nhị địa sinh
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
546 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
4
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by nhị địa sinh
-
富貴貧賤在水神. Phú quý bần tiện tại thủy thần (65). 水是山家血脈精. Thủy thị sơn gia huyết mạch tinh (66). 山靜水動晝夜定. Sơn tĩnh thủy động trú dạ định (67). 水主財祿山人丁. Thủy chủ tài lộc sơn nhân đinh (68). 乾坤艮巽號禦街. Kiền Khôn Cấn Tốn hiệu ngự nhai (69). 四大神尊在內排 Tứ đại thần tôn tại nội bài (70). 生剋須憑五行佈. Sinh khắc tu bằng ngũ hành bố (71). 要識天機玄妙處. Yếu thức thiên cơ huyền diệu xử (72). 乾坤艮巽水長流. Kiền Khôn Cấn Tốn thủy trường lưu (73). 吉神先入家豪富. Cát thần tiên nhập gia hào phú (74). Thái Mân Sơn viết: - Là lược cử 24 sơn chi sơn tình thủy ý, phú quý bần tiện tài lộc nhân đinh để người hiểu rỏ sở xu hướng, thật Thiên ngọc Thiên Cơ quyết chi đại tác dụng dã. Nếu như không hiểu Tam tinh thu Ngũ cát, biết quan thiên quan địa định thư hùng, với đão bài phụ mẫu chi quyết, tất chương nầy không còn nói lên được chữ nào, ôi cái nói kiền khôn cấn tốn hiệu ngự giai là nói trong 4 quẻ tự cổ có tên ngự giai, như Tư Mả thị chi Ất Giáp Cấn, kiêm đinh bính tốn, tân canh khôn với quý nhâm kiền, quý nhân tam hợp liên châu thủy, 3 hợp liên châu lạn liểu tiền là nghịch ngự giai. Tân nhập kiền cung bá vạn trang, quí qui cấn vị phát văn chương, ất hướng tốn lưu thanh phú quý, đinh tùng khôn khứ vạn tư thương, đó là thuận ngự giai. Tứ đại thần tôn tại nội bài là nói 24 sơn đều có tứ đại tôn thần để bài, kiền khôn cấn tốn đều vậy, không phải chỉ trong kiền khôn cấn tốn mới có 4 đại tôn thần để bài, như Tý sơn Ngọ hướng 1 cục vũ khúc là tốn chi tôn thần, Cự môn vi kiền chi tôn thần, Phụ tinh vi khôn chi tôn thần, hữu bật vi cấn chi tôn thần, đó là 4 đại tôn thần tại nội bài vậy. Sinh khắc tu bằng ngũ hành bố (71). Yếu thức thiên cơ huyền diệu xử (72). Ngũ hành là chỉ thư hung quái chi 5 hành. Thiên cơ tức thiên cơ quyết, huyền diệu xử chỉ thu 5 cát chi tác dung. Kiền Khôn Cấn Tốn thủy trường lưu (73). Cát thần tiên nhập gia hào phú (74). Là nói thu thủy hợp tiên thiên chi cát thần tức năng trí phú, đó là Thanh Nang chi tổng quyết vậy. 請驗一家舊日墳. Thỉnh nghiệm nhất gia cựu nhật phần (75). 十墳埋下九墳貧. Thập phần mai hạ cửu phần bần (76). 惟有一墳能發福. Duy hữu nhất phần năng phát phúc (77). 去水來山盡合情. Khứ thủy lai Sơn tận hợp tình (78). 宗廟本是陰陽元. Tông miếu bổn thị âm dương nguyên (79). 得四失六難為全. Đắc tứ thất (mất) lục nan vi toàn (80). 三才六建雖為妙. Tam tài lục kiển tuy vi diệu (81). 得三失五盡為偏. Đắc tam thất (mất) ngũ tận vi thiên (82). 蓋因一行擾外國. Cái nhân nhất hành nhiễu ngoại quốc (83). 逐把五行顛倒編. Trục bả ngũ hành điên đảo biên (84). 以訛傳訛竟不明. Dĩ ngoa truyền ngoa cánh bất minh (85). 所以禍福為胡亂. Sở dĩ họa phúc vi hồ loạn (86). Thái Mân Sơn viết: - Là nói 2 chương bản văn tự minh, không cần bàn giải, nhưng Tăng Tự thiên nầy xem thư hùng khán kim long, kỳ trung ngũ hành bố Thiên cơ, chi huyền diệu xử sinh khắc cát thần cập thượng văn chi song song khởi, thành môn quyết, tam xoa pháp lai sơn khởi đỉnh âm dương tương kiến, sơn bất hạ thủy, thủy bất thượng sơn, huyệt nội chi thừa thoát, huyệt ngoại chi ai gia, 48 cục chi gia huyền gia quan, huyền không chi sinh vượng khí, âm dương chi huyền diệu lý, 17 pháp tổng quát Áo Ngữ, Thiên Ngọc Đô Thiên chi đại tác dụng giai thư hùng quyết vậy, nếu khám phá được nghĩa của thiên nầy tắc Thanh Nang chi đại cương đắc chi hỉ! Thái Mân Sơn hựu viết: - Lại Nói = Sơn long với thủy long cố nhiên đồng một Huyền không, đương biết dụng pháp, sơn long dĩ phiên thiên đão địa đối bất đồng cát vi hợp Huyền Không. Thủy long, dĩ thượng nguyên vận, dụng hạ nguyên thủy. Hạ nguyên vận, dụng Thượng nguyên thủy, vi hợp Huyền Không. Nếu không hiểu đó sẽ ngộ lẩn là thủy long đão quái pháp Vi phiên thiên đão địa đối bất đồng chi thư hùng quyết thông giải sơn long thì chưa hề có không bị bại hại người đương sự vậy, Áo Ngữ sở dĩ có, Mạch tức sinh vượng yếu tri nhân. Tất đãi cao nhân thi diệu dụng chi huấn dã, khả bất thận dư!. Hết TRITRI Dịch Xong Ngày 8/4/2013/. Tại TOROTO-CANADA.
-
先天羅經十二支. Tiên thiên La Kinh thập nhị chi (25). 後天再用幹與維. Hậu thiên tái dụng Can dự Duy (26). 八幹四維輔支位. Bát Can Tứ Duy phụ chi vị (27). 子母公孫同此推. (tiếp trang 4) Tử mẫu công tôn đồng thử thôi (28). Thái Mân Sơn viết: - Nói = La kinh tiên thiên 12 chi, là tứ duy bát can chi tổ chi mẫu, can duy đều do đó mà ra, cố viết Tử mẫu công tôn đồng thử thôi, đồng thử thôi là nói đồng sở sinh, nhứt tý sinh 6 kiền, 2 ngọ sinh tốn 7, 3 mão sinh cấn 8, 4 dậu sinh 9 khôn, tử mẫu vậy, sinh tử tôn là công là mẫu, thụ sở sinh là tử là tôn, bát can y đó mà suy 24 sơn đều vậy. 二十四山分順逆. Nhị thập tứ sơn phân thuận nghịch (29). 共成四十有八局. Cộng thành tứ thập hữu bát cục (30). 五行即在此中分. Ngũ hành tức tại thử trung phân (31). 祖宗卻從陰陽出. Tổ tông khước tòng âm dương xuất (32). 陽從左邊團團轉. Dương tòng tả biên đoàn đoàn chuyển (33). 陰從右路轉相通. Âm tòng hữu lộ chuyển tương thông (34). 有人識得陰陽者. Hữu nhân thức đắc âm dương giả (35). 何愁大地不相逢. Hà sầu đại địa bất tương phùng (36). Thái Mân Sơn viết: - Nói =Trong kinh bàn 24 sơn, ai tinh pháp mổi sơn đều có thuận nghịch cục, có thận tử 1 cục, có nghịch tử 1 cục, 1 sơn lưỡng dụng nghịch cục chi phân, có thuận tử 1 cục, nghịch tử 1cục, 1 sơn lưỡng dụng hợp thành 48 cục, Ngũ hành tức tại thử trung phân, là chỉ Ai tinh chi ngũ hành, thử trung phân là chỉ thuận nghịch bàn mà nói. Tổ tông khước tòng âm dương xuất, là nói ai tinh tả hữu toàn đều, theo thiên phụ địa mẫu chi âm dương suy khởi. Dương tòng tả biên đoàn đoàn chuyển (33). Âm tòng hữu lộ chuyển tương thông (34). Hai câu nầy là chỉ ra âm dương tinh, đường lộ thuận nghịch hành. Hữu nhân thức đắc âm dương giả (35). Hà sầu đại địa bất tương phùng (36 Là hiểu được âm dương của phụ mẫu tinh bàn thuận nghịch chi ai pháp, thì lo gì đại địa đương tiền mà không thể tác dụng được. Đó là ai tinh chi tổng quyết, tự tự chân thuyên, cú cú thị pháp. 陽山陽向水流陽. Dương sơn dương hướng thủy lưu dương (37). 執定此說甚荒唐. Chấp định thử thuyết thậm hoang đường (38). 陰山陰向水流陰. Âm sơn âm hướng thủy lưu âm (39). 笑殺拘泥都一般 Tiếu sát câu nệ đô nhất ban (40). 若能勘破個中理. Nhược năng khám phá cá trung lý (41). 妙用本來同一體. Diệu dụng bổn lai đồng nhất thể (42). 陰陽相見兩為難. Âm dương tương kiến lưỡng vi nan (43). 