nhị địa sinh
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
546 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
4
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by nhị địa sinh
-
Xin mạng phép chú Kim phong gỡi cho chú LeDien vài thông tin: Nam, Ngày sinh: 03/1975 nhằm ngày 01/1975 ÂL, tháng Mậu dần, năm Ất mão. Theo phong thuỷ Lạc Việt, phi cung Ly thuộc Đông tứ cung Các hướng hợp thuộc Đông tứ trạch gồm: + Các hướng tốt: Sinh khí: Đông Thiên y: Tây Nam Phước đức: Bắc Phục vị: Nam + Các hướng xấu: Hoạ hại: Đông bắc Ngũ quỷ: Tây Lục sát: Đông Nam Tuyệt mạng: Tây Bắc
-
Xin chào.Khái niệm không hướng này là của phái huyền không, căn cứ theo phi tinh khi nhập trung cung nên ngôi nhà bị không hướng, phần này cũng có cách hóa giãi riêng.
-
Xin chào. Vinh xác định như sau là đúng:
-
Chúc mừng yêucon nha, yêucon nhờ đúng người rồi đó, hai anh Thiên Đồng và Vothuong phải nói là học trò giỏi của Cụ Thiên sứ, ngoài ra còn một số người khác nữa ví dụ như người đẹp Thanh vân, anh tài Hkeikun......chứ mấy bữa yêucon nhờ, mình chẳng biết làm sao nữa vì cái vụ này mình dỡ tệ, với lại đầu óc mấy bữa nay không được tập trung cho lắm, nên không trả lời yêucon được, mong yêucon bỏ lỗi cho nha. To: Hai anh Thiên Đồng và Vothuong có gì giúp yêucon dùm mình một tay nha, xin cám ơn nhiều.
-
Chúc "Bác" Thiên Đồng sinh nhật vui vẽ hạnh phúc, chúc mừng chúc mừng!!!.
-
Chào lena01.xin cho biết hướng cửa hàng bao nhiêu độ, tôi sẽ chọn ngày dùm cho.
-
Theo tôi biết còn có thêm một Thái cực hoa giáp nữa của tác giả Nguyễn Ngọc Thạch, ở đây tác giả cho rằng Lục thập hoa giáp và Lạc thư hoa giáp là cái võ của Thái cực hoa giáp, tôi cũng không biết như thế nào, mong rằng sẽ có ý kiến góp ý, xin trích một phần giới thiệu về sách này:
-
NGÔI MỘ KẾT BỊ LỘ THIÊN CƠ Nguyễn Viết Trường Có lẽ trong chúng ta, một lần trong đời thế nào cũng có nghe nói đến “Mộ Kết”,nhưng vì sao mà có? thì đa phần mọi người đều không rành hoặc hiểu chưa thuần nhất … Thông thường chúng ta thấy ngôi mộ nào do “Mối” xông lên,mỗi ngày đất đắp mộ một lớn ra, thì gọi là mộ kết, và thân nhân của ngôi mộ đó chắc chắn sẽ được hồng phúc…giàu sang, phú quý v.v… Trước năm 1975,trong khu nghiã trang Mặc đĩnh Chi, tại Sài gòn, chúng ta thấy cũng có vài ngôi mộ như vậy! nhưng… nếu mộ bị xây bao phủ bằng xi măng kiên cố, mộ không có Mối xông! thì… thật khó mà có thể luận định? Trong phạm vi bài viết này, xin cho phép Tôi được lạm bàn về : Ngôi mộ bà Nội của Tôi cũng đã được gọi là Mộ Kết, nhưng lại bị “lộ thiên cơ”! Kết là gì? ảnh hưởng ra sao? khi bị “lộ thiên cơ” thì hậu quả sẽ ra như thế nào? Xin mời mọi người cùng đọc tiếp …. Vào đầu thập niên 40, gia đình Họ Hàng của Tôi sống ở Nam Định, ngôi nhà số 41 phố Hàng Sắt là nơi Ông Nội Tôi thường trú,nhà có 03 tầng lầu , to rộng và dài, dưới bán hàng sắt,và một vài thứ khác , trên để ở,ngoài chỗ để ở ra còn có chỗ thờ Quan Công,Lưu Bị ,Ngũ Hổ,chỗ thờ Gia Tiên , rất khang trang và uy nghi ở tầng thứ hai…và đặc biệt hơn hết là phòng đọc sách của Ông Nội Tôi,chứa đựng rất nhiều sách hiếm quý, mà từ ngày Bà Nội mất đi, ông Nội Tôi thường hay dành nhiều thời giờ ở trong đó… Hơn 03 năm sau ngày Bà Nội Tôi mất, gia đình Bác T….của Tôi có chuyện buồn, Bác T…. gái bị bệnh lao phổi, mỗi ngày một kiệt quệ thấy rõ,chữa thuốc Tây rồi lại thuốc ta mà nào có thấy hiệu quả? Bác T…. trai tuy là người theo Tây học nhưng đến lúc rối trí cũng đành tin vào lời thầy bói? Vào thời điểm này sự mê tín dị đoan vẫn còn ảnh hưởng lớn trong dân gian, vì vậy việc tin tưởng vào bói toán vẫn còn có “cái lý của nó”! Theo như lời của thày bói thì: “ Sở dĩ bác T…. gái cứ đau hoài không khỏi, lý do là:ngôi mộ của Bà Nội Tôi bị động, cần phải bốc mộ,cho mát mẻ,con cháu mới khoẻ mạnh, ăn nên làm ra,công danh phát triển???” Thông thường thì một người mất đi,sau 03 năm thân nhân có thể bốc mộ, do đó việc bốc mộ của Bà Nội Tôi sau 03 năm thì cũng hợp lý thôi, tuy nhiên khi Bác T…. trai xin bốc mộ thì ông Nội Tôi không mấy đồng ý, thấy khó có thể lay chuyển ngay được ông Nội Tôi,Bác T…. trai nghĩ ra một cách là cầu cứu tới anh chị em trong gia đình,hy vọng mọi người đồng ý thì ông Nội Tôi cũng sẽ siêu lòng? Ông nội Tôi có 05 người con trai và 03 người con gái,nhưng người con Cả mất sớm (khi chết còn là “Trai Tân”), nên rất “Linh”thỉnh thoảng đôi lúc hay “nhập”vào bác S…. để báo cho mọi người biết những gì sẽ xảy ra để biết mà tránh hay nên làm, Mọi người trong gia đình chỉ cần nhờ bác S…. thắp nhang, khấn, là bác Cả Tôi sẽ hiện về và nhập vào Bác S…. để nói chuyện cùng mọi người, nghe nói thì chẳng mấy ai tin, nhưng đó lại là chuyện có thật100%. Trong thế giới Khoa Học này, có những chuyện huyền bí cho đến nay chưa có ai giải thích chính xác được ,bởi chuyện này xảy ra có thật ,trước mắt, nên đại gia đình nhà Tôi không ai phủ nhận!ngay chính Ba Tôi là người theo Tây Học ,chẳng tin vào nhửng chuyện ma quỷ, đồng bóng v.v…cũng phải đồng ý là có thật!vì khi chuyện xảy ra có Ba Tôi ở đó!!! Anh em trong gia đình tuy mỗi người mỗi nơi,nhưng khi nhận được thông tin KHẨN của bác T…. trai của Tôi thì tất cả đều thu xếp việc nhà, để về nhà ông Nội Tôi,hầu họp mặt gia đình… Trước khi mọi người “mời” bác Cả Tôi “về”, thì bác S…. nằm ngủ mơ thấy: một người bằng Vàng!!! nhưng nói lại cho mọi người hay thì vì đang rối bời câu chuyện, nên không được chú ý ! Khi mọi người hiện diện đầy đủ tại nhà ông Nội Tôi,tối đến ,mọi người đề nghị hãy “thỉnh” bác Cả Tôi về để xin ý kiến, dĩ nhiên Bác S….là người đại diện anh em trong gia đình,thắp nhang khấn bác Cả về… Mọi người ngồi xung quanh bác S…. chờ đợi,chẳng bao lâu bác Cả Tôi hiện về,nhập vào bác S…. giống như mọi lần trước,có một điều lạ là mỗi khi bác Cả nhập vào bác S…. thì giọng nói nghe đúng là giọng của bác Cả!? Thoạt tiên bác Cả nói với bác Nh…. là : • Chú Nh…. hãy vào dưới cầu thang đuổi con nhỏ người làm đi chỗ khác,nó đang núp ở đó để tò mò muốn nghe lén,chuyện gia đình không nên cho người lạ hay biết? Bác Nh…. đến dưới cầu thang,thì quả thật con bé người làm đang xanh máu mặt núp trong đó!!! Tiếp nối Bác Cả Tôi nói với Ba Tôi : * Chú Tr….,chú có học võ, khoẻ mạnh hơn mọi người hãy thử “Kéo tay”với Anh xem sao? Ba Tôi vâng lời kéo tay với bác S…. tôi thì bị bác S…. thắng một cách rất dễ dàng và nhẹ nhàng…mọi người lúc đó tin chắc bác Cả Tôi đã “nhập” vào bác S…. rồi! Qua trò chuyện giữa người Âm và người Dương,thì Bác Cả Tôi góp ý : • Cái gì Trời cho , thì ráng mà giữ lấy, • Mộ của Mẹ quý lắm!? Sau đó Bác Cả Tôi “Thăng”, mọi người cũng phân vân lắm, ông Nội Tôi nằm trong phòng tuy nghe hết nhưng không ra, và cũng chẳng góp ý gì , ông Tôi là người nhân từ, quảng đại,thương con,quý cháu,mỗi lời nói đều cân nhắc kỹ càng, sự im lặng của Ông Nội Tôi cũng ngầm tỏ ý : “Các con muốn làm gì thì làm, nhưng Bố thì chẳng muốn bốc mộ, Bố cũng đành tôn trọng quyết định của các con thôi!miễn là các con đồng lòng?” Bác T…. Tôi cố gắng thuyết phục mọi người, nên cuối cùng thì đã được toại ý. Và thế là công việc bốc mộ Bà Nội Tôi được tiến hành sau đó…………… Phái đoàn tham dự,ngoài tất cả anh em trong gia đình còn có sự hiện diện của ông Nội Tôi nữa ,ông lặng lẽ đi theo mọi người,nét mặt đăm chiêu,im lặng, ông như chỉ muốn là một chứng nhân đối với việc làm thuận ý, đồng lòng của các con !?...... Sau khi cúng vái xong xuôi, theo lệnh của thày cúng , gia đình cho người cắt cổ con gà , máu gà được vảy để trừ tà ma,khi nhang tàn thì những người phu bốc mộ bắt đầu làm việc…chính ra trước khi mở nắp quan tài, thày phải thắp một cây nến (đèn cày)trên nắp quan tài, rồi **c một lỗ nhỏ sát cạnh , nếu hơi trong quan tài thoát ra làm tắt ngọn nến,thì không được tiếp tục nữa,còn nếu **c xong mà nến vẫn cháy thì mới cho bốc mộ?Một phần dị đoan,một phần cũng do kinh nghiệm truyền khẩu mà tương truyền như thế. Nắp quan tài đang được mở ra, thì từ đằng xa mọi người thấy người giữ nghĩa trang đang hối hả chạy đến,vừa