Thiên Luân

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    7.118
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    134

Everything posted by Thiên Luân

  1. Trình xem ngày của diễn đàn là chính xác, TL cũng xem trên đó! Ngày Hắc Đạo không có nghĩa là xấu hoàn toàn, Hoàng Đạo - Hắc Đạo ví như ngày đêm vậy thôi, tốt xấu tùy theo sao của ngày nữa, còn giờ thì TL hay tính theo quẻ LVĐT!
  2. TL lấy giờ theo quẻ Độn Toán!
  3. Đi đăng kí kết hôn thì ngày nào ko đc, tránh các ngày Tam nương và nguyệt kỵ 3,5,7,13,14,18,22,23,27 âl!!! Ngày Mồng 6/12 âl giờ Thìn 7-9h, Ngọ 11-13h thì tốt!
  4. Học viên lớp PTLV mà hỏi thế này sao :D :D :D
  5. Tứ xung nhưng cũng là tứ sinh đấy! Quán xét phải dựa trên nhiều yếu tốt, không thể nói chung chung 1 câu như thế là xong đâu. Riêng Dần và Tỵ là nhị Hình, hình thì nhẹ hơn tuyệt, nhẹ hơn xung, bản thân Dần là Mộc sinh cho Tỵ Hỏa. 2 tuổi nay Thiên Can hợp (Bính Hỏa Kỷ Thổ) mạng Mộc sinh Hỏa, địa chi không xung. Vậy là hợp rồi!!!
  6. Thông minh và cần cù không đồng nghĩa với GIÀU, trên đời khối kẻ TRỌC PHÚ vậy!
  7. Không phải Laido đâu bác Hoangnt ơi!!!
  8. Chào anh/ chú khacquang,La kinh đẹp quá, đổi chỗ Tốn Khôn và đổi cả Độ số Ly Đoài, chính Nam - Ly độ số 7 (7 nút thay vì 9 nút như trên hình), Đoài độ số 9 (9 thay vì 7 nút). 4 góc la kinh cũng nên dùng đồ hình âm dương Lạc Việt! Kính, Thiên Luân.
  9. Bạn muốn xem tử vi thì vào tư vấn tử vi, và nhớ lấy lá số của Lý Học Đông Phương!
  10. Tam hợp thì hòa thuận, gần gũi thương yêu nhau , chỉ là 3 người trong tuổi tam hợp thì có 3 năm tam tai giống nhau! Tuổi Hợi Mão Mùi tam tai ở các năm Tỵ Ngọ Mùi!
  11. Muốn viết bài trong box Trao Đổi Học Thuật thì phải có đăng ký và xét duyệt của BQT đó bạn!
  12. Mưa mà người ta không thèm mặc áo mưa hoặc thậm chí đi dù! Vậy cũng giật titre "ĐỘI MƯA", cứ như mưa ầm ầm :D http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/grin.gif http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/grin.gif
  13. Cưới năm nào thì tháng xuất giá cũng như nhau thôi. Chọn tháng đi rồi hãy coi ngày sau, hình như các post bên trên có ghi rõ tháng cưới cho nữ tuổi Mão đấy!
  14. Được, quản điểm của Luận tuổi Lạc Việt là "yêu nhau cứ lấy", tương tác chỉ mạnh khi bắt đầu có con, tìm năm sinh con hợp tuổi là được! Chỉ trả lời cho trường hợp của chính bạn, hỏi hộ người khác thì chúng tôi từ chối trả lời!
  15. em muốn xem thì cài Microsoft Silverlight!
  16. Không ngủ được thì nên sửa phong thủy!
  17. Hiện tại diễn đàn có hướng dẫn post hình thông qua photobucket, bạn xem ở đây : http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...p?showtopic=470
  18. Quảng Nam: Ngôi làng có “truyền thống”… hai vợ (Dân trí) - Giữa đại ngàn vùng cao Đông Giang (Quảng Nam) có một bản người Cơ tu được mệnh danh là “làng hai vợ” bởi trào lưu lấy hai vợ của những người đàn ông nơi đây. Đến trưởng thôn cũng “theo gương”… hai vợ! Chuyện "vợ lớn, vợ bé" ngày càng phổ biến ở thôn Bút Tưa (Ảnh minh họa) Dù chỉ mới ở mức độ “nguy cơ” nhưng nếu không có sự can thiệp kịp thời của cơ quan chức năng, cái tên “làng hai vợ” ắt hẳn sẽ thành sự thật trong tương lai gần. Đó là thôn Bút Tưa, xã Sông Kôn, Đông Giang, nơi những giai thoại “hai vợ” đã gây ra không ít bi hài. Một ngày tháng 9, chúng tôi ngược tuyến tỉnh lộ 604 đến thôn Bút Tưa. Nghỉ chân ở một quán cà phê gần UBND xã Sông Kôn, đã nghe bà con râm ran bàn về đám cưới của một cô bé đang học lớp 10, vừa tròn 16 tuổi. Từ câu chuyện cô dâu trẻ, bà con kể lại những giai thoại kỳ thú của ngôi “làng hai vợ”. “Truyền thống hai vợ” đang tồn tại và có xu hướng ngày càng tăng ở bản vùng cao với dân số phần lớn là người Cơ tu này. Bà con kể về một gia đình mang “truyền thống” 3 đời liên tiếp đều lấy… 2 vợ. Đó là trường hợp của ông Alăng T. Người dân nơi đây vẫn gọi đùa gia đình ông T. là gia đình “truyền thống 2 bước”. Ở cái làng chuyện lấy hai vợ… bình thường như cơm bữa này, ngay trưởng thôn Bút Tưa Alăng Th. cũng “noi gương”. Tin Alăng Th. lấy vợ bé khiến không ít người bán tín bán nghi, bởi từ trước đến giờ Alăng Th. nổi tiếng là một trưởng thôn gương mẫu. Cô vợ bé của trưởng thôn Alăng Th. cũng là một người trong thôn, chấp nhận làm vợ lẽ ông Th. khi ông đã có hai mặt con với người vợ đầu. Một góc thôn Bút Tưa Đem chuyện “làng hai vợ” trao đổi với chánh văn phòng UBND xã Sông Kôn Nguyễn Cung Tiến, ông Tiến thừa nhận: “Việc để xảy ra nguy cơ “làng hai vợ” là do sự thiếu quyết liệt của các ngành chức năng địa phương trong việc tuyên truyền phổ biến Luật Hôn nhân gia đình đến đồng bào vùng cao cũng như của Cơ quan Tư pháp. Chính điều này đã “tiếp tay” khiến cho các trường hợp lấy 2 vợ xuất hiện nhiều ở thôn Bút Tưa”. Ông Alăng Điều, Trưởng Ban công tác mặt trận thôn Bút Tưa, cho biết thêm: “Về trường hợp trưởng thôn Alăng Th., thôn đã họp lấy ý kiến, lập biên bản và củng cố hồ sơ để xin chỉ đạo của cấp trên”. Nguyễn Thành Công http://dantri.com.vn/c20/s20-421954/ngoi-l...hong-hai-vo.htm
  19. Câu hỏi lớn về vận nước Tác giả: Tương Lai TuanVietNam.Net Chính vì những chuyến xe lịch sử không có khứ hồi, cho nên, tiếp bước cha ông không phải là dẫm theo lối mòn có sẵn, mà là dũng cảm gạt bỏ mọi trở ngại để vươn về phía trước, như dòng sông chỉ có chảy ra biển mới gọi là trung thành với ngọn nguồn của nó. "Quốc tộ như đằng lạc Nam thiên lý thái bình Vô vi cư điện các Xứ xứ tức đao binh" Thiền sư Pháp Thuận [915-990.] Có một thời, trong cơn lốc của những xúc động tụng ca, người ta khẳng định "Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?... Những ngày ta sống đây là ngày đẹp nhất. Trái cây rơi vào áo người hái quả... Gặp mỗi người đều muốn ghé môi hôn...: "[Chế Lan Viên]. Rồi để khẳng định cái ánh sáng chói lòa của hiện tại, người ta nhìn về những thời đoạn lịch sử trước kia với đôi mắt chưa thật tỉnh táo "Ông cha từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời. Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa [Chế Lan Viên], và rồi, "Một câu hỏi lớn không lời đáp. Cho đến bây giờ mặt vẫn chau" [Huy Cận]. Đừng quên những câu thơ ấy từng hấp dẫn những tâm hồn đa cảm bị khúc xạ bởi màn sương hư ảo của những chấn động một thời. Ở đây gợi nhớ đến một phân tích lạnh lùng, sắc sảo của Gustave le Bon: "Chẳng gì chứng minh rõ hơn sự mê hoặc do một niềm tin chung gây ra, nhưng cũng chẳng gì chỉ ra rõ hơn những giới hạn nhục nhã của trí tuệ con người"1! Ngẫm cho kỹ, sẽ nhận ra sự dễ dãi đến bạc bẽo khi đưa ra những phán xét, cho dù bằng những rung động thẩm mỹ có phần cảm tính, về ông cha. Ông cha ta đâu có "bế tắc", cái "câu hỏi lớn" mà nhà thơ cho là "không lời đáp" là gì nếu không là vận mệnh của đất nước? Mà nếu thế thì ông cha ta đã từng đưa ra những lời đáp thật thuyết phục với những bằng chứng lịch sử không thể bác bỏ. Nếu không như vậy thì làm gì có "Nghìn năm Thăng Long" để hôm nay chúng ta long trọng và tưng bừng kỷ niệm. Mà quả thật, không nhiều những quốc gia có được một thủ đô nghìn năm tuổi để tự hào trình diễn trước thế giới như chúng ta đang làm. Khi mà kim chiếc đồng hồ bên Hồ Gươm đã chỉ vào con số chờ đợi, thì cũng là lúc người ta hiểu ra rằng, lịch sử là một thành phần mà nếu thiếu nó, thì không một ý thức dân tộc nào có thể được khẳng định. Mà nếu không có điều ấy thì cũng không thể có bất cứ sự phát triển nào có ý nghĩa cả. Càng không thể có sự hội nhập một cách chủ động và biết chọn lựa để phát triển. Mà giả dụ nếu có, thì e chỉ có thể là sự vong bản, tự đánh mất mình, khởi đầu bằng đánh mất văn hóa. Vì thế, kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, xét đến cùng, là để khẳng định bản lĩnh văn hóa Việt Nam nhằm khơi dậy lòng tự hào dân tộc, lấy đó làm điểm tựa để động viên lòng yêu nước, khí phách anh hùng "có cứng mới đứng đầu gió", gió Biển Đông đầy bất trắc dồn dập sóng cồn giữa biển cả thời gian đầy thách thức. Phải có bản lĩnh ấy để tồn tại và phát triển trong cái thế kẹt địa-chính trị đầu cầu dẫn đến một vùng Đông Nam Á giàu tiềm năng, vốn luôn là đối tượng của những tham vọng bành trướng khó bề thay đổi. Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long cũng là để gợi nhớ và tôn vinh một bản lĩnh văn hóa, bản lĩnh của vị vua khai sáng vương triều Lý. Sau chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng đánh tan quân Nam Hán, chặn đứng mộng bành trướng, mở đầu việc dựng xây nền móng cho một nhà nước tự chủ, thì quyết định dời đô về Thăng Long của Lý Thái Tổ là sự khẳng định quyết tâm củng cố nền độc lập và phát triển đất nước, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự nghiệp trường kỳ dựng nước, mở nước và giữ nước của ông cha ta. Trên ý nghĩa ấy, cần thấy cho ra "Chiếu dời đô" thể hiện một tầm nhìn khởi đầu một sự nghiệp. Cũng có thể nói, "Chiếu dời đô" của vua Lý Thái Tổ là sản phẩm của một bản lĩnh văn hóa. Không có bản lĩnh văn hóa ấy thì dễ gì hôm nay đất nước có một thủ đô nghìn năm tuổi! Muốn cho "vận nước dài lâu, phong tục giàu thịnh" nhằm "làm kế cho con cháu muôn vạn đời", vì vậy "xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời" nên quyết dời đô về đây. Ấy chính là "trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân"!* Phải có một bản lĩnh văn hóa đủ tầm mới chỉ ra được những điều ấy. Đương nhiên, bản lĩnh ấy không ngẫu nhiên mà có. Người mở đầu cho vương triều Lý là một người được hấp thu một học vấn nghiêm chỉnh từ nhỏ. Thầy dạy của Lý Công Uẩn là thiền sư Vạn Hạnh, một nhà sư uyên bác, một trí thức đứng hàng đầu trong những người có học vấn đương thời. Hãy chỉ đọc một bài thơ của ông để cảm nhận điều đó, bài "Thị đệ tử": Thân như điện ảnh hữu toàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Nhậm vận thịnh suy vô bố úy Thịnh suy như lộ thảo đầu phô [ Thân người như bóng chớp, có rồi lại không/ Như muôn cây cỏ mùa xuân tươi tốt đến mùa thu khô héo/ Ngẫm và hiểu cái lý của thịnh suy, lòng không sợ hãi/ Vì thịnh suy nối tiếp nhau như khoảng thời gian hạt sương móc trên đầu ngọn cỏ]. Theo tác giả của "Lịch sử Phật giáo Việt Nam", giáo sư Lê Mạnh Thát, "trước khi mất, Vạn Hạnh đã gọi đệ tử mình ở chùa Lục Tổ đến và đọc cho họ nghe bài kệ trên, rồi dặn dò đệ tử của mình: "Các con muốn đi đâu? Ta không lấy chỗ trụ để trụ, mà cũng không dựa vào chỗ không trụ để trụ". Bài thơ này là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam... nó đúc kết cả một triết lý hành động mà suốt đời Vạn Hạnh đã theo đuổi". * Có thể vắn tắt gợi lên những phân tích của tác giả "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" về bài thơ này như sau: Câu đầu là một cái nhìn về chính bản thân. Con người xuất hiện trên thế giới này đúng như một ánh chớp, chỉ lóe lên rối tan biến vào đâu đó trong không gian mênh mông của vũ trụ. Con người, như vậy, vừa có tính bi kịch, nhưng lại vừa có tính thần thánh cao sang của nó. Câu hai là một cái nhìn tổng quát về thế giới con người đang sống, một cái nhìn về quy luật phát triển của thế giới tự nhiên, mọi sự sống đều kèm theo cái chết. Câu thứ ba và bốn là một cái nhìn về quy luật của phát triển xã hội. Xã hội nào có thịnh rồi cũng có suy. Tổ chức cao nào cũng có lên rồi cũng có xuống. Xã hội loài người chuyển dịch theo những quy luật vận động của nó. Chính quy luật vận động đó đã tạo nên sự thịnh suy. Con người Phật giáo biết nắm lấy quy luật vận động đó [nhậm vận] thì đứng trước sự thịnh suy hoàn toàn có thể làm chủ được tình thế, chẳng có gì phải sợ hãi. Mà có gì phải sợ hãi khi sự thịnh suy đó diễn ra cũng chóng vánh như một hạt sương mai long lanh trên ngọn cỏ trong chốc lát biến mất dưới ánh sáng của mặt trời! Ngược về trước, còn những bài thơ gợi lên cảm thức hùng vĩ về đất nước, về con người mà bài thơ "Nguyên Hỏa" của đại sư Khuông Việt, và trước đó là bài "Quốc Tộ" của thiền sư Pháp Thuận là những ví dụ sống động về dòng thơ quan tâm đến vận mạng của đất nước, đến cuộc sống của người dân được nhìn nhận như là "dòng thơ chủ lưu của nền văn học Việt Nam"**. Xin nói đôi điều về bài thơ "Nguyên hỏa" [Gốc lửa] của Khuông Việt: Mộc trung nguyên hữu hỏa Nguyên hỏa phục hoàn sanh Nhược vị mộc vô hỏa Toàn toại hà do manh [Trong cây vốn có lửa/ Sẵn lửa, lửa mới sinh ra/ Nếu cây không có lửa/ khi cọ xát sao lại thành]. Đây cũng là một bài kệ thị tịch mà đại sư đã trao lại cho học trò của mình trước khi mất. Hình ảnh ngọn lửa phải chăng là ánh sáng giác ngộ? Không phải tìm một thế giới giác ngộ nào khác ở ngoài cuộc đời mà ta đang sống. Mỗi người đều có thể đạt tới sự giác ngộ, nhận ra được chân lý từ chính cuộc sống của mình. Như lửa vốn có ở trong cây, vấn đề là làm sao cho cây bật lên ngọn lửa. Hình tượng này diễn đạt một triết lý sống, một triết lý dẫn dắt hành động nhằm cứu dân giúp nước của Phật giáo thời kỳ này. Để hiểu hơn điều này, xin dẫn ra mấy câu trong kinh Lục độ tập của học giới Phật giáo Việt Nam thời kỳ ấy: "Phù hữu tất không, do nhược lưỡng mộc tương toán sinh hỏa, hỏa hoạn thiêu mộc, hỏa mộc câu tận, nhị sự giai không" [Hễ có tất không, giống như hai miếng gỗ cọ nhau mà sinh ra lửa, lửa trở lại đốt gỗ, lửa gỗ đều tiêu hết, hai việc đều không] ** Trước "Nguyên hỏa" của Khuông Việt [930-1011] , bài "Quốc Tộ" [Vận Nước] của thiền sư Pháp Thuận [915-990], một kiệt tác ghi lại dấu ấn của một tầm vóc tư tưởng và triết lý mà đến cả nghìn năm sau, đọc lại vẫn tươi nguyên tính hàm súc, giàu sức thuyết phục: Quốc tộ như đằng lạc Nam thiên lý thái bình Vô vi cư điện các Xứ xứ tức đao binh [Vận nước đan xen với nhau như mây quấn/Đất trời Nam đang hưởng thái bình/ Nếu triều đình thấm nhuần lẽ vô vi/Mọi nơi sẽ không còn chiến tranh] Bời bời vận nước quấn mây Trới Nam mở lượng đó đây thái bình Thiền tâm thấm tận triều đình Thì nhân gian dứt đao binh đời đời Nguyễn Duy dịch thơ Phải trở lại với bối cảnh ra đời của bài thơ mới thấy hết được những ý tứ sâu sắc tiềm ẩn trong hình tượng, trong câu chữ của bài thơ ra đời cách đây hơn 1000 năm. Đó là bối cảnh mà "Việt Giám Thông Khảo Tổng luận" chép: "Nước nhà nhiều nạn, xã tắc lâm nguy, lại thêm giặc Chiêm quấy nhiễu phía nam, quân Tống xâm lăng phía bắc, quyền thần nắm việc nước, người trong nước lìa lòng... họ Đinh dấy lên do ở Tiên Hoàng mà họ Đinh mất đi cũng là do Tiên Hoàng, không phải mệnh trời không giúp, chính là vì mưu của người không ra gì. Lê Đại Hành cầm quyền mười đạo, giữ chức nhiếp chính, vua bé nước nguy, nhân thời chịu mệnh, giết vua Chiêm Thành để rửa cái nhục sứ thần bị bắt, phá quân Triệu Tống làm nhụt cái mưu tất thắng của chúng...Cày ruộng tịch điền ở Long Đội, mời người xử sĩ ở Tượng Sơn, kén dùng hiền tài, dựng mở trường học, có mưu lược to lớn của bậc đế vương".* Bài thơ nói trên chính là câu trả lời của thiền sư Pháp Thuận đối với câu hỏi của nhà vua về vận nước trong bối cảnh thù trong giặc ngoài. Câu hỏi thể hiện một trực cảm của nhà chính trị đứng trước những thử thách khắc nghiệt của một vương triều mới dấy nghiệp, và câu trả lời cũng là một trực cảm chính trị sâu sắc trên nền tảng một triết lý nhân bản thâm hậu. Trọng lực của ý tưởng cũng như sự đúc kết toàn bộ triết lý của tác giả bài thơ dồn vào khái niệm "vô vi". Vận nước có dài lâu được hay không tùy thuộc vào nhận thức và ứng xử của người gánh vác trọng trách với sơn hà xã tắc, đất trời Nam đang hưởng thái bình liệu có duy trì được tiếp hay không, là do ở chỗ "Vô vi cư điện các. Xứ xứ tức đao binh" [nếu triều đình thấm nhuần lẽ vô vi [thì] mọi nơi sẽ không còn chiến tranh". Chiến tranh ở đây là những cuộc tranh bá đồ vương, nồi da xáo thịt của anh em dòng họ và của các phe nhóm muốn tranh giành ngôi vua, kiếm chác quyền lực mà hệ lụy là loạn lạc, là máu xương đổ lên đầu trăm họ. Loạn 12 sứ quân làm sụp đổ vương triều Ngô, rồi loạn Đỗ Thích giết vua để rồi bị giết và tiếp theo là các tướng cũ của Đinh Tiên Hoàng định mưu phạt Lê Hoàn [Lê Đại Hành] để rồi bị giết, kết thúc vương triều Đinh. Và đồng thời, đáng ngại hơn nữa, là âm mưu xâm lược từ phương Bắc khi mà nhà Tống chấm dứt thời kỳ "ngũ đại thập quốc" và đang bành trướng về phía nam. Tháng tư năm 981 đội quân xâm lược do Hầu Nhân Bảo chỉ huy chia quân làm hai ngả, hòng nuốt chửng quốc gia nhỏ bé không chịu thần phục cứ như cái xương mắc trong họng khiến không nuốt được những miếng mồi ngon phương Nam! Bị đánh tan tác trên cửa sông Bạch Đằng, Hầu Nhân Bảo phải đền mạng. Năm 1005, Lê Đại Hành mất, các con tranh chấp ngôi vua, đem quân đánh lẫn nhau, kết thúc nhà Tiền Lê. Có hiểu bối cảnh đó mới hiểu được ý tưởng của thiền sư Pháp Thuận muốn tác động đến suy nghĩ của người đứng đầu trăm họ. Liệu có phải hai chữ "vô vi" trong bài thơ của ông có gốc gác từ kinh "Lục độ tập" của nhà Phật "Cẩn thận không kiêu ngạo, là hạnh của học sĩ, bỏ lòng dơ ân ái, không lấm bụi bậm của sáu tình, không để các ái nhỏ như tóc tơ che dấu trong lòng mình thì các niệm lắng diệt, đó là vô vi"? ** Xin đọc thêm hai bài thơ sau: Thiền sư Chân Không [1046-1100] trong bài "Cảm Hoài" [Tỏ nỗi lòng] thì lại nói đến khái niệm "vô vi" dưới một chiều cạnh khác: Diệu bản hư vô nhật nhật khoa Hòa phong xuy khởi biến sa bà Nhân nhân tận thức vô vi lạc Nhược đắc vô vi thủy thị gia. [cái bản tính vi diệu trống không ngày ngày có mặt/Gây nên cơn gió hòa ở khắp thế gian/Người người ai cũng biết cái hạnh phúc của vô vi/Phải thể hiện được cái vô vi đó trong cuộc sống mới gọi là nhà] Thiền sư Từ Đạo Hạnh [?-1117] trong bài "Hữu Không" [Có và không] lại cho rằng: Tác hữu trần sa hữu Vi không nhất thiết không Hữu, không như thủy nguyệt Vật trước hữu không không [Có thì có tự mảy may Không thì cả thế gian này cũng không Kìa xem bóng nguyệt dòng sông Ai hay không có, có không là gì] Tục truyền theo Huyền Quang Tam Tổ Rõ ràng là "vô vi cư điện các" hàm nghĩa một phẩm chất được hình thành và nuôi dưỡng từ một tư tưởng triết học Phật rất sâu sắc. Mới đây thôi, trong cái ồn ào, bụi bậm của dòng đời thời hiện đại ào ạt tuôn chảy, trong tập thơ đượm màu sắc triết lý "Cỏ dọc đường trần" của Việt Phương, nhà thơ và là nhà nghiên cứu, có hai câu gợi nhiều suy tưởng từ bài thơ có nhan đề là "Nghĩa" dường như muốn diễn đạt sự cảm nhận của mình về tinh thần cơ bản của triết học ấy: "Không có gì tạo thành tất cả Tất cả đầy những không có gì"*** Liệu có thể nhận thức rằng "tất cả là không có gì, và không có gì là tất cả" chính là sự thâu tóm một cách đơn giản nhất triết học Phật? Có lẽ phải trên tinh thần đó mới có thể hiểu rõ khái niệm "vô vi" trong bài thơ "Vận nước" của Pháp Thuận. Để có thể "vô vi cư điện các" [triều đình thấm nhuần lẽ vô vi] thì tất nhiên người đứng đầu trăm họ phải là người có trí và có đức. Có được điều đó mới chấm dứt được nạn binh đao khiến muôn dân chịu cảnh lầm than, đem xương máu lót đường cho những mưu ma chước quỷ trong những cuộc tranh bá đồ vương nhằm giành giật cái ghế quyền lực. Oái oăm thay, những con người với những phẩm chất như vậy thường chỉ xuất hiện trong thời kỳ mở đầu cho một triều đại! Rồi triều đại do họ lập nên thịnh suy, dài ngắn ra sao gắn liền với việc những phẩm chất đẹp đẽ như vừa nói của người nắm quyền được gìn giữ, kế thừa và phát huy đến đâu, hay lụn bại dần dần rồi dẫn đến chỗ băng hoại. Người lập nên triều đại Tiền Lê, người anh hùng dân tộc đánh tan quân xâm lược nhà Tống làm rạng rỡ non sông, nhưng rồi khi nằm xuống thì các con trai ông đã giết nhau để tranh ngôi. Lê Long Đỉnh, người tranh được chiếc ngai vàng sau khi giết hết anh em mình, đã không ngồi được trên ngai, mà phải "ngọa triều" để điều hành việc nước! Và thế tất là phải hèn mạt cúi đầu trước nhà Tống để duy trì cho được tư thế "ngọa triều" đó, để rồi chóng vánh chấm dứt triều đại do cha mình lập nên! Và đây là chuyện diễn ra không chỉ một lần trong lịch sử. Sự suy thoái về phẩm chất, về đạo lý của người cầm quyền gắn liền với sự rối ren của thời cuộc, sự ly tán của lòng dân, vận nước gặp buổi khó khăn dẫn tới sự sụp đổ của một triều đại là điều thường thấy, và dường như đã thành quy luật "đẩy thuyền là dân mà lật đổ thuyền cũng là dân". Chỉ một lời bình được chép trong Đại Việt Sử ký Toàn thư về "Ngọa triều Hoàng đế" đủ diễn tả được quy luật ấy: "Vua làm việc càn rỡ, giết vua cướp ngôi, thích dâm đãng tàn bạo, muốn không mất nước sao được?"