-
Số nội dung
31.238 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2.212
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên Sứ
-
Thực ra ở Việt Nam trong những năm gần đây, hiện tượng sò, ốc dạt vào đặc kín bờ không phải là hiếm. Nhưng với quan niệm của Lý học Đông phương cho rằng: Toàn thể vũ trụ đang có sự tương tác lẫn nhau Nên việc ốc sò xuất hiện ở bờ biển chứng tỏ có một biển đổi nào đó có tính cục bộ tại địa phương đó. Nhưng vì vị trí giới hạn trong một xã nên không thể kết luận là một thiên tai lớn có tính vùng miền. Như vậy tôi cho rằng đây không phải biểu hiện sóng thần. Quẻ Khai tiểu Cát. Lý học Đông phương giải thích rằng: Do thủy khí dâng cao nên những sinh vật này đã theo thủy khí vào bờ. Bởi vậy, cần đề phòng thủy triều dâng cao và lũ lụt. Khả năng thủy triều dâng cao nhiều hơn. Tôi cũng đề nghị xem xét hiện tương sau đây - nếu có xảy ra trên biển - cần đề phòng: Sự xuất hiện của những sinh vật lạ, hiếm thấy sống ở vùng sâu dưới biển. Đột nhiên xuất hiện gần bờ. Đây là dấu hiệu của thảm họa.
-
Topic này là câu trả lời quá rõ. Mrdung xem kỹ lại. Tôi xóa bớt một bài có nội dung tương tự ở đây.
-
Thông tin bổ sung cho hoàn chỉnh nội dung: Công ty Keangnam bị các cựu chiến binh "thách" 100 tỉ đồng 16:29' 14/11/2008 (GMT+7) - Một nhóm cựu chiến binh, chuyên gia, kỹ sư xây dựng vừa gửi thư ngỏ tới Cty TNHH 1 thành viên Keangnam-Vina đề nghị sẽ tặng doanh nghiệp này 100 tỉ đồng nếu hoàn thành phần thô của hai khối nhà 48 tầng và một khối 70 tầng cùng sân vườn đúng Đại lễ nghìn năm... Bao giờ cho được thế này? (Ảnh: Keangnam) "Ngược lại, nếu các ông không hoàn thành công trình như đã công khai trả lời trên báo Hà Nội Mới thì các ông sẽ phải chịu nộp phạt khoản tiền 100 tỉ đồng (số tiền này chúng tôi sẽ chuyển vào Quỹ Vì người nghèo TP Hà Nội), kèm theo lời xin lỗi trước các công chức và nhân dân TP Hà Nội về sự không trung thực của các ông" - nhóm tác giả lá thư ngỏ viết. Căn nguyên của "lời thách" đầy tự tin Để có thể đưa ra lời đề nghị (kể trên) vào ngày 13/11/2008, nhóm tác giả này cho biết, với góc độ là những người xây dựng có thâm niên, họ khẳng định công trình Keangnam Hanoi Lanmark Tower không có khả năng hoàn thành đúng tiến độ. Bởi vì, từ nay đến lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội chỉ còn khoảng 700 ngày, trong khi tại hiện trường, công trình phần móng vẫn chưa xong, nhanh cũng phải quý II/2009 mới đạt cốt 0-0 và cuối năm 2011 may ra mới hoàn thành toàn bộ phần thô, tiểu cảnh! Cũng theo những người viết thư ngỏ này, hiện nay đã có những dấu hiệu cho thấy Keangnam-Vina không chỉ sai hẹn về tiến độ mà còn tuyên bố chưa đúng về số vốn đã đổ vào dự án thời gian qua. Họ viết: "Các ông tuyên bố đã chuyển vào Việt Nam 200 triệu USD để thực hiện dự án, nhưng qua thực tế khảo sát tại công trường, chúng tôi được biết: Tiền thuê đất và tiền chuyển quyền sử dụng đất khoảng 600 tỉ đồng; Tiền nộp lệ phí xin cấp phép xây dựng khoảng 12 tỉ đồng; Làm 981 cọc khoan nhồi khoảng 100 tỉ đồng; Thi công 15.000m2 tường vây khoảng 60 tỉ đồng; Tặng TP Hà Nội 2 triệu USD (khoảng 33 tỉ đồng); Chi phí thiết kế và chuẩn bị cho việc đầu tư xây dựng khoảng 100 tỉ đồng. Tổng cộng các ông đã chi phí số tiền khoảng 905 tỉ đồng, tương đương 53,7 triệu USD". Tuy nhiên, nhóm tác giả cũng cho biết trong thư, họ đã "điều tra" Công ty Savill - đại diện bán hàng khu căn hộ cao cấp cho Keangnam-Vina và được biết, chỉ "trong vòng 10 ngày, gần một nửa trong số 900 căn hộ có diện tích từ 107m2 đến 206m2 và 16 căn penhouse dự án Keangnam Hanoi Lanmark Tower đã được khách hàng đặt mua... với số tiền Keangnam thu về đợt 1 là 33.234.216,96 USD". Lúc này, khi chỉ còn khoảng 700 ngày là đến Đại lễ nghìn năm, công trình dự kiến được ưu tiên để chào mừng dịp lễ trọng đại này vẫn đang là ngổn ngang đất đá, mênh mông nước... (Chụp công trường xây dựng Keangnam Hanoi Land Mark Tower chiều 14/11/2008 - Ảnh: H.H) Hơn nữa, họ cũng đưa ra nhiều phân tích để thấy "đây là dự án được ưu tiên số một về thời gian cấp phép xây dựng và về tài chính" với kết luận: "Chính quyền TP Hà Nội đã ban tặng rất nhiều ưu đãi và tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi để các ông thực hiện công trình chào mừng ngày Đại lễ nghìn năm". Ưu đãi như vậy, thu hồi vốn nhanh như vậy song nhóm tác giả cho rằng, "ngay từ đầu, các ông (Keangnam-Vina) thừa biết là công trình này không thể kịp hoàn thành chào mừng lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội" - chính vì lẽ đó họ đã "chốt" vào đoạn cuối thư: Trong vòng 10 ngày kể từ ngày ghi trên lá thư này, nếu các ông đồng ý ký vào bản cam kết về tiến độ hoàn thành công trình Keangnam Hanoi Lanmark Tower thì đề nghị ông thông báo cho chúng tôi trước 24h, chúng tôi sẽ mời ông đến trụ sở báo Cựu chiến binh VN để ký cam kết... Trung bình 10 ngày xây 1 tầng? Nhận được thư ngỏ này, Chủ tịch Cty TNHH một thành viên Keangnam-Vian Ha Jong Suk đã ngay lập tức hồi đáp cũng bằng thư ngỏ gửi nhiều cơ quan thông tấn, báo chí Việt Nam, hoan nghênh ý tưởng "Ký cam kết thực hiện công trình Keangnam Hanoi Lanmark Tower" mà nhóm tác giả bức thư kia đưa ra. TIN LIÊN QUAN Khẩn trương kiểm tra phản ánh về Dự án Keangnam Từ toà nhà Keangnam bàn chuyện công trình biểu tượng quốc gia Tòa nhà cao nhất Việt Nam vẫn đang điều chỉnh thiết kế! Sẽ có sân trực thăng trên nóc tòa nhà cao nhất VN? Hồi âm của ông Ha Jong Suk có đoạn viết: "Tập đoàn Keangnam đồng ý ký vào bản cam kết về tiến độ hoàn thành công trình Keangnam Hanoi Lanmark Tower, cam kết hoàn thành phần thô và tiểu cảnh sân vườn của 2 khối nhà 48 tầng và tòa khách sạn, văn phòng 70 tầng vào đúng tháng 10/2010, kịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Chúng tôi đồng ý sẽ nộp phạt 100 tỉ đồng nếu không giữ đúng cam kết". Thay mặt Keangnam-Vina, vị Chủ tịch này cũng cho biết trường hợp giữ đúng cam kết (tức là được nhận 100 tỉ đồng từ nhóm tác giả cựu chiến binh, kỹ sư xây dựng kể trên), công ty sẽ tặng 30 tỉ đồng cho Quỹ Chất độc màu da cam, 30 tỉ đồng hỗ trợ các gia đình, con em thương binh liệt sĩ và 40 tỉ còn lại ủng hộ Quỹ Khuyến học trẻ em Việt Nam. Để việc ký kết diễn ra nghiêm túc và đúng pháp luật, tập đoàn Keangnam đề xuất 2 bên sẽ phối hợp chặt chẽ và mời lãnh đạo các Bộ, ban, ngành Trung ương, lãnh đạo UBND TP Hà Nội, các cơ quan báo chí, truyền hình... cùng chứng kiến lễ ký cam kết. Tập đoàn Keangnam cũng chính thức đề nghị mỗi bên (nhóm tác giả kể trên và Tập đoàn này) đặt cọc khoản tiền hoặc tài sản tương đương 100 tỉ đồng vào một tài khoản của Kho bạc Nhà nước Hà Nội, nhằm đảm bảo cho việc thực hiện cam kết. "Về phần mình, Keangnam-Vina xin đặt cọc thực hiện cam kết bằng số lượng toàn bộ 11 căn hộ tầng 6 tòa tháp 48 tầng và 1 căn penhouse tổng giá trị khoảng 100 tỉ đồng (tương đương 100% tổng số tiền thực hiện cam kết". Nếu Keangnam không giữ đúng cam kết, Kho bạc Nhà nước Hà Nội có toàn quyền bán số lượng căn hộ trên và thu tiền để thực hiện cam kết. Nếu số tiền bán căn hộ không đủ 100 tỉ đồng, chúng tôi cam kết sẽ nộp thêm tiền mặt để đủ số lượng" - ông Ha Jong Suk viết. Dự án trải dài mặt tiền đường lớn Phạm Hùng - một trong những trục vành đai quan trọng của Thủ đô - hiện đang rất được quan tâm bởi tiến độ lúc này đang có vẻ như không kịp với ý nghĩa chính công trình là "kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội"... (Chụp chiều 14/11/2008 - Ảnh: H.H) Keangnam-Vina sở dĩ cũng tỏ ra tự tin không kém dù đang đứng trước "thách thức không nhỏ" bởi cho rằng, "lời hứa của chúng tôi trước Nhà nước, Chính phủ Việt Nam và TP Hà Nội là lời hứa nghiêm túc và hoàn toàn dựa trên năng lực tập đoàn, tính toán khoa học và thực tiễn kiểm chứng". Bài báo "thách đố" của các cựu chiến binh. Ảnh: H.H Nhà đầu tư này cũng đồng thời công bố: "Chỉ tính riêng việc ngay sau khi được TP chấp thuận chủ trương đầu tư, khi chưa triển khai được bất cứ thủ tục đầu tư nào, tập đoàn đã đặt cọc khoản tiền 50 triệu USD cho TP Hà Nội để thực hiện dự án trong thời gian 12 tháng đã cho thấy chúng tôi hoàn toàn làm ăn đàng hoàng". Chấp nhận cam kết và đưa ra những lý lẽ này, Keangnam-Vina bày tỏ muốn được "tạo điều kiện cho nhà đầu tư là Keangnam nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chung đã, đang đầu tư vào Việt Nam được yên tâm, tin tưởng vào quyết định đầu tư của mình". Về phía những người chưa đồng tình với cách làm của Keangnam-Vina thời gian qua, họ cho rằng, nếu hai khối nhà 48 tầng thi công với tốc độ 10 ngày/1 sàn thì nhanh nhất cũng phải đến tháng 12/2010 mới xong phần thô; còn tòa 70 tầng (cao nhất Việt Nam) thì phải 31/12/2011 phần thô mới có thể hoàn thành! Nhiều người biết chuyện này có thái độ rằng, vào ngày vui mừng đón 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, lẽ dĩ nhiên chẳng ai muốn ai bị mất mát gì!? Trọn vẹn nhất là không bên nào phải tốn 100 tỉ đồng mà Thủ đô vẫn thêm một công trình đánh dấu dịp trọng đại này, dẫu mới chỉ xong được phần thô... Tràng An Nguyễn
-
Phú Yên:Thành phố xác xơ sau đêm lũ14:33' 15/11/2008 (GMT+7) - Nước lũ sông Ba đột ngột dâng cao, chảy xiết trong đêm làm cho hàng ngàn ngôi nhà tại TP Tuy Hoà bị ngập, nhiều tàu thuyền bị hư hỏng nặng. Lũ đã cuốn trôi mất một người. Theo thống kê chưa đầy đủ tối 14/11 tại TP Tuy Hòa, nước lũ sông Ba lên nhanh kết hợp triều cường đạt đỉnh, dâng cao hơn 2m làm khoảng hơn 1.500 hộ bị ngập nước, trong đó ngập nặng nhất là các khu dân cư dọc bờ kè Bạch Đằng thuộc các phường 6, 4, 3 và 1. Xác xơ sau đêm lũ. Ảnh: T.K Tuy trước đó tàu thuyền của ngư dân đã được thông báo đưa vào nơi neo đậu an toàn, nhưng do nước chảy xiếc đã làm thiệt hại 1 số phương tiện tàu thuyền của ngư dân. Khoảng 1 giờ sáng ngày 15/11, 3 tàu cá gồm tàu PY 90370 TS của ông Đỗ Văn Lập ở phường 6, tàu PY 2808 TS của ông Lê Văn Tùng ở phường 4 và tàu PY 92062 TS của ông Nguyễn Hữu Lý ở phường 7, trong khi đang neo đậu tại khu vực phường 4 TP Tuy Hoà đã bị nước chảy mạnh, bức neo, cuốn trôi ra biển. Lúc này các chủ phương tiện đang có mặt trên tàu. Khi trôi ra cửa biển, 2 chiếc ghe của ông Đỗ Văn Lập và Nguyễn Hữu Lý bị sóng đánh chìm, nhưng may mắn là 2 ông đã bơi được vào bờ, còn ông Mai Trường Phúc có mặt trên tàu ông Lý khi đó bị mất tích. Đêm qua, những nơi này chìm trong lũ. Ảnh: T.K Cho đến sáng 15/11, theo thông tin từ Đồn biên phòng 352, ông Mai Trường Phúc sau khi trôi ra biển đã được một tàu cá của Bình Định cứu sống. Tàu PY 2808 TS trên có ông Lê Văn Tùng đã thoát được ra khỏi cửa biển và theo thông tin từ UBND phường 4 hiện đã vào Vũng Rô an toàn. Hàng quán dọc kè Bạch Đằng bị cuốn sạch hàng hoá, vật dụng. Ảnh: T.K Tuy chưa có con số thống kê chính thức nhưng thiệt hại tài sản của TP Tuy Hoà là rất lớn. Hầu hết nhà dân, công sở trường học đều bị ngập nước. Bởi mức nước dâng cao đột ngột. Đến sáng nay tất cả các trường học,nhà trẻ, chợ búa, hàng quán đều ngừng hoạt động để tập trung khắc phục. Ghế salon nằm ở giữa đường và đi thuyền trên phố. Ảnh: T.K Tại tỉnh Phú Yên, thiệt hại nặng nhất trong đợt này là khu vực các huyện miền núi phía Tây Nam, như Tây Hòa, Đông Hòa, Sơn Hòa. Nước lũ cũng đã gây ngập và chia cắt nhiều khu dân cư. Trong đêm 14/11, các xã dọc theo sông Ba và sông Bánh Lái đã khẩn trương di dời hơn 200 hộ dân các vùng xung yếu đến nơi an toàn. Lũ chia cắt giao thông, đường cũng đã biến thành sông ( Ảnh chụp tại huyện Sông Hinh). Ảnh: T.K Nước lũ cũng đã làm 1 người chết là em Lê Thị Kim Ngọc, sinh năm 1991, ở thôn Xuân Thành (xã An Xuân), vào khoảng 9 giờ ngày 14/11, khi em đi chăn bò qua suối thì bị nước cuốn trôi. Trình Kế
-
Hi. Chú đồng ý. Nhưng mà đã lỡ nói rùi. Cái nhà ông Hàn Quốc kia cam đoan như vậy thì bi giờ mần răng? Báo chí đăng tùm lum cả. Số tiến nhớn wá, nên bàn dân thiên hạ. "Quan trên trông xuống, người ta trông vào" . Làm siu bi wờ? Híc! Thôi luận một wẻ xem ra răng: Câu hỏi 1: Vụ cá độ này có xảy ra về mặt pháp lý hay không? Giờ Mùi ngày 18/ 10 - Mậu Tý: Cảnh Xích Khẩu: Nói chơi vậy chứ ló không xẩy ra. Câu hỏi 2: Vậy thì sau đó cái gì xảy ra: Tử Tiểu Cát: Đành chờ ông Hàn Quốc đến 2010 xem thế nào. Tuy nhiên xét về mặt phong thủy thì Hội Cựu chiến binh có vẻ ăn độ này (Nếu tiến trình xây dựng phạm phong thủy - tùy theo họ tiến hành xây như thế nào - trước sau hay cùng lúc - ba căn nói trên). Thiên Sứ tham gia cá độ :lol: : 1% số tiền cá độ trên để tư vấn điều này. Tất nhiên cũng sẽ không xẩy ra :rolleyes: .