chạy tới vừa la lên: • Ngưng…Ngưng …đừng mở ??? Nhưng, nắp đã được mở ngay khi người giữ nghĩa trang chạy vừa tới sát bên mộ Bà Nội Tôi, ông ta vừa nhìn xuống quan tài vừa hốt hoảng nói lớn tiếng: • Mộ kết mà sao lại cho phép mở ? Thày cúng chắc cũng hiểu được sự tắc trách của mình, xanh máu mặt ,gượng gạo nói như phân bua: • Trời lạnh quá,mọi người lại hối thúc,nên Tôi phải làm nhanh,cướp giai đoạn, đâu ngờ lại xảy ra như vậy! Mọi người chồm sát tới mộ bà Nội Tôi,thì thấy phía nắp trong của quan tài kết bằng những sợi như sáp, trông như mạng nhện, những khớp xương của Bà Nội Tôi,có những lớp trông như sáp bao quanh, toàn bộ xương người còn nguyên vẹn,một lớp như thạch (sương sa) bao phủ………. Trong bàng hoàng của mọi người, bàc T…. trai, ngồi phệt xuống đất, đôi mắt vốn dĩ đã thiếu ngủ lâu ngày, mất ít nhiều sự tinh anh, nay mở trao tráo nhìn xuống mộ mẹ mình…nỗi đau đớn,hối hận,kinh hãi của Bác lúc bấy giờ, làm sao ai trong anh em có thể đo lường chính xác??? Ông Tôi sau khi quan sát tình hình,thật chậm rãi và khoan dung, nói vừa đủ cho các con nghe : • Cho tiếp tục thôi…. Ông không phê bình,không quy trách nhiệm cho một ai, trong những giây phút khó xử nhất như thế này, mới thấy sự bao dung ,sự độ lượng cao cả của Ông Tôi…. Và thế là, những người phu tiếp tục làm việc trong sự lo âu tột độ của thày cúng!!!chẳng biết mọi người sẽ đối xử với mình ra sao? Nhưng nói cho cùng,sự thể đã rồi, chẳng ai quan tâm phiền trách đến ông thày cúng làm gì … Bởi những chỗ tiếp nối của xương đã dính chặt vào nhau bằng một chất như sáp ong,nên thật khó khăn cho các người phu làm việc tháo rửa , Sau khi toàn bộ hài cốt, được gỡ ra và rửa bằng rượu trắng,rồi cho vào một cái hũ bằng sành,có “Khằng” cẩn thận để chôn lại,Mọi người lặng lẽ ra vể…. Trời buổi sáng miền Bắc hôm đó,lạnh giá, mù sương, khung cảnh thật buồn và ảo não làm sao,có ai hay chăng ngày đó chính là ngày thê lương nhất của ông Nội Tôi và các con cháu của ông? Một sự mất mát không thể bù đắp được,một mốc thời gian cho những ngày bất hạnh tiếp nối trong gia đình…. Trở về nhà,mọi người vô cùng bối rối, Bác S…đề nghị hãy “mời” Bác Cả về thỉnh ý xem sao?mọi người đồng ý liền, Khi Bác Cả về, “nhập” vào Bác S…và nói: • Anh đã nói mà sao không nghe?chuyện đến nước này quả là rất nghiêm trọng, Mộ của Mẹ Kết như vậy là “Kết Tam Đại” có nghĩa ba đời được hiển vinh, con cháu có người làm tới Tứ Trụ Triều Đình,nhưng nay “Bị lộ Thiên Cơ”, con cháu chắc chắn bị khốn đốn vô cùng, có thể có người không có cái gáo dừa mà ăn cơm! Anh sẽ cố gắng tháo gỡ,tuy sẽ không đến nỗi như thường tình,nhưng sẽ có những bất ngờ xảy đến,lành dữ tới đâu tùy vào “Cái đức cũa nhà mình”? Anh nay sống ở trên Trời,cúng Anh thì cúng với trái cây,chứ đừng cúng bằng đồ mặn!... Nhớ phải tu thân tích đức,mọi chuyện mới hạnh thông. Mọi người nghe nói vậy cũng vơi đi nỗi kinh hoàng, đến lúc đó ai cũng tiếc là không nghe lời Bác Cả, không quan tâm đến những gì Bác S…kể về giấc mộng của Bác!và nhất là vì thương hoàn cảnh của gia đình Bác T….mà bỏ qua những hành động ngăn cản của Ông Tôi!!! …………………………………………† ?…………………………. Thời gian sau đó ….Khởi đầu là Bác T….gái mất, chị Ch…con của Bác T….cũng mất tiếp theo, Me Tôi qua đời sau khi sanh ra Tôi được 11 tháng, Anh chị em trong gia đình bị phân tán, liên hệ ruột thịt cũng ảnh hưởng xấu đi nhiều,Mỗi gia đình đều có những chuyện đau lòng, lộn xộn, nhưng cuộc sống bết bát nhất vẫn còn cơm ngày ba bữa mà ăn,có lẽ Bác Cả Tôi đã tận tình giúp đỡ,nên Qua đời Ông Tôi , đời Ba Tôi, đời chúng Tôi,nay đời con cháu chúng Tôi không còn bị ảnh hưởng nữa, Bọn trẻ gia đình nào cũng học hành giỏi dáng, cần cù làm ăn,và có một tương lai rực sáng… Trong thời loạn lạc,di cư, Ông Tôi đã cùng sống với gia đình của Ba Tôi, Ông Tôi nhân từ lắm,sống giản đơn và luôn hòa mình cùng mọi người trong gia đình, Ông dạy chúng Tôi rất nhiều về cách sống sao cho đáng sống,có một câu Tôi còn nhớ Ông dạy: “Ông Trời sanh ra con người,cho con người hai cái mắt để nhìn mọi sự,cho con người hai cái tai để mà lắng nghe học hỏi,cho con người hai lỗ mũi để mà biết mùi vị trên đời,nhưng….chỉ cho con người một cái Mồm để diễn tả cảm nghĩ,do đó hãy: nhìn nhiều,nghe nhiều, ngửi nhiều, nhưng hãy nói ít, làm được như vậy mới xứng đáng làm NGƯỜI” Khi hồi cư về Hải Phòng thì Ông Tôi sống với gia đình Bác T….Tôi và mất sau đó, Xuốt thời gian sau cho đến lúc qua đời, mọi người không bao giờ thấy ông Tôi trách cứ con cái về sự vụ việc Bốc Mộ cả, nếu ông có nói gì về chuyện này,chỉ là có tính cách kể lại chuyện mà thôi Và Tôi,nay tường trình lại câu chuyện này, theo sự góp nhặt những chi tiết nơi Ba Tôi, và một vài người uy tín trong dòng họ, Bởi đây là một chuyện có thật, những tình tiết viết trong đây không là hư cấu vì trọng tâm của Tôi chỉ muốn ghi lại cho con cháu đời sau được rõ,và những đọc gỉả được hiểu thêm về một câu chuyện thật,mang tính huyền bí,đã xảy ra trong giai đoạn lịch sử của một dòng họ, câu chuyện bao quanh chủ đề : NGÔI MỘ KẾT nhưng lại BỊ LỘ THIÊN CƠ. Cali.03/14/2006 Nguyễn Viết Trường Vanhoaphungdong.com
-
Theo phong thuỷ Lạc Việt, phi cung Càn thuộc Tây tứ cung Các hướng hợp thuộc Tây tứ trạch gồm: + Các hướng tốt: Sinh khí: Tây Thiên y: Đông bắc Phước đức: Đông Nam Phục vị: Tây Bắc + Các hướng xấu: Hoạ hại: Tây Nam Ngũ quỷ: Đông Lục sát: Bắc Tuyệt mạng: Nam Theo phong thủy phi Lạc Việt Phi cung Càn thuộc Tây tứ cung Các hướng hợp thuộc Tây tứ trạch gồm: + Các hướng tốt: Sinh khí: Tây Thiên y: Đông bắc Phước đức: Tây Nam Phục vị: Tây Bắc + Các hướng xấu: Hoạ hại: Đông Nam Ngũ quỷ: Đông Lục sát: Bắc Tuyệt mạng: Nam
-
Đây này: http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...p?showtopic=997
-
chào dothithuy, có vài thông tin tổng hợp đây: -1977 - Đinh tỵ - 33 tuổi - bị Kim lâu thê - bị Hoang ốc (lục ốc: làm nhà khó đạt) - tam tai tuổi Tị là các năm hợi tý sưủ như vậy năm nay bị tam tai - Cưủ trạch là Quỹ : trong nhà phụ mẫu có vấn đề. -Theo phi tinh HK cổ Thái tuế tại tốn - Đông Nam. -Theo phi tinh HKLV Thái tuế tại Tốn - Tây Nam. -Theo địa bàn năm nay kỷ sưủ, thái tuế tại sưủ - ĐB, Tuế phá tại mùi (TN), thái tuế hung hại như thế nào thì tuế phá cũng không kém (kiểm tra xem hướng TN có bị loạt vào sơn Mùi không). - Theo du niên kiến trạch thì 33t bị lục sát (TN). - dothithuy thân mến, sau khi xem xong, tôi hoa cả mắt, tự hỏi một đời người có được mâý lần xây nhà. nhưng tôi thấy cũng có cách hoá giải như mượn người. Có người theo phi tinh thì không theo thần sát và ngược lại, vì thế tôi kể lược hết ra, còn quyền quyết định thì nơi bạn vậy. Chúc vạn sự tốt lành. ___________ nhị địa sinh
-
Xin kính chào quý vị, nhị địa sinh tôi xin mạng phép đưa bài viết tổng luận về phong thủy của tác giả dienbatn bên diển đàn thegioivohinh.com, để những người chưa biết về phong thủy nắm được phần cơ bản về phong thủy, cũng như những có tìm hiểu và có hiểu biết về phong thủy có được một hệ thống khá hoàn chỉnh về phong thủy. Những bài viết của tác giả dienbatn sau đây không phải là lý thuyết của phong thủy Lạc Việt, mà chỉ mang tính tham khảo. Tri ân của tác giả dienbatn: Bài viết này dienbatn đã viết dở bên trang TUVILYSO . Nay thấy có nhiều người muốn nghiên cứu Phong Thủy một cách tường tận và cụ thể nên dienbatn xin biên tập lại , ngõ hầu giúp mọi người được tý chút gì đó về Phong Thủy một cách đơn giản hơn . Xin hồi hướng công đức này cho GS.TS NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG và Huynh DAOKY ở nơi chín suối . Cầu mong cho các Huynh sớm về cõi Phật . dienbatn . Thân gửi các bạn trên Diễn đàn Phong thủy. Từ trước tới nay, phần lý thuyết Phong thủy được viết rất nhiều, hằng hà sa số cuốn sách đã được in hoặc lưu truyền trong dân gian.Tuy viết rất nhiều, nhưng vấn đề lý thuyết của bộ môn Phong thủy, vì không được dựa trên một căn bản Lý thuyết thống nhất và triệt để nên tùy theo điều kiện cụ thể mà phát triển ra rất nhiều Môn phái Phong