nhị địa sinh
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
546 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
4
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by nhị địa sinh
-
(tiếp theo) Lý pháp : Học thuyết Phong thủy. Còn gọi là Lý khí, tức hệ thống lý luận Phong thủy do phái Phúc Kiến nêu ra. Nó lấy La bàn làm công cụ chính, chú trọng các nguyên lý thuật số như : âm dương, bát quái, can chi, ngũ hành, cửu tinh, Hà Lạc để tổng hợp và phán đoán cát hung, nhân mạnh phương vị tọa hướng. Ví dụ thuyết Bát trạch trong lý luận dương trạch, phép Đại du niên biến hào, phép Tử nguyên phi bạch, phép Tam hợp trạch, Song sơn ngũ hành, phân lớn đều lấy số mệnh của người phối hợp với bát quái, cửu tinh, can chi, ngũ hành mà có được. Trong âm trạch, Tam ban đại quái, Nhị thập tứ sơn, Ngũ hành thủy pháp cũng dùng các loại nguyên lý thuật số căn cứ vào phương vị sông núi mà tính toán. Dù là âm trạch hay dương trạch, hầu như không hề đề cập đến yếu tố địa hình. Phương thức và quá trình suy lý rất trừu tượng, phức tạp, rắc rối. huyền bí, đầu tính tư biện. Trước tác về lý luận gồm Bát trạch minh kinh, Thanh nang hải giác kinh. Hệ thống lý luận chặt chẽ, kết quả suy lý gắn liền với mức độ tích lũy kinh nghiệm lâu dài. nhiều ít. Lý pháp thịnh hành thời Minh Thanh, nhưng vì tính trừu tượng, huyền bí nên nó không được tầng lớp dưới trong xã hội tiếp nhận. Ốc trạch pháp : Tức phái Phúc Kiến. Vì lý luận về dương trạch hết sức chú trọng nguyên lý thuật số, biện luận phức tạp, độc đáo, rút ra từ Hoàng đế trạch kinh nên có tên như vậy. Đồ trạch thuật : Một lý luận Phong thủy thịnh hành giữa thời Hán Đường, phép này lấy họ tên của người phối hợp với ngũ âm, đem nhà ở, mộ phần cũng phối hợp với ngũ âm, rồi phối hợp với nguyên lý ngũ hành sinh khắc, để xác định cát hung về nhà ở và mộ phần của những người có họ khác nhau. Chương "Khiết thuật thiên" trong Luận hoành của Vương Sung đời Đông Hán, chuyên luận về Đỗ trạch thuật. Xem mục Ngũ tính. Hình gia Tức Phong thủy tiên sinh (thày địa lý). Thời Hán có Hình pháp gia, là người xác định cung độ của nhà cửa mà định cát hung. Về sau những người hoạt động Phong thủy đều tự xưng hoặc được gọi là Hình gia. Kham du gia : Lúc đầu là Chiêm gia, về sau là Phong thủy tiên sinh. Đời Hán có các nhà Kham dư. Sử ký. Nhật giả liệt truyện : "Thời Hiếu Võ đế, ông mời các thày bói đến hỏi : vào ngày nọ có thể cưới vợ được không? nhà ngũ hành bảo được, các nhà Kham dư nói không được". Các nhà Kham dư đoán cát hung dựa vào 12 thần, tương ứng với khu vực, bao gồm hoạt động xây dựng hữu quan, có quan hệ nhất định với Phong thủy. Nên đời sau dùng Kham dư để gọi thay cho Phong thủy, còn nhà Kham Dư tức là Phong thủy tiên sinh. Hằng ngôn lục của Tiền Đại Hân đời Thanh viết: "Nhà Kham dư đời xưa, tức là người xem nhà cửa, mộ phần đời nay". Xem mục Kham dư. Âm dương gia : Một trong "Cửu lưu" (9 trường phái) thời Xuân Thu, thời Hán cũng có âm dương gia, bao gồm nội dung : can chi âm dương, ngũ hành sinh khắc, ngũ đức chung thủy. Trước tác có Kham dư kim quí, cũng chứa đựng nội dung Phong thủy, nên đời sau gọi Phong thủy tiên sinh là âm dương gia hoặc âm dương tiên sinh. Âm dương tiên sinh : Tên thông tục thời xưa gọi những người chuyên hoạt động Phong thủy , vốn xuất phát từ tên gọi âm dương gia thời Tiên Tần. Hai chữ tiên sinh biểu thị sự tôn kính. Mông nhân : Chức quan thời Chu, chuyên trách quản lý phần mộ chung, phân biệt địa hình, vẽ đồ hình trình lên thượng cấp. Mộ đại phu : Chức quan thời nhà Chu , chuyên trách quản lý phần mộ trong nước, vẽ địa hình bốn phương và phần mộ trình thượng cấp . Lư trạch đãi chiếu : Chức quan đời Hán. Trung Quốc cổ đại phần nhiều dùng hệ thống quan lại "Thái sử lệnh" quản lý bốc phệ chiêm tinh, tướng trạch, tướng mộ; thời Hán thiết chế "Đãi chiếu" 37 người dưới chức Thái sử, trong đó có 4 người là Lư trạch đãi chiếu, chuyên trách về tướng trạch. Tư thiên đài học sĩ : Chức quan thời Kim. Các triều Trung Quốc thời xưa dùng hệ thống cơ cấu quan lại Tư thiên đài để quan sát tượng trời, định lịch pháp. Thời Kim quy định chức Học sĩ trong phạm vi toàn quốc phải trải 1 hi tuyển mới được bổ vào chức đó. Khoa mục thi tuyển thiên văn, lịch pháp, chiêm bốc, thuật Phong thủy (Địa lý tân thư) và thuật hợp hôn an táng. Một khi đã trúng tuyển trở thành Thiên đài học sĩ, phải đồng thời tham gia sự hoạt động Phong thủy. Âm dương nhân : chức quan đời Nguyên. Đời Nguyên quy định Tư thiên giám tuyển chọn âm dương nhân qua thi cử. Khoa mục thi tuyển gồm : chiêm toán, tam mệnh, Chu dịch, Lục nhâm, Phong thủy dương trạch (thi theo "Chu thư bí áo", "Bát trạch thông chân luận"), Phong thủy âm trạch (thi theo "Địa lý tân thư", "Doanh nguyên tổng luận", "Địa lý minh chân luận"). Trúng tuyển sẽ trở thành âm dương nhân thuộc Tư thiên giám, tham gia tòng sự hoạt động phong thủy. Về sau , đời Minh cũng có thiết chế âm dương nhân thuộc Khâm thiên giám, tòng sự hoạt động Phong thủy. âm dương sinh Thời Nguyên, Tư thiên giám thiết lập khoa âm dương học, học sinh theo học khoa ấy gọi là âm dương sinh, chuyên về thuật số, lấy Chu dịch làm đầu, thứ đến thiên văn, tinh mệnh, chiêm bốc, tướng trạch, tướng mộ. Tư thiên giám lo bồi dưỡng nhân tài, học sinh do các địa phương trong cả nước tiến cử, qua thi tuyển, nếu đỗ sẽ được nhập học. Đời Minh, Khâm thiên giám cũng có thiết lập khoa Địa lý, dạy phương pháp lý luận Phong thủy; có chức quan nào khuyết, sẽ được bổ nhiệm. Phong thủy tiên sinh : Tên thông tục thời xưa gọi những người chuyên hoạt động Phong thủy. Từ đời Đường bắt đầu có tên gọi.này, nó trở nên phổ biến khắp nơi trong nước cũng có khi gọi là Phong thủy sư. Phong thủy sư : Tên gọi nhung người chuyên hoạt động Phong thủy. Xem mục Phong thủy tiên sinh. Địa lý gia : Tức Phong thủy tiên sinh, vì Phong thủy còn gọi là địa lý, cho nên người chuyên hoạt động Phong thủy còn gọi là địa lý gia. Vân lộc mạn chung, quyển 4, của Triệu Nhan Vệ đời Tống, viết : "Nhà địa lý không rõ có từ thời nào . Từ khi Hoàng đế ra lệnh thay đổi Giáp tí, phối hợp can chi mà phân ngũ hành, nay nhà địa lý tất có thuyết đại ngũ hành, chẳng hạn Nhâm thuộc thủy, nhà địa lý báo bảo Nhâm thuộc Hỏa". Dung am bút ký. Dật văn của Tích Phúc Thành đời Thanh: "Người đời rất tin vào lời nói của nhà địa lý, họ bảo mai táng người thân ở chỗ đất lành, thì con cháu sẽ được giàu sang phú quí, trái lại sẽ nghèo hèn suy tuyệt" Địa lý tiên sinh : Người lấy thuật Phong thủy làm chức nghiệp, tức Phong thủy tiên sinh. Vì Phong thủy còn gọi là địa lý, nên có tên gọi đó. Sơ khắc phách án kinh kỳ, quyển 16: "Lại cách 2 tháng nữa, mời một địa lý tiên sinh đến chọn đất hoàn tất việc mai táng Vương thị, từ đó dần dần có người tới cầu thân". Địa lý sư : Tức địa lý tiên sinh. Sơ đàm tập . Sư hữu. Học đạo của Lý Chí đời Minh : "ở đây Cưu Thắng là địa lý sư (thầy địa lý). Kiên Hồ tứ tập. phong thủy của Chử Nhân Hoạch đời Thanh : "Thân phụ của Hồ Sơn Khiêm nói với thầy địa lý rằng, người đời biết tường tận về huyệt mộ trong núi, há biết đến huyệt mộ trong lòng người". Táng sư : Người tòng sự hoạt động Phong thủy âm trạch . Phong thủy chia ra âm trạch và dương trạch. Âm trạch chuyên nói về việc chọn đất mai táng, nên người ta gọi người chuyên về hoạt động này là táng sư. Địa sư : Người tòng sự hoạt động Phong thủy. Phong thủy có tướng địa, bốc địa, lại còn gọi là địa lý, địa học, nên người ta gọi người chuyên tòng sự hoạt động Phong thủy là địa sư. Bốc công : Người tòng sự chiêm bốc. Luận hoành. Cát nghiệm của Vương Sung đời Hán: "Ban đêm không trăng mà trong phòng tự bừng sáng, vua lấy làm lạ, bèn triệu Công tào sứ Sung Lan đến để đi hỏi bốc công". Còn chỉ người tòng sự hoạt động Phong thủy, tức Phong thủy tiên sinh. Hậu Hán thu. Đống Tuyên truyện : "Công Tôn Đan làm nhà ở, mà bốc công cho rằng nhà này sẽ có người chết". Thái Bình quảng ký, quyển 137, dẫn sách U minh lục của Lưu Nghĩa Khánh thời Nam triều : "Phụ thân của Viên An chết, bà mẹ sai An mang gà rượu đến biếu bốc công, nhờ chọn đất chôn cất". Đạo sĩ : Chỉ Phong thủy tiên sinh. Vốn chỉ người theo đạo phương sĩ, tăng lữ, tín đồ Đạo giáo, trong đó phổ biến chỉ tín đồ Đạo giáo. Vì các phép vu thuật, phù chú của Đạo giáo cũng giống như các phương pháp tương tự trong thuật Phong thủy, nên vào một số thời kỳ, ở một số nơi các đạo sĩ cũng tham gia hoạt động Phong thủy, đồng thời các Phong thủy tiên sinh chân chính cũng được người ta gọi là đạo sĩ. La bàn : Còn gọi là La kinh. Công cụ quan trọng nhất trong thuật Phong thủy. Do Tư nam bàn, Lục nhâm bàn diễn hóa mà thành , xuất hiện như một công cụ định hình chuyên dùng trong thuật Phong thủy vào khoảng cuối đời Đường Năm 1985 đào được một chiếc la bàn bằng gỗ trong tay bức tượng "Trương Tiên. Nhân" thời Nam Tống bằng đất nung. Đến đời Minh, Thanh, la bàn được chế tạo khá lớn, chứa dựng nội dung cũng ngày thêm phức tạp; chiếc la bàn lớn nhất đạt tới hơn 40 lớp, bao gồm vạn tượng kinh vĩ trời đất, tập hợp cái lý của hai khí âm dương, cái chỉ của bát quái ngũ hành, cái số của Hà đồ Lạc thư, cái tượng của thiên văn tinh tú, trình tự của tiết khí bốn mùa, dùng để xác định phương vị, quan sát thiên văn, tính toán ngày lành, dự đoán họa phúc, trở thành công cụ không thể thiếu trong hoạt động Phong thủy, biểu hiện nhận thức và hiệu chỉnh góc lệch địa bàn, đồng thời gợi mở vô số khái niệm mang tính suy lý tổng hợp và liên tưởng triết học. Nhất là khi ứng dụng cho học thuyết Lý pháp thì nó càng thêm huyền bí khó hiểu. La kinh: Tức La bàn. Thuật Phong thủy dùng nó để thâu tóm vạn tượng, kể cả kinh vĩ trời đất, huyền diệu khó đoán. Xem mục La bàn. La bàn bát kỳ : Chỉ 8 trạng thái của chiếc kim trên la bàn trong những tình huống khác nhau, đó là : đường, đoái khi, thám, trầm, nghịch, trắc, chính. Đường, chỉ chiếc kim la bàn run rẩy bất định, không trở lại trung tuyến, chứng tỏ dưới đất có đồ cổ. Đoái, nghĩa là đột khởi, chỉ chiếc kim cứ nằm ngang la bàn, không trở về trung tuyến, chứng tỏ dưới lòng đất có khoáng sản hoặc vật bằng sắt. Khi nghĩa là dối trá, chỉ việc dùng sắt nhiễm tử dẫn kim, khiến nó di chuyển không ổn định. Thám, nghĩa là chúi xuống, chỉ chiếc kim nửa nổi nửa chìm, hoặc một đầu nổi, đầu kia chìm. Trầm, nghĩa là chìm, chứng tỏ dưới đất có đồ đồng. Nghịch, nghĩa là không thuận, chỉ kim nổi mà không có trật tự. Trắc, nghĩa là không thẳng, chỉ kim cứ dao động sang hai bên, không trở về trung tuyến. Chính, nghĩa là không tà, chỉ kim ổn định, luôn chỉ hướng Tí Ngọ. Trong bát kỳ, chỉ có Chính là cát; còn 7 trạng thái kia chứng tỏ đất chỗ ấy không lành, không nén làm nhà, xây mộ. Thiên trì : Trung tâm la bàn, tức lớp thứ nhất. Nói chung, đường kính là 1 thốn 2 phân, tượng trưng 12 tháng trong 1 năm; sâu 3 phân, ví với 1 tháng có 30 ngày. Thiên trì trên la bàn dùng để bố trí kim la bàn chỉ hai hướng nam bắc, cũng có loại vẽ đồ hình Thái cực mà không bố trí kim la bàn. Phân kim : Phương vị. Tức lấy 60 Giáp Tí phối thuộc ngũ hành, như Giáp Tí, ất Sửu là kim, bính dần, đinh mão là hỏa, mậu thìn, kỷ ty là mộc, canh ngọ, tân mùi là thổ, bính tý, đinh sửu là thủy. Vì ngũ hành lấy kim làm đầu, nên gọi là phân kim. Còn gọi là 60 long, trên la bàn biểu thị phương vị, đồng thời có thể dựa vào đó mà phán đoán sinh khắc cát hung. Chính châm : Trên la bàn lấy phương vị nam bắc mà kim nam châm chỉ hướng làm Chính châm, thực tế là cực nam châm Tí Ngọ. Thuật Phong thủy dùng các lớp sở thuộc Chính châm để xác định tọa hướng của nhà cửa, phần mộ. Có thuyết nói Chính châm dùng để định ô vuông của Lai long. Địa bàn: Các lớp sở thuộc Chính châm trên la bàn gọi là Địa bàn, thống nhất ở dưới Chính châm, dùng để xác định tọa hướng. Có thuyết nói vừa để định ô vuông của Lai vừa để định hướng. Xem mục Chính châm. Trung châm : Trên la bàn lấy 24 sơn sở thuộc Chính châm, ngược chiều kim đồng hồ (hướng sang bên phải) thác khai bán cách (nửa ô vuông) làm Trung châm, thực tế là cực nam châm Tí Ngọ. Nó có tác dụng hiệu chỉnh góc lệch địa bàn , có tính chất khoa học, song thuật Phong thủy giải thích là do tác dụng cảm ứng của khí ngũ hành hoặc hai khí âm dương. Trung châm trên la bàn dùng để định ô vuông Lai long. Vì Lai long là từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, nên trước tiên phải xác định tọa hướng của chúng. Có thuyết nói Trung châm dùng để nạp thủy. Thiên bàn : Các lớp sở thuộc Trung châm trên la bàn gọi là Thiên bàn, thống nhất ở dưới Trung châm. Tác dụng của Thiên bàn là định ô vuông Lai long. Vì long thuộc dương, thiên (trời) cũng thuộc dương, nên gọi là Thiên bàn. Lại vì trời thuộc dương, mà đất thuộc âm, dương động trước mà âm động sau, nên Thiên bàn vận hành trước nửa bước so với Địa bàn. Có thuyết nói Thiên bàn dùng để nạp thủy. Xem mục Trung châm. Phùng châm: Trên la bàn lấy 24 sơn sở thuộc Chính châm, thuận chiều kim đồng hổ (hướng sang bên phải) thác khai bán cách (nửa ô vuông) làm Phùng châm, thực tế là cột bóng Tí Ngọ, tức là dùng cột bóng để đo bóng nắng mà biết được phương vị nam bắc. Thuật Phong thủy dùng các lớp sở thuộc Phùng châm để thu nạp sa, thủy. Vì sa