-
Lạy Chúa! Nhật trình mạng đăng thế mà? Có thể nó sẽ không xảy ra về mặt pháp lý. Nhưng nó cũng là uy tín của cả hai bến đã công khai nói tới điều này, trên phương tiện thông tin đại chúng.
-
Lần này thì hẳn là ông Tây và cả Tây ăn rau muốn - "ông Nguyễn Quốc Hiển - Frank Montgomery - Paul Timms (Vương quốc Anh)" phát biểu ý kiến. Tất nhiên những ý kiến wan trọng như zdậy được đăng lên nhật trình hẳn hoi. Ghê chưa? Xem xong toàn bài thấy cũng có cái mà người ta quen gọi là "không khí tranh luận sôi nổi" nên Sư Thiến tui đưa nên đây để mọi người coi đỡ buồn. Xe máy chưa hẳn là nguyên nhân gây ùn tắc Lập luận cho rằng xe gắn máy là thủ phạm chính gây nên cảnh tắc nghẽn giao thông hiện nay không phải luôn luôn đúng. Nghiên cứu của các nhà khoa học mới đây khẳng định, hạn chế xe máy và thay bằng ôtô sẽ làm tình trạng thêm nghiêm trọng. > Ôtô đi vào đường ùn tắc sẽ phải trả phí "Trong một giờ, một dòng xe có 11 nghìn xe máy sẽ chở được hơn 12,5 nghìn người qua vạch dừng của một đường rộng 3,5 m. Giả sử thay thế phân nửa số xe máy bằng ôtô (với tỷ lệ trung bình xe máy chở 1,14 người, ôtô 1,6 người) thì số người qua vạch chỉ còn gần 8,6 nghìn", nhóm chuyên gia gồm ông Nguyễn Quốc Hiển - Frank Montgomery - Paul Timms (Vương quốc Anh) cho biết. Trong Hội thảo Giải pháp phát triển giao thông tại các nước đang phát triển (CODATU lần thứ 13) chiều 12/11, tại TP HCM, nhóm chuyên gia này đã đưa ra kết quả gần như lật ngược với những ý kiến cho rằng sự gia tăng chóng mặt số lượng xe máy là nguyên nhân chính dẫn đến kẹt xe. Đồng tình với quan điểm trên, Tiến sĩ Phạm Xuân Mai, Trưởng khoa kỹ thuật Đại học Bách Khoa TP HCM nêu lên thực trạng, các thành phố lớn tại Việt Nam cũng không thoát khỏi ùn tắc nếu như đường phố toàn ôtô và không có xe máy. Để giải bài toán ùn tắc TP HCM cần phải phát triển mạnh mẽ hệ thống xe buýt công cộng. Ảnh: Kiên Cường Theo nhiều đại biểu, cốt lõi của phát triển giao thông đô thị hiện nay của Việt Nam là hạn chế xe cá nhân và khuyến khích người dân sử dụng các phương tiện giao thông công cộng. Cũng với nghiên cứu trên, nếu chuyển đổi việc di chuyển 5.500 xe máy bằng 691 xe buýt (mỗi xe chở 10 hành khách), dòng giao thông sẽ chở được hơn 13 nghìn người qua vạch dừng. Đây là minh chứng rõ nét nhất cho tiện ích giao thông cộng cộng. "Hệ thống giao thông công cộng hiện chỉ đáp ứng 5 tới 7% nhu cầu của người dân, điều này dẫn tới sự ách tắc thường xuyên tại tất cả các nút giao tại Sài Gòn. Vì thế, việc phát triển xe buýt là không thể thiếu trong giai đoạn từ nay đến 2015 và sau đó kết hợp với hệ thống metro, monorail... mới thực sự có ý nghĩa với TP HCM", ông Mai khẳng định. Theo ông Mai, năm 2010 nhu cầu đi lại bằng giao thông công cộng của TP HCM sẽ lên đến 16 triệu lượt người một ngày, năm 2015 là 20 triệu trong khi tuyến metro đầu tiên đến năm 2014 mới có. Vì vậy, trong thời gian chờ đợi, biện pháp tốt nhất là hoàn thiện mạng lưới tuyến hiện hữu và đưa vào sử dụng loại xe buýt nhanh BRT (năng suất lớn, chi phí thấp, chỉ 12-18 tháng là hoàn thành). Các đại biểu cũng lưu ý bên cạnh ưu tiên phát triển xe công cộng, không chỉ riêng TP HCM mà Việt Nam còn nhiều vấn đề phải làm nếu muốn phát triển đô thị một cách bền vững. Chuyên gia giao thông đến từ Pháp, ông Bernard Rivalta và David Margonstern nhấn mạnh, trong tương lai để không xảy ra sự chồng chéo, mất hiệu quả, các thành phố lớn phải có một tổ chức đứng ra chịu trách nhiệm phối hợp và đưa ra những mức vé phù hợp ở tất cả các loại hình vận tải công cộng như metro, xe điện mặt đất… Đồng thời, phải huy động những thành phần kinh tế đóng góp vào việc phát triển giao thông (như đề ra một loại thuế thông minh), ở Pháp 35-37% chi phí phát triển giao thông có được từ những nguồn này. Ở một khía cạnh khác, ông Lê Anh Đức thuộc Đại học Kiến trúc TP HCM nêu quan điểm về sự bất hợp lý giữa phát triển hạ tầng giao thông và nhà ở đang là khó khăn của các thành phố lớn. “Đặc biệt, 6 vấn đề về quản lý như: đất đô thị, môi trường, hệ thống cơ sở hạ tầng, nhà ở, dịch vụ xã hội, phát triển kinh tế hầu như chưa được nghiên cứu trong mối quan hệ gắn kết với nhau để một thành phố phát triển là một bài toán nan giải”, ông Nguyễn Trọng Hòa, Viện trưởng viện nghiên cứu phát triển TP HCM nêu thực trạng. Kiên Cường
-
Thanhphúc đưa dự báo này vào topic: "Lời tiên tri 2009" và cho biết đã toán được quẻ gì. Tôi sẽ tham gia cùng Thanh Phúc. Chưa biết quẻ gì, nhưng có vẻ hợp lý trong tương quan giữa các sự kiện.
-
Stork đã được add vào lớp từ 11/11. Stork và Msnvn nên xóa cookies và login lại nếu không vào được lớp.
-
Thơ Say THI HOÀNG Khó đem bút mực làm giông tố Trải rộng lòng say một tối say Rượu rót tưởng ai mời đắm đuối Tưởng đâu trời rộng cánh chim bay Ta ơi! Tri kỷ ngàn năm cách Chưa đủ vơi trong một chén đầy ... Chưa đủ cho mình lau nước mắt, Rằng em sợi nhớ tóc như mây. Ðâu còn những lối hoa đào nở Thôi Hộ tìm chi những chốn này? Mặt ngọc đã không còn trước cửa, Sao thơm màu má thuở thơ ngây? Ca dao mẹ hát lưng chừng giấc, Em hứng mùa thu lạnh tối nay. Cảm tác Thơ Say Thiên Sứ Cạn chén ly bôi tràn bão tố. Nghiêng bầu uống hết đổi cơn say. Mặc người danh lợi trong mê đuối. Ngất ngưởng mình ta cánh hạc bay. Tìm đâu tri kỷ thiên thu cách. Nhân thế buồn vui một cốc đầy. Bề khổ trần gian tràn nước mắt. Mình ta men rượu gửi chân mây. Mặc đời thổn thức, hoa đua nở. Hồn phách có đâu gửi chốn này. Hương cũ thiên thu bay trước cửa. Men nồng tiên tửu cạn ngất ngây. Dốc chén ngàn năm qua một giấc. Đợi muôn năm cũ gặp đêm nay. .....................* Trần gian một cuộc tỉnh say. Hồn ai theo cánh hạc bay hững hờ
-
Thanh Vân thân mến. Để tôi xem lại. Nếu chưa ghi ý nghĩa quẻ năm Âm thì la do sơ sót của tôi. Tôi sẽ bổ xung ngay. Còn phần 6 LVDT . Đó là: Phân tích những quẻ LVDT tiên tri và ứng nghiệm. Gồm của tôi và các cao thủ như, như: Laviedt, Linh trang, Phương Ly, Luke....dự đoán về những chuyện trên thế giới, như sóng thần, lũ lụt....và đã ứng nghiệm. Phần này đang biên tập.
-
Ảnh cháy chợ Dịch Vọng Hàng trăm xe máy đã bị thiêu rụi, dãy ki ốt tan hoang là khung cảnh tại chợ Dịch Vọng (Hà Nội) trưa nay. VnExpress.net ghi lại hình ảnh vụ hỏa hoạn. Hàng chục xe cứu hỏa đã được điều tới. Trong chợ, lửa bốc lên ngùn ngụt. Lửa, khói bốc lên làm cháy xém cả ngồi nhà sát đó. Phải mất chừng nửa tiếng, ngọn lửa mới được chế ngự. Không chỉ các nhân viên cứu hỏa mà ngay cả lực lượng an ninh của chợ cũng được huy động để chế ngự bà Hỏa. Những chiếc xe tay ga đắt tiền, giờ chỉ còn là đống sắt vụn. Nhiều chiếc xe được đẩy kịp ra ngoài cũng bị hư hỏng nặng. Lửa cháy quá nhanh khiến nhiều người chẳng kịp dọn đồ. Phòng của Ban quản lý chợ cũng bị thiêu rụi. Được may mắn đưa ra ngoài nhưng chiếc xe này cũng gần như hỏng hẳn. Các dãy ki-ốt tan hoang... Do nằm sát chợ nên quán phở này cũng bị cháy sạt mái, khách hàng phải sơ tán. Nhiều quán hàng gần đó cũng phải dọn đồ ra ngoài đường. Trên phố Chùa Hà, cổng phụ của chợ Dịch Vọng, hàng trăm xe máy được tập kết, giao thông ách tắc. Tiến Dũng - Hà Anh
-
Người từ ở cõi hư vô. Về đây làm gió bụi mờ mịt bay. Tôi xin em sợi tóc mây Buộc thời gian để chờ ngày thiên thu.
-
Vụ Án Lịch Sử Việt Nam-Yiệc Nam-Byiệt Nam Vietsciences- Trần Thị Vĩnh Tường 03/09/2008 Những bài cùng tác giả Bài viết này đựoc gợi ý từ khoảng 3 năm trước, khi nghe thắc mắc của một nam thính giả người Nam gửi đài phát thanh địa phương, “tại sao các xướng ngôn viên phát âm giọng Nam chữ Việt Nam thành Yiệt Nam, giống như Việt Nam bị tiêu diệt, nghe hổng khá”. “Khôn Ngăn Châu Lụy Sụt Sùi” Thầy cô giáo tình nguyện dậy tiếng Việt khi học trò hỏi cũng bí lù chuyện đúng/sai đến nỗi sém có đề nghị bỏ môn… chánh tả. Có lẽ rất ít cộng đồng nào giới có học vẫn “viết sai” chính tả như người miền Nam. Thật ra giọng Hà Nội ở giới có học hay bình dân cũng “nói sai” linh đình một số âm đầu như s/x, ch/tr, n/l, r/d/gi… dù giọng Hà Nội được vài học giả mặc nhiên cho là giọng tiêu chuẩn đến nỗi không đính kèm chứng minh. Điều ngộ nghĩnh, tất cả những điều sai trên chiếm đa số tuyệt tuyệt đối, vậy mà vẫn chịu tiếng “sai”. Điểm lạ nhất là hết học giả này đến hội nghị kia - ở vùng tôi - tranh cãi “khôn ngăn châu lụy sụt sùi” (1) như ông Phan Khôi vì nỗi “tôi đúng/anh sai” nhưng vẫn… e lệ nép vào dưới hoa không hề cho biết nguyên nhân cũng như cách sửa sao cho đúng. Âm [v] truớc thời quốc ngữ abc Không biết nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, người Hưng Yên, Đàng Ngoài, thỏ thẻ gửi đến chinh phu những chữ “vàn, vui, vốn” thế nào trong bốn câu Chinh Phụ Ngâm (2): Câu 267 Khi mơ, những tiếc khi tàn, Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không! Vui có một tấm lòng chẳng dứt. Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi! Một tài liệu vô danh viết tay năm 1648 có câu “Nhơn danh cha, ùa con, ùa Spirito Santo” ,“và = ùa”, Spirito Santo chưa được viết là “Thánh Thần” (5). Linh mục Ý Christofori B. Bori, trong một bức thư viết tay năm 1631, viết “Con gnoo muon bau tloam laom Hoa laom chiam” (con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng), có nghĩa: cô/em có muốn theo đạo của người Hoa Lan không (3). Chỉ trong câu ngắn này, có vài điều hết sức lưu ý: bau = vào, tloam = trong, chữ Việt không dấu. Ông Phan Khôi viết “Theo lời truyền thuở nay thì chữ quốc ngữ do một ông cố đạo đặt ra”. Thiệt ra không chỉ “một ông cố đạo “, mà các cuốn từ điển quốc ngữ đầu tiên do nhiều bậc thầy hợp soạn, gồm các thầy giảng đạo và các cộng sự người Việt cả về phần phương pháp và tài liệu. Hãy xem thử vần V trong hai cuốn từ điển Alexandre de Rhodes và từ điển Taberd (4). Hai cuốn này, do hai nhóm soạn giả khác hẳn nhau. Thời điểm, không gian cũng khác nhau xa lắc. Âm [v] trong từ điển Alexandre de Rhodes 1651 Vần V từ điển A. D. Rhodes có khoảng 150 chữ. Tuy vậy chỉ có 25 chữ được viết bằng V và đọc với âm [v]. Ví dụ: vắng, vắng vẻ váng dện, mạng dện vàng, chim vàng anh 125 chữ khác tuy xếp vào vần V, nhưng đựơc viết là “ua, ue, ui, ou…” đọc như [w] hay [b-ỳơ] uòi uoi = byòi byoi con uịt = con yịt oũ bà oũ uãi = ông bà ông byải úen áo = byén áo Lật qua vần B, có khoảng 550 chữ, trong đó có 350 chữ viết với B, đọc như : bạn bè, bàn thờ, bền bỉ. Có khoảng 100 chữ viết với B, nhưng được ký âm bằng ký hiệu beta [b] của Hy-Lạp đọc như “beào” (5) hay b-ỳơ trong giọng Nam bộ, ví dụ: bua = byua bú bõ = byú bõ bui bẻ = byui byẻ Âm [v] trong từ điển Taberd 1838 Có 238 chữ vần V. Các soạn giả… thoải mái quất chữ V hết ráo, như âm [v] trong giọng Bắc hiện nay. Vần B chỉ còn lại một chữ “bua= vua”. Vài ví dụ chứng tỏ sự khác nhau giữa hai nhóm soạn giả: Chữ thường: tđ A.D. Rhodes, chữ lớn: tđ Taberd: blọn uẹn - TRỌN VẸN muôn uật - MUÔN VẬT uiệc Chúa blời - VIỆC CHÚA TRỜI Điều này chứng tỏ trong vòng 187 năm, một là các thầy và cộng sự đã đơn giản bằng cách loại bỏ những âm [w, b, b-ỳơ], và khóac cho âm [v] giống tiếng La tinh, hai là dân Việt đã thay đổi giọng nói theo sự hướng dẫn của quí thầy. Hoặc điều này là kết quả của điều kia. Thành công của abc Các thầy ký âm abc cho tiếng Byiệt là các thầy giảng đạo ngoại quốc. Đàng Ngoài/Đàng Trong (Đàng Ngoày/Đàng Tlão = ký âm của Gaspar De Amaral năm 1632) không có email/phone/fax/máy ghi âm… như bây giờ. Hai Đàng lúc nào cũng chuẩn bị choảng nhau. Các thầy ở Đàng nào ở yên Đàng đó, vừa học tiếng Việt, vừa giảng đaọ, vừa trốn tránh. Thư từ qua lại rất bí mật và tốn kém, vì rất dễ bị cả chúa Nguyễn/chúa Trịnh nghi ngờ làm gián điệp cho phe bên kia, hậu quả có thể bị trục xuất. Riêng Alexandre de Rhodes bị trục xuất cả thảy sáu lần. Trong hoàn cảnh đó làm gì có thì giờ thẩm âm/nghiên cứu/giải quyết từng chữ. Dẫu sao, các thầy còn dè dặt không dám ban chữ V từ tiếng La Tinh cho tất cả âm w, b-ỳơ, b. Trong phần mở đầu từ điển, linh mục A. D. Rhodes * cho biết âm vị áp dụng là của Bồ-Đào-Nha/La-Tinh, * giải thích rõ ràng về phụ âm, nguyên âm, * lại ghi cả cách phát âm sai biệt ở các địa phương, cho thấy các soạn giả rất khách quan và khoa học, không xác nhận phát âm nào nguyên thuỷ hay chính thức hơn âm kia. Ví dụ: buông = vide (xem) buâng cuội = vide (xem) quội. Tuy vậy, tác giả Hoàng Xuân Việt cũng cho là một sự ngạc nhiên vì A. D. Rhodes lại không nói năng gì về chữ V. Tác giả HXViệt cũng đặt câu hỏi phải chăng âm V là âm Tây phương, không phải âm Việt cổ. Thật ra tiếng Pháp cách đây 357 năm cũng đâu có âm [v]. Họ đọc/viết “ouelle” cho chữ vowels. Tiếng Spanish dù vẫn viết V, nhưng chỉ là âm lưng chừng giữa âm [v] và âm , ví dụ “ la vida” đọc là “la biđa”. Cho đến từ điển Taberd, chế độ thuộc địa Pháp đã vững vàng. Các thầy không còn phải trốn lánh, nên thoải mái “ép” tiếng Việt cho giống với âm La Tinh. Không rõ tại quý thầy chỉ thích âm [v] hay tại tiếng Việt có nhiều cách phát âm cho cùng MỘT chữ làm quí thầy bối rối. Trên hết mọi sự, quốc ngữ abc tiếng Việt là một thành công bất ngờ. Chỉ với 24 chữ cái, tiếng Việt được a-b-c hoá. Từ đó, muôn vàn trang giấy mô tả được hết thảy: lịch sử, cuộc sống dân gian và bản tính của tâm hồn Việt. Điều này đã ra ngoài cả sự tiên liệu của chính quyền Pháp mà mục đích ban đầu của truyền bá quốc ngữ abc là chỉ muốn loại trừ chữ Nho, chữ Nôm và ảnh hưởng của Nho sĩ. Độc giả có thể tìm mua hai từ điển này, tuy hơi hiếm, nơi chữ nghĩa/ý nghĩa có thể dựng nên được cả một bức tranh ngôn ngữ/phong tục/lối sống/cách suy nghĩ của dân Việt thế kỷ 17 và cả trước đó. Thành công nhất của việc quốc ngữ hóa abc, là tạo được tính thống nhất trong đánh vần, mà vẫn giữ đuợc cách đọc, giọng nói của mỗi vùng mỗi miền, nhờ hai ông Trương Vĩnh Ký và ông Huình Tịnh Của (16), như ông Phan Khôi viết (1) “Hồi đó có hai ông đại sư về quốc ngữ, là ông Trương Vĩnh Ký và ông Paulus Của, tức là Huình Tịnh Trai. Vì mỗi ông có làm ra một bộ tự vị tiếng An Nam. Các ổng cũng là học trường bên Đạo mà ra, cho nên các ổng viết chữ quốc ngữ y như người bên Đạo, nghĩa là viết đúng. Hồi bấy giờ chắc người Nam kỳ phát âm cũng vẫn là không đủ, cũng vẫn là lẫn t với c, lẫn có g với không g, lẫn dấu ngã với dấu hỏi, song le các ổng viết ra thì phân biệt đâu ra đó, vì vậy các ổng mới dám làm tự điển. Mà tự điển của các ổng sau rồi trở nên mẫu mực cho người An Nam, ai cũng phải dùng, dùng đến cả phía bắc Trung kỳ và Bắc kỳ là miền chữ quốc ngữ đã do đó sanh ra.” Âm [v] trong từ điển Mường-Việt 2002 (6) HHỏi quí thầy xong, cũng phải chạy về hỏi ngài Mường, vừa là chị em ruột thịt trong nhà; vừa là nhân chứng khách quan ở chỗ không học sử Tàu sử Việt nên không cần tránh né hay ve vuốt ai ráo trọi. Truyền thuyết Âu Cơ (7) của ngài (người) Mường, tương đương với truyền thuyết Hồng Bàng của ngài Việt. Ngài Mường - hậu duệ cuả tiên nữ nai-đốm-sao Âu Cơ, mẹ của vua Hùng Vương, phân nửa kia của tộc Việt. Âu Cơ mặc áo đen, kết duyên vớí Long Wang mặc áo vàng, con vua Yịt Yàng (Việt Vàng). Một hôm Long Wang quyết định chia tay “ta với nàng khác giống”. Âu Cơ dẫn 50 con đi về miền núi; Long Wang dẫn 50 con đi về miền sông nước. Không thấy cả hai truyền thuyết nhắc đến nhau sau ngày chia tay ấy. Hậu duệ của nàng Âu Cơ cả hàng ngàn năm không sống gần ngưòi Việt đồng bằng, nên tiếng nói cuả ngài Mường không bị Hán hoá và abc hoá. Jeanne Cuisinier (8) ở vùng Mường suốt 15 năm cũng công nhận Mường không có âm [v]. Xem thử nhóm vần V, khoảng 68 chữ (6) - Cảo nì phái vo xát kỹ khỏi hôi = Gạo này phải vo xát kỹ khỏi hôi. - Cải à, là hết wiêc văt chũa? = Con à, làm hết việc vặt chưa? - Ông Bi ưa vỡ mõn hơn vỡ cá = Ông Bi ưa vợ mọn hơn vợ cả - Hõ nhà tôi chăng cỏ ay là vua quan chi = Họ nhà tôi chẳng có ai là vua quan chi. Chỉ quí soạn giả mới biết những chữ đuợc viết với V thế này có phải do kề cận với người Byiệt đồng bằng không và kể từ bao giờ. Tuy vậy vẫn có những chữ được viết với cả V lẫn B, ví dụ: vua-bua, vai-bai, vòi-bòi, vỡ-bỡ (vợ), vậy-bẫy, vây-bây, vóc-bóc, vô-bô, vú-bú, vừa-bừa… Mở qua vần W, có một số chữ giọng Bắc (và một số) giọng Trung sẽ đọc là V, giọng Nam đọc là [w] hoặc [b-yờ] - Con wac mà ti ăn têm = Con vạc mà đi ăn đêm - Da wái chiềng thờ cho ho pỡi = Anh vái bàn thờ cho tôi với - Cầm mẩy cải wán nì wềl cho ủn = Cầm mấy cái oản này về cho em. - Da chở cỏ wẽ chiễn tha nưa = Mày đừng có vẽ chuyện ra nữa (Chợt để ý: chiễn = rất giống với giọng Nam = mày đừng nhiều chiệng). - Cải wày way nì nẵng khoáng môch tã = Cái vòi voi này nặng khoảng một tạ. Rất ngộ nghĩnh, từ cái vòi của chú voi, tiếng Mường/Tày/Nùng cũng có “tà pòi”. Pòi = cái vòi của bé trai, chính là thứ mà pà mụ chỉ nặn riêng cho pé trai. Pé gái có khi cằn nhằn phân bì sao con không có. Pòi = bòi đều là âm tương đương nơi các thị tộc cùng gốc tổ vào thời xa xưa, hoàn toàn không phải âm này biến qua âm kia. “Tà”, mạo từ như cái/con ở tiếng Munda, Mon-Khmer, Hmong, Mường. Mở qua vần B cũng thấy nhiều chữ người Mường đọc là , giọng Bắc (và một số) giọng Trung đọc là V, giọng Nam đọc là [b-yờ] bỉm thay = ví tay bải chào = vái chào bài tồng tiền = vài đồng tiền chở cải bô lỉ = chớ cãi vô lí ti no mà bỗi mà bàng = đi đâu mà vội mà vàng mộch bỡ pà, pa bỡ thiêp = một vợ cả, ba vợ thiếp (vợ lẽ) Chữ Việt theo Bình Nguyên Lộc 1971 (10) Ông Bình Nguyên Lộc luôn luôn đòi “làm cho ra lẽ” các vụ án lịch sử chữ nghĩa. Điều ra lẽ ngoạn mục nhất cuả BNLộc, là truy lùng chữ Việt từ hồi ban sơ và từ đó theo dấu được những tộc người đã cấu thành dân tộc Việt Nam ở mảnh đất hình chữ S. Theo BNLộc, có cả thảy bốn chữ Yit, là tên tự xưng của người Yit. Khi có chữ, người Tàu Hoa Hạ ghi lại theo kiểu tượng hình: - Chữ Yit đầu tiênxuất hiện từ thời nhà Thương, khoảng từ 1000 đến 2000 năm TTL, chỉ cái rìu có tay cầm - dụng cụ của chủng Yit - khi người Hoa Hạ lần đầu tiếp xúc với chủng Yit ở Hoa Bắc, mạn bắc Hoàng Hà. - Chữ Yit thứ hai 粵đuợc viết thêm hạt thóc trên cái rìu, ý nói giống dân có cái rìu và biết trồng lúa nước. Chữ này có từ đời Xuân Thu (722- 481 TTL). Ngày nay chữ Yit này vẫn chỉ tỉnh Quảng Đông (cũng là Việt, chi Thái-cổ tức Âu). - Chữ Yit thứ ba: Tẩu + Tuất: 走戌, mang nghĩa 'Vượt'. Dùng để chỉ chủng Yit thuộc đám Bách Bộc, Lạc bộ Trãi, phía Bắc Hoàng Hà, đã vượt sông Hoàng Hà chay xuống nhập với đám Việt đã ở sẵn tại nước Sở và xung quanh nước Sở, lúc đó là khu Động Đình Hồ. - Chữ Yit thứ tư: Tẩu + Qua (dáo mác): 越, cũng vẫn mang nghĩa Vượt, để chỉ đám U Việt, Lạc bộ Trãi ở miệt Sơn Đông, phía Nam Hoàng Hà. Chữ V theo Nguyên Nguyên 2007 Theo tác giả Nguyên Nguyên, khoảng 5000 năm trước chủng Yịt ở rải rác từ phía bắc sông Hoàng Hà đến cực nam sông Dương Tử - lúc đó chưa có nước Trung Hoa (11a) - Những biến động lịch sử dẫn đến chiến tranh suốt hàng trăm năm không dứt khiến họ hết thời điểm này đến thời điểm khác có mặt tại cổ Yiệt, tức đồng bằng sông Hồng. Bản đồ dưới đây cho thấy địa bàn liên tục của hai chi Âu và Lạc cũng như lộ trình di tản xuống cổ Việt, lúc đó chưa gọi là Việt Nam: Trong bài viết gần đây nhất góp tiếng với Trần Hữu Thuần (12) Nguyên Nguyên (11b) có vẻ cho biết tiếng Việt là một hỗn hợp lâu dài của các thứ tiếng thuộc nhiều tộc người khác nhau, với hạ tầng cơ bản là Môn-Khmer phối hợp với Thái-cổ (tức Âu, thành phần chủ lực của tiếng Mường) cộng với khối Đa-Đảo. Chồng chất và đan xen với lớp hạ tầng cơ bản đó là các thứ tiếng xuất phát từ khối Bách Việt xưa ở miền Hoa Nam, từ Vân Nam (Điền Việt) trải qua Quảng Tây, Quảng Đông (Tây và Đông Việt) cho đến tận Chiết Giang (Ngô-Việt), Phúc Kiến - Triều Châu (Mân Việt), và Hải Nam, v.v. Và hỗ trợ bằng hai nhóm từ miền cực Bắc nước Tàu, thời Xuân Thu thường gọi khối Đông Di tập trung ở khu vực tỉnh Sơn Đông ngày nay. Đó là hai nhóm khi xưa ưa sống gần gũi nhau: Hẹ (Hakka, tức Hạc Việt) và Miêu-Dao Miao-Yao hay Hmong-Mien). Hai chữ “Việt Nam”, tiếng Mường xưa đọc Yịt Nam Nam Bộ xưa đọc Byiệc Nam, nay đọc Yiệc Nam Quảng Đông đọc Yueh Lam, hoặc Yueh Nam Thuợng Hải: Yue Ne Quan Thoại: Yue Nan, Hẹ (Hakka): Yue Nam Sơn Đông: Yue Nam Nhật Bản: Beto-nam Những tiếng này đều là âm tương đương vì cùng gốc tổ vào thời xa xưa, hòan toàn không phải âm này biến qua âm kia. Giống như tiếng nói của hai hoặc nhiều dân tộc láng giềng, theo sắp xếp địa lý, có một số từ vựng và cấu trúc giống nhau, và một phần lớn hơn lại khác nhau. Nhưng rất có thể không có vấn đề vay mượn, nhất là trong một quá khứ xa xưa. Chỉ có đóng góp khác nhau của mỗi thành phần sắc tộc tại mỗi quốc gia láng giềng với nhau. Mô hình này được gọi mô hình theo kiểu ‘Cây-và-Đất’, để phân biệt với thứ mô-hình tạm gọi ‘Cây-và-Cành’ thường xuyên được sử dụng từ trước đến nay, nhất là trong nghiên cứu ngữ học. (11b) Khi hay mình có gốc gác khác nhau, người Việt cảm thấy gì? Có thể sẽ thấy… giống nhau và gần nhau hơn là khi không biết là có khác nhau? Nhưng dù khác nhau thế nào vào buổi ban đầu, tất cả bây giờ vẫn là Người Việt, dân của quốc gia duy nhất giữ được “Việt” trong quốc hiệu. Hành trình ngàn năm của chữ Yit-Yue-越-Việt: Yit, chữ Trung Hoa viết 越. Nếu giả thiết của hai tác giả Bình Nguyên Lộc và Nguyên Nguyên đúng, thì hành trình của chữ Yit-Yue-越-Việt dài khoảng 5000 cây số theo đường thẳng, từ Sơn Đông đến mũi Cà Mau, trong gần 5000 năm (13). 越được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong sách sử của người Trung Hoa, cho thấy họ biết rất rõ Yue là một ý niệm bền bỉ nơi những nuớc hay dân tộc thuộc chủng Yue. - Yit trong Âu Việt 甌越,tức Tây Âu - Yit trong Việt Vương Câu Tiễn 越王句踐 có nàng Tây Thi, thời Chiến Quốc, 496-465 TTL - Yit trong Nam Việt 南越 của Triệu Đà, năm 257 TTL - Yit trong Mân Việt 閩越 - Yit trong U Việt 於越, - Yit trong Dương Việt 揚越 - Yit trong Đông Việt 東越 - Yit trong Sơn Việt 山越 - Yit trong Lạc Việt 雒越 - Quốc hiệu Đại Cồ Việt 大句越 của Việt Nam thời nhà Đinh năm 968 - Quốc hiệu Đại Việt 大越 của Việt Nam thời nhà Lý năm 1054, - Quốc hiệu Việt Nam越南 thời nhà Nguyễn Gia Long năm 1802. - Tiếng Quảng Đông vẫn được gọi là Việt ngữ 粵語. Nhưng Việt viết 粵cho thấy người Tàu có hiểu biết rất sâu sắc và phân biệt các tộc Yịt ngày từ thời xưa. Người Mường vẫn nhớ âm ban đầu là Yit, và byua cuả đám Yit này là byua Yit Yàng, mà họ cũng gọi là byua Hùng Wang. Ký ức người Nam bộ từ khi theo công chúa Ngọc Vạn năm 1623 đi mở nước ở miền Nam vẫn lưu giữ chữ Yiệc, Byiệc. Phát âm Yit của Mường và Yiệc của người Nam Bộ chính là một khoen trung gian vô cùng quan trọng nối với mắt xích ban đầu. Khi Yit được các ông nghè ông cống Đàng Ngoài tô son cài hoa thiên lý thành Việt thì họ hoặc ở chốn wê mùa hoặc đã tẩu vô Nam trước đó nên hổng có hay. Sông Pơ Đuông -có nghĩa lúa gạo- biến thành sông Đuống cho thấyYịt biến thành Việt cũng là điều dễ hiểu. Trường hợp đám phiêu lưu giữ lại âm cổ xảy ra dài dài. Vùng Pensylvania bên Mỹ vẫn còn tiếng Anh cổ. Người Bạch Nga qua Úc đầu thế kỷ 20 vẫn dùng tiếng Nga thời Nga Hoàng. Âm [v] nơi láng giềng Cho tới bây giờ tiếng Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật, Triều Tiên, Indonesia,Thái, cũng không có âm [v]. Tiếng Thái, tiếng Ấn chỉ có âm hơi giống âm [w] trong chữ wind của tiếng Anh. Giống tiếng Việt xưa, tiếng Triều Tiên cũng có rất nhiều âm : bulgogil = bò (thịt), bae = cái bè. Tiếng Mường, Triều Tiên, Miến Điện, Lào Thái, Khmer, Chàm, Tày-Nùng đều có âm “bờ-yờ” - dưới dạng [p-ỳơ] - với b hay p đọc nhẹ và nhanh. Người miền Trung từ Qui Nhơn-Tuy Hoà trở vô vẫn có âm “bờ-yờ.” Tuy từ điển Chàm và từ điển Taberd không còn ghi âm “bờ-yờ”, nhưng ghi hay không là chuyện của giới khoa bảng, âm “bờ-yờ” vẫn được dân chúng bảo lưu, vì bà con ít khi dòm hành đến từ điển. Nhiều khi các học giả cãi nhau loạn xạ, dân lành vô tội tỉnh bơ, như yụ om sòm về con chim Lạc, về Lạc Vương/Hùng Vương trước 75 ở Saigon. Ít lưu ý đến các đề tài văn hoá/lịch sử không phải dấu hiệu hay, nhất là nơi một dân tộc lúc nào cũng tự hào có bốn ngàn năm văn hiến. Âm [v] ở trong Nam Người Byiệt Đàng Trong, nhất là người Nam bộ dù là xứ thuộc địa của Pháp, lại cầm cự lưu giữ được âm w, b-ỳơ. Thời ông Phan Khôi, có phong trào học abc, “Chữ quốc ngữ chữ nước ta con cái nhà đều phải học”. Ông Phan Khôi xúi phe tóc dài kéo phe húi cua học quốc ngữ theo kiểu Lưu Bình Dương Lễ, nếu chưa thi đỗ thì chưa động phòng “Rồi các cô hẹn nhau, rày về sau, hễ các cậu, cậu nào viết quốc ngữ đúng thì các cô hãy cho bưng trầu rượu đến nhà; còn không, thì đuổi họ đi cho rảnh”. Mấy cổ đuổi vô hay đuổi ra, ai mà piếc. Nhưng ở miền Nam yụ học chữ abc ngon lành hết piếc như ông Phan Khôi viết “Trong khi ấy thì ngoài Trung, Bắc kỳ, người An Nam ta đương còn nằm sấp xuống, cấn bụng trên ván, duỗi cẳng dài đuột đuột mà viết chữ Hán, từ bậc ông Cống ông Nghè cho đến chú Trùm trong xóm cũng vậy. Kể cái công tập tành chữ quốc ngữ cho quen và rải rắc nó cho một ngày một rộng ra, ấy là phải kể cho xứ Nam kỳ. Tôi muốn nói xứ Nam kỳ là thầy dạy quốc ngữ cho cả và dân An Nam, cũng không phải là quá đáng. Độc giả hãy nhớ, xứ Nam kỳ là thầy dạy quốc ngữ cho dân An Nam! “ Ổng nói dạy đây là dạy VIẾT. Nguời miền Nam, thời ông Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, hay ở chỗ viết vẫn trúng chánh tả. Nhưng vẫn nói giọng Nam bộ, tức giọng Byiệt cổ, trong đó có âm [b-yờ], dù cô Sáu mang thuỷ xoàn mặc quần sa teeng hay chú Ba pán pánh pò pông. Hồi gia đình tôi mới di cư vào Nam 1954, vẫn nghe bà ngoại chòm xóm la om “Úc, mày làm giống gì ngoải, hổng yìa cho em bú, nó nhè ngoại nó đòi byú nè…” Khoảng năm 1980-90, trên một chuyến phà Châu-đốc – Nam-Vang, lẫn trong tiếng võng đưa giữa đám bạn hàng, vẳng tiếng ru em đẫm màu Nam Bộ, rất “đậm đà bản sắc dân tộc” dù có thể bị các học giả biến sắc mặt bắt lỗi “nói”sai… chánh tả: Đi đâu cho thíp theo cùng Đói no thíp chiệu lặn lùng thíp cam Yí yầu tìn có yở yang Thì cho thíp gọi đò ngang thíp b-yề. Yí yầu tìn béeng yiêng thề Thì cho thíp được đền nghì trúc mai Định mệnh ngoại hạng của Âm [v] 1. Ở từ điển Alexandre de Rhodes, không tìm thấy chữ Việt, Yiệc, hay Byiệc trong các vần V, W, B. Lý do: vào năm 1651, người và nước Việt Nam còn được gọi là An Nam. 2. Đến từ điển Taberd, trào vua Gia Long, mới có chữ Việt Nam=Regnum Anamiticum 3. Tự điển Mường Việt ghi chữ Yịt ở vần D = Dịt. Sử thi truyền khẩu Đẻ Đất Đẻ Nước (9) của người Mường “nói” byua Yịt Yàng. Nhưng khi ký âm abc lại “viết” vua Dịt Dàng. Nếu phát âm chữ Dịt đó theo giọng Bắc như tôi sẽ làm mất khoen nối giữa Yịt - Yiệc - Việt. Thì đừng nói thế hệ sau, ngay thế hệ này đã không hiểu chữ Yịt - Yiệc - Việt có ràng buộc quan trọng tới mức nào. 4. Chữ quốc ngữ phát xuất từ các xứ đạo Đàng Ngoài, nơi vâng lời là một đức, nên đám tân tòng tuyệt đối nghe theo lời chỉ dẫn của các thầy. Dần dần, quốc ngữ abc vượt ra khỏi khuôn viên nhà thờ. Nguời Việt Đàng Ngoài có lẽ quá hâm mộ chữ quốc ngữ abc nên đã - thẳng tay loại trừ một số âm như: bl, tl, ml, kl, b-ỳơ, w - tuyệt đối chấp nhận âm [v] coi như tiêu chuẩn 5. Phát âm Nam Bộ trước sau trung thành với tiếng Byiệc. Khi các thầy soạn tự điển Alexandre de Rhodes, không có giọng Nam Bộ dự phần vì chưa có miền Nam. Tuy vậy, chính người Nam Bộ đi tiên phong trong việc dạy chữ abc. Nhưng giọng Nam lại bị các học giả cho là…sai. Và người Nam lâu dần cũng tin tưỏng như thế vì từ ông Phan Khôi và ngay cả ông Bình Nguyên Lộc đều cho là “tiếng Bắc trúng hơn” dù giọng Bắc cũng “nói” sai tùm lum tà la với chữ viết. Ví dụ “nái xe nam neo nên nề nạng qua nạng nại nật nuôn/lái xe lam leo lên lề lạng qua lạng lại lật luôn” . 6. Dư luận vẫn cho rằng giọng Nam Bộ “lẫn t với c, lẫn có g với không g, lẫn dấu ngã với dấu hỏi” hoặc giọng Bắc “sai” khi không phân biệt s/x, ch/tr, n/l, r/d/gi…Đốt cái dư luận ấy đi! Vì giới ngôn ngữ học hồi đó (và cả bây giờ) không tính tới thành phần hết sức pha trộn của dân Việt, mà sự khác biệt về dấu/giọng phản ảnh sự khác biệt nguồn gốc ban đầu. Có thể tóm tắt: cho mãi đến khoảng đời nhà Trần, tại xứ Việt cổ không có một chi chủng thuần tuý nào gọi là chi chủng Việt Nam. Tức không có chi nào gọi là chi Việt Nam trong khối Bách Việt. Mà chỉ có hàng trăm chi trong Bách Việt cung cấp các nòi giống khác nhau cho giòng giống Việt, làm thành dân tộc Việt Nam ngày nay. Sách vở chính thức sau 1975 cho rằng có 54 dân tộc trên mảnh đất VN. Điều này cho thấy nguời Việt không phải là một dân tộc thuần chủng như hồi nào tới giờ lầm tưởng. Những dân tộc này cùng có chung một số từ, chứng tỏ thời gian cộng cư. Ví dụ, chữ “va” (đọc là [Ya]) = thằng chả/gã nọ/anh ta, thời ông Hồ Biểu Chánh vẫn còn rất phổ biến trong Nam. Theo tác giả Nguyên Nguyên : phát âm [Ya] hay [bờ ya] hay [ba], giống với Hakka [za], Mã Lai [Dia] hay [ia], Tagalog [niya], Sinhalese [Eya], và Polynesian [ia] (11a), giọng Nam nói YA vì có gốc Mon-Khmer và Đa Đảo. Giọng Bắc nói VA vì tiếp cận/hợp chủng/hoặc cả hai, với người Hẹ Hakka. Người Hakka là nhóm chủ lực ở miền Bắc. Hakka cho cả hai âm [za] và [v]. Âm [v] là âm đặc thù của người Hakka thay cho âm W của người Hoa ở các khu vực phía trong kể cả Bắc Dương Tử (tiếng Bắc Kinh). Vì người Hakka có gốc ở miệt Sơn Đông nên cho đến ngày nay tiếng Tàu ở Sơn Đông vẫn có âm [v] thay cho âm W ở tiếng quan thoại/Bắc Kinh (11b). Đền nghì trúc mai Bài viết Tiếng Quảng Trị của Trần Hữu Thuần (12) cho thấy chỉ có vài làng ở gần nhau mà tiếng nói cũng khác. Tiếng Việt vẫn có những khác biệt, và sẽ mãi mãi khác nhau như thế. Tuy vậy, sự khác biệt ấy không quá lớn lao như ở Phi Luật Tân, tuy là một hải đảo độc lập, nhưng có tới 27 tiếng nói khác hẳn nhau. Họ phải dùng tiếng Tagalog ở trường học và tiếng Anh ở thương trường hay diễn đàn chánh trị. Không cần thở ngắn than dài vì sai biệt đó không làm giảm tính thống nhất trong tiếng Việt, dẫn tới những thống nhất khác như phong tục, lối sống, cách suy nghĩ. Thế giới đang tìm cách phục hồi những tiếng nói trên đà diệt vong. Ở Quảng Bình, đám người Rục, người Nguồn (14) mà tiếng nói và nguồn gốc được xem là Việt tối cổ vẫn là đề tài nghiên cứu. Giữ được tiếng nào hay tiếng ấy cũng là cách đền nghì ơn tổ tiên. Năm 223 TTL khi Tần Thuỷ Hoàng gồm thâu sáu nước, nước Sở tiêu tán đường. Quí tộc bị giết chết. Dân chạy tan tác. Số ở lại, bị tàn sát hoặc đồng hoá tận gốc rễ. Sau bao cố gắng, đại học Massachusetts Amherst chỉ sưu tầm được… 5 chữ (15). Riêng Yit, Byiệc, Việt đã chịu sự thử thách của thời gian gần 5000 năm, trôi nổi từ thảo nguyên mênh mông đến sông dài núi rộng, vượt sóng cả trùng dương, vượt lên trên tất cả những oái oăm của lịch sử, cho thấy quá khứ của cả một dân tộc không chỉ lưu lại trong chữ viết. Vườn nào hoa nấy Có thể nói, không có chuyện đúng sai trong âm V. Vấn đề chỉ là giọng Bắc đã quốc tế hóa được âm v, cũng như giọng Nam đã quốc tế hoá được âm tr. Bài viết này không phải là một sáng tác. Chỉ làm công việc lượm lặt lý giải của những người đi trước để trả lời cho thắc mắc chữ V: tiếng nói có trước, chữ viết có sau, các xướng ngôn viên người Nam đã trung thành với phát âm cổ của tiếng Yiệc từ 5000 năm trước abc: Byiệt, Byiệc, Yiệt, Yiệc. Viết theo abc là Việt. Viết cũng như nói, Việt không bao giờ là Diệt hay Dziệt cả. Trần Thị Vĩnh Tường Ghi chú (1)Phan Khôi (1887-1959)/Chữ quốc ngữ ở Nam kỳ với thế lực của phụ nữ http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php...=5465&rb=06 Ông Phan Khôi thấy báo chí viết sai chánh tả, ông sót sa “khôn ngăn châu lụy sụt sùi” và đề quyết “chữ quốc ngữ ở Nam kỳ mà viết sai bậy bạ hết là bắt đầu từ các ông làm báo bậc tiền bối”. (2) Chinh Phụ Ngâm, tác giả Đặng Trần Côn (1715-1745) người làng Mọc, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Bản dịch Nôm được cho là của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1748), người làng Giai Phạm, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, khoảng giáp Bắc Ninh. (3) Phụng Nghi/100 Năm Phát Triển Tiếng Việt, NXB Văn Nghệ 1999, California (4) Từ điển Việt-Bồ-La, Alexandre. De Rhodes, Dictionarivm Annnamiticvm – Lusitanvm – Latinvm, soạn cho Đàng Ngoài, in lần đầu tiên ở La Mã năm 1651, Viện Khoa Học Xã Hội/HCM tái bản năm 1991. Từ điển Việt-La Tinh Taberd, Dictionarium Anamitico-Latinum, được soạn sau khi nước nhà đã thống nhất không còn Đàng Trong/Đàng Ngoài, in lần đầu tiên tại Bengale (Ấn Độ) năm 1838, tái bản 2004, NXB Văn Học/Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, Hà Nội và TPHCM. (5) Hoàng Xuân Việt/Tìm Hiểu Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính, NXB Văn Hoá Thông Tin 2007 (6) Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Bùi Chỉ và HoàngVăn Hành , NXB Văn hoá Dân Tộc (2002). (7) Tên Âu Cơ cũng là tên đã Việt hoá. Tên Mường là Ngu Cơ. Ngu Cơ cũng là tên người đẹp của tráng sĩ Hạng Võ trong tuồng “Hạng Võ biệt Ngu Cơ” (8) Jeanne Cuisinier, tác giả La Danse Sacrée en Indochine et en Indonésia [Múa thiêng ở Đông Dương và Indonesia] và Les Mương, Geographie Humaine et Sociologie (Người Mường, Địa Lý Nhân Văn và Xã Hội Học), Université de Paris, 1946, (9) Đẻ Đất Đẻ Nước, NXB Văn Học – Hà Nội 1976 (10) Bình Nguyên Lộc (1914-1987) tác giả hai cuốn Nguồn Gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam và Lột Trần Việt Ngữ xuất bản năm 1971 và 1972 ở Saigon, được tái bản dài dài ở hải ngoại, tuy vậy cũng rất hiếm. Hiện có trên http://www.talawas.org (11) Nguyên Nguyên a. Thử Đọc Lại Truyền Thuyết Hùng Vương/trên nhiều trang net. b. http://www.khoahoc.net/baivo/nguyennguyen/...07-quangtri.htm c. Loan Words and Metaphorical Field (tư liệu) (12) Trần Hữu Thuần/Tiếng Quảng Trị/Talawas 6/2007: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10168&rb=06 (13) 5000 năm nếu tính từ lúc lãnh tụ Xuy Vưu lãnh đạo đám Cửu Lê đánh nhau với Hiên Viên của Hoa Hạ ở trận Trác Lộc năm 2879. Trong Lĩnh Nam Chích Quái, Xuy Vưu là nhân vật huyền sử. Nhưng dân tộc Đại Hàn, dân HMong thờ ông như thánh tổ. Họ còn ghi dấu chiến trường nơi ông bị chặt đầu. Dân Trung Hoa bây giờ cũng phải nhận ông là một trong ba ông tổ (Xuy Vưu, Hiên viên, Thần Nông). Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, kỷ nhà Lý, năm 1160, mùa xuân tháng giêng, vua Lý Anh Tông cho xây đền thờ Hai Bà và đền thờ Xuy Vưu ở phường Bố Cái. Không biết đền này có còn lưu vết tích gì chăng. (14) Nguyễn Đức Cung/Quảng Bình Chín Trăm Năm Nhìn Lại (1075-1975) NXB Nhật Lệ 2006 (15) http://www.umass.edu/wsp/results/languages/chu/lexicon.html (16) Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp, http://ngonngu.net/index.php?p=309:
-
Nhà tiên tri Vanga đã nói: "Một học thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại". Thuyết Âm Dương Ngũ hành không lý giải vụ trụ ra đời như các nhà khoa học quốc tế trình bày trong bài viết dưới đây. Bởi vậy tôi đưa bài này lên đây để quý vị tham khảo và sau đó tôi sẽ xin có dịp trình bày quan niệm của Thuyết Âm Dương Ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt, so sánh với các lý thuyết khoa học hiện đại về sự hình thành vũ trụ. ----------------------------- Vũ trụ ra đời như thế nào? Nguồn: Chungta.com Các nhà khoa học cho rằng, vũ trụ thoát thai từ Vụ nổ lớn (Big Bang) tại thời điểm 13,7 tỉ năm trước. Mới đây họ lại khoe rằng, có đến ba kịch bản khác nhau cho cái thời khắc sinh thành đó. Vũ trụ học là một khoa học còn rất non trẻ. Ngay cả khi Einstein đã đưa ra thuyết hấp dẫn năm 1916, bằng chứng thực nghiệm duy nhất về nguồn gốc vũ trụ chỉ là bầu trời ban đêm tối đen. Nghịch lý Olbers (1823) cho rằng nếu vũ trụ vô tận trong không thời gian thì nó có nhiều sao đến mức khi nhìn lên bầu trời theo bất cứ hướng nào, tia mắt ta bao giờ cũng gặp một ngôi sao. Và ta sẽ thấy bầu trời luôn sáng rực như mặt trời, ngay cả vào ban đêm. Thuyết Big Bang tiêu chuẩn Nhưng thực tế bầu trời ban đêm lại tối đen. Thật thú vị là trong bài thơ văn xuôi dài Eureka năm 1848, Edgar Poe (cha đẻ của truyện trinh thám) cho rằng, đó là do các ngôi sao chưa đủ thời gian để chiếu sáng toàn vũ trụ. Vậy bầu trời đêm tối đen chứng tỏ vũ trụ hữu hạn cả trong không gian và thời gian. Không chỉ đứng vững trước thử thách của thời gian mà giả thuyết còn đóng vai trò quyết định trong việc hình thành lý thuyết Big Bang. Cơ sở lý luận của Big Bang là thuyết tương đối tổng quát, cho rằng không thời gian không phải là cái nền cố định để mọi biến dịch vũ trụ diễn ra trên đó, mà là các đại lượng động lực, phụ thuộc vật chất đồng thời chi phối vật chất. Điều đó dẫn tới việc không thời gian và do đó vũ trụ có thể có khởi đầu và kết thúc, một ý tưởng mà ban đầu chính Einstein cũng tìm cách chống lại. Bằng chứng quyết định là phát hiện vũ trụ giãn nở của Hubble (Mỹ) những năm 20 của thế kỷ trước. Cho đến lúc đó, dải Ngân hà của chúng ta được xem là toàn bộ vũ trụ. Với viễn kính 100 inch tại núi Wilson, Hubble thấy Tinh vân tiên nữ, một thiên hà sánh đôi cách 2 triệu năm ánh sáng, đang tiến lại gần chúng ta. Khảo sát các thiên hà khác, ông thấy chúng đang tản ra xa. Điều đó có nghĩa vũ trụ gồm hàng tỉ thiên hà đang tản xa nhau. Vũ trụ hiện đang giãn nở và các thiên hà ngày càng xa nhau chứng tỏ trong quá khứ chúng gần nhau, khi vũ trụ có kích thước nhỏ hơn. Suy diễn ngược thời gian mãi sẽ đi đến thời điểm khai sinh, khi toàn vũ trụ tập trung tại một điểm, nơi có mật độ và độ cong không thời gian vô hạn. Và một vụ bùng nổ 13,7 tỉ năm trước đã khiến vũ trụ sinh thành. Đó là mô hình Big Bang tiêu chuẩn. Năm 1946, nhà vật lý Mỹ gốc Nga Gamow thấy rằng, ngọn lửa sáng thế buổi hồng hoang vẫn để lại “vết lông ngỗng” qua bức xạ tàn dư trải trên toàn vũ trụ, nay lạnh chỉ còn cỡ 30 trên 00 tuyệt đối. Năm 1965, hai kỹ sư vô tuyến Penzias và Wilson tình cờ phát hiện được bức xạ này khi chế tạo một ăngten có thể bắt sóng từ vệ tinh. Như từng xảy ra trong lịch sử, giải Nobel danh giá được trao cho phát kiến tình cờ của hai người khá ngoại đạo! Năm 1992, vệ tinh COBE (Mỹ) đo được phông bức xạ này với độ chính xác rất cao. Và Big Bang được thừa nhận rộng rãi. Khá hài hước là cái tên Big Bang lại do nhà thiên văn Hoyle đặt ra năm 1950 trong loạt bài Nguồn gốc vũ trụ trên Đài BBC để chế diễu lý thuyết. Ông là người đề xuất thuyết vũ trụ dừng năm 1948, theo đó vũ trụ không có khởi đầu và kết thúc. Sau khám phá bức xạ tàn dư, nó đã chết vẻ vang như nhiều lý thuyết khoa học khác. Big Bang từ đâu xuất hiện? Có giả thuyết cho rằng Vụ nổ lớn là kết quả của Vụ co lớn (Big Crunch) trước đó, khi lực hấp dẫn thắng dần sự giãn nở và vũ trụ bắt đầu co về một điểm. Nói cách khác Big Bang là điểm chuyển pha giữa các pha co giãn xen kẽ nhau của vũ trụ. Nhược điểm chí tử của mô hình trên là bài toán kì dị. Tại Big Bang, do kích thước nhỏ vô hạn, nên mật độ năng lượng hay độ cong không thời gian lớn vô hạn, điều không có trên thực tế. Đó là vì thuyết tương đối tổng quát là lý thuyết về các hiện tượng vĩ mô, nên không mô tả các thăng giáng lượng tử đặc trưng cho thế giới vi mô. Với Vụ nổ lớn hay lỗ đen, là các thực tại vật lý vừa nhỏ (nơi các hiệu ứng lượng tử chi phối), vừa nặng (nơi các hiệu ứng hấp dẫn chi phối), cần một lý thuyết thống nhất giữa thuyết lượng tử và thuyết tương đối. Đó là thuyết hấp dẫn lượng tử. Lý thuyết dây và Big Bang Trong số các thuyết hấp dẫn lượng tử, lý thuyết Dây là một trong hai tiếp cận khả quan nhất, cùng thuyết hấp dẫn lượng tử vòng. Quan điểm truyền thống xem hạt cơ bản là chất điểm không kích thước. Và đó chính là lý do xuất hiện các giá trị lớn vô cùng. Lý thuyết Dây tránh điều đó bằng cách giả thuyết bản thể vũ trụ là dây một chiều, màng hai chiều hay các thực thể nhiều chiều hơn. Chúng có kích thước rất nhỏ, nhưng không bằng không (lớn gấp 10 lần độ dài Planck, 10-33cm, là kích thước nhỏ nhất còn có ý nghĩa vật lý). Giống sợi dây đàn dao động sẽ tạo ra các nốt nhạc, dây hay màng dao động trong không thời gian 11 chiều sẽ tạo ra mọi hạt cơ bản đã biết và chưa biết. Trong khi thuyết tương đối cho rằng vũ trụ có thể có kích thước zero; lý thuyết Dây cho rằng độ dài Planck là kích thước giới hạn của vũ trụ, vì đã chứng minh được rằng, các quy luật của thế giới dưới thang Planck hoàn toàn giống các quy luật của thế giới trên thang Planck. Nói cách khác vũ trụ vi mô hoàn toàn đồng nhất với vũ trụ vĩ mô, mà kích thước Planck chính là ranh giới. Lý thuyết Dây đưa ra hai kịch bản khác kịch bản của thuyết tương đối. Đó là thuyết tiền Big Bang và thuyết màng va chạm. Thuyết tiền Big Bang do nhà vật lý Ý Veneziano, cha đẻ của lý thuyết Dây, đưa ra năm 1991. Theo đó trong một vũ trụ vẫn đang tồn tại, có một vùng lực hấp dẫn đủ mạnh để hút vật chất co về Vụ co lớn. Khi Vụ co lớn đạt kích thước Planck thì nó bùng nổ thành Vụ nổ lớn. Và vũ trụ của chúng ta chính là một vụ nổ như thế khoảng 13,7 tỉ năm trước. Đó là một đơn vũ trụ (universe) tự thân co giãn trong một đa vũ trụ (multiverse), thuật ngữ của nhà thiên văn Anh mang tước hiệp sĩ Martin Rees. Năm 2001, năm nhà khoa học Anh - Mỹ, đứng đầu là Steinhardt và Turok, đưa ra mô hình khác cũng dựa trên lý thuyết Dây. Theo đó vũ trụ chúng ta là một màng đa chiều trôi trong không gian nhiều chiều hơn. Vụ nổ lớn 13,7 tỉ năm trước chính là cú va chạm giữa màng của chúng ta với một màng khác nằm song song theo chiều dư. Va chạm có thể xảy ra nhiều lần, trước va chạm hai màng co lại, sau va chạm hai màng giãn nở, như Hubble đã thấy. Một ưu điểm của mô hình tiền Big Bang là vũ trụ chúng ta có thể tự co giãn, trong khi mô hình va chạm cần thêm vũ trụ song song. Ngược lại, một ưu điểm của thuyết màng va chạm là giải quyết được bài toán vật chất và năng lượng tối nan giải. Đó chính là vật chất thông thường ở màng bên cạnh mà ta không “thấy” gì ngoài lực hấp dẫn. Phải chăng đó chỉ là những giả thuyết không thể kiểm chứng? Không phải như vậy, ba kịch bản trên đều đưa ra tiên đoán về mật độ năng lượng và tần số sóng hấp dẫn. Trong vòng 10 năm tới, các vệ tinh Planck, LIGO và VIRGO sẽ được phóng lên quỹ đạo nhằm thu thập số liệu. Khi đó hoặc một kịch bản vượt vũ môn, hoặc cả ba đều thất bại. Và khoa học sẽ phải tìm một mô hình vũ trụ mới. Đa vũ trụ ra đời như thế nào? Trên đây là ba kịch bản ra đời của vũ trụ của chúng ta. Vậy đa vũ trụ xuất hiện từ đâu và xuất hiện như thế nào? Câu trả lời là đa vũ trụ xuất hiện từ hư vô do nguyên lý bất định. Theo quan điểm vật lý, hư vô không phải là không có gì, mà chứa đầy các thăng giáng lượng tử xuất hiện do nguyên lý bất định Heisenberg. Nguyên lý này nói rằng, giá trị tuyệt đối và thăng giáng của các trường vật lý không thể xác định chính xác đồng thời. Nên các trường phải luôn thăng giáng quanh giá trị zero, vì nếu trường bằng zero thì thăng giáng của nó cũng bằng zero. Có nghĩa giá trị và thăng giáng của trường lại chính xác đồng thời (đều bằng zero). Đó là điều nguyên lý bất định cấm, nên trường phải khác không và luôn thăng giáng. Điều đó có nghĩa các “bọt năng lượng” luôn sinh ra và mất đi. Và một số bọt có thể thăng giáng đủ mạnh để giãn nở và trở thành các đơn vũ trụ như vũ trụ của chúng ta. Như vậy, các đơn vũ trụ có thể sinh thành và tan vỡ không ngừng như trong trò thổi bong bóng xà phòng. Còn đa vũ trụ thì sao? Câu trả lời liên quan với tổng năng lượng. Năng lượng chứa trong vật chất là dương, còn năng lượng hấp dẫn giữa chúng là âm. Nếu đa vũ trụ là “phẳng” trong không thời gian đa chiều, giá trị hai năng lượng bằng nhau và tổng năng lượng toàn vũ trụ bằng không. Và nguyên lý bất định cho phép nó tồn tại mãi mãi. Vẫn hiện hữu mà vẫn lại là số không, vũ trụ chính là biểu hiện của triết lý sắc sắc không không của đạo Phật, ít ra là về ngôn ngữ. Vậy tại sao lại có hư vô và nguyên lý bất định để vũ trụ tự sinh tự diệt? Người viết bài này cho rằng khoa học không thể đưa ra lời giải đáp. Và đó là một trong những lý do tồn tại vĩnh hằng của nghệ thuật hay tôn giáo.
-
Thanh Hà (RFI) phỏng vấn Nguyễn Quang Riệu về cuốn sách "Vũ trụ Huyền Diệu", Phát ngày thứ sáu 12/9/2008 Nguồn: vietsciences.free.fr Lời giới thiệu cuả Thanh Hà: Mùa xuân vừa qua, nhà vật lý thiên văn Nguyễn Quang Riệu đã cho ra mắt "Vũ trụ Huyền diệu" (Nhà Xuất bản Thanh Niên), sau những "Vũ trụ Phòng thí nghiệm Thiên nhiên Vĩ đại", "Lang thang trên Dải Ngân hà", "Sông Ngân khi tỏ khi mờ" và "Bầu trời Tuổi thơ". Trong vỏn vẹn 186 trang, tác giả gửi đến bạn đọc nhiều kỷ niệm buồn vui trong ngót 50 năm cuả một nhà nghiên cứu. "Vũ trụ Huyền diệu" không phải là một quyển sách giáo khoa, cũng không hẳn là một loại sổ tay hay nhật ký, vì mới ở vài trang đầu độc giả đã bị cuốn hút vào thế giới riêng cuả một người đã từng lang thang trên Dải Ngân hà và trên trái đất để săn lùng, để khám phá hay quan sát sự chuyển động cuả những ngôi sao trên trời, cuả những thiên hà trong vũ trụ. Và nhà vật lý thiên văn Nguyễn Quang Riệu liên tục đưa người đọc đến gần với những thiên thạch hay bức xạ maser. Ông giới thiệu qua về sự phát hiện cuả những phân tử phức tạp đầu tiên trong Ngân hà, rồi ông lại rủ ta quan sát bầu trời Nam Bán cầu cùng thám hiểm hệ mặt trời qua những trạm tự động. Cũng có khi tác giả cùng chúng ta đi ngược dòng thời gian trở lại quãng đường gần 14 tỷ năm về trước, khi vũ trụ ra đời sau vụ nổ lớn Big Bang. Có khi ông lại đưa ta về với hiện tại trong những chương nói về biện pháp giảm sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu hay là vấn đề năng lượng và hiện tượng khí hậu bị đảo lộn v, v.... Thế nhưng giá trị lớn nhất cuả "Vũ trụ Huyền diệu" có lẽ nằm ở chỗ là tác giả đã "tiêm" vào người đọc nỗi đam mê cuả ông đối với ngành vật lý thiên văn. Ông chia sẻ với bạn đọc những thích thú, những phập phồng lo sợ trước những khám phá mới với một lối viết giản dị nhẹ nhàng hay dùng những ẩn dụ để giải thích những hiện tượng phức tạp trong khoa học. Tác giả đã hé mở một cánh cửa để đưa chúng ta đến gần hơn với không gian vũ trụ. Nói như thế không có nghĩa là ông đã bỏ quên các bạn đọc trong ngành. Nhân dịp Nhà Xuất bản Thanh Niên sắp sửa tái bản cuốn "Vũ trụ Huyền diệu", Ban Việt ngữ RFI mời nhà vật lý thiên văn Nguyễn Quang Riệu nói về tác phẩm mới nhất cuả ông. TH: Kinh chào và cảm ơn GS NQR đã nhận trả lời phỏng vấn cuả chúng tôi hôm nay. Xin ông cho biết là tác phẩm "Vũ trụ Huyền diệu" đã được cho ra đời trong bối cảnh nào ? NQR: Trước đây tôi đã viết những cuốn sách bằng tiếng Việt chủ yếu là để phổ biến thiên văn học. Trong cuốn sách "Vũ trụ Huyền diệu" lần này tôi muốn chia sẻ cùng độc giả những kinh nghiệm, kể cả sự thành công và sự thất bại cuả một người làm công tác nghiên cứu khoa học. Đôi khi các nhà thiên văn được coi là những người có tầm nhìn rộng và có tư tưởng cao siêu quen sống trong tháp ngà. Trong cuốn sách này, tôi muốn bình thường hóa con người làm công tác khoa học. Đây cũng là dịp để tôi nhớ lại những hoạt động khoa học hồi tôi còn lang thang khắp năm châu đến những vùng núi non hẻo lánh, nơi mà bầu trời hãy còn chưa bị ô nhiễm bởi ánh sáng và nhiễu vô tuyến cuả các đô thị, nhằm thực hiện công việc quan sát thiên văn. Đối với tôi, viết cuốn sách này không những là để phổ biến kiến thức khoa học mà còn là một vấn đề tình cảm vì tôi có dịp được kể lại bằng tiếng Việt những giai thoại trong thời gian hoạt động khoa học ở nước ngoài. TH: Xin GS kể lại một vài khoảnh khắc đã đánh dấu cuộc đời nghiên cứu cuả GS trong suốt mấy chục năm qua với thính giả của RFI ? NQR: Trong sách tôi có kể những giai thoại lý thú lướt qua ký ức cuả tôi. Trong thập niên 1960 dưới thời đại De Gaulle, nước Pháp muốn phát triển ngành khoa học không gian. Hồi đó Liên xô là một cường quốc tiên phong trong công việc phóng tàu vũ trụ lên không gian, nên Pháp và Liên Xô có một chương trình hợp tác trong lĩnh vực khoa học này. Bộ môn thiên văn vô tuyến cuả Đài Thiên văn Paris-Meudon đề nghị tôi phụ trách chương trình cộng tác với các đồng nghiệp Liên Xô. Chúng tôi sử dụng kính thiên văn vô tuyến, một loại antenne rất lớn đặt tại Nançay ở vùng Sologne cách Paris 180 kilomet. Mới đầu, chúng tôi phát hiện được một bức xạ vô tuyến rất mạnh phát ra như một tia laser từ một ngôi sao ở vùng trung tâm Ngân Hà. Khi chúng tôi hý hửng định công bố kết quả thì được các nhà thiên văn người Úc thông báo là họ cũng đã tìm thấy bức xạ này trước chúng tôi ít ngày. Thế là sự khám phá cuả chúng tôi chỉ như là một cái pháo tép ! Sau đó chúng tôi kiên trì tìm kiếm và đã phát hiện ra một số ngôi sao khác cũng phát ra những bức xạ vô tuyến tương tự. Mỗi lần tìm thấy kết quả là chúng tôi vẽ hình một chai Vodka lên cuộn giấy ghi tín hiệu. Để ăn mừng những khám phá mới, một buổi tối chúng tôi rủ nhau đến một hầm rượu ở vùng Sancerre gần nơi làm việc. Các đồng nghiệp người Pháp xui đồng nghiệp Liên Xô và tôi nên kiểm tra tửu lượng để được cấp bằng "hiệp sĩ nếm rượu vang". Còn có nhiều giai thoại lý thú khác mà tôi không có thời gian kể tiếp ở đây. T.H: Trong lời giới thiệu thì "Vũ trụ Huyền diệu" nhắm vào những độc giả ngoại đạo cuả ngành vật lý thiên văn ? NQR: Phổ biến khoa học là một vấn đề phức tạp, phải làm sao cho nhiều độc giả có thể hiểu được và đọc đỡ chán. Do đó tôi phải nghĩ ra những ẩn dụ cụ thể để minh hoạ và giải thích những hiện tượng thiên văn đôi khi rất là phức tạp, chẳng hạn như cơ chế kích thích bơm những phân tử trong những đám mây trong vũ trụ để những đám mây này phát ra những bức xạ rất mạnh gọi là bức xạ maser. Trong cuốn sách tôi cũng đề cập đến vấn đề bảo vệ môi trường, bởi vì đó là một vấn đề cấp bách cần thu hút được sự chú ý cuả công dân các quốc gia toàn cầu. T.H: Nói về "Vũ trụ Huyền diệu" thì có nhiều đề tài thu hút sự tò mò cuả độc giả không thuộc trong ngành chuyên môn, đặc biệt là người ta chú ý đến những vấn đề lỗ đen. Thế thì GS có thể giải thích qua được không ? NQR: Lỗ đen là một thiên thể mà người ta thường hay nói đến. Theo định nghĩa, lỗ đen là một thiên thể vô hình, tức là không phát ra ánh sáng. Lý do là vì thiên thể này cực kỳ đặc, có trường hấp dẫn dường như vô tận nên có sức hút rất lớn. Lỗ đen không những có thể nuốt chửng những vật thể bén mảng đến gần kể cả những ngôi sao khổng lồ, mà còn bẫy cả ánh sáng không cho thoát ra ngoài. Một thiên thể lớn và nặng như trái đất, giả thử bị nén xuống đến mức chỉ còn nhỏ như một quả bóng bàn thì trở thành một lỗ đen. Do đó ta có thể hình dung được lỗ đen có tỷ trọng lớn đến mức nào. Lỗ đen là lõi cuả những ngôi sao đã bị nén xuống rất nhiều, sau khi ngôi sao sập sụp và nổ tung, vì đã tiêu thụ hết nhiên liệu hạt nhân. Ta tự hỏi nếu lỗ đen không phát ra ánh sáng thì làm thế nào mà phát hiện ra được chúng ? Lỗ đen hút tất cả vật chất nên môi trường xung quanh lỗ đen bị xáo trộn và vật chất ma sát vào nhau nên nóng tới hàng triệu độ và phát ra những tia xạ X rất mạnh. Các nhà thiên văn quan sát tác động cuả lỗ đen đối với môi trường xung quanh để phát hiện ra lỗ đen. Họ đã phát hiện được một lỗ đen khổng lồ nặng gấp hơn hai triệu lẩn mặt trời đang ẩn náu ở trung tâm dải Ngân hà. Các nhà khoa học phỏng đoán là trong vũ trụ nguyên thủy có thể đã có những loại lỗ đen rất nhỏ. Họ sử dụng máy gia tốc gọi là LHC cuả cộng đồng châu Âu đặt tại ngọai ô thành phố Genève vừa mới được đưa vào hoạt động cách đây hai hôm, để tái tạo những điểu kiện vật lý tương tự như trong vũ trụ nguyên thủy có khả năng sản xuất cả những lỗ đen. Hiện nay đã có những tin đồn là nếu máy gia tốc LHC tạo ra được những lỗ đen thì có thể tiêu hủy trái đất. Các chuyên gia quả quyết rằng dù máy gia tốc có tạo ra được những lỗ đen thì cũng chỉ là những lỗ đen bé tý hon không tồn tại được lâu vì sẽ tự hủy trong giây lát. Những phát hiện thiên văn mới nhất còn dẫn đến những kết quả thật là bất ngờ. Đa phần vũ trụ là năng lượng và vật chất tối. Vật chất thông thường tạo ra những ngôi sao, những hành tinh và tất cả những gì mà ta nhìn thấy được chỉ là một phần không đáng kể cuả vũ trụ. Trong vũ trụ chỉ có khoảng 5 phần trăm vật chất nhìn thấy được, còn 95 phần trăm còn lại là dưới dạng năng lượng và vật chất vô hình. TH: Được biết là trong những năm gần đây ông đã có những đóng góp để phát triển ngành thiên văn học tại Việt Nam và đặc biệt là ông luôn hướng dẫn cũng như đã hỗ trợ cho một số sinh viên Việt Nam để được đào tạo ? NQR: Hiện nay ngành thiên văn không được phát triển nhiều tại Việt Nam, bởi vì vẫn được coi là một ngành khoa học tương đối xa vời và đòi hỏi nhiều kinh phí. Tuy nhiên, những vấn đề liên quan đến thiên văn học đang được phổ biến qua báo chí và các câu lạc bộ thiên văn nghiệp dư. Chúng tôi cùng Hội Thiên văn Quốc tế đã tổ chức tại Việt Nam những hội thảo và những lớp học để truyền bá ngành khoa học này. Hiện nay đã có một số sinh viên Việt Nam được đào tạo tại Paris và đã tốt nghiệp trong ngành thiên văn. Tôi hy vọng trong tương lai họ sẽ tham gia vào công cuộc chinh phục vũ trụ cùng cộng đồng các nhà thiên văn trên thế giới. TH: Ban Việt ngữ RFI xin chân thành cảm ơn GS Nguyễn Quang Riệu © http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org Nguyễn Quang Riệu
-
BÓNG MƠ XƯA Thiên Sứ Thôi mơ chi. Một trời huyền thoại ngang mi dâng sầu. Còn chi nữa Bẽ bàng đau. Ngàn thu trăng vỡ Giang đầu lặng im. Thôi còn đây Một trái tim. Nung thành sỏi đá đi tìm thiên thu.
-
Robot thổi sáo 10/11/2008 21:39 Nguồn Thanh Niên Online Ảnh: Dailymail Đã có rất nhiều loại robot được các nhà khoa học sáng chế để phục vụ đời sống như: robot gia nhân, robot bảo vệ, robot thám hiểm không gian... Nay đến lượt robot chơi nhạc, hay chính xác hơn là robot thổi sáo, ra đời. Các nhạc sĩ trường phái nhạc cổ điển đã có lý do để lo ngại về những đối thủ đầy tiềm năng, khi các nhà khoa học sáng chế loại robot chơi được những bản nhạc rất phức tạp mà không hề phạm lỗi. Con robot thổi sáo của Đại học Waseda (Tokyo, Nhật) có thể thổi bản nhạc Flight of the Bumblebee rất khó mà không phạm một lỗi nhỏ nào. Bản nhạc này được soạn bởi nhạc sĩ Nikolai Rimsky Korsakov phục vụ cho vở opera The Tale of Tsar Saltan. Robot có tên gọi The Waseda Flutist No4 (WF4) được thiết kế theo hình người, được giới thiệu lần đầu tiên tại Hội nghị BioRob 2008. Các nhà khoa học chế cho WF4 một cặp môi nhân tạo có tính đàn hồi như môi người và có thể ngậm chặt cây sáo. Lưỡi của nó thiết kế theo kỹ thuật lưỡi đôi giúp chơi được ở tốc độ nhanh như bản nhạc Flight of the Bumblebee. Phổi của WF4 là hai túi khí Acrylic cho phép kiểm soát các luồng hơi rất dễ dàng. Trong khi đó mắt của nó là 2 camera giúp tương tác với khán thính giả và các nhạc sĩ khác, nhờ vậy có thể song tấu, hợp tấu cùng nhân vật khác. Các nhà khoa học tại Đại học Waseda bắt đầu nghiên cứu sáng tạo robot chơi nhạc từ năm 1990. Đến năm 2008 thì phiên bản WF4 đã được coi là khá hoàn hảo và có thể ứng dụng để dạy nhạc cho học sinh. Có thể xem đoạn video WF4 thổi sáo tại đây. Tạ Xuân Quan (Theo Dailymail)
-
Nhời bàn của Sư Thiến: Ơ hay nhể! Thế gian này hơn nhau ở cái tâm thì bố thằng nào nhìn thấy cái tâm, nếu anh không khoe ra. Bởi vậy nó mí ăn nhau ở cái mẽ. Bởi vậy con lừa nào mà chẳng vênh lên khi mang hòm sắc mà cái nhà ông Tây lại chê mí lạ chứ. Đã thân còn lừa không khoe hòm sắc thì khoe cái gì. Nếu Sư Thiến đây có bằng giáo sư chắc cũng giống con lừa kia thôi. Khoe ngay cái bằng!
-
Nhời bàn của Sư Thiến;Ơ! Cái nhà ông Tây La cái Fông Ten này lạ nhể? Ông chê nó ngu khi biết nó ngu thì nói làm quái gì chứ? Chứ ở đời này có thằng nào nhận mình ngu đâu. Đấy chỉ nà chiện của quá khứ thui. Còn bi wờ thằng nào cũng thấy mình khôn như...rận mà chưa thèm nói ra. Không tin ông cứ đi hỏi cả thế giới này xem. Cái thằng ngu nó ở chỗ khác, chứ thằng này không ngu. Kể cả Sư Thiến mỗ đây. Ngay cả cái thằng mổ gà kia, trước khi nó mổ gà để biết nó ngu, nó cũng tính toán cần thận rồi chứ. Híc! Nếu nó bẩu nó mổ ra mà có kho vàng thì chia mỗi thằng vài chỉ, chắc cũng ối thằng vỗ tay ủng hộ! Có thể có cả ông La Phông ten và Sư Thiến Mỗ đây nhiệt liệt hoan nghênh. Hê! Hê!
-
Nhời bàn của Sư Thiến. Lại thêm một thằng quan ngu xuất hiện ở bên ....Tây. Nên ông Tây "Cái vòi nước" mới viết thành chiện. Cần quái gì phải ăn bẩn như thế! Chỉ việc bảo lục sự kêu đóng án phí! Thế là tụi tham lam kia phải đưa quan cái ruột sò chứ nhẩy. Chứ không lẽ nó đưa quan một cái vỏ sò, thế thì làm sao mà chia?
-
Nhời bàn của Sư Thiến: Sư Thiến vốn cũng chỉ là Nhái thôi. Nên thấy đồng loại lên văn chương bị chê cũng tự ái. Thực ra thấy con bò đâu bằng ta, mà ta phải bắt chước làm gì! Này nhá! Đầu thì đầu bò - nổi tiếng ngu xưa nay. Cổ nhân có ai nói "Ngu như Nhái" đâu? Chỉ có "Ngu như bò" mà thôi. Gớm cái bụng vòng hai thì như bánh mì cặp chả - đâu có mi nhon như ta! Cái mông thì tóp lại có đuôi - đúng là giống súc vật. Việc quái gì phải phình bụng ra cho mất eo đi.
-
Nhời bàn của Sư Thiến: Thực ra con sư tử này làm quan mà ngu wá hết bít số quân. Bây giờ xét lại đám thảo dân gồm những ai: Nào là Bò, nào là Dê, nào là Cừu. Toàn loài ăn cỏ. Chỉ có Sư tử là loài ăn thịt. Thế thì dù có công bằng chia tư thì ba cái con ăn cỏ kia cũng khóc tiếng Ả Rập Xê Út để nhịn đói với phần thịt hươu được chia mà thôi. Bởi vậy Sư Tử cần gì phải tranh hơn thua mà mang tiếng với đời bị cái nhà ông Tây "La Vòi nước" viết thành nhời như thế. Híc! Đúng là ngu wá thật. Sao không dẫn mấy thằng ăn cỏ - thảo dân - đến một vùng cỏ non, như là một ân huệ với chúng và hy sinh một mình ăn con hươu cho chúng khỏi đau bụng do ngộ độc thức ăn vì không quen ăn thịt. Như thế có phải tử tế hơn không nhẩy?
-
Giờ Hợi ngày 16/ 10 - Mậu Tý Quẻ Hưu Vô Vong. Giải pháp: Sinh Đại An Nếu không có một kế hoạch rốt ráo, khẩn trương toàn diện và khả thi để phục hồi nhanh chóng kinh tế vùng ngập lụt như bản tin dưới đây. E rằng Tết này Hanoi ăn Tết trong sự tăng giá ngoài ý muốn Chục ngày sau mưa lụt: hoạt động sản xuất vẫn tê liệt 08:18' 10/11/2008 (GMT+7) – Không chỉ rau màu mất trắng vì ngập, nhiều trang trại, hộ chăn nuôi tại các huyện ngoại thành Hà Nội đang trong cảnh gà, vịt, cá “đi” hết; lợn chạy lũ, con chết, con bán tống bán tháo... Mọi hoạt động sản xuất vẫn tê liệt sau chục ngày mưa lụt. >> Toàn cảnh Hà Nội trong trận "đại hồng thuỷ" Cánh đồng vắng bóng nông dân Đồng lúa, rau màu thuộc các huyện Thanh Oai, Ứng Hòa, Hoài Đức, Hà Nội nằm dọc quốc lộ 21, cho đến sáng 9/11 vẫn ngập trong nước từ 30 – 50cm. Nhìn từ xa, cánh đồng nước mênh mông. Không thể phân biệt được đâu là hồ, ao, đâu là đồng ruộng. Nông dân cũng vắng bóng. Nước vẫn ngập trắng đồng tại huyện Thanh Oai, Ứng Hòa, Mỹ Đức, Hà Nội - Ảnh: N.N Các xã Vân Côn, Song Phương vốn là vựa rau màu rộng lớn thuộc huyện Hoài Đức đến nay cũng trong cảnh trắng đồng. Dưới cái nắng hanh khá gay gắt, một số đồng ruộng đã bốc lên mùi khó chịu. Bên sọt bắp cải vàng ủng, chị Bùi Thị Yến ở xã Vân Côn kể lại, những ngày mưa lớn, dù nhà cửa đều ngập trong nước nhưng xót ruộng rau sắp thu hoạch, vợ chồng chị phải cố hết sức dầm nước ngang ngực nhổ rau. Để “bán tận ngọn”, vớt vát được ít tiền tại Hà Nội, nhà chị cũng như nhiều hộ trong làng phải đi bằng xe đạp, gò lưng đẩy xe rau dưới mưa lớn từ sáng sớm trên đường Láng – Hòa Lạc, tránh những đoạn lụt đến hơn 1 mét ở khu Tây Mỗ. Mặc dù nhiều ô tô chở dịch vụ qua quãng đường này, nhưng các chị không dám thuê ô tô, vì nếu đi 2 lượt đã mất đứt 150.000 đồng. “Gắng chịu cực, dè sẻn mới đủ chi tiêu chứ vài tháng nữa, lấy đâu ra…” – chị chao chát. Không riêng gì Vân Côn, thương hiệu rau Vân Nội có tiếng ở Đông Anh cũng chung cảnh nước lụt. Bà Trần Thị Hợp, Phó chủ tịch xã cho biết: Vân Nội có 150 ha rau chuyên canh, thì mất trắng 120 ha. Trong lúc “nghỉ ngơi” chờ nước rút, các hộ tính toán, nếu 1 tuần nữa nước rút hết, cộng thêm thời gian gieo trồng các loại rau ngắn ngày khoảng 20 ngày thì ít nhất 1 tháng sau Hà Nội mới có được mẻ rau đầu tiên. Đồng ruộng vắng bóng nông dân - Ảnh chụp sáng 9/11 ven quốc lộ 21 – N.N Cá, gà, vịt… “đi” hết, người nuôi còn buồn Định cuối tháng 11/2008 xuất chuồng khoảng 500 con gà, thấy mưa lớn, nước dâng ngày càng cao, những ngày đầu, gia đình anh Quảng Đắc Hợp ở xã Vân Côn, huyện Hoài Đức gắng sức vật lộn, kê cao chuồng gà. Nhưng sau, nước dâng nhanh quá không biết làm thế nào, hết cách anh đành cắn răng nhìn đàn gà ì oạp, lịm dần trong nước. Không riêng nhà anh Quảng, đàn gà đẻ 500 con nhà anh Bằng - Bí thư Đảng Uỷ xã Vân Côn cũng chết lụt gần hết. Gà chết bán vớt vát 20.000 đồng/con 1,5 kg mà phải chật vật, nhờ vả các nơi. Là một trong những huyện có diện tích ngập úng lớn, lên tới 2.500 hecta, đợt mưa lớn vừa qua huyện Chương Mỹ đã thống kê có khoảng 60.030 gia cầm, 657 con lợn bị chết. Hàng trăm trại gà (quy mô 3.000 - 10.000 con/trại) của các hộ nông dân, nuôi gia công cho Công ty Charoen Pokphand tập trung tại các xã Phương Tiến, Nam Phương Tiến, Thuỷ Xuân Tiên đều chìm trong nước. Hiện có khoảng 100.000 con gà phải nuôi trên đồi, trên thuyền. Nước hồ Quan Sơn, huyện Mỹ Đức còn tràn bờ - Ảnh: N.N Thành phố Sơn Tây tuy không có tên trong danh sách những vùng ngập lụt nặng của Hà Nội nhưng ông Trần Văn Chiến – Chủ nhiệm Hợp tác xã Chăn nuôi Dịch vụ Cổ Đông – một trong những đơn vị chăn nuôi có quy mô lớn nhất miền Bắc, tính sơ sơ, đã có gần chục trang trại lợn, gà phải di dời. Số lợn chết vào khoảng 100 con, gà chết khoảng 2.000 con, chưa tính số lợn, gà phải bán tháo với giá rẻ mạt. Đặc biệt, 90% trong tổng số 70 hecta ao hồ của hợp tác xã đã coi như bị xóa sổ. Cho đến sáng 8/11, trang trại quy mô 120 con heo nái, 500 con lợn thịt, hàng nghìn con vịt và ao cá của anh Nguyễn Văn Bình, ở xã Trung Sơn Chầm, cách thành phố Sơn Tây chừng 1 km, vẫn ngập khoảng 3 mét nước, chỉ trông thấy nóc nhà. Ngoại trừ một số lợn đã kịp thời “sơ tán” đến các trang trại khô ráo lân cận, tất cả vịt và cá của nhà anh Bình đến nay đều một đi không trở lại. Nước vẫn trắng xóa. Ông Chiến cho biết thêm, mặc dù hiện nay nước tại nhiều trang trại đã rút dần nhưng vẫn còn khoảng 12 trang trại bị cô lập, xe không thể vận chuyển được thức ăn gia súc, gia cầm vào được do đường vẫn ngập sâu từ 0,5 – 1 mét. “Chưa năm nào mùa khô lại có mưa với mức nước lớn như thế này. Đến nay, các trang trại vẫn còn vất vả khắc phục hậu quả, chưa ổn định sản xuất, cũng chưa tổng kết được mức độ thiệt hại” – ông Chiến nói. Một hộ nuôi cá trên diện tích 10 mẫu hồ ở bãi Phú Lương, huyện Thanh Trì tính toán, tiền mua 17 tấn cá giống từ đầu năm, cộng chi phí thức ăn, nhân công hết vài trăm triệu đồng. Giờ cá đi gần hết, cả vốn lẫn lãi đều mất sạch. Có thể nói, thua thiệt nhất do mưa ngập vừa qua, chính là những người nuôi trồng thuỷ sản. Toàn miền Bắc có tổng số 27.000 hecta thuỷ sản bị nước cuốn trôi hết cá. Trong đó, Hà Nội mất trắng 9000 hecta. Đồng trắng xóa, người nuôi cá cũng trắng tay. Nguyễn Nga
-
Ngày 2 - 9 - 2008 Khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu chưa xảy ra thật nghiêm trong Minh Châu đã dự báo: Nền kinh tế lớn nhất châu Âu chính thức suy thoái Nguồn: Vietnamnet.vn 16:14' 13/11/2008 (GMT+7) Nền kinh tế châu Âu đã chính thức rơi vào suy thoái nghiêm trọng. Trong khi đó, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới lại bất ngờ mạnh trở lại trong hơn 1 tuần qua và có khả năng sẽ gây thêm áp lực rất lớn lên nền kinh tế toàn cầu. Khó khăn có thể sẽ còn kéo dài thêm. >>> Toàn cảnh khủng hoảng tài chính - ngân hàng 2008 >>> Theo dòng sự kiện cuộc khủng hoảng tài chính 2008 Nền kinh tế châu Âu đã chính thức rơi vào suy thoái kinh tế nghiêm trọng. (CNBC) Sau bao dự đoán về sự suy thoái của châu Âu, đầu giờ sáng hôm nay 13/11 (đầu giờ chiều giờ Việt Nam), nền kinh tế lớn nhất châu Âu là Đức đã chính thức công bố Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này giảm 0,5% trong quý III/2008. TIN LIÊN QUAN Khủng hoảng tài chính 2008 dưới góc nhìn George Soros Góc nhìn quốc tế: Khủng hoảng tài chính thế giới tuần qua Xuất khẩu bắt đầu ngấm đòn khủng hoảng toàn cầu Sức mạnh và quyền lực Mỹ trong khủng hoảng Khủng hoảng tài chính thế giới: Bài học nào cho Việt Nam? Joseph Stiglitz: Cách thoát khỏi khủng hoảng tài chính toàn cầu Khủng hoảng tài chính thế giới, nông dân Việt Nam vạ lây ASEAN+3 góp 80 tỷ USD để chống khủng hoảng EU kiến nghị biện pháp mới chống khủng hoảng tài chính Trước đó, trong quý II/2008 GDP nước này cũng giảm 0,4% và là dấu hiệu đầu tiên cho thấy nền kinh tế nước này sẽ bước vào suy thoái. Như vậy, đây là lần đầu tiên trong vòng 5 năm qua, nền kinh tế đầu tàu của lục địa già rơi vào tình trạng này. Và là đợt suy thoái nặng nhất trong vòng 12 năm qua. Sự sụt giảm tăng trưởng mạnh hơn dự báo của nền kinh tế này chủ yếu là do ảnh hưởng tiêu cực của xuất khẩu giảm sút bởi chi tiêu của khu vực tư nhân và công trong nước trong quý III tăng so với quý trước. Trước đó, dự báo của Reuters dựa trên ý kiến 40 nhà kinh tế cho thấy kinh tế Đức chỉ giảm khoảng 0,2%. “Yếu tố tác động chính tới GDP trong quý III đến từ thương mại quốc tế, với sự gia tăng mạnh của nhập khẩu trong khi xuất khẩu suy giảm”, Tổng cục Thống kê Đức cho biết. Như vậy, so với cùng kỳ năm ngoái GDP của Đức chỉ còn tăng 1,3% so với mức tăng theo năm tính tới hết quý II là 3,3%. Phản ứng ngay lập tức với thông tin này, đồng euro tiếp tục giảm giá so với USD xuống còn 1 euro = 1,2444 USD. Tuần trước, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã dự báo cả 3 khu vực kinh tế lớn là Mỹ, Nhật và các nước sử dụng đồng euro sẽ suy giảm trong năm 2009, trong đó GDP của Đức được dự báo sẽ giảm 0,8%. Uỷ ban châu Âu ngày 3/11 vừa qua đã thừa nhận nền kinh tế 15 nước sử dụng đồng euro có thể đã bước vào một đợt suy thoái. Hà Linh (Theo Bloomberg, CNBC) Dự đoán của Minh Châu sẽ được biên tập và chính thức đưa vào lời tiên tri 2009 của Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương.