Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Hầu hết anh chị em Lạc Việt độn toán đều đoán Thổ thắng. Híc! Chờ xem. Thiên Sứ tôi cũng quăng cả hai chai bia vào đội Thổ. Thiên Sứ dự báo: Trận này ngay từ đầu Thổ sẽ co cụm với hàng phòng thủ thép từ trung vệ. Lâu lâu mới nhân cơ hội tấn công, nhưng không ào ạt. Hiệp I - Tỷ số 0 - 0, hoặc 0 - 1 nghiêng về đội Đức. Hiệp II: Đội Thổ mở trận tấn công, vào giữa hiệp có thay người, nhưng mức độ tấn công phụ thuộc vào kết quả hiệp trước. II - 1: Tỷ số 0 - 0. Đội Thổ vẵn lấy căn bản là phòng thủ, tuy tấn công nhiều hơn hiệp I. II - 2: Tỷ số 0 - 1. Đội Thổ ồ ạt tấn công, thế trận rất căng thẳng với nhiều pha ngoạn mục, Thẻ vàng, xanh xuất hiện ở lúc này. Tỷ số hòa 1- 1. Hoặc 2 - 2. * Đá luân lưu. Thiên Sứ
  2. Anh Trần Phương viết: Anh nên cảnh giác với lập luận này. Bởi vì: "Tỵ nạn chính trị" với "xâm chiếm và xác định chủ quyền" là hai vấn đề khác nhau. Nếu nói như anh thì: "đặt quyền kiểm soát vùng này là một tỉnh của nhà Minh. Sau này nhà Mãn Thanh thay thế nhà Minh, như một luật bất thành văn, các vùng đất thuộc chủ quyền của nhà Minh trước đó đều phải thuộc nhà Thanh". Với lập luận trên của anh thì theo anh bây giờ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thay thế nhà Mãn Thanh thì vùng đất này sẽ thuộc chủ quyền của ai? Anh hãy cảnh giác với lịch sử và lập luận thận trọng!. Quan điểm của tôi rất rõ ràng là: Nam Việt Triệu Đà là quốc gia của người Việt. Không chỉ vì một Triệu Đà là người sinh ở vùng đất thuộc nhà Hán quản lý mà Nam Việt không phải quốc gia Việt. Với lập luận: Triệu Đà không phải người Việt thì Nam Việt không phải là quốc gia của người Việt thì tôi đặt vấn đề là : Triều đại Mãn Thanh có thuộc quốc gia chính thống của Trung Quốc không? Nếu người Hoa Kỳ bầu Obama làm tổng thống thì Hoa Kỳ thuộc quốc gia Kenia ở châu phi chăng? Tất nhiên điều đó phi lý. Thiên Sứ
  3. Thiên Sứ tôi xin dành cho ACE tham gia luận đoán Lạc việt Độn Toán - Dự đoán Bóng Đá những giải thưởng như sau : Đoán thắng thua một trận Bán Kết : I - 1 - Cuốn LẠC VIỆT ĐỘN TOÁN ( bản hoàn chỉnh gồm cả phần 6 đang biên tập ) I - 2 - Đoán đúng thắng thua và cả tỷ số phần thưởng như trên và thêm cuốn ĐẠO ĐỨC KINH và VĂN MINH LẠC VIỆT. II - 1 - Đoán đúng thắng thua trận Chung kết được một cuốn Hoàng đế nội kinh tố vấn và thuyết Âm Dương Ngũ hành. II - 2 - Đoán đúng thắng thua và cả tỷ số sẽ nhận được cả 3 cuốn sách trên Xin ACE lưu ý tất cả tác phẩm này đang trong giai đoạn hoàn chỉnh , ACE nào kiên trì sẽ nhận được sách in . 1 Tháng sau Euro sẽ có cuốn Lạc Việt độn toán. Ba tháng sau sẽ có cuốn Đạo Đức kinh; 9 tháng sau sẽ có cuốn Hoàng Đế. Giải đặc biệt cho ai đoán đúng thắng thua hết các trận từ bán kết đến chung kết là cuốn: Phong Thủy Lạc Việt. (Chờ sáu tháng sau) Thiên Sứ
  4. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hội đàm với Tổng thống G.Bush Cập nhật cách đây 2 giờ 16 phút Ảnh: TTXVN * Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp lãnh đạo hai đảng Dân chủ và Cộng hòa tại Thượng viện Hoa Kỳ Chiều 24.6 (sáng 25.6 giờ Việt Nam), tại Nhà Trắng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã hội đàm với Tổng thống George W.Bush về các biện pháp nhằm củng cố vững chắc và phát triển hơn nữa quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước cũng như các vấn đề quốc tế và khu vực hai bên cùng quan tâm. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cảm ơn Tổng thống G.Bush và nhân dân Hoa Kỳ đã dành cho Đoàn đại biểu cấp cao Chính phủ Việt Nam sự tiếp đón nồng hậu. Tổng thống G.Bush nhắc lại ấn tượng tốt đẹp về chuyến thăm Việt Nam mới đây, cảm ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã đón tiếp nồng nhiệt ông và phu nhân. Ông bày tỏ vui mừng trước những thành tựu phát triển kinh tế của Việt Nam, hoan nghênh quyết tâm của Chính phủ Việt Nam ổn định kinh tế vĩ mô. Hai nhà lãnh đạo đánh giá quan hệ song phương Việt Nam và Hoa Kỳ đang tiến triển mạnh mẽ, năng động và nhất trí thúc đẩy quan hệ đối tác xây dựng, hữu nghị, hợp tác nhiều mặt, trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi, phát triển ngày càng sâu rộng, vững chắc và hiệu quả hơn vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, an ninh, ổn định và hợp tác phát triển ở Đông Nam Á và châu Á. Tổng thống Mỹ George W.Bush chào đón Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Nhà Trắng, trước khi bước vào cuộc hội đàm chính thức - Ảnh: TTXVN Hai nhà lãnh đạo nhất trí nâng cấp cơ chế đối thoại của các quan chức cấp cao hai bên về các vấn đề chính trị, quốc phòng, an ninh; lập cơ chế mới để trao đổi và phối hợp trong lĩnh vực giáo dục, môi trường, khoa học công nghệ; đồng thời, tiếp tục các cuộc đối thoại hiện có về kinh tế và giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại. Một lần nữa, Tổng thống Bush khẳng định ủng hộ chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Hai nhà lãnh đạo vui mừng trước những thành công của người Hoa Kỳ gốc Việt và ghi nhận sự đóng góp tích cực của họ vào việc thúc đẩy quan hệ giữa hai nước. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Chính phủ Việt Nam luôn xem bà con Việt kiều là bộ phận máu thịt của dân tộc Việt Nam và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để đồng bào hướng về quê hương đất nước thân yêu của mình. Hai nhà lãnh đạo nhất trí đẩy mạnh quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư trở thành nền tảng và động lực đưa quan hệ hữu nghị và hợp tác song phương Việt Nam - Hoa Kỳ lên tầm cao mới. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Việt Nam quyết tâm thực hiện các cam kết kinh tế song phương và quốc tế; tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Hai nhà lãnh đạo tuyên bố Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ khởi động đàm phán Hiệp định Đầu tư song phương (BIT). Tổng thống Bush khẳng định Hoa Kỳ đang xem xét tích cực việc trao Qui chế Ưu đãi Thuế quan Phổ cập (GSP) cho Việt Nam và ghi nhận việc công nhận Quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam. Hoa Kỳ khẳng định sẽ nhập khẩu hoa quả từ Việt Nam, trong năm 2008 sẽ nhập quả thanh long. Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và thỏa thuận sẽ thành lập một Nhóm chuyên trách Giáo dục để cùng nghiên cứu và đề xuất với Chính phủ hai nước các biện pháp hiệu quả cho sự hợp tác giáo dục giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong thời gian tới. Hai bên cũng cam kết sẽ tích cực hợp tác trong lĩnh vực môi trường, theo đó sẽ thành lập một Tiểu ban mới trong khuôn khổ Hiệp định song phương về Khoa học Công nghệ để giúp Việt Nam nghiên cứu đối phó với tình trạng biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao. Phía Hoa Kỳ bày tỏ mong muốn xây dựng quan hệ đối tác với Việt Nam trong lĩnh vực này thành một hình mẫu. Hai nhà lãnh đạo cũng đã nhất trí tăng cường hợp tác giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại. Tổng thống G.Bush cảm ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam về sự hợp tác có hiệu quả trong việc tìm kiếm quân nhân Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh, đồng thời khẳng định Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong việc phòng chống HIV/AIDS, rà phá bom mìn, làm sạch môi trường ở những vùng bị nhiễm dioxin và thực hiện các dự án chăm sóc sức khỏe, tìm kiếm người Việt Nam mất tích trong chiến tranh. Hai bên cũng khẳng định tiếp tục tham vấn và hợp tác trong khuôn khổ Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và về các vấn đề quốc tế và khu vực hai bên có lợi ích chung như chống khủng bố, ngăn chặn bệnh dịch, tội phạm xuyên quốc gia, đảm bảo an ninh lương thực. Cuộc hội đàm diễn ra trong tinh thần hữu nghị, xây dựng và tôn trọng lẫn nhau. Kết thúc hội đàm, hai nhà lãnh đạo đã họp báo chung. Tổng thống Bush đánh giá cao và ghi nhận những nỗ lực và giải pháp đang triển khai của Chính phủ Việt Nam trong vấn đề tôn giáo, vui mừng trước quan hệ song phương Việt Nam và Hoa Kỳ đang ngày càng tiến triển mạnh mẽ, năng động trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Tổng thống cảm ơn chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và mong rằng quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ tiếp tục được củng cố ngày càng tốt đẹp hơn. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thông báo cuộc hội đàm với Tổng thống Bush rất thành công trên tinh thần hữu nghị, xây dựng và hiểu biết lẫn nhau. Theo đó, hai bên vui mừng nhận thấy quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ đã có những phát triển nhanh chóng theo hướng "đối tác xây dựng, hữu nghị, hợp tác nhiều mặt, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi". Thủ tướng nhấn mạnh rằng chuyến thăm Hoa Kỳ lần này là sự tiếp tục đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, với mong muốn Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các quốc gia, các dân tộc trong cộng đồng quốc tế, đồng thời tiếp tục tăng cường quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam với Hoa Kỳ trong khuôn khổ mà lãnh đạo hai nước đã xác định. Thủ tướng hy vọng với những kết quả đạt được của chuyến thăm này, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ sẽ được nâng lên một tầm cao mới, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển ở khu vực và trên thế giới. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng Bộ trưởng Thương mại Mỹ Carlos Gutierrez chứng kiến lễ ký hợp đồng đầu tư giữa một số tập đoàn Mỹ với các đối tác Việt Nam - Ảnh: AFP Chiều cùng ngày, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã gặp lãnh đạo đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa tại Thượng viện là các Thượng nghị sĩ Harry Reid và Mitch McConnell cùng một số Thượng nghị sĩ thuộc các ủy ban chủ chốt của Quốc hội, Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi và Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates. Phát biểu tại cuộc gặp lãnh đạo hai đảng tại Thượng viện, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cảm ơn các Thượng nghị sĩ và các đồng nghiệp trong Thượng viện Hoa Kỳ đã ủng hộ phát triển quan hệ giữa hai nước, ủng hộ việc dành qui chế PNTR cho Việt Nam và việc Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đồng thời hoan nghênh việc Quốc hội Hoa Kỳ đang giải ngân số tiền 3 triệu USD giúp Việt Nam tẩy độc môi trường và trợ giúp các nạn nhân chất da cam. Thủ tướng cũng đã thông báo kết quả hội đàm với Tổng thống George W.Bush. Thủ tướng khẳng định: Chính phủ Việt Nam luôn ủng hộ và sẵn sàng làm mọi việc để tăng cường quan hệ giữa Quốc hội hai nước, trước hết là mở rộng tiếp xúc giữa hai Quốc hội. Các đoàn của Quốc hội Hoa Kỳ trong các chuyến thăm Việt Nam không nên chỉ tập trung vào các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc mà còn cần có những cử chỉ tạo thiện cảm trong nhân dân Việt Nam như quan tâm để hiểu đúng về tình hình thực tế và nhu cầu của người dân Việt Nam như khắc phục hậu quả của chất độc hóa học, bom mìn còn sót lại sau chiến tranh, phòng chống thiên tai... Thượng nghị sĩ Harry Reid và Mitch McConnell đánh giá cao chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Hoa Kỳ, đồng thời bày tỏ vui mừng trước quan hệ hai nước ngày càng phát triển tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư và giáo dục đào tạo. Lãnh đạo hai đảng tại Thượng viện đều mong muốn hai nước cần tăng cường hợp tác hơn nữa, vì lợi ích của nhân dân hai nước. Tại cuộc gặp Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cảm ơn bà đã ủng hộ phát triển quan hệ giữa hai nước, ủng hộ Việt Nam vào WTO và dành quy chế PNTR cho Việt Nam, đặc biệt bà rất quan tâm đến chương trình trợ giúp cho Việt Nam về HIV/AIDS. Thủ tướng cũng thông báo về kết quả hội đàm với Tổng thống Bush và chuyển thông điệp chính trong chuyến thăm này là: Trong khi thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ và mong muốn là bạn với các nước, Việt Nam hết sức coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác với Hoa Kỳ, coi Hoa Kỳ là đối tác quan trọng hàng đầu và chân thành mong muốn hai nước trở thành bạn bè và đối tác tốt của nhau. Một Việt Nam hòa bình, phát triển, có vai trò tích cực là có lợi cho hòa bình, ổn định ở toàn khu vực và có lợi cho Hoa Kỳ. Việt Nam mong muốn Hoa Kỳ tích cực ủng hộ và hỗ trợ Việt Nam ổn định, phát triển và hội nhập quốc tế thành công. Bà Nancy Pelosi đánh giá cao những thành tựu phát triển của Việt Nam, nhất là trên lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, phòng chống HIV/AIDS... Bà khẳng định sự ủng hộ trong quan hệ hợp tác giữa hai nước và sằn sàng giúp đỡ Việt Nam phát triển hơn nữa giáo dục đào tạo và y tế. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đón Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Lầu Năm Góc - trụ sở Bộ - Ảnh: TTXVN Trong cuộc gặp Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Bộ trưởng Gates đã trao đổi về những tiến triển trong quan hệ quốc phòng giữa hai nước thời gian qua, nhất trí rằng phát triển quan hệ quốc phòng cần phù hợp với điều kiện của mỗi nước và quan hệ chung giữa hai nước, cần tăng cường hợp tác giải quyết các vấn đề do chiến tranh để lại. Hai bên cũng trao đổi về một số vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm. Bộ trưởng Gates cảm ơn Chính phủ Việt Nam đã hợp tác tích cực và có hiệu quả với Chính phủ Mỹ trong việc tìm kiếm quân nhân Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh và khẳng định Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tìm kiếm và cung cấp những thông tin liên quan đến người Việt Nam mất tích trong chiến tranh, tiếp tục hỗ trợ phá gỡ bom mìn và các vật liệu nổ ở Việt Nam. Tối cùng ngày, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có cuộc điện đàm với Thượng nghị sĩ John McCain, ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng hòa. Theo TTXVN Nguồn: Thanh Niên Online
  5. Tôi nhận thấy nếu Art muốn tìm bạn mình trong sự khỏe mạnh thì nên đổi avata. Trước mặt Art đang là một cô gái nghẹo cổ nằm chúc đầu xuống. Nên thay ngay có thể còn hi vọng như chị Phuc Anh đã dự báo. Chúc vạn sự an lành. Thiên Sứ
  6. Đáng nhẽ tôi không trả lời vì câu này. Nhưng ngẫm lại: Những bài viết mang tính nghiên cứu đều ở trang chủ, trong diễn đàn chỉ trao đổi. Bởi vậy cũng không sai. Lần sau tôi hy vong Moong không nên có lời lẽ như vậy. Bởi vì xem một lá tử vi nghiêm túc phải nghiền ngẫm rất lâu, không phải muốn thì xem ngay được. Nên tôi trả lời như sau: Lá số này khá tốt, thành công nới đất khách quê người . Nhưng công danh không như ý vì tính hay thay đổi. Sang năm được đi ngoại quốc. Thiên Sứ
  7. Quí vị quan tâm thân mến. Đã từ lâu, các nhà khoa học và những lời tiên tri đã dự báo khả năng động đất lớn có tính hủy diệt sẽ xảy ra ở California. Trước nguy cơ này, Thiên Sứ tôi xin được trình bày về một quan niệm của Thuyết Âm Dương Ngũ hành liên quan đến động đất như sau: Thuyết Âm Dương Ngũ hành quan niệm rằng: "Động đất là do âm khí bế sinh ra". Sự tương tác giữa hai khối thềm lục địa, hoặc do những biến động địa chấn từ hàng triệu năm trước khiến các lớp vỏ địa cầu chồng lên nhau và cản trở sự vận động của nhau trong chấn động đó. Bởi sự cản trở này, chúng sẽ tích tụ những năng lượng dưới những lớp vỏ, tầng địa chất bị đè lên. Thuyết Âm Dương Ngũ hành giải thích bằng khái niệm "Âm khí bế". Sự tích tụ năng lượng này ngày một nhiều cho đến khi có điều kiện thích hợp sẽ bùng vỡ và phát sinh động đất. Bởi vậy - về lý thuyết - nếu chúng ta giải phóng được năng lương này có kiểm soát thì sẽ tránh được nguy cơ động đất. Nói theo thuyết Âm Dương Ngũ hành tức là tạo điều kiện cho thoát khí. Với điều kiện kỹ thuật hiện nay từ những mũi khoan sâu xuống lòng đất, tôi hy vọng có thể thực hiện được điều này. Hy vọng rằng: Đây sẽ là một đề tài đáng quan tâm. Anh chị em đã tham gia lớp Phong Thủy Lạc Việt có thể suy ngẫm thêm về vấn đề này thông qua bản chất của khí trong phong thủy đã tìm hiểu. Bài viết trên trang thông tin điện từ Thanh Niên Online về nguy cơ động đất ở Califonia: California trước nguy cơ động đất mạnh 21:29:00, 15/04/2008 Có đến 99,7% sẽ xảy ra một trận động đất mạnh từ 6,7 độ Richter trở lên tại bang California (Mỹ) trong vòng 30 năm tới. Đó là kết luận rút ra từ cuộc phân tích và tổng hợp đầu tiên do Cơ quan khảo sát địa chất Mỹ, Trung tâm Động đất Nam California và Cơ quan khảo sát địa chất California cùng hợp tác nhằm tính toán các khả năng xảy ra động đất tại bang này dựa vào các dự liệu mới nhất, theo Hãng tin AP. Các nhà khoa học còn phát hiện nguy cơ xảy ra vụ động đất mạnh hơn 7 độ Richter là 95%; 46% xảy ra động đất mạnh 7,5 độ Richter và 4,5% xảy ra trận động đất mạnh 8 độ Richter. Bên cạnh đó, khu vực đông dân cư tại miền nam bang California được dự đoán sẽ có nhiều khả năng bị động đất hơn miền bắc. Các nhà khoa học còn cho rằng có đến 63% nguy cơ một trận động đất mạnh 6,7 độ Richter sẽ xảy ra ở 2 thành phố lớn nhất bang California là Los Angeles và San Francisco trong cùng thời gian. T.M Thiên Sứ
  8. Cảm ơn Kim Cúc. Người ta có thể không tin. Nhưng nếu tạm thời không có biện pháp nào hay hơn thì hãy thử theo Lý học Đông phương còn hơn là ngồi cầu nguyện một cách bất lực. Cũng không tốn kém gì nhiều. Thiên Sứ
  9. Cảm ơn vì bài viết hữu ích. Tôi đang bệnh mặc dù đã bớt, nhưng còn yếu quá. Tôi sẽ tập vào ngày 24. Thiên Sứ
  10. Minhminh: Chồng sinh 27/10/1975 ẤT MÃO Vợ sinh 02/9/1980 CANH THÂN Cưới ngày 17/12/2003 Quý Mùi 1. Con gái 25/02/2007 ĐINH HỢI, có khắc mẹ không mà sao dạo này công việc cháu cứ lu bù mà lời ra tiếng vào làm cháu mệt mỏi quá. Con khắc mẹ hợp cha. Xấu . Đáng lý sanh năm Mậu Tý thì rất tốt. Nên cố gắng co cụm chờ đến năm Nhâm Thìn sanh một đứa. Trai gái đều tốt. 2. Cháu muốn sinh thêm con trai nữa vào năm Kỷ Sửu nhưng thấy chú khuyên nhà bạn GiaNam là để đến năm Nhâm Thìn, cháu cũng thích năm đó lắm nhưng năm đó cháu 33 tuổi có khó khăn phải không chú, cháu đi xem tử vi của cả vợ chồng cháu đều ít con nên cháu bối rối quá, nhờ chú xem lại cho vợ chồng cháu với ạ, cháu nên sinh con năm nào ạ, vợ chồng cháu có thể có 3 con không và có con trai không chú. Sinh năm Nhâm Thìn và tôi không có ý kiến gì khác. 3. Chồng cháu đang làm luận án Tiến sĩ dự kiến đầu năm sau xong, nhưng công việc sau đó cũng chưa chắc nhờ chú xem giúp cháu đường công danh chồng cháu thế nào với ạ! Đường công danh bắt đầu phát - nhanh thì cuối năm 2009. Chậm thì đầu năm 2010. Cháu cảm ơn chú nhiều, Chúc chú luôn mạnh khoẻ! Cháu MinhMinh. Không có chi. Chúc vạn sự an lành. Thiên Sứ
  11. Đã sắp đến giờ tranh tài Đức - Thổ. Hy vọng đội tuyển Lạc Việt độn toán tiếp tục vào sân. Đã có những tuyển thủ đang dẫn bóng. Cầu thủ tập sự Dim: Cầu thủ dự bị Random: Tiền vệ Lactuong Còn các huấn luyện viên như chị Laviedt, Linhtrang, Phuongly, tiền vệ BBW, Cong Minh..... đang chuẩn bị ra sân. Chúc anh chị em giành nhiều thắng lợi cho đội nhà. Thiên Sứ
  12. Đây là đường link liên quan và là nội dung bài viết mà Wildlavender đã giới thiệu: Về cái gọi là "...những phát hiện lịch sử chấn động" Thứ tư 12, Tháng Ba 2008 BTV: dt Mức độ viếng thăm : 5% Về những quan điểm nêu trong loạt bài "Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động" đăng 7 kỳ trên báo Thanh Niên từ ngày 26/2 đến ngày 6/3/2008, chúng tôi đăng tải ý kiến của TS Nguyễn Việt, GĐ Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á (Viết theo đề nghị của TTXVN). Vì khuôn khổ có hạn, xin được lược đăng bài viết gần 5.000 từ này của TS Nguyễn Việt. 1. Có thể thiền sư Lê Mạnh Thát (LMT) đã có những phát hiện có giá trị cao về tư liệu lịch sử a. Thiền sư LMT có thể là một nhà nghiên cứu Phật giáo uyên bác. Ông đã có điều kiện và đã dành rất nhiều công sức để khai thác từ những tàng thư kinh Phật và sách sử liên quan đến kinh Phật. Quả thực, đây là một loại hình tư liệu có liên quan đến lịch sử văn hóa dân tộc nhưng không dễ khai thác đối với các nhà khoa học ngoại đạo. Chúng ta đều biết rằng nhà chùa và nhà thờ trong một thời gian dài dưới thời trung cổ luôn là những trung tâm văn hóa, giáo dục kiến thức khoa học. Rất nhiều nơi trên thế giới, các trường đại học đầu tiên ra đời từ các trung tâm tôn giáo như vậy. Trong hệ thống này, từ rất sớm đã có những kho lưu trữ, tàng thư, thư viện và những nhà tri thức uyên bác. Vì vậy, tôi trân trọng và đánh giá cao một số phát hiện của thiền sư LMT, ví dụ cuốn Lục độ tập kinh, sáu lá thư hồi đầu công nguyên, một số văn cảo, thơ ca do các nhà sư Việt Nam trước tác... Chắc chắn tới đây tôi và nhiều đồng nghiệp khác sẽ mong muốn được tiếp cận tìm hiểu những tư liệu mới này. b. Có nên chăng vì những phát hiện cá nhân về sử liệu mà xúc phạm các bậc tiền nhân? Không hiểu những hành vi của thiền sư được nhà báo viết trong bài có đúng sự thật không, như việc bức xúc nổi xung trước nhà sử học Ngô Sĩ Liên, chê cười một cách quá dễ dãi đối với nhà bác học Lê Quý Đôn hoặc trở nên thái quá với Triệu Đà, An Dương Vương. Thật vội vàng và khó tiếp thu quá. Đó là chưa kể, khi đi vào thảo luận học thuật, chưa chắc thiền sư LMT đã hiểu đúng bản ý của sử gia Ngô Sĩ Liên. Những lầm lẫn của nhà bác học Lê Quý Đôn khi dẫn chép lại các sách sử xưa cũng đã được phát hiện không phải là ít, chính vì vậy mới có công tác hiệu đính, bổ sung văn bản. Những nhầm lẫn như vậy trong khoa học cũng như trong sách sử kể ra thì nhiều lắm. Nhưng ngay cả những nhà hiệu đính văn bản cổ vào hạng bậc thầy như các giáo sư Đào Duy Anh, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng... khi phát hiện những sai sót cũng chưa bao giờ dám dùng đến từ “khốn nạn” trên mặt báo để trách cứ, phê phán tiền nhân. c. Phải thừa nhận rằng bằng trí tuệ thông thái và lòng ham mê tra cứu, thiền sử LMT sẽ còn mang lại nhiều phát hiện mới về sử liệu và văn học có giá trị cho Phật học và Khoa học nhân văn Việt Nam nói chung. Rõ ràng, trong phạm vi Phật học, chắc chắn thiền sư là một chuyên gia rất đáng kính nể. Tuy nhiên, không mấy khó khăn để nhận ra ông không phải là một nhà sử học chuyên nghiệp. Ông suy diễn chữ “Việt luật” trong tờ tấu của Mã Viện là bộ luật “thành văn” để chứng minh sự tồn tại một bộ máy nhà nước của người Việt đã có những văn bản pháp luật viết bằng chữ Việt cổ (TN 28/2/2008). Theo tôi, “Việt” là một phạm trù tộc danh rất rộng chỉ chung những nhóm tộc người khác Hoa Hạ ở phía Nam sông Giang Thủy (Trường Giang). Bản thân chữ Việt không bao hàm nghĩa quốc gia, nhà nước. Và khi người Hán (tên gọi người Hoa Hạ dưới thời nhà Hán) chinh phục miền đất phía Nam của người Việt nhận thấy phong tục của người Việt khác phong tục của người Hán khó cho việc cai trị nên mới xuất hiện bản tấu của Mã Viện. “Luật” ở đây nên hiểu là “luật tục” như từ ngữ mà chúng ta hiện dùng cho các quy ước xã hội trong các vùng dân tộc thiểu số nước ta. Nhiều nhà khoa học nước ta cũng như các học giả trên thế giới rất muốn chứng minh tính chất nhà nước của xã hội Hùng Vương, nhưng chưa ai dám dùng “Việt luật” trong bản tấu của Mã Viện để làm bằng chứng như thiền sư cả. Bởi không ai chứng minh được “Việt luật” trong tấu chương đó là một quyển sách có chữ viết thể hiện cho cuốn luật của một nhà nước. Khi minh chứng nước ta không bị nhà Tây Hán đô hộ sau khi họ chinh phục được nước Nam Việt của Triệu Đà, ông đã sử dụng phương pháp loại trừ “Phiên Ngung” không thể coi như “nơi đô hội” bằng cách chia bình quân số nhân khẩu của quận Nam Hải ra cho 6 huyện để tự áp cho Phiên Ngung - từng là thủ phủ của nước Nam Việt, một con số trung bình (15 ngàn người) để so với các huyện của Giao Chỉ trung bình lên đến 75 ngàn người. Từ đó suy ra Giao Chỉ không thuộc Tây Hán (TN 3/3/2008). Hình như ông đã không tham khảo các công trình nghiên cứu về Lịch sử nhân khẩu học và Lịch sử địa lý Trung Quốc và cũng cố tình không để ý đến ngụ ý Phiên Ngung thành trấn (“đô hội”) chứ không phải cả một vùng Phiên Ngung huyện. Nếu biết rằng trong toàn quận Nam Hải lúc đó có 94.253 khẩu nhưng mật độ dân số trung bình chỉ đạt dưới 1 người trên 1km2, thì con số tập trung ở Phiên Ngung thành trấn phải lên tới hàng chục ngàn người cư trú quanh một thành trì tương tự như quy mô thành Lũng Khê (Bắc Ninh) mỗi bề chừng 2km mà khảo cổ học đã khai quật nhiều lần. Người ta cũng đã khai quật được hàng ngàn mộ Hán tập trung tại thành Phiên Ngung này. Trong tương quan dân số đương thời, đó thực sự là một “nơi đô hội”. Khi gắng tìm về chữ viết của người Việt thời Hùng Vương, thiền sư dẫn ra một ngôi mộ gạch người Pháp đào được ở Bắc Ninh hồi đầu thế kỷ trước có chữ kiểu Hán ghi trên gốm mà người Hán không đọc được. Theo tôi, không phải chữ Hán nào người Hán cũng đọc được - vì thế mới có ngành giáp cốt, minh văn học. Suy luận rằng chữ mà người Hán không đọc được là chữ Việt thì cũng là hơi vội vàng. Dạng chữ giống chữ Phạn cổ thường được in trên gạch mộ Hán đương thời nhiều khi người Hán không đọc được đã đành, thậm chí những chuyên gia chữ Phạn cũng chỉ đoán mà thôi, bởi người thợ làm gạch không biết chữ đôi khi đã vẽ lên theo kiểu làm dáng. Hiện tại tôi đang giữ một viên gạch như vậy khai quật trong một mộ Hán ở Sông Khoai (Yên Hưng, Quảng Ninh). Đến tận đời nhà Minh, Thanh, khi vẽ chữ lên gốm, nhiều người thợ Trung Hoa ít chữ vẫn chỉ vẽ “tạo dáng” chữ Hán khiến chúng ta chỉ có thể đoán định dựa vào mẫu những chữ đã biết. Khảo sát những chữ Hán 100% được khắc trên các đồ đồng Đông Sơn vừa qua, trên một số trống đồng, thạp đồng, trong số gần 50 chữ, có vài ba chữ các chuyên gia cũng chưa đọc được, không thể đoán những chữ đó là chữ Việt được. Thứ hai, mộ gạch Hán chỉ xuất hiện ở Việt Nam lác đác vào thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên. Những mộ gạch đào được ở Bắc Ninh, Thanh Hóa, Quảng Ninh, Hải Dương đa phần thuộc thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, chịu ảnh hưởng rõ rệt của văn hóa thời Đông Hán. Chữ trên gạch và gốm tùy táng đều là chữ Hán và có thể đọc được. Chúng tôi đang có trong tay hàng trăm chữ dạng như vậy. Hiện tượng “Việt ca” được Lưu Hướng chép lại trong Thuyết Uyển thời Tây Hán muộn (thế kỷ 1 trước Công nguyên) quả là một tư liệu rất quý, nó đã được rất nhiều người nghiên cứu tiếp sau Quách Mạt Nhược. Lưu Hướng đã kể lại câu chuyện một viên quan người Hồ Bắc (nước Sở) đi chơi thuyền với một hoàng tử con thứ ba của vua Sở Công Vương (590 - 560 trước Công nguyên) đã ghi lại lời ca của người chèo thuyền tộc người Bangxie vốn là một nhánh của người Việt cổ ở vùng này. Đó là trường hợp hiếm có còn lưu lại ngữ âm Việt cổ được chép lại bằng chữ Hán. Có thể ban đầu nó đã được ghi lại bằng chữ Sở (?) hoặc được truyền khẩu rồi mới được dịch ra chữ Hán vào thời Lưu Hướng. Tôi tin rằng với tầm học rộng, uyên thâm của mình, thiền sư LMT sẽ có những phát hiện thú vị khi ông đã dày công nghiên cứu Việt ca. Gần đây, Wei Qingwen đã khảo cứu kỹ Việt ca trong công trình: Bàn về ngôn ngữ của người Bách Việt, trong đó ông đã phát hiện sự gần gũi của ngữ âm trong Việt ca với ngữ âm của người Việt vùng Giang Hán và đi đến kết luận đó là bài ca của người Việt vùng Giang Hán, tổ tiên của người Choang và Thái hiện nay. Bài Việt ca này cũng đã được dịch. Việt ca sẽ giúp ích nhiều cho việc nghiên cứu tộc Việt chung mà Lạc Việt chỉ là một bộ phận ở về phía Đông Nam của khối lớn đó, nhưng nó hoàn toàn không liên quan trực tiếp với nhà nước Hùng Vương, không là một cơ sở quan trọng để minh chứng cho nền văn hiến Hùng Vương: “Bộ Việt luật còn đó. Bài Việt ca còn đó. Truyện trăm trứng còn đó... Thế mà cứ nhắm mắt nói càn nước ta thành ra nước văn hiến từ Sỹ Vương. Thật khốn nạn hết chỗ nói!” (TN 3/3/2008). Không biết thiền sư có được đọc những dòng này trước khi đăng báo hay không? 2. Tư liệu lịch sử và sự thực lịch sử Đã là nhà sử học thật sự ai cũng biết giữa tư liệu lịch sử và sự thật lịch sử bao giờ cũng có một khoảng cách. Vì vậy, mới cần có “nghiên cứu lịch sử”. Chính thiền sư LMT cũng cảm nhận như vậy khi ông mổ xẻ phê phán sử liệu Ngô Sĩ Liên, thậm chí cả Hậu Hán Thư... Ông cũng đã phát hiện ra các khoảng trống trong tư liệu lịch sử thành văn về hiện tượng Âu Lạc và An Dương Vương đồng thời giả thuyết hiện tượng Phật thoại hóa quan hệ Hùng Thục qua hình tượng các vị thần trong thần thoại Ấn Độ từ tư liệu trong Lục Độ tập kinh xuất hiện vào thế kỷ 2 sau Công nguyên. Tuy nhiên, theo kể lể của nhà báo, thì thấy ông đã bám rất sát và gần như không dám phê phán nguồn tư liệu của bộ kinh Phật này. Thực tế, mọi cuốn sử cổ đều có một tỷ lệ rất cao là ghi chép lại những sự kiện được lưu truyền lại trong dân gian. Ngay cả Sử ký của Tư Mã Thiên cũng vậy. Sự gần gũi của những ghi chép đó với sự thực là bao nhiêu tùy thuộc vào hiểu biết và phân tích của nhà chép sử lúc đó. Vì vậy, sách sử ghi chép về những thời xa xưa chỉ phản ánh một lịch sử truyền miệng dưới dạng sử thi, mo, then... chúng chỉ có giá trị tham khảo. Tư liệu khảo cổ học đương đại đối với những thời xa xưa như vậy mang ý nghĩa quyết định hơn nhiều. Chúng ta có thể thừa nhận, Lục độ tập kinh là một văn bản cổ rất có giá trị. Nhưng nó không đại diện và thay thế được lịch sử. Những nhà truyền đạo đương thời đã ghi chép lại những sự tích xảy ra từ vài trăm năm trước, thậm chí cả truyền thuyết hoang đường (truyện trăm trứng có ở nhiều dân tộc Đông Nam Á) dưới dạng huyền thoại. Chẳng lẽ chỉ dựa vào đó và sự không ghi chép trong một số sách sử như Sử ký, Hậu Hán thư để hô hào : “Dứt khoát loại bỏ truyền thuyết An Dương Vương và nước Nam Việt của Triệu Đà ra khỏi nước ta” (TN 28/2/2008). Chúng ta nghĩ sao về kết quả các cuộc khai quật và các hội thảo khoa học gần đây nhất tại Cổ Loa? Nghĩ sao về phát hiện trống đồng Đông Sơn ở Cổ Loa và cả đồ đồng, đồ gốm đào được ở Quảng Châu thời Hán đều có khắc tên huyện Tây Vu mà thủ lĩnh là con cháu Thục Phán An Dương Vương? Tại sao lại có đền An Dương Vương ở Cổ Loa (Hà Nội), Sầm Sơn (Thanh Hóa)..., đền Triệu Đà ở Văn Giang (Hưng Yên), Đồng Xâm (Thái Bình)? Việc khẳng định và làm rõ những điều đó cũng không phải là dễ, nhưng sao lại dễ dàng đến như vậy, khi chỉ bằng chừng ấy chứng cớ để “dứt khoát loại bỏ” An Dương Vương và Triệu Đà ra khỏi lịch sử nước ta? Thực ra, nhiều nhà nghiên cứu khoa học trên thế giới cũng như ở cả Việt Nam lẫn Trung Quốc đều nhận ra rằng vào thời kỳ trước Công nguyên, ý thức dân tộc chủ nghĩa còn rất mờ nhạt. Mọi cuộc tranh chấp diễn ra lúc đó bị chi phối nặng hơn bởi những vấn đề kinh tế. Triệu Đà tuy là người Hoa Hạ, lại là quan nhà Tần, nhưng khi xuống làm huyện úy ở Nam Hải đã hòa nhập với người Việt và chủ trương cùng Nhâm Ngao cát cứ không chịu nhập vào nhà Hán ở phía Bắc. Đền thờ Triệu Đà ở Đồng Xâm (Thái Bình) ghi nhận quê hương của vợ Nam Việt Vương Triệu Đà là người Việt ở đó. Rất nhiều thương nhân, thợ thủ công họ Lý, họ Hoàng, họ Trần... vốn đã khắc tên mình trên các vật phẩm đương thời (đồ gốm, đồ đồng) mà khảo cổ học đã tìm được phân bố ở cả Nam Hải và Giao Chỉ, Cửu Chân, đã tự biến mình thành người Giao, người Việt (Lý Ông Trọng và sau này Lý Bôn, Trần Lãm...). Họ đã cùng người Việt tạo dựng một tổ quốc mới, một tổ quốc chung đa tộc như hiện nay chúng ta đang có. Những đụng độ nếu có giữa Thục Phán (Tục Pắn tiếng Tày cổ là “người tài giỏi”) với Pò Khun “Hùng” (tiếng Tày cổ và Việt Mường cổ là “cha lớn”, “thủ lĩnh”) là những đụng độ để đi đến sáp nhập Tây Âu với Lạc Việt trước sức ép của Nam Việt - đó là những vấn đề trong nội bộ những người Việt ở Nam Ngũ Lĩnh. Mộ của chủ nhân Đông Sơn đào ở Kiệt Thượng (Hải Dương) và Việt Khê (Hải Phòng) có rất nhiều đồ giống trong mộ La Bạc Loan (huyện Quý, Quảng Tây, Trung Quốc) trong phạm vi nước Nam Việt. Trái lại vua Nam Việt (cháu Triệu Đà) và quan huyện Quý ở La Bạc Loan chết vẫn mang theo trống đồng và thạp đồng, bảo vật của người Việt thời Đông Sơn. Những điều này, tuy không chép rõ trong Sử ký của Tư Mã Thiên nhưng không phải là không thể thấy trong Sử ký . Tôi viết bài này chỉ nhằm bình luận một sự kiện có liên quan đến chút hiểu biết của mình. Tôi tán thành một cách làm nghiêm túc và khoa học hơn: Được nghe chính thiền sư trình bày tư liệu và luận điểm học thuật của mình để rồi cùng trao đổi thẳng thắn, chân thành, mạch lạc về từng vấn đề học thuật. Chúng ta sẽ rất mừng mỗi khi lịch sử dân tộc được làm sáng tỏ và chính xác hơn một cách thực sự khoa học - vì rõ ràng, do nhiều nguyên nhân, chúng ta chưa thể thoả mãn với những nhận thức còn chưa đầy đủ hiện nay về nhiều lĩnh vực trong tiến trình lịch sử dân tộc. Nguyễn Việt Cùng tác giả: Làm sáng tỏ những khoảng trống của lịch sử ?
  13. Dưới đây là nguyên văn bài viết liên quan trên ĐÔNG TÁC . NET theo đường link của Winldlavender: Quanh bài “Thiền sư Lê Mạnh Thát ...”Làm sáng tỏ những khoảng trống của lịch sử? Thứ bảy 22, Tháng Ba 2008 BTV: conotos Mức độ viếng thăm : 4% Tiến sĩ Nguyễn Việt Xem thêm Nguyễn Việt: Về cái gọi là "...những phát hiện lịch sử chấn động" và Thành Cổ Loa Để có thêm tư liệu tham khảo, độc giả có thể xem thêm các nghiên cứu sau đây: Minh văn chữ Hán sớm nhất (Minh văn trên trống đồng Đông Sơn) của tác giả Nguyễn Việt trên Tạp chí Khảo cổ học tháng 5-2007; Địa điểm xóm Rền (Phú Thọ) của tác giả Hán Văn Khẩn trên Tạp chí Khảo cổ học tháng 3-2007 và một số nghiên cứu của Hà Văn Tấn (năm 1987), Diệp Đình Hoa (2005) và Nguyễn Việt (2006). Làm sáng tỏ những khoảng trống của lịch sử? Với tư cách một người đang nghiên cứu về thời kỳ tiền sử và tiền sử muộn của Việt Nam và Đông Nam Á, tôi cũng đã quan tâm khảo cứu về những thời kỳ lịch sử nước nhà có liên quan đến một số nhận xét của thiền sư Lê Mạnh Thát từ cách đây trên 45 năm, mà nhà báo Hoàng Hải Vân vừa khơi lại. Lạc Việt, Tây Âu và nước Nam Việt “Việt” được ghi trong các văn tự nước ngoài là “Yue” bắt đầu được nhắc đến nhiều trong thư tịch Trung Quốc vào khoảng thời Xuân Thu, khi mà quá trình vận động kết tinh của các xã hội thời kỳ hậu bộ lạc của người Hoa Hạ sống ở vùng trung, hạ lưu sông Hoàng Hà đã tương đối ổn định, một khối Hoa Hạ tương đối chặt chẽ về văn hóa, chữ viết, chính trị đã hình thành với mô hình Nhà Chu (thiên tử) và các tiểu quốc chư hầu thần thuộc. Từ đó các xã hội ngoài thế giới Hoa Hạ được tăng cường ghi chép mô tả trong xu hướng mở rộng bang giao với các nước láng giềng. Mối bang giao với Việt Nam hiện có bằng chứng chính thức từ khoảng 3500 năm cách ngày nay với việc khai quật được những chiếc “nha chương” – hiện vật bằng đá, biểu tượng quyền uy thời Thương Chu bên Trung Quốc, tại Xóm Rền, Phùng Nguyên (Phú Thọ). Khi đó, cả một khối cư dân lớn, gồm nhiều tộc người khác nhau, sống ở phía Nam khu vực phân bố những người tộc Hoa Hạ được ghi chép chung chung là Yue mà chúng ta hay dịch là Việt. Tôi xin kể ra đây một câu chuyện nhằm để phân biệt quan niệm khác nhau của Yuê và Việt về thuật từ khoa học. Năm 2002, trong một hội thảo ở Malaysia nhan đề “Văn hóa Đông Sơn và Truyền thống Đông Sơn”, đến phiên tôi tham gia chủ tịch đoàn, diễn ra tranh luận giữa Gs Surin Pokajorn của một trường ĐH Thái Lan với Gs Diệp Đình Hoa, đại biểu Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á Việt Nam. Gs Pokajorn không thống nhất quan điểm dùng chữ “Việt” cho chủ nhân văn hóa Đông Sơn của Gs Diệp. Nhưng khi tôi đưa ra thuật từ Yuê thì mọi người lại nhất trí ngay. Trong quan niệm của vị giáo sư người Thái kia, cũng giống nhiều nhà nghiên cứu khác, trong thuật ngữ Yuê bao hàm cả tổ tiên các nhóm tộc Nam Trung Quốc khác nữa, như Dai (Tày, Thái, Choang, Đồng...), Hmông, Dao và các nhóm Việt khác, mà người Việt hiện nay chỉ là một trong số đó. Vì thế, sau này mới có Bách Việt. Bách không phải là con số tròn 100, mà là một quan niệm chỉ số nhiều, tương tự “Vườn Bách Thảo, vườn Bách Thú” vậy. Và vào thời đại trống đồng Đông Sơn, tổ tiên người Thái Lan hiện nay cũng dùng trống. Việt hiện nay trở thành thuật từ ám chỉ những cộng đồng người hiện đại : Thái (chủ yếu ở Thái Lan), Choang (chủ yếu ở Quảng Đông, Quảng Tây - Trung Quốc), Việt (chủ yếu ở Việt Nam)... Vào cuối thời Xuân Thu, tại khu vực ngoài Hoa Hạ xuất hiện ba tiểu quốc khác Hoa Hạ là Sở, Ngô và Việt, ở trung và hạ lưu sông Trường Giang hiện nay. Sử sách từ đó bắt đầu xuất hiện những loại từ để phân biệt các nhóm Việt khác với những người Yuê đã lập quốc, ví dụ Đông Âu, Mân Việt ở phía Nam nước Việt (Câu Tiễn), vùng Phúc Kiến hiện nay, Âu Việt chỉ những nhóm Yuê ở quanh vùng Ngũ Lĩnh nói chung (thậm chí cả đảo Hải Nam), Lạc Việt chỉ khối Yuê sống ở Nam, Đông Nam Ngũ Lĩnh, bao gồm Lưỡng Quảng, bắc Việt Nam (Ngũ Lĩnh là dải núi cao hiểm trở ngăn giữa vùng Hồ Nam, Tứ Xuyên với vùng Lưỡng Quảng, có ý nghĩa quan trọng làm thành ranh giới tự nhiên của các tộc người và quốc gia cổ đại Nam Trung Quốc). Tùy vào từng tác giả ở từng địa vực khác nhau mà những khái niệm chỉ tên phụ loài tộc Yuê cũng khác nhau. Ví dụ từ Yang Yue (Dương Việt) hàm chỉ một khối Việt chung rất lớn gồm từ hồ Động Đình tới Ngũ Lĩnh. Sự thâm nhập trực tiếp của người Hoa Hạ vào khu vực Lạc Việt diễn ra rõ rệt nhất vào thời Tần (Thủy Hoàng), cuối thế kỷ III trước Công nguyên. Tuy nhiên cố gắng lớn nhất của Tần Thủy Hoàng chỉ là lập được một tuyến quận huyện Tần từ Trường Sa đến Nam Hải, tức là chinh phục được các nhóm Yuê ở Bắc (một phần Âu Việt) và Nam Ngũ Lĩnh (một phần Lạc Việt) (Hồ Nam, Quế Lâm, Quảng Đông, Quảng Tây), lập thành quận Nam Hải. Các nhóm Yuê ở phía Đông (Đông Âu, Mân Việt) và phía Tây, Tây Nam Ngũ Lĩnh (Tây Âu), chính là chủ nhân của văn hóa lúa nước và trống đồng Văn Sơn (Vân Nam), Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng nước ta, cũng như toàn bộ phần Lạc Việt còn lại ở trung du, đồng bằng miền Bắc Việt Nam vẫn ngoài chế độ quận, huyện của nhà Tần. Trong quá trình nhà Tần suy yếu, Hán Sở tranh hùng, Nhâm Ngao (là chủ soái của Triệu Đà) cùng Triệu Đà âm mưu cát cứ để lập một quốc gia riêng của người Yuê ở vùng Nam Hải. Khi Lưu Bang, Hạng Vũ diệt Tần thì Ngao, Đà trở thành tướng lưu vong. Họ đã cùng người Yuê ở Nam Hải lập một quốc gia Yuê riêng, chứ không phải lập một nhà nước Hoa Hạ. Sử liệu thời này đều phản ánh nhiều quốc luật Nam Việt không giống luật Tây Hán. Một phần vì nhóm tướng lĩnh Tần người Hoa Hạ chỉ mới đến đây được chừng mười năm, phần khác họ có ý thức đối lập với Tây Hán, triều đại đã tiêu diệt nhà Tần của họ. Khi khảo sát về các đơn vị đo lường (dung lượng, trọng lượng) thống kê trên các đồ đồng đào được trong các mộ táng thời Nam Việt chúng tôi nhận thấy sự khác biệt khá rõ về dung lượng Nam Việt với đơn vị chính thống Tây Hán. Như vậy, nếu đọc Sử ký của Tư Mã Thiên, chúng ta bắt gặp rất nhiều yếu tố phi Hán, chống Hán của nhiều thành phần thủ lĩnh nước Nam Việt chứ không chỉ riêng Triệu Đà. Bản thân Triệu Đà là người Hoa Hạ (chứ không phải người Hán. Thuật từ “người Hán” đại diện cho giống Hoa Hạ chỉ có giá trị sau khi triều đại người Hoa Hạ của Lưu Bang tồn tại kéo dài khoảng 400 năm) – một dạng người Hoa Hạ mất nước, lưu vong sống chung và sống nhờ vào người Yuê. Ông đã cùng bộ máy quân sự và hành chính quận huyện mất nước đó để cùng các thủ lĩnh người Yuê trong vùng lập ra một quốc gia hơi có màu sắc Hoa Hạ (kiểu Tần) cho người Yuê. Về mặt khảo cổ học, tôi có thể chỉ ra một tỷ lệ rất cao những hiện vật phát hiện trong mộ táng Nam Việt giống các hiện vật trong mộ táng Đông Sơn đào được ở Việt Nam. Ngay trong mộ Triệu Hồ và các phu nhân chôn ở Quảng Châu và mộ một viên quan cao cấp của nước Nam Việt ở La Bạc Loan, huyện Quý (Quảng Tây) cũng mang theo trống đồng, thạp đồng bảo vật của người Yuê. Khảo sát kiểu chữ khắc trên gần một trăm hiện vật đồng khai quật thời Nam Việt, chúng tôi nhận ra một hệ thống chữ Hán khắc kiểu Nam Việt song song tồn tại với kiểu khắc chữ Hán truyền thống. Đa phần chữ Hán khắc kiểu Nam Việt xuất hiện trên các loại hình đồ đồng bản địa. Chữ Hán khắc trên trống Cổ Loa và thạp đồng Đông Sơn trong mộ Triệu Hồ và trên thạp lưu ở Bảo tàng Barbier – Muller (Geneve, Thụy Sĩ) đều thuộc kiểu khắc Nam Việt. Các chuyên gia cổ nhân học của Trường Đại học Hạ Môn (Trung Quốc) khi nghiên cứu về chủ nhân các mộ táng vùng nước Nam Việt cũ đã nhận ra ưu thế vượt trội của “gen” người Yuê bản địa. Chính Triệu Đà đã lấy vợ người Việt (quê Đồng Xâm, Thái Bình, nay còn đền thờ bà và Nam Việt Vương họ Triệu đó). Điều này giống tình trạng của những người Minh lưu vong do Trương Ngạn Địch, Trần Thường Xuyên đã sang nước ta cùng chúa Nguyễn xây dựng Tổ quốc mới. Đó là lý do tại sao nhiều sử gia Việt Nam sau này đã coi nhà Triệu là một giai đoạn trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Đó cũng là nguyên nhân các nhà khoa học nước ngoài nghiên cứu về nước Nam Việt, văn hóa Nam Việt lại đặc biệt quan tâm đến Việt Nam. Cần nhấn mạnh rằng, với những bằng chứng trên, tôi không muốn diễn đạt rằng Việt Nam là một phần của nước Nam Việt, mà trái lại đủ bằng chứng để xác nhận mối quan hệ gắn bó giữa văn hóa Nam Việt với văn hóa Đông Sơn, một quan hệ văn hóa hòa nhập, không đối kháng. Âu Lạc, Nam Việt, Thành Cổ Loa và An Dương Vương Sử Ký là cuốn sử có độ tin cậy vào loại cao nhất đương thời, trong đó, những thông tin về Triệu Đà, nước Nam Việt được ghi chép nhiều nhất. Tuy nhiên, có hai điểm lưu ý: Thứ nhất, Tư Mã Thiên đi nhiều nhưng chưa từng đặt chân đến Nam Hải. Thứ hai, khoảng thời gian từ thời Triệu Đà đến khi ông hoàn thành cuốn sách cũng xa gần bằng khoảng cách giữa chúng ta với Hoàng Hoa Thám. Điều đó có nghĩa rằng “sử sách” dù thế nào cũng chỉ là tư liệu lịch sử. Thiền sư Lê Mạnh Thát cũng như chúng tôi đều đánh giá rất cao cuốn sử này. Tư Mã Thiên đã nhiều lần nhắc gián tiếp đến Tây Âu, Tây Âu Lạc trong mối quan hệ đến Triệu Đà và nước Nam Việt. Tôi cũng đã dựa vào Tư Mã Thiên để xác định Tây Âu (Vu) như đã viết ở phần trước. Đọc bức thư của Triệu Đà gửi vua Hán, giải thích việc xung đột với Tây Âu ta thấy có một sự việc rõ ràng là có xung đột nhằm thâu tóm Tây Âu và Nam Việt. Dưới sức ép của nhà Tây Hán, thì nước Nam Việt, Tây Âu, Đông Âu, Mân Việt đều là những vùng đất mà nhà Tây Hán chưa đặt được ách thống trị trực tiếp. Vì vậy chúng tôi xem xét quan hệ Nam Việt (thủ lĩnh Triệu Đà) và Tây Âu (thủ lĩnh Thục Phán) là quan hệ giữa các tiểu quốc người Yuê với nhau, chứ không phải là đụng độ trực tiếp của nhà nước Hoa Hạ (Hán) với nhà nước sơ khai Yuê. Trước sức ép của Nam Việt, thủ lĩnh Tây Âu đã sáp nhập với thủ lĩnh Lạc Việt còn lại ở trung du, đồng bằng sông Hồng. Cuộc sáp nhập này chỉ được lưu ảnh trong truyền thuyết. Chứng cứ văn hóa khảo cổ không phát hiện những biến động văn hóa lớn nào tương tự biến động sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng do Mã Viện và nhà Đông Hán mang lại. Tuy nhiên, hiện tượng mộ táng thân cây khoét rỗng với bộ tùy táng Đông Sơn phảng phất nét văn hóa Yuê kiểu Tứ Xuyên, Vân Nam, Nam Việt xuất hiện khá ồ ạt ở đồng bằng thấp sông Hồng trong khoảng thời gian từ thế kỷ IV đến thế kỷ I trước Công nguyên (đồ sơn then, một số đồ đựng đồng...) gợi ý cho sự gia tăng quan hệ nội bộ người Yuê ở sông Hồng với các văn hóa Yuê ở Nam Trung Quốc. Chúng tôi đang có một giả thuyết công tác: Đó là dấu hiệu vật chất của sự liên minh Tây Âu - Lạc Việt (phần còn lại của Lạc Việt chưa bị Hoa Hạ tác động trực tiếp – có thể chính là nước Văn Lang trong thư tịch Việt sau này) để lập ra nhà nước Âu Lạc mà thủ lĩnh Tây Âu nắm quyền thủ lĩnh: An Dương Vương. Tôi tán thành quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu khi xác nhận truyền thuyết Tày cổ vùng Cao Bằng gắn với Thục Phán An Dương Vương và tiểu quốc Tây Âu. Nhiều nhà ngôn ngữ cũng tìm thấy sự tương đồng giữa Tây Âu và Tây Vu. Sử sách cũng chép thủ lĩnh Tây Vu là con cháu Thục Phán An Dương Vương. Mối quan hệ của họ Thục với “Tục Pắn” hay với văn hóa Ba Thục Tứ Xuyên đã có vài tia sáng thông qua sự xuất hiện nhiều vũ khí và đồ đựng đồng kiểu “Dạ Lang” trong bộ đồ Đông Sơn thế kỷ I-III trước Công nguyên. Chữ Tây Vu còn tìm được trên đồ gốm tùy táng ở Quảng Châu thời Tây Hán và trên trống đồng Đông Sơn đào được ở Cổ Loa bên trong chứa nhiều vũ khí hình tim kiểu lưỡi cày (cũng thường thấy ở Vân Nam, Trung Quốc). Tương tự, khảo cổ học chưa tìm thấy bằng chứng trực tiếp của cuộc đụng độ quân sự Nam Việt - Âu Lạc, nhưng sự gia tăng vũ khí đồng thường dùng (rìu, giáo, dao găm), những cảnh mô tả chiến binh, tù binh, đầu lâu người... từ thế kỷ IV đến thế kỷ I trước Công nguyên trong văn hóa Đông Sơn phản ánh rõ sự gia tăng khả năng đụng độ quân sự đương thời. Việc phát hiện kho hàng vạn mũi tên đồng ba cạnh (tên chuyên dùng cho nỏ) và nhất là gần đây, khuôn đúc những mũi tên đó cùng lò nấu đồng được phát hiện trong tầng văn hóa thuộc thế kỷ II-III trước Công nguyên ngay trong phạm vi đền thờ An Dương Vương ở thành nội của Cổ Loa mà ít tìm được ở các địa điểm khảo cổ khác, đã làm tăng thêm dữ kiện kết nối truyền thuyết và lịch sử về nước Âu Lạc và An Dương Vương. Mọi việc cũng chưa có thể khẳng định ngay được, nhưng để loại trừ An Dương Vương khỏi lịch sử chỉ bằng những chứng cứ thư tịch mà thiền sư Lê Mạnh Thát đưa ra thì thật vội vàng quá. Tuy nhiên, khảo cổ học còn những hạn chế của nó, chúng ta thực sự chưa tách bạch được những dấu vết văn hóa của khoảng mấy chục năm từ sau khi nước Âu Lạc thất thủ đến khi Nam Việt mất vào tay nhà Tây Hán. Sự hiện diện của Triệu Đà và nước Nam Việt chỉ đọng lại trong hai ngôi đền thờ ở Văn Giang (Hưng Yên), Đồng Xâm (Thái Bình) và những di vật giống nhau “y hệt” tìm được cả trong mộ Nam Việt ở Lưỡng Quảng lẫn trong mộ Đông Sơn ở đồng bằng sông Hồng. Những bằng chứng khảo cổ học thời Tây Hán thì đã thấy khá nhiều, từ Quảng Nam, Thanh Hóa và rất nhiều ở miền bắc nước ta (gương đồng, đồ đựng rượu và thức ăn, đồ lễ khí, giáo, dao, kiếm đồng, sắt, “can” sắt...). Nhưng ngay tại Cổ Loa, liệu đâu là của những thời thái thú như Nhâm Diên, Tích Quang thì còn là một bài toán khó cho nền khảo cổ học Việt Nam non trẻ. Nhưng trong tình hình hiện nay, con đường tiếp cận khảo cổ học rõ ràng là công cụ để tiến sát đến sự thực lịch sử đáng tin cậy hơn cả. Những tiến bộ trong việc nghiên cứu nhân học hiện đại mở ra triển vọng lần tìm trong các khu mộ táng đương thời những bằng chứng xác nhận chi tiết hơn các vi nhóm loại hình chủng tộc, góp phần giải mã các hiện tượng lịch sử. Thời Hùng Vương: Vấn đề chữ viết Dù yêu nước thế nào chăng nữa, chúng ta cũng cần rất dè dặt khi nói về thời Hùng Vương. Không phải chỉ nước ta, ngay cả Trung Quốc, nơi chữ viết và sử sách ra đời rất sớm, thời nhà Hạ vẫn là một thời chưa thể rõ ràng và càng không thể viết dễ dàng mô tả về nó. Đó là những thời mà chỉ có tư liệu khảo cổ học mới có thể dần làm sáng tỏ. Những phát hiện gần đây nhất về bộ nha chương và bộ đồ gốm lễ nghi ở Xóm Rền (Phú Thọ) đã thu hút được nhiều sự tán đồng của các nhà nghiên cứu, rằng đây có những yếu tố là nơi ở của thủ lĩnh. Bởi vì nha chương thường được sản xuất ở Trung Quốc dưới thời Thương Chu và dùng nó như một lễ vật biểu trưng cho quyền lực “thiên tử” giao cho sứ giả mang đi thần phục đất chư hầu. Người ta đã thấy nó rải rác trên một vùng rất rộng lớn, từ Tây Vực sang Triều Tiên, Nhật Bản xuống tận Việt Nam. Những nha chương đẹp nhất ở Xóm Rền là thuộc loại đó. Niên đại những nha chương này, như đã nói ở phần trên, ở vào khoảng 3500 năm. Bằng chứng này, chỉ giúp chúng ta liên tưởng với sự việc mà sách Việt sử lược (đời Trần) có chép đến sự kiện ra đời nước Văn Lang của các vua Hùng: Đời Chu Trang Vương ở bộ Gia Ninh có người giỏi làm yêu thuật áp phục được các bộ khác, lên làm thủ lĩnh lập nước Văn Lang đóng đô ở Phong Châu... Khả năng lần tìm cái lõi của truyền thuyết Hùng Vương bắt đầu hé mở từ những vật chứng thật trong lòng đất Xóm Rền đó. Chúng ta đã khai quật hàng trăm di tích cùng thời và sau đó kéo đến tận khi nước Âu Lạc ra đời. Địa điểm của thủ lĩnh nhà nước Văn Lang huyền thoại đầu tiên có thể là Xóm Rền, nhưng sau đó, từ 3500 năm về sau, thủ lĩnh Văn Lang đi đâu, chúng ta cần tìm kiếm tiếp. Phải chăng là Đồng Đậu (Minh Tân, Vĩnh Phúc) rồi sau đó quay về Làng Cả (Việt Trì). Hiện tại, tất cả đều còn là giả thiết khoa học. Nhưng sự tồn tại thật của chất lửa trong văn hóa Phùng Nguyên đã biến thành màn khói trong huyền thoại vua Hùng (không có lửa sao có khói) là điều chúng ta đã chứng thực từ 50 năm nay. Tuy nhiên vội vã để vẽ cho thời đại này một bộ “Việt Luật” và hệ thống chữ viết để ghi luật và thơ ca (“Việt Ca”) như thày LMT thì cũng có thể thông cảm, vì cũng vào những năm thày LMT viết “Lục độ tập kinh và ...” (1972) thì số nhà nghiên cứu viết những điều tương tự cũng nhiều lắm. Chỉ có điều, sự tiến bộ của khoa học đã dần làm mai một những kết luận thiếu căn cứ đó. Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước vẫn không ngừng tìm kiếm những bằng chứng có hay không về chữ viết thời xa xưa, nhưng không phải với một mệnh đề có sẵn: Thời Hùng Vương đã có “vua” (vương) ắt phải có nhà nước và bộ máy quan lại “lạc hầu, lạc tướng”... vậy phải có chữ viết. Xin nhấn mạnh ở đây rằng, cho đến tận ngày hôm nay, các nhà nghiên cứu vẫn còn vật lộn một cách nghiêm túc và có trách nhiệm với câu hỏi: Cuộc sống được thể hiện qua các làng xóm, mộ táng, vũ khí, đồ trang sức... như chúng ta đang có từ Phùng Nguyên đến đỉnh cao Đông Sơn thực chất là trạng thái cấu trúc xã hội như thế nào. Câu trả lời chắc chắn và dễ chấp nhận nhất, đó là một chế độ xã hội thủ lĩnh tiền nhà nước, mà trong văn đàn khoa học thế giới hiện nay thường dùng từ pre-state chiefdom. Công trình nghiên cứu mới nhất của chúng tôi dựa trên thu thập các chữ viết giữ lại trên các hiện vật đồng, đá, gốm trong thời Đông Sơn cho phép tạm kết luận, đến khoảng thế kỷ III trước Công nguyên, chữ Hán bắt đầu ảnh hưởng đến Việt Nam thông qua những minh văn sớm nhất hiện biết trên đồ đồng Đông Sơn. Những loại hình văn tự khác hiện chưa có bằng chứng chắc chắn. Chúng tôi hiện giữ một đoạn thừng chập đôi có 4 nút buộc phát hiện trong ngôi mộ Châu Can 2000-M1, nhưng cũng chưa dám kết luận đó là “văn tự kết nút” hay chỉ là những đoạn dây buộc các túm tua trang trí trên quần áo. Mặc dầu vậy, chúng ta đều hết sức nâng niu, trân trọng mọi phát hiện, từ mọi nguồn thông tin để dần làm sáng tỏ các khoảng trống của lịch sử. TS Nguyễn Việt Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á Xem thêm: Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động
  14. Wildlavender thân mến. Tôi thấy tiêu đề của web Đông Tác trong bài viết liên quan tỏ ra rất có văn hóa khi viết: Quanh bài “Thiền sư Lê Mạnh Thát ...”Làm sáng tỏ những khoảng trống của lịch sử? Còn ngược lại, bài viết ông Nguyễn Việt thấy hơi mất lịch sự khi đặt tiêu đề là: Về cái gọi là "...những phát hiện lịch sử chấn đông" và Thành Cổ Loa. Thế nào là "Cái gọi là"?Tạm thời tôi đang bị ốm bệnh nên dễ bị xúc động, bài viết có thể mang dấu ấn búc xúc không cần thiết.Nhưng tôi nhận xét sơ bộ và cố gắng tỏ ra lịch sự về bài viết của ông Nguyễn Tiến là "Vớ vấn". Tôi sẽ chứng mình điều này sau. Thiên Sứ
  15. Bài viết trên có hai loại chữ : Nghiêng và đứng. Wildlavender cho xin đường link tới thẳng bài viết này để biết rõ vì sao lại có hai dạng chữ như vậy? Có phải chữ nghiêng là chữ của người khác - như lời phỏng vấn chẳng hạn - còn chữ đứng là chính văn của ông Nguyễn Việt không? Hay tất cả đều là chính văn của ông Nguyễn Việt và phần chữ nghiêng là ông ta muốn nhấn mạnh ý? Xin cảm ơn. Thiên Sứ
  16. Các đồ hình Mandala - 7 Sally Moningstar Trích Tự đoán định tương lai (How to tell the future) Những lời răn của đồ hình MandalaMandala răn dạy rằng ở trong mỗi con người đều có chốn nương thân của cái đẹp. Sống trong chốn đẹp đẽ này thì sẽ hạnh phúc, khỏe mạnh, tự do - một cuộc sống ước mơ. Ai cũng có mơ ước riêng cho cuộc sống của mình. Và việc bạn nhận ra những điều chưa toại nguyện tại trung tâm của mình hay việc bắt đầu tạo ra những thay đổi trong cuộc sống để tạo điều kiện cho bạn được toại nguyện và sống được ở trung tâm mơ ước, là tùy thuộc vào bạn. Con đường tìm kiếm chân lý. ánh xe luân hồi đồ hình Pháp Mandala, được giữ trên đài hoa sen và có những ngọn lửa thiêng bao quanh, đại diện cho Bát chính đạo. Các đồ hình Mandala là một trong số nhiều công cụ có thể dùng để hướng đạo bạn đến trung tâm và khám phá điều gì đang thiêu đốt trái tim bạn. Dù bạn sử dụng phương pháp nào đi chăng nữa, thì đều đòi hỏi bạn phải hết sức trung thực với mình. Nói to sự thực cho chính mình và những người xung quanh nghe. Dù không còn ai tin tưởng bạn nữa thì cũng không sao cả. Nếu trong thâm tâm bạn biết rằng bạn đang thực hiện ước mơ của mình, thì bạn có thể giữ vững chính kiến để đạt được mục tiêu. Bạn có thể có được bất cứ thứ gì mình muốn, miễn là bạn trung thực với trung tâm và bản thể nội tâm của mình. Hãy vẽ đồ hình Mandala về các giấc mơ, về mọi thứ bạn muốn có trong cuộc đời, về những điều bạn muốn đạt được trước khi chết. Hãy vẽ nó ra và giữ lại nó trong con mắt tâm trí của bạn như một bùa chú để dẹp tan những nghi ngờ của chính mình. Khi bạn tái định hướng cuộc đời mình về phía trung tâm, bạn hãy vẽ các đồ hình Mandala mới, chúng sẽ tiết lộ ngày càng nhiều về các mơ ước của bạn, và có lẽ còn cho thấy cả những khả năng mới khác để khám phá giấc mơ.Hành trình đi tìm chân lý không phải là một việc dễ dàng. Trong bất cứ một đồ hình Mandala nào đều có những vòng tròn lửa mà bạn phải đi qua, và những vết thương lòng cũ cần phải được mổ xẻ. Tuy nhiên, trung tâm lại nằm ở chính giữa mỗi đồ hình Mandala, nó thu hút và chờ bạn đến. Hãy bước những bước thật ngắn, chậm rãi dọc theo con đường nhưng phải chắc là bạn sẽ thấy mình vượt qua được chướng ngại vật và sống nốt phần đời còn lại như bạn luôn ao ước. Sống trong cõi Niết bàn. Trên con đường thực hiện mơ ước, bạn sẽ gặp những trở ngại. Các tín đồ đạo Phật đã sử dụng Bánh xe tám nan hoa Dharma để nhắc nhở họ về Bát chính đạo của Đức Phật, Bát chính đạo này hướng họ đi trên con đường đúng đắn để hoàn thành số mệnh của mình. Chính kiến: Tức là niềm tin vào chính bản thân. Bạn phải chắc chắn rằng mình đang lắng nghe tiếng nói chân thành từ bản thể nội tâm, chứ không phải nghe tiếng nói của bản năng. Chính định: Đây là mục đích bạn thực hiện giấc mơ của mình. Mục đích này có thể đạt được một cách khiêm nhường. Chính ngữ: Đây là những ngôn từ bạn sử dụng trên hành trình đến với trung tâm của mình. Nếu bạn phủ nhận sự thật, bất kính với chính bản thân mình, thì cũng có nghĩa là bạn phủ nhận trung tâm đó. Chính nghiệp: Đây là những việc bạn làm trong lúc theo đuổi giấc mơ của mình. Nếu không có những hành động cần thiết này, bạn sẽ không bao giờ có thể đạt được mục tiêu. Chính mệnh: Điều này nhắc nhở rằng tất cả các thói quen, dù tốt hay xấu, đều có thể đưa bạn đến gần hoặc xa hơn trung tâm của mình. Ăn, ngủ hợp lý và luyện tập thường xuyên đều có thể đưa bạn đến gần với mơ ước của mình hơn. Chính tinh tiến: Đây là nguồn năng lượng dùng trong cuộc sống của bạn. Nếu nguồn năng lượng bên trong này bị đóng lại, thì các hành động của bạn sẽ miễn cưỡng. Chính tư duy: Đây là những suy nghĩ thôi thúc mục đích của bạn. Nếu bạn suy nghĩ ích kỷ hoặc mang những tình cảm nhỏ nhen thì các mục đích của bạn không bao giờ có thể đưa bạn đến với trung tâm của mình. Chính niệm: Đây là giấc mơ bạn nắm giữ và là chốn bạn có thể lựa chọn. Sally Moningstar Nguồn: Trích Tự đoán định tương lai (How to tell the future)
  17. Các đồ hình Mandala - 6 Sally Moningstar Trích Tự đoán định tương lai (How to tell the future) Cách xem các đồ hình Mandala Các mảng rêu bé xíu này chứa đựng hàng nghìn giọt nước Khi bạn nhìn sâu vào một đồ hình Mandala, nghĩa là bạn phải nhìn thật sâu vào bản thân mình. Đôi khi bạn phải hạ quyết tâm để nghiên cứu bức tranh này, bạn có thể thấy bão tố và rối loạn, nhưng đồng thời bạn cũng thấy bình yên và cái đẹp cũng tồn tại bên trong phần trung tâm. Bằng cách nghiên cứu một đồ hình Mandala theo chiều sâu và đi vào chi tiết, bạn có thể kết nối với bản năng nội tâm và nhìn ra thế giới từ chính trái tim bạn. Cách xem và tìm hiểu các đồ hình Mandala Một Mandala có thể phức tạp, chứa đầy các biểu tượng và sống động nhờ các màu sắc, hoặc nó có thể đơn giản là thưa thớt. Dù thế nào thì nó cũng chứa đựng sự thông thái và chân lý. Để giải mã những bí mật của đồ hình Mandala, bạn phải nhìn xuyên qua ấn tượng bề ngoài và tìm hiểu từng chi tiết bên trong mỗi một mặt nhỏ xíu của hình ảnh. Nếu bạn hiểu được thông điệp của mỗi hình dạng và màu sắc, điều này sẽ giúp bạn thay đổi và đưa bạn gần chốn bình an hơn. Cách nhận biết phức tạp luôn đòi hỏi phải nhìn mọi thứ sâu hơn này mang lại cách trải nghiệm thế giới mới mẻ và độc đáo. Khi nhìn gần một cái cây, bạn sẽ thấy những mảng rêu bám trên vỏ cây. Nhìn kỹ đám rêu này, bạn sẽ thấy những giọt nước nhỏ đọng lại bên trên bề mặt gồ ghề của nó. Đây là cách nhìn giống cách nhìn các đồ hình Mandala. Luôn thấy có thêm nhiều thứ để nhìn. Bạn có thể vận dụng sự hiểu biết này để hành động và tạo ra những thay đổi trong cuộc đời. Ví dụ, nếu đang bị đau đớn, bạn có thể tìm hiểu nguyên nhân của nỗi đau. Có lẽ bạn cần phải thay đổi điều gì đó mà bạn đang làm, hoặc có thể xóa đi vài vết thương lòng đã cũ trong quá khứ. Khi nhận ra điều gì khiến mình hạnh phúc, bạn có thể thay đổi hướng đi mới của cuộc đời. Các Mandala, vượt ra ngoài sự cảm thông và ngại ngần, sẽ nói thật cho bạn biết rằng bạn đang đứng ở đâu, và bạn có thể để cho sự trung thực này thấm vào cuộc sống của mình. Ý nghĩa của các màu sắc trong đồ hình Mandala Thông qua di sản văn hóa, bạn có thể có những hiểu biết về ý nghĩa của các màu sắc may mắn trong cuộc sống của mình. Mặc dù mỗi nền văn hóa đều gán cho các màu sắc những ý nghĩa riêng, nhưng về cơ bản cũng vẫn giống nhau. Điển hình nhất là dù bạn có đang sống ở bất cứ nơi đâu trên thế giới thì bầu trời vẫn cứ màu xanh và màn đêm vẫn là màu đen. Mỗi một màu sắc đều có một ý nghĩa riêng: Màu đỏ là màu của máu và cuộc sống, màu của nỗi đau và niềm đam mê đến cùng. Màu cam biểu thị cho những khởi đầu xán lạn và quyết tâm tiến vào ánh sáng, rời xa bóng tối. Màu vàng thể hiện mong muốn vận động khi bạn đã ở trên bánh xe nhưng lại bị trượt và mắc kẹt vào trung tâm của nó. Màu xanh lá cây tượng trưng cho sự tăng trưởng, hài hòa và còn là sắc màu của sự trong sáng và vui vẻ khi có một điều gì đó mới mẻ đang bắt đầu hình thành. Màu xanh da trời là chốn yên tĩnh và sức mạnh nội tâm, nơi bạn có thể thể hiện các giấc mơ. Màu tím thể hiện sự biến đổi của dĩ vãng, niềm tin và kiến thức ở trong trung tâm nội tâm của chính bạn. Ý nghĩa của cầu vồng Cầu vồng là một biểu tượng màu sắc vô cùng đẹp đẽ. Các màu đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím được sắp xếp thành chuỗi, cùng tạo thành một quang phổ đầy màu sắc. Nó bao gồm tất cả các màu sắc dưới ánh dương quang, nguồn gốc của sự sống. Nó được tạo ra bởi các yếu tố lửa và nước, nước mưa trong không khí tạo nên hiện tượng khúc xạ của ánh sáng mặt trời. Nó là biểu tượng của sự trọn vẹn và niềm hy vọng, nó cong vắt ngang qua bầu trời, vì mang theo mình truyền thuyết về một chiếc bình đựng vàng luôn ở cuối cầu vồng, trên mặt đất. Ý nghĩa của các Chakra Ở phương Đông, các tín đồ đạo Phật và đạo Hindu tin rằng cơ thể người có bảy trung tâm năng lượng, được gọi là Chakra. Các Chakra này chi phối sức khỏe của tồn tại linh hồn, tồn tại tinh thần và thể chất. Khi khỏe mạnh, những điểm này giống như những xoáy nước năng lượng đang quay tròn, các vòng tuần hoàn của cuộc sống. Chúng được kết nối thành một đường thẳng từ xương cụt lên đến đỉnh đầu. Mỗi một Chakra chịu trách nhiệm một lĩnh vực đời sống và được liên hệ với các màu sắc khác nhau. Chakra cơ bản (màu huyết dụ) Phần trung tâm này ở xương cụt. Nó được liên hệ với cảm xúc mãnh liệt và những năng lượng cơ bản để sống sót. Chakra rốn (màu cam) Trung tâm này chi phối giá trị và niềm tin tự thân. Chakra đám rối dương (màu vàng) Trung tâm này tượng trưng cho nhận thức tự thân và bản năng độc lập. Chakra trái tim (màu xanh lá cây) Trung tâm này được liên hệ với trách nhiệm đối với chính bản thân và khả năng cho và nhận vô điều kiện trong tình yêu. Chakra họng (màu lam sáng) Trung tâm này đại diện cho sự biểu hiện tự thân trong thực nhất và cống hiến những tài năng của bạn cho thế giới. Chakra con mắt thứ ba (màu lam sẫm) Con mắt thứ ba nằm ở giữa hai con mắt, nơi ngự trị của trực giác, trí tưởng tượng và nhận thức tâm linh. Chakra đỉnh đầu (màu tím) Trung tâm này nằm ở trên đỉnh đầu, đại diện cho sự kết nối giữa bạn và vũ trụ, và đại diện cho trung tâm tồn tại tổng thể của bạn . Ý nghĩa của các hình dạng Ánh sáng và màu sắc của thiên nhiên có thể gợi ra nhiều cách nhìn mới Tất cả các hình dạng hằng ngày bạn nhìn thấy hoặc miêu tả trong một đồ hình Mandala đều có ý nghĩa và có mối liên quan nào đó nếu bạn chọn nó để nghiên cứu. Khi bạn nhìn những gì mình đã vẽ, hãy tin vào trực giác, vào giọng nói nội tâm đang lên tiếng mách bảo về những hình thù bạn vẽ ra, đừng tin vào những gì người khác nói. Những hình dạng cơ bản dưới đây đều có ý nghĩa truyền thống của chúng.Hình tròn: Là biểu tượng của sự trrọn vẹn và vĩnh hằng. Vòng tròn nằm trong đồ hình Mandala đại diện cho phần sâu thẳm nhất của bản thân bạn. Vòng tròn này tạo thành một rào cản ngăn không cho những lời nói dối xâm nhập vào, bảo vệ điều gì đó cực kỳ quý giá và dễ bị tổn thương. Đường kẻ: Một đường kẻ có thể thẳng và cứng hoặc cong và mềm mại. Nó có thể ngắn và dứt khoát hoặc dài và ngoằn nghèo. Các đường kẻ cứng thường biểu thị cho áp lực và nỗi đau. Các đường kẻ mềm có thể chỉ ra sự do dự và ít vận động. Đường cắt chéo: Hai đường chéo này tượng trưng cho hai nguồn năng lượng giao nhau bên trong bạn. Chúng có thể cân bằng lẫn nhau, nếu đường chéo là cân đối hoặc có thể đối kháng nhau nếu một đường chéo trội hơn đường chéo kia. Điểm giao của đường chéo trên Bánh xe Pháp là điểm cân bằng trong một thế giới nội tâm hài hòa. Hình xoắn ốc: Đây là biểu tượng cổ xưa của đường ruột. Đường xoắn ốc này đưa bạn từ những phạm vi rộng lớn của thề giới bên ngoài vào phần trung tâm nhỏ bé vô tận, nơi bạn không tồn tại. Vì thế, nó là biểu tượng của sự thay đổi và tái sinh thành một sự vật khác. Mặt trăng biến đổi phản ánh nhịp điệu và các chu kỳ của cuộc sống trên trái đất Hình trăng lưỡi liềm: Biểu tượng này được liên hệ với mặt trăng, có thể là trăng náu, trăng tròn dần và trăng khuyết, tượng trưng cho sự mất đi khả năng. Đó là mất đi khả năng của vô thức và trực giác.Hình tam giác: Hình ba cạnh này biểu thị cho ba mặt của bạn: tình thần, thể xác và linh hồn. Chúng cùng tương tác lẫn nhau và tạo thành tổng thể. Chúng có thể đưa bạn đến với điều gì đó mới mẻ, theo bất kỳ hướng nào mà chúng chỉ ra. Hình vuông: Hình bốn cạnh này biểu thị cho sự ổn định và an toàn, nền tảng nhân cách vững chắc và nội lực của bạn. Hình ngôi sao: Đây là những dấu hiệu lấp lánh của niềm hy vọng. Dù chúng chỉ là những hạt bé tí xíu hay các ngôi sao lớn sáng lấp lánh, thì vào những thời điểm tối tăm, chúng đểu có thể nhắc bạn nhớ đến nguồn sáng bên trong và cổ vũ bạn đừng từ bỏ nguồn sáng ấy. Ý nghĩa các con số Tất cả các con số chỉ số lượng của các sự vật, màu sắc, các phần mà bạn sử dụng để phân chia mỗi một đồ hình Mandala đều quan trọng, vì các con số này đều có ý nghĩa tượng trưng của nó. Số 1: Tượng trưng cho vũ trụ và sự vĩnh hằng. Nó tượng trưng cho sự duy nhất của mỗi cá nhân và mỗi khoảnh khắc bạn hít thở. Dù bất cứ lúc nào, bất cứ khoảnh khắc nào, bạn đều có thể thay đổi cuộc sống của mình và đến được trung tâm, chốn an bình. Số 2: Tượng trưng cho sự đối lập và cân bằng, sự ngang bằng và các quyết định. Dù ngày hay đêm, mặt trời hay mặt trăng, đều tồn tại trong sự tổng hòa với nhau. Số 2 là sợi dây liên kết giữa những hướng đi trái chiều mà từ đó bạn phải chọn ra hướng đi của mình. Số 3: Tượng trưng cho sự cân bằng bất diệt giữa sinh, tử và tái sinh. Nó đại diện cho bản thể tổng thể, cho thể chất, tinh thần và linh hồn. Số 4: Tượng trưng cho sự biến đổi và các chu kỳ. Nó được chỉ ra trên Bánh xe Pháp là bốn mùa và bốn phương theo vòng tròn. Bạn phải luôn vận động cùng vòng quay cuộc sống, để nhịp điệu cuộc sống lan tỏa khắp và dẫn dắt bạn đi. Số 5: Số 5 là trung tâm của bánh xe, là điểm thứ 5 trong vòng tròn miêu tả bốn hướng. Bạn có 5 ngón tay và 5 giác quan để tương tác với thế giới, và khi bạn đứng, hai chân tiếp đất dạng ra, cơ thể bạn tạo thành một ngôi sao 5 cánh. Sồ 5 được liên hệ với mặt đất, bầu trời và khoảnh khắc hiện tại. Số 6: Tượng trưng cho bốn hướng bắc, nam, đông, tây, cộng với hai hướng đối lập trên dưới: mặt đất và bầu trời. Số 6 thường được liên hệ với những năng lượng của phụ nữ và trí tưởng tượng, cũng như “giác quan thứ sáu”. Số 7: Tượng trưng cho các thiên cầu, bầu trời và các ngày trong tuần. Cầu vòng có 7 sắc, âm nhạc có 7 nốt, cơ thể có 7 Chakra, và có 7 hành tinh hữu hình. Trong một đồ hình Mandala số 7 là con số của sự tổng hòa vũ trụ. Số 8: Tượng trưng cho sự cân bằng hoàn hảo. Trong một đồ hình Mandala truyền thống của Phật giáo, bánh xe ý thức có 8 nam hoa tên là Dharma sẽ đem lại trạng thái nhận thức cân bằng hoàn hảo. Số 9: Tượng trưng cho sự thông thái và kiến thức uyên bác. Con số bí ẩn này tượng trưng cho sự hòa hợp giữa tinh thần, thể xác và linh hồn. Số 10: Tượng trưng cho sự hoàn chỉnh. Đây là dấu hiệu nhận thức cho phép bạn được tái sinh thành một điều gì đó mới mẻ và khác biệt. Nó thường được coi là con số của sự hoàn thiện và cân bằng. Còn tiếp
  18. Các đồ hình Mandala - 5 Sally Moningstar Trích Tự đoán định tương lai (How to tell the future) Các đồ hình Mandala vẽ người và thiên nhiên. Nhà tâm lý học Carl Gustav Jung Bạn dùng các giác quan của mình để trải nghiệm thế giới này, một thế giới mà bạn ở trung tâm của nó. Xung quanh là bầu không khí bạn hít thở và vùng đất mà bạn đi trên. Lúc nào cũng vậy, khi tỉnh dậy, bạn đều có thể cảm nhận được vẻ đẹp của cả vũ trụ xung quanh. Bạn không cần phải đi đến bất cứ nơi đâu đặc biệt để tìm kiếm vẻ đẹp đó. Nó luôn ở đó, luôn chờ bạn. Ở mỗi bước chân bạn đi, bạn đều được bao quanh bởi Mandala thế giới.Các đồ hình Mandala hiện đại Vào thế kỷ XX, nhà tâm lý học người Thụy Sỹ Cari Gustav Jung (1875 – 1961) đã phát triển việc sử dụng các đồ hình Mandala như một phương cách hỗ trợ để tìm hiểu tâm lý. Hàng ngày, ông vẽ một Mandala để thể hiện những suy nghĩ và những tình cảm sâu kín nhất của mình. Cứ mỗi lần như thế, ông lại nhận thấy rằng bên trong vòng tròn ông vẽ là một tấm ảnh chụp nhanh về trạng thái tâm hồn, cảm xúc và tinh thần của mình. Dường như chính những hình ảnh này đang phản chiếu cái tôi nội tâm của ông vậy. Ông cũng nhận thấy rằng, cách biểu hiện cảm xúc bằng vòng tròn kiểu này là phổ biến, vì trẻ em và người lớn đều vẽ chúng một cách nguệch ngoạc tự nhiên. Carl Jung bắt đầu coi Mandala là một con đường để đến với bản ngã, và ông bắt đầu vận dụng nó vào trong công trình nghiên cứu của mình với danh nghĩa là một chuyên gia tâm thần học, để giúp các bệnh nhân của ông có thể kết nối được sâu hơn với chính bản thân họ. Vòng tròn hoặc phạm vi của đồ hình Mandala đại diện cho phần tinh thần mà ở trung tâm của vòng tròn chứa đựng phần bản ngã đích thực. Ông cho rằng, phần đỉnh của Mandala chỉ ra những cảm xúc chứa đựng trong tâm trí có ý thức, trong khi phần dưới lại tượng trưng cho những lĩnh vực tình cảm và những ý nghĩ nằm sâu trong tiềm thức. Ảnh hưởng của Carl Jung ngày một vương xa, ngày nay nhiều người đã quan tâm đến việc tạo ra các đồ hình Mandala và dùng chúng như những công cụ để tự biểu hiện. Cùng với việc truyền bá các truyền thống pháp thuật cổ xưa thông qua nền văn minh châu Âu, các Mandala mới đã ra đời. Trật tự Bình Minh Vàng (The Order of the Golden Dawn) là một nhóm người đã kết nối các truyền thống phương Đông với pháp thuật phương Tây. Nhóm này đã tạo ra một bộ Mandala, được gọi là Tattva Cards, để làm công cụ hỗ trợ cho việc đạt đến cái tôi tinh thần. Các đồ hình Mandala này bao gồm những biểu tượng đơn giản như các mặt trăng và các vòng tròn. Người ta nghĩ về các biểu tượng này để phát triển tầm nhìn và trải nghiệm của bản ngã nội tâm. Có lẽ một trong số những hình dạng thú vị nhất của các đồ hình Mandala ra đời trong thời gian gần đây là nhờ nghệ thuật vi tính. Các bản đồ họa vi tính ba chiều có thể giúp thể hiện một Mandala ở chiều kỹ thuật số. Thông tin về Mandala trên máy vi tính được ký hiệu bằng các số 1 và 0. Thực chất, ký hiệu này là cách thể hiện một Mandala theo kiểu khác mà bất kỳ máy vi tính nào trên khắp thế giới đều có thể sao lại và thông tin. Ngoài ra, tất cả những từ ngữ mà chúng ta nói qua điện thoại, những bản fax hoặc các email mà chúng ta gửi đi, đều trở thành những mạch điện và ánh sáng phát ra khắp thế giới như một dòng suối không bao giờ ngừng chảy, một Mandala truyền tin vô hình, đến được với chúng ta qua truyền hình và đài phát thanh, hoặc phóng các vệ tinh vào không trung, hoặc dao động dưới biển theo những đường dây cáp quang rất lớn. Cơ thể người Sơ đồ hình học chi tiết về cơ thể người của Leonardo da Vinci. Trong cơ thể bạn, có một dòng điện chạy qua hệ thần kinh, chạy qua từng bộ phận nhỏ xíu, di chuyển và hoạt động theo nhịp điệu liên tục và hài hòa với cả cơ thể, với từng khoảnh khắc mà bạn sống. Khi bạn đứng trên mặt đất và dang hai cánh tay ra, cái bóng của bạn sẽ tạo thành hình ngôi sao 5 cánh. Nó cân xứng và hài hòa một cách lạ thường, và nó là một phần trong sự hài hòa của vũ trụ. Các sợi AND ở trung tâm của từng tế bào cơ thể bạn kết nối lại với nhau để hình thành nên một sơ đồ, một bản thiết kế chi tiết mà bạn phát triển cuộc đời mình theo nó. Bạn là sự tổng hợp của bố mẹ, ông bà và của tất cả các vị tổ tiên. Các gien trong cơ thể bạn nắm giữ lịch sử của từng người trong số các tổ tiên của bạn, chúng còn chứa đựng sự trong sáng của trái tim, đầu óc và của linh hồn bạn. Không một cảm giác tội lỗi, sợ hãi, đố kỵ và những cảm xúc rào cản khác ngáng trở bạn thể hiện bản chất đích thực của mình. Bạn chỉ có thể là bạn, chính xác như các gien miêu tả. Bạn nắm giữ chiếc chìa khóa đến được với hạnh phúc ở trung tâm của từng tế bào trong cơ thể bạn. Các đồ hình Mandala trên bầu trời Dù là đêm hay ngày, bầu trời cũng là khởi nguồn của sự kì diệu và quyến rũ. Các đám mây đan kết lại rồi quay tròn khắp bầu trời suốt trong năm, tạo nên những hình thù lý thú. Chúng tụ lại, phình to ra rồi tối đen đi khi trời mưa, sau đó lại lơ lủng trước bầu trời xanh thẳm. Những hình thù của các đám mây phản chiếu sự chuyển động của trái đất, các đại dương và gió. Cái đập cánh của một con bướm ở bên này thế giới cũng có thể gây ảnh hưởng đến thời tiết ở phía bên kia. Vạn vật trong vũ trụ đều được kết nối với nhau, và các đám mây là phản ánh của từng giọt nước khắp mọi nơi trên thế giới. Mùa đông là mùa của băng tuyết. Khi hơi ẩm thoát ra từ các đám mây, nó liền đóng băng lại và bắt ngay lấy mọi chuyển động của gió và trái đất để tạo ra một hình ảnh duy nhất, có một không hai - một bông tuyết. Mỗi thứ là một bức tranh về gió và thời tiết ở khắp nơi xung quanh ta. Vào một đêm sáng trời, bạn có thể nhìn thấy các vì sao di chuyển khi chúng từ từ chạy vòng quanh sao Bắc Cực, rồi đậu lại ở cuối chòm sao Tiểu Hùng, không di chuyển về bầu trời phương Bắc. Có một số ngôi sao phải mất hàng trăm năm mới chiếu sáng xuống trái đất, nhưng cũng có một số ngôi sao chỉ mất một vài năm. Trong mỗi khoảnh khắc bạn đều đang nhìn vào hằng hà sa số những câu chuyện. Và vòm sao trải ra thành một đồ hình Mandala rộng lớn - một hình ảnh về không gian và thời gian đang quay. Các đồ hình Mandala trên trái đất. Sự cân đối của mạng nhện điển hình cho sự hài hòa của tự nhiên Mặc dù điều này nói chung chưa rõ ràng, nhưng tất cả chúng ta vẫn đang sống trên một không gian rộng lớn đang quay. Khi trái đất quay, trọng lực trái đất kết nối bạn với chính trung tâm của hành tinh, giúp chân bạn đứng vững được trên mặt đất. Bạn đang ở trung tâm Mandala của chính bạn. Các dòng sông và các đại dương bao quanh bạn. Những ngọn núi, những hàng cây, những tòa nhà cao tầng trải ra phía trên bạn. Dù là vùng đô thị hay nông thôn, tầm nhìn của bạn hàng ngày đầy những điều kỳ diệu có thể soi sáng linh hồn nếu bạn để ý đến chúng.Một hòn đá cũng được tạo ra bởi toàn bộ những áp lực và chuyển động của trái đất. Nó được hình thành qua hàng nghìn năm từ khoáng chất và kim loại, hoặc được đun sôi từ lớp vỏ cứng của trái đất rồi nguội đi qua hàng bao thế kỷ. Nước có thể bào mòn cho bề mặt của đá trở nên phẳng phiu hoặc có thể nghiền nó ra thành cát. Mỗi một hòn đá đều mang trong mình một mạng lưới hình thành phức tạp và vô tận. Các chòm sao quay quanh sao Bắc Cực thành một đồ hình Mandala rất lớn Một cái cây với những cành lá vươn lên trên bầu trời và rễ cây mọc lan đâm xuống dưới đất, cũng là một đồ hình Mandala sống động. Kích thước, hình dạng và kết cấu đều là bức tranh về lịch sử sinh trưởng của nó, bao gồm tất cả những khoảnh khắc quá khứ của nó, cả gần đây và đã qua lâu rồi. Nó cho thấy khi mặt trời chiếu vào các cành lá, thì các cành cây hướng lên trên, và mỗi khi nước mưa ngấm xuống lòng đất, các rễ cây lại mọc sâu thêm xuống dưới. Thân cây cũng giống như lịch sử, hình thành ở dạng các vòng tròn, theo năm tháng lớn dần lên quanh trung tâm - thời khắc nó sinh ra.Mô hình vũ trụ Cái chân và cái mỹ hiện diện khắp vũ trụ này. Thực phẩm bạn ăn có đầy những phần tử phức tạp. Con người bạn hôm nay được tạo nên từ những thức ăn bạn ăn hôm qua, tháng trước, thậm chí năm trước. Mỗi một phân tử là những nguyên tố được sắp xếp rất logic, tạo thành một mô hình mà cơ thể bạn có thể đọc và hiểu được. Khi bạn nhìn các nguyên tố - ví dụ như khí hyđrô và ôxi tạo thành nước, bạn thấy rằng chúng quả là một Mandala của các electoron bé nhỏ đang quay dưới dạng những làn sóng đẹp đẽ và hài hòa xung quanh hạt nhân trung tâm. Bạn có thể thấy Mandala vũ trụ cũng có mặt ở trong hạt nhân này. Các hạt proton nặng nề đang biểu diễn một điệu nhảy nghiêm trang từ tốn là mô hình mà từ đó toàn bộ năng lượng mặt trời được sinh ra, trong khi bên trong các proton này, các hạt vi lượng bay theo các quỹ đạo quanh nhau và quá trình này cứ thế tiếp diễn. Khi thoát ra khỏi tầm nhìn quy mô và hết sức chi tiết về cuộc sống này để nhìn vào bức tranh rộng lớn hơn, bạn có thể thấy trái đất đang quay quanh trục của nó, cùng với loài người sống trên bề mặt trái đất, bao quanh trung tâm, còn mặt trăng quay xung quanh trái đất. Bạn có thể nhìn ra hệ mặt trời và thấy tất cả các hành tinh đang quay xung quanh mặt trời theo một kiểu không ngừng thay đổi. Xa hơn một chút nữa, bạn có thể thấy dải ngân hà của chúng ta đang quay quanh điểm trung tâm sáng chói như một đồ hình Mandala tuyệt đẹp hình xoắn ốc. Và kể cả vượt xa hơn điều này, bạn có thể thấy vũ trụ mở rộng đang tụ lại rồi trải rộng ra vô tận. Vũ trụ không bao giờ có điểm cuối. Vạn vật đang nhảy múa theo một kiểu nhất định xung quanh bạn. Còn tiếp
  19. Các đồ hình Mandala - 4 Sally Moningstar Trích Tự đoán định tương lai (How to tell the future) Các bức tranh cát của người Tây Tạng.Các tín đồ đạo Phật người Tây Tạng nhìn thấy các đồ hình Mandala hiện diện ở khắp mọi nơi xung quanh họ. Họ coi bản thân họ là một Mandala, và vạn vật, kể cả bản thân họ, đều là một vị Phật tiềm năng. Tuyệt phẩm đỉnh cao trong các đồ hình Mandala của người Tây Tạng trong thế giới vật chất là đồ hình Mandala dưới dạng bức tranh cát có tên gọi là dul-tson-kyil-khor hoặc “Mandala làm bằng các loại bột màu”, và đồ hình Mandala phức tạp nhất trong số chúng là Bánh xe Thời gian – hay còn gọi là Kalachakra. Bánh xe Thời gian Cát màu được đổ xuống tranh qua một ống phễu kim loại thành một suối cát đẹp đẽ Con đường đạt đến giác ngộ này và đồ hình Mandala của nó, miêu tả toàn bộ sự thông thái của chu kỳ trong vũ trụ và miêu tả cách chữa bệnh xuất phát từ việc sống hòa hợp với các nhịp điệu liên tục của vũ trụ. Bánh xe Thời gian miêu tả hai chiều của cung điện 5 tầng nơi Phật Kalachakra sống, được bảo vệ bởi 722 nam thần và 722 nữ thần. Mỗi cặp tượng trưng cho một khía cạnh tuần hoàn của thế giới, và toàn bộ đồ hình Mandala là một bức tranh duy nhất về tất cả các chu kỳ của vũ trụ.Bức tranh cát này chỉ được xem là bản thô của một đồ hình Mandala đích thực, một vật thể ba chiều chỉ có thể tồn tại trong con mắt của tâm trí. Các hình vẽ Mandala được tạo ra như những dụng cụ hỗ trợ cho các nhà sư xây dựng nên các Mandala tinh thần vốn cần thiết cho việc đi theo các bản văn nghi thức thiền của Phật giáo Tây Tạng. Nhà sư sẽ dùng tinh thần để đi khắp các tầng và các phòng của cung điện siêu hình và tìm cách đi qua mỗi nhận vật như một phần của việc thiền định, cho đến khi nào ông đến được chỗ Phật tọa ở trung tâm và hiểu được về vũ trụ ở xung quanh mình. Các nhà sư bắt đầu tạo ra bức tranh cát cùng với nghi lễ gọi mời Nữ thần sáng thế và thờ cúng địa điểm này. Sau đó họ vẽ đường viền cho đồ hình Mandala trên sàn nhà, dùng mực trắng và vẽ theo các nguyên tắc hình học nghiêm ngặt. Bức tranh cát được tạo từ trung tâm ra đến ngoài, tượng trưng cho vũ trụ. Cực điểm của vũ trụ là bản thể của ý thức, được hình thành từ một quả trứng. Mỗi một nhà sư vẽ một trong bốn hướng của Mandala khi cẩn thận đổ những dòng suối cát màu đẹp đẽ xuống bức tranh qua một cái phễu bằng kim loại hẹp miệng, gọi là chak-pur. Đối với một số bức tranh cát, người ta còn dùng cả hoa, thảo mộc, ngũ cốc và cả đá quý tán thàng bột, rắc vào để thay đổi những tính chất linh thiêng của đồ hình Mandala. Khi được vẽ xong, tức là Mandala thực hiện xong vai trò của mình và được xóa đi Cung điện ở trung tâm Bánh xe Thời gian được xây dựng dựa trên bốn yếu tố ban sơ của vũ trụ: đất, nước, lửa và gió. Tầng trệt sát đất của cung điện đại diện các chu kỳ của trái đất, thiên văn học và lịch sử loài người. Tầng tiếp theo đại diện cho hệ thống chữa bệnh thể xác, tinh thần của người Tây Tạng. Ở tầng thứ ba, tinh thần và thể xác của con người đạt được trạng thái hoàn thiện, cuối cùng, trạng thái này dẫn đến trạng thái tồn tại hoàn thiện. Từ địa điểm này, nhà sư có thể thực sự hiểu được vũ trụ giống như Phật Kalachakra nhìn nhận vũ trụ và đạt đến trạng thái tồn tại như vị Phật này.Việc tạo Bánh xe Thời gian còn có tác dụng chữa bệnh rất lớn cho môi trường xung quanh nó. Khi một đồ hình Mandala được vẽ xong, vai trò của nó được hoàn chỉnh và nghi lễ được thực hiện để giải phóng khả năng chữa bệnh đó ra ngoài thế giới. Cát trong tranh sẽ được gom lại từ ngoài vào trong, rồi được dựng vào một cái bình. Việc này được tiến hành theo nghi lễ, đến một dòng sông gần đấy, đổ cát ra khỏi bình để dòng sông mang nó ra đại dương và đi khắp thế giới mong mang lại hòa bình và sự hài hòa cho cả hành tinh. Còn tiếp
  20. Các đồ hình Mandala - 3 Sally Moningstar Trích Tự đoán định tương lai (How to tell the future) Các đồ hình Mandala của người Ấn Độ và Tây Tạng.Theo truyền thống, các đồ hình Mandala là một công cụ thiền định hữu hình, hướng đạo cho người tìm kiếm chân lý hiểu biết nhiều hơn về bản thân họ và vũ trụ. Ở khắp châu Á, cả những người theo đạo Hindu lẫn các tăng ni Phật tử đều dồn tâm để đạt được sự thông thái và kiến thức tự thân thông qua thiền định, nhằm đạt đến sự hài hòa và thoát khỏi vòng cương tỏa của cái chết cũng như những khao khát trần tục. Một đồ hình Mandala tuyệt đẹp của Phật giáp Các đồ hình Yantra của Hindu giáoNhững người mộ đạo Hindu giáo sử dụng các đồ hình Yantra trong lúc thiền và trong các nghi lễ. Mỗi một đồ hình Yantra đều có một biểu tượng hình học được vẽ chính xác quy ước một vị thần nào đó. Mỗi một vị thần lại có biểu trưng đặc biệt của riêng mình, gồm các hình tam giác dính liền với nhau, hướng lên trên hay xuống dưới lại phụ thuộc vào việc vị thần này là nam hay nữ. Xung quanh biểu tượng này còn có các vòng tròn tượng trưng cho sự bảo vệ và một vòng tròn viền hình cánh hoa biểu thị cho những người hầu của vị thần. Tất cả các biểu tượng và vòng tròn này lại nằm bên trong một vòng tròn thành phố trái đất gọi là bhu-pura. Bhu-pura lại được rào xung quanh bởi các bức tường, ở các bức tường này có những người bảo vệ cho tám hướng, ngồi canh giữ liên tục. Các Yantra có thể là một hình tròn, được vẽ và sử dụng trực tiếp trên mặt đất, hay một kim tự tháp. Có một chỗ chứa hình vòng tròn được đặt ở trung tâm. Vị thần sẽ xuất hiện ở bên trong chỗ chứa này. Các Yantra chỉ có thể được chạm trổ trên 8 chất liệu Tantra: vàng, bạc, đồng xu, tinh thể, gỗ bulô (birch), xương, da (da này bao gồm cả giấy) và một hòn đá đặc biệt được gọi là vishnu. Chỉ cần những vật liệu này, khi kết hợp với việc sử dụng đúng màu sắc trong thiết kế hình vẽ, là sẽ tạo ra được sự cân bằng và hài hòa giữa các năng lượng để thần linh tồn tại ở trung tâm Yantra này. Người ta cho rằng các đồ hình Yantra cần phải có được sự sống với sự xuất hiện của linh hồn thần linh và phải được “ban cho hơi thở” trong buổi lễ. Có những mùi thơm tỏa ra khắp Yantra, trong lúc người ta đọc đi đọc lại một câu thần chú cầu khẩn nào đó. Ở các Shri Yantra (một loại đồ hình Yantra) các chữ cái được vẽ ở bên ngoài, xung quanh vòng tròn để tượng trưng cho âm thanh của đấng sáng thế Shakti, vị thần được cúng lễ. Khi Yantra đã có được hơi thở và sự sống, thì người ta tin rằng nó sẽ đạt đến tri giác để nhận thức thế giới và một thực thể linh hồn nào đó để sống ở đấy. Đồ hình Yantra là những hình vẽ thiêng liêng, được sử dụng nhằm hướng sự chú ý tới nó khi thiền. Khi đặt mình vào giữa một Yantra, các tín đồ mộ đạo mong muốn vào được khu vực trung tâm trong tồn tại tổng thể của họ. Trong một đồ hình Yantra của Hindu giáo, mỗi một biểu tượng đều đại diện cho một vị thần cụ thể Các đồ hình Mandala của Phật giáoCác tín đồ Phật giáo mong muốn đạt đến sự giác ngộ để họ có thể đến được cõi Niết bàn trong vũ trụ ở kiếp này hoặc ở kiếp sau. Họ phải rèn luyện cả cơ thể lẫn tâm trí để biết cách đi giữa sự hài hòa, khi giải phóng mình khỏi những kiềm tỏa của bản ngã và những khát vọng trần tục. Các đồ hình Mandala được vẽ ra theo những quy luật nghiêm ngặt để tạo ra sự cân bằng và hài hòa tuyệt đối, giúp cho việc thiền định. Có nhiều con đường đạt đến sự giác ngộ, và mỗi một con đường lại có một đồ hình Mandala và một vị Phật riêng hướng đạo cho nó. Các tín đồ đạo Phật ở Tây Tạng vận dụng các đặt tính chữa bệnh và răn dạy của các đồ hình Mandala trên một tấm vải cuộn, gọi là thang-ka. Các Mandala này thường là các bức tranh hình chữ nhật miêu tả những lời răng của vị Phật đó, bánh xe cuộc đời, cây vũ trụ, các vị thần linh và những người hướng đạo tinh thần khác bằng những hình ảnh đẹp đẽ đầy màu sắc. Người Tây Tạng còn vẽ những đồ hình Mandala để phục vụ cho việc thiền, được gọi là kyilkhor. Mỗi một kyilkhor chứa trong mình rất nhiều biểu tượng và ý nghĩa. Các nhà sư có thể thiền trên đồ hình Mandala bằng cách lần lượt đánh giá từng biểu tượng, khi đi từ rìa ngoài vào bên trong đồ hình. Đầu tiên, người thiền phải vượt qua bốn rào cản bên ngoài để đạt đến giác ngộ, tương đương với tiêu trừ hỏa khí, có được sức mạnh trí tuệ, đạt đến tám trạng thái nhận thức cao nhất và trái tim trong sáng, rộng mở. Sau đó họ đến với bốn cánh cổng đi vào cung điện của Phật. Ở mỗi một cánh cổng này, đều có một linh hồn bảo vệ đứng gác nơi lối vào, và các nhà sư phải đối mặt với các linh hồn bảo vệ này trước khi vào được bên trong cung điện và trung tâm Mandala, nơi có Phật ngự tọa. Còn tiếp
  21. Các đồ hình Mandala - 2 Sally Moningstar Trích Tự đoán định tương lai (How to tell the future) Các đồ hình Mandala của thổ dân MỹTheo truyền thống, thổ dân Mỹ coi tất cả mọi dạng sống là một phần không thể thiếu của tồn tại duy nhất bao quanh họ với những bài học rút ra từ nó. Mỗi một sinh vật sống, mỗi một viên đá hay một tảng đá đều là một phần của vũ trụ. Mọi vật đều có linh hồn, phần thiết yếu trong mối liên hệ của nó với thế giới. Đi theo con đường của cái chân và cái mỹ, chính là đi trong sự hài hòa với các linh hồn. Một thợ bạc người Navajo khoảng năm 1870 Bánh xe Pháp (*) (*) Bánh xe Pháp nghĩa là Pháp luân. Thuật ngữ “bánh xe” xuất phát từ chữ cakna trong tiếng Phạn. (Wikipe-dia). Bánh xe Pháp là đồ hình Mandala thường thấy trong đạo Phật. Ở đây chúng tôi gọi chung cho cả các đồ hình Mandala kiểu này ở trong các nền văn hóa khác. Một trong những biểu tượng vũ trụ quan trọng nhất của thổ dân Mỹ là đồ hình Mandala – Bánh xe Pháp. Hình đường cắt chéo nội tiết bên trong đường tròn này đại diện cho bốn mùa (xuân, hạ, thu, đông), cho bốn hướng (bắc, nam, đông, tây) và cho bốn yếu tố (lửa, nước, đất, không khí), tất cả các biểu thị này nằm trong một đường tròn bên ngoài đại diện cho thế giới. Trong loại bánh xe hai chiều, trục đường chân trời của đường cắt chéo nội tiết còn đại diện cho hai hướng, hướng lên trên tượng trưng cho Cha Trời và hướng xuống dưới tượng trưng cho Đất Mẹ. Bốn mùa tượng trưng cho thời gian, còn bốn phần vòng quanh tượng trưng cho không gian. Bên cạnh những khái niệm cơ bản này, người ta còn đưa vào trong Bánh xe Pháp các con vật cụ thể, các màu sắc và tính chất với những tầng lớp ý nghĩa phong phú và vô tận ở bên trong vòng tròn miêu tả vòng quay của cuộc sống. Theo ý nghĩa tượng trưng của Bánh xe Pháp, khi bạn sinh ra là lúc bạn bắt đầu chuyến đi của mình trên trái đất ở phía đông lúc bình minh lên, đó là phía của ánh sáng, tầm nhìn và những sự khởi đầu mới. Khi bạn lớn lên và bắt đầu nhận thức về thế giới, bạn chuyển sang phía nam và bắt đầu thời kỳ của những niềm vui và sự tự thể hiện hồn nhiên trong sáng. Khi bạn trường thành hơn nữa, bạn phát triển trực giác và trí tưởng tượng, cũng như chịu đựng nỗi đau của người trưởng thành ở phía tây. Cuối cùng, bạn chuyển sang thời kỳ của sự nghỉ ngơi ở phía bắc và trực giác của bạn lúc này trở thành trực giác thông thái. Sau khi sức mạnh được tăng cường, bạn lại sẵn sàng khởi động lại chuyến đi của mình ở phía đông, và chu kỳ này cứ thế tái diễn cho đến khi bạn thoát xác thành linh hồn thăng thiên, sau rất nhiều những vòng quay của Bánh xe Pháp. Bài học rút ra từ Bánh xe Pháp là bạn sẽ luôn chuyển động quanh vòng tròn cho đến khi bạn cư trú được ở trung tâm của nó. Ở đây, bạn trở nên hợp nhất với bánh xe cuộc sống và hòa hợp với các hình thái ngày càng thay đổi của cuộc sống. Lưỡi bắt mộng “Lưỡi bắt mộng” của thổ dân Mỹ là một đồ hình Mandala của thế giới trong mơ. Đồ hình này được hình thành từ một sợi chỉ được đan lại thành một cái lưới hình xoắn ốc và được trang trí thêm những sợi lông chim và các hạt trang trí. Nó được treo phía trên đầu của một người nào đó trong khi họ ngủ để “bắt lấy” tất cả các giấc mộng đẹp mà lời răn của chúng vẫn còn lưu lại khi bạn tỉnh dậy. Tuy nhiên, những giấc mơ xấu lại chui qua các lỗ thủng trên tấm lưới này và thoát ra ngoài vũ trụ. Ở trung tâm lưới bắt mộng là chỗ linh hồn có thể đi qua để bước vào thế giới trong mơ. Cũng theo cách tương tự, thổ dân Mỹ đã tạo ra những cái khiên để bảo vệ mình trước những linh hồn xấu xa và chúng như là tín hiệu cầu cứu những người cứu giúp linh hồn con người. Mỗi cái khiên đều khác nhau, được trang trí theo phong cách cá nhân và được làm bằng da động vật và chỉ khâu. Mỗi một cái khiên bảo vệ này đều được dệt từ tinh thần của chính người sở hữu nó và là một loại đồ hình Mandala được cá nhân hóa. Đây là mộT Bánh xe Pháp đẹp và to lớn khác thường ở Sedona, Arizona Còn tiếp
  22. Các đồ hình Mandala - 1 Sally Moningstar Trích Tự đoán định tương lai (How to tell the future) Các đồ hình Mandala cổ đạiCác đồ hình Mandala (đồ hình tôn giáo tượng trưng cho vũ trụ) trong nhiều nền văn hóa khác nhau và ở nhiều thời kỳ khác nhau, thường có các hình dạng và ý nghĩa biểu trưng khác nhau. Mặc dù có thể sử dụng một “ngôn ngữ” khác biệt, nhưng các đồ hình Mandala ở mọi thời đại đều cùng miêu tả vũ trụ của chính chúng ta. Bỏ qua những khởi nguồn lịch sử và văn hóa của chúng, thì những đồ hình Mandala cổ xưa nhất vẫn có thể giúp ích cho chúng ta trên con đường đi tìm thế giới nội tâm đích thực, nếu như dò ra được ngôn ngữ của chúng. Các dạng đồ hình Mandala Tổ tiên của chúng ta đã nhìn thấy hình dạng của toàn bộ vũ trụ xung quanh họ vào các mùa trong năm, vào kỳ trăng tròn rồi khuyết, vào lúc mặt trời mọc rồi lặn. Họ đã lưu dấu các sự kiện này bằng những tảng đá dựng đứng và những hình tròn. Giờ đây, những đồ hình Mandala này hình thành nên một phần cảnh quan của thế giới. Bia tưởng niệm bằng đá cự thạch của vòng tròn đá Stonehenge ờ nước Anh báo trước ngày Hạ chí những hòn đá xếp thành hàng phức tạp này tạo thành một cuốn niên lịch. Phương cách sống của tổ tiên chúng ta vốn phụ thuộc vào những chu kỳ tự nhiên. Những vòng tròn bằng đá Stonehenge tượng trưng cho thế giới của họ. Và tổ tiên của chúng ta đã xây nên những nấm mồ bằng đá phức tạp để ca ngợi những sáng tạo tự nhiên, tạo thành các đồ hình Mandala. Dãy Newgrangeb ở Eire cũng là một ví dụ điển hình. Một khoảng không để hành lễ ở chính giữa vòng tròn đá này luôn nằm trong bóng tối cho đến ngày Hạ chí, khi đó, những tia nắng rạng đông len lỏi qua hành lang để chiếu sáng các bức tường tối đen của dãy đá. Người Ai Cập cổ đại cũng hiểu được chu kỳ vận hành của cuộc sống. Có luận thuyết cho rằng, tất cả các kim tự tháp của họ tạo nên một mô hình trên mặt đất phản chiếu một vị trí ở bầu trời, nơi mà họ tin rằng linh hồn của Pharaong sẽ được tái sinh. Ở chính giữa quần thể đồ hình Mandala này có một quan tài ở trong Nhà mồ của nhà vua. Đây là nơi chứa linh hồn của các vị vua đã chết rồi tái sinh. Tính tượng trưng trong các quần thể mộ này cho thấy rằng, phần chính giữa của vòng tròn đá Mandala là vị trí của cái chết và sự tái sinh. Chúng ta phải để quá khứ chết đi, trước khi tương lai lại mở ra trước mắt chúng ta. Các mê cung Những vòng xoắn của mê cung giống như một bản đồ đường đi của cuộc đời. Biểu tượng mê cung tái hiện ở khắp nơi trên thế giới, như một phần của cuộc tìm kiếm sự thông thái và nhận thức tự thân. Cứ mỗi một khoảnh khắc bạn lại phải lựa chọn hướng đi của mình, và cứ mỗi một quyết định sai lầm lại khiến hành trình của bạn trở nên dài hơn. Nhưng dù con đường bạn đi có ngoằn nghèo đến mấy, thì bạn cũng đừng bao giờ quên mất nơi mình muốn đến, đó là ở đáy sâu con người đích thực của bạn.Trong thần thoại Hy Lạp, câu chuyện về Theseus và Minotaur tập trung vào mê cung huyền thoại trong lâu đài của vua Minos trên đảo Crete. Theseus phải tìm đường thoát khỏi mê cung, đương đầu và giết chết quái vật Minotaur để khẳng định cho ngôi báu định mệnh của mình. Hiện nay vẫn còn nhiều mê cung bằng cỏ xén đơn giản từ thời tiền sử. Chúng tạo thành một con đường độc đạo nhỏ hẹp lượn lên lượn xuống quanh co trong chính bản thân chúng. Các thầy tu và các tính đồ đi qua mê cung này bằng cách quỳ gối trong trạng thái thiền thật sâu. Những mê cung bằng cỏ xén này biểu thị cho sự mộc mạc của cuộc sống, vì những đường hướng và những hình thái ngày càng thay đổi của nó vẫn có thể được chấp nhận một cách thoải mái và yên bình. Mê cung ba hình xoắn trôn ốc của người Celt, có nhiều đường đi đến trung tâm của nó. Mặc dù có thể đi lướt qua mê cung này, nhưng nếu làm thế thì sẽ bỏ qua mất tính huyền ảo của con đường. Chỉ cần thay đổi các cách rẽ và đừng giữ nguyên bất cứ nguyên tắc nào là bạn có thể đi qua hết cả mê cung. Điều này nhắc nhở rằng, một cuộc sống phong phú là không đau đáu tới tương lai và hãy vui thích với mỗi khúc quanh, ngã rẽ của hiện tại. Các kim tự tháp bí ẩn được xây dựng làm nơi yên nghỉ cuối cùng của các Phraong Các biểu tượng của người Celt Celt là tộc người cổ đại sinh sống trên khắp Châu Âu và tiểu Á vào thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Họ phổ biến di sản tinh thần về tôn giáo của mình từ thời đại đồ sắt cho đến tận thời kỳ đầu của Thiên Chúa giáo. Người Celt đã phát triển kiến thức về vũ trụ của tổ tiên, khi họ giữ mối quan hệ gắn bó với thiên nhiên, các mùa trong năm, các chu kỳ sinh tử và tái sinh. Những hòn đá của họ được trang trí bằng những hình xoắn và được chạm trổ các hình người, các biểu tượng của trái đất ở xung quanh. Những hòn đá này được tìm thấy ở khắp vùng Tây Bắc Châu Âu. Chữ thập được chạm trổ phức tạp này của ngườI Celt, hợp nhất hình tròn và phần trung tâm của một đồ hình Mandala lại với nhau Trước thời kỳ Thiên Chúa giáo, thì chữ thập của người Celt tượng trưng cho bốn mùa và bốn phương - bắc, nam, đông và tây, được đặt trên một vòng tròn trên đá, vòng tròn này tượng trưng cho trái đất. Cùng với sự ra đời của Thiên Chúa giáo, người Celt tiếp thu các yếu tố của tôn giáo này và các hình chữ thập của họ trở nên phức tạp hơn. Khi kỹ năng chạm trổ trên đá phát triển, họ đã chạm trổ trên các tượng đài dị thường những hình xoắn ốc phức tạp, những hình động vật và các vị thánh được lấy ra từ các câu chuyện thần thoại. Được khắc vào trong những hình chữ thập này của người Celt là những truyền thuyết hoàn chỉnh, những câu chuyện mang màu sắc Thiên Chúa giáo điển hình. Ví dụ, một chủ đề yêu thích nói về chuyến đi của một vị thánh từ kiếp này sang kiếp sau, nơi ông sẽ mặc khải.Những phiến đá được chạm trổ phong phú đã khởi nguồn cho những cuốn sách đầu tiên - những cuốn Kinh thánh với những minh họa phong phú bằng nghệ thuật tượng trưng qua hình ảnh các sinh vật mà người Celt biết. Rắn, chó sói, cá, công và phượng hòang được minh họa đầy các trang bản thảo kinh sách của Kells (Book of Kells), mỗi một nhà truyền giáo đều được tượng trưng bởi một con vật của chính mình, các đường viền và chữ cái trong các cuốn cẩm nang được trang trí này là một câu chuyện thông thái được dệt lại một cách rộng rãi rồi viết ra từng trang giấy. Cuốn sách này không chỉ đơn giản là một bản thảo, mà còn là một chuyến đi đầy biểu tượng, minh họa cho con đường đi tìm ý nghĩa sâu xa hơn của các từ ngữ. Một cửa sổ hoa hồng phức tạp tượng trưng cho tính tổng thể và tính tổng quát Các biểu tượng của Thiên Chúa giáoTheo truyền thống, các nhà thờ được xây quay mặt về hướng đông, dưới dạng một đồ hình Mandala hình chữ thập. Phía đông nơi mặt trời mọc, tượng trưng cho sự phục sinh của linh hồn Chúa Jesus và cuộc đời mới của ngài. Bệ thờ luôn được đặt ở cuối nhà thờ, quay về hướng đông. Các cửa sổ hoa hồng được trang trí lộng lẫy để điểm tô cho các giáo đường. các nhà thờ ở khắp nơi trên thế giới cũng là những ví dụ về các đồ hình Mandala trong Thiên Chúa giáo. Các hoa văn phức tạp trên các cửa tò vò bằng đá, hoa và những màu sắc sinh động khiến cho nhà thờ tràn ngập ánh sáng và vẻ đẹp của thiên đường. Thỉnh thoảng, ánh sáng này đổ tràn xuống mê cung hình tròn trên sàn nhà thờ, tượng trưng cho chuyến hành hương đến trung tâm tôn giáo của đạo Thiên Chúa – vùng đất thánh Jerusalem. Trong suốt thời Trung Đại, Hildegard of Bingen, triết gia, nhà ngôn ngữ học, họa sĩ, nhà tự nhiên học và soạn nhạc… người Đức (còn được gọi là thánh Hildergard) đã chiêm bao một loạt các giấc mộng mà bà tìm kiếm để giao tiếp bằng âm nhạc và hình ảnh. Từ nhỏ bà có khả năng tiên tri và nằm mộng nên bà đã vẻ ra nhiều hình ảnh miêu tả thế giới, trong đó đàn ông và đàn bà là đỉnh cao sáng tạo của Chúa, được bố trí ở vị trí trung tâm. Trong một giấc mơ của mình, bà đã thấy Chúa lên ngôi ở giữa một Mandala rộng lớn, khi từ người ngài tỏa ra một vòng hào quang vàng có một vòng tròn tâm rất lớn ở nơi trái tim, tỏa rộng ra để bao lấy vũ trụ. Hildegard còn cố gắng miêu tả sự hài hòa của vũ trụ như một cách thức để chữa trị bệnh tật. Điều này được dựa trên giấc mộng của bà về bốn loại bệnh cơ bản của con người và bốn yếu tố đất, nước, lửa và không khí. Bà mường tượng y học là một hình ảnh về sự hài hòa vũ trụ với các yếu tố ở trung tâm được bao quanh bởi gió và các vì tinh tú. Bên ngoài là bóng tối, lửa và ánh sáng mặt trời. Ở trung tâm bản thể đích thực của chúng ta không có bệnh tật gì cả. Chúng ta là một tổng thể và được chữa khỏi bệnh tật trong sự hài hòa với Chúa và vũ trụ. Còn tiếp
  23. Các đồ hình Mandala Sally Moningstar Trích Tự đoán định tương lai (How to tell the future) Các đồ hình Mandala thường có hình tròn. Trong tiếng Phạn (Một ngôn ngữ cổ của Ấn Độ), Mandala vừa có nghĩa là “vòng tròn” lại vừa có nghĩa là “trung tâm”, tức là nó tượng trưng cho cả thế giới hữu hình bên ngoài (vòng tròn), thế giới vô hình bên trong (trung tâm). Mỗi đồ hình Mandala là một bức tranh, kể về hành trình bạn có thể đi theo từ thế giới thường nhật bên ngoài để vào thế giới nội tâm trầm lặng ở bên trong con người bạn. Nó đưa bạn đến chỗ hiểu biết sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa bạn với vũ trụ. Ai đi tìm hạnh phúc và thực hiện những ước mơ của mình. Các đồ hình Mandala là công cụ có thể hướng đạo cho bạn đi thẳng vào trọng tâm của cuộc tìm kiếm ấy. Đi theo hành trình vẽ ra trên đồ hình Mandala, nghĩa là bạn đang tìm kiếm tất cả những gì ẩn giấu trong tâm hồn bạn, mà trong đó luôn có một khoảng lặng, cho dù các cơn bão lòng có thể tấn công bạn đi chăng nữa. Khi vẽ một đồ hình Mandala, bạn có thể tạo ra một hình ảnh về thế giới nội tâm của bạn, hoặc hình ảnh về một thế giới hoàn hảo và khao khát thể hiện sự hài hòa của thế giới ấy. Khi tại ra một đồ hình Mandala là khi bạn mở lòng mình trước tất cả những khả năng có ở cả bên trong lẫn bên ngoài bản thân bạn. Bạn lắng nghe các giấc mơ của trái tim, khối óc và của linh hồn, rồi tạo hình và tô màu cho chúng ở bên trong đồ hình. Một đồ hình Mandala có thể đưa bạn đi từ thế giới trần tục đến thế giới thiên đường. Khi làm việc với các đồ hình Mandala, bạn có thể bắt đầu nhận thức cái hiện thực có vẻ ngẫu nhiên bề ngoài ở xung quanh bạn theo nhiều cách khác nhau, biến những gì thường ngày và tầm thường thành chuyến đi khám phá tâm hồn bạn. Còn tiếp
  24. SẠCH NHƯ THIÊN SỨ Thằng con trai út đi học về ôm chầm lấy bố: "Ba! Con mới đi học về. Hôm nay được 9 điểm này ba!". Vừa nói xong bỗng nó vội đẩy Thiên Sứ ra, mặt nhăn lại: "Trùi ui! Người ba có mùi gì lạ wá! Ba không tắm hả?". Thiên Sứ tui trợn mắt nhìn thằng con đang chun mũi vì khó chịu. - Mày nói cái gì vậy! Tao mới tắm từ thứ hai tuần trước .... Thiên Sứ
  25. NỤ HÔN ĐẦU ĐỜI Ngày ấy Thiên Sứ tui mới lên 6 chuổi. Tuổi của thiên thần vô nhiễm, nguyên tội. Hàng xóm của tôi cũng có một nữ thiên thần. Chúng tôi thường hay chơi bán đồ hàng với nhau và ngồi hàng giờ tập gấp các con vật bằng giấy. Tôi săn sóc con búp bê của Luân và cô bé thì sắp xếp lại những món đồ chơi mà tôi quăng bừa bãi. Luân rất xinh, nàng nhìn như búp bê vậy. Mắt to đen láy và ánh xanh, môi chúm chím với nước da trắng hồng. Nàng thường săn sóc tôi, khi thấy đầu tóc tôi bù xù, áo quần nhếch nhác.Tôi rất quí Luân mà chẳng có dịp nào thể hiện tình cảm với nàng. Con trai ai lại săn sóc con gái. Chơi với con gái là cũng khôing được rồi. Ấy là hồi đó bọn con trai nghĩ vậy. Có một lần, Luân giảng giải cho tôi nghe: Con búp bê của Luân thì phải để đây cho nó nhìn và chơi chung với chúng mình. Cái giường này thì phải để cạnh tường.... Nhìn Luân giảng giải, xắp xếp, tôi vừa phục vừa quí Luân. Nàng lại gần và nhìn tôi: - Luân làm thế được không? Tôi kéo Luân lại và hôn lên má nàng..... Luân đẩy tôi ra và mở tròn đôi mắt thiên thần nhìn tôi ngơ ngác. Nàng lấy tay sờ lên má rồi ngồi phệt xuống đất khóc nức nở. Người hầu gái của nàng chay ra: - Ai làm gì mà em khóc thế? Nàng mếu máo chỉ vào tôi: - Chị sen ơi! Thiên Sứ nó quệt thò lò mũi xanh vào má em kìa. Từ ấy, chúng tôi không còn chơi với nhau nữa. Luân cho rằng tôi chơi xấu với nàng. Hơn nửa cuộc đời trôi đi....nay tôi cũng không còn biết Luân đang ở đâu. Nhưng đấy là nụ hôn đầu đời của tôi với một kết thúc buồn... Thiên Sứ