thủy là tử gần ra xa, tử trong ra ngoài, nên cần vận hành nửa bước mà thu nạp. Có thuyết nói Phùng châm chuyên để tiêu sa. Nhân bàn : Các lớp sở thuộc Phùng châm trên la bàn gọi là Nhân bàn, thống nhất ở dưới phùng châm, dùng để tiêu sa nạp thủy. Vì sa thủy là từ gần ra xa, từ trong ngoài, nên Nhân bàn vận hành sau nứa bước so với Địa bàn. Có thuyết nói Nhân bàn dùng để tiêu sa. Xem mục Phùng châm. Môn xích : Một trong những công cụ chuyên dùng trong thuật Phong thủy. Làm bằng gỗ, trên cán chia thành từng nấc đều nhau, với các ký tự phân biệt cát hung, để đo đạc kích thước cổng, cửa và đồ dùng trong nhà. Nếu khớp vào ký tự cát tường thì là cát (tốt lành), khớp vào ký tự hung thì là hung. Môn xích gồm các loại như Lỗ Ban xích (thước lỗ ban), môn quang xích. Lỗ Ban xích: Một loại môn xích (thước đo). Làm bằng gỗ. Mặt trước và mặt sau cùng chia thành 8 phần đều nhau, mỗi phần lại chia thành 5 phần nhỏ hơn, với những chữ khắc ở từng phần lớn nhỏ. Dùng để đo kích thước cổng, cửa đi, cửa sổ, phòng khách, bếp, các vật dụng trong nhà . Lấy chiều ngang, chiều dọc, hoặc 3 chiều dài, rộng, cao, nếu rơi vào chữ cát tường là cát, rơi vào chữ hung là hung. Còn tính chi li hơn, như cổng, cửa chính phòng khách nếu rơi vào các chữ "quyền lộc", "cát khánh" , "quan lộc" " thiên lộc" là đại cát; cửa đi và cửa sổ từng phòng trong nhà rơi vào các chữ " tử tôn" , "hoạnh tài" , "tuấn nhã" , " yên ổn" là đại cát; cửa bếp, bệ bếp nếu rơi vào các chu " thanh quí" , "mỹ vị" là đại cát; cửa đi, cửa sổ thư phòng nếu rơi vào các chữ "trí tuệ", "thông minh" là đại cát. Do độ dài của thước thời xưa và thời nay khác nhau, cho nên khó xác định độ dài tổng cộng của thước Lỗ Ban là bao nhiêu. Theo Hà Hiểu Hân trong sách Phong thủy thám nguyên, thì con số ấy là 29,7 cm. Môn Quang xích: Một loại môn xích (thước đo). Làm bằng gỗ. Trên mặt chia thành 8 phần đều nhau, mỗi phần lại chia thành 4 phần nhỏ hơn, với những chữ khắc ở từng phần lớn nhỏ. (Xem hình vẽ ở trang 347 nguyên tác). Dùng để đo kích thước nhà cửa. Lấy chiều ngang, chiều dọc, nếu rơi vào chứ cát tường (tài, nghĩa, quan, bản) là cát, rơi vào chữ hung là hung. Theo Hà Hiểu Hân trong sách Phong thủy thám nguyên, thì độ dài tổng cộng của thước Môn quang là 42, 76 cm. (còn tiếp) _________ nhị địa sinh
-
Thiên khí: 1) Khái niệm Phong thủy. Hai khí âm dương tràn ngập trong trời đất; ẩn tàng mà vận hành dưới lòng đất thì gọi là "sinh khí", phát tán trôi nổi trong không trung thì gọi là "thiên khí". Hoặc nói là khí chia ra âm dương, khí dương gặp gió thì vận hành, sưởi ấm thân thể, người, tức khí trời, thực ra là sinh khí trong không trung. Phong thủy dương trạch coi việc tiếp nhận thiên khí là điều cốt yếu. 2) Phương vị. Trong 24 sơn, sinh khí ở phương vị 8 thiên can Giáp, Canh, Bính, Nhâm, ất, Tân, Đinh, Quý, là thiên khí. Địa khí: Khái niệm Phong thủy. Sinh khí vận hành trong đất, phát ra mà sinh thành vạn vật, nên gọi là địa khí. Đối xứng với nó ắt là thiên khí. Xem mục Sinh khí, Thiên khí. Cát khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí thịnh vượng. Thuộc dương. Thi thể người chết sau khi mai táng nếu được cát khí nuôi dưỡng, thì vong hồn sẽ bay lên phù hộ cho con cháu hưởng phú quí. Sinh khí cũng được gọi là cát khí. Sát khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ gió độc thổi đến từ khe núi, hẻm núi hoặc chỗ lõm trong núi. Cổng nhà ở nếu bị sát khí thổi vào thì hung, cản thay đổi hướng cổng, cửa. Thực khí: Khái niệm Phong thủy. Thuật Phong thủy coi sơn (núi) là Thực khí, đất càng cao thì khí càng dày, đất càng thấp thì khí càng mỏng, cho nên núi càng phải lớn mới là cát. Nhưng Thực khí không thể tự nó khai phá, muốn làm cho Minh đường rộng rãi, thoáng khí, còn phải dựa vào tác dụng của thủy lưu. Xem mục Hư khí. Hư khí: Khái niệm Phong thủy. Thuật Phong thủy coi thủy (nước) là Hư khí. Nước càng sâu khí càng mạnh, nước càng nông khí càng yếu, cho nên nước phải sâu và chảy xa mới là cát. Nhưng Hư khí không thể tự nó trở thành nông sâu, núi cao thì nước mới cô thể dài xa, nên Hư khí còn cần phối hợp với Thực khí. Xem mục Thực khí. Hung khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ thứ khí không tốt trong lòng đất. Thuộc âm. Nếu thi thể người chết sau khi mai táng bị hung khí tấn công, thì vong hồn sẽ bị hung khí dìm xuống, ảnh hưởng xấu đến con cháu, khiến con cháu trở nên nghèo hèn, hiếm muộn, tai họa. Lậu khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí bị tiết thoát. Trong thuật Phong thủy, Long đến hình dừng, nhưng thủy lưu không ôm lấy, tạo thành chỗ khuyết, sinh khí từ chỗ khuyết ấy tiết thoát ra, gọi là Lậu khí. Không lành. Phong thủy dương trạch cho rằng, nếu cửa sau đối diện với cửa trước, thì sinh khí vào nhà sẽ theo cửa sau mà tiết thoát đi, là Lậu khí. Nếu hai bên phòng ở không có hành lang mà thông thẳng ra ngõ hẻm, là nhà bị Lậu khí không lành. Cốt trùng: Là loại sinh vật hư cấu (không có thật). Thuật phong thủy cho rằng loài người tiếp nhận sinh khí mà hình thành, sinh khí ngưng kết thành xương cốt. Người ta chết đi, máu thịt sẽ rữa nát, duy xương cốt vẫn còn. Sau khi mai táng, sinh khí thấm vào xương cốt, có ảnh hưởng tốt con cháu người đã khuất. Thời Trung Hoa Dân quốc, Viên Cao phát triển thuyết này, cho rằng xương cốt loài người giống như san hô, do các cốt trùng nhỏ xíu ngưng làm thành. Người ta chết đi, cốt trùng vẫn còn, cảm với sinh khí mà ảnh hưởng tới con cháu (xem Thuật bốc phệ tinh tướng học, quyển 3). Thực chất đây là dùng học cận đại phụ họa thuật Phong thủy, hoàn toàn vô căn cứ. Địa lý ngũ quyết: Năm nội dung lớn, có tính chất khái quát lý luận Hình pháp trong thuật Phong thủy, là Long (tầm long), Huyệt (định huyệt), Sa (sát sa), Thủy (quan thủy), Hướng (lập hướng). Sự tổng kết khái quát 5 yếu tố lớn đó có ảnh hưởng khá mạnh tới lý luận Hình pháp. Tam cương ngũ thường: Tổng kết lý luận mà thuật phong thủy đưa ra cho phù hợp với quan niệm đạo đức của xã hội phong kiến. Tam cương là : " Một, Khí mạch, là cương phú bần tiện; hai, Minh đường, là cương sa, thủy đẹp xấu; ba, Thủy khẩu, là cương sinh vượng tử tuyệt" . Ngũ thường là : "Một, Long, long phải chân (thật); hai, Huyệt, huyệt phải đích (đúng); ba, Sa, sa phái tú (đẹp); bốn, Thủy, thủy phải bao (ôm); năm, Hướng, hướng phải cát (lành). Ngũ tính : Đem họ (họ tên) của người phối với ngũ âm, ngũ hành, rồi căn cứ vào đó mà dự đoán cát hung của nhà ở, phần mộ. Thuyết này rất thịnh hành vào giữa thời Hán và Đường, mai một dần từ thời Tống, Nguyên. Cách thức cụ thể như sau : trước tiên, phối họ với ngũ âm. Ngũ âm gồm: cung, thương, giốc, chủy, vũ. Phát âm họ của một người , nếu âm ở trong cổ họng là cung, ở chân răng 1à thương, ở kẽ răng là giốc, ở lưỡi là chuỳ, ở môi là vũ. Ngũ hành gồm: thổ, kim, mộc, hỏa, thủy. Ví dụ các họ Trương, Vương, là thương; họ Vũ, Dữu là vũ; họ Liễu là cung; họ Triệu là giốc. Người không am hiểu âm vận, có thể tra cứu trước tác Phong thủy có liên quan để biết họ của mình thuộc âm nào. Định được ngũ âm rồi, thì biết được ngũ hành. Sau đó căn cứ nguyên lý ngũ hành sinh khắc mà xây nhà đặt cửa. Ví dụ, họ Trương là âm thương, thì cổng, cử chính không được đặt ở hướng nam, vì thương thuộc kim, mà phương nam là hỏa, hỏa khấc kim, không lành. Lại như họ Đồ là âm chủy, cổng nhà không được mở ra hướng bắc, vì chủy thuộc hỏa, mà phương bắc thuộc thủy, thủy khắc hỏa, không lành. Ngũ tính có quan hệ với tọa hướng của phần mộ, có ca quyết đơn giản như sau : "Thương, giốc nhị tính, bính nhâm ất tân; cung, vũ, chủy tam tính, giáp canh đinh quý, đắc địa đắc cung, thứ sử vương công; đắc địa đắc cung, hữu thủy vô chung; thất địa đắc cung, tử tôn bất cung, thất địa thất cung, tuyệt tự vô tông (Hoàng đế trạch kinh). Ngũ phúc lục cực: Tình trạng cát hung. Ngũ phút gồm : thọ, phúc, khang ninh, hiếu đức, khảo chung mệnh; I ục cực gồm : yểu chiết (chết sớm), bệnh tật, lo buồn, nghèo khổ, độc ác, yếu ớt. Thuyết này gặp trong Thượng thư. Thuật Phong thủy cho rằng lục cực cứ bám riết, ngũ phúc chẳng tới là do ngũ hành mất cân bằng tạo nên. Cho nên chọn đất mai táng phải tìm nơi sinh khí thịnh vượng, thuận hợp ngũ hành, để trừ lục cực đón ngũ phúc. Ngũ hung Tình trạng hung họa. Gồm bệnh tật thương tích, sinh ly tứ biệt, tai nạn hình phạt, yểu chiết cô đơn, ngang ngược điên cuồng. Học thuyết Lí pháp trong thuật Phong thủy cho rằng mai táng phải có được âm long, âm huyệt, âm ứng, hoặc dương sơn, dương thủy, dương huyệt, dương ứng, là khí thuần nhất, thì có thể tránh được Ngũ hung. âm dương ở đây chỉ thuộc tính âm dương của phương vị Xem mục Nhị thập tứ sơn. Giang Tây phái : Trường phái Phong thủy. Thuật Phong thủy có hai trường phái lớn. Phái Giang Tây do Dương Quân Tùng đời Đường khởi xướng. Họ Dương về cuối đời sống ở Giang Tây, môn đệ của ông phần lớn là người Giang Tây, nên có tên như vậy Thuyết này lấy hình thế làm chính, tìm nơi khởi đầu và kết thúc của sơn mạch, thủy lưu; lặn lội phát hiện hình mạo hướng bối của long hổ triều ứng, để định huyệt vị tọa hướng, chú trọng quan sát hình dạng sơn loan thủy đạo, nhấn mạnh sự phối hợp long, huyệt, sa, thủy. Còn gọi là phái Loan đầu. Thuyết này về sau hình thành nên lý luận Hình pháp. Phái Giang Tây với Dương Quân Tùng là tổ sư, lần lượt truyền cho Tăng Văn Sán, Lại Văn Tuấn, Ngô Cảnh Loan, Mục Vũ. Trước tác của phái này hiện còn rất nhiều, tiêu biểu là Hám long kinh, Nghi long kinh, Thập nhị trượng pháp của Dương Quân Tùng, Táng thư người đời Tống mượn danh Quách Phác, Thôi quan thiên của Lại Văn Tuấn. Lý luận của phái Giang Tây chú trọng quan sát giới tự nhiên, tiến hành tổng kết qui nạp rất nhiều hình thế sông núi, kết tinh nhiều kinh nghiệm hợp lý. Thuyết này lấy âm trạch làm chủ, dương trạch thường mượn dùng các thuyết của âm trạch song vẫn chú trọng đến hình dáng của nhà ở và sự phối hợp về hình thức trong không gian. Phái Giang Tây từ đời Đường Tống trở đi, lưu truyền khá rộng, đời Mình, Thanh có sút giảm, nhưng vẫn được xã hội tiếp thu rộng rãi, có ảnh hưởng rất sâu rộng. Hình pháp : 1) Học thuyết Phong thủy. Tức hệ thống lý luận Phong thủy do trường phái Giang Tây đưa ra. Thuyết này lấy hình thế làm chính, cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất, hóa thành hình mà lộ ra bên ngoài, khí vượng mà cát, ắt hình sẽ đẹp đẽ uyển chuyển; khí suy mà hung, ắt hình sẽ thô, xấu. Bởi vậy, có thể căn cứ vào hình mà biết khí, qua đó dự đoán cát hung họa phúc, tìm ra đất tốt. Theo thuyết này, lý luận âm trạch bao gồm 5 yếu tố lớn là tầm long, định huyệt, sát sa, quan thủy, lập hướng, tết cả đều xuất phát từ hoàn cảnh địa hình tự nhiên mà xác định cát hung. Trên cơ sở đó, tổng kết thành rất nhiều dạng địa hình tự nhiên, là kết tinh vốn kinh nghiệm quí báu của Trung Quốc cổ đại trong việc nhận thức quan sát thế giới tự nhiên. Lý luận dương trạch cũng chú trọng hình dáng và sự phối hợp hình thức của nhà ở, đưa ra rất nhiều hình vẽ và cách thức cố định. Phần lớn khái niệm cơ bản và cơ sở lý luận trong thuật Phong thủy, đều do Hình pháp, đặc biệt do trường phái tiên phong Giang Tây đề xuất và định nghĩa, mà được hậu thế nhất trí thừa nhận. Thuyết Hình pháp chú trọng lặn lội khảo sát thực địa, miêu tả giới tự nhiên chân thực và sinh động, đầy đủ sắc thái, chứa đựng nhiều nhân tố hợp lý, lại tương đối dễ hiểu, nên được lưu truyền rộng rãi trong xã hội, có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Trước tác tiêu biểu của thuyết này là : Táng thư, Hám long kinh, Nghi long inh, Thập nhị trượng pháp, Thanh nang áo ngữ, Cửu tinh huyệt pháp , Ngọc xích kinh, Thôi quan thiên, Thủy long kinh, Dương trạch thập thư. 2) Một học thuyết về thuật số cổ đại. Nội dung bao gồm : xác định hình thế sông núi, để xây dựng thành quách, nhà cửa, tức tướng địa, tướng trạch, tướng người, tướng lục súc tướng vật thể mà định cát hung. Đời sau bèn dùng hai chữ Hình pháp như chữ Phong thủy. Loan đầu phái : Tức phái Giang Tây. Vì học thuyết này chú trọng hình dạng của núi sông, nên có tên như vậy. Phúc hiến phái : Trường phái Phong thủy. Một trong 2 trường phái lớn của thuật Phong thủy. Thuyết này khởi đầu sớm nhất ở Mân Trung (Phúc Kiến), nên có tên gọi như vậy. Đến Vương Cấp thời Nam Tống thì rất thịnh hành. Trường phái này chủ yếu căn cứ vào cái lý của âm dương, ngũ hành, bát quái, cửu tinh, Hà Lạc mà tính toán. Nhấn mạnh âm sơn âm hướng, dương sơn dương hướng, để xác định quan hệ sinh khắc, phán đoán cát hung. Do phái này chú trọng tìm hiểu nguyên lý trạch pháp, dương trạch chia ra 24 lộ, phân biệt âm dương, xác định hưu cữu (cát hung) âm trạch cũng thường luận về cát hung của tọa hướng, chủ yếu sử dụng cách phán đoán trừu tượng là chính, chứ không quan tâm nhiều đến hình dáng cụ thể của nhà, đất, sông núi, cho nên còn gọi là ốc trạch pháp. Thuyết này về sau phát triển thành học thuyết Lý pháp. Phái Phúc Kiến ít nhân tài, trước tác cũng không nhiều, có chăng thường là mượn tên của người đời trước, khó biết đích xác là của ai. Từ đời Minh Thanh trở đi, phái này suy dần, chỉ lưu truyền rộng rãi ở vùng Chiết Trung, ảnh hưởng kém hơn hẳn phần Giang Tây.
