Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Về nguyên tắc thì bất cứ một hiện tượng, vật thể, vấn đề xảy ra trong cuộc sống của ta đều ành hưởng tốt hoặc xấu. Vấn đề là ảnh hưởng như thế nào và bằng cách nào thôi. Có thể ứng dụng phương pháp luận tuổi trong trường hợp này như các trường hợp con cái cùng huyết thống với cha mẹ hay không là v/d cần nghiên cứu.
  2. Hi. Nhà nào mà chả có ranh phía sau. Ranh phiá sau chính là cái tường phía sau nhà vậy. Chiều dài của ranh phía sau chính là hai tương hai bên hông nhà. Chia đôi dài này chính là điểm đặt hòn non bộ. Mua ở chợ Hoang Hoa Tham - Bười - Hanoi có 50. 000 đến 150. 000 là cùng.
  3. Sinh con Kỷ Sửu. 2009
  4. Hantannguyet nói chính xác. Nên sinh con năm Quí Tỵ. Nói chung vợ chồng cùng tuồi sinh con năm nào cũng được. Năm xung nẹn là con gái. Năm hợp nên là con trai.
  5. Chứng khoán đi lên, nhà đầu tư vẫn run Vn-Index kết thúc tuần với giá trị 382,51 điểm, cao hơn tuần trước 3,45 điểm, tương đương 0,91%. Tuy nhiên, đốm sáng này quá nhỏ nhoi trong bức tranh ảm đạm, thanh khoản sụt giảm, khối ngoại tăng bán ra cả trái phiếu lẫn cổ phiếu. Những phiên giao dịch vừa qua tiếp tục kiểm chứng sự liên thông lớn giữa chứng khoán Việt Nam và chứng khoán thế giới cũng như các thông tin liên quan tới khủng hoảng tài chính. Dù chỉ có 2 phiên tăng và giảm trong 3 phiên còn lại, Vn-Index vẫn đi lên sau tuần giao dịch vừa qua. Lượng cổ phiếu sang tên đạt trung bình 14,02 triệu cổ phiếu một phiên, giá trị tương ứng khoảng 424,5 tỷ đồng. So với tuần giao dịch trước, tính thanh khoản đã sụt giảm 8,36%, từ đó giá trị giao dịch cũng thấp hơn 7,7%. Bên cạnh thông tin từ thị trường chứng khoán thế giới, việc cách doanh nghiệp niêm yết dần công bố kết quả kinh doanh cũng thu hút được sự quan tâm của giới đầu tư. Đáng chú ý có kết quả khả quan của FPT, HPG, hay HAP khi đều có lợi nhuận thực tế cao hơn chỉ tiêu. Một số doanh nghiệp khác như VNM, TNA,TRC lại cho thấy tác động của khó khăn vĩ mô trong thời gian qua tới hoạt động sản xuất kinh doanh khi kết quả sau quý III chỉ gần chạm ngưỡng 70% chỉ tiêu cả năm. Theo nhận định của Bộ phận Phân tích Công ty Chứng khoán SME, diễn biến của chứng khoán hiện khá bất thường và chưa có xu hướng ổn định. Ảnh hưởng về mặt tâm lý từ diễn biến thị trường thế giới khiến nhà đầu tư nội e dè trước quyết định mua vào, đặc biệt là những ngày giảm điểm. Mất ổn định về tâm lý còn thể hiện ở các phiên tăng điểm mạnh, cung yếu trong khi cầu quá lớn, khiến thị trường mất thanh khoản. Kể từ giữa quý III, diễn biến của Vn-Index bám rất sát các biến động từ thị trường thế giới. Ảnh: vincomsc.com.vn. Công ty SME nhận định thị trường cổ phiếu các nước nói chung và chứng khoán Việt Nam nói riêng về dài hạn sẽ phụ thuộc rất lớn vào sự phục hồi của hệ thống tài chính toàn cầu. Trong ngắn hạn, một số thông tin về doanh nghiệp hoặc kinh tế trong nước có thể có tác động nhất định đến giá cổ phiếu. Khối ngoại tuần qua tiếp tục tăng cường bán ra. Tổng lượng cổ phiếu được đẩy khỏi danh mục của nhà đầu tư nước ngoài là 26,88 triệu cổ phiếu, trong khi số chứng khoán được mua vào chỉ khoảng 12 triệu. So với tuần trước lượng mua của khối ngoại đã tăng 41% nhưng bán tăng 80%. Tại sàn Hà Nội, HaSTC-Index đang có giá trị 125,32 điểm, cao hơn cuối tuần trước 4,5%, tương đương 5,45 điểm. Tổng số cổ phiếu sang tên bình quân mỗi phiên khoảng 7,38 triệu, ứng với giá trị 222,37 tỷ đồng. Giá trị và khối lượng giao dịch giảm lần lượt 23% và 20%. Hoạt động mua bán trái phiếu hết sức sôi động với sự tham gia tích cực của khối ngoại. Trong số 53,54 triệu trái phiếu được khớp, có tới 80%, tương đương 42,6 triệu, là do nhà đầu tư nước ngoài bán ra. Trái lại, lượng trái phiếu được gom chỉ vẻn vẹn 16,6 triệu , 31%. Những con số trên cho thấy, giao dịch trái phiếu và cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài hiện không chỉ đơn thuần là giao dịch nội khối mà phần lớn là nhà đầu tư nước ngoài bán cho nhà đầu tư trong nước. Một chuyên gia chứng khoán nhận định, việc khối ngoại tăng bán tuy là tín hiệu bất lợi cho chứng khoán nhưng cũng là một diễn biến có thể dự đoán được. Hiện khủng hoảng tài đang tàn phá nền kinh tế của nhiều quốc gia nên nhiều quỹ đầu tư rút dần tiền khỏi chứng khoán để đầu tư vào các loại tài sản an toàn hơn. Không chỉ tại Việt Nam mà một số thị trường mới nổi khác như Trung Quốc, Nga cũng chứng kiến dòng vốn ngoại rút dần khỏi chứng khoán để chờ cơ hội khi thị trường chạm đáy. Những gì đang diễn ra tại thị trường trong nước là không quá đáng ngại. Ngoài ra so với quy mô thị trường cũng như lượng vốn đầu tư của khối ngoại vào các doanh nghiệp, lượng bán ra thời gian này vẫn chưa đáng lo. Xuân Hòa
  6. Thiên Huy Tôi đã mang cuốn này từ Hanoi về. Khi rảnh Thiên Huy có thể ghé lấy.
  7. Thiên Sứ viết: Bắt đầu từ tháng 9 Âm lịch đến cuối năm. Những nhà lãnh đạo tài ba trên thế giới sẽ có cơ hội quyết định số phận cho năm 2009 và sau đó. Mỹ sẽ chủ trì hội nghị thượng đỉnh tài chính toàn cầu 10:16' 19/10/2008 (GMT+7) Sau bầu cử Tổng thống Mỹ ngày 4/11, Tổng thống Bush sẽ chủ trì một hội nghị thượng đỉnh quốc tế bàn về các biện pháp ổn định hệ thống tài chính thế giới. Tổng thống Bush và lãnh đạo Âu Châu. Phát biểu tại trại David sau cuộc hội đàm với Tổng thống Nicolas Sarkozy của Pháp - nước hiện giữ chức Chủ tịch luân phiên EU và Chủ tịch Uỷ ban châu Âu (EC) Jose Manuel Barroso, người đứng đầu nước Mỹ cho hay: "Chúng ta sẽ củng cố và đổi mới hệ thống tài chính quốc gia của chúng ta để đảm bảo rằng cuộc khủng hoảng như hiện nay sẽ không bao giờ tái diễn". Tuy nhiên, Tổng thống Bush không tiết lộ ngày giờ lẫn địa điểm chính xác mà cuộc hội nghị sẽ được tổ chức. Tổng thống Pháp Sarkozy thì nói, hội nghị sẽ diễn ra trước tháng 12. "Cuộc khủng hoảng bùng phát ở New York vì vậy giải pháp toàn cầu cho vấn đề này cần phải được tìm ra ở New York", người đứng đầu nước Pháp tuyên bố. Trong thông báo chung được công bố sau chuyến thăm trại David dài hơn 2h30 của ông Sarkozy và Barroso, ba nhà lãnh đạo nói sẽ liên lạc với lãnh đạo các nước vào tuần tới để tổ chức một hội nghị thượng đỉnh ở Mỹ ngay sau khi bầu cử Tổng thống Mỹ diễn ra. Tiếp đó, sẽ là một loạt hội nghị thượng đỉnh tiếp theo để giải quyết những thách thức mà kinh tế toàn cầu đang phải đối mặt. Hội nghị thượng đỉnh đầu tiên sẽ tập trung vào những tiến triển đạt được nhằm giải quyết khủng hoảng hiện nay và "tìm kiếm sự đồng thuận về các nguyên tắc cải tổ cần thiết để tránh khủng hoảng lặp lại và đảm bảo sự thịnh vượng trên toàn cầu trong tương lai". Các hội nghị thượng đỉnh tiếp theo sẽ thực thi thoả thuận theo từng bước cụ thể nhằm đáp ứng những nguyên tắc trên, lãnh đạo Mỹ và EU cho hay. * Hoài Linh (Theo Reuters, AP)
  8. Hãy xem kỹ thông báo tuyển sinh đã.
  9. Cảm ơn Rin86 rất nhiều. Những phát hiện về y phục cổ Việt và sự liên hệ với y phục các dân tộc có nền văn hóa lâu đời của Rin86 thực chất là những phản biện sắc sảo rất có giá trị của cô sinh Viên trẻ Việt - học về thời trang tại Hàn Quốc - đã chứng tỏ cho các vị mang những bằng cấp hoàng tráng - giáo sư - tiến sĩ có quan điểm y phục cổ Việt "ở trần đồng khố" sẽ phải suy nghĩ lại. Nếu họ có chút gì gọi là lương tri về cội nguồn dân tộc và tinh thần khoa học thật sự.