thủy, có lý luận và cách thực hiện nhiều khi trái ngược lẫn nhau, khiến người đời sau không làm sao hiểu được và tính chất Thần bí cứ dần dần xen vào và từ đó Thuật Phong thủy trở nên một cái gì đó Huyền bí, khó hiểu và được coi là Mê tín dị đoan. Việc tìm lại cội nguồn Lý thuyết của bộ môn Phong thủy nói riêng và Lý thuyết của Dịch lý Đông phương nói chung, là một vấn đề rất thiết yếu. Công việc này đòi hỏi rất nhiều thời gian nghiên cứu, sưu tầm, nhận định, tập hợp và sắp xếp lại. dienbatn không dám có tham vọng làm việc đó, chỉ xin làm viên đá nhỏ lót đường cho sự nghiên cứu của các bạn. Nếu thành công thì thành quả đó xin tặng lại các bạn , hoặc nếu chẳng đi đến đâu cả thì âu cũng là số Trời, và những gì có được xin các bạn cứ dùng làm tư liệu để tiếp tục những bước sau này. Mọi việc đều phải có sự khởi đầu và như người xưa nói :"VẠN SỰ KHỞI ĐẦU NAN ".Trong bài viết này dienbatn xin được công bố, những bài viết, những ý tưởng của một số Cao nhân ẩn danh, không muốn xuất hiện. Đúng hay sai còn phụ thuộc nhiều yếu tố, song dienbatn xin kính cẩn cảm ơn các vị Tiền bối đã chỉ giáo. dienbatn chỉ là người trích dẫn, sắp xếp lại cho thứ tự và mạch lạc hơn, ngoài ra do sự kém cỏi thô lậu, không có ý tưởng gì hay nên xin các bạn cũng đừng chấp. Nào, bây giờ chúng ta bắt đầu khởi hành. 1/LỜI NÓI ĐẦU : Theo sử sách còn truyền lại, từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ, xa thì trông Thiên văn, đại Địa, gần thì trông ở người, vật, toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân. THIÊN :Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh. ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa. NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần. Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo, mỗi thành phần đều sống động. THIÊN ĐẠO :Là sự vận hành các phần tử Thiên hà, Thiên hệ, Tinh tú châu lưu an toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định. ĐỊA ĐẠO :Thủy - Hỏa - Phong, châu lưu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn vật. NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn của Thiên - Địa, Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới minh. Vũ trụ toàn đồ luôn sống động, nếu ngưng , nghỉ tức là hoại , là diệt. Một Cảnh giới hài hòa tạo được sự an lạc, hạnh phúc cho mọi người tức là cả ba thành phần phải tốt tương ứng thể hiện đủ đức tính của Đại đạo. Vì thế , các bậc Tiền nhân luôn có ước muốn tạo cho mình và cộng đồng một Cảnh giới Chân -Thiện - Mỹ, họ chiêm nghiệm , học hỏi từ Thiên nhiên địa vật, tạo nên nền tảng Kiến trúc . Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn, Địa thế, Nhân sinh ), nên gọi là thuật Phong thủy. Phong thủy cũng dựa vào trên nền tảng Quái đồ,Hà Lạc. NHÂN THỂ LÀ MỘT TIỂU VŨ TRỤ. Trước khi Tầm Long, trích Huyệt thì Phong thủy sư phải học hỏi để hiểu biết nhân thân là một TIỂU VŨ TRỤ.Trong thân thể con người có 365 đại huyệt và gần 1.000 huyệt nhỏ khác, cũng có Khí, có Thủy, có Hỏa, kinh lạc như Đại Vũ trụ bên ngoài. Phải biết kết nối các mạch cùng vận hành thuận hòa trong bản thể, tức là phần tu luyện Pháp Đạo, Đạo Thuật để đạt được đức Nhân. Có Đức Nhân rồi mới tìm hiểu biết về Đại Vũ trụ, tầm Long,tróc mạch những nơi "Tàng Phong tụ Thủy ", là những nơi có Huyền lực của Thiên Địa làm ảnh hưởng thăng hoa vật chất và nhân thể. Điểm Huyệt trên Nhân thì ảnh hưởng đến tính mạng, còn điểm Huyệt trên đất, nước, âm, dương trạch thì ảnh hưởng đến dòng tộc , con cháu nhiều đời. Do vậy, các Phong thủy sư phải rèn luyện Đạo thuật,nhằm khai mở Tâm năng, khiếu Cảm xạ, Thấu thị là chính yếu, còn tri thức kinh nghiệm của các bậc Tiền nhân là căn bản cho sự nhận định và luận chứng Huyệt mạch Phong thủy mà thôi, chứ việc Tầm Long , trích Huyệt rất phức tạp và đa dạng. Tâm năng của con người gần như bất tận nếu biết rèn luyện, khai thác đúng mức những khả năng để khám phá Đại Vũ trụ như: -Cảm xạ các giao động mạch Khí.Tìm nguồn nước. -Thần giao cách cảm.Tương tác giữa người này và người kia. -Sử dụng tâm năng Tiên đoán, thấu thị. -Hóa giải theo ý muốn. -Biết được Thiên vận, Địa thế, Nhân cơ,các nguồn thông tin, dữ liệu từ Vũ trụ. -Sử dụng Tâm năng trong Y học trị liệu,giải phẫu... -Trị liệu bằng Trường Sinh học. Ngày xưa ở Trung quốc, Việt nam và các nước Chấu Á đều có Kỹ thuật xây dựng, kiến trúc theo Phong thủy căn cứ vào 4 yếu tố :HÌNH -LÝ-KHÍ- SỐ. 1/KHÍ :là Năng lượng Vũ trụ hàm tàng trong Vũ trụ, vật thể, Đất, Nước, con người.. 2/LÝ :Là quy luật vận động, vận chuyển , tạo tác của Khí Thủy - Phong - Hỏa. Gồm ba nguyên tắc : a/Trời chưởng quản Địa,Nhân. b/Trời, Đất đều tác động đến Vật chất và con người, nên phải biết vận dụng ảnh hưởng này nhằm tạo yên vui cho cuộc sống. c/Vận mạng , hạnh phúc của người sống tùy thuộc ảnh hưởng của người chết, tức là Âm trạch. Do vậy người xưa có câu :"Người sống thì xem cái nhà , người chết thì xem cái mồ ". 3/SỐ :Là những tượng số của Dịch lý(Nghi,Tượng, Quái, Hào). 4/HÌNH :Là hình thể vùng đất, dòng nước, cấu trúc các công trình xây dựng có ảnh hưởng tốt đến mạch khí. Ngoài 5 thành tố Kim-Mộc-Thủy -Hỏa-Thổ sinh và khắc chế ngự lẫn nhau. Yếu tố được xem là thuận lợi khi nào năng lực của Vũ trụ hòa hợp cùng năng lực của Đất hay còn gọi là sóng điện từ. Chính hai lực này chi phối, ảnh hưởng đến hoạt động của Trường Sinh học con người, nếu hai lực này tương phản thì đem lại kết quả xấu cho con người trong cuộc đất này hay Dương trạch họ đang ở, hoặc Âm trạch táng tử thi. Nếu hai lực kết hợp tốt thì Vận mạng của con người sẽ tốt, sức khỏe dồi dào, kinh tế phát triển lên mãi. Do vậy, Phong thủy là một bộ môn học thuật dựa trên Minh triết của Âm -Dương-Ngũ hành -Bát quái, là một Huyền môn Khoa học cổ xưa đã có quá trình trải nghiệm trên 5.000 năm.Phong thủy không mê tín mà là một học thuật tối cổ căn cứ vào HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ mà luận đoán theo một quy luật nhất định. PHONG THỦY. Phong : Là Gió. Thủy :Là nước. Hỏa :Là Lửa. Là tinh túy của Đất, sự lưu chuyển của ba thành phần này nhờ vào Khí. Địa vận có sự dịch chuyển để sinh hóa thì Thiên vận tùy theo nó.Thiên vận có sự biến đổi thì Địa khí tương ứng với nó.Thiên khí vận động ở trên thì Nhân khí tương ứng với nó; Nhân vận động ở dưới thì ở trên Thiên khí sẽ ứng theo. Như vậy chúng ta thấy rằng Tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN đều có liên quan lẫn nhau. Hoàng Thạch Công nói :Một Âm, một Dương là Đạo (Nhất âm nhất dương chi vi Đạo ). Một tĩnh , một động là Khí, một Vãng một Lai là Vận. Hà đồ -Lạc thư hợp thành số lẻ;"Cơ "là Tịnh Dương hay thuần Dương, số chẵn là Ngẫu thì Tịnh Âm hay Thuần âm. Sách "CHÍNH QUYẾT CHƯƠNG HÌNH KHÍ "của Tiên sinh Tử Linh Thành viết :"Vào thời Phục Hy,Thần nông, Hoàng đế; sông Hoàng hà dịch chuyển từ Long môn đến Lã Lương Sơn, Từ Lã Lương Sơn hướng về Thái hành sơn chảy qua Kiệt Thạch sơn vào biển lớn.Sông Hoàng hà chẩy từ phương Tây chẩy qua phương Nam,rồi từ Nam chuyển hướng lên Đông bắc, Dự châu đóng ở giữa.Hoàng hà chính là dải đai các núi Nhũ nhạc triều bái,thì nơi đây chính là Phong thủy Bảo địa.Cũng là nơi xuất hiện ra các bậc Thánh nhân như vua Ngiêu,Thuấn, Khổng tử.Phía Bắc Hoàng hà , còn phương Nam là Trường giang,Thái sơn (Tỉnh An huy ) kẹp giữa ;như vậy Thái sơn chính là Can Long từ dải Hoa sơn trở xuống (Vùng đất này ngày xưa là của Việt tộc ).Nhưng rồi Thiên vận hướng Can Long xuôi theo về hướng cực Nam để rồi kết thành một vùng Bảo địa hay Linh địa.Có Linh Tú khí.Quách Đại Quân viết rằng :"Ta xem núi non ở Giao châu phần lớn Long mạch đều xuất phát từ Quý châu, mà Quý châu là phần dư thừa các con sông từ đất Ba Thục; Long mạch chảy qua cuồn cuộn không dừng thẳng đến đất Giao châu, nên nước ấy có Can Long kết thành Linh bảo địa". Nền Phong thủy của Việt nam chúng ta dựa trên học thuật của Tổ tiên, ông cha truyền khẩu, bao nhiêu sách vở từ xưa đã bị tiêu hủy trong thời chiến tranh bị đô hộ Bắc thuộc.
-
Chúc mừng Trung sinh nhật vui vẽ, ấm áp tình thân. __________ nhị địa sinh
-
Chào yêucon. Đàn ông mà, ông nào mà không cố chấp gia trưởng chứ, với lại cái ông quý sữu này trông có vẽ hiền hiền nhưng lại hay nóng tính, cục cằn, cố hữu, vì thế sự thay đổi liên tục là không thích hợp với ông này, muốn ổng không la rầy nữa, bữa nào rũ ổng cùng tìm hiểu về lý học đông phương đi, để ổng hiểu lòng tốt của mình chứ. Mà nè yêucon con nai mà có sừng gọi là con nai gì nhĩ? vui vẽ nha!!! _________ nhị địa sinh
-
Chào Phạm Cương.Thật ra chỉ mới là sự kết hợp giữa mệnh cung hướng của mệnh nhân với vận bàn, chứ chưa xét đến phi tinh sơn hướng, vì chưa biết được độ số của hướng. Hướng TB này có tới 3 sơn Càn Hợi Tuất và âm dương cũng khác vì thế phi tinh sơn hướng cũng khác, chưa nói đến phần sơn hướng bị kiêm nữa lúc đó cũng có phi tinh khác rồi. Nếu nói là "cực kỳ tốt đẹp" là nói hơi quá, nhưng ở đây chỉ nói cho tốt cho việc kết hợp được điều tốt cho vận và hướng phối cung mệnh chủ mà thôi, vẫn biết cần có sự kết hợp nội ngoại của cấu trúc hình thể với lý khí phi tinh nữa, việc có được ngôi gia tốt đẹp về mọi phương diện là rất khó, được cái này thì bị cái khác, cho nên cái cầu toàn là rất khó. Hiện thời là sinh khí, khi đổi vận mà không sửa chữa ngôi gia thay đổi, thì vận bàn cũng không thay đổi nhưng lúc này đã đổi từ sinh khí sang vượng khí đang vận rồi, làm sao còn là sinh khí nữa, chỉ khi nào thay đổi sửa chữa ngôi gia thì mới có vận bàn mới và lúc đó đúng vẫn là sinh khí. Thân. _________ nhị địa sinh
-
Bố Trí Phong Thủy Nhà Ở Năm 2009 Trong Phong Thủy Huyền Không Học một năm mới bắt đầu từ Tiết Lập Xuân, năm 2009 được tính trong Phong Thủy Học là từ ngày 4 – 2 – 2009 đến 3 – 2 – 2010. Âm lịch năm 2009 là năm Kỷ Sửu biểu trưng bằng con Trâu (Người Trung Quốc gọi Thủy Ngưu – Trâu và Hoàng Ngưu – Bò) theo phong tục dân gian thì các diện tích phòng nên chọn là lấy số quy là 3 (Chiều ngang chiều dài chia cho 9 lấy số dư là 3) là hợp với năm Kỷ Sửu. Đem toàn bộ mặt bằng của nhà, phòng chia làm 9 cung vị bằng nhau (tức ma trận Lạc Thư) lấy chuẩn xác điểm trung tâm của nhà, phòng từ đó chia ra 8 cung vị theo 8 phương là Bắc – Đông Bắc – Đông – Đông Nam – Nam – Tây Nam – Tây – Tây Bắc. Nếu như nhà bạn gồm nhiều tầng thì mặt bằng mỗi tầng cũng được chia làm 8 cung vị như vậy. Nếu như bạn ở vào chung cư hoặc thuê phòng thì chỉ cần dùng diện tích mặt bằng của nơi bạn ở là được. “Cửu Tinh” tức là “Chín Sao” – trạng thái đặc điểm cảm ứng phương vị của Khí Trường – Biểu hiện bằng các con số từ 1 đến 9 (Nhất Bạch, Nhị Hắc, Tam Bích, Tứ Lục, Ngũ Hoàng, Lục Bạch, Thất Xích, Bát Bạch, Cửu Tử) . Nó chứa đựng hàm nghĩa và tạo ra các hiệu ứng tác động vào con người. Các trạng thái này biến đổi theo mỗi năm, thuật ngữ Phong Thủy Học gọi là “Lưu Niên Phi Tinh”. Trong năm 2009 tại các nơi trong nhà mà các bạn thường xuyên sử dụng, hoạt động (Như bàn làm việc, học tập, giường ngủ, phòng bếp, phòng ăn, ….) rơi vào cung vị nào, nó sẽ khiến cho bạn chịu ảnh hưởng của 9 trạng thái Khí Trường trên. Từ đó sản sinh ra các hiện tượng tốt xấu. Tất nhiên cũng cần tính đến các yếu tố thể chất của riêng mỗi người. Ví dụ phòng ngủ của bạn ở vào phương Đông, năm 2009 là Sao 7 (Thất Xích) mà 7 mang hàm nghĩa tranh cãi, gặp phải các rắc rối về tình cảm, nó dễ dẫn đến các hiệu ứng năm nay bạn gặp các rắc rối trong tình cảm hoặc kinh doanh, tuy nhiên nếu như bạn là thuộc vào người có thể chất phù hợp thì mọi việc cũng sẽ nhẹ nhàng hơn. “Cửu Tinh” mỗi sao đều biểu tượng cho một loại năng lượng, đối với con người nó sản sinh các hiện tượng xấu tốt khác nhau, bao gồm, sức khỏe, vận khí. Nếu như bạn có thể dùng được các phương vị “Lưu Niên” tốt đồng thời hóa giải được các “Lưu Niên” xấu thì tất nhiên sẽ có tác dụng thúc đẩy điều tốt, tránh khỏi tai ương họa hoạn. Phương Đông: Thất Xích Bay Đến (7) Hiện tượng tốt xấu: Hiểu hiện khu vực này hay gây ra các chuyện tranh cãi, phạm vào chuyện rắc rối về tình cảm (Đào Hoa Sát). Phương Pháp Hóa Giải: Bày ở đây một chậu, bồn thủy thực vật như Trúc Quan Âm, Thủy Tiên, Vạn Niên Thanh có thể hóa giải được mọi chuyện. Phương Đông Nam: Bát Bạch Bay Đến(8) Hiện tượng tốt xấu: Sao Bát Bạch(8) đại biểu cho tài vận lại là đương vận vượng khí, nên trong năm 2009 tại nơi này có thể sắp đặt vị trí tài lộc ở đây. Không chỉ vượng tài, Bát Bạch còn có lợi cho sức khỏe cũng vận thế các mặt khác nói chung. Phương Pháp Khai Vận: Có thể bố trí cây cảnh, tụ bảo bồn, tử tinh động, bể cá, phong thủy luân, sẽ đạt được hiệu quả thịnh vượng. Phương Nam: Tứ Lục Bay Đến(4) Hiện Tượng Tốt Xấu: Đại biểu cho việc học hành, thăng tiến trong sự nghiệp. Tuy nhiên khi hội cùng Vận Tinh Tam Bích nó ứng “Bích Lục Phong Ma” là chủ về các bệnh kỳ quái. Phương pháp khai vận: Có thể bố trí ở chỗ này một chậu trúc phú quý (Hoặc 4 cây), ngang thân trúc nên buộc một giải ruy – băng màu đỏ để hạn chế sự tích tụ âm khí, vì thân trúc rỗng lâu ngày có thể tích tụ quá nhiều âm khí, cũng có thể bày bàn làm việc, đọc sách, trên đặt tháp văn xương, hoặc một giá bút lông treo 4 cây bút lông loại lớn. Đặt Tháp Văn Xương bằng đồng hoặc Tháp Ngũ Đại bằng đồng, vừa hóa giải “Bích Lục Phong Ma” vừa tăng tiến học nghiệp, trí tuệ. Phương Tây Nam: Sao Lục Bạch Bay Đến (6) Hiện Tượng Tốt Xấu: Vốn đây là một sao tốt, lợi cho quan vận sự nghiệp, song hiện nay là Vận 8 (Từ năm 2004 – 2023) cho nên nó không được tính là tốt. Sách “Huyền Không Bí Chỉ” có nói “6 – 2 gặp nhau, Càn Khôn Thần Quỷ” tức Sao 6 vốn là quẻ Càn, Cung Tấy Nam là Quẻ Khôn hai yếu tố này gặp nhau mà hiện đều là suy Khí nên hay tạo các việc bất thường, khó đoán trước. Đồng thời Vận Tinh ở đây là Ngũ Hoàng Đại Sát nên tính chất sự việc càng nghiêm trọng hơn. Có chăng Lục Bạch ở đây được Thổ Khí trùng trùng sinh nhập nên nếu khéo dùng vẫn có thể tốt. Phương Pháp Khai Vận: Có thể treo ở cung vị này một bức tranh phong cảnh hoặc một bức thư pháp với chữ thích hợp để hỗ trợ hóa giải. Phương Tây: Sao Nhị Hắc Bay Đến(2) Hiện Tượng Tốt Xấu: Nó đại biểu cho bệnh tật, dễ bị mắc các bệnh về phế quản, cổ họng, tỳ vị. Nhị Hắc bay vào cung Đoài là 2 – 7 gặp nhau, đây vốn là cặp Hỏa tiên thiên theo Kinh Dịch, mà cung Đoài Hậu Thiên lại là Kim, cũng là đại biểu cho phổi, cổ họng. Kim bị hỏa khắc nên ứng vào các bệnh trên. Phương Pháp Hóa Giải: Có thể treo ở đây một chiếc Hồ Lô, bày bộ tượng Tam Đa bằng gốm để hóa giải Bệnh Khí. Phương Tây Bắc: Sao Nhất Bạch Bay Tới(1) Hiện Tượng Tốt Xấu: Lợi cho tình duyên, thăng chức, giao dịch, hôn nhân. Cung vị Tây Bắc là Càn 6 thuộc Kim sinh dưỡng cho 1 thuộc Thủy, lại phối hợp thành cặp Thủy Tiên Thiên (1 – 6) rất lợi học tập, tài lộc. Phương Pháp Khai Vận: Có thể bố trí ở đây các vật phẩm mang ý nghĩa cát tường bằng đồng, như cặp tiên đồng ngọc nữ, tranh chữ bằng kim loại, đồng tiền cỡ lớn. Cũng có thể bố trí Phong Thủy Luân, bồn phun sương để vượng tài. Phương Bắc: Sao Ngũ Hoàng Bay Đến(5) Hiện Tượng Tốt Xấu: Đây là sao rất xấu, nó đại biểu cho tai nạn, ốm đau, tổn thất tiền bạc. Vì thế nó được gọi là Ngũ Hoàng Đại Sát. Ngũ Hoàng là Âm thổ, mang thêm tính chất của Liêm Trinh là Âm Hỏa vì thế sát tính của nó rất mạnh, nó không hề bị Dương Thủy ở cung vị Bắc khắc chế, mà trái lại càng làm tăng thêm sát tính của nó. Vận Tinh chỗ này là Tứ Lục(4) trong Vận 8 là kịch độc (Tử Khí) nên có thể nói cung vị phía bắc là cung vị xấu nhất trong năm 2009. Phương Pháp Hóa Giải: Khu vực này không nên bố trí các đồ dùng điện lớn, các đồ chứa nước, bể cá, tránh các tác dụng nên sức khỏe mọi người trong gia đình. Có thể bố trí hồ lô đồng, ngũ đế tiền, phong linh đồng để hóa giải. Phương Đông Bắc: Sao Tam Bích Bay Đến(3) Hiện Tượng Tốt Xấu: Sao Tam Bích còn có tên gọi là Xi Vưu, vốn là một nhân vật hiểu chiến trong thần thoại của Trung Hoa. Vì thế nó đại biểu cho sự tranh cãi, tranh đấu, điều tiếng, tổn thất tiền bạc… Phương Pháp Hóa Giải: Tại khu vực đó có thể bố trí phong thủy luân, bể cá, tụ tài bồn để tránh bị thoái tài. Có thể bố trí các sợi dây đan kết vô cực màu đỏ có các hình cát tường như Khánh Vân, Phúc Giáng…Cũng có thể bày thàm đỏ ở khu vực này, các vật phẩm bằng đồng như gà trống, kỳ lân, tỳ hưu cũng có thể giúp giảm bớt thị phi điều tiếng, phá tài tổn thất. Trung Cung: Sao Cửu Tử Bay Vào(9) Hiện Tượng Tốt Xấu: Cửu Tử Hỏa Tinh đại biểu cho việc vui mừng, loại đào hoa, hôn nhân, thăng quan tiến chức. Phương Pháp Khai Vận: Tại khu vực giữa nhà có thể bố trí bình hoa, nên cắm hoa tươi và thay hàng ngày, sẽ giúp cho tăng tiến đào hoa vận cũng luyến ái vận. Hoặc cũng có thể bày bốn chậu cảnh nhỏ có màu xanh lục đậm. Trên đây là những luận đoán sơ lược về Lưu Niên phi tinh. Tuy nhiên mức độ ứng nghiệm còn tùy thuộc vào địa hình, địa thế (Loan Đầu) mỗi nơi, cộng thêm Phi Tinh Bàn của từng Trạch. Song kinh nghiệm cho thấy sự ứng nghiệm của Lưu tinh là khá rõ rệt. Đặc biệt tại các cung vị tập trung quá nhiều yếu tố xấu, tốt. Người Trung Hoa có câu “Tiên Thiên Mệnh Xem 8 Chữ, Hậu Thiên Mệnh Xem Phong Thủy” cho thấy càng lớn tuổi con người ta càng quan hệ nhiều đến Phong Thủy (Môi trường sống hơn). A Tư Tiểu Khang. Website: www.giaidapphongthuy.co.cc copy từ vietlyso.com. _________ nhị địa sinh
-
Chào Hero_trần. Thiết nghĩ nên chọn hướng Tây Bắc vậy, bởi vì các hướng khác ĐB, Tây, là nhị hắc và tam bích là các tử khí chủ bệnh tật và cãi vã, còn hướng ĐN thì Thầy đã nói rồi, rất không tốt. Chọn TB được cửu tử sinh khí rất tốt, tuy bị tọa là ngũ hoàng nhưng biết bố trí thì vẫn được, thường thì tại nơi ngũ hoàng ở tọa này nên để trống trãi, sạch sẽ và yên tĩnh kết hợp vài thứ khác là được, khi chọn được hướng rồi bạn nên cho biết thêm độ số của hướng để chọn được tinh bàn tốt hơn và cũng để xin Thầy Thiên Sứ cách trấn yểm cho ngôi gia được tốt trong 15năm vận này, nếu còn ở tiếp thì sang năm thứ 16 là cực kỳ tốt đẹp. Thân. __________ nhị địa sinh
-
CHÚC NĂM MỚI VUI VẼ HẠNH PHÚC THÀNH ĐẠT __________ nhị địa sinh
-
Về một ông Thành hoàng Bùi Trọng Liễu Tóm tắt : Bài này viết về sự tích ông Thành hoàng "Thôn Tư", tổng Bồng Hải, tỉnh Ninh Bình, vùng quê của tác giả. Thời điểm là đầu thế kỉ 18, lúc một số người rời quê cũ đến khai hoang vùng đất bồi ven biển để lập nên những làng mới. Câu chuyện khởi đầu bằng một cặp vợ chồng không con, nuôi một con hổ..., chuyện xen lẫn sự việc và tín ngưỡng dân gian. Tác giả dựa trên một tài liệu ghi trong gia phả họ Đỗ làng Quyết Trung. Đã đăng trên tạp chí Thời Đại số 7, 2002. Tôi may mắn được anh bạn đồng hương cho đọc một đoạn gia phả của dòng họ Đỗ của anh 1. Trong gia phả này có sự tích của ông Thành hoàng « Thôn Tư » khá lạ, nên muốn tôi viết ra đây, vì nghĩ rằng nếu không, e sau này khó ai được biết. Như tôi có viết trong bài « Làng xưa » (Thời Đại số 1, 1997, trang 155-177), quê nội tôi là làng Nhuận ốc, tổng Bồng Hải, tỉnh Ninh Bình (địa danh trước những năm 1950) 2. Tên Bồng Hải chỉ có từ 1839, còn trước đó, có lẽ mang tên Đống Hải. Thuở mới lập làng ở vùng đất bồi lấn ra biển này, có những phường, những thôn, ... với những tên gọi đơn giản (như thôn tư, thôn năm, ba phường), sau thành địa danh, dần dần mới có những tên làng văn vẻ. Theo Đại Nam nhất thống chí, năm Minh Mạng thứ 20 (tức 1839), chia Bồng Hải làm 9 xã, trong đó có Nhuận Ốc và Quyết Trung. Họ Bùi tôi ở Nhuận Ốc, còn Quyết Trung có họ Đỗ. Ông tổ 10 đời của tôi đến khai khẩn vùng đất biển này, lập nên « phường Tốp » vào khoảng đầu thế kỉ 18, mà tôi ước đoán là vào khoảng những năm sát sau đạo dụ của chúa Trịnh Cương 3. Nay đọc gia phả họ Đỗ, thấy chỉ đoán sớm hơn khoảng một chục năm, như vậy có thể tạm coi là phù hợp. Ông tổ họ Đỗ (trong gia phả không chép tên) vốn quê ở xã Gia Miêu đạo Thanh Hoa (sau này là tỉnh Thanh Hoá), đỗ Tạo sĩ 4 đời vua Lê Thuần Tôn (1732-1735), lúc đó chúa Trịnh Giang, con chúa Trịnh Cương, đang cầm quyền. Ông không làm quan, theo anh ra Bồng Hải lập ấp. Ông giàu có, lại có tình hào hiệp, mà lại không có con ; ông cùng anh và dân trong vùng lập đền « Thôn Ba » thờ hai ông tiến sĩ triều Lê, làm chùa Đọ thờ Phật (« Đọ » có lẽ là do đọc trệch từ chữ Đỗ), và mở chợ để dân buôn bán, lại xây đình ở chợ làm nơi dân làng họp bàn công việc. Trong đình thờ ông Thổ thần, trước cửa đình trồng một cây xanh to, nên tục gọi là Chợ Xanh, sau trở thành địa danh. Khi ấy, vùng này mới chỉ khai khẩn từ Chợ Xanh lên đến Văn Thịnh 5, còn trở xuống thì là rừng sậy, thỉnh thoảng lại có chỗ có cây cối um tùm. Một hôm phá rừng, thấy một con hổ con bị lạc, ông bắt đưa về nhà nuôi. Ông bà không có con, quí hổ như con. Hổ có linh tính, biết yêu quí ông bà, ông đi xa về, hổ ra tận cổng đón. Khi hổ đã lớn, thú tính dữ tợn, nhưng đối với ông bà lại rất ngoan ngoãn, biết nghe lời, nhiều khi bậy bạ, ông gọi mắng, hổ phục xuống như xin lỗi. Ban ngày ông bà đi vắng, dặn hổ coi nhà, không ai dám vào. Gặp năm mất mùa đói kém, trộm cướp như ong, các nhà giàu có đều bị cướp phá, duy nhà ông nhờ có hổ coi nhà, trộm cướp không dám bén mảng. Ông có cái « dè đó » 6 cắm suốt cả một khúc sông, nơi gọi là xóm Ba Phường 7. Quãng này ăn thông ra bể, rất được nhiều cá. Những kẻ vô lại, đêm thường rủ nhau ra lấy cắp. Bị trộm luôn như vậy, ông mới sai hổ ra bờ sông coi « dè đó » ban đêm. Thấy bóng người đàng xa, hổ gầm thét, không ai dám qua lại khúc sông cắm « dè đó » đó. Lâu không có người qua lại, ông e hổ lơ là trong việc canh phòng, nên muốn thử hổ. Một đêm, ông mới lặn hụp từ phía bể vào gốc sông, giả vờ trộm cá. Hổ đương ngủ gật, thấy có người trộm cá, gầm lên rồi nhảy xuống sông cắn chết. Hôm ấy là ngày 18 tháng 2, không nhớ năm. Khi ngửi hơi biết là cắn nhầm, hổ bèn cõng xác ông, về đến một nơi thì ngưng lại nghỉ một lúc, có mấy giọt máu rơi ra đấy, (sau này dân làng xây tường bao bọc chung quanh, khoảng hơn một sào đất, gọi là « Nền Phúc »), rồi lại cõng tiếp vào rừng Vầu (tên chữ là Đồng Lăng) đặt ở trong rừng. Gần sáng, hổ về nhà kêu gào, như báo tin cho bà biết. Bà theo hổ vào rừng Vầu, thấy chỗ để xác ông, mối đã đùn lên thành một đống đất. Bà khóc lóc mắng hổ. Hổ phục xuống như lạy bà, rồi cong đuôi chạy vào rừng. Từ đó hổ đi không về nhà nữa, nhưng hằng năm cứ đến ngày giỗ, lại đưa về hươu nai hay cầy cáo, để trên mộ, rồi nằm gào khóc, rồi lại đi. Sau khi ông mất, ba năm hết tang, bà mời kỳ lão và người trong họ đến, phân chia gia tài, cúng vào chùa Đọ một số của cải, rồi ở luôn chùa đó tụng kinh niệm Phật. Cách mấy năm sau, các làng Yên Cư, Yên Khê, đêm thường bị hổ về bắt lợn và trâu bò. Hổ tinh khôn, ai tìm cách đánh bẫy, liền bị hổ báo thù. Dân làng không sao được, phải lên trình quan sở tại, quan sai phường săn về bắt hổ, cũng không trị được mà còn bị giết hại. Sau phải làm bảng niêm yết ra khắp đường đi lối lại, hứa : ai có cách gì trừ được hổ, khỏi làm hại dân, thì lúc sống dân làng phụng dưỡng như cha mẹ, lúc chết lập đền thờ, và sẽ tâu lên triều đình để phong thưởng. Tin ấy đồn đến chùa Đọ, bà ngờ là hổ nhà mình, liền cùng với người nhà tới Yên Cư, nói với dân làng là có cách trừ được hổ, chỉ cần làm cho bà một căn nhà sàn ở giữa lối hổ thường qua lại, bà ở trong nhà ấy sẽ trù liệu cách trị hổ. Dân làng theo lời. Khi nhà sàn làm xong, bà ra ở một mình. Một đêm đã khuya, trời sáng trăng suông, thấy gió tanh, rồi một con hổ to hơn con bò từ xa đi tới. Hổ đánh hơi biết có người trong nhà nên gầm thét, đi lượn vòng quanh. Bà ở trong nhà nhìn ra khe cửa, nhận đúng ra hổ mình nuôi, mới nói vọng ra : « Có phải con của già đấy không, con làm gì thế ? ». Hổ nghe tiếng bà, liền chạy lại nằm phục bên cửa. Bà vội mở cửa ra, đến xoa đầu hổ nói : « Con đi lâu không về nhà, để mẹ mong nhớ ; từ ngày cha con mất đi, mẹ đêm ngày phiền muộn; con lại đi biệt, không ai nương tựa, mẹ phải nương nhờ cửa Phật. Nay con về tàn phá vùng này, dân làng cam kết rằng ai trừ được con thì lúc sống dân làng nuôi dưỡng như nuôi cha mẹ, lúc chết lập đền thờ. Nay mẹ tuổi già, không chỗ nương nhờ ; con nên thương mẹ, kíp bỏ xứ này đi vào rừng núi kiếm ăn, để dân làng thay con phụng dưỡng mẹ, thế mới là con có nghĩa ». Hổ nghe xong, nước mắt ràn rụa, gầm lên mấy tiếng rồi vẫy đuôi đi thẳng. Sáng ra, dân làng kéo nhau đến xem, thấy hai con nai đặt trước cửa. Bà đem chuyện hổ về lúc ban đêm, kể với dân làng và cam đoan từ nay, không phải lo nạn hổ nữa. Quả nhiên từ đấy, dân được yên ổn. Dân làng giữ lời hứa, xin rước bà về phụng dưỡng. Bà từ chối, xin trở về chùa Đọ để tu hành. Nhưng dân làng khẩn khoản, lập chùa để bà tu tại chỗ, đó là chùa Yên Khê. Mấy năm sau bà mất, dân làng nhớ ơn, lập đền thờ, gọi là đền Báo Ân. Theo tác giả của đoạn gia phả, đền ở sát đường cái, chỗ cây số 8, từ xóm Thông, Yên Cư, lên tỉnh lị Ninh Bình. Trong đền có đôi câu đối của ông Vũ Ích Khiêm, (người làng Yên Khê, đỗ cử nhân triều Tự Đức, làm quan đến Tuần phủ, nên gọi là cụ Tuần Yên Khê), kể rõ công đức của bà. Tục truyền chỗ đền Báo Ân, chính là chỗ ngày xưa dân làm cái nhà sàn để bà ở trừ hổ. Trở lại chuyện ông. Mộ ông ở trong rừng Vầu, tục gọi là rừng Cấm, vì hổ thường về thăm mộ, không ai dám vào chặt cây kiếm củi 8. Ông mất ít lâu, những người đi bể và dân xóm Ba Phường, cùng những người được ông giúp đỡ thuở trước, đắp một cái bệ đất ở chỗ ông đặt « dè đó » thuở trước, để cầu ông phù hộ ; dần dần tin ông hiển linh, người các nơi bị bệnh thường kéo đến bệ thờ cầu khẩn. Đến năm Cảnh Hưng thứ 36 (1776) đời vua Lê Hiển Tông, đại hạn, 3 tháng không mưa, sông ngòi khô cạn, ruộng đồng không cầy cấy được. Các quan tỉnh thần sức cho các làng rước các vị thần lên tỉnh để làm lễ cầu đảo, trong 3 ngày vẫn không mưa. Các kỳ lão trong vùng mới trình quan việc ông thường hiển linh mà chưa được sắc phong thần, nay đang lúc chưa mưa, xin cho đến chỗ bệ thờ cầu đảo. Quan tỉnh nghe lời, cho đến bệ thờ ông đảo vũ. Đêm ấy mưa to, nước đầy đồng ruộng, dân tình vui vẻ. Việc ấy tâu lên, triều đình sức cho dân lập đền thờ. Đền xây trên nền nhà cũ của ông 9, tục gọi là đền « Thôn Tư », trong đền có tấm biển đề « Đỗ tộc Tổ thần » từ thời Cảnh Hưng, và nhiều hoành phi câu đối, trong đó có đôi câu đối chữ Nho của ông Khiếu Năng Tĩnh, còn gọi là cụ nghè Trực Mỹ, đỗ tiến sỹ thời vua Tự Đức, làm quan Tế tửu Quốc tử giám, sau làm phụ đạo cho vua Thành Thái. Hai vế của câu đối đó như sau: Diệc kỳ tai Chu Bất Phục 10 thị vân dao, nãi văn thần vật báo ân, vạn cổ Đồng Lăng linh tích tại, Sở kiến giả Lê Cảnh Hưng triều dĩ hậu, lịch kỳ thánh công biểu đức, nhất phường Xanh thị huệ phương dân. Nghĩa là : Lạ lùng thay, cũng như chuyện ông Chu Bất Phục ngày xưa, đấy là thần hổ đền ơn, muôn đời về sau chỗ mả Vầu dấu thiêng còn đó, Nay thấy sắc vua Lê Cảnh Hưng và các triều sau, ban cho, mới biết công đức ông sáng tỏ, khắp cả dân chợ Xanh đều được đội ơn. Đến năm Minh Mệnh thứ 7 (1826), Phan Bá Vành khởi loạn ở miền bể Nam Định. Quan Tham biện Nguyễn Công Trứ đưa quân đi đánh dẹp, quan Hiệp trấn Nguyễn Hữu Thuần 11 tiếp viện và tải lương theo sau. Đương tiết tháng chạp mưa phùn, gió may thổi mạnh, thuyền lương đến khúc sông Đáy gần đền ông thì không tiến lên được, mà việc binh lương thì khẩn cấp. Quan Hiệp trấn không biết làm sao, trông lên bờ sông thấy ngôi đền, gọi thuyền chài lại hỏi thăm, mới biết là đền ông, bèn ra đầu thuyền khấn rằng : « Nay giặc Ba Vành tàn phá lương dân, tôi phụng mệnh đi tiếp viện [...]. Xin Thần giúp cho thuận gió, để thuyền lương kịp đến quân doanh, xong việc sẽ xin tâu lên Triều đình phong tặng ». Khấn vừa dứt lời, tự nhiên gió đông nam thổi lên, mưa tạnh hẳn, thuyền thuận gió, chỉ nửa ngày đến được quân doanh. Trận ấy, quân Phan Bá Vành tan vỡ. Việc tâu lên, triều đình phong tặng ông làm Trung đẳng thần. Đến đời vua Thành Thái phong lên Thượng đẳng thần ; sắc phong ông là: Đương cảnh Thành hoàng, tuyên võ tướng quân, thượng kỵ đô uý, hùng dũng anh linh, thông minh chính trực, gia phong quang ý, gia tặng trác vỹ, dực bảo trung hưng thượng đẳng thần. Hồi còn nhỏ về quê, tôi cứ nghe loáng thoáng nghe nói tới ông Thành hoàng ăn trộm, mãi đến nay đọc mới vỡ lẽ rằng đây là ông Thành hoàng « giả vờ » ăn trộm [cá] bị hổ vồ. Lại nhớ thuở ấy thấy bà nội tôi hay nói 2 câu : « Cứu vật, vật trả ân. Cứu nhân, nhân trả oán ». Câu trên là nói chuyện hổ, và làm tôi có những suy nghĩ liên quan 12. Tổng Bồng Hải có 9 xã nhưng chỉ có 7 Thành hoàng là: Ông « Thần cụt đầu » tương truyền là ông Phạm Tử Nghi, tướng nhà Mạc 13 ; hai ông tiến sĩ triều Lê (không nhớ là hai ông nào), nhưng thờ chung một đền ; bà Tống hậu 14 ; ông Thánh Tản Viên ; một ông Thổ thần sở tại ; và ông Thành hoàng hổ vồ kể trên. Xưa, hàng năm vào ngày 9 tháng 2 âm lịch, dân 9 xã rước 7 vị thần ra đền Chợ Xanh tế lễ 7 ngày đêm, phí tổn 9 xã chia nhau đóng góp 15. Nhưng nghe kể, thì chỉ có ông Thành hoàng hổ vồ là được chú ý hơn cả. Những việc xảy ra, tuy chưa quá xa xăm , nhưng bao năm binh hoả, dấu vết có còn gì không, để có thể kiểm chứng ? Ngày nay, tôi cứ tiếc rằng thuở nhỏ nghe loáng thoáng mấy câu chuyện, sao không hỏi các bậc già cả cho kỹ, vì bây giờ biết hỏi ai ? Nhưng nghĩ lại, thì lại tự an ủi rằng, giá ngày xưa có hỏi, chắc gì đã được trả lời 16 . Định cư vĩnh viễn ở phương xa, nhắc lại câu chuyện cũ quê nhà, phải chăng cũng như níu lấy một sợi dây vô hình bền bỉ, còn nối mình với cố hương ? Lời bổ sung : Trong tạp chí Xưa và Nay số 117 (tháng 6/2002), trang 21, bài « Số phận một địa danh lịch sử », tác giả Khải Nguyên cũng kể làng Phúc Đậu (nay là xã Sơn Phúc, huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh) có câu chuyện tương tự về hổ vồ nhầm một ân nhân của mình, với địa danh « Lòi hổ huyệt » vv. Và kể là con trai người nông dân bị hổ vồ nhầm này là Nguyễn Tuấn Thiện, sau theo Lê Lợi đánh quân nhà Minh. Tôi không biết, khi viết cuốn tiểu thuyết « Mảnh đất lắm người nhiều ma », nxb Hội nhà văn, tác giả Nguyễn Khắc Trường sử dụng câu chuyện hổ từ nguồn nào. <H3 style="TEXT-ALIGN: right">Bùi Trọng Liễu</H3> Chú thích : 1 Xin chân thành cám ơn anh Đỗ Minh Tiết và gia đình đã cho tôi được đọc và sử dụng đoạn gia phả này. Phần tra cứu về ông Thành hoàng ở Bồng Hải là do cụ Đỗ Bằng Đoàn (1905-1986), thân sinh của anh, dịch từ ngọc phả chữ Nho của đền thờ Thành hoàng « Thôn Tư » tổng Bồng Hải và ghi chép lại. Ông cụ cũng là đồng tác giả của cuốn Việt Nam Ca trù biên khảo, Saigon 1962, xưa là chức sắc tổng Bồng Hải, nên biết rõ chuyện vùng này. Đoạn tài liệu nói trên tồn tại dưới dạng đánh máy, có kèm mấy dòng chữ Nho viết tay, do con cháu tìm thấy sau khi ông cụ đã mất. 2 Theo Đại Nam nhất thống chí, tên trấn Thanh Hoa nội/ngoại (tên Thanh Hóa là tên sau này) có từ cuối thế kỉ 16. Sau, Thanh Hoa ngoại được đổi thành đạo Ninh Bình (1806, Gia Long thứ 5) rồi thành trấn Ninh Bình (1829, Minh Mạng thứ 10) , rồi thành tỉnh Ninh Bình (1831, Minh Mạng thứ 12). 3 Đó là đạo dụ (1719) về « phép bình lệ », nghĩa là người thêm vào sổ cũng không tính, người chết cũng không trừ, số hộ khẩu tăng giảm bất thường, mà nguyên ngạch vẫn theo như cũ, vì vậy dân phải gánh vác nặng nề, dần dần đi đến chỗ nghèo khó phiêu tán ... (ghi trong Đại Việt sử ký tục biên). Trong bài « Làng xưa », tôi tính khoảng cách trung bình giữa 2 thế hệ là 25 năm. Nếu tính khoảng cách đó là 23 hay 24 năm thì thời điểm ông tổ 10 đời họ Bùi tôi đến khai khẩn lập làng mới, trùng hợp với thời điểm ghi trong gia phả họ Đỗ. 4 Tạo sỹ là người thi đỗ về khoa thi võ. Thí dụ như Huy quận công Hoàng Đình Bảo (người giúp bà chúa Chè Đặng Thị Huệ, tranh ngôi chúa cho Trịnh Cán, và sau bị kiêu binh giết chết), vốn đỗ tạo sỹ. 5 Văn Thịnh là quê của bà nội tôi, cách làng tôi chừng dăm cây số. 6 Tôi tra từ điển, không thấy có « dè đó », chỉ thấy « đó », như đã biết. Hỏi thăm mới biết « dè đó » là tên gọi của một hệ thống dụng cụ bắt cá có qui mô gồm nhiều « đó ». 7 Theo tác giả của đoạn gia phả đó, thì khúc sông này thuộc cái đoạn gọi là xóm « Ba Phường » làng Phụng Công (Phụng Công là một trong 9 xã của Bồng Hải). Tên « Ba Phường », có lẽ là địa danh của nơi ranh giới của 3 phường, khi lập làng thuở xưa. 8 Theo tài liệu của cụ Đỗ Bằng Đoàn, rừng Vầu, trên một quãng đất cao, trước kia có hàng trăm cổ thụ um tùm. Đến đời Thành Thái (1889-1907), đặt đồn để kiểm soát khúc sông Đáy. Đồn cách mộ khoảng nửa cây số, lính đồn vào săn bắn, và chặt cây làm củi, nên sau này rừng bị chặt hết cây. Trong tài liệu còn ghi rõ là Nền Phúc ở « trước cửa nhà ông bá Phàn, bên tay trái đường cái làng Phụng Công đi xuống làng Nhuận Ốc ». Nhưng đó là địa điểm vào những năm 1930-1940, nay người đã mất đi, ruộng đất đã chia lại, đường sá đã đắp khác, làng xã đã đổi tên, còn biết được ở nơi nào? 9 thuộc địa điểm làng Phùng Thiện, một trong 9 xã của tổng Bồng Hải ; hồi tôi rời quê ra đi năm 1949, tên này còn tồn tại. Thời Cảnh Hưng thì chưa có tên Phùng Thiện, tên thuở trước là gì thì không biết. 10 Tôi không nhớ sự tích ông này, chỉ biết lõm bõm là ông này người nhà Tống bên Tàu, chắc cũng nuôi hổ gì đó. Nếu ai biết, xin chỉ giùm. 11 Theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim thì lúc ấy vua sai Tham biện Thanh Hoa là Nguyễn Công Trứ, Tham biện Nghệ An là Nguyễn Đức Nhuận cùng với Hiệp trấn Bắc Thành là Nguyễn Hữu Thận đi đánh. Tôi ghi lại tên "Thuần" theo gia phả họ Đỗ, nhưng cũng chú thích tên "Thận" cho kỹ. Hay là cùng một chữ Nho, nhưng hai cách đọc ? 12 Câu dưới làm tôi liên tưởng đến một câu chuyện phương Tây. Chắc có bạn đọc biết truyện « Người thổi sáo », đại khái như sau : Thuở xưa, ở thành phố Hameln nước Đức, có xảy ra tai hoạ chuột, chuột nhiều đến mức chỗ nào cũng có, chúng gặm khoét phá phách đến mức dân chúng không chịu nổi ; ông thị trưởng và chức sắc mới treo biển cầu người có giải pháp trừ chuột. Một ngày kia, có một chàng trai từ đâu đến, nói có phép trừ chuột, nhưng hỏi muốn biết phần thưởng ra sao. Thị trưởng và chức sắc hứa nếu thành công sẽ trả một ngàn đồng tiền vàng. Hai bên giao ước xong, chàng trai kia bèn rút trong bọc ra một chiếc sáo, và bắt đầu thổi, vừa thổi sáo vừa đi qua khắp phố phường. Chuột nghe tiếng sáo, như bị hấp dẫn mê mẩn, chuột to chuột nhỏ kéo nhau ra đường theo người thổi sáo, dẫn chúng ra sông lội xuống nước. Đàn chuột theo sau cũng lội xuống chết đuối hết. Khi đã diệt xong chuột, người thổi sáo trở lại lĩnh thưởng. Thoát được nạn chuột, cả thành phố mở tiệc ăn mừng. Nhưng chẳng ai nghĩ đến lời hứa trả công cho « người thổi sáo ». Chàng này mấy lần nhắc ông thị trưởng và các chức sắc về món ngàn đồng tiền vàng, nhưng họ khất lần. Họ nghĩ rằng món tiền to như vậy, để tiêu xài hội hè cho sướng, cần gì đến lời hứa. Hiểu tâm địa bọn kia, « người thổi sáo » bèn rút trong bọc ra một cây sáo khác. Thổi lên, bao nhiêu trẻ em trong thành phố bị tiếng sáo quyến rũ, như mê hồn, mặc lời khuyên can đe doạ ngăn cấm của mẹ cha, lũ lượt bỏ ra đường bước theo « người thổi sáo » ra khỏi thành, đi mãi đi mãi, không bao giờ trở lại ... Tất nhiên, câu chuyện này mang tính huyền thoại và ngụ ngôn. Nhưng có thuyết cho rằng nó có một nguồn gốc, dựa trên sự tích của cái được gọi là cuộc « Thánh chinh chữ thập của trẻ em » (la Croisade des enfants) : Câu chuyện khởi đầu từ nước Đức, vào năm 1212, một người lái rượu bia ở Cologne, tên là Nicolas, nói rằng anh ta thấy một vị thiên thần (ange) hiện ra, kêu gọi anh ta đi giải phóng Thánh địa (nơi có mộ Chúa Ki-Tô, lúc đó đang trong tay người Hồi giáo ở Cận Đông). Hàng ngàn người hưởng ứng. Phong trào này lan sang Pháp. Tháng sáu 1212, một thiếu niên chăn cừu ở Cloyes tên là Etienne kể rằng cậu ta thấy Chúa hiện ra, có bức thư gửi cho vua Pháp. Tin đồn ra, khoảng 3 vạn người từ khắp nơi theo cậu ta đổ dồn về kinh thành. Nhưng vua Philippe Auguste giải tán phong trào. Sau đó khoảng những năm 1250-1252, mới xuất hiện ra truyện « Thánh chinh chữ thập của trẻ em » : theo truyện, nhiều trẻ em từ nhiều nơi nước Đức và nước Pháp, tụ tập, lũ lượt kéo nhau sang tận Thánh địa, để rồi thất bại ; những trẻ sống sót bị giặc cướp bắt và bán làm nô lệ... Truyện « Người thổi sáo » đã mang tính huyền thoại, lại dựa trên truyện « Thánh chinh chữ thập của trẻ em » cũng mang tính huyền thoại, vì theo mấy sử gia ngày nay thì có lẽ cuộc thánh chinh này xuất phát từ những nông dân nghèo sống bên lề xã hội trong cảnh phụ thuộc, nghĩa là những người mà thuở đó tiếng latinh gọi là pueri, gây nên sự lẫn lộn với nghĩa « trẻ em » . Theo sử, tất cả có 8 cuộc thánh chinh chữ thập « chính thức », từ thế kỉ 11 đến thế kỉ 13 của châu Âu Ki-Tô giáo nhằm mục đích chiếm lại Thánh địa đang trong tay người Hồi giáo. Cuộc « thánh chinh chữ thập của trẻ em » xảy ra vào khoảng đầu cuộc « thánh chinh chữ thập [chính thức] thứ 5 ». Tôi dùng từ « chính thức » để chỉ việc có tổ chức, do vua chúa phát động, có quân đội, vũ khí, thuyền bè, hậu cần, vv. Nếu tôi nhắc truyện « Người thổi sáo » phương Tây này nhân dịp viết về truyện « ông Thành hoàng Thôn Tư », thì mục đích để nói rằng cốt truyện có thể có một phần sự thật, còn lại là hư cấu, nhưng sự thật là bao nhiêu ? Còn về sự tương phản về kết luận (một đằng thì báo ân, một đằng thì bội ước), xin chớ tìm ở đó đặc điểm của phương Đông, phương Tây, vì như vậy là kỳ thị một cách thô thiển. Kìa như truyện « Tấm Cám » và truyện « Lọ lem » (Cendrillon), nghe nói là xưa kia cùng chung một gốc, sang phía Đông thì « chị xui em xuống hố, giội nước sôi cho chết rồi đem em làm mắm », sang phía Tây thì « chị tha thứ cho em, rồi tìm nơi khá giả mà gả chồng », đâu có phải là tại bản sắc phương nào! Bản cổ nhất của truyện « mất chiếc hài » mà tôi đọc được có lẽ là chuyện bà hoàng hậu Ai Cập, Nit-aou-Qrit, vợ vua Mentesouphis (2390 trước Tây lịch). Không biết có bản nào cổ hơn không. Tôi lại nhớ đến những truyện ngụ ngôn thuở nhỏ đọc trong các cuốn giáo khoa thư, cứ ngỡ là truyện « ta ». Sau này lớn lên, đọc thêm sách mới biết rằng một số truyện ấy là chế biến từ truyện ngụ ngôn phương Tây đã có từ lâu lắm, có thể là từ thời ông Esope (người Hy Lạp, thế kỉ thứ 6 trước Tây lịch). Lại liên tưởng đến tín ngưỡng dân gian ở ta ở thế kỉ 18: lúc đó ở phương Tây đã là Siècle des Lumières (thế kỉ [của các triết gia] Ánh sáng). 13 Tôi nhớ mang máng thuở nhỏ nghe kể : ông thua trận, đầu đã đứt khỏi cổ, ông lấy tay giữ đầu trên cổ, cưỡi ngựa chạy đến vùng này, gặp người đàn bà, ông hỏi : « Đầu ta thế này, sống được không ? » , bà kia trả lời : « Đầu lìa khỏi cổ, sống sao được », ông liền lăn ra chết. Tương truyền rằng đền thờ ông ở làng Phụng Công là nơi ông chết. Nhưng thuở ấy, chưa có tên làng Phụng Công, và chưa chắc gì đất làng ấy cũng đã có. Tôi có sự nghi vấn vì trong cuốn sách Bắc Ninh địa dư chí của Đỗ Trọng Vĩ (1829-1899), bản dịch của Đỗ Anh Tuấn, nxb Văn hoá Thông tin 1997, có sự tích Lữ sứ quân, có đền thờ ở xã Phụng Công, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh : ông họ Lữ tên Đường, cuối đời Hậu Ngô, ông xưng là Lữ Tá công, (sứ quân số 9 trong danh sách 12 sứ quân trong cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim), chiếm vùng Tế Giang (sau là Văn Giang). Tương truyền rằng khi vua Đinh Tiên hoàng dẹp các sứ quân, ông thua bị đứt cổ, lấy tay mà giữ. Khi chạy, gặp một hàng nước, bà hàng nước hỏi : « Như thế này vẫn còn sống được không ? », ông đáp : « Thần thì không biết được đâu », rồi hoá . Tôi nghi rằng có thể là vùng tôi, khi lập làng mới, bắt chước đặt tên làng là Phụng Công, cũng bắt chước thờ luôn cả ông thần Lữ sứ quân của tỉnh Bắc Ninh, và sau lẫn với ông Phạm Tử Nghi chăng ? 14 Có lẽ là bà Thiên hậu ( ?) mà tôi có viết trong phần chú thích bài « Nhân đọc 2 lời bình về việc học của người xưa » đăng trong Thời Đại số 4, 1999. 15 Làng Nhuận Ốc quê tôi xưa không có Thành hoàng. Mãi đến cuối thế kỉ 19, có vụ ông đồ H. đến ở dạy học ở nhà ông họ tôi, vô cớ lấy dao tự mổ bụng chết, cả làng sợ, các chức sắc mới xây đền, rước « chân nhang » đền Thánh Tản Viên làng bên cạnh về thờ. 16 Ngay như hồi 1970, được mời về làm việc trong nước, tôi được tổ chức đi thăm Thanh Hoá, có ghé Sầm Sơn, ở đó có đền « Thần độc cước ». Khi vào thăm đền, thấy mấy ông già đang tế lễ . Vừa ngỏ ý muốn xem tượng « Thần độc cước » này, đã bị mấy ông sừng sộ, cự nự rằng ngài thiêng lắm, bom Mỹ ném không trúng, chớ hỗn kẻo ngài hành vv. Lúc đó, Cách mạng đã 25 năm rồi, lại vào thời chiến tranh đùng rầm... Huống hồ thuở xưa.
-
Câu này nói về Hoàng tử Cải và mẹ là Lê thị Răm (bà Phi Yến), chứ không phải hoàng thử Cảnh. Câu chuyện về hoàng tử Cải cũng nói lên cái tâm độc của vua Gia Long, mới ba tuổi hơn mà, việc khóc đòi mẹ là chuyện thường mẹ con, thế mà nỡ quăng xuống biển, hành động ấy mới thấy quyết tâm của Nguyễn Ánh như thế nào rồi.
-
CHÚC GIÁNG SINH VÀ NĂM MỚI Xin kính chúc mọi người tràn đầy hồng ân và ơn an lành, hạnh phúc trong giáng sinh và năm mới. Emmanuel __________ nhị địa sinh
-
Chào annm! Năm nay kim lâu tử, sang năm kim lâu thân, năm nay và năm sau bị tam tai, cứ "nghe bảo" rồi ngất ngư thì mệt lắm đó, còn theo huyền không (thuộc cổ thư không phải HKPTLV) sang năm nhập trạch thì được. Hướng 115 độ thuộc Đông nam : - Theo PTLV là người mệnh đoài, nhà hướng đông nam thuộc khôn, thiên y, tốt. - Theo BT cổ thư là mệnh ly, nhà hướng tốn được thiên y, nhưng kỵ không dùng. Đó là những thông tin sơ lược, bạn cần xem xét kỹ. Chúc tốt đẹp. Thân. __________ nhị địa sinh
-
Xin chào Thầy Thiên Sứ và tất cả mọi người! - Nhị địa sinh xin cám ơn lời chúc của Thầy và mọi người rất nhiều. _________ nhị địa sinh
-
Xin nghe bài hát này mà nhớ về Hà Nội: http://www.nhac.vui.vn/Music/Play,72952 _________ nhị địa sinh
-
Bán trà Hớt tóc dạo Thợ mộc Thợ thêu Thợ vẽ Thợ cẩm sà cừ Thợ điêu khắc gổ Làm lọng Thợ rèn nguồn:http://tuoitrecuoi.com __________ nhị địa sinh