tăng cường hoạt động viện trợ cho các nước ASEAN. Sau khi Nhật Bản chính thức bàn giao máy bay quân sự cho Philippines vào đầu tháng 3, Nhật Bản sẽ hỗ trợ Mỹ triển khai các chiến lược nhằm vào Trung Quốc trên biển Đông. Vịnh Cam Ranh được chụp từ vệ tinh. Như vậy, khi Trung Quốc đối phó với lực lượng quân đội Mỹ tiến vào “đường lưỡi bõ” thì vòng vây của Mỹ và Nhật Bản tại vòng ngoài biển Đông đã được triển khai. Hiện tại, Mỹ và Nhật Bản đang tích cực phối hợp với Việt Nam, đặc biệt là vấn đề đồn trú tại vịnh Cam Ranh của Việt Nam. Ngày 8 và 9/3, Việt Nam đã thể hiện ý định quốc tế hóa vịnh Cam Ranh - căn cứ quân sự Cam Ranh có vị trí chiến lược bao quát toàn bộ khu vực biển Đông, là vị trí tiếp cận gần nhất các tuyến hàng hải quốc tế và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như các khu vực dầu khí tại thềm lục địa phía Đông – Nam Việt Nam. Do đó, thông tin này là sự hỗ trợ tốt cho Mỹ khi triển khai các hành động ở phía Tây biển Đông. USS John C. Stennis là tàu sân bay hạt nhân lớp Nimitz, được đưa vào hoạt động từ năm 1995. Tàu có thể đạt tốc độ hơn 30 hải lý, sức chứa 90 máy bay và trực thăng. Stennis có hệ thống tên lửa phòng không của NATO RIM-7 Sea Sparrow và Rolling Air, hệ thống phòng thủ tầm gần Phalanx, và hệ thống tác chiến điện tử SLQ-32. Ảnh: US Navy Vịnh Cam Ranh nằm ở miền Đông Nam Việt Nam, cách quần đảo Trường Sa khoảng 600km, là một trong những cảng nước sâu lý tưởng nhất thế giới, vị trí địa lý ưu việt, là cảng hải quân lớn nhất của Việt Nam. Vịnh Cam Ranh là một trong những vịnh có vị trí chiến lược quan trọng nhất ở châu Á. Trong Chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã từng sử dụng cảng này làm trung tâm cho mọi hoạt động trên biển. Vịnh Cam Ranh cũng đã từng được Pháp, Nhật Bản, Liên Xô sử dụng để đỗ các tàu chiến loại lớn. Từ đó trở đi, vịnh Cam Ranh trở thành con át chủ bài quan trọng của Việt Nam, có thể giúp Việt Nam giành được ưu thế khi giải quyết những vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Đông. Hiện tại, phía Mỹ đang tích cực dốc sức vào vấn đề biển Đông và muốn quay trở lại vịnh Cam Ranh. Rõ ràng thiện chí của Việt Nam đã thể hiện một tín hiệu đặc biệt. Theo tin của các hãng truyền thông lớn của Việt Nam ngày 9/3, ngày 8/3, chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã tham dự lễ khánh thành cảng quốc tế Cam Ranh, tuyên bố mở cửa vịnh Cam Ranh cho tàu tuyền quốc tế. Theo bản tin này, Việt Nam sẽ đầu tư 2.000 tỉ đồng (khoảng 92,34 triệu USD) để nâng cấp, cải tạo vịnh Cam Ranh, đưa lượng choán nước của tàu cỡ lớn lên tới 110.000 tấn, đến lúc đó, mọi loại tàu chiến của các quốc gia – kể cả tàu sân bay cũng đều có thể tiến vào vịnh Cam Ranh. Có phân tích chỉ ra rằng, khi báo chí Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh cụm từ “110.000 tấn” và bàn đến vấn đề nhiệm vụ chủ yếu của vịnh Cam Ranh là tiếp đón “tàu chiến quân sự” thì đã bao hàm dụng ý tương lai sẽ đón tàu sân bay Mỹ. Máy bay săn ngầm P3C của Nhật Bản. Việc Việt Nam khai thác và phát triển vịnh Cam Ranh cho thấy rõ yếu tố đối phó với mối đe dọa từ phía Trung Quốc. Theo tiết lộ của Thông tấn xã Việt Nam: “Việc nâng cấp, cải tạo này có lợi cho hải quân Việt Nam và hải quân các nước hỗ trợ lẫn nhau trên phương diện tác chiến”, đồng thời có t hể “bảo vệ nền hòa bình và ổn định trên biển Đông”. Trong bối cảnh sức mạnh của hải quân các nước ASEAN có hạn, sự hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ thể hiện một tín hiệu tích cực. Trên thực tế, trước khi Việt Nam tuyên bố cải tạo vịnh Cam Ranh, Nhật Bản cũng đã nhanh chân bày tỏ nguyện vọng được đồn trú tại vịnh Cam Ranh. Năm 2015, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Gen Nakatani đã tổ chức hội đàm với Bộ trưởng Phùng Quang Thanh, hai bên đã đàm phán về các nội dung như chiến của Lực lượng phòng thủ Nhật Bản đóng tại vịnh Cam Ranh và bố trí máy bay chống ngầm P-3C thực hiện các hoạt động tiếp tế tại vùng vịnh này, hai nước đã đạt được nhận thức chung trong việc để tàu chiến của Lực lượng phòng thủ Nhật Bản đóng tại vịnh Cam Ranh. Đầu tháng 3/2016, trong thời điểm Nhật Bản tăng cường viện trợ cho Việt Nam, trước khi tàu Mỹ tiến vào vịnh Cam Ranh, tàu chiến của Nhật Bản đã sẵn sàng cho việc tiến vào vùng vịnh này. Việc Việt Nam mở cửa vịnh Cam Ranh cho tà thuyền quốc tế - trong đó có tàu thuyền của Mỹ, Nhật Bản, đương nhiên cũng bao gồm cả tàu thuyền Nga, tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, rõ ràng nước Nga có phần lực bất tòng tâm, đối với Trung Quốc, điều này đồng nghĩa với việc xuất hiện một thách thức mới. Đ.Q ====================== Ngay từ khi Hoa Kỳ tuyên bố: "Không đứng về phe nào trong tranh chấp biển Đông" thì lão đã thấy đó chỉ là một thủ pháp chính trị, có mục đích chuẩn bị và tập hợp lực lượng. Với lão thì việc Hoa Kỳ quay lại Châu Á Thái Bình Dương của Hoa Kỳ là tất yếu, để bảo vệ ngôi bá chủ thế giới của chính họ và vai trò của Hoa Kỳ trong cuộc hội nhập toàn cầu. Lão đã phán điều này từ 2008, khi mà Trung Quốc mới cắt cáp tàu Bình Minh và ngay cả Hoa Kỳ cũng chưa có tuyên bố gì về biển Đông.Và vì Trung Quốc không phải Iraq. Nhưng đến nay mọi việc đã quá rõ ràng. Vấn đề còn lại chỉ là thời điểm xảy ra "canh bạc cuối cùng". Lão cảnh báo rằng: Trong "canh bạc cuối cùng" này, Hoa Kỳ mà thua thì rút về Mỹ. Nhưng Trung Quốc thua thì điếu có cửa rút về bất cứ nơi nào trên đất Trung Quốc. Lão đây không bảo kê bất cứ một điều gì sau tháng 10 Việt lịch, ngoại trừ những yếu tố xấu liên quan đến Việt Nam. Điếu mựa! Can tội làm ngoáo ộp dọa lão. Láo toét!
-
EU trừng phạt Trung Quốc, Bắc Kinh phản đòn có thể gây tan rã EU Ngọc Việt 15:36 14/05/16 Thảo luận (0) (GDVN) - Vị thế của Trung Quốc rất lợi hại vì nó như “rắn hai đầu” nên thể hiện như thế nào cũng có lợi cho họ, hay ít nhất là làm thiệt hai cho đối phương. Lực cản ông Tập Cận Bình Obama "rửa mặt" cho Putin Khi ảnh hưởng của Tưởng Giới Thạch nhạt phai The Guardian ngày 12/5 đưa tin, với 546 phiếu thuận và chỉ 28 phiếu chống, Nghị viện châu Âu (EP) đã thông qua nghị quyết bác bỏ việc trao quy chế nền kinh tế thị trường cho Trung Quốc. Đây là kết quả trái với mong đợi của Trung Quốc khi mà nước này hy vọng sẽ được Liên minh châu Âu (EU) chính thức trao quy chế nền kinh tế thị trường vào cuối năm nay. Nghị quyết của EP nêu rõ năng lực sản xuất dư thừa và xuất khẩu các mặt hàng giá rẻ của Trung Quốc đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với môi trường, tình hình kinh tế xã hội cho EU. Theo EP có tới 56 trong tổng số 73 biện pháp chống bán phá giá hiện nay của EU là nhằm vào các sản phẩm nhập khẩu từ nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này. Việc có trao quy chế kinh tế thị trường cho Trung Quốc hay không là một quyết định chiến lược ảnh hưởng tới tương lai của kinh tế châu Âu. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cho phép các nước thành viên quyền được công nhận hoặc phủ nhận một quốc gia thành viên khác có nền kinh tế thị trường hay không. EU chưa trao quy chế này cho 15 nước, trong đó có Trung Quốc. Ngay từ khi Trung Quốc gia nhập WTO năm 2001, EU đã coi nền kinh tế Trung Quốc không phải là kinh tế hàng hóa. Kể từ đó, Bắc Kinh đã tiến hành những cải cách và được EU thỏa thuận rằng tổ chức này sẽ xem xét về trao quy chế kinh tế thị trường cho Trung Quốc vào cuối năm 2016. Song điều kiện để được công nhận là gì thì thỏa thuận trên lại không đề cập chi tiết. Trung Quốc có thể gây tan rã EU thông qua "bạn vàng" Anh quốc, Thủ tướng Anh David Cameron tiếp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, ảnh: BBC. Nghị quyết của EP có thể được xem là một biện pháp mà EU trừng phạt Trung Quốc, nhưng theo cá nhân người viết thì các nước thành viên EU có thể nhận lãnh hậu quả bởi hiệu ứng “gậy ông đập lưng ông” khi Bắc Kinh phản đòn. Tại sao vậy? Cơ sở của nghị quyết trừng phạt Trung Quốc không thuyết phục Nghị quyết của EP xuất phát chủ yếu từ những tác hại bởi hàng giá rẻ của Trung Quốc hoành hành trên thị trường EU, mà trực tiếp nhất, quyết định nhất là thép giá rẻ. Bởi lẽ sản lượng thép của Trung Quốc bằng 50% sản lượng thép của toàn thế giới, trong khi giá thép của Trung Quốc lại rẻ nên nên thép Trung Quốc gấy thiệt hại cho kinh tế thế giới rất lớn, trong đó có kinh tế của EU. Tuy nhiên người viết cho rằng, nhờ xác định chính xác phân khúc thị trường và định vị sản phẩm nên Trung Quốc đã thành công trong việc chiếm lĩnh thị trường hàng giá rẻ thế giới. Dù có những biện pháp bảo hộ mậu dịch mà trực tiếp là cơ chế điều tiết tiền tệ của Bắc Kinh, nhưng về cơ bản Trung Quốc sản xuất được hàng giá rẻ do họ có cách làm riêng của mình. Như người viết đã từng phân tích, Trung Quốc đảo ngược quy trình sản xuất một cách tinh vi và tạo hiệu quả kép trong đầu tư sản xuất là hai yếu tố quan trọng nhất giúp cho hàng hoá của Trung Quốc có giá rẻ hơn thị trường thế giới. Họ có thể chưa hoàn toàn đáp ứng những yêu cầu ngặt nghèo như đảm bảo an toàn cho môi trường chẳng hạn, nhưng không thể phủ nhận hàng giá rẻ là thành quả của ý tưởng và cách làm hợp thời của họ. Không thể cứ vin vào giá bán rẻ là có thể khẳng định khách hàng bán phá giá. Hàng hoá Việt Nam xuất khẩu vào một số thị trường cũng đã từng phải hứng chịu hậu quả vì tâm lý áp đặt này. Hàng thép giá rẻ của Trung Quốc tràn ngập thị trường EU, phá hoại ngành công nghiệp thép của liên minh kinh tế lớn nhất thế giới này, nhưng đến nay EU vẫn chưa thể tìm ra cơ sở cho việc khẳng định Trung Quốc bán phá giá. Giá thành rẻ và lợi nhuận thấp là hai yếu tố quyết định giá bán hàng hoá của Trung Quốc rẻ hơn đối thủ. EU có thể yêu cầu Trung Quốc tuân thủ những quy định chung trong sản xuất và thương mại của thế giới, nhưng không thể ép buộc giá thành và tỷ suất lợi nhuận của Trung Quốc để như một hàng rào mậu dịch ngăn chặn hàng hoá Trung Quốc xâm nhập thị trường. EU và các đối tác chưa sản xuất được hàng giá rẻ thì phải tập trung vào cách làm ra hàng hoá có gía cả cạnh tranh với Trung Quốc chứ không chỉ tìm biện pháp trừng phạt các doanh nghiệp nước này. Đặc biệt, EP ra nghị quyết nhưng chưa công bằng trong việc cân bằng lợi ích kinh tế tài chính của người sản xuất và lợi ích kinh tế xã hội của người tiêu dùng. Thép Trung Quốc làm mưa làm gió trên thị trường toàn cầu, ảnh minh họa: VnEconomy. “Với việc thép Trung Quốc đang được bán phá giá trên thị trường toàn cầu, Nghị viện châu Âu hôm thứ Năm đã bỏ phiếu chống lại việc Trung Quốc nên được xem xét đối xử giống như EU hay Mỹ. Quyết định này gây áp lực lên Ủy ban châu Âu EC, hoặc là phản đối tình trạng kinh tế thị trường đầy đủ của Trung Quốc hoặc có biện pháp bảo vệ cho các ngành công nghiệp cụ thể”, theo The Guardian ngày 12/5. Thời gian qua nhà sản xuất, người lao động biểu tình phản đối hàng giá rẻ của Trung Quốc gây ảnh hưởng đến công việc sản xuất kinh doanh, công ăn việc làm và thu nhập của lao động xã hội để gây sức ép lên lãnh đạo EC. Tuy nhiên, khi không còn một mặt hàng giá rẻ nào đó của Trung Quốc trên thị EU thì cả EC, EP sẽ không thể ngăn chặn làn sóng biểu tình của người tiêu dùng vì lợi ích của họ bị tước mất nhờ hàng giá rẻ Trung Quốc. Nghị quyết của Nghị viện Châu Âu được thông qua không hợp thời điểm Trong “bộ ba 10 ngàn tỷ USD” thì EU đang trục trặc với Mỹ, cụ thể nhất hiện nay là Bruselss và Washington không thể nhường nhau để đi đến thống nhất cho TTIP – một hiệp định thương mại rất quan trọng với kinh tế của EU. Dù có lạc quan như thế nào đí chăng nữa thì giới đầu tư cũng cho rằng TTIP không thể hoàn tất trước khi Tỏng thống Mỹ Obama rời nhiệm sở. Việc không có được TTIP dù có hại nhiều hơn cho kinh tế Hoa Kỳ nhưng với kinh tế EU không phải nó vô hại. Việc cứng rắn với Washington chỉ là nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những “lợi bất cập hại” cho EU khi thực thi hiệp định này chứ không phải Bruselss không mặn mà với TTIP. Bạn hàng lớn nhất đang ở thế gờm nhau với EU. Với bạn hàng lớn thứ hai còn lại trong “bộ ba 10 ngàn tỷ USD” Trung Quốc thì EP ra phán quyết trừng phạt, khiến cho EU hiện tại như có hai cuộc chiến với hai đối thủ lớn nhất của mình. Từ trước tới nay Washington luôn là bệ đỡ cho EU, nhưng từ khi Obama chọn ưu tiên TPP thì Bắc Kinh dần thế chân Washington tại lục địa già này. Nay EU gần như là quay lưng với cả hai, vậy kinh tế EU sẽ đi về đâu, như thế nào khi EP xem cả Trung Quốc và Hoa Kỳ đều là đối thủ? Rõ ràng lãnh đạo EC đang đưa nền kinh tế EU đi trên dây với nhiều nguy cơ mà có thể gây thiệt hại rất lớn cho liên minh kinh tế này. Chỉ cần cả Washingtion và Bắc Kinh phản đòn là Bruselss rối loạn. Trong lúc đó nội bộ liên minh EU đang rạn nứt và có nguy cơ rã đám khi chỉ còn hơn một tháng nữa người dân nước Anh sẽ quyết định đi hay ở với EU. Nguyên nhân của việc này là do người Anh cảm thấy chưa nhận được quyền lợi thoả đáng từ EU, trong đó có lợi ích về kinh tế và vai trò trong cơ chế liên minh – chủ quyền. Tác hại của việc Anh rời EU (Brexit) nếu xảy ra là rất lớn, thậm chí lãnh đạo EC phải cho rằng rất nghiêm trọng. Từ EU đến EC đang tìm mọi cách để vô hiệu “Brexit” với việc thoả mãn thêm một số điều kiện có lợi cho người dân xứ sở xương mù. Ngay cả chính phủ của Thủ tướng David Cameron cùng nhiều lãnh đạo đảng đã bỏ qua bất đồng để cùng cứu EU. Nhà kinh tế Monika Boven của DZ Bank nhận định: “Nếu Brexit xày ra, kinh tế Đức có thể tăng trưởng 1,4% năm 2016 và 0,5% năm 2017, thay vì mức dự kiến hiện nay là 1,8% và 1,7% của DZ Bank. Chính phủ Đức thì dự đoán nền kinh tế nước này sẽ tăng trưởng 1,7% năm 2016 và 1,5% năm 2017”. Và Brexit sẽ ngốn 50 tỷ USD của kinh tế Đức, theo Bnews ngày 13/5. Nghị viện châu Âu EP có thể bị Bắc Kinh phản đòn vì quyết định mới này, ảnh: lorientlejour.com. Có thể việc EP ra nghị quyết về việc chưa trao quy chế kinh tế thị trường cho Trung Quốc được xem là đáp ứng kip thời mong muốn của người Anh vì ngành thép của nước Anh là chịu thiệt hại lớn nhất trong việc giải bài toán thép giá rẻ của Trung Quốc hiện nay. Tuy nhiên, đó chỉ là đáp ứng mong ước của nhà sản xuất và lao động làm việc trong ngành thép mà thôi. Đại bộ phận người dân Anh không phải đều được lợi từ nghị quyết này. Trong thời buổi khó khăn kinh tế hiện nay, việc gây nguy cơ làm mất đi nguồn cung ứng hàng giá rẻ, ảnh hưởng đến kênh hàng giá rẻ có thể khiến người tiêu dùng thất vọng. Và không chỉ người tiêu dùng, mà cả nhà phân phối cũng bị thiệt hại bởi phán quyết này vì có thể khan hàng giá rẻ. Trung Quốc có thể tác động gây nguy cơ tan rã EU Cho đến giờ phút này, chưa ai dám chắc “Brexit” không xảy ra. Qua thăm dò người dân Anh cho thấy họ vẫn lưỡng lự giữa đi và ở, dù có thể “Brexit” diễn ra thì nước Anh có nhiều thiệt hại và không chỉ về kinh tế. Tuy nhiên, thái độ lưỡng lự của người Anh cho thấy những động thái của lãnh đạo EC, EU hướng về nước Anh chưa đủ niềm tin đảm bảo cho lợi ích của họ. Việc cố gắng đáp ứng yêu cầu của người Anh để ngăn chặn “Brexit’ khiến cho nội bộ các thành viên trong EU sẽ có mâu thuẫn bởi cách hành xử “nhất bên trọng nhất bên khinh” của lãnh đạo liên minh này. Điều đó không còn là phỏng đoán nữa mà nó đã hiển hiện khi có một số nước cho biết sẽ theo gương Anh tổ chức dân cầu trưng ý xem nên đi hay ở lại EU. Cũng nên nhớ rằng, khi Tập Cận Bình qua thăm Vương quốc Anh năm 2015 thì kết quả là Tập Cận Bình và David Cameron đã xây dựng nên mối quan hệ “vàng” giữa Bắc Kinh và London - một hành động được xem là Tập Cận Bình “trả thù” Barak Obama qua vụ bị gạt khỏi TPP, không thể ngọt ngào hơn được nữa. Theo Financial Times ngày 21/10/2015, thái độ của London trước thềm chuyến thăm Anh của ông Tập Cận Bình là trái ngược với thông điệp cứng rắn của ông Obama. Nhiều quan chức của Anh cho rằng mối quan hệ Anh - Trung đã bước vào một “kỷ nguyên vàng”. “Thông điệp được gửi đi cho thấy thương mại và hợp tác kinh tế là yếu tố duy nhất định hướng chính sách của Anh đối với Trung Quốc”, chuyên gia Tom Wright thuộc Viện Brookings nhận xét. Cho dù Bắc Kinh vẫn làm hành làm tỏi người “bạn vàng” của mình qua việc lũng đoạn hàng giá rẻ, nhất là thép giá rẻ, tuy nhiên có thể hiểu Bắc Kinh muốn giúp "bạn vàng" cũng không dễ vì Anh là thành viên của EU. Trung Quốc chỉ có thể “chiều” Anh chứ không thể “chiều” tất cả các thành viên khác của EU, vì tất cả chưa phải là bạn vàng của Bắc Kinh. Với vị thế mâu thuẫn của mình trong quan hệ với EU và từng thành viên trong EU, khiến cho Bắc Kinh có thể tương kế tựu kế trong việc phản đòn lại EU vì nghị quyết trừng phạt của EP nhằm vào Bắc Kinh. Vị thế của Trung Quốc rất lợi hại vì nó như “rắn hai đầu” nên thể hiện như thế nào cũng có lợi cho họ, hay ít nhất là làm thiệt hai cho đối phương. Nữ hoàng Anh đón "bạn vàng" Trung Quốc, ảnh: BBC. Trung Quốc có thể tác động vào Anh và có thể là các nước thành viên khác của EU qua những cơ chế lợi ích riêng biệt khiến cho người dân Anh có thể lựa chọn rời bỏ EU. Khi Brexit xảy ra thì có thể sẽ có nhiều “Brexit” nữa trong tương lai. Bruselss sẽ lối loạn vì EU có nguy cơ tan rã, khi đó Bắc Kinh sẽ có nhiều “bạn vàng” khác nhau tại lục địa này. Nếu người dân Anh lựa chọn ở lại EU thì chắc chắn EU phải trả giá cho sự lựa chọn ấy không hể rẻ chút nào và không phải chỉ trả một lấn là xong. Chỉ cần một ưu đãi hứa hẹn đặc biệt nào đó của Bắc Kinh cho London sẽ khiến cho EU phải lo sốt vó để đáp ứng yêu cấu của người dân xứ sở sương mù và cũng là lúc phải lo đáp ứng yêu cầu người dân các nước thành viên khác. Như vậy dù nước Anh có rời khỏi EU hay không, dù Brexit có xảy ra hay không thì nguy cơ rạn nứt trong EU là không thể tránh khỏi. Cứ một chút lợi ích nhỏ giọt Bắc Kinh gửi tới một thành viên nào đó của EU qua cơ chế hợp tác song phương sẽ khiến cho Bruselss phải đau đầu tìm cách đáp ứng nhiều hơn gấp nhiều lần để tránh một mắt xích có thể bị rão. Trung Quốc đã bị thiệt hại bởi không có lợi thế của nền kinh tế thị trường trong quan hệ với EU, nay nghị quyết của EP có khả năng kéo dài thiệt hại đối với Bắc Kinh. Tuy nhiên, Trung Quốc sẽ có những bước đi có thể gây hậu quả lớn hơn cho EU gấp nhiều lần thiệt hại mà họ nhận lãnh bởi nghị quyết của EP. Chắc chắn, lãnh đạo Cộng đồng Châu Âu EU, Ủỷ ban Châu  EC, Nghị viện Châu Âu EP đã tính toán chi tiết được mất trong việc trừng phạt Bắc Kinh, song việc ra nghị quyết không trao quy chế thị trường tự do cho Trung Quốc ở thời điểm này là không phù hợp. Nó có thể khiến EU phải trả giá khi người tiêu dùng có thể mất quyền lợi từ hàng giá rẻ của Trung Quốc và họ có hành động đòi lại. Ngọc Việt ======================= Thưa tác giả Ngọc Việt. Châu Âu đã trừng phạt Trung Quốc từ rất lâu, sau sự kiện Thiên An Môn. Nay chưa chấp nhận kinh tế thị trường cho Trung Quốc thì cũng không đến nỗi như tác giả viết: Mọi chuyện sẽ không dừng lại ở đây và diễn biết rất nhanh. Hãy chờ xem. "Thiên cơ khả dĩ lộ từ từ....".
-
Dựng tượng Vua Hùng: Đừng để hao hao giống vua Trung Quốc (Tin tức thời sự) - Cần phải tổ chức một công trình nghiên cứu cấp quốc gia để nghiên cứu kỹ càng các cứ liệu lịch sử, khi đó mới dựng tượng Vua Hùng. Dựng tượng Vua Hùng: Mơ hồ, mạo hiểm, không nên làm Dựng tượng Vua Hùng: Đời nào, mặc gì, dáng dấp ra sao? GS Hoàng Chương – Giám đốc Trung tâm bảo tồn nghiên cứu văn hóa dân tộc tỏ ra bối rối khi được hỏi về 3 mẫu phác thảo dựng tượng Vua Hùng đang lấy ý kiến của dư luận. Giám đốc Trung tâm bảo tồn nghiên cứu văn hóa dân tộc cho biết, Vua Hùng là một nhân vật, một vị vua chỉ tồn tại trong trí tưởng tưởng của người dân mà không có được một hình mẫu nào cụ thể, vì vậy dựng tượng Vua Hùng là rất khó. Phác thảo tượng Vua Hùng tại Phú Thọ “Tượng Vua Hùng được dựng tại Thác Đa từ cách đây 10 năm, cũng chỉ là dựa trên trí tưởng tượng, không một nhà điêu khắc nghệ thuật nào giám khẳng định đó chính là Vua Hùng”, ông nói. Theo ông, ngay cả với những nhân vật lịch sử ở gần thời đại chúng ta hơn, có nhiều sử liệu và hình ảnh mà chúng ta vẫn chưa thể làm tốt như các vị vua thời Trần, thời Lý, thời Lê… Trong khi, Vua Hùng chỉ là nhân vật huyền thoại. Vị chuyên gia thẳng thắn cho biết, đây sẽ là thách thức rất lớn với những người làm văn hóa, nghệ thuật, điêu khắc của VN. Tượng Vua Tổ không thể giống với tượng các nhân vật lịch sử khác, không thể xây lên rồi lại đập đi vì không đúng, không được người dân chấp nhận, như vậy là lãng phí, đồng thời còn gây ảnh hưởng về mặt chính trị. Ông đã nghe nhiều ý kiến nói, tượng đài Lý Thái Tổ hiện nay lại hao hao giống Khổng Minh – Quan công của Lưu Bị nhiều hơn. Rồi chiếc mũ ông đội lại giống vời đời Hán chứ không phải đời Lý. Biết là sai đó nhưng đã đựng tượng lên rồi thì không thể sửa được nữa. Hay Vua Quang Trung, một vị vua nổi tiếng chống quân xâm lược của Việt Nam nhưng khi tạc tượng ông, nhiều người lại nói đó không phải là Quang Trung mà là hình tượng người đóng thế cho Vua Quang Trung. Tức là, dựng tượng dựa trên bức họa của Vua Càn Long vẽ khi Quang Trung sang đi sứ nhưng thực tế đó không phải là Quang Trung mà là người đóng thế vua Quang Trung đi sứ. Cuối cùng bức tượng đó phải bỏ và dựng lại theo mẫu phác họa dựa trên hình mẫu con người Quang Trung qua các giữ liệu sử sách ghi lại. Hiên nay chỉ có hai bức tượng vua Quang Trung rất lớn ở Gò Đống Đa và bảo tàng Vua Quang Trung (Bình Định) đã được người dân chấp nhận. Theo ghi nhận, chỉ có tượng Trần Hưng Đạo ở Nam Định cũng tạm được coi là tạo mẫu thành công nhưng cho tới nay cũng đã có đến hàng chục phiên bản khác nhau trên cả nước. ''Vậy thì với Vua Hùng sẽ thế nào?'', ông đặt câu hỏi. Để phác họa lên một chân dung, một hình tượng vị Vua Hùng vừa đảm bảo dấu mốc lịch sử, vừa thể hiện được vóc dáng, cốt cách, con người một vị Vua Tổ là vấn đề cực kỳ khó. Không thể tùy tiện muốn làm thế nào cũng được. Ông cho biết, đến ngay việc xác định về trang phục thời kỳ đó thế nào? Là đóng khố hay là mặc quần áo, chất liệu ra sao… đều chưa có gì cụ thể. Hay Vua Hùng thời đó phải đội mũ thế nào? Có phải là mũ lông chim hay không? Tất cả còn quá mơ hồ, chưa có gì cụ thể. Ngay cả khi muốn dựa vào tư liệu, sử sách để phác họa lên chân dung một ông Vua Tổ cũng vô cùng khó khăn. Theo ghi nhận, trang phục của những người nhảy múa được họa trên trống đồng có thể giúp các họa sĩ, nhà mỹ thuật hình dung ra một thời kỳ người dân chỉ biết mặc khố, đội mũ lông chim, đi chân đất... Nhưng đó chỉ là phác họa về đời sống văn hóa của người dân thời kỳ đó không thể dựng lên một vị Vua Tổ lại mặc khố, nhưng cũng không thể dựng lên một Vua Hùng mặc áo bào, ông nói. Ông cho rằng, nếu muốn dựng tượng Vua Hùng, VN có thể tham khảo thêm từ những văn hóa cổ từ Trung Quốc. Vì VN và Trung Quốc có hai nền văn hóa khá tương đồng về mặt thời gian và đều bị ảnh hưởng tới nhau rất nhiều. Do đó, có thể tham khảo thêm về trang phục, hoặc dựa trên hình tượng các vị Vua cổ của Trung Quốc để phác thảo lên hình ảnh Vua Hùng. Ông Chương lưu ý, để chính xác hơn VN nên nghiên cứu thêm các dấu tích lịch sử, văn hóa cổ Trung Quốc tại bảo tàng Đài Loan. Vị giám đốc đồng tình với quan điểm dựng tượng là cần thiết. Theo ông, ông tổ của dân tộc thì cần phải dựng để người dân chiêm ngưỡng, chiêm bái, tôn vinh trong ngày quốc giỗ là điều cần thiết. Nhưng ông khẳng định, phải cân nhắc rất kỹ, không thể lấy cái cớ vì không ai biết Vua Hùng là ai thì có thể tùy tiện tưởng tượng, tùy tiện vẽ lên một hình tượng na ná ông Vua Hùng. Vì vậy, theo ông, cần phải tổ chức một công trình nghiên cứu cấp quốc gia để nghiên cứu kỹ càng các cứ liệu lịch sử, khi đó mới dựng tượng Vua Hùng. Một mình Phú Thọ không thể làm được. Cá nhân ông cho biết, ông cũng từng tham gia dựng lại hình tượng các nhân vật Quang Trung và bà Trưng Trắc với vai trò là đạo diễn. Trên sân khấu, cái khó của ông là làm sao để người dân khi xem phải chấp nhận được đó là bà Trưng Trắc hay Vua Quang Trung dù không ai biết bà Trưng Chắc, Trưng Nhị hay Bà Triệu, Quang Trung là ai. Ông lấy ví dụ như hình tượng bà Triệu, theo truyền thuyết dân gian và theo trí tưởng tượng của người dân bà Triệu phải là người phụ nữ có cặp tuyết lê dài một thước. “Nhưng, khi đó bà Triệu còn trẻ, cặp tuyết lê không thể dài đến một thước được, như vậy làm sao bà đi đánh giặc.Tuy nhiên, qua trí tưởng tưởng của dân gian, người làm nghệ thuật phải hình dung ra một hình tượng bà Triệu với cặp tuyết lê săn chắc, căng đầy…”, ông nói. Với hình tượng Vua Hùng, ông Chương cũng cho rằng tất cả chỉ là tưởng tượng, đó là cái khó với người thực hiện. Khẳng định, không thể vẽ lên một ông Vua Hùng giống chính xác với Vua Hùng, nhưng cần thiết phải dựa vào lịch sử, từ nền văn hóa, trang phục cho tới mũ mão… làm sao khi dựng lên bức tượng người dân, dư luận nhìn vào có thể hình dung ra đó là Vua Hùng, vị Vua Tổ của VN. Ông cho biết thêm, ngay tại các nước trên thế giới như Ấn Độ, Hy Lạp họ vẫn dựng các vị thần như thần sấm, thần mưa… Các vị thần cũng chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của mỗi người, không có gì cụ thể, nhưng dựng tượng các vị thần để người dân nhìn vào có thể hình dung được đó là vị thần nào là rất khó. Dựng tượng Vua Hùng: Đời nào, mặc gì, dáng dấp ra sao? “Tôi vừa được đi xem bức tượng cổ cách đây cả mấy ngàn năm tại Bảo tàng Campuchia. Cho tới nay bức tượng đã bị hư hỏng nhiều, chỉ còn lại một phần thân và đầu của bức tượng nhưng người dân Campuchia vẫn chấp nhận đó là một trong các vị thống soái huyền thoại của nước họ. Dựng tượng Vua Hùng cũng vậy, VN cũng cần phải học hỏi kinh nghiệm, cần nhìn vào những hình tượng nước bạn để phục dựng lại”, ông nói. Lấy ví dụ từ bài múa Chăm của tác giả, NSND Đặng Hùng, vị chuyên gia nhấn mạnh, tác giả không thể là người được tận mắt chứng kiến điệu múa này, càng không thể từng tham gia hay từng trực tiếp biểu diễn. Sự thành công của tác giả là ông đã biết chắp nối, vẽ lên một điệu múa tuyệt đẹp dựa trên những di tích điêu khắc còn lưu dấu trên các đền tháp và hệ thống tượng cổ ở bảo tàng Chăm. Cho tới bây giờ điệu múa vẫn được chấp nhận đó là điệu múa cổ của Champa. Ông khẳng định, một tác phẩm phải đảm bảo sự kỳ công về khoa học, phải nghiên cứu kỹ lưỡng không một ai có thể chấp nhận sự tùy tiện. Làm nghệ thuật mà tùy tiện, ăn xổi sẽ không bao giờ thành công, ông nhấn mạnh. Lam Lam ============================= Tạm thời đây là câu trả lời của tôi. Vì đang rất yếu trong người, nhưng tôi sẽ tìm tư liệu bổ sung thêm để làm phong phú bài viết này vào các bài viết tiếp theo. Nếu những nhà nghiên cứu Việt Nam thực tâm tìm về cội nguồn dân tộc thì tôi sẵn sàng chỉ cho họ một chỗ để đến đó xem và tạc tượng vua Hùng. Còn nếu tiếp tục giữ quan điểm phủ nhận cội nguồn truyền thống của dân tộc "Ông cha ta ở trần đóng khố" và chỉ là "một liên minh bộ lạc" ....thì các người hãy tự thực hiện lấy. Cá nhân Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh luôn xác định rằng: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử và nền văn hiến Việt chính là cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương huyền vĩ. Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại đang tìm kiếm. THỜI HÙNG VƯƠNG, TỔ TIÊN TA ĂN MẶC NHƯ THẾ NÀO? Nguyễn Vũ Tuấn Anh Tuần Việt Nam (2009) Người Việt thời Hùng Vương đã có một nền văn minh rực rỡ, xứng đáng với danh xưng văn hiến, trải gần 5000 năm, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử. LTS: Thời Hùng Vương, tổ tiên chúng ta ăn mặc thế nào đang là câu chuyện gây nhiều tranh cãi. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam xin giới thiệu bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Có thể một vài thông tin trong bài cần được thảo luận thêm. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không phải quan điểm của Tuần Việt Nam. Nhà Xuất Bản Giáo Dục đã cho phép in cuốn sách minh họa, hình ảnh tổ tiên ta vào thời An Dương Vương, ăn mặc như thời mông muội trong lịch sử nhân loại: Chung quanh người chỉ cuốn lá cọ. Mà vào thời đại tương đương, với thời gian lịch sử ấy, có thể nói rằng: Hầu hết các dân tộc khác trên mặt địa cầu này, đã có một nền văn minh phát triển. Điều này khiến tôi có thể chắc chắn rằng: Không phải chỉ một mình tôi cảm thấy đau lòng, vì sự miêu tả tổ tiên một cách thấp kém, của những cuốn sách truyện loại này. Một trào lưu hạ thấp giá trị cội nguồn dân tộc Tôi không có thành kiến riêng, với người họa sĩ minh họa cho bộ chuyện tranh này. Anh ta chỉ là một trong rất đông người, nằm trong trào lưu của quan điểm, phủ nhận những giá trị truyền thống, về cội nguồn trải gần 5000 năm văn hiến của dân tộc Việt. Cách đây không lâu, trong cuộc thi thể hình ở Đài Loan, Nguyễn Tiến Đoàn - mệnh danh là Hoa vương của cuộc thi - cũng đã ăn mặc như truyện tranh trên miêu tả và hiên ngang phát biểu, trước tất cả các đại diện thi thể hình nam, của các dân tộc trên thế giới: "Đây là y phục dân tộc truyền thống của dân tộc Việt". Điều này khiến tôi - người viết bài này, thấy nghẹn ngào, khi y phục truyền thống của các dân tộc khác trên thế giới rất đẹp và chứng tỏ họ là một dân tộc văn minh. Còn hình ảnh y phục truyền thống dân tộc Việt, theo như Nguyễn Tiến Đoàn công bố, thì chỉ "Ở trần đóng khố"!?. Sự việc cũng không chỉ mới ở Nguyễn Tiến Đoàn, và truyện tranh "An Dương Vương và nhà nước Âu Lạc". Từ năm 1996, Nxb Trẻ cũng in một bộ truyện "Lịch sử Việt Nam bằng tranh", khi miêu tả về thời Hùng Vương, thì chúng ta cũng lại chỉ gặp hình ảnh những người dân "ở trần đóng khố". Dưới đây là hai hình minh họa của bộ truyện tranh "Lịch sử Việt Nam bằng tranh" về y phục thời Hùng Vương: Vua Hùng và các quan lang (Lịch Sử Việt Nam bằng tranh - tập III. Nxb Trẻ 1998. Vua Hùng và Chử Đồng Tử (Lịch sử Việt Nam bằng tranh - Nxb Trẻ - 1998. Những bài viết về y phục dân tộc thời Hùng Vương miêu tả như những con người sống ở thời bán khai, nhan nhản, có thể không khó khăn lắm khi tìm những tài liệu này rải rác trên báo chí và sách, mạng...và ngay cả trong sách giáo khoa phổ biến từ trước 2004 từ cấp I đến Đại học. Quan niệm về một hình ảnh thấp kém của tổ tiên không còn là một suy nghĩ riêng lẻ, một thứ tư duy lạc loài mà người ta quen gọi là "hiện tượng cá biệt". Nó đã trở thành một tư duy khá phổ biến. Họ đã căn cứ vào đâu để có một nhận định như vậy về y phục dân tộc Việt thời Hùng Vương? Có thể xác định rằng: Không hề có một căn cứ khoa học nào hết. Nhưng ngược lại, tôi có thể xác định rằng: Người Việt thời Hùng Vương đã có một nền văn minh rực rỡ, xứng đáng với danh xưng văn hiến trải gần 5000 năm, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử. Nhưng bằng chứng mà tôi trình bày dưới đây, xác định quan điểm này. Y phục thời Hùng Vương - cội nguồn lịch sử 5000 năm văn hiến Việt 1 - Y phục giới bình dân Để chứng minh cho nhận định trên, bạn đọc so sánh những bức vẽ minh hoạ, những hình ảnh di vật khảo cổ và những luận cứ được trình bày sau đây: Hình trên được chép lại từ cuốn "Ký họa Việt Nam đầu thế kỷ 20" (Nxb Trẻ 1989 - Nguyễn Mạnh Hùng giới thiệu). Đây là công trình sưu tầm của một học giả người Pháp có tên là Henri Joseph Oger. Nói một cách khác, ngay ở thế kỷ 20 này người ta vẫn ở trần đóng khố, nhưng đó không phải là y phục phổ biến trong sinh hoạt xã hội ở thời gian này. Hình lớn trong trên đây mà bạn đang xem là bức tranh dân gian nổi tiếng: "Đánh ghen", thuộc dòng tranh dân gian của làng tranh Đông Hồ. Đó là bức tranh giàu tính nhân bản, thể hiện ở hình người con chắp tay lạy cha mẹ. Hình ảnh hai người phụ nữ trong tranh tuy không thuộc thời Hùng Vương, nhưng bạn đọc có thể so sánh với bức tranh minh họa về y phục thời Hùng Vương ở góc trên bên trái, được in lại trong cuốn "Lịch sử Việt Nam bằng tranh" (Nxb Trẻ 1996, tập 3). Chắc chắn bạn sẽ ngạc nhiên về sự tương tự của người phụ nữ trong hai tranh. Đương nhiên bức tranh minh họa trong cuốn "Lịch sử Việt Nam bằng tranh" không phản ánh sự thật về y phục phổ biến trong sinh hoạt của thời Hùng Vương. Bởi vì nó không thể liên hệ được sự giống nhau trong khoảng cách gần 2000 năm, theo quan điểm lịch sử mới, về y phục thời Hùng Vương mà họ miêu tả, so với bức tranh dân gian Việt. Ngược lại, chúng ta so sánh y phục trong bức tranh "Đánh ghen" và y phục dân tộc truyền thống của phụ nữ miền Bắc, với hình người trên cán dao bằng đồng, trong hình mô tả dưới đây: Ảnh Tượng chùa Dâu: Thiên Sứ; Ảnh người phụ nữ nông thôn: Võ An Ninh. Hình trên mà các bạn đang xem là một cụm hình, được ghép bởi hình chiếc cán dao bằng đồng, từ thời Hùng Vương - có niên đại được xác định là 300 năm tr.CN, được tìm thấy ở Lãng Ngâm - Hà Bắc - trên có tạc người phụ nữ, với y phục thời Hùng Vương và hình vẽ miêu tả y phục của một phụ nữ miền Bắc (Ảnh Võ An Ninh) và ảnh Tượng chùa Dâu, do người viết ghép lại thành cụm hình để tiện so sánh. Kiểu y phục của hình vẽ này, tuy không còn phổ biến, nhưng bạn vẫn có thể gặp ở một bà già cao tuổi, sống trong một vùng nông thôn xa thành thị nào đó, ở miền Bắc Việt Nam, ngay trong năm 2009 này. Đó là thế hệ cuối cùng, nằm trên võng ru con, bằng cách kể lại những câu chuyện cổ tích, từ thời xa xưa và truyền thuyết về một nước Văn Lang - nơi cội nguồn của người Việt - trước khi nhường lại cho những phương tiện thông tin đại chúng, và những người nghiên cứu thông thái nói lại, về những câu chuyện của họ. Qua hình ảnh minh họa đã trình bày với bạn đọc ở trên, chúng ta cũng nhận ra sự trùng khớp hoàn toàn, bởi những đường nét chính, giữa y phục trên cán dao đồng, và y phục của người phụ nữ Việt hiện đại còn mặc, tuy không còn phổ biến. Điều này chứng tỏ một cách sắc sảo rằng: Y phục của người phụ nữ miền Bắc, còn mặc hiện nay, chính là sự tiếp nối truyền thống, y phục từ thời Hùng Vương, thể hiện trên chiếc cán dao đồng. Đồng thời, sự so sánh này cũng cho thấy: Từ 2300 năm qua trở lại đây - về căn bản - hình thức y phục phổ biến trong dân gian, không có sự thay đổi đáng kể. Như vậy, có thể khẳng định: Dưới thời Hùng Vương, ông cha ta đã có những y phục phổ biến trong giới bình dân, tương tự như y phục dân tộc, còn tồn tại ở các vùng thôn quê Việt Nam. Qua đó, chúng ta cũng nhận thức được rằng: Y phục của tầng lớp bình dân, trong xã hội thời Hùng Vương, đã mang tính văn hoá đặc thù của dân tộc Việt, và xã hội này, phải có một nền văn minh phát triển, để chế tác ra những cấu trúc y phục cầu kỳ đó. Chúng ta tiếp tục tìm hiểu về y phục, của tầng lớp trên, trong xã hội Việt thời Hùng Vương. 