一山一水何足言. Nhất sơn nhất thủy hà túc ngôn (44). Thái Mân Sơn viết: -Tiếc rằng thời sư cố chấp tịnh âm tịnh dương chi miêu ngôn, Ai tinh chi pháp tuy đắc, nhưng lập hướng tiêu thủy tự có chân âm chân dương tương kiến chi lý, phải đâu 1 sơn 1 thủy chi tịnh khả dĩ nạp hồ! dù rằng hiểu được long hướng thủy tương phối thiên cơ chi diệu lý, tắc tịnh âm tịnh dương cũng dùng được, nhưng không thể quá câu nệ. Diệu dụng bổn lai đồng nhất thể (42), thì nên hiểu rỏ Âm dương tương kiến chi chư tác dụng. 二十四山雙雙起. Nhị thập tứ sơn song song khởi (45). 少有時師通此義. Thiểu hữu thời sư thông thử nghĩa (46). 五行分佈二十四. Ngũ hành phân bố nhị thập tứ (47). 時師此訣何曾記. Thời sư thử quyết hà tằng ký (48). Thái Mân Sơn viết: - Lời nói lên văn trên nhất sơn lưỡng dụng, 48 cục, thuận nghịch hành song song khởi tiếc rằng thời sư không rõ, bản văn tự minh. 山上龍神不下水. Sơn thượng long thần bất hạ thủy (49). 水裡龍神不上山. Thủy lý long thần bất thượng sơn (50). 用此量山與涉水. Dụng thử lượng sơn dự thiệp thủy (51). 百里江山一響間. Bách lý giang sơn nhất hưởng gian (52). Thái Mân Sơn viết: - Nói lên Ai tinh gia huyền gia quan pháp nói sơn thủy các có âm dương các có thư hùng các có diệu dụng, sơn tự quản sơn bất khả gia ư thủy, thủy tự quản thủy bất khả thượng thi ư sơn, đó là thành pháp vậy, nhược năng hiểu rỏ lý lẻ trong chân âm chân dương tương kiến tương gia chi huyền diệu lý, tuy 100 dặm giang sơn chi cát hung, 1 khi Ai thì rỏ, đó là sơn thủy phân Ai xem thư hùng chi tiệp quyết vậy. 更有淨陰淨陽法. Canh hữu tịnh âm tịnh dương pháp (53). 前後八尺不宜雜. Tiền hậu bát xích bất nghi tạp (54). 斜正受來陰陽取. Tà chánh thụ lai âm dương thủ (55). 氣乘生旺方無煞. Khí thừa sanh vượng phương vô sát (56). 來山起頂須要知. Lai sơn khởi đính tu yếu tri (57). 三節四節不須拘. Tam tiết tứ tiết bất tu câu (58). 只要龍神得生旺. Chỉ yếu long thần đắc sanh vượng (59). 陰陽郤與穴中殊. Âm dương khích dự huyệt trung thù (60). Thái Mân Sơn viết: - Là nói phép thừa khí muốn âm dương thanh thuần, nói cánh hữu âm dương thủ là Long phân lưỡng phiến chi đại tác dung. Tiền hậu bát xích bất nghi tạp (54). Là chỉ thừa khí với đáo đầu 1 tiết mà nói, như mạch thấy tả hữu xuống tức phân được chân ngụy, khí thẩm tả hữu gia tức khí khả định lâm li (thắm khắp) chi vị. Âm dương khích dự huyệt trung thù (60). Là nói lập hướng chi âm dương với huyệt nội chi thừa khí, bất năng câu nệ thanh 1 khí mà là có khác. Hà Lịnh Thông nói: thừa khí dụng Tiên thiên, tiên thiên nhất âm nhất dương đối đải vi chủ, nên 4 long thiên tinh duy thủ tương phối âm với dương hợp, dương với âm hợp, đó là huyệt nội chi tác dụng, Lập hướng dùng Hậu thiên, hậu thiên phân âm phân dương trí dụng vi chủ, nên 8 phương tọa hướng mượn được làm phối Tọa dương hướng âm. Tọa âm hướng dương, đó là huyệt ngoại chi tác dụng vậy, tất hiểu đó rồi sau thư hùng tương phối âm dương tương kiến nội ngoại chi phân dụng mới có thể được. Khí thừa sanh vượng phương vô sát (56). Câu nầy, không chỉ là đắc vận thì sinh vượng, thất vận thì tử khí, mà là thừa thư thừa hùng âm dương thủ Tà Chính thụ chi đại tác dụng vậy. 天上星辰似織羅. Thiên thượng tinh thần tự chức la (61). 水交三八要相過. Thủy giao tam bát (3-8) yếu tương quá (62). 水發城門須要會. Thủy phát Thành Môn tu yếu hội (63). 郤如湖裡雁交鵝. Khích như hồ lí nhạn giao nga (64). Thái Mân Sơn viết: - Là nói hình thế kết tác của sơn thủy, lấy tinh thần bố khắp ví thủy lộ giao bôn chỉ ra thành môn quyết, để kết ý chưa tận, thủy phát hợp lưu thủy chi lai khứ, thành môn cần muốn hội, là nói thành môn hợp lưu thủy chi lai khứ, với tam xoa thông chính khí xuất nhập, 1 thư 1 hùng 1 kinh 1 vỹ, ki chỉ tương đối, hồ lí nhạn giao nga, ví sơn thủy kết tác tuyệt không ngoài nhạn giao nga chi phối, Khảm Ly ngộ Chấn Tốn, Cấn Đoài hợp Kiền Khôn, lưỡng phiến tam xoa là giao nga vậy.
-
Tư liệu tham khảo. =============== ĐỊA LÝ BIỆN CHÁNH (Tưởng Đại Hồng chú) TriTri dịch. Thanh Nang Kinh Quyễn thượng. Thiên tôn địa ty, dương kỳ âm ngẩu, 1, 6 cộng tông, 2, 7 đồng đạo, 3, 8 vi bằng, 4, 9 vi hửu, 5, 10 đồng đồ, hạp tịch kỳ ngẩu, ngũ triệu sinh thành, lưu hành chung thủy, bát thể hồng bố, tử mẩu phân thi thiên địa định vị, sơn trạch thông khí, lôi phong tương bạc, thủy hỏa bất tương xạ, trung ngũ lập cục, chế lâm tứ phương, bối 1, diện 9, 3, 7 cư bàng, 2, 8, 4, 6, tung hoành kỷ cương, dương dĩ tướng âm, âm dĩ hàm dương, dương sinh ư âm, nhu sinh ư cương, âm đức hoằng tế, dương đức thuận xương, thị cố dương bổn âm, âm dục dương, thiên y hình, địa phụ khí, thử chi vị hoá thủy. Thiên nầy lấy khí vô hình làm đầu mối trời đất, mà suy nguyên đạo từ sở đến vậy, Vã dương khí thuộc trời mà thật điềm nơi trong đất. Thánh nhân làm dịch để rỏ đạo trời đất, đều nói âm dương hằng trợ nhau vì cội rể, trời cao mà tôn, địa thấp mà ti, nhưng kẻ tôn có đức hạ tế, kẻ ti có nghỉa thượng hành, 1 âm 1 dương, 1 kỳ 1 ngẩu, số ấy tham ngũ, cho nên tế 1, hình ấy đối đải, cho nên vảng lai, trời đất khuông khuếch do đó mà thành, bốn mùa thay đổi, do đó mà chuyển, vạn vật hóa dục do đó mà phôi. Vã đó đạo kỳ ngẫu của âm dương, tuỳ cử 1 vật không nào chẳng có, trời đất vô tâm thánh nhân vô ý, tự nhiên lưu lộ, mà tượng sáng rỏ nơi Hà Đồ, mới có 1, 6 cộng tông, 2, 7 đồng đạo, 3, 8 vi bằng, 4, 9 vi hửu, 5, 10, đồng đồ chi tượng. Thánh nhân do cái tượng mà cầu cái nghỉa, lấy kỳ thuộc dương nên có tên gọi trời 1, trời 3, trời 5, trời 7, trời 9, lấy ngẩu làm âm mà tên gọi đất 2, đất 4, đất 6, đất 8, đất 10, Hể có 1, tất có 2, có 3 tất có 4, có 5 tất có 6, có 7 tất có 8, có 9 tất có 10, nên nói số tham ngũ là vậy. Đây 1 đó 2, đây 3 đó 4, đây 5 đó 6, đây 7 đó 8, đây 9 đó 10, ấy gọi là hình đối đải vậy, thiên số địa số mổi thứ được 5, đó gọi là số 1 thành, mà vô cùng trăm ngàn vạn ức, do đó mà suy vậy, thiên số địa số mổi số được 5, hợp 2 x 5 thành 10, bởi có 5 tức có 10, cũng như có 1 tức có 2, là đạo tự nhiên của âm dương vậy. Thế nên có 1 của trời tức có 6 của đất, có đất 2 tức có trời 7, có trời 3 tức có đất 8, có đất 4 tức có trời 9, có trời 5 tức có đất 10, đó là số âm dương, để tham ngũ mà nhất loạt vậy, Dịch nói, 5 vị tương đắc là ví đó vậy, mà 1, 6, tại dưới tức 2, 7 tất ở trên, 3, 8 bên trái, tức 4, 9 tất tại bên phải, 5 ở giửa 10 cũng ở giửa đó là số âm dương đối đải mà qua lại vậy. Dịch nói, 5 vị tương đắc mà các có hợp là nói như thế vậy, đã lấy tham 5 mà tề 1, nên 1 kỳ 1 ngẩu, sáng nhiên không rối, để đối đải qua lại, nên giửa kỳ và ngẩu 1 đóng 1 mở, điềm nhiên mà tự ứng, đó là sinh thành phải theo vậy. Thiên 1 sanh thủy, mà địa 6 thành chi, Địa 2 sinh hỏa mà thiên 7 thành chi, thiên 3 sinh mộc, mà địa 8 thành chi, địa 4 sinh kim mà thiên 9 thành chi, thiên 5 sinh thổ mà địa 10 thành chi, 1 sinh 1 thành, đều là cái khéo của âm dương giao cấu, 2 khí tương giao, mà 5 hành triệu vậy, giáng ư trên 9 thiên, thăng ư dưới 9 địa, châu lưu 6 cỏi, không ngừng nghỉ, khởi đầu rồi hết, hết rồi lại bắt đầu, không 1 hơi thở lưu hành, tức không 1 hơi thở không giao cấu, đương nó không mà thể nó hồn nhiên đã thành, đương nó có mà thể nó trật nhiên có tượng. Thánh nhân nhơn tượng số của hà đồ, mà lập được thể quái, vã hà đồ chỉ có 4 tượng, mà trên quẻ thành 8 thể 10 sao vậy, bởi 1 gạch thành hào, hào là giao vậy, khí của Thái Thủy chỉ có 1 dương, tên là Thái Dương, thái dương 1 giao mà thành Thái Âm, gọi là lưỡng nghi, thái âm thái dương tái giao, mà thành thiếu âm thiếu dương, cùng với thái âm thái dương thì là 4 tượng, đó là hiện tượng của hà đồ vậy, là bởi hà đồ mổi phương 2 số, gộp lại tức có 8, đó là tượng của hà đồ ẩn mà hiện vậy. Cho nên 8 quẻ là do 4 tượng, hào có 3 là do 3 lần giao, kiền khôn 2 quẻ là mẹ, 6 quẻ là con, đó là mẹ con 8 quẻ vậy, các quẻ tự làm mẹ, 3 hào là con, đó là mẹ con 1 quẻ vậy. Lấy đó phân thi tạo hóa, bố khắp cả vũ trụ, rồi đó cử dương kiền là trời, đối với âm của khôn đất, gọi là thiên địa định vị, thiên phục nơi trên, địa tải nơi dưới, đó là âm dương 1 giao, mà thành thiên địa vậy. Cử dương như cấn là sơn, đối với âm đoài là trạch, gọi là sơn trạch thông khí, sơn tải ở dưới tức trạch thụ nơi trên, cử dương như chấn là lôi, đối vói âm tốn là phong, gọi là lôi phong tương bạc, lôi phát từ dưới, tức phong động nơi trên, cử dương như khảm là thủy, đối với âm ly là hỏa, gọi là thủy hỏa bất tương xạ, thủy hỏa bình hành, hình thường tương cách, mà tính thường tương thân vậy. Đó là 3 âm 3 dương các tự giao nhau, mà sinh vạn vật vậy, tiên hiền lấy đó mà làm quẻ tiên thiên, phục hy sở định, bổn nơi long mã phụ đồ mà tác, thực tức hổn độn sơ phân, là tượng khai tịch của thiên địa vậy. Tứ tượng trung hư thành ngũ vị, trong ngũ đó tức tứ tượng giao vị, chân dương của kiền, chân âm của khôn, đều không hình mà có thổ hình, mà dưới thổ đó là huỳnh tuyền, đều là khôn địa tích âm khí, trên thổ đó là thanh hư, đều là kiền địa tích dương khí, mà da thổ đó trải bằng như bàn tay, là chí âm chí dương nơi kiền khôn giao cấu, thủy hỏa lôi phong sơn trạch, phàm thiên địa chi các hóa cơ, đều lộ nơi ấy cho nên trung ngũ là bát quái thác thể trử tinh, thành hình mà nơi hiển dụng vậy. Nên hà đồ lạc thư, đồng ở trong ngũ mà lập cục vậy, hà đồ tuy có tứ tượng, mà tiên thiên dương thăng âm giáng, trên dưới sơ phân chưa thể gọi tứ phương, từ trung ngũ lập cục, rồi sau tứ cục hoạch nhiên, các chánh kỳ phương, có chánh vị của tứ phương mà tứ duy xen nơi giửa,do đó 8 phương đã thành, gồm trung ngũ hoàng cực mà làm 9, phân mà bố như, 1 khởi chánh bắc, 2 cư tây nam, 3 cư chánh đông, 4 cư đông nam, ngũ phục cư trung, 6 cư tây bắc, 7 cư hướng tây, 8 cư đông bắc, 9 cư chánh nam, vị chi 9 trù, đó tuy xuất từ lạc thư, mà thật với số của hà đồ phù hợp.Cái lý của thiên địa tự nhiên phát hiện không khác vậy, bố vị đó gọi, đái 9 lý 1, tả 3 hửu 7, 2, 4 vi kiên, 6, 8 vi túc, nơi của 8 phương, đúng với số 8 phương đồng đều. Thánh nhân bèn lấy bát quái lệ theo, mà thứ tự gọi khảm 1 khôn 2 chấn 3 tốn 4 trung 5 kiền 6 đoài 7 cấn 8 ly 9, đó là 4 chánh 4 duy định vị không thay đổi, số tuy khởi 1, mà thật dụng chấn là đầu, bởi sau khi thành vị thiếu dương dụng sự, tiên thiên chủ thiên mà hậu thiên chủ nhật, nguyên tử kế thể thế phụ vi chính vậy. Dịch nói, đế xuất hồ chấn, tề hồ tốn, tương kiến hồ ly, trí dịch hồ khôn, thuyết ngôn hồ đoài, chiến hồ kiền, lao hồ khảm, thành ngôn hồ cấn, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, là, cổ kim thiền đời suy di, châu rồi phục thủy vậy, chấn tốn ly khôn đoài càn khảm cấn giả, mọc lặng của nhật nguyệt, khí cơ của tứ thời, vận hành dời chiếu, đảo vòng không bến vậy. Tiên hiền lấy đó làm quẻ hậu thiên, xưa kia đại vũ trị thủy, thần qui xuất lạc, văn vương nhân đó mà làm quẻ hậu thiên, há lúc phục hy họa quái chưa có lạc thư, mà đến lúc đại vũ trị thủy, chưa có quẻ vị hậu thiên à, trộm nghỉ đồ thư, tất ra cùng một lúc, mà tiên thiên hậu thiên quái vị cũng định trong một ngày, phục hy chỉ có quái hào, rồi văn vương mới ghép từ vào. Hà Đồ Lạc Thư không có 2 số,Tiên Thiên Hậu thiên không có 2 nghỉa, khác nơi quẻ tiên thiên dùng âm dương đối đải để nói, có đây đó mà không phương góc, quẻ của Hậu thiên lấy âm dương lưu hành mà nói, tức có phương góc ư, đến như mục đích làm quẻ, muốn tại nơi âm dương cùng đắp đổi gốc là 1, hởi đạo của dịch, quí dương tiện âm, tức dương đương là chủ, mà âm đương là phụ, mà rồi nói dương để tướng âm là gì vậy. Bởi cái xảo của dương không tại nơi dương, mà tại nơi âm, cái dương trong âm mới là chân dương, cố âm có cảm thì dương lại ứng, tựa hồ âm phản làm quân, mà dương phản vi tướng, đó là kinh nói tôn chỉ của thần minh vậy, nhưng dương sở dỉ đến ứng với âm đó là trong âm bổn tự có vậy, dĩ loại mà theo nên đến mà ứng, không phải là âm chứa dương sao, âm chứa dương tức năng sinh dương, nhất thiết khí phát sinh, đều do dương nắm giử, tức đều do âm mà ra tất cả, cương nhu tức âm dương, âm dương do khí mà nói, cương nhu do chất mà nói.Dịch nói Càn cương khôn nhu, lại nói cương nhu xoa nhau, bát quái đu đưa nhau, trong bát quái đều có âm dương, tức đều có cương nhu, bằng lấy dương làm cương, lấy nhu làm âm, tức nên là cương do nhu sinh vậy. Mà rồi nói nhu sinh nơi cương là gì vậy, khí là vô hình, dương cương mà âm nhu, chất đã có hình âm cương mà dương nhu, nơi có hình của cương chất, lại sinh vô hình của nhu khí, chất sinh khí, khí hoàn sinh chất, nên nói nhu sinh nơi cương vậy, phàm kỳ sở dĩ năng tương trợ năng vi bao hàm sinh sinh bất tức, như vậy là tức lấy âm làm dương. Bởi tự có kỳ đức, duy đức của âm, năng hoằng đại ư dương, để tế dương mà thí, nên đức của dương, năng thân thuận ư âm, để xương cái hóa của âm, đó là cái xảo của âm dương, để khí mục cảm thấy nơi hà đồ lạc thư, quái tượng của tiên hậu thiên là vậy, do đó tức có thể biết đạo của trời đất vậy, đạo của trời đất, dương thường bổn nơi âm mà âm thường dục nơi dương, nên trời không khuếch nhiên không hư mà vì trời vậy, cái khí thường y nơi hửu hình, mà không lúc nào không hạ tế, đất không khối nhiên bất động mà là đất vậy, cái hình thường phụ nơi nguyên khí, mà vô thời không thượng thăng, nhưng mà khí của trời, thường tại lòng đất, mà khí của đất, đều là khí của trời, âm dương tuy 2 khí, mà chỉ 1 khí à, bởi sinh trời đất là khí đó, mà sở sinh vạn vật cũng là khí đó, nên gọi hóa thủy vậy.(hết quyển thượng) . Nguồn: vietnambuysell.com
-
THANH NANG KINH QUYỄN HẠ (HÓA THẰNH) Vô cực nhi Thái cực dã, lý ngụ ư khí, khí hữu ư địa, nhật nnguyệt tinh tú, cương khí thượng đằng, sơn xuyên thảo mộc, nhu khí hạ ngưng, tư dương dĩ xương, dụng âm dĩ thành, dương đức hửu tượng, âm đức hữu vị, địa hửu tứ thế, khí tòng bát phương, ngoại khí hành hình, nội khí chỉ sinh, thừa phong tắc tán, giới thủy tắc chỉ, thị cố thuận ngũ triệu, dụng bát quái bài lục giáp, bố bát môn, thôi ngũ vận định lực khí, bài lục giáp bố bát môn, thôi ngũ vận định lục khí, minh địa đức, lập nhân đạo, nhân biến hóa, nguyên chung thủy, thử vị chi hoá thành. Thiên nầy nói lên hình khí tuy khác, mà lý lẽ thì một, cho người thấy rằng do hình cầu khí, là chuẩn mực nhập dụng của địa lý, dịch rằng dịch có thái cực mà sinh lưỡng nghi, Thái Cực là, nói tượng vua trước tiên, trước thiên địa sinh, năng sinh thiên địa là tổ căn của vạn tha, vốn không vật không tượng không số, không phương gốc, không nào chẳng có, nói Thái cực, mà không Thái cực có biết, hậu hiền lập thuyết, lo học giả 1 Thái cực vì có vật, cố nói lên để rỏ mà rằng, vô cực là Thái cực vậy. Lớn là trời đất, nhỏ là vạn vật, vả chăng là các có Thái Cực, vật vật 1 thái cực, các 1 vật toàn đủ cái lý của 1 thiên địa, người biết thái cực vật vật gồm đủ, tức đạo của địa lý, nghỉ đến quá nửa vậy. Lý ngộ nơi khí, khí 1 thái cực vậy, khí gom nơi hình, hình 1 thái cực vậy, dĩ chí trong có thái cực, nên có thể đóng xuống, trợ dương tốt đẹp, trợ cho 1 thái cực vậy, dùng âm để thành, dùng cho 1 thái cực vậy. Thái cực mà để hiển lộ thì gọi là tượng, mà đã tuyên bố thì gọi là vị, đất không 4 thế, 1 thái cực thừa vậy, mà mệnh làm 4 thế khí vô 8 phương, 1 thái cực ngự chi, mà mệnh làm 8 phương thế với phương vậy, tượng đó khí đó, mà mệnh làm thế làm phương đó, cái cực mà cục đâu có định, tức thế với phương, cũng có định đâu trong 4 thế các tự có tượng, tức trong 8 phương các tự có khí, nhưng khí của các phương đó đều là khí lưu hành, do phương thành hình, chỉ gọi ngoại khí, nếu buông thả lưu hành mà không ngưng tụ, tức từ 8 phương đến rồi cũng từ 8 phương mà đi, thiên sơn vạn thủy chỉ để tai mắt xem chơi, như truyền xá như quá khách, cũng không đủ để tuấn phát linh cơ, vun thêm nguyên hóa, tất có vì nội khí mà vậy. Cái gọi nội khí không phải có từ trong tức khí lưu hành từ ngoại lai, ngưng tại đó, có đó 1 ngừng, thì khí hành hình của 8 phương, đều bị thu hút họp tụ nơi đó, là 1 ngưng tất cả đều ngừng, do đó mà nói Thái Cực, là chân thái cực vậy, không đâu không ngưng tức dương không nơi chẳng trợ, âm không nơi vô dụng, mà sinh sinh bất dừng đạo tại nơi trong. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh 4 tượng, 4 tượng sinh bát quái, vạn sự vạn vật, đều nụ thai nơi đó, thiên trước nói hình chỉ khí súc vạn vật hóa sinh là gồm nói đó vậy, nhưng chỉ nói ngưng, mà không đề rỏ nghĩa tại sao ngưng, e thẩm khí của thế gian, man nhiên mà rút tay, nên cử khí lớn nhất lưu hành nơi khoảng không, gọi là phong, gọi là thủy, vã phong có khí mà vô hình lẫm nơi dương vậy, thủy có hình mà kiêm có khí, 2 đó đều là vật hành khí, cái khí dương theo gió mà đi, cái khí âm theo nước mà hành, mà dương khí hành trở lại tán dương, bởi trong dương có âm vậy, hành âm khí thì trở lại ngưng dương, bởi trong âm có dương vậy. Đất rộng thế gian ở đâu mà chẳng có gió, ở đâu mà chẳng có nước, gió vốn không thể tán nước, nên hà hơi ra cho tán, bệnh thừa nơi trong, thủy vốn không thể ngưng khí, nên hút vào cho ngưng, xảo tại nơi giới, giá mà rỏ được nghỉa thừa với giới, xét khí mà suy pháp thái cực, thì hiểu vậy, văn trên phản phúc suy tường, đều là nói phiếm cái lý của hình khí, chí như chỉ thật cái dụng của địa lý, như vậy tổng quát đầy đủ rồi. Thuận 5 triệu, lấy 5 tinh chánh biến mà thẩm tượng, dùng bát quái lấy 8 phương suy vượng ma thẩm vị, bài 6 giáp lấy 6 giáp kỷ niên mà thẩm vận, bố 8 môn, lấy 8 phong khai hạp mà thẩm khí, khuông khổ của địa lý đều tận nơi đây, suy 5 vận, lấy 5 kỷ doanh hư mà thẩm tuế, định 6 khí, lấy 6 khí lui thay mà thẩm lệnh, cẩn tuế thời để phò then chốt của điạ lý, tận nơi đó vậy. Như vậy thái cực không mất cái chánh, mà địa đức khả minh, tuy nhiên cái minh của thánh nhân là địa đức vậy, không đồ được đức mà thôi, bởi địa có 5 hành, đắc kỳ thuận tức nhân sinh vậy, 5 đức bị kỳ toàn, mà 5 đức thường như kỳ tính, thánh hiền hào kiệt, tiếp nối mà ra, mà lễ nhạc chính hình, không có chẳng theo pháp, không phải nhân đạo từ đó mà lập sao, dù vậy cũng là biến hóa của âm dương, cái xảo tự nhiên, tuy có kẻ trí, không thể lấy ý riêng mà làm xằng, cũng vẩn biết đó là như vậy, nên thôi đi, vả bốc địa táng người thân, là lo đầy đủ việc tang, mà con cháu thế trạch đều ra trong đó, tức nhân đạo đã hết, mà là nhân đạo đã bắt đầu, vả chăng đạo lý là vậy, thánh nhân khai vật thành vụ, không thứ nào lớn hơn được, nên gọi hóa thành đó vậy. (hết) Nguồn: vietnambuysell.com
-
THANH NANG KINH Quyển Trung (Hóa Cơ) Kinh Viết: Thiên hữu ngũ tinh, Địa hữu ngũ hành, thiên phân tinh tú, địa liệt sơn xuyên, khí hành ư địa, hình lệ ư thiên, nhân hình sát khí dĩ lập nhân kỷ, Tử Vi tây cực, Thái Ất chi ngự, quân lâm tứ chánh, nam diện nhi trị, Thiên Thị đông cung, Thiếu Vi tây vực, Thái Vi nam viên, bàng chiếu tứ cục, tứ thất vi kinh, ngũ đức vi Vĩ, vận cán khôn dự, thùy quang kiền kỷ, thất chánh xu cơ lưu thông chung thủy, địa đức thượng tái, thiên quang hạ lâm, âm dụng dương triều, dương dụng âm ứng, Âm Dương tương kiến phúc lưu thông chung thủy, địa đức thượng tái, thiên quang hạ lâm, âm sở lâm, địa chi sở cảm, hình chỉ khí súc, vạn vật hóa sinh, khí cảm nhi ứng, quỉ phúc cập nhân, thị cố thiên hửu tượng, địa hủu hình, thượng hạ tương tu, nhi thành nhất thể, thử chi vị Hóa Cơ. Tiên nầy nói hình của tượng, là hóa cơ của trời đất, mà chỉ thị khí theo chịu vậy, văn trên đã rỏ hà đồ lạc thư, và lý của tiên thiên hậu thiên bát quái, Thánh nhân làm Dịch chỉ tận nơi đây, thiên địa âm dương chi đạo cũng tận nơi đây, nhưng thánh nhân không tự làm dịch, cái tứ tượng bát quái, đều ngưỡng pháp nơi trời, cho nên thiên nầy chuyên chỉ thiên tượng mà nói. Ôi, dịch của bát quái, lấy tượng