! Cũng chẳng cần đến loại "ngọa triều" như Lê Long Đỉnh mới làm sụp đổ chóng vánh một triều đại! Lịch sử đầy rẫy những thảm họa từ bọn vô tài bất tướng, vì những lý do khác nhau mà ngoi lên nắm được quyền hành, đẩy trăm họ đến chỗ lầm than, sơn hà nghiêng ngả, đấy là thời vận nước suy. Điều này chẳng lấy gì khó hiểu. Những người lập nên một triều đại mới thường phải trải qua thời "nằm gai nếm mật" nên hiểu được nguyên lý "đẩy thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân" nói trên, do vậy mà biết lo tìm cách "an dân", "khoan thư sức dân", thu phục nhân tâm, trọng dụng hiền tài. Nhưng rồi những hậu duệ của họ, nếu không được giáo dục và rèn luyện, thì theo quy luật khắc nghiệt của quyền lực bị tha hóa, sẽ chóng vánh bộc lộ những bệnh hoạn của kẻ ăn trên ngồi trốc nhờ những ngẫu nhiên của lịch sử mà leo được lên, không có "đức", cũng chẳng có "trí", thế tất nhanh chóng bị lịch sử phế bỏ! Đó là chuyện xảy ra như cơm bữa, xưa nay đều như vậy! Xem ra, sự diễn đạt hết sức cô đọng quan điểm triết lý "Nhậm vận thịnh suy vô bố úy/ Thịnh suy như lộ thảo đầu phô" trong lời thị tịch của Vạn Hạnh không chỉ biểu lộ một bản lĩnh, một nhân cách mà còn là sự đúc kết một quy luật. Nối liền bài thơ này với hai bài thơ thị tịch trước đó của đại sư Khuông Việt và thiền sư Pháp Thuận dẫn ra ở trên, và sau đó như những bài thơ của thiền sư Viên Chiếu [999-1090], thiền sư Mãn Giác [1052-1096] và nhiều bài thơ Thiền khác nữa mà ở đây không thể kể ra hết được, sẽ thấy rõ một dòng mạch tư tưởng trong nền văn học ghi đậm ảnh hưởng triết học Phật có ý nghĩa lớn thế nào đến vương triều Lý với Lý Thái Tổ. Xin dẫn thêm lời danh nho Ngô Thì Sĩ, cũng trong "Việt sử tiêu án" đã chép ở trên, để hiểu hơn vai trò của văn hóa Phật giáo với những đóng góp lớn lao của họ vào đời sống tinh thần của xã hội ta thông qua các vị danh sư của thế kỷ thứ X và XI: "Văn nhân cũng không thể làm hơn được, không biết học hành dồi mài từ đâu. Anh hùng cái thế ra đời, luôn không thiếu người...". Chính họ đã giúp sinh thành nên một Lý Thái Tổ với "Chiếu dời đô". Cần lưu ý rằng, trong bối cảnh của xã hội ta thời kỳ này thì nhà chùa không chỉ là trường học mà còn là những trung tâm văn hóa. Hầu hết các lễ hội dân gian hiện đang tồn tại thì xem ra ít nhiều đều gắn bó với nhà chùa, nếu không muốn nói rằng phần lớn xuất phát từ đó. Ba lễ hội lớn như hội Khám, hội Dâu và hội Gióng đều xoay quanh ngày Phật đản, tức là ngày mồng tám tháng tư. Đừng quên là đền Gióng nằm sát cạnh chùa Kiến Sơ và lễ hội thường diễn ra tại chùa. Mồng bảy hội Khám Mồng tám hội Dâu Mồng chín đâu đâu Kéo về hội Gióng Trong những lời hát tại lễ hội này, có cả lời hát vào chùa xin lễ: Vào chùa thắp một nén nhang Khói lên nghi ngút bốn phương nhà chùa...** Có thấy ra điều đó mới hiểu được ý nghĩa sâu xa việc Lý Công Uẩn, như "Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục" ghi: "Khi lên ba tuổi, sư chùa Cổ Pháp là Lý Khánh Văn nuôi làm con, nhân đấy lấy theo họ Lý". Sách "Đại Nam nhất thống chí" cũng chép rằng: "Chùa Cổ Pháp ở xã Đình Bảng, huyện đông Ngạn, là nơi trụ trì của Lý Khánh văn. Sử chép Lý Thái Tổ sinh được ba năm thì mẹ ẵm đến đây, được Khánh Văn nhận nuôi. Nay trong chùa có tượng mẹ Lý Thái Tổ". Sách "Đại Việt Sử Ký Toàn thư" lại chép: "Vua sinh ra mới 3 tuổi, mẹ ẵm đến nhà Lý Khánh Văn. Khánh Văn bèn nhận làm con nuôi. Bé đã thông minh, vẻ người tuấn tú khác thường. Lúc nhỏ đi học, nhà sư ở chùa Lục Tổ là Vạn Hạnh thấy, khen rằng: "Đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy, gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ". Bằng những phân tích dựa trên các dữ liệu sưu tập được, tác giả của "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" đưa ra nhận định: "nếu chùa Lục Tổ là chùa Cổ Pháp đổi tên thì rõ ràng Lý Khánh Văn chính là thiền sư Vạn Hạnh. Người đã nhận cậu bé Lý Công Uẩn làm con nuôi và người thầy dạy dỗ cậu là một..."** Không đi sâu vào dữ liệu còn tranh cãi, điều cần khẳng định là: tài đức của Lý Thái Tổ, người khai sáng thế kỷ XI, mở ra một trang mới trong lịch sử nước nhà với thủ đô Thăng Long trường tồn cả nghìn năm, trải nghiệm bao thăng trầm biến động không phải ngẫu nhiên mà có. Tài đức ấy, bản lĩnh ấy là do được dạy dỗ, rèn đúc từ ấu thơ bởi những bậc danh sư như thiền sư Vạn Hạnh, một đỉnh cao của tri thức đương thời như đã phân tích ở trên. Mà tầm cao tri thức ấy là do thu góp cả một đời người từng sống qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê để góp phần dựng nên vương triều Lý. Phải chăng vì thế mà gây dựng được nền móng cho một vương triều kéo dài 216 năm, có thể nói là dài hơn bất cứ triều đại nào sau đó. Chẳng phải bây giờ, mà trước đây, Lý Nhân Tông sống vào nửa thế kỷ sau Van Hạnh, vẫn hết lời ghi nhận công đức của vị thiền sư có công lớn dựng nên cơ nghiệp nhà Lý: "Vạn Hạnh dựng ba cõi/ Thật hợp sấm lời xưa/ Quê hương tên Cổ Pháp/ Chống gậy giữ kinh vua". Tưởng cũng nên nói thêm đôi điều về Lý Nhân Tông người đã tôn vinh công đức vị danh sư, người thầy của vị vua sáng lập vương triều Lý. Đến Nhân tông, triều Lý đã được 4 đời trải qua 127 năm, Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông đều là những minh quân. Sử chép khi sắp mất, Nhân Tông gọi thái úy Lưu Khánh Đàm nhận di chiếu: "...Chôn cất hậu làm mất cơ nghiệp, để tang lâu làm tổn tính mệnh, trẫm không cho là phải. Ta đã ít đức, không lấy gì làm cho trăm họ được yên, đến khi chết đi lại khiến cho thứ dân mặc áo xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, bỏ cúng tế, làm cho lỗi ta thêm nặng, thiên hạ sẽ bảo ta là người thế nào! ... chớ làm sai mệnh, trẫm dù nhắm mắt cũng không di hận. Việc tang thì chỉ 3 ngày bỏ áo trở, nên thôi thương khóc; việc chôn thì nên theo Hán văn Đế, cốt phải kiệm ước, không xây lăng mộ riêng, nên để ta hầu bên cạnh tiên đế...".* Thì ra kiệm ước vì thương dân, tránh chuyện phô trương hình thức trong tang lễ, xây lăng mộ tốn kém đã là vấn đề được đặt ra cả nghìn năm trước khi mà thể chế quốc gia đã đi vào khuôn phép! "Tiên đế" nói đây là Thánh Tông. Đại Việt sử ký Toàn thư chép: "Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đắt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc vua tốt"* Kế thừa là kế thừa công đức của vua cha Thái Tông, vị vua được Ngô Sĩ Liên bình như sau: "Cùng lòng cùng đức, tất sự nghiệp có thể thành. Có vua có tôi, gian hiểm nào cũng vượt được. Thái Tông đương lúc đau xót, biến loạn sinh ngay kẻ nách mà vua tôi xử trí gãy gọn phải lẽ, vượt được hiểm nạn làm nên sự nghiệp, tông miếu nhờ đó được vững yên. Không phải là vua tôi gặp gỡ cùng đức cùng lòng mà được như thế ư?". Đây là nói về chuyện vua nghĩ tình cốt nhục mà tha cho tội mưu phản không thành của hai người em. Phải chăng ẩn chìm trong vấn đề "nghĩ tình cốt nhục" mà tha không giết lại cho phục chức như cũ chính là thực hành triết lý "vô vi cư điện các" mà thiền sư Pháp Thuận đã khuyến cáo? Chừng nào người đứng đầu trăm họ còn theo đuổi được một triết lý nhân bản, còn nắm được quy luật "nhậm vận thịnh suy, thịnh suy như lộ thảo đầu phô" thì vận nước còn có cơ hưng thịnh. Một khi mà những kẻ cầm quyền suy đốn, nhân tâm lý tán, họa ngoại bang rình rập thì vận nước suy vong. Tuy nhiên, "quốc tộ như đằng lạc" [vận nước đan xen với nhau như mây quấn], sự suy vong của một triều đại chỉ có thể là một sự chuẩn bị cho việc ra đời của một triều đại mới đáp ứng được khát vọng của nhân dân. Mà sức dân thì như nước có thể đẩy thuyền, cũng dư sức lật thuyền! Vả chăng, "thịnh suy nối tiếp nhau chỉ như khoảng thời gian hạt sương móc trên đầu ngọn cỏ ". Cái mới đã ươm mầm từ trong cái cũ, và sự ra đời của cái mới là không gì có thể cưỡng lại được! Thì đấy, "Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận. Đình tiền tạc dạ nhất chi mai" [Đừng bảo xuân tàn hoa cũng rụng hết. Đêm hôm qua, trước sân (rộ) một cành mai]. Đây là lời nhắn gửi của thiền sư Mãn Giác, người sống cùng thời với Lý Thánh Tông, trong bài "Cáo tật thị chúng" [Có bệnh báo mọi người]. Ở đây là một cách diễn đạt khác về điều mà thiền sư Vạn Hạnh khuyến cáo vừa dẫn ở trên: "Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô" [Như muôn cây cỏ mùa xuân tươi tốt đến mùa thu khô héo]. Sự sống thật sự vô cùng vô tận và bất diệt. Đó là vận động bất tận. Mà vận động luôn luôn là tự thân vận động, những cú hích ở bên ngoài chỉ có tác động nhằm thúc đẩy nhanh những "hợp trội" khiến nảy sinh những đột biến, thúc đẩy sự phát triển. Sự tự thân vận động ấy là không sao cưỡng lại được. Thì chẳng thế sao: "Mộc trung nguyên hữu hỏa. Nguyên hỏa phục hoàn sanh" [trong cây vốn có lửa, sẵn lửa, lửa mới sinh ra]. Bởi lẽ "Nhược vị mộc vô hỏa. Toàn toại hà do manh" [nếu cây không có lửa. khi cọ xát sao lại thành?] Suy ngẫm về ngày kỷ niệm 1000 năm Thăng Long đang đến gần, gợi nhớ hình ảnh vị vua khai sáng nhà Lý cách đây mười thế kỷ, đọc lại "Chiếu dời đô" càng thấm thía đến lẽ thịnh suy và vai trò của văn hóa trong sự định hình một triều đại vốn giữ một vị thế hết sức độc đáo trong lịch sử dân tộc. Ở đây là văn hóa thấm nhuần triết lý Phật. Vào thời đó, Phật giáo được xác định như một con đường "mà ngoài xã hội có thể cứu dân giúp nước, còn ở nhà thì có thể phụng thờ cha mẹ và lúc ở một mình có thể dùng để hoàn thiện bản thân" như Mâu Tử đã viết trong Lý Hoặc Luận!**** Với tính cách là một lực lượng văn hóa dân tộc, Phật giáo không thể tách rời sự nghiệp đấu tranh thường trực để dựng nước và giữ nước của dân tộc. Có thể hiểu vì sao những bài thơ Thiền thấm đãm triết lý Phật dẫn ra ở trên đều hàm chứa mối quan tâm đến vận nước. Chính ở đây, khi nói về về mối tương quan giữa thiên nhiên, đất nước và con người đã thể hiện sâu sắc quan điểm "duyên sanh" cơ bản của triết lý Phật giáo. Đưa ra những cảm nhận trên đây cốt chỉ để trình bày một nhận thức: được đào luyện từ tấm bé, với một bản lĩnh văn hóa được dày công hun đúc, Lý Công Uẩn đã trở thành Lý Thái Tổ, mở đầu cho một triều đại dài nhất trong lịch sử dân tộc. Xét đến cùng , đó là bài học về văn hóa, mà ở thời đoạn lịch sử thế kỷ XI-XII là sự kết tinh của triết lý Phật, điểm tựa cơ bản nhất của triều đại nhà Lý! Khí phách và bản lĩnh của vị vua khai sáng triều Lý thể hiện khá nổi bật trong bài thơ "Tức cảnh", tương truyền là Lý Công Uẩn làm lúc còn trẻ, nhân tình cảnh bị thầy phạt phải trói nằm dưới đất, không ngủ được, đã làm bài thơ tự vịnh: Thiên vi khâm chẩm địa vi chiên Nhật nguyệt đồng song đối ngã miên Dạ thâm bất cảm trường thân túc Chỉ khủng sơn hà xã tắc điên [Trời làm chăn gối, đất làm nệm/ Trời trăng cùng đối diện giấc ngủ của ta/ Đêm tối quá không dám duỗi dài chân/ Chỉ sợ đất nước rối loạn] Nếu đích thực đây là bài thơ của người sẽ sáng lập nên vương triều Lý thì, thơ tức là người. Tưởng cũng chẳng nên bình luận gì thêm. Không có một bản lĩnh văn hóa, không có một điểm tựa đúng đắn và vững vàng về triết lý dẫn dắt cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước, khó để lập nên một triều đại hưng thịnh và dài lâu. Tượng Lý Thái Tổ trầm mặc bên Hồ Gươm đang nhắc nhở con cháu hôm nay nghĩ về cách ông cha mình đã trả lời "những câu hỏi lớn" của lịch sử như thế nào, và dựa vào đâu để có bản lĩnh trả lời câu hỏi cho vận nước. Để trả lời câu hỏi ấy, có lẽ phải trở lại với câu thơ "Nam nhi tự hữu xung thiên chí. Hưu hướng Như Lai hành xứ hành" trong bài thơ "Đừng đi theo vết chân Như Lai" [Hưu hướng Như Lai] của thiền sư Quảng Nghiêm [1122-1190]. Câu thơ ra đời từ một nghìn năm trước mà nay đọc lại, bỗng thấy choáng ngợp với ý tưởng mới mẻ, độc đáo và sao mà "hiện đại" đến thế !Thật là chống giáo điều ngay trong chuyện tu hành! Phải bằng bản lĩnh ấy, khí phách ấy để trả lời câu hỏi lớn về vận nước. Đừng quên rằng, "Xe vẫn chạy nghìn đời... Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từng đi chuyến trước, Những chuyến xe không có khứ hồi" [Chế Lan Viên. "Di cảo thơ"]. Chính vì những chuyến xe lịch sử không có khứ hồi, cho nên, tiếp bước cha ông không phải là dẫm theo lối mòn có sẵn, mà là dũng cảm gạt bỏ mọi trở ngại để vươn về phía trước, như dòng sông chỉ có chảy ra biển mới gọi là trung thành với ngọn nguồn của nó. Sự nghiệp của ông cha để lại, vận mệnh của dân tộc "sẽ được quyết định khi một thế hệ mới sẽ lớn lên... Khi những con người như thế xuất hiện, họ sẽ vứt bỏ tất cả những điều mà theo quan niệm hiện nay họ phải làm: họ sẽ tự biết cần phải làm như thế nào"3 Vận nước sẽ được quyết định bởi thế hệ trẻ năng động và sáng tạo! ___________________ 1. Gustave le Bon "Tâm lý học đám đông" "Tâm lý học đám đông" NXB Tri thức 2008, tr.213 2. Việt Phương "Cỏ dọc đường trân". NXB Hội Nhà văn.2010, tr.46 3. Thơ Thiền Lý Trần. "Lời nói đầu". NXB Văn hóa Sài Gòn. 2005, tr.7. 4. C.Mác & Ph.Angghen Toàn Tập , Tập XXI. NXBCTQG . Hà Nội, 1995 tr..128 * Đại Việt Sử ký Toàn thư. Tập 1. NXBKHXH Hà Nội 1998, tr.241, tr.122, tr.247, tr.233, tr.250, tr.240, tr.271 ** Lê Mạnh Thát. "Lịch sử Phật giáo Việt Nam".Tập II. NXBTổng Hợp TPHCM. 2006, tr. 363, tr.442, tr. 450, tr.365, tr.395
  20. Giả sử cuộc đời là 1 con đường thì Tử vi là hành trình vẽ sẵn để bạn đi trên con đường đó, còn phong thủy sẽ tác động đến việc bạn đi như thế nào trên con đường đó, xe đạp, xe máy, xe hơi hay ...đi bộ, mang giày hay đi chân đất...!
  21. Những mẫu giày quái lạ Giày hình mèo, hình chó, hình vỏ chuối, được thiết kế để vừa có vẻ ngoài độc đáo vừa có thể đi được. Chủ nhân đi chiếc giày này sẽ trông như vừa giẫm phải kẹo cao su. Đây là một mẫu thiết kế của Kobi Kevi, 35 tuổi, người Israel. Những chiếc giày lấy cảm hứng từ giỏ đi chợ. Thiết kế giày vỏ chuối của Kevi đang được trưng bày ở bảo tàng giày SONS ở Bỉ. Mẫu giày "Miao" lấy cảm hứng từ con mèo. Giày lấy mẫu từ con chó. Giày hình búp bê. Kevi miêu tả các mẫu thiết kế của mình là "những tác phẩm điêu khắc đi được". Mẫu giày hình ná. "Quan trọng là chúng phải là giày thật sự, không phải là tác phẩm nghệ thuật hay đồ chơi", Kevi nói. Giày hình xe đẩy bằng vải kẻ caro. Giày hình ghế dựa êm ái. Mẫu giày hình lưỡi. Hải Minh (Ảnh: Solent News) VnExpress.net
  22. Phát ngôn & Hành động: "Mua danh 3 vạn, bán danh 3 đồng" Tác giả: Kỳ Duyên Người xưa có câu: "Mua danh 3 vạn, bán danh 3 đồng". Trong cái thời buổi kim tiền đen đỏ này, con người ta cần tiền, cần lợi đến mức độ nào, mà người ta bất chấp tất cả, để mua đắt, bán rẻ cái danh của mình đến thế. Phát ngôn & Hành động tuần này, vì thế, là những lát cắt xoay quanh những câu chuyện thuộc một chủ đề - cái danh. "Mua danh" 100 tỷ - "bán danh" vô giá? Có lẽ, cái tít nhỏ trên đây đã quá đầy đủ để nói về tính chất đáng buồn và đáng xấu hổ của sự kiện bộ phim cổ trang lịch sử "Lý Công Uẩn, đường tới thành Thăng Long" mà Công ty cổ phần Trường Thành là cha đẻ vừa sinh nở, ngay từ những giây phút đầu, đã không hề có được sự "bố tròn, con vuông". Nhưng trong xã hội, dư luận số đông dường như không thương xót... Bài viết phân tích của nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Đắc Xuân đăng trên Tuần Việt Nam mới đây, ngày 26-9, đã nói quá đầy đủ lý do vì sao. Nhưng người viết bài này lại chú ý tới thông tin mới nhất. Đó là Hội đồng Duyệt phim Quốc gia mở rộng (do Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch thành lập) vừa tổ chức thẩm định lại (lần thứ 2) bộ phim 19 tập này, sau khi đã yêu cầu đơn vị sản xuất phim sửa chữa 4 nội dung theo sự thẩm định và đề nghị của hội đồng (lần thứ nhất). Tuy nhiên, theo bản tin của VTC, qua lần trình duyệt thứ 2 này cho thấy, việc sửa chữa vội vã của đơn vị sản xuất đã khiến hình ảnh và lời thoại trong phim nhiều đoạn không khớp, hình một đằng, thoại một nẻo. Quan trọng nhất, những sự kiện chính sử đã không được tôn trọng. Mặt khác, tuy tên bộ phim là "Lý Công Uẩn, đường tới thành Thăng Long" nhưng chỉ có 1-2 tập phim đề cập chủ đề này, số còn lại phản ánh cuộc tranh giành quyền lực trong các triều đại. Những cảnh chém giết nhau được mô tả khá kỹ, thể hiện tính dã man, tàn độc của những người tranh ngôi, đoạt vị. Nếu để "nhặt sạn" ở bản phim đã sửa thì còn nhiều vô cùng. Vậy mà cảm nhận chung của những ai đã tiếp cận với bản phim đã sửa lần 2 này là "yếu tố Trung Hoa" vẫn đậm đặc ở bối cảnh, trang phục, đạo cụ, những cảnh diễn xuất sử dụng diễn viên quần chúng là người Trung Quốc (!) Nếu yêu cầu bỏ hết các chi tiết, yếu tố ảnh hưởng Trung Hoa trong phim thì chỉ có... bỏ phim. Được biết, ý kiến chốt lại của phía Hội đồng Duyệt phim là kiến nghị không phát sóng bộ phim trong dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Yếu tố Trung Hoa" vẫn đậm đặc trong phim Có thể, Công ty cổ phần Trường Thành cũng có thiện chí, muốn đóng góp một sản phẩm nghệ thuật đích thực trong dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, và qua đó "lăng-xê" tên tuổi, thương hiệu công ty mình trong nghiệp kinh doanh, sản xuất loại hình nghệ thuật thứ 7. Thế nhưng, sự non kém về lịch sử, tâm lý "vọng ngoại" quá nặng che lấp đi sự sơ sài của hiểu biết về một loại hình nghệ thuật khó tính, cuối cùng đã hại chính cái tên hiệu - Trường Thành. Ném 100 tỷ đồng để mong muốn mua danh (khẳng định tên tuổi), nhưng cuối cùng hóa ra, Công ty cổ phần Trường Thành lại bán danh một cách "vô giá"- (không có giá)! Chỉ có một điều người viết bài này tự hỏi: Vì sao trong bộ phim có cả những họa sĩ, những nhà nghiên cứu tên tuổi tham gia với các trách nhiệm và vai trò khác nhau, mà lại để bộ phim thành "đứa con lai"? Đâu là nguyên nhân chính? Tiền bạc, sự ngây thơ hay sự kém cỏi trên giao lưu thương trường và văn hóa? Có lẽ, giờ đây, thì tiền bạc hay tên tuổi cũng chẳng mấy nghĩa lí khi mà nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Đắc Xuân khẳng định: Họ sẽ phải chịu "một phần trách nhiệm với lịch sử văn hóa dân tộc". Đó mới chính là sự bẽ bàng của người làm nghệ thuật, làm văn hóa, nếu như họ còn có lòng tự trọng. Bỗng nhớ đến những thế kỷ trước, những chặng đường đi của dân tộc đầy giông bão chiến tranh xâm lược hết phương bắc lại đến phương tây. Vì sao trong những đêm dài Bắc thuộc, nước có thể mất, nhà có thể tan, nhưng dân tộc Việt vẫn còn, vì văn hóa Việt, hồn Việt vẫn trường sinh và bất tử, vẫn thấm đẫm trong những giá trị tinh thần, văn hóa, nghệ thuật dân tộc. Còn nay, ở thời hiện đại, đất nước hoàn toàn độc lập, tự do, mà tâm lý của một số người tự cho là làm văn hóa lại "vong nô" đến vậy? Họ có biết rằng văn hóa dân tộc tiêu vong, thì nước vẫn còn đó, nhà vẫn còn đó, nhưng dân tộc rất có thể đã...mất lúc nào không hay. Đó mới là nỗi đau, nỗi nhục thấm thía của những người Việt còn lương tri, và trọng danh dự khi xem bộ phim. Chắc những người làm văn hóa và những người quản lý văn hóa phải "ngộ" được điều âm thầm mà sâu sắc đó trước công chúng? Nhìn ra thế giới, có thể thấy "sự mất nước mà không mất...dân tộc" ở hiện tượng dân tộc Do Thái. Không một miếng đất cắm dùi, đi ở đậu hầu khắp các nước trên trái đất, thế nhưng, người Do Thái với ý thức và sự gìn giữ bản sắc, cùng những giá trị văn hóa bất biến của mình, vẫn