  10. Hùng Vương dựng nước - Tập IV - 7 Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974 Về khái niệm thời Hùng Vương Lê Văn Lan T hế nào và lúc nào là thời Hùng Vương? Thời gian vừa qua, các nhà nghiên cứu, mặc dù đã có nhiều suy nghĩ, nhưng chưa có dịp trực tiếp bàn bạc nhiều về vấn đề này, mà thường chỉ qua cách gọi tên cho quãng thời gian mà mình nghiên cứu, vắn tắt gọi quan điểm của mình, gián tiếp nói quan điểm của mình. Tẩn mẩn sa vào chuyện chữ nghĩa, chúng tôi đã thử thu nhặt những từ mà các nhà nghiên cứu đã chọn dùng để mệnh danh cho quãng thời gian lịch sử mà mình nghiên cứu. Và kết quả là thấy xuất hiện khá nhiều cách mệnh danh khác nhau: thời đại Hùng Vương, thời kỳ Hùng Vương, giai đoạn Hùng Vương, thời kỳ Hùng Vương – An Dương Vương, thời kỳ Hùng Vương và An Dương Vương… Dĩ nhiên, như vừa trình bày, vì chưa có sự bàn bạc, càng chưa có sự quy định cụ thể, nên không thể có sự thống nhất chặt chẽ. Cho nên, có thể dễ dàng thông cảm với một số nhà nghiên cứu đã chọn lấy một cách mệnh danh khá chung chung là “thời Hùng Vương”, với chữ “thời” thật là “cơ động” trong các công trình của mình. * * * Một số không ít tác giả đã cho rằng cách dùng tên Hùng Vương để mệnh danh cho một thời gian lịch sử, với nội dung là toàn bộ “thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên” (1) là một cách gọi tên truyền thống, bây giờ chỉ việc dùng lại. Và cũng không ít người cho rằng cái quan niệm 4000 năm về niên đại của “thời Hùng Vương” như thế cũng là một quan niệm cổ truyền của nhân dân. (1) Thuật ngữ của đồng chí Nguyễn Khánh Toàn. Chúng tôi tán thành cách dùng. Ngẫm kỹ lại thì dường như không hẳn như thế. Chúng ta biết rằng cách tính tháng năm của thời gian lịch sử, phổ biến trong nhân dân thành một truyền thống, là cách tính theo đời, thậm chí cũng không thật cụ thể và chính xác đến con số của đời nữa (2), và ký ức dân gian về cổ sử, thường cũng chỉ tính theo các khái niệm: cổ, rất cổ, thượng cổ…, chứ không mấy khi tính cụ thể đến con số mấy trăm, mấy nghìn năm. Lối ghi nhớ thời gian có tính chất truyền thống dân gian như thế này, một ghi được văn bản phản ánh và ghi giữ, như trường hợp Lĩnh Nam chích quái chẳng hạn, cũng chỉ thấy áng thành một niên đại là “thời quốc sơ” mà thôi, chứ cũng không có con số tháng năm cụ thể. Thấy nói đến số năm tháng cụ thể, chỉ có sử sách. Như ở Đại Việt sử ký toàn thư chẳng hạn, dù Ngô Sĩ Liên đã theo công thức cổ của sử bút phong kiến, mà tính kỹ rằng quốc sử phần bản kỷ, đến đầu nhà Lê là 1634 năm, và ngoại kỷ, cộng 2672 năm, thì cũng chỏ mới gián tiếp gợi lên con số tháng năm chỉ “thời Hùng Vương, chứ chưa tạo nên một lối tính niên đại có giá trị cụ thể và phổ biến. Cho nên, những thơ văn vào loại cổ - thế kỷ thứ 15, thứ 17 chẳng hạn – đề vịnh Hùng Vương, cũng không thấy có việc tính toán đến con số cụ thể của sự lâu đời. Chỉ đến đầu thế kỷ này, với các tác giả như Hoàng Đức Trung, Nguyễn Đình Chuẩn, Lê Hữu Viện… và đặc biệt là Nguyễn Thuận Kế (3), mới thấy phổ biến sự tính toán cụ thể đến con số như “mấy nghìn năm trước” hoặc là “hai nghìn năm lẻ”, “hai nghìn năm sáu trăm năm có lẻ”, và rồi là “nước bốn nghìn năm” (4). (Những con số này hẳn là dựa vào việc phát hiện lại niêm điểm Nhâm Tuất 2879 trước Công Nguyên và sự gợi ý về cách tính niên đại từ thời Ngô Sĩ Liên. Chúng tôi ngờ rằng, theo những tài liệu đang nắm được như bây giờ, thì lối tính niên đại bốn nghìn năm cho “thời Hùng Vương” (5) có lẽ chỉ mới phổ biến vào thời gian đầu thế kỷ này, và cùng chung cái đà với các tác giả này. Đó là những điều kiện mới của trào lưu và sự chuyển hóa tư tưởng, văn hóa đầu thế kỷ 20 đặc biệt là sự phát triển của “tân thư”, “tân học”, “toán pháp” cùng với chủ nghĩa yêu nước đầu thế kỷ 20. Phổ biến mới từ đây, nhưng trong hoàn cảnh đấu tranh lấy lại nước bị mất, vì phù hợp và có lợi trước hết là cho những người yêu nước và cách mạng, rồi đến quảng đại quần chúng nhân dân, nên cách tính niên đại mở nước này mới nhanh chóng truyền bá đi, cho tới chúng ta ngày nay. (2) “Việc ấy dễ đã đến mấy đời”, “Việc ấy đã có từ trước ông cụ mấy đời nhà tôi” – Chúng ta vẫn thường nghe nói thế trong dân gian.(3) Với vế câu đối “Gây dựng trời Nam, nước bốn nghìn năm, nhà có nóc”. (4) Xem thêm Lê Tư Lành: Văn thơ đề Vịnh đền Hùng – Khảo cổ học, Hà Nội, số 3-4, tháng 12-1969. (5) Xin chú ý phân biệt lối tính cụ thể này với quan niệm hoàn toàn đúng đắn của nhân dân ta về sự lâu đời nói chung của thời Hùng Vương. Cái tên Hùng Vương đang quen dùng với ý nghĩa hiện nay, cũng có vấn đề tương tự như thế. Hùng Vương có thể là một ông vua, những ông vua thực, nếu chúng ta biết tách rời cái khái niệm về ông vua thời phong kiến ra khỏi cái tên gọi “vua” đã được phóng từ đấy ngược lên thời Hùng Vương. Vương, Vua – Bua, Bô, Bố, những cái tên gọi đánh dấu từng chặng đường phát triển của khái niệm ấy, mặc dù cũng có lúc thấy được kết ngang lại với nhau, như ở thế kỷ 8 (6), nhưng, theo kết cấu về thực chất là chiều dọc của các chặng đường ngôn ngữ này mà lần lượt lên đến “thời Hùng Vương”, sẽ thấy rõ khái niệm “vua” trùng với “bố”: người đứng đầu một cộng đồng. Sách Lĩnh Nam chích quái cho chúng ta biết rằng người thời Hùng Vương, mỗi khi gặp khó khăn thì dùng tiếng “bố” để gọi người đứng đầu của mình cứu giúp. (6) Trong trường hợp “Bố Cái đại vương”. Từ Vương (Vua) trong Hùng Vương (Vua Hùng) có nghĩa ấy, mà từ Hùng cũng có nghĩa ấy. Suốt mấy chục năm trước đây, và ở diễn đàn sử học Sài Gòn thì tới cả những năm gần đây, người ta đã dẫn toàn bộ công cuộc nghiên cứu thời đại dựng nước và giữ nước dầu tiên của dân tộc vào một ngõ cụt, ngay sau khi mở các cửa của các cuộc tranh luận về chữ Hùng, chữ Lạc. Không theo cái rớp ấy, mấy năm nay, các nhà nghiên cứu chúng ta đã mở những khoảng vấn đề rộng lớn, đồng thời, vẫn tạt qua, xem lại cái cửa cũ về chữ và nghĩa của cái tên Hùng. Dường như là Hùng, gọn lại cũng như Khun, Cun…, đều là tên gọi người đứng đầu một cộng đồng. Hùng Vương, danh hiệu đó, như vậy vừa là phiên âm, vừa là phiên dịch sang chữ Hán, cách gọi tên của những người Việt Nam thời cổ về người đứng đầu, những người đứng đầu của mình (1). Người đó, những người đó, chúng ta đã tìm được những dấu vết gián tiếp và đang hy vọng tìm được những dấu vết trựa tiếp ở những di chỉ và mộ táng trên vùng đất Tổ Phong Châu (Văn Lang) cũ. Cần chú ý là trước khi đi được đến chỗ nhận thức về thực chất những người đó, như vừa trình bày, thì, một lớp mây mù và vàng son của truyền thuyết và thư tịch cổ đã trùm phủ lên những nhân vật ấy. (1) Xem Trần Quốc Vượng: Về danh hiệu Hùng Vương – Khảo cổ học, Hà Nội, số 7-8, tháng 12-1970. Nhưng bây giờ, hãy trở về cách dùng tên Hùng Vương để mệnh danh cho một thời gian lịch sử. Chúng tôi ngờ rằng, với khái niệm thời gian đang được hiểu là nội dung của các tên gọi “thời kỳ” – “thời đại” – “giai đoạn” Hùng Vương hoặc “Hùng Vương – An Dương Vương” như hiện nay, chúng ta đã thống nhất mở rộng cái khái niệm thời gian mà các nhà nghiên cứu trước đây đã hiểu về “thời Hùng Vương”. Mọi người đều biết, chính sử của ta, từ Đại Việt sử ký toàn thư trở đi, dù là đặt ở ngoại kỷ hay tiền biên, thì cũng đều mở đầu bằng một kỷ, gọi là kỷ Hồng Bàng thị. Chính trong cái kỷ đầu tiên dài đến hơn hai nghìn năm đó của quốc sử, nắm gọn một khúc thời gian là “thời Hùng Vương”. Người xưa, có đôi lúc lẫn cái “thời Hùng Vương” với cái kỷ Hồng Bàng kia (2), nhưng về cơ bản, “thời Hùng Vương” vẫn chỉ được coi là một phần sau của thời Hồng Bàng, thậm chí, có trường hợp còn được xác định rạch ròi tên gọi là “thời Á Hồng Bàng” như ở một câu đối cổ giữa Chùa Tổng, làng Tứ Xã (Vĩnh Phú) (3). Như thế, rõ ràng cái tên gọi “thời Hồng Bàng”, trước đây vẫn được hiểu là một thời lớn hơn, trùm lên “thời Hùng Vương”. Và cái “thời Hồng Bàng” đó mới là cái tên gọi của toàn bộ thời đại dựng nước vá giữ nước đầu tiên của chúng ta. Có thể thấy cái “truyền thống” gọi tên như thế vẫn tồn tại mãi cho đến năm 1967 (4). Còn việc dùng tên Hùng Vương để mệnh danh cho toàn bộ thợi đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của lịch sử ta, dường như chỉ mới trở nên phổ biến trong vòng vài ba năm nay, do sự chuyển khái niệm, mở rộng nội dung, gần như là không tự giác của các nhà nghiên cứu bây giờ. (2) Ví như các tác giả những bản thần phả thời Lê sơ, mà trong đó đã xác định được “vai trò quan trọng” của các nhà hàn lâm Nguyễn Bính, Nguyễn Cố, v.v… cố gắng tạo cho các vua Hùng những tuổi thọ hàng mấy trăm năm để khớp với cả cái thời Hồng Bàng mà chuyện gốc – cái niên điểm mở đầu: Nhâm Tuất 2879 – lại cũng do chính người cùng thời với họ tạo ra.(3) “Thời Á Hồng Bàng, thiên dân hóa dân thành thịnh ấp”. (4) Chẳng hạn như thấy ở lời kêu gọi: Nên nghiên cứu vấn đề hời đại Hồng Bàng của tạp chí Nghiên cứu lịch sử, cũng như ở Vài suy nghĩ về việc tìm hiểu thời đại Hồng Bàng của Nguyễn Linh. * * * Cùng với việc mở rộng thời gian thực tế của “thời Hùng Vương”, hay đúng hơn là việc chuyển khái niệm “thời Hùng Vương” như vừa trình bày, các nhà nghiên cứu hiện nay còn làm một việc quan trọng hơn, là chuyển trọng tâm nghiên cứu, từ chỗ chỉ về những ông “vua”, thậm chí chỉ mới về những tên gọi của những ông vua đó, ra thành cả xã hội, con người và văn hóa (văn minh) của một thời đại mang tên những ông “vua” đó. Và như thế, vấn đề đầu tiên phải giải quyết là xác định thời gian tồn tại cụ thể của thời đại đó. Như đã có dịp trình bày (1), trước hết là từ những tài liệu truyền thuyết và thư tịch mà chúng ra đã có một khung thời gian về “thời Hùng Vương” mà từ lâu, đã có không ít người – từ những sử quan trong Quốc sử quán triều Nguyễn đến Trần Trọng Kim và Nguyễn Phương – đều tỏ ý nghi ngại. (1) Xem Lê Văn Lan: Tài liệu khảo cổ học và viện nghiên cứu thời đại các vua Hùng, - Nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội, số 124, tháng 7-1969. – Trở lại vấn đề văn hóa Đông Sơn, - Khảo cổ học, Hà Nội, số 3-4, tháng 12-1969. – Về một khung niên đại hợp lý cho thời đại các vua Hùng, - Hùng Vương dựng nước, tập III, Hà Nội, 1973. Thật ra thì không phải chỉ có một, mà là hai khung thời gian theo tài liệu thư tịch, nhưng sự quá tập trung chú ý vào cái khung thứ nhất của Đại Việt sử ký tòan thư đã khiến cho, một thời gian dài, người ta tưởng như không có cái khung thứ hai của Đại Việt sử lược. Về cái khung niên đại bắt đầu từ năm 2879 trước Công nguyên cho “thời Hùng Vương” (tên gọi đúng, trong trường hợp này, là “thời Hồng Bàng”) của Đại Việt sử ký tòan thư, chúng ta đã thấy rằng chính là trong không khí tự cường thắng lợi giành lại độc lập ở thế kỷ thứ 15, muốn chứng minh về nguồn gốc lâu đời và ngang bằng với Trung Hoa phong kiến, tiền nhân ta ở thời Lê sơ đã tham bác sử sách đời Đường đời Tống với truyền thuyết dân gian của ta, dựa vào mối quan hệ thực tế đã có từ rất lâu đời giữa Việt Nam và miền Hoa Nam, nhào nặn theo ý muốn chủ quan của mình để tạo ra những sự kiện và niên đại của buổi đầu thời Hồng Bàng, mà rồi nối ngay sau đấy là thời Hùng Vương (1). Chúng ta lại cũng đã thấy rằng có một vạch cương giới thực tế đã ngăn đôi hai vấn đề và thời gian mà người thời Lê sơ đã gắng gượng nhập làm một. Sau và trước cái ranh giới đó: một bên là thời gian và những nhân vật nửa thần thoại nữa lịch sử là Hùng Vương mà bây giờ chúng ta đã làm cho tính lịch sử đè át tính thần thoại, và một bên là thời và nguồn gốc hoàn toàn thần thoại của những nhân vật nửa thần thoại nửa lịch sử đó (2). Ý nghĩa có thể khai thác của sự việc này là: nếu chúng ta chưa thể ghi nhận được phần đầu khung niên đại của Đại Việt sử ký tòan thư (tức là đầu thời Hồng Bàng) do chỗ thiếu cơ sở vững vàng ngay trên những tư liệu sử học, thì lại có thể tin được ở phần sau khung thời gian đó (cuối thời Hồng Bàng, tức chính là thời Hùng Vương). (1) Xem thêm Nguyễn Linh: Phải chăng Hùng Vương thuộc giòng dõi Thần Nông? – Nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội, số III, tháng 6-1968.(2) Về quãng thời gian và vấn đề này, nếu trong dân gian còn lưu hành những mẫu đề văn học dân gian có tính chất truyền thống của dân tộc là “một bọc trăm trứng” và “mẹ chim (đất, núi, Âu Cơ) – bố rồng (nước, biển, Lạc Long)” thì các nhà trí thức phong kiến đã chuyển sang nói bằng ngôn ngữ của văn hóa phương Bắc (gồm chữ và hình tượng): Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân… Xem thêm Cao Huy Đĩnh: Hình tượng khổng lồ và tập thể anh hùng dựng nước giữ nước trong truyện cổ dân gian Việt Nam, trong Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam, Hà Nội, 1971. Có thể từ chỗ này mà nhận xét thêm về giá trị của khung niên đại bấy lâu vẫn chưa được nhiêu người chú ý, là khung niên đại của Đại Việt sử lược. Cuốn sách cổ hơn Đại Việt sử ký tòan thư ít nhất là 100 năm này đã không nói gì về thời Hồng Bàng, mà mở đầu ngay bằng việc xuất hiện của vua Hùng đầu tiên, với thời điểm gọn gàng là đời Chu Trang Vương: đầu thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên (3). Vì cho đến nay, vẫn chưa có ai chỉ ra được cơ sở của trường hợp ghi chép như thế của tác giả, mà cũng cho đến nay vẫn còn là khuyết danh, của bộ sách có giá trị về nhiều mặt này, cho nên, nếu tin vào khung niên đại cho thời Hùng Vương của sách này, thì cũng không khác gì đã tin vào nhiều điều ghi chép quan trọng khác của cuốn sách đó. (3) Năm 696 – 682 trước Công nguyên. Tuy vậy, hiển nhiên là dù sao, những điều ghi chép của tài liệu thư tịch cũng chưa thể làm thỏa mãn người ta về thời gian tồn tại của “thời Hùng Vương” được. Nhưng bù lại chính là tử những tài liệu thư tịch này, những ấn tượng đầu tiên, bao quát và cơ bản, những hiểu biết đại thể về một không khí chung của “thời Hùng Vương” đã được ghi nhận. Và chính là cái diện mạo, cái thần sắc của một thời đại như thế đã là cơ sở, tạo điều kiện để động viên một nguồn tư liệu khác, có khả năng rất quyết định trong việc xác định những niện đại tuyệt đối, cụ thể, là tài liệu khảo cổ học. Sở dĩ có thể coi những niên đại tuyệt đối, chẳng hạn như 3405 ± 100 năm của di chỉ Tràng Kênh, 3328 ± 100 của di chỉ Vườn Chuối, 3046 ± 120 của di chỉ Vinh Quang hay 2350 ± 100 năm của di chỉ Chiền Vậy (1) là nằm trong niên đại chung của “thời Hùng Vương”, chính là