ngũ hành nơi đất, thật nhân trời có ngũ diệu, ngũ diệu ngưng đọng ở trên, mà ngũ hành lưu khí nơi dưới, tinh tú của trời, ngũ diệu làm phân quang liệt tượng vậy, núi sông của đất, ngũ hành làm thành thể kết soạn vậy, nên núi sông không liệt tú mà thường đủ hình liệt tú, xem hình trình ra của nó, tức đã biết khí lẫm của nó. Ôi, có hình đó lẫm khí đó, vật hóa tự nhiên, ban sơ chưa cập đến nhân sự, mà thánh nhân ngửa xem cúi xét, nhân kỷ từ đó lập vậy, Mộc là tuế tinh, phương vị tại đông, kỳ lệnh là xuân, kỳ đức là lễ, Hỏa vi Huỳnh hoặc kỳ vị tại nam, kỳ lệnh là hạ, kỳ đức là nhân, Thổ vi trấn tinh, kỳ phương vi trung ương, kỳ lệnh vi quí hạ, kỳ đức vi tín, Kim vi Thái Bạch, kỳ phương vi tây, kỳ lệnh vi thu, kỳ đức vi nghiả, Thủy vi Thần Tinh, kỳ phương vi bắc, kỳ lệnh vi đông, kỳ đức vi trí, hồng ngự thế tể vật, đạo của 1 trời đất vậy, bởi nói thiên thể, tức có thất chính để tư nguyên hóa, nhật nguyệt ngũ tinh đó vậy, có tứ viên để trấn bốn phương, Tử Vi, Thiên Thị, Thái Vi, Thiếu Vi đó vậy. Có 28 tú để phân bố chu thiên, thương long 7 tú giác cang đê phòng tâm vỹ cơ, chu điểu 7 tú tỉnh quỉ liểu tinh trương dực chẩn, bạch hổ 7 tú khuê lâu vị mão tất chủy sâm, huyền vũ 7 tú đẩu ngưu nử hư nguy thất bích đó vậy, 4 viên tức 4 tượng, 7 chính tức âm dương ngũ tú chi căn bản, cái then do nơi bắc đẩu, phân làm 4 phương mà là 28 tú, nên phò hư mão tinh ứng nhật, tâm nguy tất trương ứng nguyệt, giác đẩu khuê tỉnh ứng tuế tinh, vỹ thất chủy dực ứng doanh cảm, cang ngưu lâu quỉ ứng thái bạch, cơ bích sâm chẩn ứng thần tinh, đê nử vị liểu ứng trấn tinh, lâm chế phương ấy các 1, 7 chính vậy. Hổn thiên đủ vòng tuy nói 4 phương, mà đã có bát quái 24 hào tượng rồi, không kinh thì không thể lập cục, không vĩ thì không thể mà thay đổi, 1 kinh 1 vĩ chân âm chân dương giao đạo vậy. Giao đạo duy lạc mà là thể của hậu thiên, vòng chu mà cố ư ngoại, thể của địa, kết thúc mà an nơi trong, đó là lưu hành của nguyên khí, tự nhiên mà thành khí, kỳ thủy vô thủy, kỳ chung vô chung, bao la lục hợp, nhập nơi vô gian, tuy danh âm dương, 1 khí mà thôi, người có thể được 1 khí đó tức kẻ sinh thì có thể được kỳ sinh, mà kẻ tử cũng đặng kỳ tử, cái đạo địa lý gồm 1 mối của nhân kỷ, mối đó đả lập, tức các chính y thứ mà ứng vậy. Nên thánh nhân trọng kỳ sự, dùng tại đất mà tất cầu mối nơi trời, bởi bổn khí đó tự đến vậy, nhưng khí không thấy được mà hình thấy được, cái khí không thấy được tức gởi nơi hình có thể thấy được, hình là khí sở thành, mà tức là đội khí, khí phát ở trời, mà kẻ đội là đất, khí bổn là dương mà kẻ đội là âm, nên có âm tức có dương địa đắc kỳ sở mà thiên khí qui vậy, thiên địa vô thời bất giao hội, âm dương vô thời bất tương kiến, tương kiến mà được chánh xung hòa, tức là cửa phúc đức, tương kiến mà không được chánh xung hòa, tức là trái nhau mà là họa căn, họa phúc khác lối chỉ tranh 1 khoản, thật đáng sợ vậy Vả cũng biết tinh tú đẹp nơi trời, núi sông mà có thể liệt nơi đất vậy, khí của trời, lúc nào chẳng có, mà mặt nhật được dương tinh của trời, mà hằng là nhật,mặt trăng được âm tinh của trời, mà hằng là trăng, ngũ diệu được ngũ tinh khí của trời, mà hằng là vỹ, chí ư 4 viên 28 tú,chúng tinh hoàn liệt lại được tinh của nhật nguyệt ngũ tinh, mà hằng là kinh, đó tức là tại trời mà có hình vậy, lại có cái khí đội trời, khí của đất không lúc nào chẳng có, sơn được khí của nhật nguyệt ngũ tinh mà hằng là sơn, xuyên đắc khí của nhật nguyệt ngũ tinh mà hang vi xuyên đó tức là có hình tại địa để đội khí của địa vậy. Liệt tú được khí của trời mà sinh nơi trời, liệt tú với trời một thể vậy, sơn xuyên đắc khí của địa mà sinh nơi địa, sơn xuyên với địa một thể vậy, vạn vật sinh nơi trời đất cái nào chẳng vậy,Vả vạn vật không thể tự sinh mà mượn khí của trời đất để sinh, nhưng thiên địa không có ý sinh vạn vật, mà vạn vật các tự có đất đất vậy, vừa với khí của trời đất gặp nhau trong nơi bí ẩn hoảng hốt, mà có được thấm nhuần lại có đuợc lo liệu vậy. Vả mà có nụ thai, thì khiến khí thiên địa ngưng mà không đi, tích mà lũy rồi với 1 vật bột nhiên sanh ra vậy, đạo của địa lý, tức khiến ta muốn lấy hình đủ để nạp khí, mà khí không nơi ta, đi tức hình với khí giao mà thành 1, tức khiến nơi đất ta chiếm đủ để nối trời, mà trời không cách ta, tức đất với trời giao mà thành 1, bởi hình khí thiên địa đả hợp thành 1, tức hài cốt đã táng cũng với khí của thiên địa là 1, mà tử phách sinh nhân khí mạch đưa đẩy thì cũng là 1. Phúc ứng mà đến bằng trương cơ thẩm quát, đó là hóa cơ vậy, nếu không chứa thì không cửa, ngưng cũng không cách, tuy liệt tú đầy trời chiếu rạng trung thiên, mà ta không mong chiếu đến, tuy đại địa dương hòa, tràn lưu 8 hướng mà ta không được thấm ướt, trời là khuông khuếch, đất là ruộng lúa, xương thì mau mục, con cháu thì bám sinh, tôi chưa từng thấy phước vậy, không thể bất thận trọng không thể bất thận trong vậy. (còn tiếp quyễn hạ)
-
Tư liệu tham khảo được Cụ TriTri cho phép. ======================== NGUYÊN KHÔNG MẬT CHỈ. Bất tri lai lộ, yên tri nhập lộ, bàn trung bát quái giai không. Vị thức nội đường, yên thức ngoại đường, cục nội ngũ hành tận thác. Thừa khí thoát khí, chuyễn họa phúc ư chỉ chưõng chi gian. Tả Ai Hửu Ai, biện cát hung ư hào man chi tế. Nhất thiên tinh đẩu, Vận dụng chỉ tại trung ương. Thiên biện liên hoa, Căn đế sinh ư Điểm tích. Phu phụ tương phùng ư đạo lộ, khước hiềm trở cách bất thông tình. Nhi tôn tận tại ư môn đình, do kị hung ngoan phi hiếu nghĩa. Quái Hào tạp loạn, dị tính đồng cư. Cát hung tương tính, minh linh vi từ. Sơn Phong Trực Nhi Tuyền Thạch Cao Hoang. Cấn chỉ Tốn phục, trí hửu sơn lâm chi tịch, nhân đinh chỉ sơn thượng ngôn, tài lộc chỉ thủy lý ngôn, 4 x 8 hoặc 3 x 8 đồng cung tổn tiểu khẩu Ngọ Dậu Phùng Nhi Giang Hồ Hoa Tửu. Ly vi mục vi tâm vi hỹ, Đoài vi duyệt vi Thiếp vi thiếu nữ, giai âm nhu quái, cố hửu nhu mỵ chi tượng, như 8 vận Bính sơn chủ bại phong tục đảng hoa tửu, hựu hửu thành phế lao giả, Ngọ Dậu, 9 x 7 dã, giai âm thần Hỏa khắc kim, Ngọ Dậu phùng chi hửu hồi lộc chi tai (cháy nhà). Hư Liên Khuê Bích, Khải Bát Đại Chi Văn Chương. Hư Nhâm Dã, Khuê mộc, Bích thủy tại Kiền Tuất chi gian, kỳ trung thủy mộc tương sinh, tuy cư kim thổ chi vị ,nhi hửu chế hửu hóa, cố hửu bát đại văn chương chi ứng, cái nhất nguyên nhi kiêm lưỡng nguyên, sở vị 1 x 6 cộng tông dã, (Hư nhâm dã khảm 1, Khuê kiền dã Bích hợi dã, tức 1 x 6).
-
Vị Nhập Đẩu Ngưu, Tích Thiên Thương Chi Ngọc Bạch. Vị Đoài dã, Đẩu Ngưu Cấn dã, Cấn vi thiên thị viên, hựu 7 x 8 tương sinh, cố hửu cự phú chi ứng, Vị thổ Tân dã, Canh Dậu chi vị, Đẩu Cấn dã, Ngưu sửu dã, tức 7 x 8. Kê Giao Thử Nhi Khuynh Tả, Tất Phạm Đồ Lưu. Kê khuynh tả tán mạn bôn lưu dã, Đoài vi hình, Khảm vi Hãm, Khảm thủy lưu nhi bất phản, cố hửu sung quân chi tượng (Kê Dậu dã, ThửTý dã, tức 7 x 1). Lôi Xuất Địa Nhi Tương Xung, Định Tao Trất Cốc. Khôn vi Hình vi Tiểu Nhân, Chấn vi Mộc vi chính trực, Chấn mộc khắc khôn thổ, lại có trất cốc (gông cùm) chi tượng, xung chỉ thủy ngôn, thất nguyên sơn thủy tương xung, tất sinh quan phi, Lôi chấn dã, Địa khôn dã, tức số 3 x 2, (đấu ngưu sát). Thủy xung hướng, Sơn xung tọa Ốc giác xung đồng, Trất là cái cùm tay, Cốc là cái cùm chân. Hỏa Khắc kim Kiêm Hóa Mộc, Số Kinh Hồi Lộc Chi Tai. 9 x 7, hoặc 4 x 3 đồng cung, hựu ngộ Lưu Niên Phi Tinh 1 bạch hoặc 3, hoặc 4, phi đáo tắc hỏa tai lập hiện, cái Đinh Nhâm hóa mộc 1 x 9 tương kích dã. Thổ Chế Thủy Phục Sinh Kim, Tự Chủ Điền Trang Chi phú. 1 x 6, 1 x 7, tương sinh ngộ lưu niên Khôn Cấn 2 hoặc 8 phi nhập gia lai tựa hiềm khắc chế 1 bạch, bất tri sinh kim ích thủy phản hửu điền trang chi ứng, Kiền vi kim ngọc, Khôn vi tài, vi đại nghiệp, Khảm vi nạp dã. Mộc Kiến Hỏa Nhi Sinh Thông Minh Kỳ Sỹ. Sơn thượng bài lai thị Chấn Tốn, thủy lý bài lai ngộ Ly, mộc hỏa thông minh cố sinh kỳ sỹ 9 x 3, hoặc 9 x 4 đồng cung, 9 x 4 thông minh, 9 x 3 bạo lệ nhuyễn nhược (mềm yếu). Hỏa Kiến Thổ Nhi Xuất Ngu Độn Ngoan Phu Khôn vi minh hối, vi mê, tuy ngộ Ly minh tương sinh, nhi hỏa diệm táo cố xuất ngoan độn, thường kiến hửu 9 vận lập Bính hướng Đinh Mùi Khôn phương trực cao sơn, xuất xuẩn tử; 9 x 2 đồng cung kị an phu thê sàng, 9 x 7, 2 x 7, đào hoa vị kị hồng sắc, Vô Thất Gia chi tương y, Bôn tẩu ư đông tây đạo lộ. Tiên nhân duyên chi tác hợp, kí thực ư nam bắc nhân gia. Nam Nữ đa tình, Vô môi chước tắc vi tư chước. Âm Dương tương kiến, ngộ oan thù nhi phản vô tình. Phi chính phối nhi nhất giao, hửu mộng lan chi triệu. Đắc can thần chi song chí, đa chiết quế chi anh. can thần (loan đầu), dỉ 4 chính quái ngôn, như Chấn chi giáp ất, song chí ngôn sơn thượng thủy lý cụ cát, tổng dỉ bất xuất quái vi trọng, ký bất xuất quái tức sơn phi 1 sơn thủy phi 1 thủy, dụng hựu hợp nghi, cố đa chiết quế, (thi đậu nhiều) tứ duy quái diệc khả vị can thần. (song chí chỉ song trùng thủy, tọa hậu sơn hựu hửu sơn, tắc sơn thủy giai lợi hà sầu bất phát quý. (can thần giả chỉ dần thân tị hợi cục, kiến ất tân đinh quý thủy đồng nguyên nhất khí dã). Âm Thần mãn địa thành quần, Hồng Phấn trường trung không khoái lạc. Âm Thần 2- 4 - 7- 9- dã, chỉ cung vị, hoặc hướng, hoặc đại môn. Hỏa Diệu liên châu tương trực, Thanh Vân lộ thượng tự tiêu dao. Hỏa Diệu tiêm tú chi sơn phong, tức văn bút dã, liên châu 1 x 6, (tối cường, kỳ tha nhược) 2 x 7, 3 x 8, 4 x 9, 9 x 1, 1 x 4, đẳng thị dã, ngộ Văn Bút chi sa, Ai dĩ cung quí chi tinh cố phát quí. Phi Loại Tương Tòng, Gia Đa Dâm Loạn. Thư Hùng Phối Hợp, Thế Xuất Lương Hiền. Đống Nhập Nam Ly, Sậu Cự Thính Đường Tái Hoán. 3 x 9 nhi phùng lưu niên Tốn chí, hửu thính đường tái hoán, (sửa mới lại sảnh đường) chi tượng. Tốn vi đống, Chấn vi hỷ tiếu, Ly vi quang minh dã, 3 x 9, hoặc 3 x 4 đồng cung phát tài, 4 x 9 đắc lệnh xuất công danh (hoặc thông minh). Xa Khu Bắc Khuyết, Thời Văn Đan Chiếu Tần Lai 1 x 6 nhi phùng niên thượng Khôn (Cấn đồng ) lai, hửu đan chiếu chi ứng, Khôn vi Xa vi Quốc vi thư, Càn vi Quân, Khảm vi 3 tuế (3 năm) thăng quan. Cẩu Vô Sinh Khí Nhập Môn, Lương Gian Nhất Túc Nếu không có sinh khí vào cửa, lương thực khó đủ sớm tối. Hội Hửu Vượng Tinh Đáo huyệt, Phú Tích Thiên Chung Hội hợp có vượng tinh tới huyệt, sẽ giàu thóc chứa nghìn chung Tương Khắc Nhi Hửu Tương Tế Chi Công, Tiên Thiên Chi Kiền Khôn Đại Định. Khắc nhau lại có trợ nhau là định lớn của Tiên Thiên. Tương Sinh Nhi Hửu Tương Lăng Chi Hại, Hậu Thiên Kim Mộc Giao Tính. Sanh nhau lại hiếp nhau, là Hậu Thiên Kim Mộc cùng vứt bỏ . Mộc Thương Thổ Nhi Kim Vị Trùng Trùng, Tuy Họa Hửu Cứu. Kiền cung có 8 x 4, Đoài cung có 2 x 3, vậy. Hỏa Khắc Kim Nhi Thủy Thần Điệp Điệp, Tai Bất Năng Xâm. Thổ Khốn Thủy Nhi Mộc Vượng Vô Phương. Chấn cung 1 x 2. Tốn cung 1 x 8. Kim Phạt Mộc Nhi Hỏa Oanh Hà Kị Ly cung 3 x 6, hoặc 4 x 7. Cấn Giao Chấn Tốn Thất Vận Vô Ngại Văn Kiêm Vũ Phá, Yếu Dụng Bật Tinh Khảm cung 6 x 9, hoặc 7 x 9. Tham Nhược Kiêm Cự, Long Tu Chấn Tốn Chấn cung 1 x 2 , Tốn cung 1 x 2. Phá Vũ Ngộ Bật, Kiêm Tham Phản Cát . Ly cung 4 x 6, 4 x 7. Cát Thần Suy Nhi Kị Thần Vượng, Nải Nhập Thất Nhi Thao Qua Hung Thần Vượng Nhi Cát Thần Suy, Trực Khai Môn Nhi Ấp Đạo Trùng Trùng Khắc Nhập, Huyền Kiến Tiêu Vong Vị Vị Sinh Lai, Liên Thiêm Tài Hỷ Bất khắc Ngã Nhi Ngã Khắc, Đa Xuất Quan Quả Cô Độc Chi Nhân. Bất Sinh Ngã Nhi Ngã Sinh, Nải Tuấn Tú Thông Minh Chi Tử Vi Phụ Sở Khắc, Nam Bất Chiêu Nhi Bị Mẫu Sở Thương, Nữ bất Thành Từ. Hậu Nhân Bất Tiếu, Nhân Sinh Phương Chi Phản Bối Vô Tình Hiền Tự Thừa Tông, Duyên Sinh Vị Chi Đoan Cung Triều Ấp. Ngã Khắc Bĩ, Nhi Phản Tao Kỳ Nhục, Nhân Tài Bạch dĩ Táng Thân. Ngã Sinh Chi, Nhi Phản Bị Kỳ Tai, Vi Nạn Sản Nhi Trí Tử. Phúc Đa Thủy Nhi Bành Trướng, Túc Dĩ Kim Nhi Bàn San. Khôn là bụng, thổ suy không chế thủy, nên bệnh chướng, khảm cung 2x1 Chấn là chân, là mộc, gan, máu, bị càn đoài kim khắc, nên què chân, thổ huyết, 3 x 6, 3 x 7, hoặc đối diện kiến trúc hình kim, hoặc đà đao sát. Kiện nhi động, Thuận nhi động, Động phi giai triệu Chỉ nhi tịnh, Thuận nhi tịnh, tịnh diệc bất nghi . Phú tịnh Đào Chu, đoán thị kiên kim ngộ thổ. Quí tỉ Vương Tạ, tổng duyên kiều mộc phù tang. Tân tỉ Canh, nhi tân yếu tinh thần Giáp phụ ất, nhi giáp diệc linh tú. Quí vi nguyên long, nhâm vi tử khí, xương thịnh các đắc hửu nhân. Bính lâm văn khúc, Đinh cận thương quan, nhân tài nhân chi hao phạp Kiến lộc tồn ôn hoàng tất phát, Ngộ văn khúc đãng tử vô qui. Lộc tồn 3, văn khúc 4, liêm trinh 5, phá quân 7, không phải thời mà hội nơi đầu hướng, thì sẽ ứng như vậy, nên hướng không thể sơ sót được. Trực Liêm Trinh Nhi Đốn Kiến Hỏa Tai Trực vận 5 hoàng, tai trung ương vi thổ, tại ngoại tức liêm trinh hỏa vậy Phùng Phá Quân Nhi Đa Khuy Thân Thể Hỏa khắc kim vậy, mấy điều trên đều do bởi giáp tạp, Tứ Mộ Phi Cát, Dương Thổ Âm Thổ Chi Sở Tài Bốn Mộ Khố không cát, Dương Thổ Âm Thổ quyền hành Tứ Sinh Phi Hung, Quái Nội Quái Ngoại Do Ngả Thủ Bốn Trường sinh không hung, nội quái ngoại quái do ta chọn. Nhược Tri Họa Phúc Duyên Do, Diệu Tại Thiên Tâm Thác Lược. Như biết nguyên do họa phúc, cái khéo là tại Thiên Tâm rèn đúc. (Hết) TRITRI. Dịch xong ngày 24/ 04/ 2010. tại Toronto. Nguồn: vietnambuysell.com
-
Trong phi tinh thường hay nói câu: "Sơn quản đinh, thủy quản tài", do đó theo phi tinh việc treo tranh phong cảnh núi non hùng vĩ thì xét theo sao sơn sinh vượng khí của tinh bàn gia trạch mà treo, hoặc theo thế "thu sơn xuất sát".
-
Đại quái linh chính điên đảo: (1), Huyền không đại quái lý khí nguyên tắc chung là “bất thượng sơn, bất hạ thuỷ”, nếu lệnh tinh ngự tại thuỷ khẩu, sẽ phạm sơn long hạ thuỷ, tổn thương nhân đinh. Tam nguyên địa lý tối kỵ “thượng sơn hạ thuỷ” phản cục. Nếu cần sơn mà lại thấy thuỷ, cần thủy mà lại gặp sơn, sẽ hình thành phản cục gọi là linh chính điên đảo(thượng sơn hạ thuỷ). Như hiện thời là hạ nguyên vận, tức 6,7,8,9 là chính thần, cần sơn mà không cần thuỷ; 1,2,3,4 là linh thần, cần thủy mà không cần sơn. Nếu đảo ngược lại chính là linh chính điên đảo, chủ tổn đinh bại tài. (2), Tứ linh thần thủ dụng trước hết là chính linh thần sau đó đến thôi linh thần, dùng xuất thuỷ, nhị linh thần còn lại là thứ yếu. (3) lý khí ai tinh âm dương nhị trạch rất xem trọng môn hướng, trọng lai khứ nhị thuỷ khẩu, vì lai khứ nhị thủy khẩu chính lá sinh tử chi môn. Thuỷ khẩu đến(lai) và đi(khứ) chia 2 đường rõ ràng phải phân biệt cho kỹ; địa thế có hư thực không mãn 4 cách, cẩn thận mà xem không nên nhầm hư với không, thực với mãn. Thuỷ pháp chia ra“ sinh, vượng, bình, khốn, suy, bại, phục, hưng”. Âm trạch xung phá lệnh tinh phản cục. Đại quái định cục bí mã: Bí mã là một trong các bí mật của Huyền không đại quái, từ các bí mã này các sao thông với nhau mà chuyển dùng, có khi suy tử hóa sinh vượng, sinh vượng lại thành suy tử vậy: (1) định cục bí mã: Thượng nguyên: 1—6789; 2—6789; 3—6789; 4—6789; Hạ nguyên: 6—1234; 7—1234; 8—1234; 9—1234 (2) tối giai bí mã: Thượng nguyên: 1—69; 2—78; 3—87; 4—96; Hạ nguyên: 6—14; 7—23; 8—32; 9—41. Định cục bí mã xuất từ hà đồ, lạc thư chi số tổ hợp. Như 1—6789: 1 là nhất vận, các số sau 6789 là thuỷ khẩu ai tinh. Tối giai bí mã để dụng thôi tài, thôi quan tác dụng: như vận 1 dùng 6 thôi tài, 9 thôi quan; 2 dùng 7 thôi tài, 8 là thôi quan. Đại quái dùng thôi tài và thôi quan như trên cũng như Huyền không phi tinh dùng thôi quan thủy và thôi quan sơn. Đại quái lấy nguyên vận làm chủ thư hùng nên thôi tài là số hợp hà đồ với nguyên vận 1-6, 2-7, 3-8, 4-9; Thôi quan là số hợp thập với nguyên vận(lấy lý sinh thành hợp thập). Huyền không phi tinh thì lấy hướng tinh để định Thôi quan. Do đó Thôi quan thủy của huyền không phi tinh cũng là lấy số hợp hà đồ với hướng tinh(như hướng tinh 2 thì là 7), thôi quan thủy cũng phải lấy số hợp thập với hướng tinh mới thống nhất với Đại quái và lý sinh thành hợp thập(như hướng tinh 2 thì là 10), các cách khác đều không đúng. Tôi ghi dưới bài này để trả lời câu hỏi đã hứa với bạn về vấn đề Thôi quan thủy và thôi quan sơn của phi tinh. Huyền không đại quái chính thần linh thần 8 vận: Huyền không đại quái phân nhị pháp chính thần và linh thần, chính thần thâu sơn, thâu phong, thâu khí; linh thần thâu thuỷ, tác dụng phi thường. Tam nguyên cửu vận, mỗi vận chính thần, linh thần, tuỳ thời mà biến. Chính thần tức đương nguyên vượng tinh, linh thần tức đương nguyên tử khí. Chính thần, linh thần vận dụng chung cho âm dương nhị trạch: Nhất vận, thâu khảm quái bắc phương lai long hoặc sơn phong, thâu ly quái nam phương thuỷ tối vượng. Nhị vận, thâu khôn quái tây nam lai long hoặc sơn phong, thâu cấn quái đông bắc thuỷ tối cát. Tam vận, thâu chấn quái đông phương lai long hoặc sơn phong, thâu đoài quái tây phương thuỷ tối cát. Tứ vận, thâu tốn quái đông nam lai long hoặc sơn phong, thâu kiền quái tây bắc thuỷ tối cát. Lục vận, thâu kiền quái tây bắc lai long hoặc sơn phong, thâu tốn quái đông nam thuỷ tối cát. Thất vận, thâu đoài quái tây phương lai long hoặc sơn phong, thâu chấn quái đông phương thuỷ tối cát. Bát vận, thâu cấn quái đông bắc lai long hoặc sơn phong, thâu khôn quái tây nam thuỷ tối cát. Cửu vận, thâu ly phương nam lai long hoặc sơn phong, thâu khảm quái bắc phương thuỷ tối cát. (Riêng ngũ vận, 10 năm đầu quy tứ lục vận, 10 năm sau quy lục bạch vận. Ngũ hoàng vận, 10 năm đầu tứ lục, 10 năm sau lục bạch là chính thần. Với nhị hắc và bát bạch là linh thần).
-
Anh Rubi không nên nói như vậy với anh TĐN như vậy, khá nặng lời.
-
Chào MẹCoCa. Thật tiếc cho MẹCoCa, phải chi nhập trạch trong tháng 3al thì khá tốt, qua tháng 4 thì hơi bất lợi, thôi thì nên chọn ngày 11/4al lúc 5h30 chiều.
-
Chào Cư Kuin. Độ số bạn đưa gần với tuyến tiểu không vong vì thế đây cũng là cái bất lợi trong việc chỉnh sửa, đất thì rộng nhưng không biết vị trí nhà nằm thế nào so với đất, cho nên việc góp ý chỉnh sửa khi không đến được thực địa cung có một số hạn chế. Nhà bạn có triệu chứng từ năm 2010 cho đến nay, năm 2012 là một năm khó khăn đáng nhớ về mặt tài chính lẫn sức khỏe(xét theo tinh bàn vận trạch chứ không phải nói dựa theo tình hình chung), năm nay tuy có đỡ đôi chút nhưng vẫn còn lo lắng nhiều vì phòng bếp bị tam sát, những người ngũ phòng số 3 là hay có vấn đề về sức khỏe, năm nay nhớ cẩn thận hơn, còn phòng số 1 thì ngũ không tốt lắm, phòng số 2 khá tốt. Tại phòng khách đặt một hồ cá tại vị trí gần cánh cửa đi 1m8 và cánh cửa này cũng không cần mở, bạn chỉ cần đi bên cánh 1m675, còn phòng bếp thì chống thoái khí cho cửa ra phía sau.
-
Chào Checking. Bài viết trên thể hiện sự hiểu biết chưa sâu xác, hoặc người viết có sự lưỡng lự không nhất quyết lập trường trong nhận định, đó là: 1.Thể hiện sự công nhận Lạc thư hoa giáp là đúng, nhưng lại nghi ngờ Tốn - Khôn, có nghĩa là chấp nhận mạng nạp âm Lạc thư hoa giáp nhưng lại bác bỏ (ngờ vực) mệnh phi cung của PTLV. 2.Trong ví dụ trên, lấy mệnh nạp âm Lạc thư hoa giáp để so sánh mệnh phi cung truyền thống và mệnh phi cung theo PTLV, đây là sự so sanh dễ gây ngộ nhận cho những người mới tìm hiểu phong thủy, đáng lý ra nên lấy mệnh nạp âm Lục thập hoa giáp cùng với phi cung theo PT cổ truyền để so sánh với mệnh nạp âm theo Lạc thư hoa giáp với phi mệnh cung của PTLV, đưa ra như thế thì người đọc mới thấy sự khác biệt như thế nào chứ, ví như theo PTLV thì mệnh nạp âm là sơn hạ hỏa và phi mệnh cung là Ly (hỏa mang độ số 7) thì thuộc đông tứ cung hợp với đông tứ trạch. Còn theo mệnh nạp âm Lục thập hoa giáp là đại khê thủy và phi mệnh cung là Đoài (kim mang độ số 7) theo PT truyền thống tây tứ cung hợp với tây tứ trạch, như vậy mới cảm nhận được rõ ràng sự khác biệt, chứ công nhận một phần của cái này(lạc THG) mà nghi ngờ cái kia(phi cung PTLV), cũng như công nhận phi cung theo PT truyền thống mà không công nhận Lục THG của PT truyền thống (trong bài trên người viết không nhắc đến Lục THG - như vậy có nghĩa là người viết không công nhận nó có tính đúng đắn).
-
Tuổi bố bị la hầu, kim lâu thê và thái tuế chiếu, còn tuổi của em nữa xấu nữa tốt, năm 2015 tuy được tuổi nhưng hướng nhà bị phi tinh xấu, thế thì cũng 50/50 mà thôi, nên có độ số chính xác chứ không chung chung như vậy(nam - đông nam), nên chọn hai tuổi 1987 và 1969 là tốt hơn các tuổi kia.
-
Khoảng cách từ tường đến bếp là 2m2, nghĩa là khoảng cách đến mép bàn bếp chứ không phải tâm bếp, cũng có thể lấy 2m18, chưa qua cung càn nên không phải lo, còn cửa sau có thể 1m3 cũng được, nhưng lọt lòng 60 hoặc 65 cm, như vậy bếp gần như xác kề với mép cửa sau, cách chống thoái khí cho cửa sau này thì Cuong273 biết rồi phải không?.
-
Chào Trần Hải.Bạn cho lại bảng vẽ nha.
-
Chào Thehung1982.-Năm nay bạn làm được, còn anh của bạn thì không nên, nhưng vấn đề là bạn xây nhà cùng ở với bố mẹ nên tuổi của bố là quan trong nhất, bố 73 là tuổi tây hay tuổi ta, với lại năm nay ngũ hoàng nhập trung cung nên xây nhà cũng cần cẩn trọng, bạn hay cho biết thêm hướng nhà.
-
Chào Cư Kuin.Bạn cho thêm đất ngang dài bao nhiêu, nhà ngang dài bao nhiêu, các phòng ngang dài bao nhiêu, còn bếp bạn đo đến đến đế nấu, độ số bạn đo bằng la bàn hay bằng điện thoại, đo trong nhà hay ngoài nhà, vì cần sự chính xác cao nên cần hỏi chi tiết như vậy. Thân.
-
Không biết nhà Cương273 có cổng không vậy?. Cửa chính ra vào thì nên thiết kế làm sao mà người nhà thường xuyên đi bên trái, phần lưu thông cách tường bên trái 1m4 từ trong nhìn ra, còn bếp đặt vị trí đó thì được rồi, nhưng cách tường bên trái 2m20, cửa ra phía sau cách tường bên phải 1m35.
-
Chào Anhntl.-Chồng 1976 có các hướng tốt theo PTLV như sau: hướng tây sinh khí, tây bắc phục vị, đông nam phúc đức, đông bắc thiên y. Chọn hướng đông nam và đông bắc thì tốt hơn cho hai vợ chồng. -Đối với căn hộ chung cư, theo PTLV thì xét hướng cửa chính ra vào của căn hộ là chính sau đó thì xét đến hướng cửa chính ra vào của chung cư. Còn xét theo hướng cửa sổ phòng ngũ là theo quan niện của phái phi tinh, không phải của PTLV. -Hướng cửa sổ phòng ngủ dĩ nhiên là có ảnh hưởng đến sức khỏe của người trong đó rồi. -Chọn căn hộ thì phải có bảng vẽ mới nói được. -Đó là đúng trên phương diện tương quan với người, nhưng nó còn các phương diện khác nữa.
-
Chào Cư kuin. Bạn cho thêm kích thước cụ thể, như cửa, cổng, khoảng cách bếp cách tường bên là bao nhiêu, nếu có hình chụp trong và ngoài nhà thì càng tốt.
-
Chào cương273.Có phải hướng là 160,3 độ không?, nếu không phải, hướng là bao nhiêu độ?, bạn cho độ số chính xác dùm.
-
Chào nguoicanthan. Theo sách thì đúng là tuyệt mạng, nhưng theo PTLV thì lại là hướng sinh khí, để biết tốt xấu do đâu thì nguoicanthan hãy cung cấp thêm độ số là bao nhiêu, cùng sơ đồ bảng vẽ nữa thì mới có dự liệu để xem xét, nhưng sơ bộ theo phi tinh thì bị tương khắc nên gặp nhiều việc không tốt cho lắm.
-
Chào flygon. Bạn có suy đón rất hay, mình nhờ flygon tìm dùm mình người xưa gọi đá thuộc hành gì?.
-
Chúc mừng sinh nhật anh Hạt gạo Làng hạnh phúc vui vẽ và thành đạt.