là một dân tộc đầy quyền uy mà không dân tộc nào có thể phủ nhận. Ngược lại, họ còn nhận được sự ngưỡng mộ của cả thế giới. Chỉ riêng trong họat động khoa học, nghệ thuật, chính trị, họ đã « cho » thế giới lượng tài sản văn hóa, nghệ thuật đáng nể. Tổ quốc Do Thái "tồn tại" ngay tại những vùng đất mà người Do Thái ngụ cư. Người làm luật "đánh bạc" với pháp luật Không chỉ có Công ty cổ phần Trường Thành "bán danh" mà có một vị quan chức tại Quảng Bình đã từ lâu, cũng mang danh của mình "đi bán", khi ông ta thường xuyên tổ chức đánh bạc tại nhà mình, đến mức người dân ở t/p Đồng Hới không ai không biết, ngôi nhà 3 tầng, kín cổng cao tường của ông là "sới bạc" to của những con bạc có máu mặt ở đây. Điều đặc biệt nhất, quan chức này lại chuyên hành nghề về pháp luật, có thẩm quyền phán xét những kẻ tội phạm. Đó là ông Nguyễn Thường Phi, Viện phó Viện Kiểm sát Nhân dân Quảng Bình. Quan chức luật pháp có quyền đứng trên luật pháp? Ảnh TPO Theo báo Tiền Phong, cứ sau giờ làm việc hành chính buổi chiều là mọi con bạc - trong đó có nhiều quan chức của tỉnh, lại lũ lượt kéo nhau đến nhà ông Phi. Người đi ô tô, người thì xe máy... họ vào trong, im ắng và ra về thường là 2-3 giờ sáng. Không đêm nào những hàng xóm của ông Phi không bị thức giấc vì tiếng xe máy, tiếng ô tô tăng ga, tiếng chó sủa... Và đôi lúc còn được nghe lời cãi cọ qua lại vì chuyện ăn thua. Mỗi đêm bạc, ông Phi cũng thu được hơn 10 triệu đồng tiền xâu (!). Trước thông tin gây bức xúc dư luận xã hội, Công an tỉnh Quảng Bình đã phải vào cuộc xác minh vụ tổ chức đánh bạc tại nhà ông Trần Thường Phi. Một sự trùng hợp lạ lùng: Không hiểu sao mà các vị quan chức đầu ngành của Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Quảng Bình, lại ngang nhiên chà đạp lên luật pháp đến vậy? Cách đây ít lâu, báo chí, xã hội đã ngỡ ngàng và rất phẫn nộ trước hành vi của ông Phạm Hồng Tâm, Viện trưởng, lái xe đâm phải một lúc 3 người, trong đó có một em bé, còn lại là 2 người phụ nữ. Sau đó, ông Tâm lái xe chạy, để lại cả 3 người bị thương nặng, có người bất tỉnh ngay tại chỗ. Hay vì là quan chức luật pháp, nên có quyền đứng trên pháp luật? Sự việc tổ chức đánh bạc tại nhà riêng, biến nhà riêng thành sới bạc ra sao của ông Trần Thường Phi, còn phải đợi cơ quan chức năng điều tra, kết luận và xử lý. Nhưng với cung cách dám "đánh bạc" với cả pháp luật và dư luận này của ông Viện phó Viện Kiểm sát Nhân dân Quảng Bình, thì rõ ràng máu "ăn thua" của ông Trần Thường Phi không thường tí nào, mà có thể thách thức "ngang ngửa" với thần công lý. Có điều, người dân Quảng Bình bây giờ, giả sử có việc không may phải nhờ đến sự can thiệp của luật pháp, họ biết trông vào sự nghiêm minh, vào cán cân công lý ra sao, nếu tận mắt thấy tai nghe về tư cách cán bộ đầu ngành của cơ quan pháp luật tỉnh này đây? Khi niềm tin bị mất, thì sự coi thường, thậm chí là khinh bỉ sẽ...xuất hiện! Anh hàng thịt, nhưng hồn không phải của Trương Ba! Cái sự "bán danh" ấy xem ra không phải chỉ là của một công ty cổ phần kinh doanh nghệ thuật thứ 7, hay của một ông quan chức ngành kiểm sát máu mê đen đỏ. Dường như từ lâu, nó cũng đã âm thầm "ký gửi" ở một ngành, vốn được coi là mô phạm, là chuẩn mực của sự làm người trong xã hội: ngành giáo dục. Ngày 29-9, VietNamNet đưa tin: "Đoàn thanh tra Sở GD và ĐT tỉnh Thừa Thiên - Huế vừa tiến hành kiểm tra, phát hiện một loạt trường học có nhiều sai phạm thu, chi không rõ ràng các khoản ngoài học phí". Thừa Thiên- Huế là đất học cố đô có truyền thống. Điều đáng nói là hình như không một ai trong xã hội chúng ta, kể cả những người có con tim nhạy cảm nhất thấy xúc động, hoặc bất bình, hoặc buồn rầu trước những thông tin như thế... Nền giáo dục biến học sinh thành... con tin! Ảnh Đất Việt Bởi chuyện thu tiền bạc không chính danh của nhà trường, của giáo dục... đã không còn là chuyện lạ. Ngược lại, nó như một "con lũ" mà từ lâu các gia đình đã phải chung sống, khi con trẻ vẫn phải đi học. "Con lũ" ấy khiến cho cái danh thiêng: "Dạy học - nghề cao quý" cũng rơi vỡ tan tành trong hồi ức người dân tự lúc nào, như một câu chuyện cổ tích đẹp mà không có thực. Trả lời phóng viên VietNamNet hôm 23-9, GS. Hồ Ngọc Đại có câu phát ngôn thật ấn tượng: "Giờ người ta gửi con đến trường là gửi con tin. Một nền giáo dục biến học sinh thành...con tin". Một khi học sinh đã là "con tin" thì chỉ có sự đổi trao ngang giá, không thể có chuyện "Tất cả vì học sinh thân yêu". Cái giá đổi trao ấy là gì, nếu không phải là đồng tiền? Thế nhưng ngay cả sự đổi trao tưởng chừng ngang giá ấy giờ cũng không còn minh bạch, rành mạch nữa. Chính điều đó, khiến nhà trường là...thương trường. Điểm số của học sinh được chấm theo kiểu "điểm đắt, điểm rẻ"... GS Hồ Ngọc Đại có lý khi nhận xét: "Phụ huynh lâu nay ấm ức vì họ không biết tiền nhà trường thu dùng vào việc gì, chứ không phải vì phải nộp tiền". Sự chính danh của một ngành, một nhà trường, một ông thầy từ lâu cũng không còn. Cái sự mù mờ của đổi chác, nó làm tổn thương biết bao những người thầy có lòng tự trọng. Một cô giáo đã phải khóc và nói với GS: "Thầy ơi, đáng lẽ ra đường em phải ngẩng mặt lên, nhưng ra đường em phải cúi gằm xuống thầy ạ. Ngượng. Dạy như thế này thì được cái gì thầy nhỉ? Bắt người ta học như thế này thì được cái gì?" Vì trên thực tế có em học hai năm trời không biết đọc, biết viết, học vu vơ những cái không biết để làm gì". Nhưng có bao nhiêu dòng nước mắt như thế chảy trong những ngôi trường là thương trường này? GS Hồ Ngọc Đại phải thốt lên: "Tiền nong có gì mà không sáng rõ? Giấy bạc có con số hết, có gì mà mù mờ? Cái lòng anh, cái óc anh nó mù mờ. Thầy giáo mà mù mờ cái đó là mất sạch. Phụ huynh đưa tiền cho anh nhưng họ khinh anh...Thầy giáo cũng như thầy tu, có sự thiêng liêng của nó. Anh vụ lợi là mất hết. Anh nhận đồng tiền vụ lợi thì anh mất thiêng. Bố mẹ học sinh đã đưa đồng tiền cho người thầy thì coi họ và anh hàng thịt giống nhau. Bố mẹ học sinh khi mất đồng tiền thì họ ý thức được họ mất mấy cân thịt, mấy cân gạo, mặc dù thái độ của họ bên ngoài rất lịch sự. Đối với anh, người ta cư xử như vậy mà anh không hiểu. Mất cái đó, người ta đòi lại cái gì, đó là sự khinh bỉ..." Liệu có bao nhiêu ông giám đốc sở GD, bao nhiêu ông hiệu trưởng, bao nhiêu người giáo viên ý thức được hết, cái giá đắt phải trả - danh dự nhà giáo, danh dự giáo dục khi đóng vai "anh hàng thịt", mà hồn lại không cao cả, không có cốt cách của Trương Ba?