-
(tiếp theo) Trong phần này có một bài của Nguyên Vũ ( Văn Hóa Phương Đông ) , tóm lược rất nhiều sách về các khái niệm trong Phong Thủy . Người viết xin đưa vào để các bạn tham khảo - dienbatn . Phong thủy: Tổng hợp hàng loạt yếu tố về địa hình địa thế xung quanh nhà ở, thôn xóm, thành phố hoặc mồ mả, hướng gió, dòng nước cùng tọa hướng, hình dạng, bố cục mặt bằng không gian xây dựng. Phong thủy liên quan đến cát hung, họa phúc, thọ yểu, sự cùng thông của nhân sự. Cát ắt là phong thủy hợp, hung ắt là phong thủy không hợp. Sách Táng thư viết: "Mai táng phải chọn nơi có sinh khí. Kinh viết : Khí gặp gió (phong) ắt tán, gặp nước (thủy) ngăn thì dừng. Cổ nhân làm sao cho khí tụ chứ không tán, nước chảy có chỗ dừng". Do vậy mà có tên là Phong thủy. Hai chữ Phong thủy còn chỉ phương pháp tìm kiếm và chọn lựa nơi trú ngụ hoặc mai táng cát tường phú quí, phúc thọ bình yên, tức là thuật Phong thủy. Phong thuỷ thuật: Học thuyết cổ đại Trung Quốc hướng dẫn người ta lựa chọn nơi trú ngụ và mai táng cùng trình tự xây dựng các nơi đó, với một hệ thống lý luận và phương pháp mang màu sắc thần bí. Thuật Phong thủy cho rằng môi trường tự nhiên của một vùng đất và công trình kiến trúc của con người có thể ảnh hưởng đến con cháu của người đã khuất hoặc đến vận mệnh của những người sinh sống tại đó. Thuật này đề xuất lý luận và phương pháp hướng dẫn người ta chọn cát tránh hung, cầu phúc tránh họa. Thuật Phong thủy có nguồn gốc xa xưa, thời thượng cổ con người đã chú ý đến ảnh hưởng của hoàn cảnh tự nhiên đối với nơi cư trú của loài người, nên đã tiến hành lựa chọn một cách có chủ đích. Khi loài người bắt đầu có hoạt động xây dựng một cách tự giác, việc tìm kiếm cho được nơi trú ngụ an toàn, thích hợp, tiện lợi đã trở thành một trong những nhu cầu cơ bản. Khi việc chôn cất người chết trở thành phương thức chủ yếu, do ảnh hưởng của quan niệm sùng bái linh hồn và tổ tiên, người ta cố tìm cách mai táng sao cho có thể giữ gìn lâu dài thi thể người chết. Thời kỳ Tiên Tần, do trình độ khoa học còn thấp, các hình thức bói toán dự đoán cát hung thịnh hành trong xã hội gắn liền với hoạt động xây dựng nhà ở và mai táng. Các Văn hiến như Bốc trạch, Bốc cư, Bốc lạc phản ánh tình hình đương thời. Đồng thời các học thuyết âm dương, ngũ hành, bát quái Chu Dịch, Thiên văn Hà Lạc cũng phát triển mạnh, áp dụng vào lĩnh vực Bốc trạch, Bốc cư, (bói chọn nhà ở và mồ mả). Thuật Phong thủy nhờ đó có được cơ sở tư tưởng triết học cần thiết. Thời Lưỡng Hán , đã xuất hiện các trước tác về Phong thủy như Cung trạch địa hình, Kham dư kim quí. Các học thuyết Hình pháp gia, Kham dư gia cũng mang nội dung Phong thủy. Mối quan hệ giữa nhà ở và mồ mả với cát hung họa phúc của con người đã trở nên rất mật thiết, đồng thời xuất hiện những người chuyên thực hiện hoạt động Phong thủy. Điều này gắn liền với vô số sấm vĩ (câu sấm) và hàng loạt điều cấm kỵ mang tính chất mê tín đang thịnh hành trong xã hội đương thời. Thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều, quan niệm nhà ở và mồ mả gắn với cát hung họa phúc của con người được tầng lớp sĩ đại phu tiếp nhận rộng rãi, thậm chí vua chúa cũng hoàn toàn tin vào thuật Phong thủy. Các sách Phong thủy xuất hiện nhiều chia ra 2 loại : Dương trạch và âm trạch. Thuyết "Tứ Linh" cũng bắt đầu hình thành. Các quan niệm âm dương ngũ hành, bát quái can chi, Thiên văn hà lạc, âm luật quý hậu được áp dụng vào thuật Phong thủy. Đến thời kỳ Tùy Dường, thuật Phong thủy về cơ bản đã hình thành chắc chắn. Các sách Phong thủy ra đời hàng loạt, trong đó Trạch Kinh có đến mấy chục loại, Táng thư có trên trăm loại. Sách Trạch kinh, Táng thư đời Đường là 2 trước tác chuyên về Phong thủy sớm nhất của Trung Quốc còn đến nay, những điểm chủ yếu về lý luận Phong thủy đại thể đã hoàn bị, làm cơ sở lý luận cho 2 trường phái lớn là Lý pháp và Hình pháp trong học thuyết Phong thủy sau này. Nhất là Táng thư đề xuất "thuyết sinh khí" đã trở thành lý luận căn bản nhất của học thuyết Phong thủy. Sách này mượn tên Quách Phác biên soạn, nên Quách Phác được tôn là người sáng lập học thuyết Phong thủy. Một nhân vật trọng yếu khác trong lịch sử thuật Phong thủy là Dương Quân Tùng cũng là người đời Đường, được tôn là tổ sư. Cuối đời Đường, xuất hiện la bàn là công cụ tất yếu của các Phong thủy sư. Thời kỳ Tống Nguyên Minh Thanh, thuật Phong thủy càng được hoàn thiện và phát triển về lý luận và phương pháp, đồng thời chia thành nhiều trường phái khác nhau. Phái Lý pháp đặc biệt thịnh hành, song chứa đựng quá nhiều điều huyền bí. Ảnh hưởng của thuyết Phong thủy trong xã hội cũng ngày một gia tăng, thâm nhập vào mọi tầng lớp xã hội; đồng thời được Lý học đời Tống Minh và giai cấp thống trị phong kiến ra sức ủng hộ, có tác động vô cùng mạnh mẽ tới đời sống xã hội Trung Quốc cổ đại. Điểm cơ bản của lý luận học thuyết Phong thủy là Thừa khí, Tụ khí, Đắc khí. Nội dung gồm 2 loại lớn là Phong thủy dương trạch và Phong thủy âm trạch, trong đó Phong thủy âm trạch có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng. Nội dung của Phong thủy âm trạch bao gồm : khảo sát hình dạng núi non sông nước trong một phạm vi khá rộng, xác định địa chất địa mạo, lựa chọn vị trí và phương hướng của huyệt mộ, cảnh vật xung quanh, tính chất thổ nhưỡng, thước tấc huyệt mộ, cây cỏ trên mặt đất, cách thức và thời gian mai táng, các vật kiến trúc phụ bên trên huyệt mộ; ngoài ra còn bao gồm nội dung dùng sức người cải tạo địa hình. Nội dung của Phong thủy dương trạch thì gồm có: chọn địa điểm nhà ở, thôn xóm, thành phố, khảo sát môi trường kiến trúc xung quanh chúng, địa thế cao thấp, hình dáng và bố cục bên trong nhà ở cùng thị trấn, chọn ngày giờ khởi công và trình tự xây dựng, hướng mở cổng cửa, kích thước cổng cửa, các loại cây trồng và phương vị sở tại còn phải khảo sát vận mạng của chủ nhà phối hợp nhà ở tính thống nhất giữa nhà ở với các công trình xây dựng xung quanh. Bết kể dương trạch hay âm trạch cũng đều có Hình pháp và Lý pháp khác nhau; Hình pháp lấy hình thế sông núi làm chính; Lý pháp thì lấy nguyên lý suy diễn thuật số làm chính; hai "pháp" có chỗ mạnh chỗ yếu, nên về sau người ta theo xu thế kết hợp cả hai. Thuật Phong thủy là một nội dung của văn hóa cổ truyền Trung Quốc, hiển nhiên chứa đựng nhiều yếu tố thần bí, cần được gạn đục khơi trong. Đồng thời thuật Phong thủy cũng bao gồm những kinh nghiệm quí báu mà con người tích lũy hàng ngàn năm trên cơ sở quan sát tự nhiên và phát triển xã hội, rồi mới được phát hiện và tổng kết, học giả thời nay đề xuất : thuật Phong thủy thực tế là lý luận qui hoạch thiết kế xây dựng cổ đại mang tính thống nhất và tổng hợp các khoa địa chất học, sinh thái học, cảnh quan học, kiến trúc học, luân lý học, tâm lý học, là tinh hoa của lý luận kiến trúc Trung Quốc cổ đại, cùng với Doanh tạo học và Tạo viên học hợp thành 3 cột trụ của lý luận kiến trúc Trung Quốc cổ đại. Tuy thuật Phong thủy có giá trị không thể xem nhẹ, nhưng vì nó khoác bộ áo huyền bí và lối diễn đạt dung tục, nên khó hiểu và có khi bị chê cười; hơn nứa quan niệm cho rằng vị trí mai táng có thể quyết định cát hung họa phúc của con cháu chưa hề có tư liệu khoa học nào xác minh, ngày nay hình thức mai táng dần dần bị thay thế (chẳng hạn bằng hỏa táng) âm trạch không còn nhiều ý nghĩa nữa. Kham dư: Ban đầu là tên một vị thần, sau chỉ Phong thủy, Hán thư. Dương Hùng truyện viết: "Kham dư là tên gọi chung trời đất, còn là thần sáng tạo đồ trạch thư". Văn tuyển. Cam tuyền phú viết : "Hoài Nam Tử nói Kham dư "hành hùng (đực) để biết thư (cái). Hứa Thận nói Kham là đạo trời, dư là đạo đất vậy". Hán thư. Nghệ văn chí chép 14 quyển "Kham dư kim quí". Lũng Xuyên cho rằng sách Sử ký khảo chứng là "sách viết về phương vị Phong thủy". Sử ký. Nhật giả liệt truyện . "Thời Hiếu Võ đế, có triệu tập các nhà chiêm bốc hỏi ngày nọ có thể cưới vợ ? Các nhà ngũ hành đáp có thể; các nhà kham dư đáp không được". Tùy thư. Kinh tịch chí có chép "Kham dư lịch chú", "Địa tiết kham dư", bàn về cách chọn ngày giờ. Đủ biết kham dư thoạt đầu không phải là chuyên bàn về Phong thủy. Theo khảo chứng của các học giả thời nay, kham dư thoạt tiên chỉ tên 12 vị thần. Các nhà kham dư căn cứ 12 vị thần ấy mà dự đoán cát hung. Do dùng cách quan sát tượng trời để phán đoán cát hung dưới đất, nên Hứa Thận thời Đông Hán nói kham dư là đạo trời và đạo đất và có bao hàm nội dung Phong thủy. Từ thời Tùy Đường trở đi, người ta dần dần coi Tướng trạch và Tướng mộ là kham dư. Đời Thanh, Tiền Đại Hân trong sách Hằng ngôn lục viết : "Các nhà Kham dư thời cổ tức là các nhà "tướng trạch đồ mộ" thời cận đại, các nhà địa lý ngày nay"; chứng tỏ về sau người tá mới đưa nghĩa Phong thủy vào khái niệm Kham dư. Ngoài ra, các văn nhân sĩ đại phu quen dùng thuật ngữ Kham dư, còn dân gian thì gọi là Phong thủy. Địa lí : Tức Phong thủy. Vương Tịch Chi đời Tống trong Mãnh thủy yên đàm lục viết : "Văên Ấu Bạc có tài làm thơ, giỏi âm dương địa lý". Cố Viêm Võ đời Thanh trong Xương Bình sơn thủy ký, quyển thượng, viết " Hoàng hậu họ Từ qua đời, Lễ bộ thượng thư Triệu Hồng được lệnh mời thầy địa lý Liêu Quân Khanh tới, chọn đất tốt ở núi Hoàng thổ, phía đông huyện Xương Bình". Địa lí học: Chỉ thuật Phong thủy. Sách Trí giả tự hưng tạo ký của Lục Du đời Tống: "Kỷ Thực Trượng nhìn bốn phía hỏi, "Ai biết ngôi chùa kia là do trời đất tạo dựng nên.. Mà nhân sự không thể hiểu nổi, cho nên trời mới sai ta chọn địa dư này chăng?" Tức là khi hỏi ý kiến các nhà địa lí học, thì họ nói gần giống như Kỷ vậy". Địa học: Tức thuật Phong thủy. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển 109 viết : "Đời sau khi nói đến nhà địa học, đều coi Phác (Quách Phác) là tổ sư". Âm trạch : Đất mồ mả. Lễ ký. Tạp ký thượng viết: "Đại phu bói về nhà ở và ngày mai táng". Sớ : "Trạch, nghĩa là đất mồ mả". Đời sau người ta thêm nghĩa nhà ở, nơi trú ngụ vào chữ "trạch", nên gọi mồ mả là âm trạch. Thủy hử truyện, hồi 120 : "Nếu ta chết ở chốn này, thì đây là âm trạch". Còn bao hàm nội dung chọn đất mai táng, tức Phong thủy âm trạch. Dương trạch: Nhà ở, cũng bao hàm thôn xóm, thành thị. Thời cổ, chu "trạch" vừa có nghĩa mồ mả, vừa có nghĩa là nơi trú ngụ. Để phân biệt, Phong thủy gọi mồ mả là âm trạch, còn nhà ở là dương trạch. Sách Hoàng đế trạch kinh khuyết danh đời Đường : "Phàm dương trạch tức là có khí dương ôm âm, âm trạch tức là có khí âm ôm dương". Còn bao hàm nội dung chọn đất làm nhà, xây dựng nhà cửa, tức phong thủy dương trạch. Âm dương trạch: Mồ mả và nhà ở. Là cách gọi vắn tắt Phong thủy âm trạch và Phong thủy dương trạch, bao gồm toàn bộ nội dung thuật Phong thủy, tức đại diện cho Phong thủy. Thanh ô thuật: Tức thuật Phong thủy. Đời Hán có Thanh Ô Tử soạn Táng kinh, nên các nhà Phong thủy coi đó là thủy tổ của Phong thủy, mới gọi thuật Phong thủy là thuật Thanh ô, người chuyên hoạt động Phong thủy là "Thanh Ô đồ" . Thanh nang thuật: Tức thuật Phong thủy. Tấn thư. Quách Phác truyện : "Phác giỏi chử nghĩa cổ văn, tính toán lịch âm dương tài tình. Có ông thày họ Quách ẩn cư ở Hà Đông, tinh thông bói toán. Phác bèn theo học. ông thày đem 9 quyển sách chứa đựng thuật ngũ hành, thiên văn, bốc phệ (phép bói cỏ thi) trong thanh nang (chiếc túi vải xanh) tặng Phác". Nhờ đó phác giỏi xem tướng đất. Đời sau lại có Thanh nang kinh, tức Cửu thiên Huyền nữ thanh nang hải giác kinh chuyên nói về Phong thủy, mượn tên Quách Phác viết lời tựa. Dần dần thuật Phong thủy được gọi là thuật Thanh nang. Trạch tướng: Tướng Phong thủy của nhà cửa. Tấn thư. Ngụy Thư truyện : "Thư mồ côi từ nhỏ , được bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày tướng nói : nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển. Bà ngoại thấy Ngụy Thư còn bé mà thông minh dĩnh ngộ, đoán là câu trên ứng vào cậu. Thư nói : Họ ngoại có được trạch tướng tốt vậy". Về sau người ta dùng hai chu "ngoại sanh" (cháu ngoại) thay cho chu "trạch tướng". Sách Phụng thiên lục, quyển 4, của Triệu Nguyên Nhất đời Đường viết : "Vương Mãng làm Thị lang, chuyên về trạch tướng, chí khí hào hùng, rất giống người cậu của mình". Gia tướng : Tức Phong thủy dương trạch. Vì nó gắn liền với họa phúc của gia đình, hình tướng của gia trạch, nên gọi là Gia tướng (tướng nhà). Địa tướng: Tức Phong thủy âm trạch. Vì nó gắn liền với hình thế của sông núi, hình tướng của mồ mả, nên gọi là Địa tướng (tướng đất). Bốc triệu: Triệu, nghĩa là mồ mả. Chỉ việc lựa chọn đất lành để mai táng. Quản thị địa lý chỉ mông. Sơn nhạc phối thiên đệ nhị : "Bốc triệu dinh thất gồm 2 việc; một là luận sơn (núi), hai là luận hướng, là điểm mấu chốt của nhà kham dư". Bốc cát : Chiêm bốc để chọn ngày lảnh hoặc đất tốt. Sách Huy chủ hậu lục, quyển 1, của Vương Minh Thanh đời Tống, viết : "Vĩnh Xương Lăng bốc cát, lệnh cho Tư thiên giám Miêu Xương đi xem tướng đất ở Tây Lạc". Về sau "Bốc cát" được dùng để chỉ việc chọn đất mai táng. Chiêm sơn: Chiêm nghĩa là nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm sơn nghĩa là tiến hành quan sát hình thế sông núi để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm trạch. Chiêm táng: Chiêm nghĩa lả nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm táng nghĩa là tiến hành quan sát hoàn cảnh tự nhiên để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm trạch. Hoàng đế trạch kinh : "Chiêm táng là nhìn cảnh sông núi xem lành hay dữ, địa điểm chính hay tà, quỉ thần an hay nguy, con cháu phát đạt hay tuyệt tự". Tướng sơn: Tức là quan sát hình thế của núi non để xác định mức độ cát hung tọa hướng của vị trí mộ phần, là tên gọi thay cho thuật ngữ Phong thủy âm trạch. Tống sử. nghệ văn chí có chép âm dương tướng sơn yếu lược, 2 quyển. Tướng mộ: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành làm mộ phần, xác định tọa hướng của huyệt mộ, ngày mai táng cùng những việc liên quan. Tướng địa: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành làm mộ phần hoặc nhà cửa, xác định vị trí và tọa hướng tốt nhất của huyệt mộ, nhà cửa, tức là thuật Phong thủy. Thường dùng để chỉ riêng việc chọn đất làm mộ phần, tức Phong thủy âm trạch. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển 109 : "Những thứ mà Hình pháp kể ra, kiêm cả việc xem tướng người, tướng vật, thì không phải chỉ là tên gọi riêng của tướng trạch, tướng địa". Tướng thổ: Tướng, nghĩa là quan sát. Chỉ việc quan sát chất đất, để xác định cát hung của một vùng đất nào đó Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng : "Nơi sông núi mỹ lệ, cây cỏ tốt tươi, "Bốc thực tướng thổ, nên xây dựng đô thị". Phép tướng thổ, nếu thấy đất bị sương gió xâm thực, tơi tả như tro, quá khô cứng, hoặc bị nước xói lở, nhiều cát, quá ẩm thấp, là đất hung; còn thấy chắc chắn, tươi nhuận, cây cỏ tươi tốt là đất lành. Lại qui định, phàm đất chưa bị đào bới, thấy chắc chắn dày dặn, rễ cây không sâu mà lá nhỏ, gọi là "Uất thảo", cũng là đất lành. Cho nên phàm đất đã canh tác thì không thể làm nhà cửa và mộ phần. Trong thuật Phong thủy đây là nội dung bảo vệ đất canh tác, có ý nghĩa tích cực. Bốc lạc: Đời nhà Chu dùng phép chiêm bốc để xác định đất của lạc ấp nào sẽ được xây dựng kinh đô. Thượng thư. Lạc cáo : "Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực". Đời sau gọi kiến trúc đô thành là Bốc lạc. Văn tuyển của Lương Tạ Chiêm thời Nam triều, có câu thơ: "Bốc lạc dịch long thế, Hưng loạn võng bất vong" . Bốc thục: Thời thượng cổ dùng phép chiêm bốc để xác định đất xây dựng kinh đô. Khi bói, lấy mực vẽ lên mai rùa, đem nướng mai rùa, nếu sau khi nướng, mai rùa có những đường hằn nứt xóa hết vết mực, thì là cát. Thượng thư Lạc cáo : "Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực". Đời sau liền gọi việc chọn đất xây dựng kinh đô là Bốc thực. Tổ khảo tụng của Lục Vân đời Tấn : "Bốc thực Đông Hạ, nguyên quy khái tập". Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng : "Nơi sông núi mỹ lệ, cây cỏ tốt tươi, Bốc thực tướng thổ, nên xây dựng đô thị" . Bốc địa: Chọn lựa đất lành để cư trú hoặc dựng nước. Ngô Việt xuân thu. Câu Tiễn qui quốc ngoại truyện của Triệu Diệp đời Hán : "Đường Ngu bốc địa, Hạ ân phong quốc, cổ công doanh thành Chu Lạc". Cũng dùng đó để chỉ riêng việc lựa chọn đất làm phần mộ. Bắc nguyên tình của Lưu Ngôn Sử đời Đường có câu thơ "Bốc địa khởi cô phân, Toàn gia tống táng khứ". Đời sau bèn dùng để thay cho hai chữ Phong thủy. Bốc trạch: Chữ "trạch" có 3 nghĩa : l) Nơi trú ngụ 2) Phần mộ 3) Lựa chọn. Cho nên bốc trạch cũng có 3 nghiã. l) Chiêm bốc để quyết định đất xây dựng kinh đô. Thượng thư. Chiếu cáo: "Thái bảo triều chí ư Lạc, bốc trạch, quyết khái đắc bốc, tắc kinh doanh", ngụ ý Chu Công bốc trạch ở Lạc để xây dựng kinh đô. 2) Chọn đất cư trú. Bài thơ "Vi nông của Đỗ Phủ đời Đường có câu : "Bốc trạch tòng từ lão Vi nông khử quốc xa". Thơ Di cư Hoàng Tân kiều của Phan Phi Thanh có câu : "Đào Tiềm ái bốc trạch, Thẩm ước phú giao cư ". 3) chiêm bốc hoặc quan sát địa hình để chọn đất làm phần mộ. Lễ ký. Tạp ký thượng: "Đại phu bốc trạch và ngày mai táng". Sớ của Khổng Dĩnh Đạt : "Trạch là đất mai táng". Thơ Tống qui cao sĩ chi hoài thượng của Cố Viêm Vũ đời Thanh : "Bốc trạch dĩ an vương khảo triệu, Huề xuất hoàn qui cố nhân trai". Đời sau bèn gọi Phong thủy là Bốc trạch. Bốc cư : Vốn dùng để chỉ việc chọn đất lành xây dựng kinh đô. Sử ký. Tần bản kỷ. "Đức công nguyên niên, bốc cư Ung". Sau chỉ việc chọn đất định cư. Nghệ văn loại tụ, quyển 64, dẫn bài thơ "Hành trạch" của Tiêu Tử Lương nước Tề thời Nam triều : "Phỏng vũ bắc sơn a, Bốc cư tây dã ngoại". Bài thơ Ký đề giang ngoại thảo đường của Đỗ Phủ đời Đường có câu : "Thị tửu ái phong trúc, Bốc cư tất lâm tuyền". Bốc thất : Thất, nghĩa là nhà ở. Chỉ việc chọn địa điểm xây dựng nhà ở. Bài thơ Phụng tống thế mỹ qui dương tiễn của Thẩm Liêu đời Tống có câu : "Phiêu phiêu số niên như nhất mộng, Nhĩ lai bốc thất tề Sơn Tây". Minh sử. Trương Khả Đại truyện : "Khả Đại ước thúc kỳ úy, quyên bổng trợ chi, bốc thất xứ kỳ thê tử". Bốc vũ : Vũ, nghĩa là nhà cửa. Chỉ việc chọn nhà ở. Tề tư không khúc giang công hành trạng của Nhiệm Phưởng, người nước Lương thời Nam triều : "ái nái bốc vũ Kim Lăng, doanh đới lâm hách" . Bốc trúc : Chọn đất xây dựng nhà ở để định cư. Lương thư. Lưu Hứa truyện chép rằng Lưu Hứa cùng người anh họ quyết chí tìm đất xây dựng ngôi đền Tống Hy ở khe suối phía đông. Minh sử. Đường Thuận chi truyện : "Bốc trúc dương tiễn sơn trung, độc thư thập niên dư" Bốc lân : Chỉ việc chọn láng giềng mà cư trú. Tả truyện. Chiêu công tam niên : "Thả Ngạn nói : Phi trạch thị bốc, duy lân thị bốc. 'Nhị, tam tử tiên bốc lân hề". Đỗ Dự chú giải: "Bói láng giềng tốt". Bài thơ Ký tán thượng nhân của Đỗ Phủ đời Đường có câu : "Nhất tạc bồi tích trượng, Bốc lân nam sơn u". Thực ra chỉ việc chọn đất cư trú, đồng thời biểu thị với người khác ý muốn cư trú ở bên cạnh nhà họ. Bốc lão : Chọn nơi ở để dưỡng lão cho đến khi chết, tức ngụ ý định cư. Tịnh danh trai ký của Mễ Phất đời Tống: Mễ Phết người Nang Dương, tự Nguyên Chương, bốc lão ở Đan Đồ". Chiêm trạch : Chiêm, nghĩa là nhìn điềm triệu mà biết cát hung. Chiêm trạch tức là quan sát nhà cửa để đoán cát hung. Thực chất là Phong thủy dương trạch. Hoàng đế trạch kinh : " Chiêm trạch là nhìn hình thế khí sắc, sự biến đổi của cỏ cây mà dự đoán tình hình họa phúc cát hung" Tướng trạch : Tướng, nghĩa là quan sát, chọn 1ựa, Tướng trạch nghĩa là tiến hành quan sát, lựa chọn, phán đoán cát hung đối với hình dạng, phương vị tọa hướng cùng hình thế xung quanh nhà ở theo học thuyết Phong thủy, đồng thời xác định trình tự và ngày giờ xây dựng nhà cửa cùng hình thức bố trí bên trong ngôi nhà. Thực chất là Phong thủy dương trạch. Tấn thư. Ngụy Thư truyện : "Thư mồ côi từ nhỏ, được bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày tướng nói : nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển" . Tùy thư. Kinh tịch chí có chép " Tướng trạch đồ" 8 quyển. Tống sử. Nghệ văn chí có chép " Tướng trạch đồ" 1 quyển. 1) Sinh khí : Khái niệm cơ bản nhất trong thuật Phong thủy, trung tâm của toàn bộ hệ thống lý luận. Theo cách giải thích của thuật Phong thủy, hai khí âm dương tràn ngập trời đất, hô hấp ắt thành gió, bốc lên ắt thành mây, rơi xuống ắt thành mưa, còn vận hành tiềm ẩn dưới lòng đất tức là sinh khí. Sinh khí vận hành tùy theo lòng đất, hình thức biểu hiện là các ngọn núi của mạch núi nhô cao trên mặt đất. Cho nên nói "Đất có khí tốt, đất tùy khí mà lên, thành hình ở bên ngoài vậy" (Táng kinh dực). Bởi thế tìm sinh khí trước tiên phải quan sát địa hình. Đất là mẹ của khí, có đất ắt có khí. Sinh khí tùy đất mà vận hành, gặp nước thì dừng, gặp gió thổi ắt tản mác ra bốn phía. Cho nên điều quan trọng nhất là tìm được nơi hội tụ sinh khí, có sơn thủy bao quanh, để sinh khí không bị gió thổi tứ tán. Tác dụng của sinh khí là phát tán mà nuôi dưỡng vạn vật. Loài người được nó nuôi dưỡng thì cát, mất sự nuôi dưỡng của nó thì hung. Sự sống của loài người là kết quả hội tụ sinh khí , sinh khí ngưng kết thành cốt cách của con người. Người ta chết đi, máu thịt rứa nát, xương cốt vẫn còn; nếu đem thi thể của tổ tiên cha mẹ mai táng ở nơi sinh khí hội tụ, thì sinh khí sẽ nhập vào xương cốt mà trở thành nuôi dưỡng con cháu của họ, cho nên nói : "Mai táng phải thừa sinh khí vậy" (Táng thư). Đây là cơ sở lý luận của Phong thủy âm trạch. Còn về Phong thủy dương trạch mà nói , vì sinh mệnh của con người do sinh khí hội tụ tạo nên, bởi vậy cũng cần phải tìm được mảnh đất có sinh khí thịnh vượng mà xây dựng nhà ở, để chủ nhà được sinh khí nuôi dưỡng. Nhưng sinh khí dưới lòng đất nuôi dưỡng người từ bên dưới, lực lượng ở sâu mà công hiệu chậm, cho nên khác với âm trạch, dương trạch còn phải có được "thiên hạ" (khí trời). Khí trời trực tiếp sưởi ấm thân thể con người lực lượng ở bên trên mà công hiệu nhanh , cho nên "Dương trạch dưới thì tiếp nhận cát khí của đất, trên thì muốn có vượng khí của trời" (Tướng trạch kinh soạn . quyển 4), bởi vậy khi xây dựng nhà ở phải chú ý hướng mở cổng, cửa, hình dạng ngôi nhà, lựa chọn phương vị, để tiếp nhận vượng khí , loại trừ tà khí. 2) Phương vị. Chỉ khi xây dựng hoặc tu sửa nhà ở, một phương vị cố định nào đó đối lập với "tử khí". Nếu tiến hành xây dựng, tu sửa ở phương vị sinh khí này, ắt sẽ thu được hồng phúc lớn lao. Phương vị có sinh khí không giống nhau trong một năm: tháng giêng ở Tý, Quý (tức chính bắc và phương bắc dịch sang đông 15 độ, Xem mục nhị thập tứ sơn); tháng 2 ở Sửu, Cấn; tháng 3 ở Dần, tháng 4 ở Mão, ất; tháng 5 ở Thìn, Tốn; tháng 6 ở Tỵ, Bính; tháng 7 thân, Canh; tháng 8 Mùi, Khôn; tháng 9 ở Thân, Canh; tháng 10 ở Dậu, Tân; tháng 11 ở Tuất, Khôn; tháng 12 ở Hợi, Nhâm. Trong 1 năm, bắt đầu từ phương chính bắc, thuận theo chiều kim đồng hồ mà xoay 1 vòng. 3) Tức sao Sinh khí. Xem mục Sinh khí tinh. 4) Chữ "khí" ở đây theo quan niệm của cổ nhân khác với "không khí", nó là một chất đặc biệt trong vũ trụ hoặc trong cơ thể người. Ngoại khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ dòng nước chảy trên mặt đất. Nước chảy trên mặt đất gọi là Ngoại khí. Thứ khí này mềm. Ngoại khí chuyển tải, chỉ nội khí mới có thể tụ lại, nên Long vận hành mà sinh khí tùy theo, thủy (nước ) ngăn lại mà nội khí tụ. Nội khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí trong đất. Sinh khí vận hành trong lòng đất, nên gọi là nội khí. Thứ khí này cứng. Long thần: Tức sinh khí. Thuật Phong thủy cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất, biểu hiện là long mạch, thần diệu khó đoán, chủ mọi cát hung, nén dùng hai chữ "Long thần" để biểu thị sự kỳ diệu của nó. (còn tiếp)
-
(tiếp theo) Bây giờ người viết xin đi vào chi tiết cụ thể từng môn phái một.Tất nhiên chỉ có thể nêu những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất, sau cùng xin chia sẻ với các bạn một số kiến thức Phong thủy còn chưa được phổ biến rộng như PHONG THỦY LẠC VIỆT, CẢM XẠ PHONG THUỶ VÀ HUYỀN THUẬT PHONG THỦY. Trước hết chúng ta phải bắt đầu từ những khái niệm cho về sau khỏi cần phải tranh luận về vấn đề này. 1/TRẠCH :Là một cuộc đất, có ranh giới hoặc không , được sử dụng vào công việc chôn cất, làm mồ mả, nhà mồ hay xây cất nhà cửa , Làng mạc, Thành phố.. Cũng có một số người coi Trạch là dải đất, giống như con lươn trên đê. Riêng người viết chỉ quan niệm đơn giản Trạch là một cuộc đất, vùng đất. Trong Trạch lại được chia ra làm Âm Trạch và Dương Trạch. 2/ÂM TRẠCH :Là cuộc đất dùng để chôn người chết , còn gọi là Mồ mả. Phong Thủy cho rằng, nếu người chết được chôn vào một cuộc đất tốt về Phong thủy thì sẽ truyền được Phúc ðức cho con cháu đời sau. 3/DƯƠNG TRẠCH :Là cuộc đất được dùng vào mục đích làm nhà cửa, Ðình , Chùa, Miếu mạo, Thôn xóm, làng mạc,Thị trấn,Thành phố. Dương trạch phải hài hòa với Thiên nhiên, có môi trường tốt đẹp, làm cho con người thấy vui tươi , mạnh khỏe, hạnh phúc. Dương trạch tốt tức là môi trường tốt. 4/LONG MẠCH :Mạch là nguồn gốc, là đường dẫn máu đi nuôi cơ thể người ta; Long là con Rồng. Nhưng trong Phong thủy, người ta gọi Long mạch là những dải Núi, dải đất, Dòng sông,dòng nước chảy, nhấp nhô, uốn khúc như Rồng, thoắt ẩn, thoắt hiện. Long mạch có thể chỉ vài chục cây số, nhưng cũng có thể là vài ngàn cây số. Long mạch lại được chia ra SƠN MẠCH VÀ THỦY MẠCH. SƠN MẠCH :Là những dải Núi, dải đất đi từ Tổ Sơn đến Huyệt.Tổ Sơn là Núi cao, nơi xuất phát Sơn mạch.Dải Núi đi ra khỏi Tổ Sơn gọi là Hành Long.Hành Long lại được chia ra làm CÁN LONG :Là dải Núi chính đi ra từ Tổ Sơn và BÀNG LONG :Là chi nhánh đi ra từ Cán Long. Long mạch lúc nổi lên thành Núi,đồi ,gò ,đống, lúc lại chìm sâu vào lòng đất, có khi vượt qua cả những dòng sông. THỦY LONG ]:Là các mạch nước dòng sông bắt nguồn từ các Tổ Sơn, chảy theo các Sơn Long. Thủy Long cũng có Cán Long và Chi Long, đổ vào Minh đường rồi thoát ra ở Thủy khẩu tiêu Thủy. Sơn Long đi thuận theo chiều nước chẩy gọi là Thuận Long. Ði ngược chiều nước chẩy gọi là Hồi Long,đi ngang qua chiều nước chảy gọi là Hoành Long. Theo cấu tạo Ðịa chất nước Việt nam ta,nói chung Núi sông chạy từ Tây Bắc xuống Ðông Nam (Trục CÀN -KHÔN ), do vậy Long mạch thường đi theo trục CÀN -KHÔN,hoặc CÀN -LY là chính.Long đi theo hướng này là thế chính có tính chất rất bền vững,dài lâu.Long thuận thì nước chầu xuống, Long ngược thì nước chầu lên.Thuận nước chầu lên là thế thuận,nước chầu xuống là thế nghịch. 6/THỦY KHẨU :Thủy khẩu là nơi mà nước chẩy vào Minh đường.Chẩy đến gọi là Thủy lai, chẩy đi gọi là Thủy khứ. Nơi nước chẩy vào gọi là Thiên môn, nơi nước chẩy ra gọi là Ðịa hộ.Dòng nước chẩy đến, chẩy đi tại vị trí Huyệt rất quan trọng, riêng về nó người ta có hẳn một mục là THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH, xét đến sự tốt xấu của hướng các dòng nước đối với Huyệt vị. ÐIỂM HUYỆT :Sau khi đã tìm được địa thế hội đủ các tiêu chuẩn của Long mạch,Thủy khẩu,Minh đường, Long - Hổ, Sơn, Chu tước, Huyền vũ...,các phương vị sinh , Vượng thì cần phải chọn nơi tụ khí để xác định chính xác vị trí Huyệt.Làm như vậy được gọi là Ðiểm Huyệt. Ðiểm Huyệt là công việc vô cùng khó , là việc phải tổng hợp tất cả các kiến thức về Ðịa lý Phong thủy,các Kinh nghiệm ,các pháp của Huyền thuật, cảm giác của Phong thủy sư, kết hợp với La kinh để chọn được vị trí cát lợi nhất cho việc xây cất nhà cửa hay táng Mộ. Cãn cứ vào địa hình, Ðịa thế có thể lấy đúng giữa Huyệt, lấy ở Huyệt nhánh hay bên cạnh Huyệt. 7/MINH ÐƯỜNG :Theo danh từ , Minh đường là nơi ngày xưa Vua, Chúa tiếp các Bá Quan,Văn -Võ triều bái.Trong Phong thủy, Minh đường là vùng đất phía trước của Huyệt vị. Minh đường cũng được chia ra làm Nội Minh đường,Trung Minh đường và Ngoại minh đường,gọi chung là Tam đường.Minh đường ở trước Huyệt gọi là nội Minh đường. Minh đường được bao bọc bởi hai tay Long -Hổ gọi là Trung Minh đường. Minh đường ở ngoài Án Sơn gọi là ngoại Minh đường. 8/HUYỆT VỊ :Nghĩa gốc của từ Huyệt là hang ổ,sào Huyệt,là ngôi nhà bằng đất, là chỗ châm cứu trên cơ thể con người.Trong Phong thủy , Huyệt là nơi tập trung Khí của Long mạch. 9/ÁN SƠN :Án có nghĩa là cái bàn làm việc của các cụ Ðồ Nho ngày xưa (Án Thư ).Án cũng co nghĩa là che chắn trước mặt. Án Sơn là núi nhỏ chắn trước Huyệt như cái bàn làm việc trước mặt người ngồi,Án Sơn không được quá cao. Huyệt có Án như Chủ có Khách, Vua có Tôi. 10/TRIỀU SƠN :Triều có nghĩa là đối diện như Chủ với Khách.Triều Sơn là núi to ở phía xa hơn Án Sơn.Triều Sơn mà hai bên có Thủy lưu kèm theo Triều vào Huyệt là Triều Sơn quý. Như vậy tính chất của Triều Sơn và Án Sơn tương tự như nhau , nhưng khác nhau ở độ cao và tầm xa. 11/SA SƠN :Là Núi ở xung quanh Huyệt.Trong Ðịa lý chia ra các Sa (Sơn ) như sau :Án sơn,Triều sơn,Thanh long,Bạch hổ, Tả phù, Hữu bật, La thành viên cục, Lạc sơn, Hạ thủ sa,Thủy khẩu sa, Cản môn sơn, Hoa biểu sơn, Bắc Thần tinh,La tinh sơn, Quan tinh sơn, Quỷ tinh sơn, Diệu tinh sơn... 12/THANH LONG (TAY LONG ):Thanh long là Núi hay dải đất nằm bên TRÁI Huyệt.Có khi Sơn mạch chạy đến Huyệt rồi phân ra hai nhánh như hai cánh tay ôm lấy Huyệt tạo nên Thanh long, Bạch hổ. Thanh long chủ DƯƠNG, CON TRAI, KHÍ DƯƠNG. 13/BẠCH HỔ :Là Núi hay dải đất bên Phải Huyệt. Bạch hổ chủ Âm,Con Gái,Khí Âm. Thanh long - Bạch hổ đối với Huyệt giống như chúng ta ngồi trên chiếc ghế có hai tay tựa vậy, hai tay này phải cân đối mới tốt. 14/TẢ PHÙ HỮU BẬT :Là hai trái núi nằm hai bên tả hữu của Huyệt vị.Tả phù hữu bât cần phải cân xứng về cả độ cao,xa gần,lớn nhỏ.Nếu không xứng lứa vừa đôi là Huyệt không quý. Người ta gọi tả phù - Hữu bật là Nhật Nguyệt giáp chiếu, hay Văn võ thị vệ.Tả phù hữu bật dịch về phía sau của Huyệt gọi là Thiên ất,Thái ất. Dịch về phía trước một chút gọi là Thiên hồ,Thiên giác. Nếu dịch về phía trước một chút nữa và chụm đầu vào nhau gọi là Kim ngô, Chấp pháp. Nếu nằm ở hai bên Minh đường Gọi là Thiên quan,Ðịa trực.Nếu nằm ở hai bên Thủy khẩu gọi là Hoa biểu,Cản môn. 15/LA THÀNH VIÊN CỤC :Là thế núi bao bọc xung quanh Huyệt vị như tường thành bao quanh trùng trùng điệp điệp, lên xuống nhấp nhô bảo hộ Huyệt vị,tựa như cánh sen ôm lấy nhị hoa.Nếu có điều đó là Huyệt quý. 16/HẠ THỦ SA :Còn gọi là hạ quan,Hạ tư.Núi nằm bên cạnh dòng nước chảy ra ở bất kỳ phương nào của Huyệt đều gọi là Hạ thủ sa. Hễ có Hạ thủ sa là có sự kết phát.Dòng chảy trước Huyệt rẽ về bên nào thì bên đó Hạ thủ. Hạ thủ sa cần trùng điệp,dày đặc, liên tiếp, không được mỏng, nhỏ. 17/BẮC THẦN SA :Là núi đá dựng đứng ở giữa Thủy khẩu mà có hình thù kỳ quái. Núi Bắc Thần sa rất quý hiếm, thường đi với Huyệt Công hầu , Khanh tướng. Bắc Thần sa càng hùng vĩ càng cát lợi. 18/LA TINH :Là núi nhỏ hoặc gò nổi lên ở giữa Thủy khẩu giống như Bắc Thần sa.La tinh có thể là núi nhỏ,gò đá hoặc đất,nếu là đá thì tốt hơn là đất. La tinh tròn trặn hay nghiêng vát là tốt.La tinh có bốn bề la mặt nước là tốt. Ðịa thế Huyệt có La tinh là địa thế Huyệt quý. 18/QUAN TINH :Là núi nhỏ đằng trước Huyệt ở phía ngoài đối diện với Thanh long,Bạch hổ,kéo sơn mạch ra đằng trước. 20/DIỆU TINH :Là tảng đá lớn nhô lên ở hai bên tả hữu của Huyệt.Diệu tinh to lớn và đẹp thì sẽ tạo phú quí lâu dài. 21/QUỶ TINH :Là sơn mạch ở đằng sau Long Huyệt mọc ra hai cánh,để cho Huyệt trườn gối lên.Chỉ có Hoành long kết Huyệt mới có Quỷ tinh. Quỷ sơn không nên qua cao, lớn vì sẽ đoạt mất chân khí của Long Huyệt. Huyệt có Quỷ tinh đẹp là Huyệt quý. 22/CẦM TINH :Là sơn thạch (Núi đá ) ở giữa Thủy khẩu ,còn gọi là Hỏa tinh Hà Lạc.Hình dạng của Cầm tinh giống như cái bút lông, con cá đang bơi, hay Rùa, rắn, dài, nhọn, vuông tròn, cao thấp, tụ hay tán. Huyệt có Cầm tinh là Huyệt quý. 23/HUYỀN VŨ :Là sơn mạch đằng sau Huyệt.Huyền vũ là nơi mà từ đó Mạch chẩy vào Huyệt.Huyền vũ cao đầy thì có nhiều khí mạch dự trữ.Huyền vũ cúi đấu,bằng phẳng,vuông tròn là quí.Tôn nghiêm có bút nhọn,thanh tú thì quý.Thấp,mỏng bị gió thổi,thô bạo lấn át Huyệt là xấu. 24/CHU TƯỚC :Là các sa sơn ở trước Huyệt, là các gò đống ở trước Huyệt. Nó múa lượn, chầu đón Huyệt,tốt tươi, sáng sủa, vòng cung ôm lấy Huyệt là quý. Sơn chạy tán loạn, lởm chởm , âm u là xấu. Ghi chú :Những định nghĩa trên dienbatn viết theo KS.TRẦN VĂN TAM trong cuốn XÂY DỰNG NHÀ Ở THEO PHONG THỦY. (còn tiếp)
-