vì ở các địa điểm khảo cổ đó, cũng thấy xuất hiện cái diện mạo, cái thần sắc, của một thời đại giống như cái diện mạo, cái thần sắc mà tài liệu thư tịch đã nói về “thời Hùng Vương”. Hơn thế nữa, chẳng phải là chỉ có cái không khí chung như vậy, mà còn có cả sự tương đồng đến những chi tiết cụ thể. Chẳng hạn như khi thư tịch về “thời Hùng Vương” nói có nhà sàn, thì khảo cổ học cũng tìm thấy di tích nhà sàn; khi thư tịch nói: có tục giã cối, thì hình ảnh khảo cổ học về cối chày xuất hiện; khi thư tịch nói: cắt tóc ngắn và ăn cơm nếp thì khảo cổ học cũng lại tìm thấy tượng người có mớ tóc ngắn và cái chõ đồ xôi! (1) Tất cả đều trước năm 1950. Dĩ nhiên, không phải lúc nào cũng vuông tròn, ràng rẽ như vậy. Từ ba năm nay, hàng chục cuộc tranh luận đã diễn ra, chính là để cho quan niệm của các nhà khảo cổ học và niên đại những di tích thuộc “thời Hùng Vương” có thể được làm sáng tỏ và tốt nhất là nhích lại gần nhau. 2 văn hóa hay 4 văn hóa hay chỉ 1 văn hóa là điều đã tranh luận và sẽ còn phải tranh luận. Cũng như, trong khi chưa hoàn toàn giải quyết được vấn đề này, thì một phương hướng “hòa hoãn” khác là tránh “văn hóa” mà tìm “giai đoạn”, lại cũng dẫn ngay đến sự tranh luận 4 giai đoạn hay 6 giai đọan. Những công việc thuần túy khảo cổ học này chính là nhằm đảm bảo tính chính xác và độ phong phú của những tài liệu khảo cổ học cho các nhà nghiên cứu có thể sử dụng rộng rãi trong việc nghiên cứu “thời Hùng Vương”. Và điều quan trọng rất đáng ghi nhận là đến lúc này, hầu hết các nhà khảo cổ học, tuy còn những “tiểu dị” nhưng đã “đại đồng” xác nhận hai cái mốc lớn cho thời gian đầu và cuối “thời Hùng Vương” về mặt khảo cổ học, là Phùng Nguyên và Đông Sơn. Chính vì vậy mà chúng tôi rất phấn khởi khi được đọc những dòng chữ cô đọng mà đầy đủ của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nói trực tiếp về vấn đề này: “Phát hiện một nền văn hóa lâu đời hơn văn hóa Đông Sơn, sản sinh trên đất nước ta, cùng với văn hóa Đông Sơn hình thành một sự diễn biến văn hóa và lịch sử liên tục từ khoảng cuối thời đại đồ đá mới, qua thời đại đồ đồng đến thời đại đồ sắt sớm” (2). (2) Phạm Văn Đồng: Nhân ngày Giỗ tổ Vua Hùng, - Khảo cổ học, Hà Nội, số 1, tháng 6-1969, tra. 17. Đối với những nền văn hóa với ý nghĩa như thế, những người làm công tác khảo cổ đã cố gắng tiến hành nhiệm vụ đầu tiên của mình là xác định niên đại. Có nhiều người, từ năm 1960 cho tới bây giờ (3), đã đoán định niên đại tuyệt đối cho văn hóa Phùng Nguyên là khoảng thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên, cách ngày nay khoảng từ 3 đến 4 nghìn năm. Những kết quả phân tích các bon phóng xạ đồng vị (C14) mới đây đã góp phần xác nhận rằng điều đoán định này căn bản là chính xác. (3) Đào Tử Khải (ý kiến đầu tiên), Nguyễn Linh, Hoàng Xuân Chinh, Trần Quốc Vượng, Lê Văn Lan… Cũng có nhiều người làm công tác khảo cổ, ngay từ năm 1961 cho đến bây giờ (1) đã xác định niên đại tuyệt đối của văn hóa Đông Sơn là khoảng thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, cách ngày nay khoảng từ 2 đến 3 nghìn năm. (1) Lê Văn Lan (ý kiến đầu tiên), Nguyễn Linh, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Đào Duy Anh… Với tính chất và ý nghĩa quan trọng của “một sự diễn biến văn hóa và lịch sử liên tục”, chúng ta có một khoảng thời gian liền hai thiên niên kỷ, từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn, cách đây từ 4 đến 2 nghìn năm. Như đã trình bày ở trên, giới khảo cổ học nói chung thống nhất nhận thấy rằng từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn là cơ sở khảo cổ học của “thời Hùng Vương”. Vậy là, khảo cổ học, bằng những phương pháp của “một khoa học, gần như khoa học chính xác” đã đầu tiên xác định được một khung niên đại chắc chắn cho “thời Hùng Vương”. Khung niên đại này phù hợp, đúng hơn là trùng hợp, rõ hơn là ngẫu nhiên trùng hợp với khung niên đại phổ biến của thư tịch – khung niên đại còn mang nhiều nghi vấn, mà vì những lí do vừa trình bày ở trên, đã truyền lan rộng rãi từ trước tới nay về “thời Hùng Vương”. Một ý nghĩa rất đáng ghi nhận ở chỗ này là: nếu có thể nói đến một đóng góp, thì chính là khảo cổ học, bằng những thành tựu mới của mình, đã đem lại cái bộ xương, cái nền tảng khoa học cho những cách nhận thức và những tình cảm của chúng ta về niên đại lâu đời của “thời Hùng Vương”. * * * Nhìn vào Phùng Nguyên với hiện trạng tư liệu như bây giờ về diện phân bố các di tích và các mặt phát triển kỹ thuật, kinh tế, văn hóa…, có thể nghĩ đến một cái mầm. Để cho cái mầm quý này nảy nở và mọc lên xanh tốt, những cư dân cổ ở đây đã phải mất khoảng 1000 năm lao động và đấu tranh. Và kết quả là những tiền đề cơ bản và trực tiếp đã được tạo ra cho một cái gốc vững vàng. Cảm nghĩ về cái gốc kỳ diệu này dễ dàng nảy ra khi nhìn vào Đông Sơn. Từ lâu và nhiều người đã nói vê Đông Sơn. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá chính xác sự “nổi tiếng thế giới” của văn hóa này, kèm với lời biểu dương công tác khảo cổ thời gian gần đây đã “làm thêm rực rỡ” nền văn hóa đó. Và không phải ngẫu nhiên mà các nhà nghiên cứu chúng ta đã tập trung khai thác tư liệu về mọi mặt của văn hóa này để nghiên cứu về “thời Hùng Vương”. Việc đã hình thành một hệ thống các luận điểm về các mặt tự nhiên, con người, kinh tế, chính trị và nhất là văn hóa, xã hội của “thời Hùng Vương” dựa trên những tư liệu của Đông Sơn như hiện nay, cho thấy dường như rất đông đảo các nhà nghiên cứu đã mặc nhiên coi Đông Sơn là cơ sở khảo cổ học của bước phát triển đáng chú ý nhất của tòan bộ “thời Hùng Vương”, nếu không phải là chính ngay thời Hùng Vương – hiểu với nghĩa cụ thể, không mở rộng, của từ này. Niên đại của văn hóa Đông Sơn đã được xác định là khỏang thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, và bước phát triển cao nhất của bước văn hóa này là những thế kỷ giữa thiên niên kỷ đó. Chính ở đây đã có sự không thể gọi là “trùng hợp ngẫu nhiên” nữa mà phải gọi đúng là sự ăn khớp kỳ lạ giữa tài liệu khảo cổ học và tài liệu thư tịch. Như đã nói trên, Đại Việt sử lược đã chép về sự xuất hiện của các Vua Hùng, sự thành lập nước Văn Lang với những khẳng định về niên đại tuyệt đối là từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên. Một cái gốc vững vàng đã hình thành để rồi chồi cây có thể mọc tiếp lên (1). Thời kỳ nước Âu Lạc và An Dương Vương cùng với những cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống sự xâm lược và thống trị của nhà Triệu, nhà Hán, cho đến thời Hai Bà Trưng, đã được ghi chính thức trên sử sách giấy tờ từ lâu rồi. Ở bước phát triển này của lịch sử, chỉ có những Vua Hùng cụ thể là không thấy nữa, nhưng “thời Hùng Vương” với toàn bộ cấu trúc của nó vẫn còn. Khảo cổ học cũng cho thấy từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên đến đầu Công nguyên, văn hóa Đông Sơn đang tồn tại ở bước phát triển cuối cùng. (1) Đỗ Văn Ninh: Chồi Âu Lạc mọc từ gốc Văn Lang – Khảo cổ học, Hà Nội, số 3-4, tháng 12-1969, tr. 89. Thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên là niên đại báo hết của văn hóa Đông Sơn, đồng thời cũng