(Mượn ý vở kịch nổi tiếng của cố tác giả Lưu Quang Vũ- "Hồn Trương Ba, da anh hàng thịt"). Cái phong bì càng dầy dầy, cái nhân cách càng mỏng mỏng. Cái đồng tiền càng to to, cái niềm tin càng bé bé... Giai điệu "Sắc màu" của nhạc sĩ Trần Tiến tự nhiên vang lên trong lòng người viết bài này, nhưng là những "sắc màu" chua chát về phẩm cách! Đồng tiền thu về càng nhiều, thì cái danh thiêng của ngành giáo dục, của nhà trường, của người thầy...cũng càng lần lượt bỏ ra đi. Có điều, một khi những giá trị thiêng liêng nhất - nền tảng đạo lý, tinh thần, văn hóa ứng xử, đạo làm người...của xã hội đã mất thiêng, đã suy tàn héo úa, thì đó không chỉ là thảm họa cho tương lai, mà trước hết là thảm họa cho chính hiện tại của dân tộc. Con đường cong và cái tâm...cong Báo Tiền Phong số 183 gần đây, có bài "Nắn đường né nhà chủ tịch tỉnh?", phản ánh việc con đường Bạch Đàn ở phường 4, TP Vĩnh Long "né" nhà Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long Phạm Văn Đấu. Không biết, ông Chủ tịch Đấu phẩm cách nghiêm túc, đường bệ đến dường nào, mà đến cái con đường vô tri vô giác cũng phải sợ, phải né? Thế nhưng đọc kỹ bài báo, hình như không phải thế. Tóm tắt chuyện cái con đường "nhút nhát" là thế này: "Khi công bố quy hoạch con đường Bạch Đàn, rộng 30m, chạy giữa đất của ông Đấu và bà Lê Thị Kim Khoa, khiến đất của ông Đấu mất gần hết. Đó là khi ông Đấu còn lãnh đạo một doanh nghiệp nhà nước. Sau khi ông Đấu lên làm Chủ tịch UBND tỉnh, cuối năm 2009, con đường hoàn thành giai đoạn 1, thì hiện rõ giai đoạn 2 sẽ đâm vào nhà của bà Khoa, lấy gần hết đất của bà Khoa. Trong khi đó, đất của Chủ tịch Đấu lại chỉ mất có 4m, còn gần 15m chạy dài khoảng 100m theo con đường sẽ mở". Con đường cong hay cái tâm cong của người có chức quyền? Trước tình hình dư luận xã hội xì xào, nghi vấn, ngày 12-8, UBND tỉnh Vĩnh Long có công văn do Phó CT tỉnh Trương Văn Sáu gửi Bộ TT- TT giải trình việc này. Tuy nhiên, đọc kỹ công văn "thanh minh thanh nga" thì hình như cũng không phải thế. Đến lượt công văn của chính UBND tỉnh cũng lại "né" sự thật, không trả lời được câu hỏi của người dân Vĩnh Long, của xã hội là: Vì sao con đường phải "bẻ cong", khiến cho nhà Chủ tịch tỉnh Vĩnh Long Phạm Văn Đấu được hưởng "trọn lợi ích"? Con đường cong hay cái tâm của người có quyền lực, và người thực thi quyền lực ở tỉnh Vĩnh Long...cong? Cũng vì cái con đường "nhút nhát" ấy khiến bà Lê Thị Kim Khoa nổi cơn dũng cảm khiếu nại, vì cho rằng bà đã bị thiệt hại gần 10 tỷ đồng và giá trị ấy "nhảy sang nhà Chủ tịch Đấu". Bà Kim Khoa còn khiếu nại cả việc quy hoạch, chứ không phải chỉ khiếu nại giá bồi thường như công văn của UBND tỉnh Vĩnh Long trình bày. Cũng cần nói thêm một vấn đề nữa mà công văn của UBND tỉnh Vĩnh Long vẫn tiếp tục "né". Đó là việc điều chỉnh làm cong con đường còn có dấu hiệu vì lợi ích cục bộ của nhiều cán bộ khác ở tỉnh Vĩnh Long. Vì theo báo Thời Nay (một ấn phẩm của báo Nhân Dân), đường Bạch Đàn mới thi công xong 480m của giai đoạn 1 đã biến nhà của gần 20 cán bộ lãnh đạo, cán bộ đầu ngành tỉnh Vĩnh Long được tỉnh cấp đất trước đó để ở, từ trong hẻm trở thành nhà mặt tiền hoành tráng. Có thể liệt kê một loạt danh sách: Nhà GĐ Sở Xây dựng, Phó GĐ Sở Giao thông- Vận tải, Phó GĐ Sở Kế hoạch và Đầu tư, Chánh Thanh tra tỉnh Vĩnh Long, GĐ Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Trưởng ban Văn hóa-Xã hội của Hội đồng Nhân dân tỉnh, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy... và nhiều cán bộ lãnh đạo khác...". Ôi chao, toàn các cán bộ có danh như thế thì cái con đường vốn nhút nhát, cứ "né", cứ "né" là phải. Thế nhưng, nghĩ cho kỹ, thì tuy lợi lộc rõ là "mặt tiền", nhưng cái danh (dự), cái thanh danh của không ít cán bộ cốt cán tỉnh Vĩnh Long, đứng đầu là Chủ tịch Phạm Văn Đấu, trong lòng người dân Vĩnh Long nói riêng, xã hội nói chung, chắc là "ngồi sau cùng"! Tin là thế. Chỉ có một sự thật cay đắng đang hoành hành: Trong xã hội chúng ta, tài năng, năng lực quan chức cốt cán có lẽ không đến nỗi "nghèo". Nhưng nhân cách hành xử, cái tâm làm việc vì lợi ích chung, vì dân, vì nước có vẻ như đang ngày càng thuộc loại "xưa nay hiếm". Vì thế, cái danh của không ít quan chức tự lúc nào trong lòng người dân, trong lòng xã hội, bỗng trở nên nhẹ bẫng, vì nó đã bị đồng tiền, bị lợi ích cá nhân họ, lợi ích gia đình họ... cuốn đi. Không ai hỏi mua, mà thanh danh của các vị "cứ cuốn đi...cứ cuốn đi...cứ cuốn đi..." "Mua danh 3 vạn, bán danh 3 đồng"- câu thành ngữ xa xưa, vẫn nóng hổi những tháng năm không bình yên này. Có ai, ngành nào, công ty nào, quan chức nào, trí thức nào, nghệ sĩ nào...muốn bán danh k...h...ô...n...g? Theo VietNamNet.vn
  23. Mệnh quái hay còn gọi là phi cung, mỗi người có 1 mệnh quái ứng với quái (cung) tính theo năm sinh, cách tính này xuất phát từ Huyền Không Phi Tinh, và dùng để xác định Đông - Tây trạch cho từng người. Mệnh niên là mạng (nạp âm ngũ hành) do thiên can kết hợp với địa chi, vd Canh Dần có mệnh niên là Tùng Bách Mộc.