Thiên Sứ

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    31.238
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2.212

Everything posted by Thiên Sứ

  1. Thứ Tư, ngày 26/11/2008, 14:03 Nguồn: 24h.com.vn Cú lừa ngoạn mục “Dân chơi” có câu lưu truyền không biết đúng hay sai: “Đừng nghe ca-ve kể chuyện, đừng nghe con nghiện trình bày”. Dân... “cười” nhân đó mà viết một câu truyện khá... viễn tưởng thế này:Cười 24H Một ngày đẹp trời, đang tung tăng trong cánh rừng thì Nhím gặp ngay chị Hươu đang tẩn mẩn hút điếu cần sa. Thấy vậy, Nhím liền nói: - Chị Hươu à, sao chị lại tìm vui và chôn vùi tương lai vào ba cái thứ ấy. Chị xem này, trời xanh, nắng ấm, chị theo em chạy quanh rừng tìm thú vui thiên nhiên đi! Nghe xong, chị Hươu chợt nghĩ lại rồi quẳng đi điếu cần sa và chạy theo Nhím. Nhím và Hươu đang tung tăng thì gặp ngay anh Linh Cẩu đang lui cui với cái ống chích và muỗng nước cất chuẩn bị chích một liều hêrôin. Thấy vậy, Nhím liền nói: - Anh Linh Cẩu à, sao anh lại tìm vui và chôn vùi tương lai vào ba cái thứ ấy. Anh xem này, trời xanh, nắng ấm, anh theo em và chị Hươu chạy quanh rừng tìm thú vui thiên nhiên đi! Nghe xong, Linh Cẩu chợt nghĩ lại rồi quẳng đi ống chích và chạy theo Nhím cùng chị Hươu. Ba con vật đang tung tăng thì gặp ngay anh Báo đang cầm trên tay tờ giấy bạc, một cái bật lửa và ống hút để chuẩn bị hít một hơi cô-ca-in. Thấy vậy, Nhím liền nói: - Anh Báo à, sao anh lại tìm vui và chôn vùi tương lai vào ba cái thứ ấy. Anh xem này, trời xanh, nắng ấm, anh theo em, chị Hươu và anh Linh Cẩu chạy quanh rừng tìm thú vui thiên nhiên đi! Nghe xong, anh Báo nhẹ nhàng để các thứ xuống rồi bất ngờ lấy tay trái tóm cổ Nhím giơ lên cao, tay phải nắm lại, cong cùi chỏ chuẩn bị cho Nhím một quả trời giáng. Chị Hươu thấy vậy vội lên tiếng can ngăn: - Anh Báo à, Nhím có ý tốt cho mình lời khuyên phải, sao anh nỡ lòng nào ra tay đánh Nhím? Anh Linh Cẩu cũng góp lời: - Ờ, chị Hươu nói đúng đó anh Báo, anh tha cho Nhím đi! Báo quay lại trợn mắt nhìn chị Hươu và Linh Cẩu: - Tụi bay không biết chứ, đây đâu phải là lần thứ nhất. Tao bị nó rủ chạy một lần rồi, nó rủ tao cũng chạy theo nó vòng vòng như thằng điên, mệt bỏ xừ! Cứ mỗi lần nó phê thuốc lắc, gặp ai nó cũng rủ chạy lòng vòng. (24H.COM.VN)
  2. Tôi xin bắt đầu minh chứng những sai lầm do cái nhìn chủ quan và phiến diện, bất hợp lý và hoàn toàn không có cơ sở khoa học của quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt trong tiểu mục SƯU TẦM LUẬN ĐIỂM PHỦ NHẬN VĂN HÓA SỬ TRUYỀN THỐNG của mục NGHIÊN CỨU CỔ SỬ VIỆT. Tôi bắt đầu từ bài đầu tiên cho đến bài cuối cùng và đang tiếp tục sưu tầm bổ sung. Để có tính minh bách trong phản biện, xin quí vị và anh chị em xem lại toàn bộ bài viết sau đây của Phó giáo sư Đặng Việt Bích đăng trên phongthuyankhang.com. * Quá trình hợp nhất và sự ra đời của người Việt cổPGS. Đặng Việt Bích www.phongthuyankhang.com Một điều mà cho đến nay người ta còn chưa biết rõ là người Nam Đảo tiến công vào Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ xuất phát từ đâu? Phải chăng họ từ quần đảo Philippin, Hải Nam đảo, Đài Loan hoặc duyên hải Quảng Đông…? Hay phải chăng họ xuất quân từ lãnh địa của văn hóa Sa Huỳnh, từ miền ven biển Trung Bộ từ nam sông Gianh tới Phan Rang mà họ Bắc tiến sau khi đã đóng vai kẻ chiến thắng tại đây? Tổ Tiên ta đã gộp hai hiện tượng - một là hiện tượng tự nhiên, một là hiện tượng xã hội – vào trong một câu chuyện thần thoại nên thơ. Lực lượng người Nam Đảo từ biển tới, tổ tiên ta đồng nhất nó với làn sóng nước biển. Và chuyện Thủy Tinh đánh ghen Sơn Tinh, dâng nước làm ngập lụt, thực ra lụt lội đâu phải được gây ra từ biển tới mà ngược lại, từ hướng tây, hướng tây bắc – đông nam, theo chiều của các con sông ở miền Bắc nước ta. Đa phần, trong các thần thoại, những sự kiện như một đám cưới giữa anh chàng này với cô gái kia, công chúa này theo hoàng tử kia về núi…đều ám chỉ hiện thực một tộc người hỗn huyết và pha trộn văn hóa với một tộc người khác. Việc có hai chàng trai đều thuộc loại quyền quý, gõ cửa xin làm rể vua Hùng chẳng qua chỉ là hình tượng hóa, mỹ hóa một sự thật phũ phàng là tộc người của Thủy Tinh tràn đến xâm lăng lãnh thổ của Hùng Vương. Cái gọi là Thủy Tinh xin được làm rể Hùng Vương thực chất là cách nói che đậy theo tư duy thần thoại lời yêu cầu sắt đá và thẳng thừng của Thủy Tinh: “Này ông Hùng Vương! Ông có cho ta đến ở trên đất của ông không?”. Còn lời xin làm rể của Sơn Tinh lại có ý nghĩa: “Này ông Hùng Vương! Thằng Thủy Tinh hung bạo nó muốn cướp đất của ông đấy. Ta hãy hợp nhất lại, đoàn kết lại để xem nó giở được trò gì?!”. Rõ ràng, đứng trước nguy cơ bị tấn công bởi một tộc người hung hãn và thiện chiến từ xa đến, mang yếu tố ngoại lai và có nhiều điểm dị biệt, hai ông hàng xóm sống gần nhau, có nhiều điểm chung hơn, đều muốn bắt tay nhau, liên kết lại để tống khứ cái kẻ xâm lăng kia. Hùng Vương không muốn mất đất đai, còn Nhóm Sơn Tinh cũng hiểu rằng: nếu để người Nam Đảo thôn tính Hùng Vương, thì nạn nhân tiếp theo sẽ là họ. Và sự liên kết ấy đã diễn ra, được phản ánh trong truyền thuyết qua đám cưới của Mỵ Nương với Sơn Tinh. Có thể trong thực tế cũng đã có một đám cưới thật, một đám cưới mang tính chính trị, để hai tộc người khác biệt trở thành người một nhà. Có thể đám cưới chỉ là một ký hiệu trong truyền thuyết, nhưng không thể phủ nhận một hiện thực rằng: đã có sự hợp nhất giữa hai liên minh bộ lạc lớn nhất thời bấy giờ tại đồng bằng Bắc Bộ. Giai đoạn hợp nhất được cho là vào thời kỳ văn hóa Gò Mun (1100 TCN), trùng với thời điểm xuất hiện các cuộc tấn công của người Nam Đảo. Hai tộc người lớn hòa nhập với nhau, không chỉ về mặt quân sự, mà dần dần cả về mặt văn hóa, huyết thống…Trong khoảng thời gian của văn hóa Gò Mun, Quỳ Chử (400 năm – từ năm 1100 đến năm 700 TCN), là quãng thời gian để hai bên hòa nhập và dần trở thành một tộc người mới. Trong 400 năm ấy, khi nắm trong tay đất đai rộng lớn do sự sáp nhập lãnh thổ của hai bên, có sự nhảy vọt về chất trong thể chất, trong đời sống văn hóa tâm linh, tinh thần, tiếp thu được cả những ưu điểm, tính trội của hai tộc người cũ, nên tộc người mới này năng động hơn, phát triển hơn. Tộc người mới này được gọi là người Việt cổ, PGS. Đặng Việt Bích gọi họ là người Mường cổ, vì những điểm tương đồng của người Mường sau này với văn hóa đồng Đông Sơn (chúng ta sẽ khảo cứu ở những bài sau: Sự phát triển của người Việt cổ và người Kinh xuất hiện như thế nào?). Và sau 400 năm chiến đấu chống giặc ngoại xâm và phát triển kinh tế, xã hội, người Việt cổ đã đạt được sự nhảy vọt thần kỳ: sáng tạo ra văn hóa đồng thau Đông Sơn.
  3. Kính thưa quí vị và anh chị em quan tâm đến cội nguồn cổ sử Việt. Vì mục đích minh chứng cho nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm văn hiến, Thiên Sứ tôi chẳng quản tài hèn, tập hợp vào topic này những bài viết có luận điểm phủ nhận những giá trị cội nguồn truyền thống Việt. Nhưng tôi chưa tìm được bài nào của học giả hay nhà nghiên cứu nước ngoài có quan điểm này. Nhân thấy ông Trần Quốc Vượng viết trong bài "Từ Hoa Lư Đến Thăng long" có câu như sau: Ông Giáo sư Tiến sĩ Mỹ Keith Taylor đã dịch một cách tài hoa và lạnh lùng các Lạc tướng là “Lord” và vua Hùng là “Overlord”. Bởi vậy, tôi hy vọng anh chị em và quí vị nào giỏi vi tính, tìm giùm trên mạng bài viết của nhà sử học Hoa Kỳ này bằng tiếng Việt.. Tôi hy vọng khi tập hợp tương đối những luận điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt tiêu biểu thì sẽ phản biện từng luận điểm của từng bài, ngõ hầu chỉ ra nhưng sai lầm phi logic của họ. Từ đó góp phần làm sáng tỏ chân lý: Lịch sử Việt trải gần 5000 văn hiến. Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của quí vị và anh chị em.
  4. Đề nghị tháo bài này khỏi trang chủ. Hùng Vương dựng nước - Tập IV - 12a Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974 Con người thời Hùng Vương Nguyễn Đình Khoa Trong nhiều vấn đề phải nghiên cứu để làm sáng tỏ thời kỳ Hùng Vương, có vấn đề con người, tức cư dân nước Văn Lang, những chủ nhân sáng tạo ra lịch sử. Có nhiều phương tiện nghiên cứu về con người. Về phương diện là con người lịch sủ, thì đó là lúc đã vượt xa phạm vi một xã hội thị tộc, bộ lạc, tiến tới một hình thái xã hội cao hơn, thời kỳ đầy đủ những điều kiện để một tổ chức nhà nước đầu tiên ra đời. Về phương diện là con người lao động, thì đó là lúc nông nghiệp trồng lúc đã phát triển với phương thức canh tác khá quy mô, và ngoài nghề nông lấy cây lúa là chính, còn biết chăn nuôi, đánh cá, dệt vải, nung gốm, luyện đồng…, tất cả các mặt hoạt động sản xuất ấy đều đạt tới một trình độ phát triển cao và là cơ sở để giải thích cơ cấu thượng tầng của xã hội thời đó. Nhưng những con người ấy về phương diện thể chất thì sao? Họ có hình dạng thế nào? Giải đáp vấn đề này chúng ta đã sử dụng những chứng cứ cổ nhân học, tức là những di tích xương cốt người cổ đào được cùng với việc khai quật các di chỉ khảo cổ học. Thực chất tìm hiểu con người thời Hùng Vương cũng chính là góp phần tìm hiểu và giải đáp vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam nói chung và vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt nói riêng. Trong mấy lần trao đổi và báo cáo tại các cuộc họp và các hội nghị trước, chúng tôi đã có dịp thay mặt những người làm công tác cổ nhân học phát biểu một số ý kiến, về nguồn gốc dân tộc, đặc biệt quan trọng là vấn đề nguồn gốc và quá trình hình thành loại hình Nam Á. Tới nay việc nghiên cứu tiếp tục được đẩy mạnh, chúng tôi thấy có thể khẳng định thêm những nhận xét và kết luận chính sẽ trình bày dưới đây, mặt khác do phân tích tài liệu thu thập được trong năm qua về các nhóm cư dân hiện tại, đặc biệt về đồng bào Xá ở khu Tây Bắc, có được một số ý kiến bổ sung xin cũng trình bày. I. Tài liệu cổ nhân học Niên đại thời Hùng Vương, cho đến hội nghị trao đổi gần đây nhất cũng hãy còn ý kiến tranh luận. Điểm cuối của khung thời gian ấn định cho thời kỳ Hùng Vương thì nhất trí là vào khoảng thế kỷ 3 trước Công nguyên, nhưng điểm xuất phát thì còn có sự bất đồng: có người cho thời điểm này là vào đầu hoặc giữ thiên niên kỷ 3 trước Công nguyên, có người thì cho là đầu thiên niên kỷ thứ 2, có người thì cho là từ thiên niên kỷ thứ 1. Sự bất đồng này do ý kiến khác nhau trong việc định niên đại cho các di chỉ xem là thuộc thời kỳ Hùng Vương, nhưng cũng cho ý kiến khác nhau trong việc quy định một nền văn hóa hoặc một giai đoạn văn hóa có thuộc thời kỳ Hùng Vương hay không, mặc dù về niên đại có thể đã ít nhiều nhất trí (thí dụ văn hóa Phùng Nguyên). Việc lựa chon những tài liệu cổ nhân học dựa vào đó để nghiên cứu con người thời Hùng Vương phụ thuộc nhiều vào trường hợp thứ hai. Song trong điều kiện cụ thể của chúng ta hiện nay thì cả trường hợp thứ nhất và thứ hai đều không ảnh hưởng gì lớn đến việc tìm hiểu con người thời Hùng Vương vì lẽ di tích xương cốt người cổ ta có được còn rất ít ỏi: những di chỉ cung cấp di cốt còn tốt để nghiên cứu được như Thiệu Dương, Vinh Quang thì đều thuộc khung niên đại Hùng Vương, trái lại những khu di chỉ còn phải tranh luận xem là thời Hùng Vương hay trước Hùng Vương như Phùng Nguyên thì lại không có di cốt. Có thể tóm tắt tình hình về cốt người cổ ít nhiếu có liên quan đến niên đại Hùng Vương như sau: - Di chỉ Phùng Nguyên: không có di cốt. - Di chỉ Lũng Hòa: nhiều di cốt người cổ, nhưng dập nát, chỉ còn thu được một số xương đùi, xương cổ chân. - Di chỉ Xóm Rền: có hai bộ xương đã nát; thu lượm được ít mảnh sọ và mảnh xương hàm dưới. - Di chỉ Tràng Kênh: một đoạn xương đùi người lẫn trong nhiều xương động vật. - Các di chỉ Gò Bông, Đồng Đậu, Gò Mun: không có di cốt, hoặc có mộ táng song không thu được di cốt. - Di chỉ Gò Chiền: một ít mảnh sọ và một xương hàm dưới. - Di chỉ Thiệu Dương: một khu mộ táng, nhưng chỉ thu được 6 sọ có thể nghiên cứu được. - Di chỉ Vinh Quang: một khu mộ táng, thu được 11 sọ hoặc mảnh sọ nghiên cứu được. - Di chỉ Đường Cồ: một sọ trẻ em 7 – 8 tuổi. Hang Núi Voi: một sọ phụ nữ. Tình hình trên đây cho thấy tài liệu cổ nhân học giúp chúng ta tìm hiểu con người thời Hùng Vương tập trung chủ yếu ở các cốt sọ Thiệu Dương và Vinh Quang. Những sọ này do Nguyễn Duy trước đây đo đạc và định chủng (1). Về những sọ này, chúng tôi đã có dịp phát biểu trong một số bài viết (2). Những ý kiến định chủng có thể thâu tóm như sau: (1) Nguyễn Duy: Nghiên cứu về những người cổ sống trong thời đại đồng thau ở Thiệu Dương, Thanh Hóa, in trong: Một số báo cáo về khảo cổ học Việt Nam, Hà Nội, 1996. - Vài nét về người cổ ở Vinh Quang, Hà Tây – Tư liệu Viện Khảo cổ (Bản đáng máy). (2) Nguyễn Đình Khoa: Về vấn đề nguồn gốc người Việt – Khảo cổ học số 3 – 4, tháng 12-1969. Nguyễn Đình Khoa và Nguyễn Lân Cường: Những người cổ ở Việt Nam – Khảo cổ học số 11 – 12, tháng 12 – 1971. Bảng 1. Những sọ cổ thời đại đồng thau và rất sớm. Theo bảng 1 trên đây, còn 2 sọ, mà trong các bài viết trước đây chúng tôi chưa đề cập tới – VQ2M10. Về họp sọ thì chúng có bề dọc sọ vào cỡ trung bình, nhưng hẹp ngang nên chỉ số sọ thấp: 69 – 70. Một số kích thước hàm dưới cũng trung bình. Nhưng hầu hết phần mặt thì thiếu nên nhiều kích thước và đặc điểm mô tả quan trọng ở phần này không xác định được. Vậy là với sự thận trọng cần thiết, trong số 17 sọ Thiệu Dương và Vinh Quang, có tới 8 sọ không định chủng, còn lại 9 sọ xác định như sau:2 sọ Ô-xtơ-ra-lô Nê-grô-ít. 4 sọ Anh-đô-nê-diêng. 3 sọ Nam Á. Tình hình trên đây đã cho phép chúng tôi đi tới kết luận: Loại hình Anh-đô-nê-diêng hình thành rõ rệt từ thời đại đá mới, vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển sang thời đại đồ đồng và sau này, nhưng ít nhất từ thời đại đồng thau ở địa bàn Bắc Việt Nam ta thấy xuất hiện một yếu tố nhân chủng mới – loại hình Nam Á có thể coi là tổ tiên trực tiếp của những người Nam – Á hiện nay, tại vùng này, trong đó có người Việt. Tuy nhiên có một điều kiện cần được lưu ý: cho tới cuối thời đại đồ đồng sang thời đại sắt, đại chủng Ô-xtơ-ra-lô Nê-grô-ít vẫn còn có mặt tại đây, tuy với tỷ trọng giảm bớt. Tình hình này có phản ảnh đúng hiện thực hay không, chúng ta cần tiếp tục theo dõi. Tài liệu nhân chủng học các cư dân hiện đại chúng tôi trình bày dưới đây có thể góp thêm phần suy nghĩ cho vần đề này. II. Tài liệu nhân học về các nhóm người hiện đại. Nhóm loại hình Anh-đô-nê-diêng và nhóm loại hình Nam Á là những cấp phân loại thuộc tiểu chủng Mông-gô-lô-ít phương nam. Trong hệ thống phân loại các chủng tộc thế giới của nhà nhân học và dân tộc học Liên Xô Trê-bốc-xa-rốp (1), nhóm loại hình là những đơn vị phân loại cơ bản. Quá trình hình thành và xuất hiện của chúng tiếp diễn từ sơ kỳ đá mới (hoặc sớm hơn) trở về đây, dưới tác động kết hợp của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, trong đó tác động của môi trường xã hội ngày càng chiếm ưu thế. Khái niệm Anh-đô-nê-diêng và Nam Á hình thành từ thực tiễn nghiên cứu các cư dân hiện tại ở Đông Nam châu Á về mặt nhân chủng học, từ đó đã mở rộng cho những loại hình nhân chủng các thời đại cổ xưa ở địa vực này. Cho nên muốn tìm hiểu nguồn gốc các cư dân hiện tại cần sử dụng đầy đủ những tài liệu có nhân học, đồng thời phải biết kết hợp cả hai nguồn tài liệu – cổ nhân học và nhân học những cư dân hiện tại. Khoảng ngót mười năm trở lại đây ngành nhân chủng học đã thu thập được một số tài liệu quan trọng so với những tài liệu rải rác mà trước đây các tác giả nước ngoài để lại. Đối chiếu những tài liệu này với tài liệu cổ nhân học có khả năng giúp chúng ta phát hiện quá trình hình thành các loại hình nhân chủng, mối quan hệ họ hàng giữa các loại hình và nguồn gốc tổ tiên của họ. Nghiên cứu để giải đáp vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam cũng phải tiến hành theo con đường đó. (1) N.N. Trê-bốc-xa-rốp: Những nguyên lý cơ bản về phân loại chủng tộc, Tập công trình của Viện Dân tộc học Liên Xô, t. XVI, 1951, Bản tiếng Nga, tr.291-322. Hiện nay tài liệu nhân chủng học người Việt đã có khá đầy đủ. Ngoài ra có thêm tài liệu về người Mường, người Tày, người Thái, người Xá và nhiều tộc người vùng núi tỉnh Quảng Bình như Vân Kiều, Mong Coong, Mầy, Khùa v.v… Chính nhờ các tài liệu này chúng ta xác định được nội dung cụ thể của 2 nhóm loại hình Anh-đô-nê-diêng và Nam – Á và phân biệt chúng. Sự phân hóa các đặc điểm giữa Anh-đô-nê-diêng và Nam – Á có thể thâu tóm như sau: Bảng 2. Sự phân hóa giữa 2 nhóm loại hình Anh-đô-nê-diêng và Nam – Á. Trên đây chỉ nêu lên những nét điển hình nhất. Đi vào chi tiết còn có những biến dị tế nhị mà phương hướng biến dị chỉ thể hiện khi các nhóm nghiên cứu có số lượng đủ lớn (hình sống mũi, độ vát trán, độ dô vòm mày, độ dô lồi cằm, bề rộng miệng, bề dày môi v.v…). Dưới đây chúng tôi nêu làm dẫn chứng hai bảng số liệu và sự phân hóa các đặc điểm giữa người Anh-đô-nê-diêng và Nam Á thể hiện trên người sống và trên cốt sọ. Chúng ta sẽ thấy sự phân hóa trên hai loại hình tài liệu này rất tương đồng. Bảng 3. Sự phân hóa đặc điểm giưa người Việt (Nam Á) và người Mong Coong (Anh-đô-nê-diêng) (Theo Nguyễn Đình Khoa 1968-1969) (1) Các đặc điểm mô tả từ màu da trở xuống đều tính theo chuẩn số trung bình. Trong hệ thống phân loại các cư dân ở Đông nam châu Á, khi chúng tôi đặc vị trí của nhóm loại hình Anh-đô-nê-diêng bên cạnh nhóm loại hình Nam Á thì tự nó đã bao hàm ý nghĩa về mối quan hệ gần gũi giữa chúng về mặt nguồn gốc (1965) (2). Song lý giải cụ thể mối quan hệ này như thế nào vẫn chưa làm được. Gần đây nhờ nghiên cứu một số nhóm đồng bào Xá ở Tây Bắc đem đối chiếu với tài liệu về các tộc người Khả ở Lào của No-en Béc-na (Noel Bernard) năm 1904 (3) và với các tộc ít người của miền núi phía Tây tỉnh Quảng Bình (sách đã dẫn, 1969) mà có những tia sáng mới về mối quan hệ này giúp cho bước đầu hình dung được quá trình hình thành nhóm loại hình Nam Á.(1) Nguyễn Đình Khoa: Thử tìm hiểu đặc điểm hình thái nhân chủng người Việt – Nghiên cứu Lịch sử số 113, tháng 8 - 1968. Nguyễn Đình Khoa: Thành phần nhân chủng một số nhóm dân tộc miền núi tỉnh Quảng Bình – Nghiên cứu Lịch sử, số 121, tháng 4 – 1969. (2) Nguyễn Đình Khoa: Về yếu tố Anh-đô-nê-diêng trong thành phần nhân chủng các dân tộc ở Đông Nam châu Á – Nghiên cứu Lịch sử, số 75, tháng 6 – 1965. (3) N. Béc-na: Những người Khả, một tộc người chậm tiến ở nước Lào – Bút ký nhân học và dân tộc học. Trích dẫn từ Tạp chí Địa lý lịch sử và họa hình, năm 1904 (Bản tiếng Pháp). Bảng 4. Sự phân hóa đặc điểm giữa cốt sọ người Việt và người Anh-đô-nê-diêng (Việt Nam). (Theo G. Ô-li-viê (Olivier), 1966) (1) Số lượng sọ tối đa đối Việt là 67, Anh-đô-nê-diêng là 16, nhưng vì cốt sọ có khi bị vỡ từng phần, nên có nhiều đặc điểm không lấy được số liệu với đủ số lượng như trên. (1) Gi. Ô-li-viê: Cốt sọ học những cư dân Đông Dương (Grâniometrie des indochinois) (chữ Pháp), Tạp chí “Nhân học” Pa-ri, tập 9, Xê-ri Xie, năm 1966. Như chúng ta đều biết, nhiều nhà nghiên cứu thường cho rằng những người Xá Tây Bắc cùng với người Khả ở Lào là những chi tộc có họ hàng gần gũi với nhau và tộc danh “Xá” cũng bởi âm “Khả” mà ra. N. Béc-na tiến hành nghiên cứu 230 người Khả thuộc 11 tộc khác nhau ở Lào, đã khái quát người Khả bằng những nét đại thể như sau: “tóc thẳng và đen, màu da vàng, ngả sang màu đỏ, lông trên người ít phát triển, tầm người thấp, thay đổi từ nhóm này đến nhóm khác trong khoảng 1,52 – 1,59m, đầu sọ hẹp ngang và dài, chỉ số trung bình 76, mũi dẹt, sống mũi thường lõm, rộng trung bình với chỉ số từ 85 đến 94, gò má dô, mặt ngắn và rộng, có hình 5 cạnh hay hình trám…” và đi tới kết luận về mặt phân loại: “Đó là những nét tiêu biểu của chủng tộc Anh-đô-nê-diêng, chủng tộc của những người ở nội địa các hòn đảo lớn thuộc quần đảo Mã Lai…” (Sách đã dẫn, trang 314). Khảo sát kỹ sự phân tích các đặc điểm nhân chủng người Khả của Béc-na, chúng tôi tán đồng việc định chủng các tộc Khả ở Lào là thuộc nhóm loại hình Anh-đô-nê-diêng (dĩ nhiên với quan niệm coi đó là một nhóm loại hình của người Mông-gô-lô-ít phương nam). Đe đối chiếu tài liệu về người Khả với các nhóm Xá Tây Bắc mà chúng tôi nghiên cứu, nếu đúng như giữa họ có quan hệ thân tộc với nhau như nhiều người thường nói thì nay thấy có sự phân bố rõ rệt, một sự phân hóa đến mức độ phải đặt các nhóm Xá vào nhóm loại hình không phải Anh-đô-nê-diêng mà là Nam – Á. Trong số các tộc Khả ở Lào mà Béc-na nghiên cứu có một tộc Khả Khmu. So sánh với nhóm Xá Khmu Tây Bắc thì trong số các tộc Khả khác ở Lào, Khả Khmu cũng gần với Xá Khmu hơn cả. Nhưng sự phân hóa giữ những người này cũng vẫn rất lớn, như đã nói trên. Nói chung các nhóm Xá đều có những đặc điểm đậm nét của người Mông-gô-lô-ít, biểu hiện rõ nhất trên những đặc điểm mô tả. Về đặc điểm mê-tơ-rích so với Khả thì Xá thường có bề dọc đầu nhỏ hơn, nhưng bề ngang đầu lại rộng hơn, nên chỉ số đầu cao hơn (đầu ngắn hay tròn hơn). Các nhóm Khả đều có hình dạng đầu biến dị từ loại dài đến trung bình, nhưng cũng thiên về phía đầu dài, trái lại các nhóm Xá thì có đầu thuộc loại trung bình thiên về phía đầu ngắn. Bề rộng mặt các nhóm Khả, so với Xá, đều hẹp hơn, với sự khác biệt từ 5 – 6mm cho tới 10 – 12mm, nghĩa là khá lớn. Kích thước bề cao mũi phần lớn trường hợp đều nhỏ hơn người Xá, nhưng bề rộng mũi lại lớn hơn, nên theo chỏ số thì đa số nhóm Khả (8 trên 11 trường hợp) đều thuộc loại người có mũi rộng, còn người Xá thì mũi thuộc loại trung bình. Bây giờ thử tiến hành đối chiếu những nhóm Xá Tây Bắc với các tộc người vùng núi Quảng Bình (Vân Kiều, Mong Coong, Trì, Mẩy, Khùa). Khác với tình hình trên đã xảy đến với người Khả, các nhóm Xá với những tộc Quảng Bình lại rất tương đồng với nhau trên những đặc điểm mê-tơ-rích. Điều này không phải ngẫu nhiên, vì tựa như các tộc Khả ở Lào và Xá Tây Bắc, các nhóm dân tộc ít người ở Quảng Bình cũng có những chi tộc thân thuộc ở đất Lào. Trong phạm vi tỉnh Khăm-muộn cùng vĩ độ với Quảng Bình cũng có những tộc người gọi là Khả Mong-coong. Sô, Trì (1) và quanh Nhom-ma-rát, một thị trấn nhỏ cách Tha-khet 60km về phía Tây Bắc còn có những tộc người gọi là Ma-con (2) mà theo chúng tôi thì với Khả Mong-coong có thể cũng chỉ là một tộc danh. Nghĩa là người Khả, người Xá và các tộc ít người ở Quảng Bình đều là những tộc người ít nhiều có quan hệ nhất định với nhau về mặt nguồn gốc và ở một giai đoạn lịch sử nào đó trước đây họ đã từng phân bố rộng rãi ở vùng Bắc Đông Dương này. (1), (2) Theo các tài liệu sau đây của cùng một tác giả: Ăng-đơ-rê Phre-xơ (Andre Fraisse, 1950): - Những tộc Sek và Kka ở tỉnh Cam-mon (Lào) – Tạp chí của Hội Nghiên cứu về Đông Dương t. XXV, N.3, quí 3, Sài Gòn, 1950 (Bản tiếng Pháp). - NHững tộc Sô ở tỉnh Cam-mon (Lào) – Tạp chí của Hội nghiên cứu về Đông Dương, t.XXV, N.2 quí 2, Sài Gòn, 1950 (Bản tiếng Pháp). Nhưng sự khác biệt giữa người Xá và các tộc Quảng Bình xuất hiện rõ nét khi khảo sát các đặc điểm mô tả. Sự phân hóa đã diễn ra theo hai hướng khác nhau: các tộc Quảng Bình theo hướng của loại hình Anh-đô-nê-diêng, các tộc Xá ở Tây Bắc theo hướng của loại hình Nam Á. Về những vấn đề vừa kể trên, chúng tôi đã có dịp trình bày đủ và chi tiết hơn trong một bài viết với tiêu đề: “Nghiên cứu nhân chủng học các nhóm người Xá ở Tây Bắc” (tư liệu 1970). Bảng 5 dưới đây minh họa tóm tắt và sơ lược nội dung trình bày vừa rồi: Bảng 5. Tài liệu so sánh giữa người Khả (Lào), Xá (Tây Bắc) và các nhóm cư dân miền núi Quảng Bình (nam giới). Dựa trên sự so sánh và phân tích trên đây, chúng tôi đã rút ra một số kết luận quan trọng giúp cho việc đi sâu thêm về nội dung khái niệm Anh-đô-nê-diêng và Nam Á, hai nhóm loại hình nhân chủng chủ yếu ở vùng Đông Nam Á hiện nay, đồng thời gợi nêu những suy nghĩ khá cơ bản về quá trình hình thành người Xá nói riêng và quá trình hình thành nhóm loại hình Nam Á nói chung. Những kết luận đó là:1. Hai nhóm loại hình Anh-đô-nê-diêng và Nam Á có nhiều nét tương đồng, bên cạnh những nét khác biệt. Để phân biệt chúng không thể chỉ dựa vào một loại đặc điểm mê-tơ-rích hoặc mô tả tách riêng – càng không thể dựa vào từng đặc điểm riêng biệt – mà phải kết hợp toàn bộ các đặc điểm mê-tơ-rích và mô tả, nhất là các đặc điểm mô tả. 2. Ở các nhóm người Xá Tây Bắc, bên cạnh các yếu tố Nam Á là thành phần cấu tạo chủ yếu, còn có những yếu tố Anh-đô-nê-diêng thể hiện trên các mứa độ khác nhau tùy từng trường hợp. Nếu đem so sánh người Khả với Lào và các tộc miền núi Quảng Bình đều thuộc nhóm loại hình Anh-đô-nê-diêng với người Xá Tây Bắc thuộc nhóm loại hình Nam Á thì trước mắt ta rõ ràng vẽ ra một bức tranh trong đó nội dung cấu tạo là hai yếu tố Anh-đô-nê-diêng và Nam Á đã diễn ra đậm nhạt theo hai hướng trái chiều nhau theo sơ đồ sau đây: 3. Sơ đồ trên nói lên một sự chuyển biến giữa các nhóm loại hình: Nam Á trở thành Anh-đô-nê-diêng, và Anh-đô-nê-diêng trở thành Nam Á. Đối với các nhóm Xá mà chúng ta nghiên cứu thì đó là sự chuyển biến thứ hai. Nghĩa là: sự hình thành các nhóm Xá Tây Bắc chính là kết quả một quá trình chuyển biến từ những loại hình Anh-đô-nê-diêng trở thành Nam Á. Những kết luận trên phù hợp với tình hình diễn ra khi nghiên cứu các tài liệu cổ nhân học trình bày ở phần trên. Thật vậy, do tính chất chuyển biến giữa các loại hình mà sự phân biệt những loại hình Anh-đô-nê-diêng và Nam Á trên những sọ cổ tìm thấy ở Việt Nam không phải luôn luôn dễ dàng. Trong các cốt sọ đều thấy có sự kết hợp giữ 2 yếu tố Anh-đô-nê-diêng và Nam Á với những tỷ trọng khác nhau, một sự kết hợp nhuần nhuyễn đến mức độ có trường hợp khó phân tích được. Có thể rút ra những hệ quả thuộc nhiều khía cạnh từ các kết luận trên (tư liệu đã dẫn: Những người Xá ở Tây Bắc). Ở đây chúng tôi không đi xa vấn đề đã đặt ra mà muốn hướng những kết luận đó vào việc làm sáng tỏ đề tài: “Con người thời Hùng Vương” trong đó có bao hàm cả vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt. Còn tiếp
  5. Đề nghị tháo bài này khỏi trang chủ. Hùng Vương dựng nước - Tập IV - 11 Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974 Đất nước, con người và văn minh Việt Nam thời cổ. Trần Quốc Vượng Bắc Việt Nam, “quê hương buổi đầu của dân tộc” (1) là một trong những bao lơn của châu Á nhìn ra Thái Bình Dương. Mộ xứ nhiệt đới gió mùa ẩm ướt, có nhiều đồi núi, có đồng bằng phì nhiêu và được biển cả bao quanh. (1) Phạm Văn Đồng: Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa và khí phách của dân tộc, lương tâm của thời đại – Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1970, tr.36. Một vị trí có tính chất tiếp xúc giữa nhiều hệ thống địa lý. Gắng bó với lục địa Châu Á: Địa hình Việt Nam và địa hình các nước láng giềng không đứt đoạn mà có thể “núi liền núi, sông liền sông” Nhìn ra Thái Bình Dương: biển Đông tuy với bão tố đầy nguy hiểm vẫn đóng vai trò nối liền Việt Nam với thế giới hải đảo phương Nam, với các dân tộc Đông Nam Á, và xa hơn, với Trung Quốc, Ấn-Độ, phương Tây… Nếu trong kho tàng truyền thuyết được gắn với thời Hùng Vương có chuyện Việt Thường Thị đem bạch trĩ sang Chu thì cũng có chuyện Mai An Tiêm từ thuyền buôn nước ngoài lên làm nô bộc cho vua Hùng và chim trĩ ngậm hạt dưa từ phương Tây bay tới. Đấy là vài đặc điểm lớn của diện mạo quê hương dân tộc. Từ trong môi trường tự nhiên ấy, nảy sinh dân tộc Việt Nam và nền văn minh Việt Nam thời cổ. Hà Văn Tấn có lý khi gọi nền văn minh ấy – nền văn minh Việt Nam thời Hùng Vương dựng nước là nền văn minh sông Hồng (2). (2) Hà Văn Tấn: Nghiên cứu thời đại các vua Hùng (hiện trạng và triển vọng) – Tập sang quản lí văn vật, Hà Nội, số 19, tr.64. * * * Nhìn vào bản đổ quê hương buổi đầu của dân tộc, nét nổi bậc đập vào mắt mọi người là địa hình phức tạp và đa dạng, là sự đối lập nhưng đồng thời thống nhất giữa miền núi rừng và miền châu thổ.+ Núi rừng trùng điệp 102.000 km2 (Một số sách địa lý gọi Việt Nam là “xứ núi rừng”). Tuy ở một số nơi, núi cũng khá cao và hiểm trở như dãy Hoàng Liên Sơn nhưng nhìn chung núi đồi thấp dưới 1.000m vẫn chiếm ưu thế và vẫn chỉ là núi già trẻ lại. Thưa dần. Song lại nhiều thành phần dân tộc. + Đồng bằng không lấy gì làm ruộng: 14.700 km2 song từ sử sách xưa (Nam Việt chí, thế kỷ thứ 5) đến các học giả ngày nay – trừ Nguyễn Đức Tâm – Ai cũng nhận rằng phì nhiêu. Bằng phẳng, hầu như không có địa hình gì đáng kể. Nét nổi bậc của địa hình châu thổ sông Hồng là đê – đê sông, đê biển – do con người xác lập từ trước Công nguyên. Một địa hình nhân tạo. Núi già, đồng trẻ; với những hiểu biết hiện nay, có thể giả thuyết đồng bằng Bắc Bộ, hình thành vào khoảng cuối thời đại đá mới, khoảng 5.000 năm trước đây là công cuộc tự cư ở đồng bằng cũng bắt đầu ngay từ khi đó. Đồng bằng Bắc Bộ chưa kịp hình thành xong thì con người đã tiến công khai phá, đắp đê chặn đứng sự hình thành tự nhiên đó lại nên hiện nay còn rất nhiều ô trũng (vùng đồng chiêm trũng). Đông dân ngay từ thời dựng nước. Bảng thống kê số dân thời thuộc Hán là một bằng chứng. Thành phần dân tộc tương đối thuần nhất: hầu hết là người Việt (Kinh). + Giữa miền núi và miền châu thổ có một cái dấu nối: đó là miền trung du mà xu hướng đồng bằng hóa hiện nay ngày càng rõ rệt. Miền trung du chính là khởi điểm địa lý của sự hình thành nhà nước sơ khai của Việt Nam. Miền (trước núi), ngó mặt xuống (“hướng về”) đồng bằng! * * * Hiểu biết của chúng ta về thời kỳ nguyên thủy thật sự của Việt Nam (thời trước nông nghiệp – tức từ thời đại đá giữa trở về trước, khoảng 10.000 năm trước đây còn quá ít ỏi.Một vài chiếc răng có khả năng là răng người vượn ở Bình Gia (Lạng Sơn). Một di tích đầu thời đá cũ – từ năm 1960 đến nay vẫn chỉ là di tích đầu thời đại đá cũ duy nhất - ở Núi Đọ (Thanh Hóa). Các giai đoạn đầu thời đại đá cũ trước và sau Núi Đọ, các giai đoạn giữa và cuối thời đại đá cũ,… cho đến nay vẫn là một ẩn số. Qua di tích Bình Giang và di tích Núi Đọ, có thể rút ra được một điều: ngay từ đầu thời đại đá cũ – thời kỳ người Vượn – cuộc sống và lịch sử loài người đã bắt đầu ở một số nơi tại miền núi và miền gần biển bắc Việt Nam. Chưa có đồng bằng. Hoặc nếu có thì đã bị bào mòn gần hết, chỉ còn lại một ít vết tích, thấy rõ rệt ở rìa tây nam. * * * Từ khoảng 10.000 năm đến khoảng 5.000 năm trước đây là thời đại đá giữa và thời đại đá mới của Việt Nam, thời kỳ nông nghiệp sơ khai (proto-agriculture) và nông nghiệp bước đầu phát triển.Trung du có văn hóa Sơn Vi mà niên đại tương đối cũng như tuyệt đối còn khó xác định (tạm thời có thể giả thuyết là thuộc cuối thời đại đá cũ, hoặc đầu thời đại đá giữa). Có di tích Gò Con Lợn (Lâm Thao, Vĩnh Phú). Có ý kiến là rất quan trọng, tạm xếp vào cuối thời đại đá mới. Miền núi, bao gồm miền núi bắc (thật ra là bắc – đông - bắc) và miền núi nam (thực ra là tây – bắc – đông – nam) lưu vực sông Hồng, với những dãy núi đá vôi có nhiều hang động, với nhiều lũng bằng rộng hẹp khác nhau luồng sâu vào miền núi – có văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn và nhiều di tích thuộc giữa và cuối thời đại đá mới, đầu thời khí mang truyền thống kỹ thuật đá cuội. Với Hòa Bình, Bắc Sơn, đã nảy sinh nền nông nghiệp sơ khai (1). Nghề nông trồng cây ăn quả, trồng cây có cũ, trồng rau dưa bầu bí. Chẳng phải tình cờ mà quả bầu trở thành một mô típ căn bản trong thần thoại khởi nguyên của nhiều thành phần dân tộc Đông Dương. Tục lệ cổ truyền của người Mường làm nhà mới xong, đến ngày phải dọn đến nhưng vì một lí do nào đó chưa dọn được thì đem quả bầu đến buột vào cây cột cái nhà với ngụ ý: tổ tiên đã đến ở đó (2). Với thời đại đá mới, miền núi đã phát triển một nền nông nghiệp trên nương rẫy với công cụ sản xuất chủ yếu là cái rìu đá mài và có lẽ với cái gậy chọc lỗ. Nông nghiệp ruộng trũng, trồng lúa nước ra đời ở vùng núi (miền thung lũng) từ bao giờ thì còn phải tiếp tục nghiên cứu. (1) Trần Quốc Vượng: vài ý kiến chung quanh vấn đề thời kỳ Hùng Vương – Hùng Vương dựng nước, NXB Khoa hoạc xã hội, Hà Nội, Tập II, tr.129-138). Hà Văn Tấn: văn hóa Bắc Sơn với một truyền thống và binh tuyến – Những hiện vật tàn trữ tại Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam về văn hóa Bắc Sơn, Hà Nội, 1969, tr.189-206. (2) Theo tài liệu điều tra điền dã của Nguyễn Từ Chi. Khoảng thế kỷ thứ 10 trở về trước – nghĩa là khoảng trước những cuộc di cư lớn, nhỏ của các tộc Thái, Dao, Mèo, Nùng,… vào miền núi bắc Việt Nam (từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 17-18), có thể hình dung sự phân bố cư dân ở miền núi bắc Việt Nam như sau: 1. Vùng núi bắc đông bắc. Từ tả ngạn thượng lưu sông Hồng đổ về phía đông, từ sông Cà Lồ và dãy Tam Đảo đổ lên phía bắc, từ vùng sông Cầu đổ về phía đông bắc – nghĩa là chủ yếu gồm Việt Bắc ngày nay – là nơi tụ cư của người Tày cổ. Sử sách ghi cư dân ở vùng này bằng nhiều tên: Âu Việt (trước Công nguyên), Ô Hử (ở miền ranh giới Giao Quảng), Di Lão (Phù Nghiêm Di, Lão… thời bắc thuộc), Tây Nguyên man (man Hoàng Động, Nùng Động, Chu Động… thời thuộc Đường) (1). Việt Bắc có khả năng là quê hương người Tày cổ. 2. Thượng lưu sông Hồng, từ Hưng Hóa đổ lên Tây Bắc, dọc hai bên bờ sông Hồng sử sách thời Đường ghi phía dưới là người sinh Lão (Tày cổ), từ Cam Đường (Lào Cai) trở lên là người Thoán (cư dân ngữ hệ Tạng – Miến). Thế kỷ thứ 8, với sự giúp sức của những người Thoán này, quân Nam Chiếu (mà thành phần chủ yếu là người Di (Đông Thoán Ô Man) và người Bạch (Tây Thoán Bạch Man) đã nhiều lần kéo xuống xâm lược vùng Hà Nội (2). Cư dân thuộc ngữ hệ Tạng – Miến có vai trò quan trọng trong sự hình thành văn hóa Tấn Ninh. Trống đồng Tấn Ninh có cảnh diễn tả nghi lễ đâm bò u (gayal): Đâm bò u là một tập tục của cư dân ngữ hệ Tạng – Miến, người Na-ga chẳng hạn. Giữa văn hóa Tấn Ninh và văn hóa Đông Sơn có sự giao lưu. Tượng người đàn bà trên thạp Đào Thịnh mặc kiểu váy na-ga. Một vài dao găm cán hình người tết tóc: tết tóc là phong tục người Khương (ngữ hệ Tạng-Miến) (3). Nhiều học giả Trung Quốc chủ trương tộc Di đã có mặt ở Vân Nam từ thời đại đá mới bắc Việt Nam có quan hệ giao lưu với Vân Nam từ lâu đời. Đó là con đường giao lưu trống đồng, rìu lưỡi xéo đồng… từ bắc Việt Nam lên Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên dọc lưu vực sông Hồng. Con đường ấy Mã Viện cho là đường hành quân tiện lợi “mau chóng như thần” (Thủy kinh chú), đó cũng là con đường Sĩ Nhiếp ở Giao Châu giao thiệp với Ung Khải ở Ích Châu, con đường quan quân nhà Tấn với Thoán Cốc, Thoán Năng… (người Thoáng) sang đánh quan quân nhà Ngô ở Giao Châu nửa sau thế kỷ thứ 3 (4), con đường sang Ấn Độ trong hành chính mà Giả Đam chép trong Trinh Nguyên thập đạo lục, con đường xâm lược của Nam Chiếu, thế kỷ thứ 8, con đường từ đạo hạnh đi qua vùng Kin Xi Man sang Tây Thiên học đạo, con đường xâm lược của Mông Cổ từ Vân Nam tiếng đánh Đại Việt,… Chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà ngôn ngữ học thấy một số điểm gần gũi giữa nhiều từ Tiếng Việt và từ tiếng Tạng-Miến (5). (1) Đường thư: Tây Nguyên man truyện; Đặng Nghiêm Vạn và Trần Quốc Vượng: vấn đề An Dương Vương và lịch sử người Tày cổ - thông báo khoa học của trường đại học Tổng hợp Hà Nội, phần sử học, tập 2. Nếu giải thuyết Tây Âu = Tây Vu là đúng thì khoảng trước sau thời An Dương Vương lĩnh vực của người Tày cổ có lúc vượt xuống phía nam sông Cà LỒ, và phía sông Cầu. (2) Phàn xước: Man thư. (3) Tư Mã Thiên: Sử ký – Tam nam Di truyện. (4) Tam quốc chí – Sĩ Nhiếp truyện và Tấn thư – Địc lý chi, Tấn thư – Đào Hoàng truyện. (5) Xem Sa-phe (Schafon): Tiếng Việt và tiếng Tạng – Miến (chữ Pháp) – Tập san Trường Viễn đông bác cổ, Hà Nội, 1940, tập XL. 3. Vùng núi tây bắc, đông nam, Hưng Hóa, Ba Vì đổ lên Tây Bắc, là quê hương và nơi sinh tụ của nhiều cư dân nói tiếng Môn-khơ-me (Xinh Mun, Kháng, Mảng…), một trong những ngôn ngữ được xác lập xưa nhất ở vùng Đông Nam Á và tạo nên (substratum) cho Tiếng Việt – người Mường cư trú trên dải đất liền khoảnh từ Nghĩa Lộ, Yên Bái qua Hòa Bình và Thanh Hóa, Nghệ An, hình thành khu đệm giữa người Việt và các tộc người nói tiếng Môn-khơ-me và tộc Thái (đến sau) có lẽ chỉ hình thành vào khoảng cuối thời Bắc thuộc, với cái lõi Môn-khơ-me lắp ráp thêm và nhào nặn lại những yếu tố Việt, Thái, Mã Lai, (1)… (1) Theo sự điều tra nghiên cứu của Nguyễn Từ Chi, người Mường và ghi nhớ (trong các bài mo) nhiều địa danh bằng tiếng Mường chỉ nhiều vùng ở lưu vực sông Hồng. Điều đó có lí do. Theo lĩnh nam chích quái, thời Hùng Vương, dưới chân núi Tản có Bạch y man. Vùng Mễ Sở (Hoài Đức, Hà Tây) có đền Lý Phục Man, Tướng của Lý Bí trấn giữ người Man ở vùng đó. Thời Tiền Lê Lê Hoàng cử con làm ngự man vương ở vùng Tam Nông (Vĩnh Phúc). Thời Lý Trần, có Quảng Oai Man ở vùng Hà Tây. Man đây chắc chỉ người Mường cổ. Tóm lại, vùng núi bao quanh đồng bằng Bắc Bộ vào thời kỳ hình thành các tộc người (thời đại đá mới và thời đại đồng thau) từng đông bắc qua tây bắc xuống tây nam có lẽ bao gồm các nhóm cư dân nói tiếng Tày, tiếng Tạng-Miến và tiếng Môn-khơ-me. Có lẽ những “sơn nhân” này về sau được phản ánh vào kho tàng thần thoại Việt trong biểu tượng để kết tinh: Sơn tinh miền ven biển vào thời đại đá mới và đầu thời đại kim khí hình thành những nền văn hóa “cồn sò điệp” với Quỳnh Văn ở ven biển Nghệ An (đầu đá mới), Bầu Tró (hay Thạch Lạc) ở ven biển Hà Tĩnh, Quảng Bình (cuối thời đại đá mới), Hạ Long ở ven biển và hải đảo Hạ Long và Bái Tử Long (cuối thời đại đá mới, đầu thời đại đồng). Trong kho tàng thần thoại Việt cổ, biểu tượng Ngư tinh (2) rõ ràng là phản ánh của người Đản, một cư dân rất lâu đời ở vùng Vịnh Bắc Bộ và bờ biển Quảng Đông mà rất nhiều thư tịch Việt Nam ở Trung Quốc nói tới, hiện nay là người Thán Sín ở vùng biển Quảng Ninh. Đãn, Đản, Thán hay Đài (Đài Ao – tức người Lê ở Hải Nam) là một khâu trong chuỗi cư dân nói tiếng Mã Lai (malayo – polinésien hay indonésien) phân bố ở vùng ven biển và hải đảo Đông Nam Á gồm tộc Cao Sơn ở Đài Loan, người Lê ở Hải Nam, người Thán ở vịnh Bắc Bộ, người Bồ Lô ở ven biển Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, người Chàm ở Trung và Nam Trung Bộ Việt Nam, người Mã-lai ở bán đảo Mã-lai, những “người ở nước”, “long hộ”, “giao nhân” chèo thuyền giỏi, vượt biển thạo. (2) Lĩnh nam chích quái – Chuyện Ngư tinh. Có thể giả thuyết rằng chủ nhân những nền “văn hóa đóng sò” ở miền ven biển là những nhóm cư dân “nguyên Mã-lai” (proto-malais), sau này được phản ánh vào kho tàng thần thoại Việt trong biểu tượng đã kết tinh: Thủy Tinh. Qua các di tích khảo cổ thời đại đá mới và thời đại đồng thau, ta thấy có sự giao lưu văn hóa giữa cư dân miền núi và miền biển (vả chăng miền ven biển Quảng Ninh còn tìm thấy cả những di tích văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn): vỏ biển trong các di tích Hòa Bình, Bắc Sơn, Ốc Tiền (Canis) ở Bình Giang, ở Tấn Ninh,… thể lưỡng hợp – đối lập và hòa hợp giữa miền núi và miền biển, giữa cư dân ở núi và cư dân ở biển được phản ánh vào thần thoại dưới nhiều biểu tượng mâu thuẫn và thống nhất giữa núi và biển, loài ở núi, ở cạn, ở trên không với loài ở nước, về sau được tích hợp vào truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh. Trên trống đồng Ngọc Lũ, ta còn “đọc” được chủ đề thần thoại đó qua hình tượng những chiếc thuyền là hình rắn nước (Giao Long?) nằm ngửa há mồn với chim chắp cánh lao đầu vào miệng rắn. Rắn nước (sau biến thành rồng) là một mô típ chủ đạo trong thần thoại và truyền thuyết dựng nước của nhiều dân tộc Đông Nam Á (1). Thoạt đầu, với “khối nền” Anh-đô-nê-diêng, hình như ưu thế thuộc về nước. (1) Ở Việt Nam là hình tượng đã bị đạo giáo “xuyên tạc” là “Long Quân”, “Long Vương”. Trước nền văn minh trồng lúa là nền văn minh chài cá. Lúa là lúa nước nảy sinh ở đầm lầy. Cư dân đánh cá và bắt ốc ở gần nước biết trồng lúc trước “vùng cao”. * * * Các núi đảo nằm trơ trên các miền đất châu thổ cách bờ biển độ vài chục ki lô mét thường mang nhiều dấu vết chứng minh rõ ràng hoạt động của sóng biển vỗ bờ vào chân núi. Chính hiện tượng đó và một số vết tích khác đã giúp các nhà địa lý học có cơ sở rằng đồng bằng bắc Việt Nam trước đây là vùng vịnh biển nước cạn hoặc là các vũng đọng sau này được sản phẩm do các sông mang từ trên núi xuống lấp đầy lên.Sự hình thành các châu thổ và đồng bằng ven biển là một quá trình lâu dài trải qua nhiều giai đoạn biến hóa cảnh quan châu thổ khác nhau: vịnh biển – vùng trũng hồ lầy, rừng rậm – đồng bằng. Cho đến nay, chưa tìm thấy những di tích thời đại đá mới ở đồng bằng Bắc Bộ (đồng bằng Thanh Hóa có công xưởng Đông Khối có lẽ thuộc hậu kỳ thời đại đá mới). Những di tích sớm nhất hiện nay đã biết ở châu thổ Bắc Bộ thuộc giai đoạn Phùng Nguyên (đầu thời đại đồng thau), tiếp đó là những di tích thuộc giai đoạn Đồng Đậu (giữa thời đại đồng thau), Gò Mun (cuối thời đại đồng thau, Đông Sơn (cuối thời đại đồng thau, cuối thời đại sắt). Những di tích thường phân bố ở ven sông trên các doi và gò đất cao (khu vực trồng màu, nương mạ hay ruộng lúa mùa, không cấy được lúa chiêm). Cư dân đánh cá, đi săn song rõ ràng đã làm nông nghiệp định canh định cư, trồng lúa, đậu, cây ăn quả,… và chăn nuôi một số gia súc. Ban đầu cấy lúa nếp, và lúa mùa ở những chân ruộng rao. Khoảng trước sau Công nguyên một chút, trên cơ sở tăng vụ, chuyển vụ, đã biết trồng lúa 2 mùa. Nếp đóng vai trò lớn trong những nghi lễ nông nghiệp, hội làng, việc họ, cùng giỗ tổ tiên của người Việt rõ ràng phản ánh tầm quan trọng rất lớn của lúa nếp trong nền nông buổi đầu của những nhóm cư dân đến sinh tụ ở đồng bằng Bắc Bộ. Một nền văn minh nông nghiệp đã bước đầu định hình, dựa trên nền tảng nghề nông trồng lúa nước (khí hậu và thổ nhưỡng vùng Đông Nam Á quyết định ưu tiên phát triển nghề nông trồng lúa) với những công trình thủy lợi bước đầu đê điều, kênh ngòi…). Nghề nông trồng lúa nước khiến nảy sinh từ rất sớm kinh tế tiểu nông (“chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”). Những tổ chức của xã hội nguyên thủy (thị tộc, bộ lạc…) dựa theo “cương lĩnh tự nhiên” (quan hệ dòng máu) tan rã dần. Công xã nông thôn (làng) thành lập trong đó quan hệ dòng máu tồn tại như một tàn dư (“máu loãng còn hơn nước lã”, “họ chín đời còn hơn người dưng”…). Quan hệ giữa người được cấu trúc lại khi sự phân biệt giàu nghèo, sự phân hóa giai cấp đã nảy nở. Có quan hệ xóm giềng (“bán anh em xa mua láng giềng gần”), có quan hệ theo lứa tuổi (phe giáp), có quan hệ tương tự - tự nguyện (phường)… tóm lại, một cấu trúc chính trị - xã hội nhiều qui mô (dimensions). Làng và đình. Hội làng, hội mùa và những lễ nghi nông nghiệp. Sự cần thiết phải tổ chức quản lý những công trình công cộng – đặc biệt là những công trình thủy lợi, nhất là đê điều – và nhu cầu phòng vệ chung dần dần đẻ ra một tổ chức chính trị bao trùm lên trên các công xã tự trị đó: một nhà nước sơ khai nảy sinh, rất có thể là vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên (theo Đại Việt sử lược) sau một thời gian tụ cư và định cư ở đồng bằng (từ đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên). * * * Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi của tộc Việt. – Về bản chất, người Việt là dân đồng bằng (delta’ique), người “hạ bạn”, “kẻ chợ”, “kinh”. Người Việt hình như sinh ra là để thích ứng với vùng châu thổ và trước đây thật khó mà tách người Việt ra khỏi cái “không gian sinh tồn” ấy. Trong đời sống tâm thần cổ truyền của người Việt, nảy sinh tâm lý rất sợ lên vùng “rừng xanh núi đỏ”. Có nhiều làng đánh cá ven biển của người Việt. Nhưng nhìn chung người Việt cổ truyền không phải là thủy thủ của biển khơi.Là “con Rồng, cháu Tiên”, có lẽ người Việt là sự dung hợp của nhiều cộng đồng nhân chủng từ “biển khơi” tiến vào, từ “núi đồi và thảo nguyên” tiến xuống khai phá đồng bằng, “phá rừng lập làng” như hình tượng thần thoại ông Đống cha “cắn nát núi, húi sạch rừng, bưng ngang lũ” hay những “ông đào sông” “ông trồng cây” trong câu hát cổ. Những cư dân nói tiếng Môn-khơ-me cổ, tiếng Tày cổ, tiếng Tạng-Miến cổ từ núi xuống dung hợp với những cư dân nói tiếng Mã-Lai cổ từ biển vào (có thể là quanh một cái gốc lõi Môn-khơ-me ở vùng trung du – vùng giáp ranh, nơi sau này nảy sinh bộ lạc Văn Lang). Phải chăng người Việt cổ đã hình thành trên sự phức hợp của nhiều cộng đồng nhân chủng đó mà về sau, trong tiến trình lịch sử, còn tiếp tục ghép thêm vào những yếu tố Hán phương nam, Chàm,… mà trở thành những sắc thái địa phương của tộc Việt thống nhất hiện đại? Là sản phẩm của sự dung hợp giữa cư dân ở Núi và ở Biển, người Việt đã được đồng bằng châu thổ hun đúc một cá tính mới, tính chất của người “hạ bạn”, người dân cày trồng lúa nước. Và từ “quê hương buổi đầu của dân tộc”, tính cách ấy “xuất lộ” trong quá trình “nam tiến”. Người Việt tạo nên một dòng chảy dài (longue “coulée”, theo cách nói của P.Mus). Những ruộng nước dọc theo bờ biển Đông, ít khi “lên rừng” mà cũng hiếm khi “vượt biển”. Nêu lên một chi tiết ấy, ta càng thấy thời kỳ “Hùng Vương dựng nước” là một giai đoạn cực kỳ trọng yếu của lịch sử Việt Nam. Chính trong bước nhảy vọt từ “dã man” sang “văn minh” ấy đã xây dựng nền tảng dân tộc Việt Nam, nền tảng văn hóa Việt Nam và truyền thống tinh thần Việt Nam. Còn tiếp Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học Nguồn: Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974
  6. Đề nghị tháo bài này khỏi trang chủ. Hùng Vương dựng nước - Tập IV - 12b Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974 III. Vấn đề con người thời Hùng Vương Nghiên cứu con người thời Hùng Vương liên quan tới niên đại Hùng Vương. Song đến nay dù khung niên đại thời kỳ này có còn phải tranh luận thêm thì điều chắc chắn có thể nói được là một giai đoạn chủ yếu của nó đã tương ứng với thời đại đồ đồng. Căn cứ vào những tài liệu cổ nhân học được phát hiện, chúng tôi đã có dịp trình bày một số ý kiến liên quan đến vấn đề này trong những báo cáo lần trước (1). Tựu trung những ý chính nêu lên là như sau: (1) Nguyễn Đình Khoa: Nhân học với vần đề thời đại Hùng Vương, trong Hùng Vương dựng nước, tập I. Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1970, (tr. 156 – 161). Nguyễn Đình Khoa: Vấn đề nguồn gốc người Việt – Khảo cổ học số 3 – 4, tháng 12 -1969. Nguyễn Đình Khoa và Nguyễn Lân Cường: Những người cổ ở Việt Nam – Khảo cổ học số 11 – 12, tháng 12 – 1971. 1. Vấn đề con người thời Hùng Vương và vấn đề nguồn gốc người Việt là hai vấn đề gắn vào nhau. Vấn đề thứ nhất bao trùm vấn đề thứ hai vì cư dân thời Hùng Vương không chỉ là tổ tiên riêng của người Việt mà còn là tổ tiên của nhiều tộc anh em miền núi khác nữa. Cho nên giải quyết vấn đề thứ nhất (cư dân Hùng Vương) là đã giải đáp được phần cơ bản của vấn đề thứ hai (nguồn gốc người Việt), và ngược lại giải quyết vấn đề thứ hai (nguồn gốc người Việt) là góp phần quan trọng để giải đáp vấn đề thứ nhất (cư dân Hùng Vương). 2. Tài liệu cổ nhân học cho hay rằng suốt thời đá mới đã cộng cư trên lãnh thổ Việt Nam nhiều loại hình nhân chủng, trong đó chủ yếu là loại hình Ô-xtơ-ra-lô Mê-la-nê-diêng và Anh-đô-nê-diêng. Nhưng sau đó loại hình Ô-xtơ-ra-lô Mê-la-nê-diêng đã mất dần đi trên bán đảo Đông Dương, cho nên đối với vấn đề đang đặt ra – con người thời Hùng Vương và nguồn gốc người Việt – thì loại hình Anh-đô-nê-diêng có vai trò quan trọng đặc biệt. 3. Trong những người Mông-gô-lô-ít phương Nam, ngoài loại hình Anh-đô-nê-diêng còn có loại hình Nam Á. Loại hình này là thành phần chủ yếu của nhiều cư dân ở Đông Dương và Đông Nam châu Á hiện nay, bao gồm cả dân tộc Việt. Căn cứ vào tài liệu cổ nhân loại thì có khả năng cho rằng loại hình này đã xuất hiện trên đất Việt Nam (chủ yếu là miền Bắc Việt Nam) ít nhất từ thời đại đồng thau rồi tiếp tục phát triển từ đó đến nay và phân hóa thành nhiều loại hình địa phương. 4. Từ những kết luận trên mà thấy rằng địa bàn mà người Việt sống tập trung nhất hiện nay ở miền Bắc Việt Nam cũng là nơi mà tổ tiên ta đã từng sống, lao động và chiến đấu cách đây 3000 – 4000 năm lịch sử. Vậy thì để giải quyết vấn đề đặt ra – con người thời Hùng Vương và nguồn gốc người Việt – còn vấn đề gì tồn tại? Trước hết phải nói rằng nguồn tài liệu nhân học (bao gồm cả cổ nhân học) dựa vào đó để rút ra những kết luận trên đây còn ít, do đó cần được tiếp tục bổ sung cho đầy đủ hơn.Ngoài ra còn những tồn tại khác, cũng rất cơ bản. Ví như: loại hình Nam Á, một thành phần quan trọng trong cư dân thời Hùng Vương, một nhân tố chủ yếu giải đáp vấn đề nguồn gốc người Việt, nếu xuất hiện vào thời đại đồ đồng, đúng như kết luận nêu ở trên, thì quá trình hình thành loại hình này ra sao? Chúng vốn có nguồn gốc bản địa từ những thời kỳ sớm hơn nữa trên dải đất này hay đã từ một vùng nào chuyển tới: Đối với loại hình Anh-đô-nê-diêng chúng quan hệ như thế nào? Tài liệu nghiên cứu về các nhóm người Xá, đem đối chiếu với tài liệu người Khả ở Lào và tài liệu về các tộc người vùng núi tỉnh Quảng Bình đã đưa lại những tia sáng góp phần giải đáp các vấn đề này. Thật vậy, sơ đồ chúng tôi phác họa ở phần trên của bài viết (phần :), có thể khái quát như sau: “loại hình Nam Á là kết quả một quá trình chuyển biến từ các loại hình Anh-đô-nê-diêng”. Sự khái quát này cũng có thể biểu diễn bằng một sơ đồ: Trong sơ đồ nàỳ, khâu trung gian chính là những loại hình Anh-đô-nê-diêng (kém điển hình) hoặc những loại hình Nam Á (kém điển hình) với tất cả các dạng thể hiện chúng. Những tộc người vùng núi tỉnh Quảng Bình, các tộc Khả ở Lào hay Xá Tây Bắc đều có thể coi là hình ảnh cụ thể của các dạng này. Vậy là nhóm loại hình Nam Á ở nhiều vùng tại khu vực Bắc Đông Dương trong đó có Việt Nam đã được hình thành trên cơ sở những loại hình Anh-đô-nê-diêng bản địa. Quá trình này đã diễn ra từ thời đại đá mới và dần dần rõ nét vào thời đại đồ đồng, khi mà những nét tiêu biểu cho người Nam Á ở khu vực này đã được hình thành về cơ bản.Tài liệu cổ nhân học phát hiện ở miền Bắc Việt Nam là một bằng chứng cho những điều vừa trình bày (tài liệu đã dẫn: Những người cổ ở Việt Nam). Một khu vực thứ hai mà tại đó quá trình diễn biến của nhóm loại hình Nam Á cũng xảy ra mãnh liệt như ở Bắc Đông Dương và cả miền Nam Trung Quốc, vùng tiếp cận với những chủng tộc Mông-gô-lô-ít ở phương Bắc. Nhà học giả Liên Xô là Trê-bốc-xa-rốp khi đề cập tới địa vực của người Nam Á đã cho rằng “trung tâm hình thành của nhóm loại hình này là miền Nam Trung Quốc, rồi từ đó mới phân bố ra các vùng khác ở vùng Đông Nam Á” (1947, tr.61; 1951, tr.343) (1). Nhưng theo chúng tôi thì trung tâm đó không chỏ bó hẹp ở Nam Trung Quốc mà rộng hơn, bao gồm cả Bắc Đông Dương, trong đó Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam. Mặc khác không phải các loại hình Nam Á ở những vùng khác của khu vực Đông Nam Á đều là do kết quả một sự phát tán đơn thuần từ các trung tâm này, mà thực tế cho hay rằng quá trình diễn biến từ những loại hình Anh-đô-nê-diêng trở thành Nam Á là một hiện tượng đã và đang xảy ra phổ biến ở khắp khu vực. Đó chính là nội dung cụ thể của hiện tượng Mông-gô-lô-ít hóa ngày một đậm nét các cư dân ở Đông Nam châu Á. Nguyên nhân và động lựa của quá trình này là một vấn đề phức tạp mà trong phạm vi một bài viết chúng tôi chưa có đủ điều kiện trình bày. Vậy là sau khi hình thành, từ một trung tâm tương đối rộng lớn, loại hình Nam Á cổ - tổ tiên của những người Nam Á hiện nay đã tác động rộng rãi đến các vùng địa vực xung quanh, không những tới phương nam, tới các vùng cực Nam của Đông Nam châu Á, mà còn sang đông tới các hòn đảo như Phi-luật-tân, Hải-nam, Đài-loan hoặc xa hơn nữa và lên bắc đến tận Triều Tiên, Nhật Bản v.v… Tài liệu nghiên cứu của nhiều nhà nhân học Liên Xô đã từng xác minh sự có mặt của thành phần Nam Á tại các vùng này. Ví như khi viết về thành phần nhân chủng người Triều Tiên và Nhật Bản, Ra-ghin-xki đã khẳng định có yếu tố Nam Á trong họ bên cạnh những thành phần nhân chủng khác (2).(1) Trê-bốc-xa-rốp N.N. Về vấn đề nguồn gốc người Trung Quốc – Dân tộc học Xô-viết, (tiếng Nga), số 1-1947, tr.30-70; Lê-nin M.G và Trê-bốc-xa-rốp: Sự phân bố cư dân ở vùng Đông Á và Đông Nam Á thời cổ đại, trong “Nguồn gốc loài người và sự phân bố cư dân thời cổ đại” – Tập Công trình của Viện Dân tộc học Liên-xô, (tiếng Nga), t.XVI, 1951, tr.325-354. (2) Ra-ghin-xki Ia-ra và Lê-nin M.G: Cơ sở Nhân học, Phần Nhân chủng học (bản tiếng Nga), Ma-xcơ-va, 1955, tr.377-378. Những điều vừa trình bày về quá trình hình thành loại hình Nam – Á đã làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề quan trọng trong việc tìm hiểu cư dân thời Hùng Vương. Trước hết những người Nam Á cổ xuất hiện vào thời đại đồ đồng ở miền Bắc Việt Nam đã hình thành trên cơ sở những loại hình Anh-đô-nê-diêng bản địa. Trong quá trình này đã xảy ra sự kết hợp tất yếu giữa họ với những người Mông-gô-lô-ít điển hình hơn, có thể ngay với một loại hình Nam Á đã hình thành từ trước đó. Vì vậy điều nói được tương đối chắc chắn là: những người Nam Á trong bộ phân cư dân thời đại Hùng Vương, tổ tiên trực tiếp của những người Nam Á hiện nay ở vùng này trong đó có người Việt, người Mường, có thể cả người Xá, người Táy v.v… đã hình thành ngay trên lãnh thổ Việt Nam chứ không phải từ một vùng nào khác chuyển tới. Tính chất bản địa của họ xác định muộn nhất là từ thời đại đồng, nghĩa là còn có thể sớm hơn khởi đầu, từ một giai đoạn nào đó trong thời đại đá mới. Thời điểm này phụ thuộc vào tác động của các động lực gây nên sự chuyển biến loại hình từ người Anh-đô-nê-diêng bản địa. Trong thành phần cư dân của các Vua Hùng, bên cạnh những người Nam Á, còn có người Anh-đô-nê-diêng. Theo cách phác họa trên thì họ có quan hệ thân tộc không xa lắm với nhau, vì đều bắt nguồn từ những loại hình Anh-đô-nê-diêng nguyên thủy hơn. Tuy nhiên quá trình hình thành các loại hình Nam Á không phải đã diễn ra cùng một lúc trên khắp một vùng địa vực rộng lớn, mà tùy nơi, tùy lúc khác nhau, với những tốc độ chuyển biến cũng không đồng đều. Vì vậy sự tương đồng hay khác biệt giữa những người Nam Á với nhau, giữa những người Anh-đô-nê-diêng với nhau cũng như sự phân hóa giữa hai nhóm loại hình Anh-đô-nê-diêng và Nam Á vừa mang tính chất thời gian (giai đoạn), vừa mang tính chất không gian (địa vực). Cho nên những loại hình Nam Á hay Anh-đô-nê-diêng ở Việt Nam có thể khác nhiều với những loại hình Nam Á hay Anh-đô-nê-diêng ở In-đô-nê-xi-a và gần hơn với những loại hình tương ứng ở Nam Trung Quốc, ở Lào. Riêng đối với các tộc Anh-đô-nê-diêng, do điều kiện sống cách biệt kéo dài, sự tiếp xúc và hỗn hợp với các tộc khác nhau không đồng đều nên tính chất về sự khác biệt giữa họ càng phứa tạp hơn giữa các vùng địa vực. Tại trung tâm địa vực hình thành người Nam Á – tức Nam Trung Quốc và Bắc Đông Dương, do quá trình Mông-gô-lô-ít hóa đã xảy ra mãnh liệt hơn các vùng khác, nên phần lớn những loại hình Anh-đô-nê-diêng thời cổ đã chuyển biến dần trở thành Nam Á. Những người Anh-đô-nê-diêng trong thành phần cư dân các vua Hùng cũng không ngoài định lệ này; quá trình hỗn hợp giữa họ với nhau và với người Nam Á trước đây dẫn tới một kết quả là ngày nay về phương diện chủng tộc họ đã tham gia như một bộ phận cấu thành của các tộc người Việt, người Mường, người Tày Thái, người Xá, v.v… Vì vậy hiện nay ở miến Bắc nước ta tuy không còn nhiều tộc người Anh-đô-nê-diêng như ở các vùng phía nam, song dòng máu của họ đã sẵn có trong những người Nam Á ở vùng này. Nhiều nhà nghiên cứu, khi bàn về Đông Nam Á đã thấy đó là một khu vực có những đặc thù về nhiều mặt: địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội v.v… Qua đây thấy thêm: Đông Nam Á là một khu vực có tính cách thống nhất về mặt nhân chủng nữa. Giáp ranh Đông Nam Á thì Bắc Đông Dương và Nam Trung Quốc lại làm thành một khối, có nhiều nét điển hình, ít nhất về phương diện thành phần chủng tộc và lịch sử hình thành chủng tộc. Chính trên nhận thức ấy và trong khung cảnh ấy chúng ta đi sâu tìm hiểu thêm một bước về nguồn gốc người Việt trong gia đình các dân tộc Việt Nam. IV. Vấn đề nguồn gốc người Việt Như đã trình bày ở phần trên hai vấn đề “con người thời Hùng Vương” và vấn đề “nguồn gốc người Việt” liên quan với nhau và giải quyết vấn đề thứ nhất là góp phần giải quyết vấn đề thứ hai về cơ bản. Vì lẽ trong cư dân các Vua Hùng có tổ tiên sinh ra người Việt, một loại hình Nam Á cổ cũng đã được hình thành từ những người Anh-đô-nê-diêng bản địa. Điều cần thiết ở đây là có thêm những dẫn chứng làm sáng tỏ các vấn đề này với trường hợp cụ thể của người Việt đồng thời tiếp tục theo dõi sự chuyển biến của những dạng “Tiền Việt” này trong sự tác động với các tộc láng giềng để trở thành người Việt hiện nay. Theo những tài liệu lịch sử của Trung Quốc thì khắp miền nam Trung Quốc từ bờ nam sông Dương Tử cho tới đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam vào khoảng thiên niên kỷ thứ 4 – 3 trước Công nguyên, có những tộc người không phải Hán thường được gọi bằng những tên là Man, là Di, là Việt gồm chung vào “Bách Việt”. Về sau thì xuất hiện nhiều tộc Việt khác nhau như Điền Việt, Dương Việt, Đồng Việt, Mân Việt, Nam Việt, Lạc Việt v.v… Giáp giới với Bắc Bộ Việt Nam là Điền Việt ở Vân Nam, Nam Việt ở Quảng Đông, Lạc Việt ở Quảng Tây và Bắc Bộ Việt Nam. Dựa vào đó nhiều nhà nghiên cứu đã từng cho rằng người Lạc Việt chính là tổ tiên dân tộc Việt. Nếu điều đó đúng thì Lạc Việt phải là một bộ phận quan trọng của cư dân thời Hùng Vương và ngoài ra, bên cạnh Lạc Việt có thể còn các tộc khác nữa, như Tây Âu mà có tác giả coi là tổ tiên của người Cháng, người Tày, người Nùng, v.v… Hoặc giả Lạc Việt là bộ phận chủ yếu của cư dân thời Hùng Vương và như vậy thì Lạc Việt không chỉ là tổ tiên người Việt mà còn là tổ tiên của các tộc người khác nữa ở miền Bắc Việt Nam và có thể cả ở Nam Trung Quốc hiện nay. Dù sao thì đối với nguồn gốc người Việt, người Lạc Việt đã có một vị trí quan trọng đặc biệt. Vậy Lạc Việt là người như thế nào? Theo nội dung đã trình bày ở phần trên thì đó chính là những người Nam Á cổ, hoặc những người Anh-đô-nê-diêng đang trong quá trình chuyển biến trở thành Nam Á. Họ đã có mặt ở lãnh thổ Việt Nam ít nhất từ thời đại đồ đồng chứ không phải từ một khu vực nào ở Việt Nam và có thể cả ở Nam phần Trung Quốc mới chuyển tới từ khoảng thế kỷ 3 trước Công nguyên như một số tác giả chủ trương trước đây. Đối với các tộc Man hay Việt khác ở Nam phần Trung Quốc họ có mối quan hệ nhất định về nguồn gốc. Nói chung các tộc trong khối Bách Việt phần lớn đều là những loại hình Anh-đô-nê-diêng cổ dưới tác động của quá trình chuyển biến thành Nam Á. Suốt thời đá mới cho tới đồ đồng và sau này tại khu vực Nam Trung Quốc và Bắc Đông Dương khối cư dân không phải luôn luôn ở yên, mà từng lúc, từng nơi có những sự di động nhất định. Ví như các tộc ngôn ngữ Tày Thái đã từng có những lần thiên cư lớn từ Bắc xuống Nam từ những kỷ nguyên trước Công nguyên và kéo dài mãi về sau này (1). Ngoài ra còn có những cuộc thiên di của tổ tiên người Hán xuống miền Nam Trung Quốc và tới đầu nguồn các con sông lớn chảy vào Đông Dương. Kết quả của các cuộc thiên di lớn là gây nên những biến động trong khối cư dân bản địa và ảnh hưởng tới thành phần nhân chủng của họ. Sự hỗn hợp này làm cho thể lực phát triển, những bệnh tật do giao phối cận huyết sinh ra trong điều kiện sống cách ly hay biệt lệp (isolat) của các bộ lạc hay các cộng đồng nhỏ giảm bớt, mật độ dân cư tăng lên. Đó là những hiện tượng sinh học có ảnh hưởng nhất định tới sự phát triển của xã hội, tới lịch sử các dân tộc. (1) Lã Văn Lô và Đặng Nghiêm Vạn: Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tây – Nùng – Thái ở Việt Nam, Hà Nội, 1968, tr.15. Trong lịch sử của dân tộc Việt, kể từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên trở về sau còn có ngót 1000 năm Bắc thuộc. Đối với một số người nghiên cứu thì thời gian này đã có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành ra loại hình nhân chủng người Việt. Vì vậy mà một mặt cho người Việt và người Mường là cùng một nguồn gốc tổ tiên, mặt khác lại cho rằng Mường và Việt đã phân hóa về mặt thể chất do kết quả của dòng máu Bắc phương. Song tài liệu nghiên cứu người Việt, người Mường về mặt nhân chủng họa đã phủ nhận điều này. Theo chúng tôi thì “người Mường là một bộ phận Việt đã tách ra trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định nào đó và đã cấu thành bộ tộc riêng, song từ đó đến nay cả Mường lẫn Việt về cơ bản vẫn giữ được cơ cấu thể chất gốc của tổ tiên trực tiếp đã sinh ra mình trước khi phân chia” (2). Thực vậy, trong thành phần nhân chủng người Việt thì yếu tố cấu tạo chủ yếu hoàn toàn không phải là yếu tố phương Bắc mà là phương Nam (da ngăm đen); mắt rộng, ngắn; nếp mí góc giảm, mũi tương đối rộng; môi tương đối dày v.v…). Bảng dưới đây do phép so sánh, người Việt với các nhóm Anh-đô-nê-diêng và Nam Á khác: Bảng 6 Chú thích: Các kích thước về cao mặt, hình thái bề cao mũi và chỉ số tương ứng đều được tác giả tính từ nasion, (giao điểm giữa đường khớp mũi – trán, chứ không phải từ sellion (gốc mũi) như đối với các nhóm khác. Theo bảng 6, ta thấy trong những người Anh-đô-nê-diêng và Nam Á, nhóm Việt có vị trí khá đặc biệt. Trên một số đặc điểm, họ có vị trí trung gian giữa các nhóm so sánh, đồng thời trên nhiều đặc điểm khác như kích thước phần hộp sọ, phần mặt, bề cao mũi, bề dày môi thì có trị số thiên về phía cực đại. Hiện tượng này nói lên tính chất về mối quan hệ của nhóm Việt với các nhóm láng giềng, đồng thời cho thấy những nét đặc thù của nhóm Việt là người có kích thước đầu và mặt vào loại cỡ lớn nhất nhì ở khu vực Đông nam châu Á. Tài liệu về nhóm Việt (Nàm Đàn) bổ sung cho nhóm Thanh Trì càng khẳng định nhận xét này. Bảng 7 và sơ đồ kèm theo minh họa cụ thể thêm những điều đã trình bày: Bảng 7: Hiệu số khác biệt giữa các đặc điểm mê-tric của nhóm Việt Thanh Trì với các nhóm khác. Sơ đồ sự khác biệt các đặc điểm theo số lần Xích-ma б (1) (So sánh các nhóm với nhóm Việt – Thanh Trì làm gốc) Trong sơ đồ này không ghi đường biểu diễn của các nhóm khuyết nhiều số liệu (Mè, Nam Trung Quốc của Ôliviê) hoặc các nhóm mà đa số đặc điểm có vị trí trung gian và gần nhóm Việt (La-ha, Thái). Trục hoành độ đánh số 1, 2, 3,… 15 theo thứ tự các đặc điểm ghi ở bảng 7. (1) Trị số xích ma б tính cho các đặc điểm của nhóm Việt – Thanh Trì theo tài liệu đã công bố trong Nghiên cứu lịch sử số 113, tháng 8-1968. Cuối bảng 7 là trị số chuẩn X2 với xác xuất tương ứng P (X2) biểu thị mức độ tương đầu giữa các nhóm so sánh. Những kết quả về mặt số liệu này có ý nghĩa quan trọng vì phù hợp với những nhận định cơ bản đã trình bày về nhóm Việt trong mối quan hệ chung với các tộc người cư trú tại các vùng kế cận thuộc khu vực Nam phần Trung Quốc và Bắc Đông Dương, đồng thời gợi thêm những suy nghĩ về quá trình hình thành của họ. Nổi lên hàng đầu là mấy vấn đề sau: 1. Trong phạm vi Đông nam châu Á thì Bắc Đông Dương và Nam Trung Quốc là một khu vực thống nhất về quá trình hình thành chủng tộc và các loại hình nhân chủng suốt một giai đoạn lịch sử dài từ thời đại đá mới trở về sau này. 2. Nhóm loại hình Nam Á hình thành rõ nét từ thời đại đồ đồng tiếp tục phát triển và phân hóa thành nhiều loại hình địa phương trong đó người Việt hay loại hình Việt có những sắc thái riêng làm cho bên cạnh các tộc láng giềng, họ vừa có những nét tương đồng, lại vừa có cốt cách đặc thù. 3. Những người thuộc loại hình Nam Á ở miền Bắc Việt Nam như Việt, Mường, Thái, Xá (Kháng, La-ha) v.v… Có nhiều nét tương đồng chứng tỏ rằng bên cạnh mối quan hệ nguồn gốc về mặt phân loại (cùng thuộc nhóm loại hình Nam Á), còn có mối quan hệ hỗn hợp cư dân tác động suốt trong quá trình hình thành nhưng cộng đồng người gắn bó trên cùng một địa vực cư trú, có chung một quá trình lịch sử. Vì vậy mà người Xá ở Việt Nam đã phân hóa so với các tộc Khả ở Lào, người Thái ở Tây Bắc không giống như các tộc Thái nói chung ở các vùng cư trú khác. Người Việt tức loại hình Việt và dân tộc Việt đã được hình thành trong khung cảnh chung trình bày theo nội dung của những nhận xét trên. Tổ tiên xa của họ là những người Anh-đô-nê-diêng bản địa, Tổ tiên gần và trực tiếp là một loại hình Nam Á cổ có mặt trên địa bàn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam, ít nhất từ thời đại đồ đồng. Suốt trong quá trình hình thành họ luôn luôn tác động và chịu sự tác động của các bộ lạc và bộ tộc láng giềng. Sự kiện này có ý nghĩa sinh học quang trọng giúp họ phát triển nhanh về số lượng dân cư. Tuy nhiên, những nét đặc trưng của họ hiện nay về mặt hình thái chứng tỏ tổ tiên họ - một loại hình Nam Á cổ, có thể có những sắc thái riêng, điều mà tài liệu cổ nhân học sau này sẽ giúp chúng ta giải đáp. Kết luận chung Nội dung trình bày trong bài viết này là kết quả của sự kết hợp so sánh giữa hai nguồn tài liệu –tài liệu cổ nhân học và tài liệu nhân chủng học các cư dân hiện tại. Một số điểm bổ sung về những điều đã trình bày trong các bản báo cáo trước đây về cư dân thời Hùng Vương và nguồn gốc người Việt là xuất phát bởi giả thiết và quá trình hình thành nhóm loại hình Nam Á từ những người Anh-đô-nê-diêng bản địa ở khu vực Đông nam châu Á. Người Việt bắt nguồn từ quá trình này – một quá trình diễn ra trong sự tác động hỗn hợp của các cộng đồng hàng mấy ngàn năm tại địa bàn miền Bắc Việt Nam mà khu vực trong tâm là đồng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ. Phải chăng chính những mối quan hệ lịch sử này đã phản ảnh một cách khá rõ nét về nhiều phương diện trên các tộc người đã từng cư trú lâu đời trên một phần lãnh thổ này của Tổ quốc ta. Tài liệu dân tộc học, ngôn ngữ học cũng đã đưa ra nhiều bằng chứng về mối quan hệ nói trên giữa các tộc người Việt, người Mường, người Tày – Thái. Trong ngôn ngữ Việt – Mường vừa có yếu tố Thái vừa có yếu tố Môn-khơ-me, khiến phải tách riêng thành một nhóm ngôn ngữ Việt – Mường mà vị trí của nó còn tiếp tục là vấn đề tranh luận. Gần đây theo sự phát hiện của bộ phận nghiên cứu các tộc người ngôn ngữ Nam Á ở Tây Bắc của Viện Dân tộc học thuộc Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam thì trong ngôn ngữ người Kháng, người La-ha cũng thấy có yếu tố ngôn ngữ Việt – Mường. Cuối cùng những mối quan hệ phức tạp này đã phát hiện cả trên con người về mặt cấu tạo cơ thể. Địa vực rõ ràng là một nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định trong việc kế hợp các quá trình diễn biến lịch sử của nhiều hiện tượng xã hội phức tạp, trong đó có quá trình hình thành bản thân con người. Trong khối cư dân thời Hùng Vương, “người Việt cổ” nay “người Việt thời vua Hùng” đã là một bộ phận hợp thành ngày càng có tác dụng quan trọng bên cạnh các tộc anh em trong việc thúc đẩy xã hội tiến lên. Những truyền thống tốt đẹp nhất của cả dân tộc Việt Nam, mà ngày nay chúng ta có quyền tự hào phải chăng đã bắt nguồn ngay từ buổi đầu dựng nước. Đoàn kết, thống nhất vốn là sức mạnh vô địch của dân tộc ta phải chăng đã có ngay trong dòng máu của mỗi người từ thời “người Việt vua Hùng” mà qua mỗi sóng gió của lịch sử lại được nhân lên gấp bội. Đó là những vần đề to lớn không thuộc phạm vi nghiên cứu của Nhân chủng học, nhưng đi sâu vào đề tài Nguồn gốc dân tộc chúng tôi đã thấy hiện lên những khía cạnh thật rõ nét. Mong rằng đ1o sẽ là một số bằng chứng có cơ sở khoa học góp vào để các ngành khác đi sâu tìm hiểu vấn đề. Còn tiếp Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học Nguồn: Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974
  7. Phản biện của Tubinh_giagia ThienSu đã viết: Sao, Thiên Sứ hỏng có cơ hội để lạm dụng tư quyền XÓA NHẸM PHI TANG những vạch trần mà Tubinh_giagia viết về sự kém hiểu biết của Thiên Sứ mãi ba hoa ở Việt Lý Số đó à!? Tubinh_giagia này cũng hiểu chỗ khó của Thiên Sứ là ở Việt Lý Số mà để những vạch trần như trong tiêu đề này THÌ còn gì là sự DỄ DÀNG cho Thiên Sứ vẽ RỒNG vẽ RẮN với những THÊU DỆT PHĂNG-TÊ-ZI về thuật số đạo học Phương Đông nói chung và giống nòi Lạc Hồng nói riêng!? Chẳng những thế, độc giả còn có cơ hội được NHẬN XÉT rằng: Thiên Sứ chả biết cái khỉ gì về Thiên Văn; mà cứ cà khịa thêu dệt DỰNG CHỨNG, GÒ ÉP các vì sao này với vì sao nọ thành ra chuyện Vụ Tiên, Lạc Long với Vua Hùng v.v... Thiên Sứ chả biết cái khỉ gì về Tiên Thiên Bát Quái với Hậu Thiên Bát Quái rồi QUANH CO KHÚC THUYẾT nào phải là hoán vị Tốn Khôn mới đúng rồi nào là gán cái mác Lạc Việt cho dễ rao hàng để mà bán sách ... (mà cũng LẠ lắm nghen, sách xuất bản thì nào là từ một vị Giáo Sư, của một nhà xuất bản GIÁO DỤC - nhưng lại chẳng có trích dẫn hoặc sưu tầm từ đâu với những cơ sỡ chứng cứ đề cung; rồi gắn nhãn Made In Vietnam hè hehehehe ) Thiên Sứ chả nắm vững được vận động của các thiên thể, NGŨ HÀNH TINH biểu trưng trên HÀ ĐỒ nguyên thủy Tại sao lại phải là DI CHUYỂN NGƯỢC CHIỀU KIM ĐỒNG HỒ (?) mà Thiên Sứ lại đề cử việc DI CHUYỂN THUẬN CHIỀU KIM ĐỒNG HỒ (??) hàm hồ để 2 HÀNH (Thủy và Hỏa) trong Bảng Lục Thập Hoa Giáp phải bị HOÁN ĐỔI lệch lạc. Điều đó, cũng chứng minh được Phương Pháp THUẬN CHIỀU KIM ĐỒNG HỒ trên của tác giả về Lá Số Tử Vi của Sadam Hussein sinh năm Đinh Sửu (vốn mệnh Hỏa bị đổi thành mệnh Thủy :: theo tác giả) đã THẤT BẠI do những tiên đoán dựa trên nền tảng THUẬN CHIỀU KIM ĐỒNG HỒ về vị nguyên thủ Iraq này (ở trên trang nhà Tuvilyso hoặc Vietlyso) không thể CHẾT hồi năm ngoái. Cho nên, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh aka Thiên Sứ đã phải THAN VÃN như sau: Trích dẫn: Đủ thấy, một THAM VỌNG trên một nền tảng SAI LẦM sẽ có KẾT QUẢ chỉ là SỤP ĐỔ mà thôi! Thử hỏi chừng ấy thứ, mà độc giả được PHÉP đọc trên Việt Lý Số thì còn gì là TÍN DỤNG của Thiên Sứ hè ehhehehe.... ThienSu đã viết: Không có chi! Chuyện mà Tubinh_giagia làm đây là để cho mọi người chú ý đến luận điểm của Thiên Sứ một cách DÈ ĐẶT những cái gọi là hành vi lập lờ đánh lận con đen, và cóp nhặt nguồn từ đâu không rõ (để dẫn đắt lệch lạc cho độc giả) từ Thiên Sứ đó mà hehehee ... Với lại họ sẽ được rộng đường tham khảo và phát giác ra những không chính danh, mập mờ, lừa lọc trong bài viết và những trích dẫn không nguồn xuất xứ để lừa mỵ quần chúng từ Thiên Sứ í hí hí hí .... Tuy nhiên, ĐÁNG LÝ ra thì Thiên Sứ nên TỰ TRỌNG mà tuyên bố rằng: Đây là những SUY LUẬN của một mình Nguyễn Vũ Tuấn Anh aka Thiên Sứ tôi; chứ chẳng phải là Văn Hóa, Văn Minh, Lý Học, Thiên Văn Cổ gì gì của Lạc Việt hết cả! Chẳng ai trách, vì đó là sự SUY LUẬN, NGHIÊN CỨU của một cá nhân - chứ không phải của một ĐOÀN THỂ mà phải GÁN ĐẶT danh dự Lạc Việt vào đó, để nó phải bị chôn vùi theo sự LỆCH LẠC SAI LẦM của tác giả! Để rồi Thiên Sứ không phải: Cho nên ông bà xưa có câu: Cáo mượn HỔ UY, không biết trong trường hợp trên có phần đúng hay chăng ??? Vì Cáo chỉ lừa được con HỔ chứ không lừa được Thiên Hạ vậy! Cáo mượn HỔ UY để mà nổi tiếng thì Tubinh_giagia không có sự NỔI TIẾNG này đâu haahhehehe. Với lại, chẳng phải Thiên Sứ viết rằng: "Tử Bình gia gia không nổi tiếng lắm thì cũng đã là NỔI TIẾNG rồi nhưng không NỔI TIẾNG LẮM thôi; thì vậy, cắt cổ gà đâu cần phải dùng đến đao mổ trâu đâu hè hahahhehhehe Tubinh_giagia Quí vị quan tâm thân mến.Như vậy trên đây là toàn bộ luận cứ gọi là phản biện luận điểm của Thiên Sứ tôi trên mạng tuvilyso.net. Bài viết cuối cùng ghi ngày: Msg 41 of 53: Đã gửi: 23 October 2007 lúc 11:11am Có thể nói đây là sự phản biện đeo đẳng và công phu nhất của ông Tubinh_giagia và ở một trang web mà ông ta hoàn toàn không hề bị xóa bài. Tôi đưa toàn văn những bài viết của ông ta lên để tiện tham khảo. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị.
  8. Bài viết của dmvk nếu đánh giá bài nghiên cứu của TS có giá trị thì cũng nên chứng minh tính đúng sai của nó, còn nếu xem như không đáng giá thì cũng chẳng nên mất thời gian chứng minh làm chi... TS mong có người nổi tiếng quan tâm đến mình, hóa ra TS cũng quan tâm đến danh nhỉ? Chả trách tại sao "Kiêu Ấn" buông lời xem lá số: người háo danh ... Hết trang 2 - tuvilyso.net
  9. Bài viết của Thiên Sứ Hic. Cứ tưởng Tử Bình gia gia sang đây không ai xóa bài thì chứng minh Thiên Sứ sai sắc sảo lắm. Hóa ra chỉ là một sự phản đối cho vui. Cảm ơn Tử Bình gia gia đã góp phần làm cho mọi người chú ý đến luận điểm của tôi. Rất tiếc Tử Bình gia gia không nổi tiếng lắm. Chứ được một người nổi tiếng quan tâm thì chắc Thiên Sứ không đến nỗi vất vả, Thiên Sứ
  10. Phản biện của Tubinh_giagia ThienSu đã viết: Đó là chuyện TẤT NHIÊN! Thiên Sứ sai ... ThienSu đã viết: Chỉ MỘT cái ĐÚNG - thì đến thời điểm này Thiên Sứ sai ... TẤT NHIÊN cái kia ĐÚNG! Còn cái chuyện cả HAI đều SAI thì cứ chờ thêm mấy ngàn năm nữa đi hihihihihiihi hehehehee .... nếu có hí hí hí Tubinh_giagia
  11. Bài viết của Thiên Sứ fairydream;87482 đã viết: Trước khi vấn đề đẩy đi quá xa. để fairy tóm lược lại đại ý của vấn đề cho mọi người dễ hình dung. Trong bài nghiên cứu Hà đồ của bác Thiên Sứ có phần chỉ ra mối liên quan về tên gọi của các chòm sao Vũ Tiên-> Thiên Long -> Tiểu Hùng với gia phả Lạc Việt: Vụ Tiên->Lạc Long Quân-> Hùng Vương . Bác Thiên Sứ cho là đây không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Ở đây fairy thắc mắc đây là 1 sự ngẫu nhiên hay có dụng ý (theo bác TSứ) theo kiến thức của fairy thì: 1-Các chòm sao này là của phương Tây. Tên các chòm sao là tên Tây chuyển sang Hán Việt . Người phuơng đông chỉ biết các tên gọi này khi kiến thức phuơng Tây du nhập khoảng Tk 15-16. Tư liệu về thiên văn học Trung Hoa THIÊN VĂN HỌC TRUNG HOA Trong điều kiện không có phương tiện hiện đại, chỉ hoàn toàn dựa vào bộ óc suy luận với đôi mắt và bàn tay con người ở vào thời kỳ nhân loại còn ăn lông ở lỗ nhưng các nhà thiên văn cổ đại Trung Quốc đã nghiên cứu dự báo chuẩn xác, ghi chép đầy đủ các hiện tượng thiên văn trong vũ trụ, đem lại cho nhân loại nhiều thành tựu khoa học lớn lao được các nhà khoa học thế giới công nhận. Thiên văn học là một trong bốn thành tựu (Toán học, Nông học, Y học, Thiên văn) đặc sắc tiêu biểu của nền văn minh Trung Hoa trong quá khứ. Những văn bản khắc trên mai rùa xương thú (Giáp cốt văn tự) từ thời nhà Ân cách ngày nay mấy ngàn năm ghi chép lại tường tận những hiện tượng thiên văn trong vũ trụ như vòng quay của mặt trời, mặt trăng, trái đất, sao Thổ, sao Kim, hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, các vết đen trên mặt trời, sao Chổi, cũng như những tinh tú mới xuất hiện cho thấy người Trung Quốc vượt xa nền văn minh Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ, Tây Á, Trung Bắc Mỹ hàng chục thế kỷ. Tấm bản đồ sao cổ nhất thế giới, tìm thấy ở Đôn Hoàng, Trung Quốc năm 1907 được làm vào khoảng năm 600 đời nhà Đường, rộng 25cm, dài 2,1m vẽ và chú thích bằng tiếng Hán, phân thành khoảng 250 chòm. Cho đến tận thời Phục Hưng ở châu Âu, trước khi có kính thiên văn, chưa bao giờ có một bản đồ sao chính xác và chi tiết đến thế. Tuy nhiên, bản đồ sao hoàn chỉnh sớm nhất của loài người lại là bản đồ sao vẽ vào thời Nguyên Phong (1078 - 85), được khắc lên bia đá năm 1247, trong đền Khổng Tử, đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Trên Thiên Văn đồ đó chia rõ phương vị, cung độ của 1.434 vì sao, có đủ Hoàng đạo, Thiên xích đạo, Ngân hà. Ngoài ra, còn có bài minh bia dài 209 chữ chép rõ một số kiến thức căn bản về thiên văn. Nguồn: http://www.vietlyso.com/forums/showthread.php?p=105432#post1 05432 Hai dẫn chứng của Fairydrem và PHD73 phủ nhận lẫn nhau, nhưng đều có thể dẫn chứng để chứng minh Thiên Sứ sai. Thế thì chán quá nhỉ? Thành thật chia buồn. Bởi vì sẽ chỉ có một cái đúng hoặc cả hai đều sai. Hic. Thiên Sứ
  12. Bài viết của Phapvan Không phải ngẫu nhiên về tên gọi đâu Fairydream, mà là văn tự cũng không chuẩn, không đúng nghĩa để nói về sao Vụ Tiên cho Vũ Tiên Tọa , Hùng Vương cho Tiểu Hùng Tinh; duy chỉ Thiên Long Tọa có đúng nghĩa với Lạc Long Quân --- nhưng chòm sao Thiên Long Tọa được chuyển dịch ngày nay từ chòm Draco constellation đã được NGẮT RA chia làm 2 để miêu tả tòa Tử Vi Viên: Tả Viên và Hữu Viên ... , Thiên Long Tọa vốn không phải là danh xưng thời cổ đại để ví đến sự trùng khớp của truyền thuyết Lạc Việt! Tubinh_giagia Chỗ này tôi lại liên tưởng đến huyền thoại Lạc Long và Âu Cơ hai người thành thân sinh ra 100 người con trai. Sau đó chia ra 50 người con theo Mẹ lên núi ("Hữu Viên") và 50 người con theo Cha xuống biển ("Tả Viên"). Phapvan
  13. Phản biện của Tubinh_giagia phongthuysinh đã viết: À, mới ngồi xuống phân tích cái ! (factorial) mới biết mình sai . Củng mai là Tubinh_giagia chưa chắc ăn lắm nếu không thì phải mướn sát thủ thủ tiêu ổng rồi Xin lỗi người trích dẩn và người viết nhé. Sao lại không CHẮC ĂN ... Cuối tuần không lên mạng, để thứ Hai mới thanh toán - nhưng mãi vui ở bến trời Tử Vi, Tử Bình nên chưa sang kịp đây thôi ... hehehhee.. Chỉ là HÊN cho đằng ấy; chứ 8! mà sai cái gì ... hì hì hì .. Tubinh_giagia
  14. Bài viết của Phongthuysinh phongthuysinh đã viết: . À, mới ngồi xuống phân tích cái ! (factorial) mới biết mình sai . Củng mai là Tubinh_giagia chưa chắc ăn lắm nếu không thì phải mướn sát thủ thủ tiêu ổng rồi Xin lỗi người trích dẩn và người viết nhé.
  15. Bài viết của Phongthuysinh Tôi ở "quốc ngoại" Tubinh_giagia à . Nếu cứ mổi bát quái phải trả 1 đồng thì tôi phải tốn mấy chục rồi hehehe, còn "nuôi tới chết" thì tôi luôn luôn thắng mà đâu phải tốn tiền . Tubinh_giagia biết tại sao ông họ Chu chỉ vạch ra có 64 quẻ mà hong phải là 40320 quẻ hong ? tại ông ta hong biết 8! như cái ông gì đó hay sao? 8! không phải dùng cho trường hợp này . Bài viết của Thiên Sứ dmvk đã viết: như vậy, mặc dù cố bảo vệ lý thuyết đổi chỗ Tốn - Khôn nhưng Thiên Sứ vẫn phải tuân thủ vị ví Tốn - Khôn của Văn Vương Hậu Thiên Bát Quái ... hihihi ... tiền hậu bất nhất nhỉ? Trích gì ít vậy. Sao không trích cả cuốn Dương Trạch Tam yếu cho mọi người xem? Đấy là tài liệu cũ đưa lên cho mọi người tham khảo, tương truyền của Triệu Cửu Phong, chứ đâu phải của Thiên Sứ đâu mà gọi là "tiền hậu bất nhất". Hic. Thiên Sứ
  16. Phản biện của Tubinh_giagia phongthuysinh đã viết: Có hứa lèo không đó ông!? Mà thui, vẽ cho ông xong 40320 bát quái khác nhau thì bị ông cho người thanh toán chết toi để khỏi nuôi đó mà, phải không hả? nuôi tới chết đó! Mà nè, phongthuysinh ở VN hay ở ngoại quốc ?? Thui thì vầy, cho mỗi bảng vẽ bát quái khác nhau - phongthuysinh có thể trả bao nhiêu đô Mỹ hè? $1 US có được không? Chi một lần cho tiện khỏi phải nuôi (Tubinh_giagia) tới chết đâu! Phongthuysinh thấy sao ?? Được không thì báo nhé! Tubinh_giagia
  17. Bài của Phongthuysinh _ [/size] Ông nào mà vẻ được 40320 bát quái khác nhau tới nhà tui tui nuôi tới chết luôn khỏi cần làm . Người mà nói có 8! bát quái khác nhau chỉ biết chút tí về toán mà đem ra khoe tài . Bài của dmvk Trên VLS, mục Đông Phương Dự Đoán học / Địa Lý Phong Thủy, Thiên Sứ có viết ở Msg #32 ngày 18-10-2005 như sau: http://www.vietlyso.com/forums/showthread.php?t=1669&pag e=4 như vậy, mặc dù cố bảo vệ lý thuyết đổi chỗ Tốn - Khôn nhưng Thiên Sứ vẫn phải tuân thủ vị ví Tốn - Khôn của Văn Vương Hậu Thiên Bát Quái ... hihihi ... tiền hậu bất nhất nhỉ?
  18. Phản biện của Tubinh_giagia Để phân tích cái lý luận __sự hoán vị Tốn-Khôn mà tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh aka Thiên Sứ đã rêu rao về cái gọi là Hậu thiên bát quái Lạc Việt (Đổi chỗ Tốn/ Khôn) được TÌM RA và công bố từ 2001 trong cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch". Nxb Đại Học Quốc gia. Tái bản năm 2002 Nxb Văn Hóa Thông Tin) như thế nào nhé! Dưới đây là bảng Tiên Thiên Bát Quái ĐOÀI........CÀN..........TỐN LY. ..TTBQ Phục Hy...KHẢM CHẤN......KHÔN..........CẤN Và đã được giải mã bởi tác giả qua truyền thuyết như sau: ThienSu đã viết: Nên TRỜI nghiêng về phía Tây Bắc (T.B.) và ĐẤT lệch về phía Đông Nam (Đ.N.) như sau - nếu chỉ dừng lại chỉ nhiêu đó thông tin của truyền thuyết: CÀN (T. :) .....TỐN.......KHẢM ĐOÀI..NỮ OA Vá Trời.....CẤN LY........CHẤN.....(Đ.N)KHÔN NHƯNG mà NGỘ ghê, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh lại HỎNG BIẾT lấy gì để mà GIẢI MÃ tiếp nên đành ÔM LẠI nguyên Bảng Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương chỉnh sửa đôi chút kiểu Gọt Chân cho Vừa Giày rằng là: ThienSu đã viết: thành ra ThienSu đã viết: Nếu Hậu thiên bát quái TỐN.................LY..........KHÔN CHẤN....HTBQ Văn Vương...ĐOÀI CẤN..............KHẢM...........CÀN ThienSu đã viết: thì sẽ là như vầy: KHÔN.......LY............TỐN CHẤN..Ng.V.T.Anh....ĐOÀI CẤN......KHẢM..........CÀN liền thôi Đương nhiên LÝ LUẬN của tác giả chỉ CÓ THẾ và như có ai vấn sâu tí nữa như: Vì sao, những QUÁI kia lại an vị ở những cung còn lại như đã an ??? thì tác giả "TỊT" .... và như có chút quyền hạn để lạm dụng thì bóp hầu bóp họng kẻ khác không cho HỎI HEN gì nữa ngay! Hoặc, đem cái điều là được Nxb Đại Học Quốc gia, Nxb Văn Hóa Thông Tin xuất bản, tái bản cái LÝ LUẬN 3 XU trên làm niềm TỰ HÀO thì thật đáng buồn cho Dân Tộc Việt Nam đã hết người tài! Chẳng lẽ, trí tuệ và óc suy luận của người Việt Nam lại để những SUY DIỄN trên che mờ ư!? Đáng tiếc thay!!! Tubinh_giagia
  19. Phản biện của Tubinh_giagia Nay nói về các "mô hình" Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương mà các tác giả, học giả Việt Nam đã "chỉnh sửa, thêm thắt và định đặt riêng" . Sự việc rất đổi là đơn giản, vì rằng tác giả Nguyễn Vũ Anh Tuấn aka Thiên Sứ học giả Trần Quang Bình học giả Nguyễn Thiếu Dũng không hiểu và không nắm được cái NGUYÊN LÝ vì sao từ Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy BIẾN HÓA thành ra Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương như thế nào -- để mà TÙY TIỆN suy diễn cá nhân về __sự hoán vị Tốn-Khôn để rêu rao về cái gọi là Hậu thiên bát quái Lạc Việt(Đổi chỗ Tốn/ Khôn) và liên hệ với Hà Đồ. KHÔN..............LY................TỐN CHẤN.......Ng.V.T.Anh...........ĐOÀI CẤN..............KHẢM..............CÀN __ĐỒ hình THỎA MÃN duy nhất trong tổng số (8!) = 40320 đồ hình khác nhau từ 8 quẻ Bát Quái thông qua những tiền đề của tác giả TỰ CHỌN KHÔN..............LY...................ĐOÀI CHẤN........Trần Q. Bình.............TỐN CẤN.............KHẢM...................CÀN __thiết lập lên một TRUNG THIÊN ĐỒ ĐOÀI...........CÀN...............KHÔN TỐN........Ng.T.Dũng..........CHẤN KHẢM...........LY..................CẤN Cho ta thấy, tác giả tác giả và các học giả như đã có thể giải thích vì sao những định vị Bát Quái kia của Hậu Thiên Bát Quái vì sao như đã an vị như thế này\ TỐN...................LY...............KHÔN CHẤN.........HTBQ Văn Vương.....ĐOÀI CẤN................KHẢM................CÀN --- thì ắt hiểu vì sao Tốn-Khôn không cần phải hoán vị rồi; Cái chuyện, không đối xứng theo cái nhìn của rất nhiều người biết về thuật số trên thế giới (không nói đến số đông chẳng biết ất giáp gì ...) về Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương so với Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy hầu như là hầu hết đều có cái nhìn như thế --- nên mới có chuyện suy diễn Cá Nhân như tác giả Nguyễn Vũ Anh Tuấn, học giả Trần Quang Bình và học giả Nguyễn Thiếu Dũng đã bạo gan hoán vị Tốn-Khôn, lựa ra từ 40320 cách sắp xếp của 8 Quái và thiết lập lên một Trung Thiên Đồ đối xứng từ đồ hình TTBQ ĐOÀI.................CÀN................TỐN LY.............TTBQ Phục Hy........KHẢM CHẤN...............KHÔN................CẤN (nhưng 1/2: Càn-Khôn, Khảm-Ly này và 1/2 kia: Đoài-Tốn, Chấn-Cấn) rồi TUYÊN BỐ: hahahaa. Mở ngoặc: Xin quí vị đừng hỏi những vị trên là tại sao TTBQ lại như thế (?) và vì sao từ Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy BIẾN HÓA thành ra Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương như thế (??) [Đóng ngoặc: Không phải sự suy diễn Cá Nhân đó là không được phép, không có quyền tìm tòi giải mã cái NGUYÊN LÝ vì sao từ Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy BIẾN HÓA thành ra Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương như thế đó ... Thế NHƯNG tất cả vẫn còn nằm trong MA TRẬN cửu cung BÁT QUÁI vì khi bị vấn nạn như sau: Vì sao, những QUÁI kia lại an vị ở những cung còn lại như đã an ??? Thì chính tác giả và các học giả trên cũng không có lời giải thích đặng nói riêng và những ai có đề ra những Hậu Thiên Bát Quái khác nói chung! Theo như mình biết, đến thời điểm này - ngay cả người Hoa Hạ, dân Á Châu nói chung và dân Âu Châu hay cả thế giới nói riêng - đã chưa GIẢI MÃ được NGUYÊN LÝ này ... Thay vì, họ cứ để đó - học hỏi tìm tòi cái NGUYÊN LÝ đó .. thì có những học giả, tác giả người Việt LẬP nên nhiều NGỤY THUYẾT về Kinh Dịch, Bát Quái v.v... để nâng cấp niềm tự hào dân tộc một cách RIDICULOUS ! Âu! Mua vui cũng được một vài trống canh .... Tubinh_giagia
  20. Bài trả lời của CBreeze Thưa bác tubinh_giagia, Càng thưa chuyện với bác thì càng thấy lòi ra cái dốt của CB. Quả thật nếu nói chuyện cho đúng theo tinh thần khoa học thì nói phải có sách, mách phải có chứng . Nhưng mức độ khả tín của các sách, chứng cớ kia chưa chắc là 100%. Hiểu biết của CB quá nghèo nàn nên từ đầu chí cuối chỉ dám dựa vào cái lý để hỏi bác thôi (và bác cũng không dẫn chứng 100%). Bác kêu CB dẫn chứng thì bác đã chiếu tướng CB rồi. CB mà hỏi nữa e mọi người cười CB tật cứng đầu, cố chấp (mà người Việt nào cũng có không nhiều thì ít). Vậy cháu xin tạm ngưng để theo dõi diễn tiến của bài này và chỉ hỏi khi thích hợp. Chúc mọi người một cuối tuần vui vẻ . Phản biện của Tubinh_giagia CBreeze đã viết: Với điều này: "Nhưng mức độ khả tín của các sách, chứng cớ kia chưa chắc là 100%" đã không còn quan trọng cho việc CÓ dẫn chứng hay KHÔNG dẫn chứng 100% từ Tubinh_giagia này vậy! CBreeze nên xem lại từ post đầu của trang này Vì Sao mà CBreeze đã hỏi như đã hỏi: Rõ là "Thiên văn cổ TRUNG HOA có rất nhiều bản vẽ, khắc, ghi chép về thiên tượng, tinh tú, tam viên v.v..." còn Việt Nam hay Lạc Việt thì ZERO nên CBreeze đã phải HOÀI NGHI mà đề NGHI VẤN GIẢ THUYẾT; nhưng lại rơi vào điểm CHẾT khác; đó là: Mức Độ Khả Tín của các tài liệu đó. Như vậy, vấn đề sẽ được giải quyết ra sao đây ??? CBreeze đã viết: CBreeze có THẤY ngạc nhiên hay tò mò rằng: Vì sao một thời thịnh trị của nhà Trần, những thời kỳ của những triều đại mà Việt Nam không bị đô hộ trực tiếp bởi Thiên Triều Trung Hoa -- thì vẫn không thấy bóng dáng những bức ĐỊA ĐỒ (Maps) chứng minh về ĐỊA GIỚI của đất nước có cái tên là GiaoChỉ, Annam, Đại Việt hay Việt Nam gì đó hở ??? Chỉ là điều gì đó để gợi ý cho CBreeze thôi! Tubinh_giagia
  21. Bài trả lời của CBreeze Thưa bác tubinh_giagia, Người Tàu là người nào? Người Bách Việt có phải là người Tàu không thưa bác? Nếu bác có một tấm bản đồ nào đó của người Tàu cổ thì ai là người đã vẽ tấm bản đồ đó vậy thưa bác? Những người đã định cư ở đó hay là những người đã đô hộ họ ? Phản biện của Tubinh_giagia CBreeze đã viết: CBreeze nè ... Những câu hỏi trên có HƠI đi ngoài lề chủ đề .. nhưng do có ít phần dính dấp đến người Việt người Tàu nên sẵn đây nói tiếp nhé! Người Tàu là người nào? - Là phải xem lịch sử Trung Quốc bắt đầu như thế nào, ra sao v.v... Là phải xem thời "Tam Hoàng, Ngũ Đế" là những ai ... Là phải xem huyền sử của họ KHÁC hay GIỐNG với Bách Việt như thế nào ... Là phải xem timeline từ thuở đó SONG SONG với Bách Việt ra sao v.v... Người Bách Việt là người nào? - Là phải xem lịch sử Bách Việt (hay là của VIỆT NAM) bắt đầu như thế nào, ra sao v.v... Là phải xem thời "Con rồng Cháu tiên" là những ai - của Bách Việt (hay là của VIỆT NAM) ... Là phải xem huyền sử của họ KHÁC hay GIỐNG với người Tàu như thế nào ... Là phải xem timeline từ thuở đó SONG SONG với người Tàu ra sao v.v... Như vậy, người Bách Việt có CÙNG một truyền thuyết, một huyền sử hay huyền thoại về nguồn gốc .. hay CHỈ là người VIỆT NAM (Lạc Việt) mới có truyền thuyết "Tiên Rồng" ??? CBreeze nên xét kỷ ... Rồi mình thảo luận tiếp ... --- oOo --- Nếu bác có một tấm bản đồ nào đó của người Tàu cổ thì ai là người đã vẽ tấm bản đồ đó vậy thưa bác? Đã bảo là "của người Tàu cổ" mà còn hỏi thế ư, CBreeze ??? Những người đã định cư ở đó hay là những người đã đô hộ họ ? Như rằng, CBreeze có nghi vấn ngờ vực "người định cư" hay là "người đô hộ" --- thì it goes BOTH WAY. Người đô hộ - ắt có quyền hành quyền lực trong tay: Có thể TỰ vẽ lấy hoặc SAI KHIẾN "người định cư" vẽ ... nhưng đó, nói lên điều gì mà CBreeze muốn ám chỉ chi chăng ??? Ám chỉ kẻ đô hộ muốn VẼ sao thì mặc tình à ??? Nếu nói vậy, thì các bản vẽ bản đồ tự xưa đến giờ đều VÔ GIÁ TRỊ cả ư!? Các quốc gia, các tên gọi thời cổ trong vùng Tàu-Việt đều INVALID cả hay sao ??? Đến thời điểm bây giờ, mấy ngàn năm đã trôi qua - thì phải dựa trên những chứng cứ vật thể nào có được để mà SUY LUẬN thôi; cho nên, cần thiết nhất vẫn là phải có những chứng cứ vật thể để làm bằng, làm nền cho sự SUY LUẬN .. mà Lạc Việt lại có những tấm bản vẽ BẢN ĐỒ gì chứng minh về địa giới của mình ???? Điều này không kém phần quan trọng, khi mà CBreeze chỉ nghe nói hoặc đọc đâu đó chuyện cống Mai Rùa, ghi lịch v.v... Tubinh_giagia
  22. Phản biện của Tubinh_giagia CBreeze đã viết: Có phải không? Thì những nền văn hóa khác CẦN LÊN TIẾNG và có CHỨNG CỨ VẬT THỂ gì để làm bằng mà thu hồi QUỐC BẢO đi chứ, phải không CBreeze nè ??? Chứ nói mà không bằng không chứng - ai lại không nói được để hả hê hè! .... CBreeze đã viết: Khi CBreeze nói về dân "du mục" thì CBReeze muốn nói đến Rợ Hung Nô, Khiết Đan, Rợ Khương, Mông cổ hay Mãn châu v.v... ??? Dù là dân "du mục" đi nữa - do địa lý địa hình và cách tổ chức đời sống - tứ mùa bát tiết cũng phải trãi qua và trong sự du hành cũng chí ít biết đến Thiên văn để định phương hướng chứ đâu phải họ không biết gì ... CBreeze có bản đồ Cổ nào gọi là của nước Việt cổ ra sao (?) - cũng như đã có hỏi CBreeze rằng: NƯỚC TA có biên giới địa đồ ở thời mà CỐNG sang TÀU một cái mai rùa trên khắc lịch hay không?? Thứ đến, tìm kiếm và nhìn xem bản đồ cổ xưa và bây giờ của người Tàu thì CBreeze nói rằng họ lại không phải nằm trong vùng Văn Hóa LÚA NƯỚC à ??? Tubinh_giagia
  23. Bài trả lời của CBreeze Thưa bác tubinh_giagia, Bác nói thảo luận thì đề cao CB quá . CB chỉ nêu ra những thắc mắc nhỏ mà cá nhân chưa thông suốt thôi. Còn bác tubinh_giagia đã nhín thời gian chịu khó trả lời thì CB rất cảm ơn, bởi nhờ vậy CB mới có cơ hội lọc lại những cái "biết" của mình. Ở bài trên bác có nói "Trong khi 'Thiên văn cổ TRUNG HOA' có rất nhiều bản vẽ, khắc, ghi chép về thiên tượng, tinh tú, tam viên v.v...". Cháu đặt câu hỏi là liệu những bản vẽ, khắc kia có phải của người Hoa Hạ hay là họ cũng "cóp nhặt" hay cướp được từ những nền văn hóa khác ? Khi nói đến nước Việt cổ, cháu nghĩ tới văn hóa Hòa Bình, tới văn hóa của những người trồng lúa nước ở cái vùng thuộc về dân Bách Việt. Những người này có nhu cầu dùng lịch. Còn người dân du mục có nhu cầu làm lịch hay không chắc phải xét lại .
  24. Tóm lại chỗ cửa nào ong bay vào thì dán chỗ đó. Chúc thành công.
  25. Phản biện của Tubinh_giagia CBreeze đã viết: CBreeze có thấy thông tin mà CBreeze đọc được hay nghe nói từ đâu đâu rằng NƯỚC TA có biên giới địa đồ ở thời mà CỐNG sang TÀU một cái mai rùa trên khắc lịch hay không? Thứ đến, câu nghi vấn của CBreeze NẾU cũng là điểm để kiểm chứng được sự KHẢ TÍN của vấn đề mà, phải không ?? Chuyện trên, Tubinh_giagia cũng có tư liệu - nhưng để xem CBreeze có tài liệu gì khác để đối chứng hay không - rồi sẽ thảo luận tiếp nghen ??? Tubinh_giagia * Phản biện của Tubinh_giagiaMấy hôm trước, nhân dịp nói chuyện CBreeze về việc trống đồng - thì nay sẵn đây CHỈ RA THÊM những suy luận HÀM HỒ của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh aka Thiên Sứ trong vấn đề minh họa Hà Đồ với Văn Minh Lạc việt. LƯU Ý Trống đồng với những vành hoa văn: trang trí hình người múa, đánh trống, thổi khèn, cầm vũ khí, giã gạo, hình chim mỏ dài và đuôi dài, hình nhà mái cong, mái tròn... diễu hành xung quanh ngôi sao theo hướng NGƯỢC CHIỀU KIM ĐỒNG HỒ. Tại sao lại phải là DI CHUYỂN NGƯỢC CHIỀU KIM ĐỒNG HỒ (?) mà tác giả lại đề cử việc DI CHUYỂN THUẬN CHIỀU KIM ĐỒNG HỒ (??) để rồi không nắm vững được vận động của các thiên thể, NGŨ HÀNH TINH biểu trưng trên HÀ ĐỒ nguyên thủy như sau: và được tra NGŨ HÀNH vào phương vị như sau: ....................Hỏa (2:7) Nam Mộc (3:8) Đông*05* Thổ *10*Kim (4:9) Tây ...................Thủy (1:6) Bắc Những tiêu chí vận hành trên hoa văn Trống Đồng cho thấy sự TƯƠNG ỨNG với ĐẠI TỰ NHIÊN, với những HÀNH TINH trong Thái Dương Hệ quay xung quanh MẶT TRỜI theo hướng NGƯỢC CHIỀU KIM ĐỒNG HỒ. Do đó, trong Bảng LỤC THẬP HOA GIÁP theo nguyên tắc CÁCH BÁT SINH TỬ thì cũng đã TƯƠNG ƯNG với sự vận hành NGƯỢC CHIỀU KIM ĐỒNG HỒ này nên mới có: KIM -> HỎA -> MỘC -> THỦY -> THỔ GiápTí-ẤtSửu (Kim) --> cách bát --> NhâmThân-Quý Dậu (Kim) --> cách bát --> CanhThìn-TânTỵ (Kim) --> cách bát --> MậuTí-KỷSửu (Hỏa) --> cách bát --> BínhThân-ĐinhDậu (Hỏa) --> cách bát --> GiápThìn-ẤtTỵ (Hỏa) --> cách bát --> NhâmTí-QuýSửu (Mộc) --> cách bát --> CanhThân-TânDậu (Mộc) --> cách bát --> MậuThìn-KỷTỵ (Mộc) --> cách bát --> BínhTí-ĐinhSửu (Thủy) --> cách bát --> GiápThân-ẤtDậu (Thủy) --> cách bát --> NhâmThìn-QuýTỵ (Thủy) --> cách bát --> CanhTí-TânSửu (Thổ) --> cách bát --> MậuThân-KỷDậu (Thổ) --> cách bát --> BínhThìn-ĐinhTỵ (Thổ) Ở trên là CHU KỲ I mà CHU KỲ II bắt đầu từ GiápNgọ-ẤtMùi cũng tuân thủ theo nguyên tắc trên ... Trái lại, tác giả VIỆN DẪN một cách hàm hồ qua sự tương sinh theo hướng THUẬN CHIỀU KIM ĐỒNG HỒ trên HÀ ĐỒ để 2 HÀNH (Thủy và Hỏa) trong Bảng Lục Thập Hoa Giáp phải bị HOÁN ĐỔI lệch lạc. Điều đó, cũng chứng minh được Phương Pháp THUẬN CHIỀU KIM ĐỒNG HỒ trên của tác giả về Lá Số Tử Vi của Sadam Hussein sinh năm Đinh Sửu (vốn mệnh Hỏa bị đổi thành mệnh Thủy :: theo tác giả) đã THẤT BẠI do những tiên đoán dựa trên nền tảng THUẬN CHIỀU KIM ĐỒNG HỒ về vị nguyên thủ Iraq này (ở trên trang nhà Tuvilyso hoặc Vietlyso) không thể CHẾT hồi năm ngoái. Cho nên, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh aka Thiên Sứ đã phải THAN VÃN như sau: Trích dẫn: Đủ thấy, một THAM VỌNG trên một nền tảng SAI LẦM sẽ có KẾT QUẢ chỉ là SỤP ĐỔ mà thôi! Tuy nhiên, ĐÁNG LÝ ra thì tác giả nên TỰ TRỌNG mà tuyên bố rằng: Đây là những SUY LUẬN của một mình Nguyễn Vũ Tuấn Anh aka Thiên Sứ tôi; chứ chẳng phải là Văn Hóa, Văn Minh, Lý Học, Thiên Văn Cổ gì gì của Lạc Việt hết cả! Chẳng ai trách, vì đó là sự SUY LUẬN, NGHIÊN CỨU của một cá nhân - chứ không phải của một ĐOÀN THỂ mà phải GÁN ĐẶT danh dự Lạc Việt vào đó, để nó phải bị chôn vùi theo sự LỆCH LẠC SAI LẦM của tác giả! Ông bà xưa có câu: Cáo mượn HỔ UY, không biết trong trường hợp trên có phần đúng hay chăng ??? Vì Cáo chỉ lừa được con HỔ chứ không lừa được Thiên Hạ vậy! Tubinh_giagia Hết trang 1 - tuvilyso.net