là lúc mà cuộc khởi nghĩa và kháng chiến oanh liệt do Hai Bà Trưng lãnh đạo bị dìm trong máu. Cái chồi cây đến đây bị chém gãy, nhưng cũng chính từ đây, những hạt quả, rễ mầm, và ngay cái chồi của nó, cắm trở lại vào đất tổ, đã đối chọi với những thử thách khốc liệt để rồi lại vượt lên ngay trên gốc cũ, cả một rừng cây xanh tốt như đang thấy ngày nay. Hình tượng về cái – cây – quý – Hùng Vương như vừa trình bày không có gì khác hơn là nhằm hình dung ra các bước phát triển của “thời Hùng Vương” từ mầm đến ngọn, từ đầu đến cuối của khoảng thời gian hai thiên niên kỷ trước Công nguyên, với bước phát triển quan trọng nhất là những thế kỷ giữa thiên niên kỷ thư 1 trước Công nguyên. Chúng tôi đã có lần dùng từ thời kỳ Hùng Vương (2) để mệnh danh cho bước phát triển quan trọng nhất này, so với các tên gọi thời kỳ tiền Hùng Vương và thời kỳ hậu Hùng Vương, mệnh danh một cách ước lệ cho các bước phát triển trước và sau của nó, gắn bó hữu cơ trong một chỉnh thể. (2) Hiểu với nghĩa chặt chẽ và cụ thể từ: có thể có những Vua Hùng thật sự ở thời này, bởi nếu tính kỹ vào con số 18 đời vua của truyền thuyết thì cũng thấy họ vừa đủ sống trong khoảng thời gian mấy thế kỷ này. Chỉnh thể đó chính là một thời đại, gồm nhiều thời kỳ, hết sức quan trọng của lịch sử nước ta, có nội dung là sự tan rã xã hội nguyên thủy và sự xuất hiện xã hội có giai cấp đầu tiên, là sự hình thành và tập hợp những mầm mống của dân tộc, là sự phát hiện và khẳng định con đường vượt qua những thử thách quyết liệt, là sự xây dựng vẻ cao đẹp của nền văn minh đầu tiên mang tính dân tộc của chúng ta ở miềng Đông Nam Á. Chính Hồ Chủ tịch kính yêu là người đầu tiên đã, bằng ngôn ngữ đặc sắc của Người, gợi lên bản chất và cả tên gọi nữa của thời đại này, qua câu nói đã trở thành tiêu đề cho nhiều trường hợp và sự kiện: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Có lẽ đồng chí Nguyễn Khánh Tòan đã từ chỗ này mà đề nghị tạm gọi bằng một tên chung là “thời đại bắt đầu dựng nước và giữ nước” (1) cho “thời Hùng Vương” mà có lúc chúng tôi đã mệnh danh cho phổ cập là “thời đại các Vua Hùng”, và các nhà nghiên cứu khác thì gọi tên như các cách mà chúng tôi đã giới thiệu ở trên. (1) Nguyễn Khánh Toàn: Vài gợi ý về việc biên sọan cuốn sử Việt Nam – Khảo cổ học, Hà Nội Trở lại với chuyện chữ và nghĩa, chúng tôi muốn một lần nữa nhắc đến những ý kiến của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ở Hội nghị lần thứ nhất nghiên cứu thời Hùng Vương năm 1968. Thủ tướng đã thận trọng “suy nghĩ không biết nên dùng tiếng “thời đại” hay “thời kỳ”, tuy vẫn cho rằng “những vấn đề này không quan trọng”. Lý do cân nhắc của Thủ tướng tức là “dùng “thời đại” thì nó có ý nghĩa và nội dung, về thực chất của cái thời gian đó” mà “về cái khoảng thời gian đó, ta chưa biết rõ nó ra sao mà gọi nó là “thời đại”. Sau ba năm tập trung tìm tòi, suy nghĩ, những người làm công tác khoa học, như đã thấy, đã không chỉ khẳng định được rằng “thời Hùng Vương” là có thực, mà còn có thể bước đầu hiểu được một số điều về thời đó. Vì vậy mà có lẽ bây giờ, nếu chúng ta dùng thuật ngữ khoa học là “thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên” song song với cái tên “thời Hùng Vương”, và để cho cái tên này chủ yếu dùng trong các trường hợp phổ cập, thì chúng tôi nghĩ rằng đây cũng là một cách để những nhà nghiên cứu báo cáo với đồng chí Thủ tướng kính mến, với các đồng chí và bạn bè về những thành tựu bước đầu, sau ba năm nỗ lực làm việc của chúng ta, về một thời đại có ý nghĩa hết sức trọng đại của lịch sử dân tộc Việt Nam ta. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học
  11. Hic! Cái ông thày này chắc giàu dữ lém. Ba ngày mà chặt 50 T thì kinh quá! Chỉ cần nghe số tiền cũng đủ đau tim chết trước khi tai nạn. Tôi chỉ xem được lá số tử vi của chống và con Phuong2T thôi. Tôi nhận thấy rằng: Cái xui chỉ có khả năng xảy ra vào tháng 11 Âm lịch. Nhưng không đến nỗi "chết" như ông thày kia nói. Tuy nhiên vì ông thày kia đã nói tất sẽ tác động tâm lý Phuong2t. Bởi vậy, cũng cần có biện pháp ổn định tâm lý như sau: Để hóa giải chiện này đơn giản như "đang giỡn" vậy. 1 - Mua một cái đèn lồng đỏ và trong có thắp sáng treo trước cửa nhà. Đèn ngủ trong nhà toàn màu đỏ (Treo đến 30 Tết - sau đó thì tùy, thấy đẹp thì treo tiếp) 2 - Mua một hòn non bộ bằng đá san hô trắng, chia đôi chiều dài ranh phía sau nhà, dùng xi măng gắn xuống đất. Tủy theo nhà to nhỏ để mua hòn núi này. Nhỏ nhất chỉ cần bằng cái bình thủy (Cái phích). 3 - Mua chim phóng sinh - Cách mua như sau: Ra chợ bán chim có bao nhiêu chim phóng sinh (Loại chim sẻ, chim vành khuyên) mua hết không chừa con nào (Nếu có hứng mua thêm nhưng con chim nào thấy tội nghiệp). Trường hợp có hàng ngàn con bị bắt mà không thể mua nổi thì mua cái lồng to nhất (còn nếu mua nổi thì cứa mua - 3000 con x5000 VND = 15 triệu, còn rẻ hơn nhiều so với số tiền cúng. Híc!). Mua xong đem về nhà thả cho bay hết. Nên chọn các ngày: Hôm nay 21/ 9. 24 - 25 - 26 / 9 Âm lịch. Khi mua nhớ trả giá sát nút, trả càng rẻ càng tốt. 4 - Trong tháng 11 âm lịch (Sai số 5 ngày), nói chồng rất cẩn thận khi đi xe và đi đường dài. Không phóng nhanh, vượt ẩu, không luồn lách. Câu thần chú luôn luôn là: "Hãy nhường cho họ đi trước". Tốc độ xe từ vừa phải đến đủ để gọi là đi xe gắn máy so với ....đi bộ. :unsure: Chúc vạn sự an lành.
  12. Anh em quản trị kỹ thuật đưa nick concaocon vào trong lớp. Hình như Concaocon đã đăng ký lâu rồi mà?
  13. Tôi thì không có hàng chục triêu Dol để cược. Nhưng tôi sẵn sàng vét túi khoảng vài triệu VND để đặt cọc vào cửa ông Mắc Kên thắng.
  14. Không - Kiếp tuy xấu nhưng đắc địa, lại có Hóa Khoa đệ nhất giải thần nằm đấy thì cũng không nên quá lo lắng. Không có lá số nào tuyệt đối tốt đâu. Tử Vua đến kẻ ăn mày đều có số lượng sao như nhau. Chỉ có sắp xếp khác mà thôi. Nên được cái này thì mất cái kia. Đấy là tính khách quan của tử vi. Lá số này thuộc loại khá đấy!
  15. Tại sao ai sắp cưới cũng nghĩ mình xung khắc với người yêu nhỉ? Xung khắc sao lại yêu nhau được để đến khi cưới mới xung? Yêu nhau cứ lấy! Cặp này sanh đứa Canh Dần 2010 sau đó sanh đứa Ất Mùi 2015 là OK. Rất khá giả.
  16. Hoaithuong hay tìm bản đồ vệ tinh vị trí nhà đưa lên đây đi. Hahùng yêu cầu thế mà?
  17. Đáng nhẽ ra anh Votruoc nên viết thế này:Đồ hình này dựa trên căn bản phát kiến của Thiên Sứ "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" tiếp tục hoán vị hai vị trí Cấn Chấn. Đồ hình này đối xứng đẹp thật! Đồng ý với anh điều này! Nhưng rất tiếc không có giá trị sử dụng. Một giả thuyết khoa học được coi là đúng phải giả thích một cách hợp lý hầu hết những hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó. Tức là nó phải có giá trị sử dụng. Nếu chỉ căn cứ vào tính đối xứng hoàn toàn thì tiêu chí này đã hoàn hảo ở Tiên Thiên Bát quái.
  18. Vì các anh chị có thói quen nhìn lá số tử vi theo hình chữ nhật nên thấy có cạnh trên dưới, bên phải bên trái. Tôi không trả lời câu hỏi này mà chỉ gợi ý cho anh chị suy nghiệm:Vũ trụ không có hình vuông. Như vậy anh chị em sẽ nghiệm ra nhiều vấn đề.
  19. Ngân hà vào xem bài viết của tôi cho một trường hợp tươngb tự trong mục Luận tuổi.
  20. 'sarameo' Cháu chào Chú Thiên Sứ, Cháu là một fan hâm mộ của chú, cháu đã xem các bài viết của chú về lạc việt độn toán, các bài chú trả lời cho các bạn và sau khi đã hiểu được chút xíu vấn đề để còn biết cách hỏi, cháu mạo muội xin hỏi chú thắc mắc như sau: 1. Theo thiên can, thì dương sinh dương, âm sinh âm, dương khắc dương và âm khắc âm là thuận lý. Vậy cháu không thấy đề cập đến âm khắc dương. Ví dụ như các trường hợp về tuơng hữu (Giáp hợp kỷ, bính hợp tân, mậu hợp quý, canh hợp ất, nhâm hợp đinh) đều là dương khắc âm. Vậy truơng hợp Kỷ thổ khắc Canh kim (dù thổ sinh kim) có phải là do âm khắc dương mà thành không ạ? Dương khắc Âm thì bế tắc. Âm khắc Dương thì loạn. 2. Cháu thấy có bài viết trả lời là mẹ là Tân Dậu (19981), thì sinh con kỷ sửu (2009), thì rất tốt. Nhưng theo sự hiểu của cháu qua việc đọc, có thể là sai, thì không tốt vì lý do âm sinh dương là sinh nghịch, cụ thể như sau: Con Kỷ thổ (âm) sinh mẹ Tân kim (âm) là âm sinh dương là sinh nghịch Con Kỷ Sửu thủy sinh mẹ Tân Dậu mộc: về mạng thì sinh là tốt nhưng con sinh mẹ về mạng là âm sinh dương thì tốt hay là xấu (sarameo nghĩ là tốt nhưng không biết lý giải) Tuổi Dậu với Sửu là tam hợp, tốt. Luận vậy chỉ là một chiều vì còn tùy thực tế còn người cha nữa. Tuy vậy những điều trên là một yếu tố đúng nhưng không phải tất cả. Nhưng thiên can là gốc, nên nếu sinh nghịch thì cũng không tốt. Khong biết con hiểu như thế có đúng không nữa chú Thiên sứ ơi? Thiên Can thì trong luận tuổi không xét đến quan hệ Âm Dương của con với cha mẹ. 3. Cuối cùng là chuyện của con, dù đã ngâm cứu nhưgn không biết đúgn sai. Con tuổi Tân Dậu (1981), chồng con tuổi Canh Thân (1980), chúng con cưới nhau mùng 11 tháng 06 (âm lịch) năm Mậu Tý (mới cưới thôi, hi hi). Hai đứa đã ra riêng, nhà chính hướng Đông (nhiều) Bắc (ít, vì theo sơ đồ thì mũi tên phía Bắc chếch với hướng cửa chính góc 30 độ). Chúng cháu trổ bếp hướng Đông Nam (lưng nguời nấu bếp quay về hướng Tây Bắc). Cháu muốn hỏi chú sơ bộ là tuổi chúng cháu đã hợp hướng nhà và bếp chưa ah? Và chúng cháu nên các nhóc tỳ vào năm nào là đẹp nhất ah? Về hướng nhà thì vì cô bé viết chưa rõ nên chưa thể có ý kiến gì. Nhưng hướng bếp thì tốt theo Phong Thủy Lạc Việt - coi là Phúc Đức trù. Cháu hiểu biét hạn hẹp, lại là lần đầu mới vào diền đàn nên có gì mong Chú và các sư huynh, sư tỷ, sư muội chỉ dạy. Cám ơn Chú nhiều và chúc Chú sức khỏe. Chúc cô bé và gia đình vạn sự an lành.
  21. Cô bé Huyền thân mến. Từ lâu bác đã ngậm ngùi vì thân phân lứa đôi bị chia lìa bởi sự dốt nát của tha nhân qua những hiểu biết nửa mùa của đám thày bói ngớ ngẩn. Nên bác cố gắng soan ra Luận tuổi Lạc Việt để minh chứng rằng việc coi tuổi nam nữ để phán quyết về hạnh phúc tương lai của họ là một sai lầm vì những yếu tố không hoàn chỉnh. Nhưng tiếc thay nó không được phổ biến lắm. Bởi vậy bác đành phải cố gắng giải thích từng trường hợp rơi vào cảnh ngộ đau buồn vì những sai lầm của tha nhân. Bé Huyền tuổi Bính Dần theo Lạc Thư hoa Giáp thì thủy mệnh với Tân Dậu rất hợp bởi những lý do sau: Xét về Thiên Can Bính Hợp Tân trên Hà Đồ. Xét về thân mang thì Thủy sinh Mộc là mạng của chồng - Nếu phân tích theo sách Tàu thì cũng là lý tương sinh tuy hơi kém một chút là mang chồng Mộc sinh Hỏa. Xét về địa chi tuy Dần Dậu khắc, nhưng chỉ la yếu tố phụ. Làm sao có thể tuyệt đối được khi có ba yếu tố với chu kỳ khác nhau. Xét tương quan tuổi với cha mẹ chồng: Cha chồng tuổi Ất Mão Xét về Thiên Can bé Bính Hỏa được Ất sinh Dương ( Cha ) sinh Âm (Con dâu) là thuận lý. Tuy không phải chính sinh vì Ất thuốc Âm, Bính Dương, Nhưng về lý là tương sinh thuận. Xét về mạng theo Lạc thư hoa giáp thì bé mạng Thủy được Kim cha chồng sinh rất thuận lý. Nếu Theo sách Tàu bé mạng Hỏa thì Dương Hỏa cũng không khắc sát Âm Kim (Mạng cha chồng). Huống chi bác đã minh chứng sách Tàu sai (Chính người Tàu - Thiệu Vĩ Hoa - cũng chẳng hiểu vì sao có bảng hoa giáp Tàu) Xét về địa chi thì Dần Mộc không khắc Mùi là mộ của Hỏa, ngược lại còn tiếp sức cho Hỏa. Mẹ chồng tuổi Kỷ Hợi Xét Thiên Can thì bé mang chữ Bính là quí nhân của Kỷ. Mạng bé Thủy - theo sách Việt - sinh mạng mẹ chồng Mộc. Nếu theo sách Tàu thì mạng mẹ chồng sinh mạng bé Hỏa thì dương sinh Âm vẫn thuận lý. Xét về địa chi thì không phải chính xung với mẹ chồng. Chính xung với mẹ chồng phải là tuổi Ty cơ. Ngược lại Dần Dậu là nhị hợp. Như vậy bác đã phân tích chu đáo để mọi người thấy rằng bé rất thuận với gia đình chồng và chẳng có gì gọi là khắc với bố mẹ chồng đến phải chết cả. Nhưng bác tin chắc rằng các thày bói cho cha mẹ chồng chỉ là những thày nửa mùa, phọt phẹt dăm ba câu "dần thân tỵ hợi tứ hành xung" rồi phán đại những chuyện giật gân để tỏ ra ta đây sâu sắc. Bé Huyền hãy chép bài này của bác và đưa cho người yêu xem. Bé hãy nói với cha mẹ anh ấy là: Bác Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh là người duy nhất trên mạng Việt Nam đoán trước tận sóng thần Indo kinh hoàng trước khi nó xảy ra với 250. 000 người chết và là người đoán trước cả trận khủng khoảng kinh tế thế giới năm nay công khai trên báo Gia Đình và Xã hội số Xuân 2008. Bác nói thế không phải khoe làm gì mấy chuyện mà ai cũng biết từ lâu này. Đối với bác, chuyện bói toán chỉ là phương tiên. Nhưng bác phải viết ra đây để chứng tỏ rằng những điều bác phân tích liên quan đến tuổi của bé với gia đình chồng là đáng tin cậy, chứ không pahỉ loại phọt phẹt như mâý thầy kia. Bác nói thêm rằng: Nếu hai đưa lấy nhau cuối năm nay và năm tới sanh một đưa Kỷ Sửu thì gia đình này rất tốt về nhiều phương diện. Chúc bé Huyền hạnh phúc và vạn sự yên lành.
  22. Với cái nhìn đời thường thì Hinyheo nói đúng. Nhưng đây lại là Lý học đông phương - nó giải thích vạn sự theo phương pháp luận và khái niệm của nó. Thí dụ nếu một vụ đụng xe xảy ra, theo cái nhìn đời thường thì đó là do anh A, hay B phóng nhanh vượt ẩu, hoặc xe hỏng thắng ...vvv. Nhưng khoa Tử Vi thì giải thích rằng: Ngày hôm đó Thiên Mã ngộ hình... nên đụng xe.Bởi vậy Thiệu Khang Tiết nghe tiếng chim hót mà đoán nhà Nam Tống mất nước. Khi tiếng chim chẳng kliên quan gì đến tài năng lãnh đạo của vua quan Nam Tống. Nhưng tôi thừa nhận rằng: Kiến thức rộng về mặt nào đó thì dự báo về mặt đó sẽ chính xác hơn. Vì lý học Đông phương không phủ nhận những tri thức khoa học.
  23. OK. Chúc mọi sự tốt đẹp.
  24. Bí mật đằng sau “Một triệu đô… không bán!” Thứ hai, 22/9/2008, 07:00 GMT+7 Nguồn: Vietimes Chỉ cần vào Google và gõ chữ: “Cờ toán Việt ”, các bạn sẽ thấy cư dân mạng đang truyền nhau chơi một loại cờ rất thú vị dựa trên nguyên lý của toán học. Môn cờ này vừa dân dã lại vừa cao siêu; bất cứ ai cũng có thể chơi được, nhưng tổng số nước đi của nó là lũy thừa của 87 – một con số khổng lồ… Cha đẻ của môn cờ thuần Việt này không phải một giáo sư, hay tiến sỹ nào mà lại là một người đàn ông chỉ học hết lớp bảy. Đó là ông Vũ Văn Bảy, trú tại phố Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh. Hiện ông đang sống bằng nghề làm tượng, và nghe nói đã có người đặt vấn đề mua lại bản quyền của môn cờ này với giá một triệu đô la, nhưng ông Bảy nhất quyết không bán vì một lẽ rất đơn giản: nó phải là môn cờ của người Việt Nam. Họa sỹ - nhà điêu khắc Vũ Văn Bảy Lời đồn đại về bản quyền có giá một triệu đô dẫn chúng tôi đến ngôi nhà của ông Bảy tại thành phố Bắc Ninh. Cái ấn tượng đầu tiên với riêng tôi là tấm biển trưng ở cổng nhà: “3 THẾ HỆ HỌA SỸ- ĐIÊU KHĂC VŨ VĂN BẢY, sáng tác - thi công các công trình nghệ thuật”, la liệt ở ngoài sân là những bức tượng: Phật, lãnh tụ, quan họ, phù điêu… ngôi nhà cũng là xưởng làm việc, và kiêm luôn cửa hàng. Ông Bảy ra đón chúng tôi trong bộ quần áo “điêu khắc gia”, lấm lem bùn đất. Cách tiếp khách của ông cũng vô cùng đặc biệt, ông nói oang oang từ trong ra ngoài, chẳng cần biết quen hay sơ, cứ nắm tay thật chặt, rồi mời vào nhà như đã biết nhau từ lâu lắm. Khi nghe chúng tôi muốn hỏi về chuyện cờ toán và lời đồn bản quyền giá một triệu đô, ông Bảy hào hứng hẳn, ông chém tay vào không khí nói rất to: có chứ, có cái thằng người Trung Quốc nó sang tận đây đặt vấn đề mua bản quyền để nó kinh doanh. Nhưng tôi không bán vì nó bảo phải đổi những con cờ mang số 1,2,3… thành nhất, nhị, tam, tứ… Tôi giải tán luôn. Tôi bảo: “…nếu thế thì mất tính Việt Nam à? Toi công tôi mấy chục năm nay à? Cờ của tôi là cờ thuần Việt, không thể để mất cái chất Việt ấy được…”. Ông Bảy nói đến đây, nhổm cả người lên ghế, giọng căng thẳng: cái môn cờ này tôi không biết giá trị nó như thế nào, nhưng tôi đã nghiên cứu từ lâu lắm. Hồi xưa, nhìn cái trò Ru-bich gì đó của bọn Tây – cái trò hình vuông xanh xanh đỏ đỏ ấy, nó đơn giản thế mà cuốn hút cả hành tinh. Ai cũng thích chơi nó vì đơn giản nhưng lại phức tạp, tôi thấy người Việt mình thiệt quá! Trò chơi nào cũng phải “vay” người ta. Các ông cứ nhìn bọn trẻ bây giờ thì biết, suốt ngày cắm đầu vào vi tính chơi Games, chán thì quay sang đua xe, chơi bời, thác loạn… Còn những trò chơi dân gian lại không cuốn hút được chúng nó. Mà các ông lên miền núi xem, bọn trẻ ở đó thiệt như thế nào. Suốt ngày chỉ quanh quẩn chân núi, bờ sông, cõng nhau ngẩn ngơ nhìn trời đất… tội lắm! Cứ nghĩ đến cái trò ru bích, ru beo của bọn Tây lại thấy bực. Tôi nhất quyết phải nghĩ ra cái gì để chơi – mà trò chơi ấy phải một trăm phần trăm ma – de – in Việt Nam. Ông nói hào hứng, át cả tiếng khách khứa, rồi ông chỉ tay lên tường – nơi cái khung kính lồng bên trong là tấm bằng bản quyền do Cục bản quyền Việt Nam cấp. Ông tự hào nói: “Đây là bản quyền của tôi, đã được nhà nước cấp, yên tâm nhé, không thằng nào đụng vào được… tôi không bán, đố thằng nào dám sản xuất!”. Và ông giải thích: cái môn cờ này của tôi ngoài tính trí tuệ ra nó còn chứa đựng trong đó bao nhiêu triết lý. Tôi nói cho các ông biết, cờ của tôi không có tướng, cờ Tàu, cờ Tây đều có tướng – mất tướng coi như thua. Nhưng tôi lại nghĩ trong đời sống, mất thằng tướng này nó thay ngay thằng tướng khác thua sao được, nếu thua hẳn phải là mất dân… mà dân thì là ai? Trong cờ của tôi dân chính là số 0, nếu bắt được số 0 coi như lấy được lòng dân và chiến thắng… Nói đến đây ông Bảy ngả người thoải mái ra ghế cười mãn nguyện. Khi chúng tôi hỏi về giấy tờ hay một vật chứng cụ thể nào về việc người Trung Quốc kia hỏi mua về bản quyền, ông Bảy nói: “Có chứ, chúng nó thảo hợp đồng toàn tiếng Tây, mà tôi có biết tiếng Tây đâu, nhưng chỉ nghe nó đòi đổi tên cờ thì tôi giải tán ngay, không thèm nói chuyện… bán biếc cái gì. Tôi đâu có dại, ngần này tuổi tôi đâu có dại… Tiền ai chẳng thích, nhưng tôi sợ tiền lắm, nói dại mồm đại họa lúc nào không biết!”. Và ông bảo: nói cho các nhà báo trẻ biết, tôi sống bằng nghề làm tượng, mỗi tháng bán vài pho là sống, con cái đã trưởng thành, hai vợ chồng già của tôi ăn được mấy. Bây giờ sống êm đềm, thỉnh thoảng bạn bè đến vác cờ ra chơi với nhau cho sướng. Tự nhiên một đống tiền rơi vào nhà – đại họa đấy các bạn trẻ ạ! Nói có vẻ vô lý nhưng thật đấy, không tưởng tượng được đâu! Bây giờ ông lại nhổm hẳn lên ghế, mặt đỏ lự, cái kính lão lệch hẳn một bên. Ông nhoài người sang phía chúng tôi nói: “Một triệu đô là à, mười mấy tỉ tiền ta à, to lắm! Nghe to lắm đấy, nhưng nếu bây giờ tôi phổ biến được nó rộng rãi ra toàn quốc, rồi thì toàn thế giới. Khi chúng nó say cờ này rồi thì… nói cho các ông biết, tôi chỉ việc mua một chút máy móc, sản xuất bàn cờ và bán… quanh năm bán thì thử hỏi thu bao nhiêu tiền? Ấy là nói đến kinh doanh, nhưng không phải thế, cái quan trọng không phải thế, tôi nghĩ ra bàn cờ này đâu phải vì mục đích tiền…”. Nói đến đây đột ngột ông Bảy quay sang bảo vợ: “Bà nấu cơm nhé, bọn tôi nhậu đấy…”. Rồi ông quay sang chúng tôi cười rất tươi: “Nhậu với tao nhé, trưa rồi còn gì.”. Trong bữa cơm, ông Bảy vẫn nói rất nhiều, ông uống rất khá, mỗi lần nâng chén lên đều bảo cạn nhé. Ông ta có dáng người to lớn, khuôn mặt thuộc kiểu “ngũ trường tướng”, cái gì cũng dài: măt, mũi, tai, miệng… Và ông chỉ vào góc nhà – nơi đang bày những bức tượng dang dở, nói: “Ngày nào, tôi cũng làm tượng, đêm đến muỗi đốt nhiều mệt lắm… cứ nghĩ đến tiền lại muốn bỏ, nhưng lại sợ và tiếc cái môn cờ này.”. Bọn trẻ hàng xóm, từ ngày chúng nó biết chơi thích lắm, mà chúng nó chơi siêu các ông ạ. Tôi đây lắm lúc thua chỏng vó…”. Rồi ông lại giục chúng tôi uống, thỉnh thoảng lại sai khiến bà vợ, giọng rất gia trưởng. Nhưng tôi hỏi đến điều mong muốn nhất của ông về môn cờ toán này, khuôn mặt đỏ lự của ông trùng xuống, rồi trầm tư: nói thực với các nhà báo trẻ, tôi chỉ mơ cái môn này được phổ biến rộng rãi. Chẳng hạn như hội khỏe phù đổng của tỉnh Bắc Ninh này chẳng hạn, rồi thì trong các nhà trường. Tôi tin với môn cờ toán, bọn trẻ sẽ học được cách từ duy toán học. Mà đã có tư duy của toán học thì sức tưởng tượng nâng cao, nói cách khác tâm hồn chúng sẽ trong sáng, biết làm người… Ai chẳng muốn mình được nổi tiếng, có nhiều tiền, nhưng cái đó với tôi không còn quan trọng nữa, tôi đã hơn bảy mươi rồi: danh vọng, tiền bạc chẳng nghĩa lý gì. Chỉ mong cái môn cờ này được phổ biến rộng rãi và bọn trẻ say nó là được. Rồi đột nhiên ông Bẩy lại nhổm dậy như cái lò xo, mắt sáng rực à lên: “Tôi có thằng cháu đang làm phần mềm máy tính về môn cờ này đấy. Nó đang rủ tôi đem đi thi trí tuệ Việt Nam, nó bảo ăn giải là cái chắc… Nhưng tôi bảo nó, thi thố quan trọng gì, cứ đưa lên mạng cho chúng nó chơi là tao sướng rồi.”. Ông lại giục chúng tôi uống, mỗi ngụm rượu ông khà lên một tiếng rất khoan khoái, rồi lại trầm ngâm nghĩ về những đứa trẻ miền núi. Tội lắm các nhà báo trẻ ạ! Cả ngày chúng nó chỉ biết cõng nhau ngẩn ngơ nhìn núi đồi, không biết thế nào là chơi… Câu nói vô tình của ông Bảy làm tôi – kẻ chép lại những dòng này cũng buồn lây. Quả đúng như vậy, ngày bé tôi và đám bạn ở bản làng chẳng biết chơi gì ngoài núi đồi, sông suối. Tôi nhớ rất rõ những buổi chiều chợ phiên. Tôi đã ngồi mãi ở mỏm đá đầu bản, ngẩn ngơ chờ mé đi chợ về. Hồi ấy, trong cái đầu ngờ nghệch của tôi vẫn nghĩ rằng, từ chợ về mé sẽ mua cho tôi một cái gì đó không phải cái bánh, viên kẹo… mà phải là cái gì vui hơn thế. Có thể hồi ấy tôi mong có một món đồ chơi – tôi nghĩ thế. Và bây giờ, sự nghi hoặc về lời đồn một triệu đô bản quyền cờ toán của ông Bảy, không còn là mục đích tìm hiểu của chúng tôi nữa. Chẳng quan trọng gì, có trả đến trăm triệu đô la cũng thế. Sự thật giả của một triệu đô có lẽ cuốn hút rất nhiều người hiếu kỳ, nhưng có một sự thật – sự thật là bàn cờ toán đã có mặt trên đời, với tổng số nước đi là lũy thừa của 87, ai có thể đi hết ngần ấy nước cờ? Nhưng cũng chẳng cần đi ngần ấy nước, chỉ cần ngồi xuống và say sưa với nó đã thú vị rồi, đấy là một sự thật! Ông Vũ Bảy - người đang ngồi trước mặt chúng tôi mới quan trọng – sự quan trọng thể hiện ở chỗ ông ta đã nghĩ ra một trò chơi – một niềm vui cho mọi người và do người Việt chính hiệu nghĩ ra. Cái đó quan trọng hơn tất cả. Còn câu chuyện về số tiền một triệu đô có lẽ nên quên đi được rồi. A Sáng
  25. Khủng hoảng tài chính Mỹ và những ảnh hưởng 16/10/2008 1:19 Nguồn: Thanh Niên Online Những đại gia này đã góp tay tạo nên bong bóng bất động sản ở Mỹ - Ảnh: AFP Bài 1: Cuộc khủng hoảng hình thành như thế nào? Giáo sư kinh tế Trần Văn Thọ cùng Phó giáo sư kinh tế và quản trị kinh doanh Trần Lê Anh dành cho Thanh Niên loạt bài phân tích nguyên nhân và thực trạng cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, cũng như ảnh hưởng của nó đến kinh tế các nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Bên cạnh cuộc chạy đua vào Nhà Trắng đang diễn ra hết sức gay cấn, khủng hoảng tài chính là mối quan tâm hàng đầu của dân chúng Mỹ và thế giới. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa hôm nay, khủng hoảng tài chính và sự trì trệ của nền kinh tế Mỹ đang và sẽ ảnh hưởng đến nhiều nước trên thế giới. Loạt bài này phân tích nguyên nhân và thực trạng cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và bàn ảnh hưởng của nó đến kinh tế các nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Nguyên nhân sâu xa Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính lần này là sự suy sụp của thị trường bất động sản. Ở Mỹ, gần như hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lại lãi lẫn vốn trong một thời gian dài sau đó. Do đó, có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa tình hình lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi suất cao thì thị trường giậm chân, người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp. Có ba yếu tố chính đã khởi tạo nên bong bóng trong thị trường bất động sản. Thứ nhất, bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản (mặc dù những loại lãi suất cho vay tiền mua nhà do các ngân hàng thương mại ấn định bao giờ cũng cao hơn nhiều so với lãi suất cơ bản của Fed, nhưng mức độ cao hay thấp của chúng bao giờ cũng phụ thuộc vào lãi suất cơ bản). Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%. Thứ nhì, về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của chính phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua hai công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac. Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp (mortgage-backed securities - MBS), rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch. Thứ ba, như đã trình bày ở trên, bởi vì có sự biến đổi các khoản cho vay thành các công cụ đầu tư cho nên thị trường tín dụng để phục vụ cho thị trường bất động sản không còn là sân chơi duy nhất của các ngân hàng thương mại hoặc các công ty chuyên cho vay thế chấp bất động sản nữa. Nó đã trở nên một sân chơi mới cho các nhà đầu tư, có khả năng huy động dòng vốn từ khắp nơi đổ vào, kể cả dòng vốn ngoại quốc. Điểm đặc biệt ở đây là bởi vì việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm MBS là vô cùng phức tạp cho nên nó diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm soát thông thường của chính phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên lòng tham và tính mạo hiểm đã trở nên phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, bởi vì có thể bán lại phần lớn các khoản vay để các công ty khác biến chúng thành MBS, các ngân hàng thương mại đã trở nên mạo hiểm hơn trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của người vay. Bong bóng bất động sản Với ba lý do trên, thị trường bất động sản trở nên rất nhộn nhịp, có rất nhiều người thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để có thể được vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn và thường được cho mượn dưới hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian (ví dụ, nếu thỏa thuận là được vay với lãi suất 6% và điều chỉnh sau 3 năm thì đúng ba năm sau lãi suất mới sẽ được ấn định theo thời điểm đó). Tóm lại, nhóm người này thuộc vào thành phần được cho vay với loại lãi suất dưới chuẩn (subprime rate). Bất kể khả năng trả được nợ của nhóm vay dưới chuẩn, khoản tiền cho vay dành cho nhóm này đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỉ USD ở năm 2001 lên 540 tỉ vào năm 2004 và trên 1.300 tỉ vào năm 2007. Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong việc mua lại các khoản cho vay đầy mạo hiểm do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn từ các công ty khác, chẳng hạn như Lehman Brothers. Bên cạnh đó, nhu cầu mua lại MBS của các nhà đầu tư vẫn cao bởi vì cho tới trước năm 2006 thì thị trường bất động sản vẫn chưa có dấu hiệu nổ bong bóng. Hơn nữa, họ cũng phần nào được trấn an khi vẫn có thể mua thong thả các hợp đồng bảo hiểm CDS từ các công ty bảo hiểm và đầu tư khác. Việc này dẫn đến các công ty bán bảo hiểm càng mạnh tay hơn trong việc bán CDS ra thị trường, bất chấp khả năng bảo đảm của mình. Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất động sản liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn năm từ 2001 (năm bắt đầu cắt mạnh lãi suất) đến 2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá nhà sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả năng trả nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Do đó, một bong bóng đã thành hình trong thị trường bất động sản. (Còn tiếp) Trần Văn Thọ - Trần Lê Anh Tác giả Trần Văn Thọ: Giáo sư kinh tế, Đại học Waseda, Tokyo (Nhật Bản), hiện đang nghiên cứu ở Đại học Harvard, Cambridge (Mỹ). Tác giả Trần Lê Anh: Phó giáo sư kinh tế và quản trị kinh doanh, Đại học Lasell, Boston (Mỹ). Nhời bàn của Thiên Sứ Các nhà Kinh tế học ngôi sao bàn toàn bằng những thuật ngữ hàn lâm khiến Thiên Sứ tôi cứ nghe lùng bùng lỗ tai và chẳng hỉu cái gì cả. Nhưng máng máng là bất động sản là nguyên nhân đầu tiên của khủng hoảng kinh tế thì mới "thoắt nhiên chợt ngộ". Thì ra cái lày Thiên Sứ lói lâu rùi. Chả là lí học Đông Phương coi hành thổ là nơi quy tàng và là vua của vạn hữu. Từ Thổ mí sinh Kim, mí sinh Thủy và ngũ hành luân chuyển. Ấy cũng là cái lí khi môn phoeeng xủi lấy toàn kim làm thuật ngũ chánh: Kim nhật, kim thời, phân kim điểm huyệt...Ấy là do thổ sinh vậy. Nay cái anh Thổ bị bế thì mần răng mà sinh kim được. Đây là Thiên Sứ lấy cái lí Hậu Thiên đấy nhá - chứ Tiên Thiên thì ai mà chẳng biết "Thiên nhất sinh thủy" chứ hổng phải kim. Cũng chính bởi thế mà Thiên Sứ tui đã lói trước rằng thì là kinh tế năm nay khủng hoảng ghi vào lịch sử. Vài anh đại gia lăn đùng ra chết để ngẫm nghĩ cái phù du ở đời. Hic! Đấy nhá! Lói rùi ạ! Từ nay đến cuối năm mà không xong thì năm tới cứ gọi là nhăn răng hết. Cứ nhìn cái thị trường bất động sản nó nhúc nhích thoi thóp thở thì thế giới này kể như bia tươi với nộm gỏi vẫn còn. Còn nếu như nó tiêu thì cứ rau muốn chấm lước mén hết cả. Híc! :unsure: