Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Sinh Nam Nham Thin 2012. Con cang lon cang kha gia. Thien Su
  2. Ngày xưa, khi tôi còn nhỏ, thấy bọn trẻ con nhà giàu thường chửi những kẻ nghèo mà thô lỗ là: "Đồ khố rách, áo ôm". "Đồ chửi cha, mắng mẹ". Bây giờ theo anh gọi là "văn hóa chửi" . Có thể vì thế các học giả khả kính trình độ giáo sư tiến sĩ có văn hóa nên không chửi như vậy. Họ chỉ bảo rằng: "Thời Hùng Vương ông cha ta ở trần đóng khố" và coi đó là khoa học. Rất nhiều người vỗ tay. Thiên Sứ
  3. Tìm thấy kho xe xịn của con trai Saddam Nguồn: VnExpress Cảnh sát Iraq vừa thu hồi 5 xe hạng sang gồm hai chiếc Rolls Royces và ba xe loại cổ từng thuộc sở hữu của con trai cả Saddam Hussein là Uday bị chôn giấu trong một khu vườn cây ăn quả. > Dinh thự xa hoa của Uday Hussein / Diễn biến vụ Saddam bị hành quyết Cảnh sát Iraq đang bảo vệ số xe của Uday Hussein mới thu hồi. Ảnh: AP. Nhóm những chiếc xe đắt tiền nói trên bị đánh cắp khỏi dinh thự của Uday ngay sau khi liên quân do Mỹ đứng đầu chiếm Baghdad, năm 2003. Một nhóm buôn lậu đã giấu kín 5 xế hộp này và đang có kế hoạch đưa chúng ra nước ngoài để bán. Cảnh sát Iraq nhận được tin mất báo về kế hoạch tẩu tán nói trên và theo dõi một đoàn xe tải chạy về phía khu vườn cây ở Dora, ngoại ô phía nam Baghdad. Sau đó việc làm của nhóm buôn lậu bại lộ và có 3 người bị bắt giữ. Uday Hussein và em trai Qusay bị bắn chết trong một trận đọ súng không cân sức với quân Mỹ tại Mosul, vài tháng sau khi chế độ Saddam Hussein bị lật đổ năm 2003. Bản thân cựu tổng thống từng một thời hét ra lửa này cũng bị treo cổ vào cuối năm 2006. Hai con trai của Saddam khét tiếng vì cuộc sống xa hoa thời cha còn cầm quyền và thường lái xe xịn khắp Baghdad với tốc độ cao. Bản thân Uday Hussein còn phụ trách lĩnh vực thể thao của Iraq trước đây và anh ta bị cáo buộc thường tra tấn hoặc bỏ tù các vận động viên khi đội nhà thi đấu yếu kém. Cảnh sát Iraq chưa tiết lộ sẽ làm gì với số xe hạng sang mới thu hồi được. Đình Chính (theo BBC, AP)
  4. Xét về Phong thủy thì vị trí giường bị tường cửa cắt ngang. Tất nhiên là không tốt rồi. Có thể căn nhà này còn phạm nhiều sai lầm về Phong thủy khác. Thiên Sứ
  5. Những tiết lộ về cuộc sống của trưởng nam nhà Hussein Sau khi dinh thự của Uday Hussein bị đánh chiếm, hôm qua các phóng viên đã được phép mục kích toà nhà này và cuộc sống xa hoa trong đó. Vườn thú riêng của Uday có cả sư tử, báo và gấu. Còn nhà kho thì đầy các loại rượu ngoại đắt tiền, xì gà Cuba trị giá hàng triệu USD. Uday Hussein là người rất thích các loại súng ống. Trong hoàn cảnh cuộc sống người dân Iraq gặp rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng từ lệnh cấm vận của Liên Hợp Quốc, những gì bên trong dinh cơ của vị trưởng nam 39 tuổi của ông Saddam Hussein lại cho thấy có một khác biệt rất lớn. Một binh sĩ Mỹ trong phòng ngủ có giường dát vàng của Uday. Các bức tường của phòng tập thể dục nằm trong khuôn viên dinh thự treo đầy các bức ảnh thiếu nữ ăn mặc hở hang, được tải xuống từ mạng Internet. Đại uý Mỹ Ed Ballanco thốt lên: "Đây là bộ sưu tập ảnh phụ nữ khỏa thân lớn nhất mà tôi từng nhìn thấy". Điều đặc biệt là lẫn trong số những bức ảnh nude đó, có cả hình hai cô con gái rượu của Tổng thống Mỹ George Bush là Jenna và Barbara trong bộ quần áo ngủ. Tất nhiên, việc đầu tiên của các binh sĩ Mỹ khi nhìn thấy nó là lập tức cho gỡ xuống. Khu dinh thự của Uday Hussein nằm ngay cạnh một cung điện của ông Saddam Hussein. Vương vãi trong đống đổ nát do bom đạn gây ra, người ta tìm thấy những vật dụng văn phòng phẩm có khắc tên Uday Hussein bằng vàng, cùng một số bản sao của luận án tiến sĩ do Uday viết mang tên "Thế giới sau chiến tranh lạnh". Trong nhà kho của Uday còn có vô số các loại thuốc kích thích phục vụ cho cuộc sống chăn gối và cả một lượng heroine không nhỏ. Một cuốn sổ đen có ghi tên và số điện thoại của hàng trăm phụ nữ được coi là bạn gái của Uday cũng được tìm thấy. Ngoài ra, còn có một bộ sưu tập các loại súng và tạp chí về vũ khí được Uday sưu tầm trong nhiều năm. Đình Chính (theo AP, Reuters)
  6. Tuttit: Tháng 11 Âm lịch cưới cũng được. Những ngày sau đây: 4 - 9 - 16 - 17 - 29/ 11 Âm lịch. Nhờ Laviedt kiểm tra lại. Thiên Sứ
  7. Cuong nên viết có chủ từ.Thí dụ: Nhờ bác Phúc Anh, Laviedt ....xem giúp - con trai tôi năm nay ...X tuổi ....là Ngọc Mai Chi và Ngọc Phương Chi thì có hợp không ạ và vận mệnh thì như thế nào ạ ? Xin cảm ơn. Đại loại như vậy! Thiên Sứ
  8. Chán nhỉ! Coi như tháng 10 chẳng có ngày nào ra hồn. Thiên Sứ
  9. Banmai: - Năm ngoái tình duyên chỉ là hy vọng. Năm nay cuối năm là thật. Sang năm có chồng. Nêứ chú có đaón sai thì đến đầu 2009 thì cũng lên xe hoa. Nhưng dù sao thì sang năm cũng có biến động lớn về chỗ ở và công việc. Chồng là người không cùng quê. Khả năng là ngoại quốc. Banmai còn hỏi gì nữa không? Thiên Sứ
  10. Thị trường chứng khoán sẽ lên theo kiểu răng cưa. Nếu có tài phán đaón thì khi lên bán ra - tuy lỗ so với hồi mới mua - khi xuống mua vào. Còn nếu thấy chưa đủ khả năng thì chờ đến tháng 9 Âm lịch sẽ xử tiếp. Sang năm.Chúc vạn sự an lành. Thiên Sứ
  11. Banmai link lá số Tử Vi Lạc Việt vào đây bỉ phu xem qua, xem Bammai có duyên nợ thế nào, công viêc ra sao. Bỉ phu là làm biếng coi Tử Vi đệ nhất. Bởi vậy xem xong chỉ nói đúng hai việc đó thôi. Thiên Sứ.
  12. Cho chú thêm dữ kiện tuổi hai vợ chông và giới tính đứa con năm nay sinh nếu đã biết. Thiên Sứ
  13. Chú chọn ngày 21 tháng 10. Nhưng chờ chị Laviedt xem lại đã. Có thể hai ngày mùng 9 và 10 cũng tốt. Tháng này chọn ngày tốt khó quá. Chỉ có 3 ngày trên thôi. Thiên Sứ
  14. Nguoncoi vào Lạc Việt Việt độn toán tham khảo. Trong đó anh em đã dự báo: "Kinh Tế và Lạc Việt độn toán". Còn cái tổ chức gì đó HSBC dự báo nhăng cuội ấy mà! Nội từ năm ngoái đến nay đã sai bét. Thiên Sứ
  15. Cách tốt nhất là lấy luôn tuổi bố mẹ đi hỏi thày - chính ngay thày mà bố mẹ hỏi. Nếu thày cũng nói là hai tuổi này không hợp thì đem về làm bằng chứng. Bố mẹ cô tuổi gì? Em út tuổi gì? Giới tính? Thiên Sứ
  16. Đường lên Núi Linh Vĩnh Hảo Nguồn: quangduc.com Cách thị trấn năm dặm về hướng tây là một cánh rừng rậm bọc quanh một ngọn núi cao ngất. Ngọn núi sừng sững trấn ngự một phương trời như một vị thần cô độc xa lánh trần gian. Dù rằng từ thị trấn đến chân núi chẳng xa là bao, dân trong thị trấn ít khi nào léo hánh đến vùng núi. Họ chỉ nhìn thấy ngọn núi từ xa và mỗi khi nhìn thấy thì trong lòng mỗi người như chỗi dậy một niềm kính tín thiêng liêng. Không biết từ đời nào, người ta truyền miệng nhau hoặc dạy cho nhau về những linh nghiệm của ngọn núi, khiến cho từ thế hệ này đến thế hệ kia, đều nhìn ngọn núi với cánh rừng bao quanh ấy như là một vùng thánh địa. Muốn cầu nguyện việc gì, người ta không cần phải đến tận vùng thánh địa, cứ việc đứng trong nhà, thắp nhang hướng về núi ấy, van vái. Điều cầu nguyện của mỗi người có được đáp ứng hay không thì chẳng biết; chỉ biết xưa nay người ta cứ gọi núi đó là núi Linh, có người còn kiêng gọi chữ "núi", chỉ dám gọi là "ông": Ông Linh. Chưa bao giờ người ta thấy được một Ông Linh toàn vẹn. Suốt ngày đêm mây trắng và sương mù giăng kín hết nửa phần trên của núi, chỉ để lại phần chân núi xanh thẫm. Nửa phần chìm trong mây khói kia là cả một kho tàng của linh thoại. Một trong những linh thoại được truyền cho nhau đã trở thành như một sự thật, đó là trên đỉnh núi có một hang động rất lớn. Từ Phật Tổ Thích Ca, Nhị Tổ Ma Ha Ca Diếp, cho đến các vị Thánh tăng nhiều đời, ở khắp nơi, đều tập trung trong hang động đó. Mỗi ngày đức Phật đều thăng tòa thuyết pháp y như lúc còn tại thế. Linh thoại ấy từ nhiều đời, đã khiến cho nhiều người trong thị trấn không ngăn được hiếu kỳ, hoặc không kềm được nỗi khát vọng giải thoát giác ngộ, đã tìm cách băng rừng rồi leo lên ngọn núi ấy. Chẳng biết họ có gặp Phật gặp Tổ hay không. Chỉ thấy có nhiều người đi mà ít có người quay trở lại. Thảng hoặc có người từ núi Linh quay trở về, người ta xúm xít hỏi han thì chỉ được nghe một câu ngắn gọn: "Đâu có đường lên!" hoặc "... chỉ thấy một nhà sư lúc ẩn lúc hiện," hoặc "chỉ thấy mây giăng mù mịt". Những câu trả lời đại loại như thế chỉ làm tăng thêm niềm tin về những linh thoại mà thôi. Cuối cùng, núi Linh vẫn là núi Linh, chẳng bao giờ và chẳng ai khám phá thêm được gì khác ngoài những chi tiết huyền hoặc tô vẽ thêm cho một kho tàng bí nhiệm vốn vượt khỏi tầm nhận thức và kinh nghiệm sống của con người trần tục. Cho đến khi có hai nhà sư trẻ từ thị trấn lên núi Linh học đạo trở về, bức màn huyền bí của hang động Phật Tổ cũng chưa được vén lên. Nài nỉ cách mấy người ta cũng không cạy miệng được hai nhà sư trẻ này. Chỉ nghe họ tiết lộ duy nhất một điều là sư phụ của họ hiện đang ở trên núi ấy. Hỏi sư phụ ấy có phải là Phật, là Tổ không, thì được đáp rằng: "Là sư phụ, là một lão tăng, thế thôi." Hai vị sư trẻ này chia nhau đi khắp thị trấn để hành đạo. Trông họ có vẻ như đang nỗ lực thực hiện việc truyền bá chánh pháp cho kịp một thời điểm nào đó, và có lẽ họ sẽ trở lại núi Linh với thành tích hành đạo của họ tại thị trấn này. * Vị lão tăng có bộ râu bạc phơ dài đến ngực nhưng da mặt ông không nhăn lắm. Đôi mắt ông sáng và trông rất nhân hậu dưới đôi mày cũng dài và bạc theo màu râu tóc. Khi hai nhà sư trẻ mới từ thị trấn đến núi Linh bái thỉnh lão tăng làm thầy để cầu học đạo, họ đã được lão tăng tiết lộ cho biết rằng lão tăng chỉ là "người giữ cửa". Người đệ tử lớn tuổi, được coi là sư huynh và được lão tăng đặt cho đạo hiệu là Tuệ Trí, nhíu mày hỏi: "Bạch thầy, xin hỏi thầy giữ cửa gì ạ?" Vị thầy cười nhẹ nói: "Cửa Không." "À, à... cửa Không. Nhưng... cửa Không thì đâu cần gì phải giữ, bạch thầy? và cái cửa Không sẽ dẫn đến đâu? có phải là..." "Dĩ nhiên là nó dẫn đến nơi ấy," vị thầy khoát một cử chỉ mơ hồ hướng về đỉnh núi, "nhưng không phải ai muốn vào cũng được. Ta giữ cửa là giữ theo nghĩa đó, nghĩa là ta có bí quyết, có chìa khóa cho những ai hội đủ điều kiện vượt qua cái cửa Không này." Tuệ Trí nhìn ra ngoài cửa sổ, đảo mắt một vòng chung quanh thảo am, qua con suối nhỏ chảy róc rách và những tảng đá lớn phía sau, dừng lại nơi mấy cây tùng cổ thụ đứng thẳng như những người lính gác im lặng và tận tụy dưới nắng sương... "Cánh cửa ấy ở đâu vậy, bạch thầy? Có phải chỗ mấy cây tùng..." "Cửa ấy không có cánh. Và nó bắt đầu ngay từ bước chân của con chứ chẳng ở đâu xa. Có điều, không phải bước chân nào cũng cất lên được một cách hài hòa và phù hợp với chiều kích của cánh cửa ấy." "Vậy nhiệm vụ giữ cửa của thầy tức là hướng dẫn hành giả phương cách bước vào cái cửa không cánh ấy?" "Phải," vị thầy ôn tồn đáp. "Bằng cách nào và bao lâu chúng con mới có thể bước vào cửa ấy?" Tuệ Trí nóng nảy hỏi. "Không có gì phải gấp gáp như vậy. Cứ ở đây, ta sống sao các con sống vậy, rồi một lúc nào đó, ta sẽ chỉ đường cho các con, hoặc có thể các con sẽ tự thấy con đường và cánh cửa đó mà đi vào. À, này Tuệ Đức, con có điều gì nghi ngờ không, nãy giờ ta không nghe con lên tiếng?" Tuệ Đức, vị sư đệ trầm lặng, mặt mày không được sáng láng thông minh như Tuệ Trí nhưng phong cách thì chuẩn mực, nghiêm túc, và nét mặt thì nhân hậu, thiết tha, biểu lộ sự chân thành trọn vẹn hướng đến mục tiêu giải thoát. Nghe thầy ỏœi, Tuệ Đức cung kính thưa: "Bạch thầy không ạ." "Tốt. Thôi, chúng ta cùng đi dạo để các con quen với cảnh mới này." * Trải ba năm không rời khỏi núi, cùng ở tu trong mái thaả am dưới sự dẫn dắt của vị thầy già ấy, một hôm, Tuệ Trí và Tuệ Đức được thầy gọi đến dạy: "Ta nghĩ đã đến lúc để các con đem những kiến văn và sở học của mình ra mà truyền rộng cho nhiều người khác cùng được lợi ích. Vì vậy, hôm nay, hai con hãy lên đường, xuống núi hành đạo." Tuệ Trí ngạc nhiên hỏi: "Bạch thầy, thế còn... cách vào cái cửa Không? Chừng nào thầy mới dạy cho?" "Các con cứ xuống núi hành đạo. Khi nào cảm thấy là mình đã tạo nên được công đức gì đáng kể, đáng gọi là thành tựu, thì quay trở về đây. Các con tưởng rằng một người không có chút công đức hay thành quả nào hết mà có thể qua được cánh cửa ấy sao?" Tuệ Trí xìu mặt, suy nghĩ: "Tu học ba năm cực nhọc ở đây rồi mà vẫn chưa đủ công đức! Biết bao năm nữa mới gọi là đủ đây?" Vị thầy ruốt chòm râu bạc, đứng dậy, bước đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài. Một lúc lâu, ông quay lại nói: "Nhưng trước khi các con rời núi, ta muốn nghe các con trình bày vài nét về sự hiểu đạo của các con; bằng vào phương châm nào mà các con dấn thân vào trần gian để hành đạo; bằng vào phương tiện thiện xảo nào mà các con có thể tự kiểm thúc được thân tâm mình giữa cõi đời phiền lụy. Tuệ Đức, con nói trước đi." Tuệ Đức liền quỳ xuống chắp tay cung kính thưa: "Quy y Phật, Pháp, Tăng; hành động, lời nói và ý nghĩ luôn luôn qui thuận và phù hợp với Phật, Pháp, Tăng." Vị thầy hỏi tiếp: "Còn gì nữa không?" "Thưa, chỉ có vậy," Tuệ Đức nhỏ giọng thưa. Sư huynh Tuệ Trí nghe vậy thì bật cười lên một tràng, thương hại thay cho người sư đệ cục mịch quê mùa, ba năm học tập kinh điển ở đây chưa ra khỏi bước đầu học Phật. Vị thầy cũng nở một nụ cười, tủm tỉm quay trở lại ngồi xuống bồ-đoàn, hỏi Tuệ Trí: "Đừng cười sư đệ con căn tính trì độn. Biết gì thì nói nấy, có sao đâu. Thế còn con, con xuống núi với tâm nguyện và hành xử nào đây, nói ta nghe và để sư đệ con có cơ hội học hỏi thêm luôn thể?" Tuệ Trí đang đứng, xoay một vòng, bước ra cửa, ngửa mặt lên trời, vừa đi vừa nói: "Nhìn mây bay, thấy tóc xanh thuở xưa còn tung xõa Nghe chim hót, tin tiếng lòng năm cũ mãi âm vang." Nói rồi Tuệ Trí đi thẳng xuống núi. Vị thầy ngồi im, gật gù bảo Tuệ Đức: "Hai đứa con mỗi đứa có một căn tính và sở đắc khác nhau. Đều tốt cả. Khi đã nói là phương tiện thiện xảo thì không có vấn đề cao thấp. Khác nhau chăng là chỗ diệu dụng, ý ta muốn nói cái dụng quả, của mỗi phương tiện mà thôi. Con chuẩn bị gói ghém hành lý chi đó rồi lên đường. Mong rằng chuyến đi của các con không làm ta thất vọng. Ta chờ đợi các con đó." Tuệ Đức lạy thầy ba lạy rồi lui ra. * Nơi thị trấn, Tuệ Trí và Tuệ Đức chia nhau hai ngả, du hành khắp nơi để truyền bá chánh pháp. Mỗi người có một lối giảng dạy riêng về Phật Pháp, về Thiền đạo, nhưng cả hai đều thành công, thu phục được nhiều đệ tử, tạo được nhiều uy tín và tiếng vang trong khắp thị trấn ấy, rồi lan dần đến các thị trấn lân cận. Nhưng tiếng tăm lẫy lừng, nổi bật nhất, vẫn là từ Tuệ Trí, vị sư huynh cao ráo, trắng trẻo, điển trai, nói năng hoạt bát và lôi cuốn, học rộng biết nhiều, lại có cả tài làm thơ viết văn rất tuyệt, chinh phục hầu hết giới trí thức trong nước. Nhờ những thuận lợi về thể chất lẫn kiến thức và tài năng đó mà Tuệ Trí thành công rất nhanh, tự mình tạo nên một tông phái Phật giáo rất mạnh và có ảnh hưởng trong cả nước. Giáo lý nền tảng của tông phái Tuệ Trí xem ra thì không có gì mới mẻ, vẫn là dựa vào kinh điển Phật để xiển dương; nhưng nhờ kiến văn quảng bác và khả năng xét đoán thời cuộc rất nhạy bén, Tuệ Trí biết nhắm đến hoàn cảnh và nhu cầu tâm lý của con người thời đại, nhờ vậy mà mở ra những sinh hoạt có vẻ mới mẻ, tiến bộ; lôi kéo được nhiều người trí thức từ thôn quê đến thành thị, ùn ùn qui tụ học hỏi. Nhiều người bỏ cả sản nghiệp để dâng cúng cho Tuệ Trí. Nhiều chùa chiền, thiền thất, đại tùng lâm ở khắp nơi cũng được xây dựng để dâng trọn vẹn cho Tuệ Trí tùy nghi sử dụng. Đồ chúng tìm học Tuệ Trí càng lúc càng đông. Dần dần, nhu cầu tu học theo tông phái Tuệ Trí trở nên một phong trào quần chúng không phân biệt trí thức hay dân giả cùng đinh thất học. Nhưng một khi đã trở thành phong trào rồi thì mặt phẩm chất không còn là điều hệ trọng nữa; chỉ còn sức lớn mạnh không gì ngăn nổi của phần số lượng. (Thực ra, không phải là do những người ít học tham dự vào phong trào đã làm giảm đi phần phẩm chất của tông phái Tuệ Trí—tu học đạo giác ngộ đâu có căn cứ vào chuyện học thức hay thất học!—mà chính sức lớn mạnh quá nhanh của phong trào đã như dòng độc dược giết chết từ trứng nước cái khát vọng hướng đến giải thoát giác ngộ—vốn là điều đòi hỏi nhiều kinh nghiệm tu chứng tâm linh hơn là sinh hoạt và nghi thức kiểu cách rườm rà, rình rang, học đòi, bắt chước, truyền đạt mau chóng từ người này đến người kia—và thay vào đó chỉ là khát vọng được gần gũi tông chủ Tuệ Trí, được tông chủ đặt cho một cái đạo danh và được gắn cho cái huy hiệu riêng của tông phái nơi vai phải, để hãnh diện rằng mình là đệ tử thuộc dòng Tuệ Trí). Say mê trong hào quang danh vọng của một tông chủ sáng chói đó, Tuệ Trí quên bẵng chuyện quay về núi Linh với sư phụ để được vào cánh cửa Không. Thỉnh thoảng, Tuệ Trí có nghe các đệ tử báo cáo cho biết về tình hình sinh hoạt của sư đệ Tuệ Đức tại một vài nơi hẻo lánh nào đó trong nước. Nghe nhắc Tuệ Đức thì Tuệ Trí nhớ đến núi Linh, nhưng rồi chỉ khoảnh khắc sau đó là chìm ngập vào những công việc khẩn thiết mà các tu viện do mình trực tiếp đảm nhận đòi hỏi, hoặc phải chú tâm nghiên cứu những dự án phát triển tông phái do các môn đồ đề xuất... Bao nhiêu việc phải làm, phải để tâm đến, chiếm hết cả thời giờ tu tập của Tuệ Trí đến độ mỗi lúc Tuệ Trí đăng đàn thuyết pháp hay hướng dẫn các khóa lễ, các khóa thiền tọa đại chúng, chàng cũng chỉ có mặt như một cái xác không hồn để làm và nói những điều đã quen và thuộc lòng, còn tâm trí thì lúc nào cũng bận bịu với các chương trình, các lễ hội sắp tới... Một hôm, Tuệ Đức trên đường hoằng hóa ghé ngang tu viện của Tuệ Trí, bèn nẩy ý muốn vào thăm sư huynh, đồng thời muốn trao đổi với sư huynh chút kinh nghiệm tu học và hành đạo. "Ô, Tuệ Đức đó hả? Vào đi," Tuệ Trí đưa tay ngoắc sư đệ vào, "mấy năm rồi, sư đệ cũng chẳng thay đổi gì hết, nhìn là nhận ra ngay. Này, các con pha trà mời sư chú đi." Tuệ Đức nhìn vào căn buồng phía sau phương trượng, thấy một nhóm người lăng xăng, xì xào, lấp ló, chỉ trỏ mình; chàng e dè theo sự ra dấu của sư huynh, ngồi xuống ở một cái trường kỷ chạm trổ xa cừ bóng lộn. "Sư huynh bây giờ thấy khác nhiều, nếu gặp ngoài đường e rằng đệ nhận không ra," Tuệ Đức nói. "Khác dữ vậy sao? Ha ha. Chắc ta ốm và xanh đi nhiều phải không? Ừ, thì công việc nhiều quá khiến ta như vậy." "Không, huynh đâu có ốm xanh. Mập trắng ra thì có. Phát tướng đấy. Trông sư huynh bây giờ đường bệ hơn xưa nhiều. Sư huynh có nhớ năm xưa cùng đệ đi tham vấn nhiều nơi, cuối cùng là đến núi Linh... lúc đó sư huynh rõ đúng là một tăng lữ khổ hạnh..." "Thôi đừng nhắc chuyện cũ nữa. À này, sư đệ tìm ta có việc gì không? Có cần giúp đỡ gì không thì cứ nói thật. Có cần tu bổ hay xây chùa, đúc tượng, in thỉnh kinh sách gì thì cứ nói, ta sẵn sàng chu cấp tất cả những gì đệ cần." "Không, cám ơn huynh. Đệ đâu có chùa chiền gì đâu mà tu bổ. Chỉ nhân chuyến du hóa vùng này, ghé thăm sư huynh thôi." "Không có chùa? Nói giỡn sao? Thế... lâu nay đệ trú ở đâu?" "Dạ thì nơi nào cần thì đệ đến. Thường thường là ở các chùa vùng quê hẻo lánh, nơi mà Phật Pháp suy yếu hoặc chưa được phát triển." "À, ra thế. Thảo nào trông đệ hãy còn dáng vẻ lam lũ, khổ nhọc như năm xưa. Trà có rồi hả, được rồi, chế ra tách dâng sư chú đi." Có khoảng sáu nữ đệ tử của Tuệ Trí, xếp hàng hai bước ra, người dâng khay trà, người bưng khay tách, người dâng bánh, người dâng quả, hai người cầm quạt đứng hầu hai thầy. Tuệ Đức cảm nghe có gió mát phía sau lưng, quay lại thấy một nữ nhân đang quạt cho mình thì giật thót người đứng dậy, khoát tay: "Mô Phật, tôi không dám, xin miễn cho." Tuệ Trí cười khan: "Thôi, sư chú các con không quen gió lạnh, vào trong đi." Cả bọn nữ nhân kéo nhau vào phía trong. Tuệ Đức hãy còn đỏ mặt, lúng túng chẳng biết làm gì. Tuệ Trí nói tiếp: "Ta cũng định một ngày nào đó trở lên núi Linh. Có lẽ là cuối năm này. Đệ nghĩ sao? Chúng ta cùng đi chứ hả?" "Vâng, đệ muốn theo sau huynh, đâu dám vô phép lên núi trước. Nhưng cuối năm nay thì hơi sớm đối với đệ. Có lẽ phải cuối năm tới." "Sao vậy? Đệ không lập chùa mà, có bận bịu gì đâu?" "Bận bịu thì không rồi, nhưng... đệ cảm thấy là mấy năm nay chưa làm được gì đáng kể, tự nghĩ là chưa đủ công đức để trở lại trình sư phụ." "À, ra thế. Vậy là từ đây đến cuối năm sau đệ sẽ nỗ lực làm thêm công đức. Ta hiểu rồi. Ừ mà sao đệ không đến đây phụ giúp ta một tay để gầy dựng thêm công đức. Cần gì phải đi đâu xa xôi, bụi bặm. Tính đến nay, bốn năm trời, một mình ta đã xây hơn bốn chục caảh chùa, chưa kể các đạo tràng của các môn đồ mọc lên khắp nước, phải kể đến số ngàn. Đồ chúng theo ta tu học thì có thể tính bằng số vạn. Công đức ấy... ôi, nhiều quá, kể sao hết. Ta đây mà có người phụ tá như đệ thì công việc hẳn là tiến hành nhanh chóng và tốt đẹp hơn." "Không dám, xin sư huynh miễn thứ cho, đệ còn có những Phật sự phải làm ở vùng quê đã dự tính trước. Đệ chỉ ghé thăm sư huynh để học thêm kinh nghiệm hành đạo của sư huynh mà thôi." "Kinh nghiệm ư? Ừm, để coi nào. Lâu nay ta chỉ làm, chẳng bao giờ để ý chi cái kinh nghiệm. Nói đại khái thì phải có một thuyết lý gì đó mới lạ để thu phục số đông. Thuyết lý đó cũng cần cái phong cách nổi bật của chính mình để phù trợ nữa. Khi quần chúng đã qui phục rồi, ta muốn gì lại chẳng được... Nhưng, ta và đệ khác nhau lắm, ta e đệ không áp dụng được kinh nghiệm của ta đâu. Cái kinh nghiệm ấn tống một cuốn kinh, đúc một tượng Phật, xây một ngôi chùa, thì có thể chỉ bày cho nhau được, chứ kinh nghiệm sáng tác thơ văn, tư tưởng và biện tài thuyết giáo... nó thuộc về tài năng thiên bẩm, làm sao ta có thể truyền dạy đây?" "Thưa không, đệ chỉ xin sư huynh một bài kệ, một câu thơ gì đó thôi, cũng đủ làm hành trang cho đệ trên đường chu du rồi." Tuệ Trí bật cười lên một tràng: "Thơ, kệ à? Ừm, để coi, lâu nay ta cũng ít sáng tác vì bận quá. À, để ta đọc đệ nghe mấy câu thơ cũ của tiền nhân, được chứ hả? Coi nào, đệ hỏi đột ngột quá, ta chưa kịp nghĩ câu nào có thể thích hợp để đọc cho đệ. Nhớ rồi, bốn câu thơ này của Thiền sư Ngộ Ấn, ta vẫn thường đọc cho các đệ tử nghe: Diệu tính hư vô bất khả phàn Hư vô tâm ngộ đắc hà nan Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận Liên phát lô trung thấp vị càn. Đệ từng nghe bài đó chưa? Hiểu chứ hả? Thôi để ta đọc luôn bản dịch của ta cho đệ: Diệu tính hư vô khó nghĩ bàn Một khi liễu ngộ còn khó chi Ngọc thiêu trên núi màu vẫn sáng Sen đốt trong lò sắc thêm tươi. Độc đáo quá hả? Nói thiệt đệ nghe, bài thơ ấy làm cho ta thêm tự tin khi dấn thân vào chốn bụi hồng để hoằng truyền chánh pháp. Sao? Đến giờ hành lễ rồi à? Được rồi, thầy sắp xong rồi. Hay là sư đệ cùng ta hành lễ rồi sau đó đàm đạo tiếp?" "Thưa không, thỉnh sư huynh đăng đàn, đệ chỉ ghé thăm, được sư huynh cho nghe bốn câu thơ, tưởng cũng đủ lắm rồi, không dám phiền sư huynh nữa. Đệ xin cáo." * Cuối năm sau, Tuệ Đức lại ghé đạo tràng của Tuệ Trí để cùng sư huynh lên núi Linh thì nhằm lúc Tuệ Trí đang bận lo buổi lễ kỷ niệm đệ tứ chu niên ngày thành lập tông phái của Tuệ Trí. Đồ chúng tụ tập quá đông, khiến Tuệ Đức phải khó nhọc lắm mới vào đến được phương trượng để gặp sư huynh. Thấy sư huynh bận rộn với ngày lễ, Tuệ Đức cáo lui, đi bộ hơn một dặm đường mới tìm được chỗ vắng vẻ, có bóng mát, dưới một gốc đại thụ, lánh xa được đám đông ồn ào lễ hội. Ba ngày sau, Tuệ Đức mới quay trở lại tu viện của Tuệ Trí để mời sư huynh cùng lên núi. Tuệ Trí nói: "Sau ngày lễ, ta không được khỏe lắm, nhưng ta sẽ đi với đệ. Nhất quyết là phải đi. Tạm thời gác mọi công việc sang một bên cái đã. Giấc mộng của anh em mình xưa nay làm sao nguôi nguây được, phải không? Này, đem y áo của thầy ra đây. Thầy có việc phải vắng mặt một thời gian, mọi việc trong tu viện thầy đã giao cho sư cô Diệu Bảo thay thầy đảm trách, bây giờ thầy phải đi với sư chú lên núi lạy sư ông của các con." Đám nữ nhân đệ tử Tuệ Trí xúm xít quanh thầy tỏ vẻ bịn rịn, quyến luyến dữ lắm khiến Tuệ Trí cũng nao lòng. Nhưng rồi chàng cũng mạnh dạn lên đường. Đám đệ tử định che lọng, rước kiệu tiễn đưa tông chủ Tuệ Trí đến tận chân núi nhưng chàng xua tay bảo thôi, chỉ cho phép sáu nữ đệ tử thân tín tháp tùng. Tuệ Đức thấy vậy thì nhíu mày, tỏ ý không bằng lòng. Tuệ Đức thưa nhỏ với sư huynh: "Huynh bảo họ ở lại tu viện chứ đi theo làm gì cho vướng bận. Sư phụ chẳng vui đâu. Hơn nữa, nếu sư phụ mở đường cho chúng ta vào cửa Không thì sư huynh cũng đâu có mang họ theo được, không lý bắt họ ở dưới chân núi chờ hoài?" "Ôi, đệ cố chấp quá làm sao giải thoát được. Ta đã đọc cho đệ nghe bài thơ của thiền sư Ngộ Ấn rồi, không lẽ đệ chẳng thấm nhập gì hết sao? Đi. Đừng nói nhiều." Vậy là hai huynh đệ lên đường, có sáu đệ tử lẽo đẽo theo sau. Đường đến núi Linh vào mùa đông hơi lầy lội vì đã có nhiều cơn mưa trước đó. Đến bìa rừng, muỗi vắt ào ào bu đến, đám đệ tử la khóc eo éo. Tuệ Trí phải dừng chân chăm sóc, khuyến dụ. Vậy mà rồi họ vẫn không bỏ ý định đi theo Tuệ Trí đến tận chân núi. Có thêm đoàn tùy tùng này, con đường đến núi Linh đối với Tuệ Đức như dài thêm gấp mười lần vì đi một đoạn đường lại cứ phải cùng sư huynh đứng lại chờ đợi sáu người kia. Sau một ngày đường vất vả, cuối cùng, đoàn người cũng đến được chân núi. Tuệ Trí dặn dò đám đệ tử: "Thầy cùng sư chú lên núi. Các con cứ chờ ở đây. Sáng mai nếu không thấy thầy trở xuống thì các con tự động trở về tu viện, tạm thời nương sư cô Diệu Bảo mà tu học. Khi nào xong việc thầy sẽ xuống núi, tiếp tục hướng dẫn các con." Tuệ Đức đứng chờ sư huynh dặn dò, rồi thêm chuyện đệ tử tác bạch tiễn đưa, thề ước, thưa bẩm, gởi gắm, nhắn nhủ, bịn rịn tình nghĩa thầy trò cũng mất cả nửa giờ. Đến khi mặt trời sắp sửa khuất sau núi Linh rồi, hai huynh đệ mới bắt đầu cất bước. Sư phụ ngồi trên bồ đoàn, hai huynh đệ sụp lạy. Xong, Tuệ Trí thưa: "Bạch thầy, năm năm qua con vâng lời thầy xuống núi đã thực hiện nhiều Phật sự, tạo nhiều công đức. Nay xin thầy từ bi hoan hỷ mở cánh cửa cho con bước vào nhà Không của Như Lai." Tuệ Đức chỉ quỳ chắp tay, lặng thinh. Sư phụ gật gù hỏi: "Phật sự của các con làm thầy có biết. Nay thầy chỉ muốn nghe các con trình bày ngắn gọn một câu thôi mà tóm thâu tất cả những gì trong năm năm vừa qua. Tuệ Đức con nói trước đi." Tuệ Đức cung kính thưa: "Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh không rời một khoảnh khắc." Tuệ Trí nghe vậy cũng muốn bật cười lên, nhưng chưa kịp cười thì sư phụ đã hỏi đến mình. "Tuệ Trí, con nói đi." Tuệ Trí bèn thưa: "Trên đầu sợi tóc mỹ nhân, thấy sự mầu nhiệm linh thiêng của thế giới hoa tạng; ngày đêm ăn ngủ nói cười mà vẫn cùng Phật Tổ sánh vai không rời một bước." "Sở học cao thâm, ngữ khí trượng phu lắm. Nhưng, đối với ái dục thì sao, nói ta nghe, Tuệ Trí?" "Có vướng cũng không bận," Tuệ Trí tự tin đáp. Sư phụ quay qua Tuệ Đức: "Đối với ái dục con thế nào?" Tuệ Đức thưa: "Lặng trong không vướng, không bận." Sư phụ im lặng rời bồ đoàn đứng dậy, bước ra sân. Hai đệ tử cũng bước theo. Sư phụ quay lại nói: "Cửa Không đã sẵn mở, các con bước vào đi." Tuệ Đức hốt nhiên đại ngộ, tươi sáng nét mặt, cúi lạy thầy rồi ung dung bước thẳng lên đỉnh núi, thoáng chốc là biến mất trong lớp mây mù. Trong khi đó, Tuệ Trí hãy còn phân vân, nghi ngại; vừa tính dợm chân bước thì thấy nặng trì ở dưới gót chân phải, như đeo phải đá, không sao cất lên nổi. "Bạch thầy, sao lại có chuyện lạ như vậy? Chân con, không biết sao, kỳ cục quá, không cất lên được..." Vừa nói đến đó bỗng thấy Tuệ Đức từ trên núi lướt xuống. Thân hình cục mịch nhà quê của Tuệ Đức lúc này trông nhẹ như mây. Lướt ngang chỗ sư phụ và sư huynh, Tuệ Đức chắp tay vái chào rồi bay thẳng xuống núi. "Tuệ Đức, đi đâu vậy? Bạch thầy, sao Tuệ Đức lại xuống núi, chẳng lẽ trên đó không có gì hết sao?" "Hoa tạng thế giới của con đâu mà giờ này còn hỏi? Đã cùng với Phật Tổ sánh vai thì cần gì phải tìm Phật tìm Tổ trên núi! Kiến tánh thành Phật rồi thì ra vào tự tại, có cánh cửa nào có thể ngăn ngại được đâu. Cửa Không có bao giờ đóng đâu mà phải cần thầy mở. Kiến tánh rồi thì tự khắc thấy đường đi thôi. Tuệ Đức thong dong được là do lẽ đó." Tuệ Trí bấy giờ mới thức ngộ, bật khóc. Bao nhiêu danh từ và chương cú hoa mỹ về Phật, về Thiền, về Hoa Nghiêm, về Bát Nhã, về Lăng Già, về Như Lai Tạng Tính... mà lâu nay chàng từng sử dụng, bây giờ mới thấy chỉ là những cụm từ rỗng tuếch, không dính nhập gì đến thực tại tối hậu. Sư phụ thương cảm, nói lời an ủi: "Căn tính con thông tuệ, nhạy bén hơn Tuệ Đức rất nhiều. Trí tuệ là khí giới tối hảo để đạt đến đạo quả giác ngộ; nhưng từ nhiều năm nay, con chưa hề tạo được một công đức nhỏ nào cả. Tất cả những gì con làm ở thế gian, đều chỉ là những manh động của dục vọng, làm sao tạo nên được công đức! Phước Đức và Trí Tuệ giống như đôi chân của con vậy, phải đủ cả hai và phải cùng song hành, không thể thiếu một mà có thể bước đi được," vị thầy ngưng một lúc, thở dài nói tiếp "à, con có nhớ những lời đơn sơ của Tuệ Đức không? Quy y Phật, Pháp, Tăng. Tại sao? Vì quy y Phật là trở về với thể tính thanh tịnh, đoạn trừ tất cả những tham dục, cấu bẩn; quy y Pháp là trở về với trí tính vô biên, đoạn trừ hết những si mê, cố chấp và lòng kiêu ngạo; quy y Tăng là trở về với tự tính hòa hợp bình đẳng, trừ bỏ những lòng hận thù, ganh ghét... Không có trí tuệ siêu việt nào có thể bừng vỡ trên mảnh đất còn tràn ngập những tham, sân, si và các phiền não căn bản. Cho nên, theo ý thầy thì con nên ởœ lại đây, nỗ lực tu tập thêm một thời gian nữa; hay con muốn tiếp tục trở về với tu viện dưới núi của con thì tùy ý, nhưng dứt khoát là dù ở đâu, cũng phải dẹp hết những thứ phiền não linh tinh từng quấy nhiễu phá rối tâm con thì may ra mới vào được cánh cửa Không ấy." Tuệ Trí lạy tạ ơn thầy chỉ dạy rồi đứng dậy, phân vân một lúc, nhớ rằng sáu đệ tử của mình đang chờ đợi dưới núi. Tuệ Trí quyết định từ giã thầy, lủi thủi cúi mặt bước xuống núi, nhưng được nửa đường thì đứng lại. Tưởng tượng mấy chục ngôi chùa và hàng trăm đạo tràng với bao nghi lễ rình rang xôm tụ đang chờ đón mình bên dưới, rồi nhớ đến cả lô học giả trí thức bày trò đốn ngộ chứng Thánh, mở miệng là nói thiền ngôn mật ngữ nhưng chưa bao giờ nếm được một giọt nước nhỏ trong đại dương giải thoát, rồi nghĩ đến đám nữ nhi phàm tục dễ sa nước mắt quấn quít nhõng nhẽo đêm ngày... Ôi, sao mà rỗng tuếch, vô vị, cho dù có thêm triệu năm nữa để đóng kịch và bày trò, cũng chẳng một mảy may nào trong những thứ ấy có thể vói đến được cánh cửa huyền vi của ngọn núi Linh này. Tuệ Trí còn nhớ có một ông lạt-ma Tây Tạng hứa sẽ dạy chàng về pháp đằng vân (cỡi mây) với điều kiện chàng phải xây cho ông ấy một tu viện nguy nga tận xứ Tây Tạng và chàng đã hứa sẽ sắp đặt thời gian rảnh để học phép thuật này. Bây giờ, chàng thấy cũng không cần thiết nữa. Cho dù có học được phép cỡi mây, cỡi gió đi khắp nơi thì cũng chỉ lẩn quẩn trong vòm trời hữu hạn của trần gian, không làm sao lọt vào được cõi Không bát ngát thênh thang mà chàng hằng ôm ấp. Tất cả những thứ kể trên, ngay lúc này, chàng thấy không còn cần thiết nữa. Chàng đứng im một lúc ở lưng núi khi trời đang tối dần. Trong khi sáu nữ đệ tử của Tuệ Trí từ chân núi nhìn lên thấy núi Linh mây phủ mờ mịt, gợi lên bao huyền thoại kỳ bí xa xăm thì ở lưng núi, Tuệ Trí cũng quay đầu ngước nhìn lên núi cao, trong mắt chàng lúc ấy, mây mù đã tan sạch, đỉnh núi Linh cao vợi lần đầu tiên hiện ra sừng sững giữa trời tây trong vắt. Thực sự là không còn một huyền thoại hay một kho tàng mầu nhiệm nào đáng để tìm cầu khám phá nữa. Chàng bật lên một tràng cười sảng khoái, rồi đi ngược lên núi, tìm sư phụ, bắt đầu cuộc hành trình đi vào cửa Không. Vĩnh Hảo
  17. Tặng các bạn một bức thư pháp mà tôi cho là đẹp: Đây là chữ "Kim bằng hội ngộ". Nét chữ khoáng đạt, thanh thoát.Vùng nét đậm, nhạt hài hòa cân đối tôn tạo cho nhau khiến cho chúng ta cảm giác như nhìn một bức tranh thủy mặc mà nội dung tranh được miêu tả bằng chữ và đường nét của nó. Thật tức cười! Có nhiều kẻ đứng trước những bức tranh thuộc các trường phái tân ấn tượng, trừu tượng...như của Picasso thì nức nở khen đẹp, cũng sổ ra một tràng những thuật ngữ mỹ học cứ như là người uyên bác, biết thưởng thức tranh. Khiến cho những kẻ thất học dốt nát cứ ngẩn cả người vì bản thân mình nhìn thì chẳng thấy đẹp ở chỗ nào. Tôi nhớ một kỷ niệm hồi mới lớn. Ngày ấy, khi học xong phổ thông trung hoc, lớp tôi tan tác, mỗi đứa một nơi.Mỗi thằng một mảnh đời khác nhau. Nhưng chủ nhật nào, chúng tôi cũng tụ tập lại nhà một thằng nói phét đủ mọi chuyện trên đời. Một số thằng trong bọn tôi rủ nhau đi học hội họa, trong đó có thằng Trường Ninh. Bởi thế cứ mỗi lần tụ tập thì thằng Ninh lại ba hoa về hội họa. Lúc thì nó phân tích vẻ đẹp của mỹ thuật Phục hưng với tỷ lệ vàng, cái tuyệt mỹ trong tranh La Giocong của Leonardo Devinci. Rồi nó bàn về các trường phái tranh hiện đại bên Tây thao thao bất tuyệt....cứ y như nhà bình luận mỹ thuật thứ thiệt. Có một lần, bọn tôi thấy cái khay gỗ giả sơn mài của thằng chủ nhà bị tróc sơn thành những vết loang lổ, bèn bàn nhau nẩy ra một ý định tinh nghịch. Thằng Tường treo cái khay gỗ lên tường giả làm bức tranh mới mua thế bức tranh cũ. Nó dặn: "Lát nữa thằng Ninh đến chúng mày cứ lờ đi làm như đang thưởng thức bức tranh của tao và đừng nói gì cả nhé!". Lát nữa thằng Ninh đến thật. Cả bọn tôi lờ đi làm như đang mải mê ngắm tranh cứ coi như không thấy nó đến. Thằng Ninh thấy vậy cũng chẳng thèm chào hỏi ai. Nó lại gần "bức tranh" ngắm nghía, rồi lùi ra xa, rồi cũng gật gù: "Đẹp!". Ninh phát biểu đầu tiên. "Đây chính là một bức tranh vẽ theo trường phái tân ấn tượng. Một bức tranh miêu tả mùa thu lá thu rơi trong đêm!". Bọn tôi cố nhịn cười, vài thằng cũng gật gù ra vẻ thừa nhận khám phá mới của một thiên tài. "Đây, chính cái nền đen này (Đó là sơn ta lót nền, tất nhiên nó đen) biểu thị một màn đêm sâu thẳm, không hề có chút tỏa sáng. Có thể nói đó cũng phản ánh nội tâm của con người. Hay! Rất hay! Những mảng mầu hồng nhạt loang lổ trên tranh (Đó là lớp sơn bì bị tróc trên cái khay) chứng tỏ một nội tâm thức tỉnh, giằng xé. Cũng có thể coi đó là những nét miêu tả lá thu rơi trong đêm, hay là một sự lóe sáng của tâm hồn!...". Chợt thằng Tường thốt lên: "Ơ cái khay nước ở đây đâu mất rồi!". Một thằng khác chỉ lên tường: " Cái thằng mắc dịch nào nó treo lên tường kìa!". Thằng Tường lấy "bức tranh" xuống: "Thôi xin mời ngồi uống trà đi! Đây là cái khay nước của nhà tao đấy! Cha nội!". Nhưng có điều là thằng Ninh vẫn cản không cho thằng Tường đặt bộ trà vào khay. Nó bảo: "Đừng! Chúng mày đừng! Đây chính là một bức tranh trừu tượng được tạo ra một cách tự nhiên! Nghệ thuật chính là sự rung cảm của tâm hồn trước vẻ đẹp cùng đồng cảm. Chúng mày coi đây là cái khay nước tróc sơn. Nhưng tao lại coi là bức tranh của tự nhiên và con người vô tình tương tác tạo ra nó. Tao cần bức tranh của tao. Tao lấy cái khay nước này về để thả hồn tao trong đó. Con cóc đực đang chê con người trụi thùi lụi, láng bóng thấy mà ghê. Đối với nó, con cóc cái đẹp hơn cả hoa hậu đấy!". Thằng Ninh tuy bị bọn tôi đem ra làm hề (Chúng tôi hay đem nhau ra làm hề để cười cho đỡ buồn), nhưng trong cái nhìn của nó có tính nhân bản. Thằng Tường cho thằng Ninh cái khay. 40 năm trôi qua, không biết thằng Ninh còn giữ cái khay này không. Nhưng tôi nghĩ nó nói đúng: "Thưởng thức nghệ thuật là do sự rung cảm phủ hợp với tâm hồn mỗi con người!". Bởi vậy, tôi tôn trọng những vẻ đẹp mà con người tao ra nó: Đó là những bức thư pháp Việt. Thiên Sứ
  18. Ngày 16/ 6 dọn nhà theo cách của tôi cũng tốt. Còn tháng 10 để tôi xem lại đã. Thiên Sứ
  19. Chuyện này cũng không nằm ngoài dự báo của Thiên Sứ. Tôi cho rằng mọi chuyện chỉ kết thúc vào khoảng tháng 8/ 9 Âm lịch. Còn bây giờ kinh tế toàn cầu trong đó có Việt Nam đang trong cơn bão.Thiên Sứ
  20. Trong "Sự tích sông Nhà Bè" cũng nói đến một nơi tương tự như chợ Âm Dương trong bài viết này. Nhưng địa danh Nhà bè ở miền Nam và đến nay tôi chưa biết ở trong này địa điểm tương tự như chợ Âm Dương có hay không? Tuy nhiên điều này cho thấy những giá trị văn hóa phi vật thể Việt vẫn có một sức sống mạnh mẽ trong dân gian. Hiện tượng chợ Âm Dương này cho thấy người Việt đã có một quan niệm về cõi Âm từ rất lâu rồi. Cảm ơn Phoenix. Thiên Sứ
  21. Xem bài viết trên tôi lại ngậm ngùi. Cứ cái gì của Hán mới là hay, còn của Việt thì lại có người nhẩy ra chê bai, cho là bôi bẩn chữ Việt thế này thế nọ. Đã vậy lại còn :"Xin đừng bôi bẩn chữ Việt!" ? Híc! Vậy thì không muốn bôi bẩn chữ Việt thì cần thay chữ Việt bằng chữ Hán chăng?! " Xin đừng bôi bẩn chữ Việt" - nếu sau lời nói đó mà có đưa ra một phương pháp gì , sáng tạo nhằm tôn vinh chữ Việt thì hay quá! Tôi cám ơn! Vì tuy vậy nhưng cũng còn được việc. Tiếc thay , đắng này lại chỉ khen thư pháp chữ Hán mới là thư pháp. Đây! Mời xem kỹ lại đoạn này: Tổ tiên hào hùng trải gần 5000 năm văn hiến bị bôi nhọ trở thành một đám "ở trần đóng khố" với vua Hùng tổ tiên của dân tộc Việt thành một người thậm chí không có áo che thân gọi là nhân danh khoa học thì những "kẻ sĩ" chê thư pháp Việt biến đi đâu mất cả. Đã vậy, không thiếu gì kẻ hùa theo "gật gù" cho là khoa học!? Hỏi khoa học là gì? "Khoa học là rửa tay trước khi ăn cơm, không uống nước lã. không ăn quả xanh" và căn bản là:"Khoa học tức là không có ma". Gặp người có công tìm tòi sáng tạo để làm nên Thư Pháp Việt thì bày đặt chê bai, nói chữ. Mèo tha miếng thịt thì đòi Hùm tha con lợn thì ngồi trơ trơ. Ấy là ông cha ta bảo thế. Có một lần, một giảng viên trẻ trường Cao đẳng Mỹ Thuật đến nhà tôi thấy tôi treo mấy bức thư pháp Việt, bèn tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi tôi: "Anh mà cũng treo mấy thứ này à?". Tôi biết anh ta có ý chê trình độ thẩm mỹ của tôi kém cỏi, không biết mà treo thư pháp Việt! Tôi nể vợ anh ta cùng đi đã sinh hoạt với tôi trên mạng, nên trả lời cho qua: "Ừ! Tại vì mấy người bạn tặng nên treo làm kỷ niệm". Thực ra tôi rất trân trọng thư pháp Việt và cũng còn hoài nghi khả năng nhận thức của một vị giảng viên Cao Đẳng mỹ thuật khi nhận xét bức tranh dân gian về Hai Bà Trưng là tranh "Cưỡi Voi", trong khi đó chữ "Trưng" viết bằng lối chữ Triện to và chiếm diện tích không gian của một góc tư bức tranh thì lờ đi không nói đến! Cái chữ Tàu loằng ngoằng như cua kia trải cả hàng ngàn năm chỉnh chu, mới tạo được nhưng nhà Thư Pháp Hoa hạ tài ba. Thì nay, chữ Quốc Ngữ Việt cần thứ nghiệm sáng tạo thư pháp thì cũng phải cần thời giạn của nó. Cái gì đâu mà không đọc được? Trân trọng nền văn hóa của dân tộc khác nhưng đừng vì thế mà phủ nhận những giá trị của nền văn hóa Việt. Ngày xưa, ông nội tôi là một nhà Thư Pháp Tàu và đã viết theo lối chữ Lệ bằng loại bút lông cỡ đại rất độc đaó khiến cho những nhà cựu nho phải đến xin chép lại bằng giấy can. Nhưng vì ông tôi làm quan, nên không sống trong giới thư Pháp và cũng ít viết. Hơn nữa trong thời tàn nho, Tây học nên cũng chẳng ai chú ý. Tuy nhiên, tôi hy vong di bút của ông tôi vẫn còn được gia đình tôi giữ được, tôi sẽ chụp ảnh đưa lên đây để xin mấy bậc "cao nhân" từ 1m 7 đến 1m 75 chê thư pháp Việt phân tích được vẻ đẹp và tính độc đáo của lối viết của ông tôi. Tôi thì cũng dốt thư pháp, nhưng ngồi nghe các bậc cựu nho cỡ cử nhân, phó bảng nhâm nhi ly rượu ngắm nghía, khen ngợi nên cũng hiểu chút đỉnh.Tất nhiên nói thế tức là tôi cũng võ vẽ biết chút đỉnh về thư pháp Tàu. Và chính vì vậy, tôi hiểu được vẻ đẹp của thư pháp Việt. Tôi chân thành cảm ơn ai đó - vô danh - đã khởi đầu sáng tạo nên nền thư pháp Việt dù đang ở giai đoạn sơ khai. Nhưng thôi. Cũng đành ngâm ngùi mà than rằng: "Cái thói đời nó vẫn thế!". Vào nhà hát nghe Đăng Thái Sơn biểu diễn Piano thì ai mà chẳng vỗ tay! Chí ít cũng theo phép gọi là lịch sự. Gặp thằng ăn mày thì cũng lắm kẻ chê bai. Đời cũng thiếu gì kẻ thấy người ta "Nói sao thì bào hao làm vậy". Xin đừng bày đặt chê bai để tỏ là mình cao. Vì cái sự chê bai thì bất kỳ ai mà chẳng làm được. Híc! Nhưng vẫn xin cảm ơn Hoa Nghiêm đã sưu tầm bài viết này để tôi có chỗ mà bày tỏ ý kiến của mình. Thiên Sứ
  22. Chán nhỉ! Chú chỉ muốn ....vi phạm nội qui diễn đàn ....với mấy thày bà rùa ấy một trận. Híc! Hôm nào bé bảo với mấy con mẹ bói vớ vẩn ấy câu của tiền nhân người Việt dặn lại là: Kẻ nào rẽ thúy chia uyên. Thác xuống âm phủ đầy miền cửu U. Có 10 tầng địa ngục mà xuống tầng thứ 9 thì cũng kinh lắm đấy. Thực ra nam là Dương, Nữ là Âm. Luật Âm Dương khiến Nam Nữ phải đến với nhau để cân bằng Âm Dương. Nhưng trong Âm Dương có Ngũ hành. Sự tương tác của Ngũ hành quyết định thịnh suy hạnh phúc hay khó khăn của gia đình. Bởi vậy, tiền nhân mới lấy quy luật sinh khắc để luận tuổi vợ chồng. Nhưng bản thân tuổi vợ chồng chỉ là một yếu tố phụ. Quan trong chính là con út trong gia đình. Tuổi của nó chính là một tương tác rất quan trọng giúp cho vợ chồng hạnh phúc, giàu có hay khó khăn. Chú đã chứng minh điều này qua luận đề: "Luận tuổi Lạc Việt". Trên thực tế chú cũng đã thống kê hơn 60 tuổi vợ chồng giống chú mà sách cổ gọi là - Nhị cơ hàn. Nhưng thực tế thì chỉ có ba cặp cơ hàn (trong đó có cặp của chú), còn lại gần 60 cặp kia giàu sụ (Có vài cặp còn là đại gia nữa - Chắc là bần tiện so với chủ hãng windo). Chính vì thế mà ông cha người Việt chúng ta đã để lại câu:"Giàu con út, khó con út" để con cháu biết đường sinh nở. Đâu phải như mấy cuốn sách Hán cổ ngớ ngẩn truyền lại thiếu đầu thiếu đuôi. Bởi vậy chú rất tự tin khi phát biểu rằng: Yếu nhau cứ lấy - vấn đề là sinh con phải rất cẩn thận, chon tuổi hợp với mẹ là chính. Cặp của hai bé rất tốt đấy. Nếu chịu chơi, lấy nhau xong chờ đến năm Canh Dần 2010 và Tân Mão 2011, sinh liên tiếp hai đưa rồi nghỉ, chú tin chắc hai vợ chồng ngày càng giàu sụ. Chúc vạn sự an lành. Thiên Sứ
  23. Hi! Hungisu thân mến. Khi diễn đàn và mọi v/d liên quan ổn định thì tôi sẽ đề nghị mở lớp Phong Thủy Lạc Việt lại.Lúc đó sẽ mời Hùngisu tham gia. Nhưng hai con lân chỉ dùng được ở những nơi công quyền. Nhà dân và những nơi không phải công quyền thì dù cấp bộ cũng không dùng được. Thiên Sứ
  24. Con gái tuổi Nhâm Tuất đại lợi tháng 10. Nếu gia đình đồng ý tháng này chú sẽ coi ngày. Thiên Sứ
  25. KIỂM CHỨNG LỜI TIÊN TRI Tin đứng tim đây :( Iran tập trận, bác bỏ yêu cầu của phương Tây 10:13' 08/07/2008 (GMT+7) Các đơn vị tên lửa của lực lượng không quân và hải quân thuộc Vệ binh Cách mạng Iran hôm 7/7 tiến hành tập trận, vài giờ sau khi hải quân Mỹ tuyên bố bắt đầu diễn tập tại vùng Vịnh. Thành viên lực lượng Vệ binh Cách mạng Iran. (Ảnh: Reuters) Cùng lúc đó, tổng thống nước này lên tiếng bác bỏ đòi hỏi của các cường quốc về việc Iran phải ngừng làm giàu uranium "phi pháp". Tuyên bố cho thấy Iran không có dấu hiệu lùi bước trong bế tắc về chương trình hạt nhân gây tranh cãi của nước này. Mục đích tập trận của Iran là nâng cao tính sẵn sàng chiến đấu và khả năng của các đơn vị tên lửa, hãng tin Fars & Mehr đưa tin nhưng không nói rõ nó diễn ra ở đâu. Thông thường, lực lượng vệ binh cách mạng Iran thường tập trận tại vùng Vịnh. Cuối tháng 6 vừa qua, người đứng đầu lực lượng này tuyên bố, Tehran sẽ kiểm soát tàu ra vào ở vùng Vịnh và eo Hormuz nếu bị tấn công. Hải quân Mỹ hôm 7/7 cho hay, hai tàu Mỹ tham gia tập trận cùng với tàu chiến Anh và Bahrain. Trước khi có tin Iran tiến hành tập trận, giá dầu hôm 7/7 giảm hơn 4USD/thùng cùng với những tín hiệu rằng Iran có thể mềm dẻo hơn trong các cuộc đàm phán về chương trình hạt nhân. Tin đồn về một cuộc tấn công nhằm vào quốc gia xuất khẩu dầu lớn thứ 4 thế giới, vì chương trình hạt nhân, đã tăng lên sau một bản tin hồi tháng trước rằng Israel đang diễn tập tấn công. Lo ngại đối đầu về quân sự đã đẩy giá dầu lên cao tới mức kỷ lục. Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad hôm 7/7 nói, Iran sẽ không chấm dứt việc làm giàu uranium vì việc này là nhằm sản xuất điện năng. Tuy nhiên, phương Tây lo ngại đây là một phần trong chương trình chế tạo vũ khí hạt nhân của quốc gia này. Tuyên bố ngày 7/7 là bình luận đầu tiên của ông Ahmadinejad về bất đồng giữa Iran và phương Tây kể từ khi nước này có phản hồi với gói đề xuất mà các cường quốc đưa ra để hạn chế các hoạt động hạt nhân của họ. Chi tiết câu trả lời của Iran không được công bố. "Họ đề nghị hội đàm cùng lúc với đưa ra lời đe dọa và nói chúng tôi nên chấp nhận đòi hỏi bất hợp lý là ngừng làm giàu uranium", ông Ahmadinejad nói với các phóng viên tại Malaysia, nơi ông dự hội nghị thượng đỉnh của 8 nước đang phát triển. Hoài Linh (Theo Reuters) Dự báo của Thiên Sứ Nếu năm nay chiến tranh Iran xảy ra thì Thiên Sứ đoán sai. Chẳng ai muốn nó xảy ra cả. Nhưng nếu chẳng may Thiên Sứ đoán sai thì đây là một cuộc chiến trang ngắn nhất trong lịch sử nhân loại và cũng hiện đại nhất tính từ thời đại ....đồ đá với các chiến binh "ở trần đóng khố" đến nay. Thiên Sứ