2 - Y phục tầng lớp trên trong thời Hùng Vương Tất nhiên, khi mà trang phục phổ biến, của các tầng lớp bình dân đã hoàn chỉnh và đa dạng, thì y phục của tầng lớp trên cũng phải phù hợp với đẳng cấp của nó, vì sự trang trọng và việc thực hiện những nghi lễ quốc gia văn hiến. Để chứng minh điều này, bạn đọc tiếp tục xem xét các vấn đề và hiện tượng được trình bày sau đây: Hình trên mà bạn đọc đang coi được chép lại từ bộ truyện tranh "Tam quốc diễn nghĩa" do chính các họa sĩ Trung Quốc thực hiện, Nxb Mũi Cà Mau in lại vào năm 1995, trọn bộ 30 tập. Đây là hình thứ 3795 trong tập 16. Hình người nổi bật trong tranh bên chính là Tôn Quyền (Thế kỷ II và III sau CN). Hình người phụ nữ ở giữa cụm tranh này chính là Tôn Phu Nhân, em gái Tôn Quyền, vợ Lưu Bị cũng được chép lại từ bộ truyện tranh trên. Bạn hãy so sánh y phục của tất cả những nhân vật Tam Quốc, thể hiện nền văn hoá Hán trong các tranh trên với hình người trên cán dao bằng đồng của thời Hùng Vương có trước đó 500 năm (Tư liệu trong sách "Thời đại Hùng Vương" Nxb Khoa học Xă hội Hà Nội 1995). Bạn sẽ thấy một sự tương tự trong y phục. Chỉ có khác chăng là tay áo thụng của các nhân vật Tam Quốc và tay áo bó của hình người trên cán dao đồng, còn phần y phục gần như hoàn toàn giống nhau. Nếu như y phục của các bậc vương giả thời Tam Quốc không phải là bắt chước y phục thời Hùng Vương, thì chắc chắn y phục của cô gái ở trên cán dao đồng thời Hùng Vương không thể bắt chước các nhân vật Tam Quốc. Bởi vì, chiếc cán dao này có niên đại trước thời Tam Quốc ít nhất 500 năm. Vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây. Về y phục của tầng lớp trên trong xã hội Văn Lang, người viết xin được trình bày một đoạn trích dẫn trong kinh Thư. Kinh Thư là một trước tác từ trước đến nay vẫn được coi là sản phẩm của nền văn minh Trung Hoa, nhưng lại có rất nhiều dấu ấn chứng tỏ thuộc về nền văn minh Văn Lang. Dấu ấn đầu tiên của người Lạc Việt trong kinh Thư được chứng minh trong sách "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại" (Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Nxb Văn Hoá Thông Tin tái bản lần thứ 2 - 2002) chính là Hồng phạm cửu trù, bản hiến pháp đầu tiên của người Lạc Việt. Đoạn trích dẫn sau đây liên quan đến y phục dân tộc thời Hùng Vương được trích trong cuốn "Thượng Thư - sách ghi chép thời thượng cổ" (bản dịch Võ Ngọc Liên, Trần Kiết Hùng. Nxb Đồng Nai 1996, trang 156): "Ba loại như mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú thì làm tinh kỳ, rồng chỉ y phục của vua, hổ chỉ y phục của đại thần theo sự phân biệt ba loại y phục khác nhau: cổn miện (của vua), tệ miện, tuyệt mịch. Tên của ba loại quần áo là dựa vào hình vẽ trên y phục mà gọi, như "cổn" thì có long cổn, cổn miện có chín bậc trong đó có long cổn đứng đầu. Tệ tức là chim trĩ, tệ triều có bảy loại trong đó có hổ đứng đầu". Qua đoạn văn trên, bạn đọc nhận thấy rằng "cổn miện" (tức là mũ của vua) có chín bậc. trong đó long cổn đứng đầu; "tệ miện tức là cái mũ có hình chim trĩ". Về hình ảnh mũ có hình tượng rồng của vua và mũ có hình chim trĩ của các quan - Oái oăm thay - nó lại được chứng tỏ trên trống đồng của nền văn minh Văn Lang. Qua hình trên, bạn đọc cũng dễ dàng nhận thấy, trên mũ của những hình người trên trống đồng này thể hiện chiếc đầu rồng và đầu chim phượng đă được cách điệu để chứng tỏ địa vị của người đó trùng hợp với văn bản của kinh Thư. Nếu như hình vẽ trên trống đồng và những vấn đề y phục của vương triều nói trên trong kinh Thư chỉ là một lần trùng hợp duy nhất thì có thể coi đó là một hiện tượng ngẫu nhiên. Nhưng vấn đề lại không phải đơn giản như vậy! Khi mà một thiên được coi là quan trọng nhất của kinh Thư: Thiên Hồng phạm, lại hoàn toàn mang nội dung của người Lạc Việt và một lần nữa cũng không chỉ dừng lại ở đấy. Người viết xin được đặt vấn đề để các bậc trí giả minh xét với đoạn trích dẫn sau đây (Việt Lý Tố Nguyên, Kim Định 1971): "Trong mấy thiên đầu kinh Thư chữ "Viết" cũng đọc và viết là "Việt". "Viết nhược kê cổ" cũng là "Việt nhược kê cổ". Các nhà chú giải lâu đời nhất như Mã Dung và Khổng An Quốc cũng chỉ giải nghĩa rằng đó là câu nói giáo đầu (phát ngữ từ) nhưng không đưa ra lý do tại sao lại dùng câu đó, tại sao chữ viết với Việt lại dùng lẫn lộn... Vì thế mà có câu lập lờ mở đầu "Việt nhược kê cổ". Cả Mă Dung lẫn Khổng An Quốc đều cho chữ "nhược" là thuận, chữ "kê" là khảo. Và, câu trên có nghĩa rằng: "Người Việt thuận theo ý vua xin kê cứu việc cổ xưa". Nếu nói "Viết nhược kê cổ" thì ra câu văn thiếu chủ từ. Còn khi thay vào bằng chữ Việt thì có chủ từ là người Việt, nhưng phải cái phiền là ghi công người Việt vào đầu kinh Thư không tiện, nên cho rằng chữ "Việt" với "Viết" như nhau..." Qua phần trích dẫn của ông Kim Định, người viết không cho rằng: "Việt nhược kê cổ" tức là "Người Việt thuận theo ý vua xin kê cứu việc cổ xưa" và càng không thể là người Việt có công chép lại kinh Thư cho nền văn minh Trung Hoa. Từ những sự phân tích trên, hoàn toàn có cơ sở để đặt một dấu hỏi hoài nghi về nguồn gốc đích thực của kinh Thư. Và câu trên có thể hiểu là: "Lược khảo những câu chuyện cổ của người Việt". Như vậy, với những dấu chứng của văn minh Văn Lang trong kinh Thư; hoàn toàn không thể cho rằng: Y phục của các vị vua thời Nghiêu, Thuấn trùng hợp một cách ngẫu nhiên với những hình ảnh trên trống đồng. Hiện tượng này chỉ có thể giải thích một cách hợp lý rằng: Y phục của vương triều được nhắc tới trong kinh Thư, chính là y phục của vương triều Văn Lang. Việc gán ghép cho vua Nghiêu, Thuấn chế tác ra y phục cũng giống như sự gán ghép những học thuật của văn minh Văn Lang cho các vị vua cổ đại Trung Hoa, khi những hình ảnh của y phục vương triều lại được thể hiện trên trống đồng Lạc Việt. Kinh Thư chính là cuốn "Lược khảo những câu chuyện cổ của người Việt" mà điều này đã ghi rõ ngay trên câu đầu của cuốn sách "Việt nhược kê cổ" và nội dung của nó hoàn toàn trùng khớp với hình ảnh trên trống đồng của nến văn hóa Việt đã trình bày. Nếu theo quan niệm mới cho rằng: Thời Hùng Vương chỉ tồn tại khoảng vài trăm năm (thế kỷ thứ VII tr.CN) và địa bàn nước Văn Lang chỉ vỏn vẹn ở miền Bắc Việt Nam, thì sẽ không thể liên hệ và có sự minh chứng một cách chặt chẽ về sự liên quan giữa y phục trên trống đồng Lạc Việt với vương triều của vua Nghiêu (khoảng 2000 tr.CN theo bản văn chữ Hán) thể hiện trong kinh Thư, bởi một khoảng cách hàng vạn dặm về địa lý và hàng thiên niên kỷ về thời gian. Trở lại vấn đề y phục, qua sự so sánh trên cho thấy: Sự có mặt của vua Nghiêu (2253 tr.CN) trong việc quy định y phục vương triều, gắn với hình ảnh trên trống đồng Lạc Việt (là một di vật khảo cổ), đă chứng tỏ một cách sắc sảo rằng: nền văn minh Văn Lang không những đã chế tác ra y phục phổ biến cho con người trong xã hội, mà ở tầng lớp trên đã có những y phục thể hiện sự trang trọng trong nghi lễ quốc gia và sự phân biệt ngôi thứ. Điều này minh chứng bổ xung cho những vấn đề được đặt ra ở những phần trên và có sự liên hệ tiếp nối như sau: * Hình người trên trống đồng mà giáo sư Nguyễn Khắc Thuần viết trong "Thế thứ các triều đại Việt Nam" cho rằng: "Hình người đang múa" thực ra đây là hình ảnh thể hiện những người đứng đầu nhà nước Văn Lang đang thực hiện những nghi lễ quốc gia. Điều này được minh chứng qua hình ảnh đầu rồng và đầu chim phượng trên những chiếc mũ của các ngài đang đội. * Từ đó đặt vấn đề: Hình chữ nhật được cách điệu trên tay các ngài chính là những văn bản được đọc trong khi hành lễ. Tính văn bản được chứng tỏ bằng nếp gấp phía trên góc hình chữ nhật. Giả thuyết này bổ sung việc minh chứng cho sự tồn tại một hệ thống chữ viết của người Lạc Việt. * Sự tồn tại hình ảnh những người đứng đầu nhà nước Văn Lang trên trống đồng là: Vua: đội mũ có hình đầu rồng; đại thần: đội mũ gắn hình chim phượng, đă khẳng định sự tồn tại một nhà nước có tổ chức chặt chẽ ở thời cổ đại, tương tự như các quốc gia cổ đại hùng mạnh khác vào thời bấy giờ. Chính những y phục đă tồn tại hàng thiên niên kỷ trước Công nguyên trong nền văn minh Văn Lang, đã trở thành căn nguyên cho bản sắc văn hóa thể hiện trong y phục truyền thống của người Việt Nam hiện nay. Những lập luận và hính ảnh minh họa về y phục thời Hùng Vương ở trên được bổ trợ bằng một phát hiện của ngành khảo cổ như sau: 19.2.1.1 Trước hết, đó là tơ tằm. Cùng với nghề trồng lúa, nghề tằm tang có từ rất sớm. Trong những di chỉ khảo cổ thuộc hậu kỳ đá mới cách đây khoảng 5000 năm (như di chỉ Bầu Tró), đã thấy có dấu vết của vải, có dọi xe chỉ bằng đất nung. Đến giai đoạn Đông Sơn (cách nay khoảng 3000 - 2500 năm), hình người trên trống đồng đều mặc áo, váy và đóng khố. Cấy lúa và trồng dâu, nông và tang - đó là hai công việc chủ yếu luôn gắn liền nhau của nền nông nghiệp Việt Nam. Người Hán từ xưa cũng luôn xem đó là hai đặc điểm tiêu biểu nhất của văn hóa phương Nam: đó chính là hai đặc điểm đầu tiên mà Từ Tùng Thạch kể đến trong cuốn Việt giang 178 lưu vực nhân dân (Kim Định 1971a: 108); trong chữ "Man" mà người Hán dùng để chỉ người phương Nam có chứa bộ trùng chỉ con tằm. (Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam - Trần Ngọc Thêm). Trong sách Luận ngữ, thiên Hiến vấn, khi nhận xét về vai trò của Quản Trọng đối với nước Tề và ảnh hưởng của nó tới xã hội Trung Hoa, chính Khổng tử đã nói: "Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải búi tóc và vắt vạt áo bên tả như người Man Di" Bạn đọc có thể tìm thấy câu nói đã dẫn của Khổng tử ở trên trong hầu hết các sách dịch ra Việt ngữ liên quan đến Luận Ngữ, như: "Luận Ngữ - thánh kinh của người Trung Hoa". Nxb Đồng Nai 1996, Hồ Sĩ Hiệp biên soạn, Trần Kiết Hùng hiệu đính, trang 208; hoặc ngay trong cuốn "Lịch sử văn minh Trung Hoa". tác giả Witt Durant, do Nguyễn Hiến Lê dịch. Nxb Văn Hoá Thông Tin - 1997. trang 32) ... Quản Trọng - tướng quốc nước Tề thời Xuân Thu - sống vào giai đoạn đầu thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, không rõ năm sinh, mất năm 654 tr.CN, người đưa nước Tề trở thành một cường quốc, bá chủ các chư hầu nhà Chu. Đây là thời điểm tương đương với thời kỳ mà không ít những nhà nghiên cứu đă căn cứ vào Việt sử lược, cho rằng: "Đó là giai đoạn khởi đầu của thời Hùng Vương". Việt sử lược viết: Vào thời Trang Vương nhà Chu (698 - 682 tr.CN), ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật khuất phục các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương" Như vậy, qua sự trích dẫn ở trên quí vị cũng nhận thấy sự tương đương sát sao về niên đại của thời Quản Trọng (mất năm 654 tr.CN và thời Trang Vương nhà Chu: 698 - 682 tr.CN) và thời điểm lập quốc của các Vua Hùng theo cái nhìn mới - mà họ cho rằng: "Thời Hùng Vương chỉ xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VII tr. CN". Thật là một sự vô lý, khi chính Khổng tử thừa nhận một nền văn minh phát triển ở ngay bên cạnh địa bàn cư trú của người Hoa Hạ, có khả năng ảnh hưởng và chi phối đến sự phát triển của nền văn minh này. Đã có nhà nghiên cứu cho rằng: "Người Man di ở phía Bắc Trung Quốc" (?). Trên thực tế, trong các thư tịch cổ chữ Hán chưa lần nào dùng từ "Man di" để chỉ giống người phương Bắc Trung Hoa. Ngược lại, trong các thư tịch cổ chữ Hán, "Man di" là từ được dùng nhiều lần để chỉ người Việt. Từ "người Man" trong câu nói của Khổng tử không phải là một danh từ chung để chỉ những tộc người có trình dộ phát triển khác nhau, cư ngụ ở miền Nam sông Dương Tử. Ở đây, Khổng tử đă nói đến nền văn minh Lạc Việt. Bản văn sau đây do chính Tô Đông Pha, một danh sĩ thời Tống - sau Khổng Tử ngót 1500 năm xác nhận lại điều này: Tô Đông Pha chép rằng: ...Nước Nam Việt từ Tam Đại trở xuống, không đời nào dẹp yên cả. Đời Tần (246 - 207 tr.CN), tuy có đặt quan chức cai trị, xong rồi trở lại t́nh trạng man di. B́ị Ly mới diệt được nước ấy và chia làm chín quận. Nhưng đến đời Đông Hán, lại có người con gái là Trưng Trắc, khởi binh rung động hơn 60 thành.Đương thời vua Thế Tổ mới dẹp yên thiên hạ, thấy dân đă mỏi mệt và chán việc dụng binh, bèn đóng cửa Ngọc Quan từ tạ Tây Vực. Phương chi Nam Việt là chỗ hoang viếng, không đáng phiền lụy đến quân đội nhà vua nếu không phải Tuân Tức Hầu (Mã Viện) chịu khó đánh dẹp thì dân chín quận vẫn khoác áo bên trái đến bây giờ.* * Chú thích: An Nam chí lược; Lê Tắc; Quyển đệ nhất; mục "Cổ Tích". Viện Đại hoc Huế 1961. Giáo sư Linh mục Cao Văn Luận. Qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta lại một lần nữa thấy tính hợp lý giữa các hiện tượng và vấn đề liên quan đến việc vạt áo cài bên trái của chín quận Nam Việt. Điều này chứng tỏ tính thống nhất về văn hóa ở vùng đất nam sông Dương Tử này hoàn toàn khác biệt với văn hóa Hoa Hạ. Đây cũng chính là vùng đất: Bắc Giáp Động Đính hồ; Nam giáp Hồ Tôn; Tây giáp Ba thục; Đông giáp Đông Hải của nước Văn Lang xưa. Sự hiện hữu của văn hóa y phục cài vạt bên trái của Nam Việt, liên hệ với sách Luận ngữ của Khổng Tử đă chứng tỏ rằng: Từ trước thế kỷ thứ 7 tr.CN, và xa hơn - Từ thời Tam Đại - nền văn hóa Lạc Việt đă là một nền văn hóa ưu việt cho khu vực. Ảnh hưởng của nền văn hóa này rất lớn, để "Nếu không có Quản Trọng thì người Hán đã phải cài vạt áo bên trái" . Hình ảnh của việc cái vạt áo bên trái (Bên tả) cho y phục truyền thống Việt trong các bản văn trên, được minh chứng tiếp tục trong di sản văn hóa Việt tiếp nối qua các thời đại lịch sử đến tận ngày hôm nay. Bạn đọc tiếp tục so sánh với các hình ảnh dưới đây: Hình bên đây là một hình khắc nổi tiếng trên một hang động ở tình Hồ Nam, thuộc Nam Dương tử, có niên đại trên 2500 năm, mà người sống ở vùng này vẫn tương truyền rằng: Đó là hình bà Nữ Oa và vua Phục Hy. Chúng ta lại nhận thấy vạt áo cài bên trái của vua Phục Hy và bên phải của bà Nữ Oa. Có thể nói: Đây là dấu chứng cổ xưa nhất minh chứng về y phục truyền thống Việt liên hệ đến câu nói của Không Tử trong sách Luận Ngữ viết về hiện tượng áo cài vạt bên trái vào thế klỷ thứ VII trước Công Nguyên. Mối liên hệ này chúng ta sẽ còn tiếp tục tìm thấy những dấu chứng qua các thời đại, mà điển hình là hình tượng những con rối nước sau đây: Hình ảnh mà người viết trình bày với bên đây được chép lại từ tạp chí Heritage số tháng 9/10 năm 1996 của Cục Hàng không Việt Nam. Hoàn toàn không có sử dụng kỹ thuật vi tính để lật ngược lại bức tranh. Bạn đọc có thể kiểm chứng điều này qua tay phải của một số nhân vật cùng đứng trong tranh. Bạn đọc cũng thấy vạt áo của nhân vật rối nước này ở phía bên "tả" (trái) và mấy cái búi tóc của những hình rối nước này. Cho đến đầu thế kỷ 20, phần lớn đàn ông của dân tộc Việt vẫn búi tóc. Điều này chắc không cần phải chứng minh. Hình tượng những con rối nước - một nghệ thuật dân gian truyền thống của người Việt - cái vạt áo bên trái sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi đó chính là sự tiếp nối của y phục dân tộc Việt từ hàng ngàn năm trước, khi liên hệ với câu của Khổng tử trong sách Luận ngữ: "Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải cài vạt áo bên tả và búi tóc như người Man di". Rất tiếc! Những con rối nước cài vạt áo bên trái ngày nay rất hiếm gặp. Người ta đă hiện đại hoá nó bằng cách tạo cho nó một cái vạt áo bên phải. Đây là sự biến dạng của những di sản văn hóa phi vật thể. Nhưng cũng may mắn thay! Đây không phải bằng chứng duy nhất cho y phục dân tộc thời Hùng Vương. Xin bạn đọc tiếp tục xem hình bên: Y phục dân tộc Dao ở Phú Thọ (Trích từ bài "Cạy cửa tìm nhau" Ngọc Vinh và Lương Ngọc An - Tuổi Trẻ 8/6/2002 Tất nhiên tác giả bài báo này không có nhã ý nhằm giới thiệu y phục dân tộc Dao và giúp minh chứng cho luận điểm của người viết. Dân tộc Dao là một dân tộc có nền văn hóa lâu đời tồn tại trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Bởi vậy; y phục dân tộc này cũng còn giữ được những nét văn hoá cổ truyền của nước Văn Lang xưa: Trên y phục của cặp vợ chồng ở hình trên, bạn đọc cũng nhận thấy người đàn ông áo vạt đưa sang bên trái, người phụ nữ vạt đưa sang bên phải. Vấn đề cũng không chỉ dừng ở đây: Đám cưới người Mông với y phục từ ngàn xưa Nam mặc áo bên tả, nữ bên hữu (Ảnh chụp từ VTV 3). Hình trên đây được người viết chụp trực tiếp hình ảnh trên chương trình truyền hình VTV3, có nội dung miêu tả đám cưới người dân tộc Mông. Chúng ta lại một lần nữa tìm thấy dấu ấn y phục từ ngàn xưa của tổ tiên với người nam mặc áo bên "tả" và nữ bên "hữu": Dân tộc Dao và Mông sống trong vùng rừng núi hẻo lánh, cho nên ít chịu ảnh hưởng của văn hoá Hán. Do đó, hiện tượng cài vạt áo bên trái của người đàn ông trong y phục của những dân tộc này còn lại đến nay, cùng với các tư liệu đã trình bày ở trên cho thấy: Đó là những chứng cứ có sự tiếp nối văn hóa từ ngàn xưa và cho đến tận bây giờ - khi bạn đọc đang xem bài viết này - của nền văn hiến Việt, một thời huyền vĩ ở nam Dương Tử. Những chứng cứ rõ ràng đó và luận điểm trình bày hoàn toàn phù hôp với những tiêu chí khoa học: "Một giả thuyết khoa học chỉ được coi là đúng; nếu nó lý giải một cách hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó; có tính khách quan; tính hệ thống, tính quy luật và có khả năng tiên tri" . Những vấn đề được hân hạnh trình bày với bạn đọc, nhằm chứng minh cho một nền văn hoá cao cấp tốn tại ở miền Nam sông Dương tử mà chính Khổng tử nói tới với sự tiếp nối, liên hệ của những giá trị đó trong những di sản văn hóa Việt Nam hiện nay. Tính đa dạng trong y phục của Việt tộc thời cổ xưa Sự đa dạng trong y phục của Việt tộc xác định qua sự liên hệ với hình ảnh những con rối nước là một minh à những y phục Qua sự liên hệ ở phần trước, sự minh chứng"Y phục dân tộc thời Hùng Vương"được tiếp tục qua những hình ảnh sau đây. Hình bên là một hình ghép được chép lại trong sách Thời đại Hùng Vương (sách đã dẫn) chiếc cán dao bằng đồng miêu tả y phục thời Hùng Vương và hình nhân vật rối nước trong trò "Múa Tiên". Qua hình ảnh trên, chắc quí vị sẽ nhận thấy một sự trùng hợp hoàn toàn về hình thức cái mũ trên đầu hình rối nước và cái mũ trên cán dao đồng. Ngoài sự trùng hợp về cái mũ, còn một số nét tiêu biểu khác trên y phục của hai vật thể này cũng trùng hợp gần như hoàn toàn. Từ đó có thể dẫn đến sự liên hệ hợp lý cho một cấu trúc đặc thù chung của y phục thời Hùng Vương qua y phục rối nước. Hay nói một cách khác: Hoàn toàn có căn cứ khoa học thực sự khi dùng những hình mẫu có chọn lọc của những con rối nước truyền thống để phục chế lại y phục thời Hùng Vương. Vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây, khi chúng ta tiếp tục so sánh chiếc mũ trên hình cán dao đồng - được khẳng định niên đại từ thời Hùng Vương - với chiếc nón trong hình rối nước "Múa Tiên" và chiếc nón trên hai bức tượng Tiên Dung và Ngọc Hoa công chúa hiện đang thờ ở đền Hùng Phú Thọ (ảnh bên): Hiện nay, có rất nhiều trò rối nước được sáng tác ngay thời hiện đại, hoặc vào những thế kỷ trước. Nhưng trò "Múa Tiên" là một trò truyền thống có từ rất lâu trong nghệ thuật rối nước Việt Nam, tất cả các đoàn rối đều có trò này. Do đó, hình rối nước trong trò "Múa Tiên" chắc chắn đã xuất hiện từ thời xa xưa. Qua một khoảng cách thời gian của hơn 1000 Bắc thuộc, nghệ thuật rối nước được ghi nhận lần đầu tiên trong văn bia Sùng Thị Diên Linh - đời Lý - của chùa Đội Sơn (Huyện Duy Tiên, tỉnh Nam Hà), tức là vào đầu thời hưng quốc của Đại Việt, cách đây cả ngàn năm. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng múa rối nước chỉ xuất hiện vào thời kỳ này. Đền thờ Tổ 18 thời Hùng Vương xác định xây dựng (hoặc được trùng tu vào thế kỷ XIV). Chiếc cán dao bằng đồng có cách đây khoảng 2500 năm và chỉ mới được phát hiện vài chục năm gần đây. Trước hết chúng ta cần phải khẳng định rằng: Trò "Múa Tiên", tượng công chúa đền Hùng và chiếc dao đồng là những sản phẩm của trí tuệ sáng tạo. Tṛò "Múa Tiên" và tượng công chúa đền Hùng đều có trước khi tìm ra chiếc cán dao đồng với khoảng cách hơn 2000 năm cho sự sáng tạo ra hai vật thể này. Do đó, nó không thể được coi là sự sao chép từ chiếc cán dao đồng hoặc là một sự trùng khớp ngẫu nhiên. Hình thức tồn tại giống nhau của những di sản văn hoá nói trên với khoảng cách tính bằng thiên niên kỷ, đã xác định sự tiếp nối truyền thống xuyên thời gian của ý phục dân tộc Việt từ thượng tầng xã hội cho đến các tầng lớp bình dân là đa dạng và phong phú, thể hiện qua y phục của những con rối nước trong di sản văn hóa truyền thống Việt. Những hình thức y phục của những con rối nước Việt còn thấy tồn tại trong y phục dân tộc của các quốc gia láng giếng với Việt Nam ngày nay. Lịch sử gần 5000 năm văn hiến qua y phục dân tộc Qua y phục dân tộc thời Hùng Vương trình bày ở trên, chúng ta hoàn toàn có đầy đủ cơ sở khoa học để xác quyết về một truyền thống văn hóa sử được chính sử xác định: Thời Hùng Vương có niên đại 2879 BC và kết thúc vào 258 BC, có biên giới: Bắc Giáp Động Đình hồ; Nam giáp Hồ Tôn; Tây giáp Ba thục; Đông giáp Đông Hải. Sự hiện hữu của văn hóa y phục cài vạt bên trái của Nam Việt, liên hệ với sách Luận ngữ của Khổng Tử đã chứng tỏ rằng: Từ trước thế kỷ thứ 7 tr.CN, và xa hơn - Từ thời Tam Đại - nền văn hóa Lạc Việt đã là một nền văn hóa ưu việt của phương Đông cổ đại. Và chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng thừa nhận. Bạn đọc xem đoạn trích dẫn dưới đây:
-
BỔ SUNG CÁC HIỆN VẬT LIÊN QUAN. Áo cài vạt bên trái - "Nam tả nữ hữu" - Đây là tinh thần của Dịch học Đông phương. Áo cài vạt bên trái trong di chỉ khảo cổ tìm được ở Nam Dương Tử. Thiên Hiến Vấn, sách Luận Ngữ được coi là của Khổng Tử viết: "Nếu không có Quản Trọng thì tất cả người Hán chúng ta cái áo vạt bên trái như người Man rồi". Dấu ấn "áo cài vạt bên trái" vẫn còn đến bây giờ ở đồng bào các dân tộc ít người ở Việt Nam và trong các di sản văn hóa của người Kinh. Xin xem "Y phục dân tộc thời Hùng Vương" Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Khám phá thế giới Chủ Nhật, 15/5/2016 1:20:49 GMT+7 (THVL) ‘Bảo tàng dưới lòng đất’ của tỉnh Quảng Tây15-08-2008 Cán Giang là nhánh sông lớn thứ 2 của sông Trường Giang, chảy qua địa phận tỉnh Giang Tây. Tháng 9/1989, để bảo vệ con đê sông Cán Giang ở Trình Gia Thôn, trấn Đại Dương Châu, người dân đã lấy cát trên đống cát gần đó bồi đắp cho con đê và đã phát hiện một số đồ vật kỳ lạ trong đống cát. Các nhà khảo cổ phán đoán nơi đây là một di chỉ văn hóa cổ đại quan trọng. Căn cứ theo ghi chép trong sách cổ, vào thời xa xưa, trung và hạ du sông Trường Giang là khu vực vắng vẻ, khảo cổ bao năm qua của tỉnh Giang Tây cũng thu được chút thành quả nhỏ. Năm 1989, những phát hiện khảo cổ ở Trình Gia Thôn gây kinh ngạc cho nhiều người. Trên đồi cát, đội khảo cổ phát hiện lớp cát màu hạt dẻ, 3 đống đồ vật phân bố bên trong bao gồm : một số lễ khí, binh khí, công cụ sản xuất bằng đồng kích thước nhỏ, ngoài ra còn có đồ gốm. Công việc khai quật tiến hành 10 ngày, toàn bộ di vật đã lộ ra ngoài. Phía Đông là đồ gốm; ở gần phía Đông đặt một số đỉnh đồng, bình đồng hũ gốm; ở giữa đặt binh khí cỡ nhỏ, xung quanh có đặt lượng lớn đồ ngọc khiến mọi người hoa mắt. Ở phía Tây Nam và góc Tây Bắc cũng phân bố nhiều loại đồ vật. Trong đất cát ở 3 nơi khác nhau, các nhà khảo cổ đã tìm được 24 chiếc răng của con người. Đây là răng của nhiều cá thể khác nhau, gồm răng của phụ nữ trung niên, răng của trẻ con. Sau khi kết thúc công việc khai quật, các nhà khảo cổ tìm được hơn 1.000 văn vật, trong đó có hơn 700 đồ vật bằng ngọc, hơn 100 đồ vật bằng gốm và 475 đồ vật bằng đồng. Giới khảo cổ ước đoán, chúng có niên đại lịch sử cách nay hơn 3.000 năm. Hơn 3.000 năm trước, nhà Thương cai trị Trung Quốc. Kinh đô An Khư của nhà Thương nằm ở lưu vực sông Hoàng Hà – phía Bắc Trung Quốc. Người đời sau cho rằng, An Khư là kinh đô phồn hoa nhất Trung Quốc lúc bấy giờ. Nhưng vào năm 1986, người ta đã khai quật được văn vật tại di chỉ văn hóa Tam Tinh Đôi ở tỉnh Tứ Xuyên thuộc trung du sông Trường Giang. Chúng không thua kém gì phát hiện ở An Khư. Điều này cho thấy, ở tỉnh Tứ Xuyên từng có một nước nhỏ tồn tại song song với nhà Thương. Vào thời kỳ văn minh đồ đồng Trung Quốc, lễ khí đồ đồng tượng trưng cho thân phận, địa vị và quyền lực. Đồ đồng tỉ trọng lớn khai quật ở An Khư giúp người đời sau biết được khí thế của vương triều Thương cổ đại. Đồ đồng tỉ trọng lớn khai quật ở Đại Dương Châu không thua kém gì An Khư. Nồi hông bằng đồng cao 105 cm, khai quật được ở Đại Dương Châu là dụng cụ chính nấu thức ăn. Với trọng lượng 78.5 kg, nó là cái nồi hông lớn nhất được tìm thấy ở Trung Quốc hiện nay và được gọi vua nồi hông Trung Quốc. Thiết kế của cái nồi hông rất đặc biệt. Trên 2 quai cầm có hai con nai nhỏ quay đầu nhìn nhau, hoa văn trang sức của cái nồi hông hoàn toàn khác nhau, đường nét thô mà thanh thoát, trên tròn dưới vuông. Ngoài ra còn có nhiều loại hoa văn kỳ lạ làm cho đồ vật trang trọng mà không cứng nhắc, quí giá và giàu hơi thở cuộc sống. Ở thời đại đồ đồng, binh khí hoa văn tinh xảo còn tượng trưng uy quyền. Ở Đại Dương Châu cũng đã khai quật một chiếc rìu lớn, lưỡi rìu rộng 36.3 cm, nặng 11.4 kg. Ở giữa chiếc rìu có chạm rỗng hình chữ nhật, trông giống như cái miệng lớn, bên trong có 11 chiếc răng sắc nhọn rất khí thế. Những đồ vật bằng đồng này cho thấy, chủ nhân của chúng có thế lực rất lớn, địa vị hiển hách. Trên đồ đồng khai quật ở Đại Dương Châu, nhiều lần xuất hiện hoa văn hung tợn và bí ẩn – con thao thiết. Con thao thiết là hoa văn trang sức kinh điển nhất trên đồ đồng An Khư. Thao thiết là con thứ năm của rồng, là linh vật có đôi mắt to, miệng rộng, dáng vẻ kỳ lạ. Thao thiết tham ăn vô độ, được đúc trên các đồ dùng trong ăn uống như ngụ ý nhắc nhở người ăn đừng háo ăn mà trở nên bất lịch sự. Hoa văn hình con thao thiết – con thứ năm của rồng Giống như An Khư, ở Đại Dương Châu cũng đã khai quật một lượng lớn dụng cụ ăn uống làm lễ khí. Đỉnh là đồ vật tiểu biểu quan trọng nhất của lễ khí đồ đồng Trung Quốc. Ở Đại Dương Châu, giới khảo cổ đã tìm thấy hơn 30 cái đỉnh, ngoài ra còn có 6 chiếc đỉnh vuông, trong đó có chiếc đỉnh trọng lượng lớn và chiếc đỉnh nhỏ xinh xắn. Thú vị hơn, trên hai quai của những chiếc đỉnh tìm thấy ở Đại Dương Châu đều có gắn trang sức hình thú sinh động, hoạt bát tự nhiên, đặc biệt là hình tượng con hổ nằm xuất hiện rất nhiều lần. Hình tượng con hổ xuất hiện nhiều lần cho thấy, đây không phải là trang sức đơn giản, mà nó mang ý nghĩa rất sâu sắc. Theo ghi chép chữ giáp cốt, vào đời Thương, ở khu vực trung và hạ du sông Trường Giang có một nước nhỏ tôn sùng con hổ tên gọi Hổ Phương. Nhà Thương xem Hổ Phương là đối thủ mạnh, nhiều lần xuất binh chinh phạt. Năm 1973, các chuyên gia khảo cổ đã phát hiện một di chỉ văn minh cổ cách Đại Dương Châu 20 km. Trung tâm nền văn minh là thôn Ngô Thành nên được gọi là văn hóa Ngô Thành. Phần lớn đồ gốm và đồ ngọc và số ít đồ đồng đã phát hiện cho thấy sự phồn hoa xưa kia của thành phố này Năm 1988, mọi người lại phát hiện một di chỉ cổ thành Ngưu Đầu với quy mô lớn cách Đại Dương Châu 3.5 km. Đứng trên cao nhìn xuống cổ thành, mọi người chỉ nhìn thấy bức tường thành có hình bậc thang, có 5 cổng thành, chiếm diện tích hơn 50 vạn mét vuông. Khu vực nội thành có dạng hình chữ nhật, nằm ở phía Tây Nam cổ thành. Ngày nay, xung quanh nội thành cây mọc um tùm, bãi đất bằng phẳng ở giữa được người nông dân biến thành đất canh tác. Từ những văn vật tìm thấy, các chuyên gia suy đoán đây là tòa thành cổ được xây dựng vào cuối nhà Thương. Các chuyên gia khảo cổ cho rằng, chủ nhân của văn vật Đại Dương Châu không phải ở di chỉ Ngô Thành, mà ở thành Ngưu Đầu. Cư dân thành Ngưu Đầu nắm vững kỹ thuật xây dựng tiên tiến, có thể họ là dân di cư đến từ Trung Nguyên. Nhưng cũng có không ít chuyên gia cho rằng, người sáng tạo văn minh có lẽ là cư dân địa phương. Họ đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Nguyên. Tuy văn vật họ sáng tạo có điểm giống với văn hóa Trung Nguyên, nhưng nó thể hiện nhiều về đặc sắc bản địa. Hồng Mẫn
-
Dư luận Mỹ quan tâm chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Obama Thứ sáu, 13/05/2016 20:55 Sự kiện Tổng thống Barack Obama thăm chính thức Việt Nam từ ngày 22-25/5 đang được dư luận Mỹ rất quan tâm. Tổng thống Mỹ Barack Obama. (Nguồn: AP) Chuyến thăm là một sự kiện được dư luận chờ đợi từ lâu và hai bên đã tích cực chuẩn bị trong thời gian qua. Cơ hội tuyệt vời Giới chức Nhà Trắng cho biết Tổng thống Obama mong đợi chuyến thăm Việt Nam và dự kiến sẽ hội đàm với các nhà lãnh đạo Việt Nam nhằm tăng cường quan hệ đối tác toàn diện trên nhiều lĩnh vực như thương mại, đầu tư, hợp tác giáo dục, an ninh, nhân quyền, cũng như những vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm. Phó Giáo sư Admund Malesky thuộc Khoa Kinh tế Chính trị Đại học Duke (Mỹ) cho rằng chuyến thăm của Tổng thống Obama tới Việt Nam sẽ là một chuyến thăm lịch sử bởi vì hiện nay hai nước đang có mối quan hệ song phương phát triển vững mạnh bất chấp những khác biệt trước đây,. Chuyến thăm có thể sẽ là cơ hội để hai nước thúc đẩy giao lưu trong tương lai và xây dựng mối quan hệ mà chúng ta không thể hình dung được trên nhiều lĩnh vực từ thương mại, giáo dục cho tới hợp tác năng lượng… Đồng thời, chuyến thăm cũng sẽ là dịp để vị Tổng thống Mỹ chứng kiến Việt Nam thay đổi và phát triển mạnh mẽ như thế nào kể từ khi hội nhập với thế giới và quan hệ song phương đã tiến xa tới đâu. “Tôi cho rằng chuyến thăm sẽ là một cơ hội tuyệt vời”, ông Admund Malesky nhấn mạnh. Trong khi đó, cựu Đại tá Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) Andre Sauvageot, Giám đốc phát triển kinh doanh Việt Nam – Mỹ của Tập đoàn tư vấn Maventus thì cho rằng trong chuyến thăm này, Mỹ nên dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam, đồng thời bày tỏ hy vọng Chính phủ Mỹ sẽ góp phần vào việc hiện đại hóa quân đội Việt Nam. Mốc son mới Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh quan hệ Việt Nam – Mỹ đang phát triển mạnh mẽ. Chỉ trong vòng hai thập kỷ sau khi bình thường hóa, quan hệ hai nước đã đạt được những tiến bộ lớn, vượt trên mọi kỳ vọng. Sau hơn 40 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam và 21 năm bình thường hóa quan hệ, quan hệ song phương Việt Nam –Mỹ hiện nay trải dài từ hợp tác song phương tới đa phương. Hợp tác an ninh quốc phòng, giáo dục, khoa học - công nghệ, đối phó với biến đổi khí hậu có nhiều bước tiến với việc hai bên ký kết Tuyên bố Tầm nhìn chung 2015. Trao đổi thương mại đã tăng 90 lần, lên 45 tỷ USD năm 2015, và triển vọng sẽ còn lạc quan hơn nữa sau khi các bên hoàn tất phê chuẩn Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Liên quan vấn đề này, Phó Giáo sư Admund Malesky nói: “TPP là một thỏa thuận thương mại-kinh tế toàn diện. Tôi hy vọng hiệp định sẽ sớm có hiệu lực vì TPP không những có lợi cho các thành viên khác mà còn có lợi cho chính người dân Hoa Kỳ”. Ông Obama sẽ trở thành tổng thống Mỹ thứ 3 thăm Việt Nam, sau các chuyến thăm năm 2000 của Tổng thống Bill Clinton và năm 2006 của Tổng thống George W. Bush. Chuyến thăm được dự báo sẽ là một mốc son mới trong quan hệ song phương Việt Nam – Mỹ, đồng thời khẳng định cam kết của ông đối với chiến lược tái cân bằng sang châu Á – Thái Bình Dương. Minh Nhật Thế giới & việt nam
-
Nước Nga trong ván cờ ngạo mạn của TQ trên Biển Đông Cập nhật : 05:00 | 13/05/2016 Căng thẳng tại Biển Đông tiếp tục leo thang khi ngày càng có nhiều cường quốc tham gia. Đặc biệt, mới đây Nga công khai quan điểm đứng về phía Trung Quốc trong cuộc chiến chống lại các bên khác trong tranh chấp tại khu vực nhạy cảm này. Trong một cuộc họp báo ngày 6/5 tại Bắc Kinh, Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov và người đồng cấp Trung Quốc Vương Nghị nhất trí quan điểm chung là phản đối Mỹ trong một loạt vấn đề, trong đó có các yêu sách lãnh thổ ở Biển Đông. Ông Lavrov cho biết “quan điểm của Nga không thay đổi, đó là các vấn đề tại Biển Đông không nên được quốc tế hóa, các nước không có tranh chấp không nên can thiệp vào các nỗ lực giải quyết vấn đề của các bên tranh chấp”. Khi Nga, vốn không phải là một bên tranh chấp, lên tiếng đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của công luận. Không ít người phân tích rằng, các tuyên bố trên phù hợp với kế hoạch trò chơi của Bắc Kinh nhằm chia rẽ và xâm chiếm các nước láng giềng châu Á nhỏ hơn. Bởi Trung Quốc luôn ngạo ngược từ chối đàm phán với 10 quốc gia Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với tư cách một khối, họ muốn thương lượng với từng thành viên riêng rẽ. Nga không là một bên nào trong tranh chấp tại Biển Đông. Ảnh minh họa: Tân Hoa Xã Điều này có nghĩa là Bắc Kinh có thể bắt nạt từng nước nhỏ hơn bằng các biện pháp trả đũa kinh tế và trả thù nếu họ không ủng hộ Trung Quốc. Philippines đã phải trải qua bài học này năm 2012, sau khi Manila đối đầu với Trung Quốc, họ đã mất lãnh thổ. Mỹ và Nga không phải là các nước ngoài khu vực duy nhất cho rằng họ có các lợi ích tại vùng biển tấp nập ở Đông Nam Á này. Ấn Độ, và mới đây nhất là Nhật Bản cũng đã thể hiện sự hiện diện của mình bằng việc cử các tàu đi qua vùng biển mà họ coi là một phần của tài sản chung toàn cầu. Tàu thuyền New Delhi đã nhiều năm nay thường xuyên qua lại các cảng biển của Việt Nam, một quốc gia bạn hữu. Tháng 7/2011, một giọng nói qua loa phóng thanh tự xưng là “Hải quân Trung Quốc” định chặn tàu đổ bộ INS Airavat của Ấn Độ khi tàu này đi qua hòa bình tại vùng biển quốc tế để tới cảng Hải Phòng. Về phần mình, Nhật Bản hồi tháng trước đã cử tàu chiến tới vịnh Subic ở Philippines. Có thể thấy một bức tranh toàn cảnh về sự đối đầu giữa các nước lớn. Một bên, Trung Quốc với sự ủng hộ ngầm của nước Nga, trong khi ở bên kia, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và các nước khác muốn duy trì vùng biển này mở đối với mọi quốc gia. Đây là một cuộc đối đầu “được ăn cả ngã về không”. Cả hai bên đều đánh cược cho một vấn đề quan trọng và không thể thương lượng. Nhưng điều khiến Biển Đông thậm chí còn nguy hiểm hơn, đó là hiện các bên đều tỏ ra mập mờ. Giống như thời điểm trước khi nổ ra Chiến tranh thế giới thứ nhất, tình hình rất khó để các bên can thiệp vì không rõ các nước khác sẽ làm gì nếu sự thù địch xảy ra. Ví dụ Mỹ hiện có nguy cơ không chỉ đối đầu với Bắc Kinh mà cả với Moscow về bãi cạn Scarborough và nhiều thực thể khác. Trung Quốc chiếm bãi cạn này của Philippines từ đầu năm 2012, và dường như Trung Quốc có ý định biến đây thành một pháo đài quân sự. Mặt khác Trung Quốc có thể phải chứng kiến Nhật Bản và Mỹ bảo vệ Philippines. Sự phối hợp của các liên minh sẽ là không có hồi kết, nhưng sự không chắc chắn sẽ khiến các nhà hoạch định chính sách phải nản chí. Câu hỏi đặt ra là liệu sự mập mờ của Bắc Kinh có mang tính tạm thời hay không? Mối nguy hiện nay là biện pháp răn đe có thể thất bại trong bối cảnh phức tạp này. Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc nên rút ra bài học đã xảy ra trên bán đảo Triều Tiên hồi tháng 6/1950. Ông Kim Nhật Thành hồi đó đã tính toán rằng, ngay sau khi Ngoại trưởng Dean Acheson rút Hàn Quốc khỏi “chiếc ô phòng thủ” của Mỹ tại châu Á, sẽ không có nước nào bảo vệ Seoul nữa. Nhưng ông ấy đã không ngờ rằng, Mỹ đã bất ngờ quay lại đến cứu Seoul. Ai cũng biết là sẽ không nước nào hưởng ứng lời ông Lavrov và ông Vương khi hai ông nói rằng các nước khác nên để Trung Quốc một mình, nhất là khi Bắc Kinh dùng các chiến thuật quân sự và ngoại giao hiếu chiến chống lại các nước có tranh chấp khác. Điều này có nghĩa là bất cứ sự cố nào, dù nhỏ hay chỉ là tai nạn, cũng đều có thể bùng phát thành một cuộc đối đầu lớn. Thảo Linh ======================== Tôi xin nói thẳng với ngài Putin rằng: Từ khi liên bang Xô Viết sụp đổ, biển Đông không còn là vị trí chiến lược để nước Nga thực hiện tham vọng của mình. Ngày nay, nước Nga gần như không liên quan gì đền biển Đông, ngoài việc có tàu thuyền buôn bán qua lại nơi đây. Về mặt thực tế, đang nhẽ nước Nga phải ủng hộ các nước ASEAN và Hoa Kỳ bảo đảm tự do thương mại ở biển Đông mới phải. Đằng này ngài Putin và chính phủ của ngài lại có những phát biểu có lợi cho Bắc Kinh trong việc độc chiếm biển Đông. Trong khi đó, rõ ràng nước Nga ko có một quyền lợi nào đáng kể ở đây. Vậy thì việc chính phủ của ngài Putin lên tiếng có lợi cho Bắc Kinh, thực chất nhằm mục đích gì? Thưa ngài Putin. Tôi có thể xác định ngay là các ngài muốn làm giá trong các cuộc thương lượng với Hoa Kỳ ở Trung Đông, nhiều hơn là một sách lược quốc gia phải có ở vùng biển này. Nếu suy nghĩ của tôi là đúng thì tôi thành thật khuyên ngài Putin hãy từ bỏ ngay những phát ngôn bất lợi cho cả khối ASEAN và Việt Nam nói riêng. Bởi vì, nó sẽ không gây được cảm tình của khối ASEAN với nước Nga và sẽ là điều bất lợi của nước Nga trong mối quan hệ với các nước ASEAN trong tương lai gần ở đây. Hơn nữa, phát ngôn của chính phủ Nga không có trọng lượng trên thực tế, mà chỉ làm mất lòng các nước trong khối ASEAN. Tôi nghĩ đây là điều không nên làm của ngài Putin.
-
Mỹ “ra tay không thương tiếc” nếu Trung Quốc khai chiến Biển Đông Lê Việt Dũng Thứ Năm, ngày 12/5/2016 - 11:55 VietTimes -- Theo trang tin tiếng Trung Worldjournal ngày 11/5, Đô đốc Harry Harris trả lời phỏng vấn tờ Thời báo New York cho hay, lực lượng dưới quyền ông đã làm tốt chuẩn bị để có thể sẵn sàng “ngày đêm khai chiến”. Hải quân Mỹ và Nhật Bản tập trận trên biển gần Philippines. Theo Worldjournal, phát biểu này của Đô đốc Harry Harris được chuyên gia cho là đã tiết lộ kế hoạch sử dụng vũ lực tiềm tàng của Quân đội Mỹ tại khu vực Biển Đông. Vào tháng trước, Trung tâm nghiên cứu Toàn cầu hóa Canada công bố một báo cáo cho rằng, hiện nay, Mỹ triển khai hành động tự do đi lại thực chất là để bảo đảm cho các tàu chiến Mỹ có thể tự do ra vào Biển Đông. Đây là một phần trong kế hoạch sẵn sàng chiến đấu với Trung Quốc của Lầu Năm Góc. Chiến lược tác chiến hợp nhất không-hải quân của Mỹ cho thấy, nếu xảy ra một cuộc chiến tranh với Trung Quốc, một là Mỹ sẽ tiến hành ném bom quy mô lớn đối với Trung Quốc, hai là Mỹ sẽ ngăn chặn tàu thuyền Trung Quốc vận chuyển năng lượng và nguyên vật liệu trên Biển Đông. Dự kiến, Toà trọng tài thường trực Liên hợp quốc sẽ nhanh chóng đưa ra phán quyết về vụ kiện Biển Đông của Philippines. Dư luận quốc tế phổ biến cho rằng, tòa sẽ đưa ra phán quyết bất lợi cho Bắc Kinh, điều này sẽ làm cho quan hệ Trung-Mỹ đang ngày càng yếu ớt có sự thay đổi đột ngột. Đô đốc Harry Harris, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương. Theo trang thông tin tiếng Trung Quốc này, tổng chỉ huy của Quân đội Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Đô đốc Harry Harris sẽ "ra tay không thương tiếc" đối với Trung Quốc. Các phát biểu cứng rắn của ông không chỉ đã chọc giận Bắc Kinh, mà còn khiến cho Washington khó xử. Khi được hỏi về khả năng khai chiến vì bãi cạn Scarborough, Đô đốc Harry Harris cho hay, để bảo vệ lợi ích của Mỹ, "tôi không thể không sử dụng công cụ mà mình có, đó là công cụ quân sự, là công cụ rất tuyệt vời". Tướng Harry Harris cho rằng, ông hoàn toàn không lo ngại giữa Quân đội Trung Quốc và quân đội các nước khác ở Biển Đông sẽ xảy ra hiểu lầm. "Tôi cho rằng, họ là quân đội chuyên nghiệp". Rủi ro lớn hơn ở chỗ, các cuộc xung đột do tàu bán quân sự của Trung Quốc gây ra có thể sẽ buộc lực lượng Mỹ phải triển khai công tác phòng thủ của đồng minh Mỹ. Hiện nay, Tòa trọng tài thường trực Liên hợp quốc sắp đưa ra phán quyết về vụ kiện Biển Đông của Philippines. Việc Trung Quốc một mực từ chối tham gia, chấp nhận vụ kiện này được nhiều học giả dự báo là, 99% Trung Quốc sẽ thua kiện Philippines. Các học giả cho rằng, một khi Trung Quốc thua kiện, các nước xung quanh Biển Đông như Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia sẽ đi theo Philippines, khởi kiện Trung Quốc ra tòa, khiến cho Trung Quốc phải mệt mỏi ứng phó. Đồng thời, các nước như Mỹ, Nhật Bản đã sẵn sàng cho một cuộc bao vây toàn diện đối với Trung Quốc, ngoại giao Trung Quốc sẽ rơi vào cục diện bất lợi. Tàu khu trục USS William P. Lawrence Hải quân Mỹ. Nguồn ảnh: Rappler.com. Vấn đề chủ yếu mà Đô đốc Harry Harris quan tâm là, Trung quốc sẽ đưa ra phản ứng cứng rắn thế nào đối với phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế. Nếu Trung Quốc tiếp tục thúc đẩy hoạt động kiểm soát tuyến đường hàng hải Biển Đông, bất kể là ngắn hạn hay dài hạn, Mỹ đều phải áp dụng đáp trả quân sự nhất định. Gần đây, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel cũng cảnh báo, nếu bất cứ bên nào liên quan đến vụ kiện Biển Đông không tuân thủ phán quyết của Tòa trọng tài sẽ tạo ra tiền lệ nguy hiểm cho trật tự quốc tế và biện pháp giải quyết hòa bình tranh chấp được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi. Bốn năm trước, Trung Quốc cướp đi bãi cạn Scarborough từ tay Philippines. Một quan chức Mỹ cho rằng, sự lợi hại có liên quan là cực kỳ lớn. Bởi vì, khi gặp gỡ nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình ở Washington gần đây, Tổng thống Mỹ Barack Obama từng cảnh báo, Trung Quốc không được có hành động ở bãi cạn Scarborough hoặc lập ra cái gọi là "vùng nhận dạng phòng không" (ADIZ). Bất kỳ bên nào đều không hy vọng để xảy ra xung đột vì những đảo đá bé nhỏ trên Biển Đông. Nhưng, khả năng này cần phải cân nhắc. Quan chức Lầu Năm Góc cho rằng, Mỹ có thể sẽ làm rõ lập trường đối với bãi cạn Scarborough. Điều cần lưu ý là, hiện nay, Mỹ đã tăng cường hiện diện quân sự ở Philippines. Philippines đã mở cửa 5 căn cứ quân sự cho Quân đội Mỹ triển khai luân phiên, tạo khả năng cho Mỹ triển khai các hành động phản ứng nhanh khi Biển Đông xảy ra xung đột. Trong các cuộc tập trận thường niên giữa Mỹ-Philippines như Balikatan, hai nước đã tổ chức diễn tập nhiều khoa mục, trong đó có tập đổ bộ đánh chiếm đảo. Ngoài ra, vào tháng 4 vừa qua, Mỹ đã phô trương sức mạnh quân sự răn đe Trung Quốc bằng cách điều 6 máy bay tấn công A-10C và 2 máy bay trực thăng Pave Hawk bay trên bầu trời bãi cạn Scarborough, khu vực Trung Quốc cưỡng đoạt của Philippines từ năm 2012. Lê Việt Dũng ========================== Cái này lão Gàn cũng phán từ lâu rùi. Và nhắc đi nhắc lại trong topic này là: "Nếu chiến tranh xảy ra thì sẽ rất thảm khốc". Vì đây là "canh bạc cuối cùng"". Bắc Kinh đừng có lãng mạn và giàu trí tưởng tượng khi cho rằng sẽ chiến thắng với Hoa Kỳ. Cho dù có tên lửa mang đầu đạn hạt nhân. Lão cũng cần nhắc lại rằng: Biển Đông chỉ là cái cớ để xẩy ra xung đột trên quy mô lớn.
-
Giáo sư Trung Quốc: Không dùng quân sự, không chiếm được Biển Đông Hồng Thủy 06:42 12/05/16 Thảo luận (4) (GDVN) - Chúng tôi nhận ra rằng, nếu không có sức mạnh quân sự chúng tôi sẽ không giành được chiến thắng trận này ở Biển Đông. Trung Quốc sẽ phải vất vả đối phó cuộc chiến mới gian nan kéo dài ở Biển Đông. Âm mưu của Đài Loan can thiệp bất ngờ và khả năng phán quyết của PCA Mỹ tuần tra tự do hàng hải gần đá Chữ Thập South China Morning Post ngày 12/5 bình luận, căng thẳng đang bùng phát trên Biển Đông chỉ một vài tuần trước khi Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) ở The Hague, Hà Lan ra phán quyết vụ Philippines khởi kiện Trung Quốc (áp dụng sai, giải thích sai, vi phạm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 - UNCLOS) ở Biển Đông. Bắc Kinh tuyên bố có hơn một chục quốc gia châu Á, châu Âu và châu Phi ít nhất đã hỗ trợ một phần lập luận của Trung Quốc rằng, tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông cần được giải quyết bởi đàm phán giữa các bên liên quan trực tiếp mà không nên có sự can thiệp từ bên thứ 3. Đứng đầu nhóm này là Nga, Ấn Độ, Ba Lan, Sudan, Pakistan, Belarus và Brunei. Thời Ân Hoằng, giáo sư Đại học Nhân Dân Trung Quốc, ảnh: udn.com. Truyền thông nhà nước Trung Quốc thì ra sức tuyên truyền, vụ kiện của Philippines là "mưu mô của Mỹ nhằm kích động chống Trung Quốc, kiềm chế Trung Quốc. Vấn đề Biển Đông chỉ là cái cớ để Mỹ can thiệp vào các vấn đề khu vực, khuấy động căng thẳng để cô lập Trung Quốc", xã luận tờ Nhân Dân nhật báo hôm Thứ Sáu 11/5 viết. Mặc dù vẫn chưa chắc chắn Bắc Kinh sẽ phản ứng ra sao với phán quyết của PCA, nhưng một phán quyết có lợi cho Philippines sẽ giáng một đòn mạnh vào yêu sách của Trung Quốc, thiết lập tiền lệ cho các bên tranh chấp khác, South China Morning Post dẫn lời các nhà phân tích cho biết. Tiến sĩ Bonnie Glaser từ Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và quốc tế Hoa Kỳ (CSIS) cho hay, những nỗ lực của Trung Quốc trong cuộc chiến ngoại giao về vụ kiện đã không thành công, ngay cả khi Bắc Kinh sử dụng thủ đoạn cây gậy và củ cà rốt. Quyền lợi của Trung Quốc không thể quan trọng hơn lợi ích của các nước khác và bạn bè không thể có được bằng đe dọa. Tháng trước, Bắc Kinh tuyên bố đạt được cái gọi là "đồng thuận 4 điểm" với Brunei, Campuchia và Lào về vấn đề Biển Đông. Người phát ngôn Chính phủ Campuchia Phay Siphan lập tức bác bỏ tuyên bố này. Pang Zhongyig, một giáo sư từ Đại học Nhân Dân Trung Quốc cảnh báo Bắc Kinh chớ đánh giá quá cao những ủng hộ này. Ông nói: "Ảnh hưởng của họ khá hạn chế và đòi hỏi của họ khá rõ ràng về lợi ích kinh tế."Tiến sĩ Daniel Wei Boon Chua từ Đại học Công nghệ Nam Dương Singapore cảnh báo hậu quả nếu ASEAN bị Trung Quốc chia rẽ trong vấn đề Biển Đông sẽ chỉ làm các bên yêu sách liên minh lại với nhau. Ngay cả truyền thông nhà nước Trung Quốc cũng cảnh báo Bắc Kinh chớ lạc quan thái quá, bởi hầu hết đồng minh của Trung Quốc không nhất thiết ủng hộ yêu sách chủ quyền và hàng hải của Trung Quốc trên Biển Đông một cách hoàn toàn. Thời Ân Hoằng, giáo sư về quan hệ quốc tế Đại học Nhân Dân nói rằng, lập luận cho yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông dựa trên (cái gọi là) lịch sử, không phải là phổ biến với các nước láng giềng nên chưa chắc Bắc Kinh đã giành được ủng hộ lớn hơn. Ông Thời Ân Hoằng nói: "Không thể phủ nhận rằng, về cơ bản chúng ta đơn thương độc mã trong cuộc chiến này ở Biển Đông. Quan hệ với các nước láng giềng của chúng tôi là quan trọng, nhưng chúng tôi nhận ra rằng, nếu không có sức mạnh quân sự chúng tôi sẽ không giành được chiến thắng trận này ở Biển Đông. Đó là lý do tại sao có những dấu hiệu ngày càng tăng rằng, các nhà lãnh đạo hiện nay rõ ràng ưu tiên đề cao tăng cường sức mạnh cứng trong 30 năm qua và dường như không lùi bước trước sức ép quốc tế". Một số nhà phân tích khác thì cho rằng, những lời lẽ hiếu chiến sắp tới của Bắc Kinh chủ yếu diễn cho dân Trung Quốc xem. Bắc Kinh thường tìm cách kích động tinh thần dân tộc để chuyển hướng sự chú ý của công chúng khỏi những quan tâm về các vấn đề chính trị, kinh tế trong nước. Tiến sĩ Jay Batongbacal từ Đại học Philippines cho biết: "Trung Quốc đang thua trong trận chiến tại Tòa án và dư luận quốc tế, nhưng đây là một tình huống phần lớn do họ tự tạo ra". Giáo sư Jerome Cohen từ Đại học Luật New York có chung đánh giá như Tiến sĩ Glaser, việc Trung Quốc từ chối tuân thủ luật pháp quốc tế chỉ làm cho nước này giống như một kẻ bắt nạt trong mắt phần còn lại của thế giới này. Những nỗ lực chống lại phán quyết của PCA chỉ tiếp tục làm hại sự theo đuổi của Trung Quốc xây dựng quyền lực mềm. Thời Ân Hoằng cho hay, va chạm Trung - Mỹ trên Biển Đông nhiều khả năng sẽ trở thành trạng thái bình thường mới: "Căng thẳng sẽ tiếp tục leo thang bởi vì, đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, mục tiêu cuối cùng của họ là làm cho quân đội đủ mạnh để chống lại hoạt động tự do hàng hải của quân đội Hoa Kỳ, dần dần tiến tới xiết chặt tất cả các bên tranh chấp đối thủ trên Biển Đông". Hồng Thủy ======================= Lão nói trước rùi: "Sau phán quyết của tòa án quốc tế sẽ rất nhiều chuyện". Bắc Kinh muốn chọn rút gươm ra khỏi "zdỏ" à?! Lúc này Bắc Kinh có quậy đến đâu thì cũng chỉ đánh vào hư không, cho dù có thể làm cho một số kẻ còn ảo tưởng vào chuyện võ hiệp Tàu mà vỗ tay đôm đốp và vài kẻ lo sợ. Thật tội nghiệp. "Thiên cơ khả dĩ lộ từ từ...". Chỉ đến khi sự thế không thể đảo ngược được lão mới tiên tri. Nhưng đủ thời gian để thiên hạ phải công nhận đó là lời tiên tri trước khi sự kiện xảy ra. Ví dụ như cuộc họp thưởng đỉnh Mỹ Trung vừa rồi, lão chỉ tiên tri trước - dự định là 1 tiếng đồng hồ - nhưng do tính sai thời gian Việt và Hoa Kỳ nên lỡ trước ba tiếng. Cho nên nó sai mất một chi tiết là màu caravat của chủ tịch Tàu là Tập Cận Bình.
-
Cảm ơn Việt Hà cho thông tin. Rất tiếc vào ngày 13/ 5 tôi chưa chắc kịp ra Hanoi. Nếu không tôi sẽ là người phản biện ông Phạm Việt Hưng. Tuy nhiên, cơ hội phản biện vẫn còn, vì tôi có thể xin bài tham luận của ông Phạm Viết Hưng sau đó và trình bày trong topic: "Lý học và khoa học hiện đại". Theo tôi, thuyết tiến hóa không sai, chỉ có điều nó chưa mô tả được cơ chế tiến hóa. Cũng như thuyết Di truyền của Thomas Hunt Morgan, lúc đầu thậm chí nó còn bị coi là một học thuyết phản động và cấm nghiên cứu ở một số nước như ở Liên Xô. Cũng chỉ vì nó không chỉ ra được cơ chế di truyền. Sau này, khi các nhà khoa học khám phá ra cơ chế di truyền, nên học thuyết này mới trở nên phổ biến và ưng dụng. Thuyết tiến hóa không có cái may mắn của việc tìm ra cơ chế tiến hóa.
-
Lý học Việt - nhân danh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương Tử - không bao giờ dùng cái nhìn trực quan bề ngoài sự việc, sự vật và vấn đề để phán quyết. Mà phải nhìn vào bản chất của vấn đề. Có thể nói rằng tất cả những tác giả tham gia bài viết trên đều không nhìn thấy được bản chất của cuộc gặp gỡ giữa ngài Putin và ngài Shinzo Abe. Họ cho rằng: Xin lỗi nha! Nga sợ cái điếu gì Tàu mà phải tiếp ngài Shinzo Abe ở Sochi. Mà là vì Nga Nhật đang tranh chấp đảo Kamsatka, cho nên việc đón tiếp long trọng Thủ Tướng Nhật ở Moscow, sẽ dễ bị phản ứng bởi tinh thần dân tộc của người Nga. Điều này sẽ bất lợi về chính trị cho ngài Putin trong việc thực thi các chính sách của ngài với sự ủng hộ của dân chúng. Thế thôi. Đấy là yếu tố chủ yếu khiến cho cuộc gặp xảy ra ở Sochi. Nhưng cái chính và là bản chất của vấn đề là hệ quả của cuộc gặp này là đạt được mục đích gì. Lão sẽ bàn sau. Nhưng một ví dụ rất gần đây, là cuộc gặp thượng đỉnh vô cùng long trọng của ngài Tập với Tổng thống Hoa Kỳ, có cả súng cà nông bắn 21 phát đại bác - tức là một hình thức tiếp đãi rất hào nhoáng - khiến cả thế giới phải nín thở chờ hậu quả có thể làm thay đối thế giới. Nhưng kết quả chỉ làm chết mấy con tôm hùm Maine trong nước sốt nấm Đông cô - không ngoài lời tiên đoán của lão Gàn. Hì. Bởi vậy, hình thức cuộc gặp không phản ánh bản chất của vấn đề. Ngược lại, cuộc gặp thượng đỉnh Nga Nhật, tuy đơn giản tại Sochi, và mặc dù chưa đạt được điều mong muốn của cả hai bên, nhưng nó đã đặt được nền tảng ban đầu cho quan hệ Nga Nhật, để từ đó xây dựng một mối quan hệ tốt đẹp. Nếu như nó chưa loại hẳn được Tàu ra khỏi quan hệ với nước Nga, thì chí ít nó cũng tạo được khoảng cách giữa hai quốc gia này. Đó là kết quả của cuộc gặp thượng đỉnh Nga Nhật ở Sochi. Cá nhân tôi luôn bày tỏ quan điểm nhất quán và có tính hệ thống, rằng: Nước Nga dưới sự lãnh đạo của ngài Putin, nên hợp tác với Hoa Kỳ trong các vấn đề quốc tế. Toàn bộ miền Đông nước Nga sẽ trở nên phồn vinh, nếu quan hệ Nga Hoa Kỳ và Đồng minh được cải thiện. Ngài Putin đừng hy vọng vào Bắc Kinh. Đây là cơ hội của nước Nga trong lúc này. Cũng như ngày xưa, trong cuộc tranh chấp Xô Mỹ, nước Tàu đã coi là một cơ hội để bắt tay với Hoa Kỳ và trở thành hùng mạnh như ngày nay. Bắc Kinh cũng có thể đầu tư vào miền Đông nước Nga. Nhưng nó sẽ biến vùng Viễn Đông của nước Nga thành lãnh thổ không chính thức của Trung Quốc. Còn nước Mỹ khi làm điều này thì vùng Viễn Đông vẫn là của Nga. Khi thế giới này hội nhập, mọi quan hệ giữa các quốc gia và các dân tộc trên thế giới sẽ khác đi, chứ không như bây giờ.
-
Cảm ơn HungNguyen quan tâm, vì lời chúc lành. Sư phụ sẽ phân tích cuộc gặp của ngài Putin với ngài Thủ Tướng Nhật Abe.
-
Bị phản kháng, Bắc Kinh chuyển từ hùng hổ sang lu loa Cập nhật : 04:00 | 10/05/2016 Chúng ta đang chứng kiến một thảm kịch được gọi là sân chơi chính trị nước lớn, đặc biệt tại Biển Đông. Vậy các nước nhỏ, làm thế nào để chống lại cường quốc đang tìm mọi cách trỗi dậy, hừng hực tham vọng bá quyền. Trung Quốc đang nổi lên và tích lũy quyền lực quốc gia một cách nhanh nhất trong lịch sử nhân loại. Bắc Kinh đã đưa hàng trăm triệu người Trung Quốc thoát nghèo, bảo vệ hầu hết các đường biên giới trên đất liền của mình, đồng thời xây dựng một lực lượng hải quân và năng lực chống tiếp cận khu vực mạnh đến mức đặt ra cho đối thủ lớn nhất của họ là Mỹ những thách thức lớn trong một cuộc xung đột công khai. Sự nổi lên của Bắc Kinh diễn ra với một cái giá rất đắt, có thể khiến cả khu vực châu Á – Thái Bình Dương ghét bỏ, và coi là mối đe dọa ngày càng công khai và hiếu chiến đối với sự nguyên trạng chung trong khu vực. Lịch sử đã chứng minh rằng khi một cường quốc đang nổi thách thức sự nguyên trạng, các nước láng giềng thường là người phải chịu đựng và chịu đựng rất nhiều. Sự phẫn uất đối với siêu cường lớn dần từ thế hệ này đến thế hệ khác. Sự giận dữ trở thành thâm căn cố đế và lan rộng, đến mức chỉ có thể được giải quyết khi máu đã đổ quá nhiều và chiến tranh, hỗn loạn bao trùm toàn khu vực. Ngày nay, tại châu Á – Thái Bình Dương, chúng ta một lần nữa chứng kiến một thảm kịch được gọi là sân chơi chính trị nước lớn, đặc biệt tại Biển Đông. Các nước nhỏ xung quanh, có yêu sách lãnh thổ đối với các đá và đá ngầm, bị đặt vào một nhiệm vụ có vẻ bất khả thi: làm thế nào để chống lại một cường quốc đang nổi lớn hơn mình nhiều và ham muốn thay đổi nguyên trạng. Các nước ASEAN cần phải thận trọng. Nếu phản ứng thái quá có thể gây ra một cuộc khủng hoảng, thậm chí biến thành bạo lực, nhưng làm nhẹ quá chỉ càng “mời” Bắc Kinh dần dần thay đổi các sự việc trên thực địa, hoặc trong trường hợp Biển Đông là tạo ra các thực thể mới gần như không thể chống lại theo kiểu ăn miếng trả miếng. Vậy các nước nhỏ cần phải làm gì? Ông Harry Kazianis, chuyên gia về chính sách quốc phòng tại Trung tâm Lợi ích quốc gia (một tổ chức phi đảng phái và phi lợi nhuận của Mỹ, như một phát ngôn của chủ nghĩa chiến lược thực dụng của chính sách đối ngoại Mỹ), cho rằng các quốc gia đang chịu sức ép của Trung Quốc cần tìm các cách thức không bạo lực, không trả đũa để chống lại nguy cơ Trung Quốc thay đổi nguyên trạng. Ông gợi ý một kế hoạch nhiều phần gọi là “shamefare” (tạm dịch là biện pháp gây hổ thẹn), mà Washington cần sử dụng để đưa Bắc Kinh vào thế phòng thủ trên Biển Đông. Chúng ta một lần nữa chứng kiến một thảm kịch được gọi là sân chơi chính trị nước lớn, đặc biệt tại Biển Đông. Một phần của chiến lược trên cũng có thể được các nước có tranh chấp sử dụng nhằm phơi bày toàn bộ những hành động cưỡng bức, hống hách gần như hàng ngày của Trung Quốc đối với các nước láng giềng. Mục đích rất đơn giản: dần dần và liên tục buộc Trung Quốc phải cảm thấy xấu hổ trên các phương tiện truyền thông, đặc biệt là mạng xã hội. Cách này phối hợp với các biện pháp khác nhằm khiến Bắc Kinh phải trả giá nặng nề và gần như liên tiếp vì các hành động của mình, với hy vọng họ sẽ xem xét lại cách hành xử. Chuyên gia Kazianis nhận định các nước như Việt Nam, Philippines và các nước khác có rất ít công cụ ngoại giao, kinh tế hay quân sự để răn đe được Trung Quốc không tiến hành các hành động hiếu chiến tại Biển Đông. Trong khi đó, Bắc Kinh đòi chủ quyền các thực thể nhỏ và biến chúng thành những đảo nhân tạo lớn với các cơ sở hạ tầng quân sự hoành tráng. Cứ đà này thì chỉ trong vài năm nữa, Trung Quốc sẽ chế ngự hoàn toàn Biển Đông. Như vậy, chỉ có một con đường cho các quốc gia có tranh chấp là gây sức ép với Bắc Kinh trên những mặt trận khác, chiến thuật vốn không nhổ tận gốc được xung đột nhưng có thể khiến Trung Quốc phải trả giá cho hành động của mình. Cụ thể, các nước có tranh chấp nên bắt đầu tiến trình soạn thảo và đăng phát trên các mạng truyền thông xã hội mọi phản ứng hiếu chiến của các tàu Trung Quốc – bao gồm cả tàu cá, tàu hải giám, tàu hải quân… - nhằm cho cộng đồng quốc tế thấy rõ các âm mưu hiếu chiến của Bắc Kinh. Bên cạnh đó, các nước có các tiền đồ tại Biển Đông và bị Trung Quốc quấy rầy cũng nên có các tàu nhỏ được trang bị các máy camera sẵn sàng ghi hình trong trường hợp Bắc Kinh áp dụng các chiến thuật cưỡng ép, bắt nạn. Ngoài ra, các công nghệ nhỏ và đơn giản như các máy bay không người lái giá rẻ và các UAV có thể được sử dụng để tuần tra và ghi hình các thay đổi lớn của Trung Quốc tại các đá và đá ngầm tại Biển Đông, cũng như những tác hại tới môi trường do các hành động đó gây ra. Đây cũng là một biện pháp hữu hiệu nhằm phơi bày những cái giá của chiến lược cưỡng bức của Trung Quốc. Hãy tưởng tượng một loạt mạng truyền thông xã hội nói về hết sự cố này đến sự cố khác mà các hành động hiếu chiến của Trung Quốc gây ra, với những hình ảnh cụ thể được ghi lại cho toàn thế giới thấy. Chi phí tài chính cho việc này không lớn nhưng những gì thu lại được có thể sẽ là rất lớn. Bắc Kinh sẽ phản ứng như thế nào? Trung Quốc có một cách phản ứng đơn giản, đó là lờ đi và tiếp tục hoạt động xây dựng trái phép các đảo nhân tạo và quân sự hóa khu vực. Đây là kịch bản hoàn toàn có thể xảy ra. Tuy nhiên, trong các xã hội Á Đông, làm cho ai đó “mất mặt” không phải là chuyện nhỏ. Trung Quốc có thể sẽ phản ứng thậm chí theo hướng hiếu chiến hơn, nhưng nếu các hành động đó diễn ra tại biển khơi hay ở những nơi gần camera, chúng có thể bị ghi hình và truyền đi khắp thế giới một cách dễ dàng. Bắc Kinh có thể bị buộc phải đưa ra lựa chọn. Trên thực tế, chúng ta đã biết là chiến thuật gây hổ thẹn có thể sẽ khiến Bắc Kinh chú ý và xem lại các hành động của mình. Khi Philippines dùng biện pháp pháp lý, vốn có một khía cạnh rõ ràng là gây hổ thẹn, và kiện Trung Quốc ra trước các tòa quốc tế liên quan đến Bãi Scarborough và đường 9 đoạn, Bắc Kinh đã “khích lệ” Manila ngừng vụ kiện (tất nhiên Trung Quốc không thừa nhận điều này). Như vậy, nếu Việt Nam và các nước có tranh chấp khác kiên trì biện pháp làm Trung Quốc phải xấu hổ, thông qua chiến lược nói trên cũng như tiến hành các thủ tục pháp lý để cùng nhau khiếu kiện ra các tòa án quốc tế, thì sức ép lớn này có thể đặt Bắc Kinh trước vành móng ngựa của tòa án công luận toàn cầu. Đây là điều mà Trung Quốc sẽ không dễ bỏ qua./. Đức Đan tổng hợp ======================== Xin lỗi nha! Đây là những giải pháp ngu nhất được thể hiện trong đối sách của các nước nhỏ chung quanh biển Đông, để đối phó với sự bành trướng của Tàu. Điếu mựa! Tất cả những nước chung quanh biển Đông - gộp luôn cả Nhật Bản và Úc - cũng điếu phải đối thủ của Tàu với vũ khí hạt nhân. Mong Tàu nó xấu hổ nó rút lui hả?! Điếu mựa! Tụi Tàu nó điếc từ lâu rùi. Bởi vậy, giải pháp duy nhất đúng là phải dựa vào một siêu cường có quyền lợi ở biển Đông đủ sức đối phó với Tàu. Đó chính là Hoa Kỳ. Nhưng riêng Việt Nam nên nhớ rằng: chơi với Hoa Kỳ thì cái gì cũng phải có "Ký và đóng dấu" mới được - tức là phải có văn bản. Điếu có chuyện hứa phong long như Nixon hứa với Việt Nam Cộng Hòa.
-
Sư phụ đã làm nhiều cho các Tổng Cty tư nhân lớn. Ngay cả các Tổng Cty tư nhân nhưng nhiều thành viên thì Tổng giám đốc vẫn có quyền ký xuất chi trong một giới hạn số tiền nào đó. Thí dụ như dưới 200.000.000VND. Chứ TT của chúng ta làm gì có hóa đơn đỏ?
-
Thủ tướng Nhật Bản tới Nga: "Cánh tay" giúp Putin thoát TQ? Hải Võ | 08/05/2016 13:50 Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã có cuộc tiếp xúc với Tổng thống Nga Vladimir Putin tại Sochi, Nga vào hôm 6/5, một động thái cho thấy chuyển biến tích cực trong quan hệ hai nước. Tổng thống Nga Vladmir Putin (trái) đón Thủ tướng Nhật Shinzo Abe hôm 6/5. (Ảnh: Getty Images) Sputnik News (Nga) hôm 6/5 dẫn lời chuyên gia khoa học thuộc Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản của Viện Viễn Đông, Viện Hàn lâm Khoa học Nga, Victor Pavlyatenko cho rằng không nên đánh giá quá cao ý nghĩa chuyến thăm nga không chính thức của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe. Theo ông Pavlyatenko, cuộc gặp Abe-Putin sẽ không tạo ra những cạnh tranh quyết liệt hơn trong quan hệ "tam giác" Nga-Nhật Bản-Trung Quốc. Ông nói: "Từ góc độ chính trị, quan hệ Nga-Trung vẫn là trục chính trong tam giác Nga-Trung-Nhật. Tokyo không có nhiều lý do để kỳ vọng." Theo truyền thông Trung Quốc, báo chí Nhật Bản đã cố ý xây dựng luồng quan điểm "Abe thăm Nga sẽ tái cân bằng quan hệ ba bên", bởi việc Nga "ngả" theo Trung Quốc không có lợi cho Nhật. Các nhà nghiên cứu của Nhật tin rằng, Trung Quốc không chỉ là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm, mà còn là đối tượng cần phải có cách tiếp cận hết sức thận trọng khi các mục đích và kế hoạch của Bắc Kinh có khả năng làm hỏng tình hình ổn định. Chủ biên tờ Nihon Kezai Shimbun (Nikkei) của Nhật, ông Ikeda Motohiro, gần đây có bài bình luận nhận xét: "Nếu Nga hy vọng thay đổi sự phụ thuộc quá mức vào Trung Quốc, qua đó đẩy mạnh ngoại giao cân bằng ở châu Á, thì đây sẽ là trợ lực lớn giúp cải thiện quan hệ Nga-Nhật." Ông Putin trong cuộc gặp với ông Abe ngày 6/5 tại Bocharov Ruchei, khu nhà riêng của Tổng thống Nga tại Sochi. (Ảnh: Kommersant Photo) Hoàn Cầu: Nga vẫn phải "dè chừng" Trung Quốc Thời báo Hoàn Cầu (Trung Quốc) ngày 8/5 đưa tin, có phân tích chỉ ra trong bối cảnh Bắc Kinh-Tokyo đang căng thẳng, quan hệ Nga-Nhật được cải thiện sẽ tạo ra ảnh hưởng tất yếu ở một mức độ nào đó đối với quan hệ Nga-Trung. Nga "hiểu rõ điều này", vì vậy đã không sắp xếp tổ chức hội đàm Abe-Putin tại thủ đô Moscow mà lựa chọn thành phố Sochi, ngầm ám chỉ tính không chính thức của cuộc gặp. Theo Hoàn Cầu, chính quyền của Tổng thống Nga Vladimir Putin đã cố gắng thể hiện "sự chênh lệch" giữa Nga-Trung với Nga-Nhật. Cải thiện với Nhật: Nga được nhiều lợi ích Phóng viên của tờ này ại Moscow ghi nhận, các tầng lớp ở Nga rất hoan nghênh chuyến thăm của Shinzo Abe, bởi dư luận nước này tin rằng mục tiêu của ông Putin là thông qua Nhật Bản để tạo chuyển biến trong quan hệ với Mỹ. Phía Nga hy vọng Nhật Bản trở thành nhân tố chủ chốt trong công cuộc phát triển kinh tế Nga ở vùng Viễn Đông. Đây là khu vực vốn đang bị đe dọa bởi sự bành trướng của người Trung Quốc. Giới nghiên cứu cũng như nhiều quan chức Nga đã cảnh báo sự hiện diện ngày càng rõ nét của kinh tế Trung Quốc tại đây. Trong khi đó, phía Nhật cũng kỳ vọng thúc đẩy lĩnh vực tín dụng và đầu tư tại Nga, nhằm làm nhạt bớt vai trò của Trung Quốc. Chuyên gia Trung Quốc: Còn quá sớm để nói Chuyên gia Lữ Diệu Đông, Phó chủ nhiệm Phòng nghiên cứu quan hệ đối ngoại thuộc Sở nghiên cứu Nhật Bản, Viện khoa học xã hội Trung Quốc, bình luận: "Còn quá sớm để nói về sự cân bằng và chế ngự nhau trong quan hệ tam giác Nga-Trung-Nhật." Trả lời Hoàn Cầu, ông Lữ cho biết Nga và Nhật Bản cho đến nay vẫn chưa ký kết hiệp định hòa bình và quan hệ hai nước khó có khả năng đạt được đột phá. Ông này đánh giá, Thủ tướng Shinzo Abe thực hiện chiến lược ngoại giao chủ động đối với Nga phần nhiều nhằm thúc đẩy hiện thực hóa chuyến thăm Nhật chính thức của Tổng thống Putin, tiến gần hơn đàm phán song phương về vấn đề tranh chấp lãnh thổ. Nhà nghiên cứu Châu Vĩnh Sinh thuộc Học viện ngoại giao (Trung Quốc) chỉ trích, việc Tokyo cải thiện quan hệ với Moscow vì mục đích đối trọng với Trung Quốc "là tư duy ngoại giao đối địch thời Chiến tranh Lạnh". Quan chức Triều Tiên dự đại hội đảng được "đặc quyền" nhận 30 loại bánh theo Trí Thức Trẻ ========================== NGỦ DẬY TÍNH TIẾP.
-
Bắc Kinh hãy hết sức yên chí lớn rằng: Sau phán quyết của tòa án quốc tế, sẽ là nhiều trò ngoạn mục và Bắc Kinh sẽ nhận thấy sai lầm to lớn của họ. Và lúc đó, hoặc phải rút kiếm quyết một trận sống mái; hoặc rút khỏi biển Đông và tự sụp đổ. Đằng nào cũng chết. Hiểu không?
-
Cái này nói lâu rồi: Năm nay bể Đông sôi sùng sục. Điếu mựa! Một tiểu đoàn không phải lực lượng tấn công. Anh Mẽo đem cả hai hạm đội đến Tây Thái Bình Dương mà vẫn còn khiêm tốn kìa! Hai hạm đội đến biển Đông tất nhiên không phải để chống khủng bố và hải tặc. Mà cũng chẳng phải chỉ để để phòng Bắc Triều Tiên, hoặc bảo vệ tự do hàng hải ở bể Đông. Tất nhiên cũng không phải vì xăng dầu xuống giá, nên kéo nhau đi du lịch cho vui.
-
Bí ẩn của các biểu tượng Ai Cập cổ đại khoahoc.tv Được mô tả trong các văn bản xưa như là “Lời của thần linh”, các biểu tượng này được sử dụng thường xuyên trong các lễ nghi tôn giáo và phép thuật ở Ai Cập. Mỗi biểu tượng đều mang một ý nghĩa riêng biệt, đặc trưng cho văn hóa tín ngưỡng của người Ai Cập, làm giàu thêm cho bản sắc văn hóa dân tộc của đất nước giàu truyền thống này. Ankh – Biểu tượng của cuộc sống vĩnh cửu Ankh là chữ tượng hình Ai Cập có nghĩa là "cuộc sống". Chỉ có các Pharaoh, Hoàng hậu và các vị thần mới được phép mang biểu tượng này vì nó được tin là sẽ đem lại sức mạnh cho người cầm nó có thể ban hay tước đoạt sinh mệnh từ những người khác. Nó còn được coi như là “chìa khóa của sự sống” do chính hình dạng giống như chiếc chìa khóa của nó đã tạo nên niềm tin nó có thể mở khóa “cửa địa ngục”. Ankh cũng gợi lên hình ảnh của mặt trời mọc nơi đường chân trời, biểu thị cho sự tái sinh mỗi ngày. Từ thời đại Middle Kingdom (1986 - 1759 BC), từ Ankh còn được dùng để chỉ gương và thú vị là chiếc gương cũng được tạo ra dưới hình dạng của biểu tượng này. Nó cũng là cảm hứng để tạo nên biểu tượng tượng trưng của vị thần Vệ Nữ của Hy Lạp, về sau được sử dụng rộng rãi như là biểu tượng của sao Kim, giới nữ hay kí hiệu của đồng. Sau này khi Thiên chúa giáo ra đời, nó được Giáo hội cơ đốc Ai cập sử dụng làm biểu tượng như một dạng đặc biệt của hình tượng cây thánh giá. Con mắt của Horus – Biểu tượng của trí tuệ, sự bảo vệ và sức khỏe Trong thần thoại Ai Cập, Horus là thiên thần của Ai Cập cổ đại hóa thân là chim ưng. Mắt phải chim ưng là Mắt của thần Horus, cũng được xem là tượng trưng cho Mặt Trời. Mắt trái tượng trưng cho Mặt Trăng và thần Tehuti. Người cổ đại tin rằng biểu tượng bất diệt này sẽ hỗ trợ việc tái kiếp, vì thế người ta đã tìm thấy biểu tượng này dưới lớp vải liệm thứ 12 của xác ướp vua Tutankhamun. Theo truyền thuyết Ai Cập, Seth, anh trai của Horus, đã giết hại thần Osiris. Horus đã chiến đấu với Seth để trả thù cho cái chết của người cha và bị mất mắt trái của ông trong cuộc chiến. Thoth, vị thần của phép thuật và Mặt Trăng, đã sử dụng quyền năng của mình để khôi phục lại con mắt của Horus. Khi đưa con mắt này ra trước Osiris, Osiris đã được tái sinh trở lại. Con mắt của Horus, cũng được gọi là "Oudjat", tượng trưng cho sự bảo vệ chống lại cái ác và đem đến trí tuệ, sự uyên bác. Ngày nay, chúng ta thấy có một biểu tượng tương tự trên các đơn thuốc – Rx chính là có nguồn gốc từ biểu tượng này. Vào thế kỉ thứ II, Galen đã vay mượn biểu tượng huyền bí từ trong truyền thuyết của người Ai Cập và sử dụng nó để gây ấn tượng với những bệnh nhân của mình. Sau đó, dần dần phát triển thành kí hiệu Rx ngày nay dành cho các toa thuốc. Nó mang ý nghĩa tượng trưng cho sự hồi phục và tính thống nhất. Lông vũ của Maat – Biểu tượng của chân lý, đạo đức, cán cân công lý Chiếc lông vũ được coi là vật tượng trưng của nữ thần Maat. Trái tim của người chết sẽ được đem ra cân để so với lông vũ của thần Matt trong Ngày phán xét cuối cùng. Nếu đó là trái tim của một người thật thà, thì nó sẽ bằng trọng lượng với chiếc lông vũ và người đó sẽ được phép vào Vương quốc của Osiris. Còn nếu trái tim đó chất đầy với tội lỗi thì nó sẽ nặng hơn chiếc lông vũ và người đó sẽ bị đem đi làm mồi cho loài quái vật Ammut. Phiên tòa Maat Đó là trách nhiệm của các Pharaoh để thiết lập và duy trì luật Maat như là cách để giữ trật tự vũ trụ ở thế cân bằng. Khi một Pharaoh băng hà, Maat sẽ tạm thời biến mất và thế giới lại chìm trong sự hỗn mang, cho đến khi có sự lên ngôi của một vị Pharaoh mới. Móc và néo – Biểu tượng của sức mạnh và quyền lực hoàng gia Móc và néo thường đi với nhau như một cặp, được sử dụng phổ biến từ triều đại Middle Kingdom, là vật tượng trưng được sử dụng giống như quyền trượng khẳng định sức mạnh và quyền lực của nhà vua. Cặp đôi này có nguồn gốc từ vị thần nông nghiệp cổ đại của Ai Cập, Anedjti. Ông được miêu tả đội chiếc vương miện có gắn 2 chiếc lông vũ và tay cầm chiếc móc và néo đặc trưng.Về sau, Anedjti đồng hóa làm một với Osiris và mọi đặc trưng trong nhân dạng của vị thần này cũng được chuyển giao sang thần Osiris. Chiếc móc được cầm bên tay trái còn chiếc néo được cầm bên tay phải. Chiếc móc (heq) tượng trưng cho tính âm hay "quyền lực về mặt tinh thần" của một Pharaoh, khẳng định vai trò như là người bảo vệ của dân hay là "shepherd"- Chúa trời chịu trách nhiệm lãnh đạo, chăm lo cho những "con chiên" của mình. Chiếc néo (nekhakha) tượng trưng cho tính dương và khía cạnh về quyền lực hữu hình vì Pharaoh là người trần nhưng đại diện cho tất cả các vị thần cai quản 3 cõi: siêu hình, vũ trụ và trái đất. Nó cũng đại diện cho người nông dân - người tạo ra lương thực và coi sóc mọi sự sống trên đồng ruộng (chiếc néo được sử dụng như dụng cụ đập lúa của người nông dân trong thời Ai Cập cổ xưa). Thông điệp của nó như là một lời nhắc nhở một người lãnh đạo có tài năng thực sự phải biết kết hợp kỷ luật với trí tuệ và sự hiểu biết, phải có lòng nhân từ để hòa dịu công lý và đưa ra những phán quyết đúng đắn nhất. Tư thế cầm của chúng cũng mang những ý nghĩa khác nhau. Thời xa xưa, tư thế bắt chéo hai cánh tay vào nhau trước ngực là biểu thị cái chết và người chết thường được chôn theo tư thế này. Tuy nhiên, cũng với tư thế này và với hai chiếc móc và néo được bắt chéo với nhau thì lại mang nghĩa là sự hồi sinh như trong các bức hình ta thường thấy ở quan tài của vua Tutankhamun. Còn khi cầm thẳng chúng ở trước mặt thì mang nghĩa là sự phán xét, hay được miêu tả gắn liền với thần Anubis, vị thần Cõi âm và là người phán xét trong phiên tòa Maat. Người ta cho rằng, kí tự X có nguồn gốc chính từ hình ảnh hai chiếc néo và chiếc móc bắt chéo với nhau và đó là biểu tượng của cái chết và sự tái sinh. Trong nguyên gốc, từ "ex" - vốn là tượng trưng cho chữ X - mang nghĩa là đã chết, khi người ta nói ex-husband nghĩa là để ám chỉ người chồng đã mất. Bọ hung – Biểu tượng của sức mạnh, sáng tạo và sự biến đổi Bọ hung là đại diện cho thần mặt trời Khepri liên quan đến sự hồi sinh. Loài bọ hung thường đẻ trứng trong phân các loài vật khác, cuộn tròn chúng lại như viên bi và lăn vào trong lỗ, là sự khởi đầu trong vòng đời của một chú bọ hung con. Người Ai Cập ví tập tính này giống như sự chuyển động của "quả bóng" mặt trời lăn trên bầu trời và sự tái sinh hàng ngày của nó. Những người Ai Cập cổ đại tin rằng, một con bọ hung bay trên bầu trời mỗi buổi sáng sẽ gọi mặt trời lên. Vì thế, con bọ hung là biểu tượng của mặt trời mọc, được sử dụng để bảo vệ khỏi quỷ dữ, nó còn là biểu tượng của sự tái sinh, sáng tạo, sự biến đổi, đem lại sức mạnh cho người đeo nó. Bọ hung cánh lớn và bọ hung hình trái tim được coi là loài côn trùng may mắn và được đặt trên các xác ướp để bảo vệ họ chống lại ma quỷ. Khi Pharaoh Amenhotep III băng hà, hàng trăm vật kỉ niệm có hình bọ hung đã được làm để ghi dấu những cột mốc sự kiện trong cuộc đời của ông. Hoa sen – Biểu tượng của Mặt trời, sự thanh cao, sức sáng tạo và sự tái sinh Ai Cập có hai giống hoa sen bản địa sinh trưởng là loại sen trắng và sen xanh, sau này có thêm loại sen hồng được du nhập từ Ba Tư. Cả ba loại sen này đều được miêu tả trong nghệ thuật Ai cập nhưng giống sen xanh được sử dụng rộng rãi và phổ biến nhất. Theo thuyết sáng tạo của người Ai Cập, trong buổi sơ khai, có một bông hoa sen khổng lồ mọc lên trên đại dương của sự hỗn mang. Từ bông sen đó, mặt trời ló dạng lần đầu tiên trên Trái đất. Búp sen vàng trong bông sen xanh làm người Ai cập liên tưởng đến Mặt trời mọc lên từ nơi mặt biển nguyên sơn như trong truyền thuyết về sự ra đời của vạn vật. Vào buổi đêm, bông hoa cụp cánh và chìm dưới mặt nước để rồi đến bình minh, nó lại nở bung rực rỡ. Các giống hoa màu xanh hay màu trắng được sử dụng rộng rãi trong các chế phẩm thuốc. Trong toán học, biểu tượng hoa sen tượng trưng cho con số 1.000. Nó cũng là biểu tượng của Thượng Ai Cập và đại diện cho sự phục sinh của Isis. Cập nhật: 16/03/2016 Tổng hợp ========================== Rất nhiều biểu tượng của Ai Cập cổ đại trùng lặp hoặc tương đồng với những di sản của văn hiến Việt. Tôi hy vọng có thời gian chứng tỏ điều này.
-
Trung Quốc sợ điều gì ở Biển Đông? Thứ năm, 05/05/2016 - 13:00 Mỹ có cơ hội vào Biển Đông triển khai lực lượng quân sự là một thất bại địa chính trị của Trung Quốc. >> Trung Quốc lại sắp tập trận chống tên lửa trên Biển Đông >> Mỹ điều lực lượng đến gần biển Đông Chẳng cần phải có tầm nhìn xa, chỉ nghe, thấy hành động của Trung Quốc trong mấy năm qua trên Biển Đông thì bất cứ người nào cũng biết Trung Quốc đang muốn chiếm toàn bộ Biển Đông. Đó là điều chắc chắn không ai nghi ngờ. Biển Đông là “đường sinh mạng” của Trung Quốc? Có thể nói, Trung Quốc đã, đang tìm mọi cách để chiếm Biển Đông và rất muốn chiếm được Biển Đông bất kỳ lúc nào. Thế nhưng tình thế trên Biển Đông hiện tại đã chứng tỏ, Trung Quốc chưa có đủ khả năng dùng sức mạnh quân sự để chiếm Biển Đông. Chiếm Biển Đông theo nghĩa quân sự có nghĩa là tất cả các đảo trên Biển Đông, toàn bộ trên không, trên biển, trong lòng biển Biển Đông đều bị PLAN (Hải quân Trung Quốc) làm chủ tuyệt đối. Những đối tượng tác chiến của PLAN hoàn toàn bị trấn áp, khiến khả năng tác chiến đáp trả hoàn toàn bị tê liệt. Chiếm được Biển Đông có 2 ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng với Trung Quốc. Thứ nhất, lưu ý là, khống chế tuyến hàng hải trên Biển Đông với Trung Quốc chỉ là chuyện nhỏ mà lớn hơn là khống chế tuyến hàng hải từ Ấn Độ Dương và vịnh Ba Tư sang Thái Bình Dương mới là mục đích chính của chiến lược khống chế tuyến hàng hải. Tuyến hàng hải trên Biển Đông là tuyến ngắn nhất chứ không phải duy nhất từ Ấn Độ dương và vịnh Ba Tư sang Thái Bình Dương. Khi đó, chỉ cần làm gián đoạn dòng hàng hóa khổng lồ này là nhiều nền kinh tế không chỉ trong khu vực mà cả thế giới đều bị ảnh hưởng nặng nề. Đây là một kết quả rất hấp dẫn, quyến rũ “chết người” khiến cho những kẻ có chút sức mạnh, hay tưởng mình mạnh và đầy tham vọng quyền lực, muốn chiếm lấy bằng được. Thứ hai, Trung Quốc sẽ gia tăng sức mạnh răn đe triển khai đòn tấn công hạt nhân với Mỹ trong khi Trung Quốc chưa đủ khả năng sử dụng bộ 3 hạt nhân gồm, tên lửa, máy báy ném bom tầm xa và tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo (SSBN) để tác chiến. Mặc dù Trung Quốc chưa có máy bay ném bom chiến lược tầm xa như Nga, Mỹ nhưng tên lửa trên đất liền, trên SSBN tuần tra ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, vẫn có thừa khả năng phủ trùm tên lửa vào nước Mỹ. Tuy nhiên, điều “bất khả kháng” của lực lượng SSBN là không thể hoạt động tại biển Hoa Đông vì biển nông và hệ thống săn ngầm của Mỹ-Nhật Bản quá hiện đại chờ sẵn, nên “nhất cử nhất động” của SSBN Trung Quốc đều bị phát hiện. Trong khi đó, lối ra và nơi triển khai tác chiến lý tưởng cho lực lượng SSBN từ căn cứ Tam Á chính là Biển Đông. Tàu ngầm là bí mật, khi yếu tố bí mật đã không còn thì tàu ngầm mất tác dụng, là đối tượng dễ tiêu diệt nhất. Nếu khi tàu ngầm triển khai tác chiến mà bị lộ thì coi như chuyến tuần tra SSBN bị thất bại, hay tàu ngầm đó bị loại ra khỏi vòng chiến nếu xảy ra đụng độ quân sự. Trung Quốc không thể chấp nhận “kiểu tuần tra” của loại máy bay P-8A Poseidon này của Mỹ trên Biển Đông Khi mà tên lửa phóng từ lục địa Trung Quốc đang bị hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ bao vây, triển khai trước cửa nhà thì chiếm Biển Đông để triển khai SSBN, Trung Quốc mới gia tăng được sức răn đe đòn tấn công hạt nhân với Mỹ. Vì vậy, chiếm Biển Đông, biến 80% diện tích Biển Đông thành khu “đặc quyền quân sự”, có một ý nghĩa quân sự mang tính toàn cầu, đặc biệt quan trọng của Trung Quốc để vươn ra Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương thoát khỏi sự bao vây của Mỹ. Trung Quốc sợ điều gì ở Biển Đông? Điều này có nghĩa là tại sao Trung Quốc chưa "khai đao” trên Biển Đông như các giới chính khách, tướng tá diều hâu Trung Quốc thường hô hào trên diễn đàn? Rõ ràng, chúng ta không đánh giá thấp ý chí chính trị của Trung Quốc trong mưu đồ chiếm Biển Đông, nhưng khả năng, những tác động khách quan để thực hiện ý chí lại là vấn đề khác. Có 3 nguyên nhân mà Trung Quốc chưa thể dùng vũ lực để chiếm Biển Đông.. Một là sự xuất hiện của Mỹ Biển Đông chẳng là gì với Mỹ, vì trong mấy chục năm qua, Mỹ chẳng để ý gì đến, nhưng Biển Đông lại trở nên có ý nghĩa quan trọng với Mỹ khi Trung Quốc muốn chiếm nó. Tính logic của vấn đề này là vì ý đồ của một Trung Quốc đang trỗi dậy, hung hăng, thách thức địa vị thống trị của Mỹ khi chiếm Biển Đông lại xung đột với ý đồ của Mỹ như đã nói ở trên. Từ năm 2012, Mỹ công bố chiến lược “xoay trục sang Châu Á-Thái Bình dương” nghĩa là Mỹ đã thừa biết ý đồ của Trung Quốc ở Tây Thái Bình Dương. Nhiều người cho rằng Mỹ triển khai quá chậm, rằng Mỹ chỉ nói mà không làm, rằng Mỹ mắc vào Ukraine và Trung Đông…Nhưng thực chất vấn đề là Mỹ muốn triển khai thực hiện hay nôm na là thay đổi “tư thế quân sự” cần phải có điều kiện và thời điểm Điều kiện đầu tiên là môi trường địa chính trị thuận lợi. Có thể nói từ sau năm 1975, Mỹ đã rời bỏ khu vực Đông Nam Á và với sự trỗi dậy mạnh mẽ của nền kinh tế, Trung Quốc gần như chiếm lợi thế tuyệt đối với Mỹ trong cục diện địa chính trị tại khu vực này. Mỹ muốn cạnh tranh địa chính trị, đánh sập vai trò ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực ĐNA không phải ngày một ngày hai. Không phải Mỹ muốn lập căn cứ quân sự, triển khai tàu chiến, máy bay là các nước chấp nhận lập tức…mà phải có tác động nào, ai, đe dọa đến an ninh, chủ quyền… mới khiến họ cần sự trợ giúp từ Mỹ. Đơn giản là vì lúc đó Trung Quốc chưa lộ mặt, Trung Quốc đang “giấu mình chờ thời”, Trung Quốc chưa hung hăng, trắng trợn, bất chấp tất cả đe dọa sử dụng vũ lực…thì Mỹ khó cạnh tranh được vai trò của Trung Quốc trên khu vực này. Làm sao để Trung Quốc lộ mặt là mưu, kế, là kinh nghiệm nghệ thuật chiến tranh địa chính trị của Mỹ. Mỹ đã thắng trong tiến trình này, bởi lẽ, tham vọng của Trung Quốc quá lớn như một cơn đói cồn cào nên khi Mỹ tung mồi ngon thì gì mà Trung Quốc chả bập vào. Rốt cuộc chính Mỹ là cường quốc đầu tiên ngoài Biển Đông ngăn cản hành động của Trung Quốc cùng với “nạn nhân” trực tiếp là các quốc gia ven Biển Đông trong đó có Việt Nam. Mỹ tiến vào Biển Đông trên danh nghĩa “tự do hàng hải” nhưng thực chất là ngăn chặn, phát hiện, theo dõi hoạt động của lực lượng hải quân chiến lược của Trung Quốc ngay trước cửa căn cứ tàu ngầm Tam Á lớn nhất của PLAN. Hành động này của Mỹ giống như trong bóng đá, Mỹ tranh chấp quyết liệt để khống chế bóng ngay trong vòng 16m50 của Trung Quốc. Biển Đông chính là khu vực 16m50 của Trung Quốc. Đây là nguyên nhân chính, giải thích tại sao Trung Quốc không muốn cái kiểu tuần tra trên Biển Đông của không quân, hải quân Mỹ và thực sự là một sai lầm lớn của Trung Quốc khi đã để Mỹ có cớ đưa lực lượng vào Biển Đông, khôi phục lại các căn cứ quân sự tại Philipines… Mục tiêu quân sự toàn cầu của Mỹ đối phó với Trung Quốc lại phù hợp với lợi ích chủ quyền Biển Đông của các quốc gia như Philipines, Malaysia, Indonesia và Việt Nam, cho nên họ ủng hộ Mỹ xuất hiện tại Biển Đông là rất tự nhiên và hợp lẽ. (Hai nguyên nhân còn lại mang tính quyết định là Xung đột quân sự khu vực với Việt Nam và “Vạn lý trường thành bằng cát” trên Biển Đông được trình bày phần sau). Theo Lê Ngọc Thống Đất Việt =================== Nếu "canh bạc cuối cùng" kết thúc bằng chiến tranh thì mọi việc không hề đơn giản. Trước mắt Việt Nam phải hùng mạnh đã, rồi bàn sau.
-
Mỹ điều lực lượng đến gần biển Đông Thứ tư, 04/05/2016 - 11:00 Hạm đội 3 đến Tây Thái Bình Dương nhằm phối hợp với Hạm đội 7. >> Chuẩn đô đốc Mỹ kể chuyện đối mặt Hải quân Trung Quốc trên Biển Đông >> Mỹ vạch lằn ranh đỏ ở biển Đông Tại cuộc họp báo ở Lầu Năm Góc hôm 2-5 (giờ địa phương), Đô đốc John M. Richardson - Tư lệnh Hải quân Mỹ nhận xét quan hệ quốc phòng Mỹ-Ấn Độ ngày càng đạt đến mức tuyệt vời trên phạm vi hàng hải. Báo Economic Times (Ấn Độ) ghi nhận đây là phát biểu chính thức từ phía Mỹ sau khi có thông tin hai đối tác chiến lược Mỹ-Ấn đang thảo luận hỗ trợ với nhau về hoạt động tàu ngầm. Đô đốc Richardson nhận xét tình hình khu vực đang chuyển động, Mỹ cảm nhận có nhiều đối tác mới trong khu vực và Mỹ sẽ cùng hợp tác với các đối tác trong các lĩnh vực đáp ứng lợi ích đôi bên. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ John Kirby không bình luận trực tiếp về hợp tác Mỹ-Ấn trong hoạt động tàu ngầm ở Ấn Độ Dương. Ông chỉ nhận xét Mỹ đánh giá cao quan hệ thương mại và quân sự với Ấn Độ, đồng thời Mỹ mong muốn nhìn thấy quan hệ ấy tiếp tục cải thiện, chín muồi và phát triển. Trang web của Lầu Năm Góc đưa tin tại cuộc họp báo, Đô đốc Richardson đã nêu lên tầm quan trọng của bảo vệ tự do hàng hải và các nguyên tắc quốc tế. Đô đốc Scott Swift trên tàu khu trục USS Momsen ở Hawaii ngày 26-4. Ảnh: AP Ông nhấn mạnh: “Chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc với các đối tác trong khu vực, kể cả với Trung Quốc để tiếp tục ủng hộ tự do lưu thông… Chúng tôi sẽ tiếp tục bay qua, hoạt động và đi tàu qua bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép”. Trước đó, báo Stars and Stripes (Mỹ) đưa tin ba tàu khu trục tên lửa dẫn đường USS Spruance, USS Decatur và USS Momsen thuộc Hạm đội 3 từ bờ tây của Mỹ đã đến Hawaii và đầu tháng 5 sẽ được triển khai đến Tây Thái Bình Dương. Dự kiến thời gian triển khai kéo dài bảy tháng. Hạm đội Thái Bình Dương gồm Hạm đội 3 và Hạm đội 7 với hơn 200 tàu, hơn 1.000 máy bay và 140.000 thủy thủ. Hạm đội 3 đóng ở San Diego, phụ trách bờ tây nước Mỹ và Alaska, trong khi Hạm đội 7 đóng ở Nhật phụ trách châu Đại Dương, Đông Nam Á, Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên. Ngày 27-4, Đô đốc Scott Swift, tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương, tuyên bố ông dự kiến mở rộng tầm hoạt động của Hạm đội 3 đến khu vực châu Á-Thái Bình Dương nhằm giúp Hạm đội 7. Ông chỉ ra mối đe dọa đang ở CHDCND Triều Tiên và Mỹ cần nhóm ba tàu khu trục kể trên để bảo vệ Nhật và Mỹ. Theo báo Stars and Stripes, các tàu của Hạm đội 3 sẵn sàng đáp ứng các thảm họa như động đất, bão tố, sóng thần ở Thái Bình Dương chứ không đáp ứng trực tiếp vào căng thẳng ở biển Đông. Đô đốc Scott Swift giải thích: “Xét về năng lực và khả năng, chúng tôi không thể can thiệp hết các thách thức khu vực đang phải đối mặt ở biển Đông”. Hạm trưởng Charles Johnson chỉ huy nhóm ba tàu nổi cho biết các tàu sẽ tiến hành tuần tra thường xuyên và thực hiện chiến dịch tự do hàng hải. Ông khẳng định nếu được điều động sang biển Đông thì lực lượng sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ. Theo Minh Thùy - Ph. Quỳnh Pháp luật TPHCM =========================== Can tội làm ngoáo ọp dọa lão Gàn. Láo! Trung quốc không phải Iraq. Cho nên "canh bạc cuối cùng" nếu kết thúc bằng chiến tranh thì nước Mỹ cần một sự chuẩn bị kỹ càng. Bắc Kinh bây giờ đã phải đặt khả năng chiến tranh lên bàn họp. Hai hạm đội của Hoa Kỳ đến Tây Thái Bình Dương không phải để ăn cá thu kho riềng với mực một nắng. Nghĩ thì thấy cũng tội nghiệp!
-
Hạ Quốc Huy thân mến. Nhân trả lời Quốc Huy, tôi muốn nhắc lại một điều mà tôi đã bày tỏ nhiều lần trên diễn đàn và chắc cũng nhiều người còn nhớ. Đó là, tôi thường nói: "Ngay cả toàn bộ sự huyền vĩ của nền văn minh Đông phương, đối với tôi cũng chỉ là phương tiện, phụng sự cho mục đích chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến". Qua đó thì Hạ Quốc Huy chắc cũng hiểu và nên hiểu rằng: Khi mà cả một hệ thống tri thức vũ trụ vô cùng huyền vĩ, được tích lũy hàng chục ngàn năm của cả một nền văn minh cổ xưa, vượt trội hơn hẳn toàn bộ lịch sử của nền văn minh hiện đại đầy kiêu hãnh này - mà chỉ là một thứ phương tiện để tôi sử dụng chứng minh cho chân lý Việt sử, trải gần 5000 năm văn hiến - thì những giá trị khác như cả cái TTNC Lý học Đông phương, diễn đàn....và tất cả cụm từ ngôi thứ ba "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" với "cộng đồng khoa học quốc tế" phủ nhận cội nguồn Việt sử, không phải là thứ mà tôi quan tâm. Đối với tôi, toàn bộ những giá trị của nền văn minh hiện nay, kể cả những thứ quen gọi là "vật chất" lẫn "tinh thần", chỉ là những hiện tượng xuất hiện trong một quá trình tiến hóa của vũ trụ. Tất nhiên, những danh vị hão huyền của trần gian như viện sĩ, giáo sư, sự nổi tiếng....chỉ là những thứ phần thưởng cho những học sinh giỏi được tuyên dương ở trong trường phổ thông trung học. Sắp hết tháng Ba Việt lịch, nếu như sức khỏe của tôi được hồi phục thì mọi chuyện sẽ được tính tiếp.