TÍCH ĐỨC HÀNH THIỆN LẬP ÂM CHẤT. Sách có câu :"Tiên tu nhân lập âm chất, nhi hậu tầm Long ". Người người đều muốn có được một Địa trạch tốt tươi, nhằm thăng hoa cuộc sống vật chất đầy đủ, công danh hiển hách, vợ đẹp con ngoan, Gia đình hạnh phúc. Sách THÔI QUAN THIÊN viết :"Trong nhà có người đức hạnh cao thượng thì đất đá trên núi gần đó nhất định có Linh khí ". Qua câu nói trên tức là con người làm chủ Linh khí vạn vật do phần Tâm khí của chính mình. Các Phong Thủy Sư không hiểu điều này thì dủ có Trích Huyệt Tầm Long được Bảo địa cũng chẳng linh nghiệm. Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là Thiên Đạo (Đạo Trời ); sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất, tạo nhân quả tốt. Tục ngữ có câu :"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ". Do vậy, tìm kiếm chọn lọc được Địa mạch Huyệt vị, Phong Thủy Sư phải tích đức hành thiện làm căn bản. Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng, thì ắt Thiên cơ sẽ ứng, Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc. Bởi Tâm địa thiện lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi , vận Trời ứng cho, chứ chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung, cứ tưởng rằng tầm được Long huyệt rồi, con cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc, cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn, rõ là ta chẳng biết gì cả. Nếu như các Phong Thủy Sư họ tài giỏi như thế thì ắt họ phải giành những huyệt Đế Vương, Công Hầu, Khanh tướng cho con cháu họ, chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ? Ví như Phong Thủy Sư Cao Biền thời Thịnh Đường được Vua cử làm An nam Tiết độ sứ đô hộ nước ta, thấy đất Giao châu kết huyệt Đế Vương rất nhiều nên sai người đắp thành Đại La trên mạch kết của Can Long, sau đó xưng Vương. Cao Biền còn sợ Tú khí Địa linh của nước Việt chúng ta, nên thường cưỡi diều giấy bay khắp nơi yểm Long mạch không cho kết phát , làm hư hại rất nhiều Long mạch. Nhưng ý người muốn sao bằng Thiên vận (Ý Trời ). Ít lâu sau Cao Biền bị triệu hồi, phải bỏ thành Đại La. Đất Việt là Địa Linh thì tất phải có Nhân kiệt, nối tiếp người xưa đứng lên đánh đuổi ngoại xâm, giành chiến thắng cho dân tộc. HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ là một nguyên tắc học thuật mà các nhà Nho, Đạo xem đó là căn bản. Do vậy mà họ lấy Tâm làm gốc và đó cũng chính là nội dung của Khí. Khí là hình thức mà cũng chính là sự cảm ứng của Tâm. Trời là Lý mà Lý tự nhiên thì :"Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa..."(Trời chẳng nói gì nhưng sanh hóa hết Vũ trụ), luôn cảm ứng cùng Tâm khí con người. Quách Phác nói :"Cát hung cùng cảm ứng lẫn nhau, họa phúc cũng tự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến ". Khi táng di hài Tổ tiên, chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng, song song với việc trên , người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân, tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo. Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt, sẽ cho kết quả trái ngược, làm tổn hại đến con cháu đời sau. Nếu như có Nhân, tất phải có Quả; nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa phúc. Cũng như ngày xưa có người chết được Thiên táng hay Địa táng một cách ngẫu nhiên, con cháu sau này phát Đế Vương, Công hầu. Trường hợp như thân Phụ của ông NGUYỄN KIM (Cao tổ của nhà NGUYỄN GIA LONG ), Âm phần phát được 9 đời Chúa và 9 đời Vua...vv. Đó là phần Âm chất đã tích lũy từ nhiều đời nên chiêu tập được Nhân -Quả, được Trời -Đất cho hưởng Phúc, đâu phải tầm Long trích Huyệt mới được. Triệu Quang viết cuốn :"PHONG THỦY TUYỂN TRẠCH TỰ ", có nói rằng :"Vô phước cho ai không có nhân duyên mà được Huyệt tốt ". Dẫu cái tốt, xấu của Phong thủy Huyệt mộ ảnh hưởng đến cát hung, nhưng Âm đức của con người có thể cải biến được Vận -Mạng. Đến như các bậc Tiền bối Phong thủy như Cao Biền, Quách Phác tài giỏi kinh Thiên động Địa , nhưng khi gặp Huyệt Đế Vương cũng không dám dành cho mình, bời biết đạt Địa lợi, nhưng Thiên thời và Nhân hội còn khuyết, không dám nghỉ bàn. Tóm lại việc "TIÊN TÍCH ĐỨC, NHI HẬU TẦM LONG " của người xưa dạy quả không sai. PHẦN TẦM LONG -CẮM HUYỆT : Phong Thủy Sư quan sát Thiên văn, xem tinh tú trên trời. Sao Tử vi ở phương Bắc; Sao Thiên thị ở phương Đông; Sao Thiếu vi ở phương Nam; Sao Thái vi ở phương Tây, nhìn địa đại tìm Huyệt Long mạch trong tám phương. Lấy tứ chánh vị Càn -Khôn -Ly -Khảm làm dương Long, và bốn cung Chấn -Tốn -Đoài -Cấn làm âm Long (Tiên Thiên ). Một ngọn núi nhô lên đơn độc gần một ngôi làng nào đó, thấy cảnh vật xung quanh xinh đẹp,trên núi xuất hiện nhiều kỳ hoa , dị thảo thì phải biết đó là Long,phải biết phân biệt đầu ,đuôi,Can, Chi,Triền, Giáp, Hộ vệ sơn chạy đến đâu.Đối chiếu xem vì sao nào chủ chiếu cuộc đất này, xem cục thế lớn, nhỏ, tốt xấu. Sau cùng quan sát xem tính tình, ăn ở của dân địa phương nơi đây thì ta mới nhận biết được đó là Chân Long hay giả Long. Kinh Thư có viết :"Tinh tú trên Trời và Địa thế dưới đất luôn tương hỗ với nhau, Phong thủy Bảo địa tự nhiên sẽ thành...Dương đức sẽ hình thành từ thân thể của ta và Âm đức sẽ hình thành từ vị trí ăn ở cư xử thiện hạnh của ta ".Tóm lại thuật Sư Phong thủy phải tiến hành tính toán, nhìn thấy những điểm then chốt thỉ việc tầm Long mạch ắt phải sáng tỏ. MINH SƠN BẢO GIÁM chia Long ra làm 12 loại : SINH LONG, PHÚC LONG, ỨNG LONG, ẤP LONG, UỔNG LONG, SÁT LONG, QUỶ LONG, KIẾP LONG, DU LONG, BỆNH LONG, TUYỆT LONG, TỬ LONG. Các tên này nhằm chỉ vào sự tán tụ của chân Khí mà gọi. SINH LONG, PHÚC LONG, ỨNG LONG,ẤP LONG là bốn loại Chân Khí hội tụ, còn tám loại Long kia là tán Chân Khí;hình thể của Long ngắn,gấp khúc ít lần đi lên, xuống hoặc đi lên mà không đi xuống, xuống mà không lên, cho nên nó làm cho mạch Khí thế đi xuống. Còn tụ Chân Khí thì trải dài ,lên xuống theo hình thể nhiều lần. Tổ tông sơn là nơi xuất phát Long mạch,theo đường hướng mà đi xuống, đoạn ẩn , doạn hiện hay mọc thêm chân tay nhập thủ đoan chính thì gọi đó là SINH LONG. Loại có thêm hoành án hai bên như có cánh dơi thì gọi là PHÚC LONG. Loại Mạch này mà không có Hoành án mà chạy hai bên,ôm vòng trở lại thì gọi là ỨNG LONG. Long mạch ôm vòng trở lại nhiều lần, khí trùng điệp, hình dáng giao đầu lẫn nhau gọi là ẤP LONG. Long mạch hình thế hiểm ác, gấp rút, trùng điệp, nhưng không đối xứng chỉnh tề gọi là UỔNG LONG. Loại này mà trái phải nhô lên cạnh nhọn gọi là SÁT LONG. Loại phân chi, chia cắt mạch gọi là QUỶ LONG. Loại chia nhiều tay gọi là KIẾP LONG. Loại mà Khí lưu ly,tán loạn khắp nơi gọi là DU LONG. Mạch Khí không lên, xuống, không chuyển động gọi là BỆNH LONG. Mạch không phát tán hay tụ khí gọi là TỬ LONG. Mạch nằm riêng biệt không hộ,giáp,triền và không có Khí lực gọi là TUYỆT LONG. Các Long mạch ứng chuyển thuận khí theo THIÊN -ÐỊA -NHÂN thì tác động cho những âm phần táng trong cuộc đất như : SINH LONG thì con cháu ðược hưởng Phúc ,Thọ.PHÚC LONG thì con cháu Phú quý. ỨNG LONG thì con cháu giầu có, hiếu thuận.ẤP LONG thì con cháu Lễ ðộ , nhường nhịn, thuận hòa. SÁT LONG và KIẾP LONG thì con cháu bị tai họa,chết chóc.QUỶ LONG và BỆNH LONG thì con cháu bị bệnh tật,không an cư,nghèo khổ. DU LONG thì con cháu hoang đàng, dâm loạn.TỬ LONG và TUYỆT LONG thì con cháu bị tử thương,tuyệt tự, không có người nối dõi Tông đường. 12 Long mạch có Linh khí ứng chuyển cát hung cho các âm phần,quan hệ đến người còn tại tiền, nên vì thế khi mai táng cho người chết, không thể không lựa chọn đất cắm Huyệt. Ngoài ra còn những thế đất của Tứ Linh và có 5 thế núi căn cứ vào hình dáng, tư thế mà chia ra làm 9 RỒNG : 1/XUẤT DƯƠNG LONG. 2/SINH LONG. 3/GIÁNG LONG. 4/PHI LONG. 5/HỒI LONG. 6/NGỌA LONG. 7/ẨN LONG. 8/ÐẰNG LONG. 9/LĨNH QUẦN LONG. Theo ÐỊA LÝ ÐẠI TOÀN TẬP YẾU :"Phong thủy Ðịa lấy Sinh khí làm chủ, lấy Long Huyệt làm nền tảng, Sa,Thủy làm bổ trợ. Xem Phong thủy chính là quan sát sự thuận ứng nghịch phản của Sơn và Thủy, Khí cứng rắn nhu hòa của Âm Dương,lý Phân ly, hội hợp của tụ và tán. Phong thủy tốt là mạch địa thoạt tiên lên cao, vượt lên, hướng đi của Ðịa mạch hoạt bát như Long,nhấp nhô khộng ngừng, đứt đoạn rồi lại nối liền. Ðịa mạch xuất hiện ở giữa,xung quanh có Sa trướng trùng trùng.Sa trướng của nó có gần có xa, có nghênh có tống,có triền,có hộ vệ.Khi hiệp cốc xuất hiện ,chúng đều thu giữ Ðịa Khí, tựa Phong yêu (Lưng ong ) và Hạc tính (Gối Hạc ) vậy,có nơi tạo ra thế cử đỉnh, có chỗ tạo ra hình Giáp hộ,nơi giao tiếp của Ðịa mạch không bị đứt đoạn, khi Phong suy đi qua hai bên Hiệp cốc , thì Ðịa mạch lại tựa như hai bên mạn thuyền song song mà ra.Nơi đỉnh và hai bên của Ðịa mạch sáng sủa lại cùng tương ứng với Tinh thần, tựa hồ như sắp có Long có Hổ giáng xuống nơi này.Triều sơn ở xa thì đẹp đẽ,muôn hình vạn trạng.Minh đường rộng rãi bằng phẳng,Thủy khẩu giao kết ,uốn lượn xung quanh,bốn phương tám hướng không có nơi nào bị khuyết hãm.Ðịa Huyệt hạ lạc kết Huyệt ở nơi này,khí Âm Dương phân biệt cùng tiếp,chỗ cao chỗ thấp, lồi lõm rõ ràng, địa hình hai bên như hai cánh tay giang rộng, trên phân ra,dưới hợp lại,Ðịa thế tròn và nhọn cùng đối ứng với Thiên quan Ðịa quỷ.Thủy trong ,Thủy ngoài đều ôm ấp,bao quanh nơi này;Sơn trong Sơn ngoài cùng tụ hội. Nơi được như vậy được xem là đại Phú đại Quý của Phong thủy vậy." Trong phần trên chúng ta đã phân tích mối quan hệ giữa tam tài THIÊN -ÐỊA -NHÂN , mối quan hệ giữa Long mạch,Huyệt vị....vv.Từ ðây chúng ta lần lượt xem xét đến hai nhánh chính của Phong thủy là ÂM TRẠCH VÀ DƯƠNG TRẠCH. Phần ÂM TRẠCH rất phức tạp và còn nhiều rối rắm, dienbatn sẽ viết ở phần sau. Bây giờ chúng ta đi vào địa hạt thứ nhất của Phong thủy là DƯƠNG TRẠCH -Tức là nơi sinh sống của người tại tiền.Theo định nghĩa : Dương trạch là nơi sinh sống của người tại tiền (đang sống ), nó không chỉ bao gồm nhà cửa, cơ sở làm ăn, buôn bán mà xét rộng ra nó còn bao gồm cả các Thành phố,Tỉnh lỵ.... Trong thuật Phong thủy hiện nay, có rất nhiều Trường phái, đang bàn cãi lung tung cả và ai cũng cho rằng Trường phái của mình là đúng nhất. Tạm thời người ta có thể chia ra các Trường phái chính như sau : 1/PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH - Hiện nay do Thái Kim Oanh đang chủ xướng. 2/PHÁI DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU (Còn đi theo nó là Dương cơ chứng giải ) của Triệu Cửu Phong chủ xướng. 3/PHÁI HUYỀN KHÔNG HỌC . 4/PHÁI CẢM XẠ PHONG THỦY. 5/PHÁI HUYỀN THUẬT PHONG THỦY. Ngoài ra còn có rất nhiều trường phái khác , nhưng dienbatn chỉ xét đến những Trường phái nổi bật nhất hiện nay.
-
Xin chào Arigato! Trong HK việc chọn hướng cho một căn nhà, người ta chỉ quan tâm đến "đáo sơn đáo hướng'' của hướng tinh sơn tinh chứ ít khi quan tâm đến phi tinh của thiên tinh bàn theo từng cung. Bạn nên coi thử coi tinh bàn theo hướng nhà của bạn coi có được vượng sơn vượng hướng không, hay bị thượng sơn há thủy hay có bị phản ngâm phục ngâm không, sau đó lại xét thêm yếu tố khác nữa, ví dụ như về loan đầu, hệ sao phúc đức của bát trạch..... Trong HK việc các sao là suy khí tử khí không đáng quan tâm bằng các sao nhị và ngũ. Nói chung luận hướng cho một căn nhà không chỉ có một sao phi tinh thiên bàn mà thôi. __________ nhị địa sinh.
-
Đúng là hiện nay người ta hay treo gương bát quái rất nhiều, theo tôi thấy như thế là không tốt, bởi vì bản chất của gương là xua tà đuổi dữ, vì thế nếu thấy nhà mình cực xấu mà không còn cách hóa giãi nào khác thì mới nên dùng đến. Hãy cứ tưởng tượng, có hai nhà có cửa đối nhau, thế là lấy BQ ra treo, chưa xét đến vấn đề phong thủy, ta cũng thấy rằng những người ở trong hai nhà đó sẽ có tâm trạng bực bội, chóng mặt, nhức đầu, bởi vì khi ra vào nhà luôn bị tia sáng của gương soi vào mặt, như thế mới thấy rằng là chưa đuổi được tà thì ta đã nhức đầu trước rồi. Còn xét theo khía cạch phong thủy, thì ta cũng thấy rằng hai cái gương xua đuổi cái xấu của nhà này sang nhà khác, còn cái xấu không chạy qua chạy lại giữa hai nhà, thì không lẽ nó bị tiêu diệt giữa hai làn chiếu xạ hay sao? Hay treo gương tại ngã ba đường hình chữ T, dùng để phản lại sự trực xung của dòng khí xấu, không lẽ dòng khí xấu đó bị phản xạ ra giữa đường rồi tự bị triệt tiêu sao? Vì thế tôi cho rằng không nên quá lạm dụng gương bát quái, cho dù ta cho rằng nó chỉ là một cái gương nhỏ tí xíu thôi mà (nhỏ nhưng mà không nhỏ đâu à nha). Tôi thấy gương thì có nhiều loại, như in hình đầu Hổ, BQ tiên thiên, hay chỉ là một cái gương tròn hay vuông mà thôi, hoặc là một cái gương nhỏ hình vuông nằm trong một cái khung như hình một rế để nồi ở nông thôn. Vài dòng suy luận cá nhân mà thôi. __________ nhị địa sinh.
-
Cám ơn Phạm Cương về lời góp ý rất đúng, bài trên mình lưu đã lâu rồi nên không nhớ, sau này mình có đăng bài khác sẽ cố nhớ để có trích dẫn đàng hoàng. __________ nhị địa sinh.
-
Xin cám ơn chú Thiên Sứ rất nhiều, chú sửa lại nhìn rất dễ đọc. ___________ nhị địa sinh
-
CÂY CỐI VÀ ẢNH HƯỞNG Ngày nay , trên thế giới người ta còn khuyến khích "trồng cây gây rừng " , " phủ xanh thành phố "..... bởi tác dụng tốt của cây cối đối với con người. Nạn chặt phá rừng tràn lan đã tác động không nhỏ đến môi trường sinh thái, gây lụt lội nhiều nơi. Không có cây che chắn , nhiều vùng bị gió cát không thể canh tác hoa màu. Không có cây xanh ,các thành phố bị ô nhiễm trầm trọng bởi khói xe, khói từ các nhà máy thải ra....Có thể kể ra rất nhiều...rất nhiều những tác hại của việc thiếu cây xanh trong môi trường sống của chúng ta. Còn trong PT , từ hàng ngàn năm trước , người xưa đã biết diệu dụng của cây cối trong việc hóa giải 1 số điều xấu trong môi trường sinh sống. Chẳng hạn , cân bằng 1 hình thể khiếm khuyết của ngôi nhà, che chắn tầm nhìn đến các cảnh quan xấu bên ngoài...vv.. Qua đó ta có thể thấy tầm quan trọng của cây cối trong PT là hợp lý. Theo thuyết của Hoàng Đế Trạch Kinh , coi cây cối cũng như có lông, có áo mặc. Những chỗ rộng rãi mênh mông, nếu không có cây ngăn che chận, thì không có gì che thân thể , thì lấy gì giúp đỡ được. Ở rừng núi gió mạnh , nếu không có cây cối ngăn chận thì không chống được gió lạnh. Ở chỗ thôn xóm , nếu cây cối tốt thì hưng vượng ,cây cối tàn tạ thì suy tàn. Nếu không trồng cây cối, như người cởi trần, như chim không lông , làm sao giữ được ấm lạnh để sống lâu ? Người xưa nói : "Trước nhà quang đãng không có gì che chắn , sau nhà cây cối xanh tốt phồn thịnh, 4 mùa rụng lá , ở đó yên ổn & phúc lộc lâu dài." Lời nói đó không sai ! vì cây cối tốt tươi là thịnh vượng , là nói lên vùng đất đó màu mỡ, mà như vậy thì dễ giúp cho vùng đó trù phú lên. Đó chính là vùng đất có ĐỊA MẠCH tốt , cách cục đạt giàu sang. Nếu phía Đông trồng cây đào, cây dương liễu; phía Nam trồng cây mai, táo; phía Tây trồng cây sơn chi, cây dâu; phía Bắc trồng cây mận,cây mơ thì rất tốt, rất có lợi. Nếu trồng hạnh bên Đông, đào bên Tây, táo bên Bắc, mận bên Nam là trái ngược, là sinh chuyện tà dâm. Hình sắc khí của cây cũng cảm ứng rất quan hệ đến họa phúc. Vì vậy, cây trồng phải cẩn thận. Khi thấy cây ở khu vực nào héo úa, vàng lá tức là vùng Khí ở đó có vấn đề, chúng ta phải tìm xem có gì khác lạ từ môi trường bên ngoài tác động không? hay vùng Khí nơi đó Âm Dương không hài hòa, ta phải cân bằng nó lại.... - Cây cối có vẻ bao bọc lấy nhà thì thanh nhàn hưởng phúc. - Bụi trúc quanh co, trong nhà giàu có. - Một dãy cây sum suê trước cửa (nhưng không che ánh sáng) sẽ tốt cho con cháu. - Cây trước nhà có nhiều tàn ngang bằng như cái lọng thì người trong nhà sớm đỗ đạt. - Cây mọc bên hông nhưng thế ôm lấy nhà , giàu có lâu dài. - Cây bên tả uốn khúc ôm lấy nhà, giàu có công danh. - Nhiều cây sau nhà, giàu có thông minh. - Cây 4 bên nhà bằng nhau, có nhiều ruộng mọi nơi. - Cây xanh tàn rộng, con trưởng giàu có. Cây trồng theo các hướng sau đây sẽ được phúc lộc lâu dài: Cây dâu ở phương Nhâm-Tý-Quý-Sửu Cây Tòng Bách ở phương Dần-Giáp-Mẹo-Ất. Cây dương liễu ở phương Bính-Ngọ-Đinh-Mùi Cây thạch lựu ở phương Thân-Canh-Dậu-Tân Rừng lớn ở phương Thìn-Tốn-Tị Rừng trung bình ở phương Tuất-Càn-Hợi - Hoặc cây liễu ở phương Đông, táo ở phương Nam,cây dâu ở phương Tây Nam. Trước cửa có cây Đào, Lý thì ham mê tửu sắc! - Đối diện với cửa có cây Dương liễu rũ như xỏa tóc treo đầu, trong nhà có người thắt cổ. - Trước cửa có cây hình dung cổ quái, nếu nhỏ thì trong nhà có người tự tử ở sông, giếng. Nếu lớn thì bị bệnh tỳ khí không thông, thanh danh bại hoại. - Trước cửa chỉ có 1 cây trơ trọi , trong nhà toàn góa bụa , ít con cháu. - Cành cây đâm xéo vào cửa , sẽ có tang tóc. - Gốc cây bị thủng rễ trước cửa , bị điếc, mê muội. - Cây trước cửa gù cong như lưng lạc đà , đinh tài đều kém. - Cây khô trước cửa , hỏa tai; chồng chết; mất của , chết đường. - Cây khô trên nóc sẽ có quả phụ. - Trước cửa có cây cành dây leo rối rít, bị thắt cổ treo lên hoặc lật thuyền. - Trước cửa có cây mọc rũ xuống nước, trong nhà có người chết đuối. - Cạnh bên phải nhà có cây hoa màu đỏ , thất bại vì nhan sắc. - Trong vườn nếu trồng thông chỉ trồng thông nhỏ, nếu là thông lớn làm ăn không khá. - Hai cây áp sát 2 bên nhà , sẽ bị tang anh em. - Bên phải nhà có cây , có hoa màu trắng , con cháu lêu bêu. Tuyệt đối tránh trồng cây ở góc Tây Nam nhà. Bởi góc Tây Nam nhà là thuộc cung Tình Duyên-Hôn Nhân, thuộc Thổ ; nếu trồng cây tại đây, cây thuộc MỘC , mà MỘC khắc THỔ , sẽ bất lợi cho hạnh phúc vợ chồng. Nhị Địa Sinh xin giới thiệu
-
Cho dù Phạm cương và Chú Thiên sứ rất nhiệt tình đến đâu đi nữa, thì khi nghe lời nói trên cũng cảm thấy mất một chúc cảm hứng. Mặc dù có nói đến 1000x cám ơn, nhưng cảm thấy không có một chúc thịnh tình. Xin chú Thiên sứ và Phạm Cương thứ lỗi vì có vài lời đâm ngang này. Nhưng thiết nghĩ người đi nhờ cũng phải biết rằng thời gian và công sức của người giúp bỏ ra là không nhỏ, chưa nói sự hiểu biết và sự công phu học hỏi để có được sở học đủ để giúp người là cả một quá trình mệt mõi. Xin hãy đọc những chữ viết trên, thì sẽ cảm thấy người viết dù rất muốn thể hiện tình cảm chân thành, nhưng lại có cách nói quá ư cộc lốc, làm người nghe cũng thấy phản cảm. Xin lỗi! không biết NĐS có phải là người khó tính không, nhưng khi đọc những lời trên cảm thấy hơi bức xúc. Nhưng theo quan điểm cá nhân của NĐS thì cho rằng có 2 nguyên nhân sau: - Chị Mỹ Lâm sống lâu năm ở xứ người nên đã quên đi sự biểu cảm của lời nói. - Chính dương trạch đã một phần nào ảnh hường đến tâm tính con người. Có phải chăng khi con người sống trong một ngôi nhà gây cho gia chủ luôn lận đận , lao đau , thì trở nên cộc cằn và nóng nảy khó tính chăng, vì thế đã làm lỡ mất đi một phần mai mắn và sự giúp đỡ của người khác. Vài lời mạo muội vô duyên xin bỏ qua, và không làm mất đi tấm thịnh tình của Phạm Cương và Chú Thiên Sứ hay tất cả những ai muốn giúp đỡ chị Mỹ Lâm, xin bỏ lỗi cho. Chị Mỹ Lâm thân mến! NĐS cũng cầu chúc cho Chị mau chóng vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống hiện tại. _____________ NĐS
-
Đúng với những nơi buôn bán thương mại, cửa hàng mà thôi. Còn đối với nhà ở thì không nên dùng vì sẽ làm rối khí người ở trong nhà, và nhất là treo đối diện với cửa.
-
Xin Chào! Khen PC một thì phải khen người thầy gắp mười. Nhớ cách đầy một năm hơn, có một người than vãn cầu cứu rằng mình ốm đau liên miên, công doanh sự nghiệp thì dỡ dang....... Thế mà chỉ mới có một năm mấy gần hai năm mà giờ đã thành tài giỏi, thế mới thầy rằng người thầy giỏi đến cỡ nào rồi. Xin chúc mừng chú TS, chỉ trong một thời gian ngắn mà đã có học trò giỏi như thế. Chúc mừng PC, phải chăng hồ cá kiểng của chú TS đã trợ lực cho PC mau thành tài đến thế sao, đúng là PC có duyên thật, có duyên thật!!!!!!!
-
Đọc bài viết trên khá hay, nó giới thiệu sơ lược về lý thuyết căn bản của phong thuỷ, nhưng có một chút lấn cấn sau đây: Thời vua Gia Long chạy nạn ra biển đông, có lưu truyền câu nói sau: " Gió đưa cây cải về trời Rau răm ở lại chịu lời đắng cay". Có phải chăng tác giả bài viết trên đã nhớ mang máng về câu nói trên, cho nên đã viết như sau: “Rau răm đã bay về trời, còn lại rau .…. một đời khổ đau” còn về giai thoại câu nói trên, thì những ai đọc về lịch sử ở giai đoạn này đều biết.
-
Một đoàn du khách đến mấy chục người, toàn nam thanh nữ tú, lên đến chùa Hoa Yên, cười nói vô duyên, trai văng bậy bạ, gái cười hô hố, liền bị đau bụng quằn quại, không đi nổi nữa. Họ cứ cố lên mỗi bước, bụng lại đau hơn, cuối cùng phải xuống núi. Khi xuống đến chân núi, thì các cơn đau khủng khiếp chợt tan biến đâu mất. Đám người này hoảng hồn, không dám lên Yên Tử nữa. Tượng An Kỳ Sinh. Nếu so về địa hình, thì dãy Yên Tử và đỉnh Yên Tử, nơi đặt chùa Đồng chỉ cao hơn 1.000 mét so với mực nước biển, chưa phải là cao lắm. Nhưng, như các cụ bảo: Núi không cốt ở cao, vấn đề là trên núi có tiên ngụ; sông không cốt ở sâu, niềm thiêng ở chỗ dưới sông có rồng ở. Và, Yên Tử được xưng tôn là đệ nhất danh sơn miền Đông thổ, là một non thiêng, bởi nó là ngọn núi của tâm linh, của Phật và chỉ những người có căn cơ với thiền mới sống được. Người có căn cơ đầu tiên và kỳ lạ nhất chính là đấng quân vương kiệt xuất Trần Nhân Tông. Người đã rũ bụi trần, bỏ long bào cùng với ngai vàng lấp lánh, kiệu hoa bóng lọng, người đẹp sớm chiều để khoác áo cà sa lên núi tu hành, đã đủ để chứng tỏ mảnh đất này thiêng liêng, cuốn hút ngài như thế nào. Sự rũ bỏ tham, sân, si của ngài cao độ đến nỗi ngài coi cái chết như sự trở về, như một điều giản dị đến khó tưởng tượng. Ngài nằm nghiêng thanh thản trong rừng, tựa dáng sư tử nằm, ngóng về xa xăm, rồi "hóa" giữa đại ngàn hoang vu đến nỗi, khi cây trúc mọc xuyên qua người ngài, đệ tử mới phát hiện ra, để rồi dựng lại hình ảnh ấy bằng bức tượng đá gây cảm động cho muôn đời sau. Phật hoàng Trần Nhân Tông từng có 19 năm tu rất khắc nghiệt. Di tích chùa Cầm là để tưởng nhớ tới việc ngài chỉ uống nước cầm hơi, không ăn uống gì. Trong chuyến xuyên rừng thăm thẳm trọn một vòng quanh dãy non thiêng, tôi đã được nghe kể và được thấy tận mắt rất nhiều những con người của thế giới Phật cứ như trong chuyện cổ tích. Họ đang thầm lặng tiếp bước con đường vị Phật tổ của mình. Sư Thích Minh Tiến, Đạt ma Trí Thông, Thích Thanh Quý... đang từng ngày, từng giờ ăn quả vả, chuối rừng, uống nước cầm hơi, tu luyện trong mái đá giữa rừng già để mong được tìm thấy chính mình trong vòng luân hồi bể khổ. Tôi cũng được nghe những câu chuyện về những con người biến mất một cách kỳ lạ khi đang trên đoạn đường hành xác. Chuyện rằng, từ những năm 80 của thế kỷ XX, trên sườn Đông Yên Tử, có một nữ tu vô cùng khổ hạnh. Khi đó, Yên Tử còn hoang vu, rậm rạp. Cỏ mọc bịt bùng bít hết lối đi. Vị nữ tu này ngày ngày đào măng và cũng chỉ ăn một bữa, rồi ngồi trong am tu thiền. Người ta kể, dáng bà thanh mảnh, mặc áo nâu sồng, đôi mắt sáng, hiền từ như một vị Bồ Tát. Rồi người đi rừng phát hiện ra bà. Những câu chuyện đồn thổi về bà cứ ngày một lớn. Phật tử khắp nơi đổ về tôn bà như vị Thánh, theo hầu nhang khói. Rồi một ngày, bà đột nhiên mất tích, chẳng ai còn thấy bóng dáng bà trong cánh rừng hoang rậm. Người dân quanh vùng thì tin bà là đức Bồ Tát hiển linh. Sau khi đã vặt đầy một rổ quả vả lẫn lá vả non thết đãi chúng tôi trong bữa cơm chiều, chú tiểu Hà (ở Ngọa Vân Am bên sườn Tây Yên Tử, thuộc địa phận tỉnh Bắc Giang, nơi mà chúng tôi phải cuốc bộ ngót một ngày từ chùa Hoa Yên mới tới nơi) dẫn tôi đi tìm khu mộ tháp hoang phế, dưới bóng những cây thông khổng lồ. Giữa cảnh rừng rú, không có đường đi, các nhà sư chỉ còn biết lấy mấy cây thông làm “la bàn” mà đi. Điều đặc biệt là cứ chỗ nào có thông khổng lồ, y rằng có vườn mộ tháp. Lâm tặc xả gỗ ầm ầm giữa rừng, nhưng lạ ở chỗ, chúng vẫn tha cho những cây thông mà gốc nó to đến mức 2-3 người ôm mới xuể ấy. Có lần, chú tiểu Hà thật thà tâm sự với đám lâm tặc rằng: “Các anh tốt thật đấy, không nỡ đẵn mấy cây thông do Phật tổ trồng!”. Nhưng đám lâm tặc cười và nói rất thật: “Thú thật với chú tiểu. Ngày trước, chúng tôi cũng hạ một cây thông lớn, xẻ thành từng khúc, cho trâu kéo. Nhưng trâu không sao kéo được những khúc thông ấy đi. Chúng tôi dồn hết sức lực để vần, thì khúc thông lăn đè chết trâu luôn. Thay 3 con trâu mộng khác thì chết cả 3 con. Sau vụ ấy, chúng tôi hoảng, phải làm lễ tạ rồi không dám động vào những cây thông ấy nữa”. Vừa đi, chú tiểu Hà vừa kể cho tôi nghe về sư Cường: Được nghe kể về những gốc thông bí ẩn, sư Cường đã một mình tìm đến dựng lều để hành xác dưới gốc thông bên vườn tháp mộ u tịch. Sư Cường ngoài 40 tuổi, dáng cao to. Có tài đóng đồ mộc, nên ông đóng cả một căn nhà nhỏ bằng gỗ dưới gốc thông và mấy chiếc ghế tuyệt đẹp. Nền nhà được ghép bởi những thân trúc rất trang nhã. Ông cũng sống một cuộc đời đạm bạc, cũng ngày ăn một bữa cơm với quả vả, quả chuối rừng, rồi ngồi thiền từ sáng đến tối như các vị chân tu. Thế nhưng, được vài năm, đột nhiên sư Cường bỏ lại cả căn nhà giữa rừng hoang đi đâu mất, không một lời từ biệt. Đến cả người huynh đệ của sư Cường là thầy Trí Thông cũng không rõ thực hư thế nào. Mọi người chỉ biết rằng, trước ngày ra đi, sư Cường bỏ rất nhiều công sức khiêng một pho tượng vượt qua nhiều ngọn núi để cúng vào chùa Hồ Thiên. Trong đại ngàn non thiêng Yên Tử còn có một di tích trong hệ thống chùa chiền, am tháp từ xa xưa bị bỏ quên, đó là chùa Ba Bậc. Chùa Ba Bậc nằm rất sâu trong rừng, giữa bốn bề những núi đá phô bày những hình thể kỳ dị. Theo các nhà chân tu nhiều năm sống trên Yên Tử thì khu vực chùa Ba Bậc là nơi hội tụ nhiều linh khí, nên sản sinh ra nhiều kỳ hoa dị thảo. Trên đường đi qua, tôi được tận mắt thấy những loài cây cỏ, hoa lá rất kỳ lạ, mà tôi chưa từng biết đến bao giờ. Cũng tại đây, nơi bắt nguồn con suối Vàng kỳ lạ, nước như màu mật ong. Tại nơi hội tụ linh khí này, mấy năm trước, người đàn ông tên Khiêm cũng lập thảo am, sống hoang biệt với thế giới. Ông Khiêm có quyết tâm rất cao trong suốt mấy năm trời. Nhưng rồi, một ngày, người ta không còn thấy bóng ông đâu nữa. Ông mất hút một cách kỳ lạ. Nhân nói về Yên Tử, các nhà khoa học, các thiền sư tu hành đắc đạo ở Trúc Lâm đều khẳng định loài tùng cổ ở Yên Tử đã hút được linh khí trời đất nên sống trường sinh bất tử. Mới đây, những người đi rừng đã phát hiện ra một con đường xích tùng cổ 700 năm tuổi trên núi Yên Tử, nơi mà Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông thường đi lên núi tu hành. Những cây tùng này cũng là do ông trồng, để vừa lấy bóng mát vừa tỏ rõ cốt cách quân tử. Hiện ở Yên Tử có 3 loại tùng, gồm: thủy tùng (gỗ trắng), thanh tùng (gỗ xanh) và xích tùng (gỗ đỏ). Xích tùng là loại cực kỳ quý hiếm, chỉ còn tồn tại ở nước ta, vân nó như hoa mẫu đơn và đường kính thân cây rất lớn. Hiện ở Yên tử còn 274 cây tùng có tuổi thọ vắt qua 7 thế kỷ. Sau một thời gian khám phá, các nhà khoa học phát hiện ra rằng, trên dãy Yên Tử, cứ ở đâu có bóng tùng, y rằng ở đó có am và mộ tháp. Các thiền sư xưa kia thường tu hành trong một chiếc am dưới gốc tùng, sau khi chết đi, thì tro cốt được quàn luôn ở mộ tháp, nằm giữa hai gốc cây tùng. Trong thời gian vừa qua, các nhà khoa học dễ dàng phát hiện thêm được nhiều am, tháp thông qua việc tìm bóng các cây tùng khổng lồ. Hiểu được lý do vì sao các thiền sư thường tu hành và khi "hóa" cũng nằm dưới gốc tùng, mấy năm trước võ sư Bùi Long Thành đã cùng môn sinh lên Yên Tử luyện khí công với... gốc tùng. Ông Lê Quang, Phó giám đốc TTQL Di tích - Danh thắng Yên Tử, kể: “Hôm võ sư Bùi Long Thành và môn sinh luyện công dưới gốc tùng, tôi tận mắt chứng kiến và thấy chuyện xảy ra vô cùng kỳ lạ. Các võ sinh bất động, người dính chặt vào thân cây tùng”. Sau 30 phút “thụ khí” của “lão tùng”, võ sư Bùi Long Thành mới kể với ông Quang rằng, vùng đất Yên Tử là vùng đất tụ khí, những cây tùng này đã có 700 năm nạp một lượng khí của đất trời rất lớn. Khi các võ sinh luyện công, họ vừa được nạp linh khí của trời đất, lại được nạp “trường điện” mạnh mẽ của “lão tùng” nên mới xảy ra hiện tượng thân thể dính chặt vào thân cây như vậy. Một ngày giữa năm 2007, khi đang lang thang ở suối Giải Oan, nơi thuở xưa các cung nữ trẫm mình, ông Lê Quang, Phó GĐ TTQL Di tích - Danh thắng Yên Tử gặp một cảnh tượng khá lạ: Mấy chục người đàn bà vừa quỳ vừa lạy, vừa khóc bên bờ suối. Trước mặt họ là một mâm đầy ăm ắp lễ vật và cạnh mâm lễ là một làn đựng đầy đá cuội. Khóc lóc và lạy xong, họ bê làn đá rải dọc suối. Thấy khó hiểu, ông Quang liền hỏi tài xế lái xe thì được anh ta kể rằng, hồi đầu năm, chính anh chở mấy chục phụ nữ Lạng Sơn này về Yên Tử trẩy hội. Qua suối Giải Oan, chị em nào cũng nhặt đá cuội mang về, người nhặt nhiều thì cả chục hòn, người ít cũng 2 - 3 hòn. Mọi người mang đá cuội về để kỳ cọ chân tay khi tắm, mong da dẻ được trắng đẹp như những... cung nữ. Nhưng không ngờ, sau ngày dùng đá cuội ở suối Giải Oan kỳ cọ, đêm nào họ cũng gặp... "ma" (?). Toàn là "hồn ma" của các cung nữ chết oan, dựng họ dậy đòi trả đá. Điều lạ là tất cả những người mang đá cuội từ suối Giải Oan về đều bị như vậy và sau vài tháng mất ngủ thì ai cũng phờ phạc như người mất hồn. Ngay cả anh lái xe, lấy về cho vợ mấy viên cuội, cũng gặp cảnh tương tự. Sợ quá, những người này phải về Yên Tử làm lễ tạ tội rồi trả lại đá cho suối Giải Oan. Bản thân ông Quang cũng để ý và được nghe, biết rất nhiều chuyện lạ ở suối Giải Oan. Nhiều cô gái có hoàn cảnh éo le như trót mang bầu bị ruồng bỏ, mắc AIDS, hoặc gặp cảnh trớ trêu, sau khi ngồi bên suối Giải Oan khóc lóc, tâm sự với các cung nữ, tự dưng thấy lòng thanh thản và tìm được cách giải thoát cho sự bế tắc trong cuộc đời mình(?). Chùa Đồng trên đỉnh non thiêng. Những câu chuyện huyền bí trên Yên Tử kể cả ngày không hết. Chính ông Quang đã từng được chứng kiến cảnh tượng một đoàn du khách đến mấy chục người, toàn nam thanh nữ tú, lên đến chùa Hoa Yên, cười nói vô duyên, trai văng bậy bạ, gái cười hô hố, liền bị đau bụng quằn quại, không đi nổi nữa. Họ cứ cố lên mỗi bước, bụng lại đau hơn, cuối cùng phải xuống núi. Khi xuống đến chân núi, thì các cơn đau khủng khiếp chợt tan biến đâu mất. Đám người này hoảng hồn, không dám lên Yên Tử nữa. Ông Trần Trương, nguyên Trưởng BQL Di tích - Danh thắng Yên Tử cũng kể rằng, tại vườn tháp Huệ Quang có một chuyện rất lạ mà ông được chứng kiến. Sau khi đám công nhân làm xong nhà khách Yên Tử, thì rủ nhau lên lễ chùa Đồng. Khi đi qua vườn mộ tháp Huệ Quang, thấy một hòn đá nằm trên ngọn một tháp cổ, liền thách đố nhau ném trúng hòn đá đó. Một cậu vung tay ném trúng khiến hòn đá rơi xuống đất. Lên đến chùa Đồng, đám công nhân này mới phát hiện thiếu một người, người đó chính là cậu thanh niên ném trúng hòn đá lúc nãy. Nhưng không ai lo lắng vì cậu ta cũng là người địa phương, không sợ lạc đường. Sau mấy tiếng đồng hồ xuống núi, quay trở về khu tháp Huệ Quang, đám công nhân sửng sốt khi phát hiện ra cậu thanh niên ném đá lúc nãy đang ngồi xếp bằng tròn bên lăng mộ tháp, mặt áp vào tường, hai tay đặt lên đùi, hỏi chẳng nói, gọi chẳng thưa, lắc vai mãi không tỉnh, cứ ngồi bất động như khúc gỗ. Đám công nhân sợ quá, liền báo BQL, rồi BQL lên chùa Hoa Yên mời thầy Diệu Nhàn xuống làm lễ sám hối. Một lát sau, cậu công nhân nghịch dại kia mới như chợt tỉnh, khóc nức nở, rồi xuống núi. Sau này, tôi gặp sư Diệu Nhàn, sư bảo, những chuyện kiểu như vậy diễn ra thường xuyên ở Yên Tử. Từng là một thầy giáo, ông Lê Quang không mấy tin vào những chuyện huyễn hoặc, nhưng trong quá trình nhiều năm sống với Yên Tử, ông đã được chứng kiến tận mắt những chuyện khó tin xảy ra. Lạ nhất là đoạn đường từ chùa Bảo Sái, qua An Kỳ Sinh lên chùa Đồng trên đỉnh Yên Tử, từ xưa đến nay, chưa có vụ chết người do tai nạn nào cả, mặc dù đây là đoạn đường cực kỳ cheo leo, dốc dác, núi đá lô nhô, rất trơn. Nhiều trường hợp ngã rất mạnh, nhưng chỉ xước sát tay chân mà thôi. Trong những ngày cao điểm, Yên Tử đón tới 7 vạn du khách, người hành hương chật kín mọi con đường, mà không xảy ra tai nạn chết người là một chuyện rất lạ. Thậm chí, hồi thi công chùa Đồng, đột nhiên mây đen kéo đến ngay trên đầu, sét đánh thẳng vào khu vực đang xây chùa khiến mọi thứ cháy đen, tróc hết cả nền chùa, nhưng lạ ở chỗ mấy chục người đứng đó mà không ai hề hấn gì, chỉ bị ù tai một lúc. Đám công nhân đều tin Phật tổ phù hộ nên tiếp tục làm việc, mà không sợ sấm sét đánh chết. Nhưng lạ nhất là chuyện năm nào cũng có một cụ già chết ở đoạn từ chùa Một Mái lên chùa Bảo Sái và cái cách chết của họ cũng vô cùng bí ẩn. Mới đầu năm nay, có một cụ già 77 tuổi, quê ở Hải Phòng, nhất định bắt con cháu cùng đi lên Yên Tử. Bình thường cụ rất yếu, nhưng đến Yên Tử, cụ cứ đi bộ leo núi mà không cần đi cáp treo. Đi một mạch đến gần chùa Bảo Sái, cụ bảo con cháu giở đồ ra ăn. Ăn uống xong, cụ đi vào rừng, ngồi dựa vào gốc cây, nhắm mắt rồi “hóa”. Cụ “hóa” một lúc rồi mà con cháu cứ tưởng cụ ngủ, vì khuôn mặt cụ rất thanh thản. Những câu chuyện tôi ghi được thật khó khẳng định chính xác đến mức độ nào, có thể do nhiều người sùng bái cõi Phật mà thêu dệt thêm. Nếu có các nhà khoa học về Yên Tử nghiên cứu và lý giải cụ thể thì hay biết mấy. Rời non thiêng Yên Tử sau mấy ngày cuốc bộ trong rừng, chỉ được chén “đặc sản” vả luộc, chuối rừng dầm muối, tôi tưởng mình phải kiệt sức, nhưng lạ ở chỗ, tôi thấy lòng mình thanh thản lạ thường, không chút mệt nhọc. Rất nhiều người chưa từng leo núi cũng thấy ngạc nhiên vì sức khỏe của mình khi hành hương về Yên Tử. Điều này cũng là một bí ẩn lạ thường Phạm Ngọc Dương
-
Xin chào chú Thiên Sứ! Chú nói rất đúng, việc bắt chước thì dễ rồi, nhưng làm theo mà không hiểu nguyên lý của nó thì tuyệt đối không nên làm, vì như thế hậu quả sẽ khó lường. Vì thế cháu cũng không dám tự tiện bắt chước, mà không có sự chỉ dẫn của chú. - Rất cám ơn lời mời của Chú, khi nào cháu có điều kiện cháu sẽ đến thăm chú khi có dịp, để được học hỏi và sẵn tiện mua vài cuốn sách của Chú viết (cách đây mấy tháng cháu có tìm nhà chú để mua sách nhưng không tìm được, và vì công việc cũng bận nên cũng chưa có dịp tìm lại). - Dù trên phương diện nào, thì với tinh thần kiên định về công việc phục hồi của chú cho nền văn hóa dân tộc, cháu có một niềm khó tả trong lòng, vì điều đó điều dâng trào trong lòng của mỗi người dân đất Việt có quan tâm đến. - Cháu biết Chú có áp lực rất lớn về hai bát quái này. Thử hỏi một cái HTBQLV của Chú mới đưa ra, dù trên phương diện chấp nối lại, nhưng nó còn khá mới so với HTBQVV đã được ứng dụng rất lâu rồi, đã ăn sâu vào tiềm thức của con người qua bao thế hệ, thì việc Chú gặp nhiều trở ngại trên con đường thẩm định lại của Chú luôn gặp chông gai là lẽ đương nhiên, mong rằng chú đừng buồn phiền nhiều về điều đó. Vài lời làm phiền Chú có gì không phải xin Chú bỏ qua và chỉ giáo thêm. _________________ nhị địa sinh.
-
Xin chào chú Thiên Sứ! Thấy chú giới thiệu vật khí phong thuỷ là vòng tròn âm dương bằng đèn neon sign rất hay và lạ. Vậy cháu xin bắt chước làm theo giống như trong hình và để sau đầu của bức tượng thờ có được không vậy chú, kích thước vòng tròn có theo quy tắc nào không vậy chú, xin chú chỉ giáo cho ạ. Xin cám ơn chú. ___________ nhị địa sinh.
-
Xin chào! -Thấy nói về cây, vì vậy xin chỉ cho biết tên của một số loại cây có tính sát trùng, diệt khuẩn, đuổi muỗi, nếu có hình thì tốt quá. - xin cám ơn. ___________ nhị địa sinh.