Thiên Luân

Quản trị Diễn Đàn
  • Số nội dung

    7.118
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    134

Everything posted by Thiên Luân

  1. Không, xét thì xét cả cha mẹ, xét thiên can, địa chi và mạng. Âm mộc thì chắc chắn ko sinh âm mộc, cùng hành thì không sinh. Âm sinh âm vd như kỷ âm thổ sinh tân âm kim. Mão dậu là trực xung. Địa chi có Lục xung, Tứ tuyệt, lục hại... tam hợp nhị hợp..
  2. Là song nguyên nhưng để tốt thì con út phải hợp mẹ. Ở trường hợp này thì Mão - Dậu xung, 2 mạng âm Mộc nên cái tốt này chưa trọn vẹn!
  3. Trường hợp của anh là như thế nào? Vợ chồng tuổi gì?
  4. Ở đây http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...349&st=1140
  5. Tản mạn về chữ Việt cổ (chữ trên trống đồng Lũng Cú) - Khái lược về chữ Việt cổ: Trần Thi Từ hàng nghìn năm qua, các nhà khoa học trong và ngoài nước đều khẳng định: Việt Nam có chữ viết từ rất sớm, trước chữ Hán cả nghìn năm và hoàn toàn khác chữ Hán. Các nhà nghiên cứu, Anh, Tiệp xác nhận: “Ngay từ trước công nguyên, người Việt đã có chữ tượng thanh – loại chữ ghép chữ cái thành từ”. Điều này được thể hiện trên các di chỉ khảo cổ đồ gốm, đồ đồng của thời kỳ Đông Sơn như: lưỡi cày, lưỡi xéo, đặc biệt là trống đồng…cùng các hình vẽ chữ viết trên đá cổ Sa Pa, Xín Mần. Pá Màng… theo một hệ thống nhất quán, tất cả đều thể hiện đó là những chữ viết cổ từ thời kỳ tiền văn tự, phát triển và hoàn thiện dần thành bộ chữ “khoa đẩu”. Ở Việt Nam, từ lâu, những nhà nghiên cứu như: Trương Vĩnh Ký, Vương Duy Trinh, Lê Huy Nghiệm, Lê Trọng Khánh, Hà Văn Tần, Trần Trọng Thêm, Phạm Ngọc Liễn, Đỗ Văn Xuyền… cùng đông đảo các nhà nghiên cứu Việt kiều đã có những thành công đáng kể. Qua các di chỉ khảo cổ, đặc biệt là các di chỉ thuộc nền văn minh Đông Sơn, trống đồng Lũng Cú, các bản khắc đá cổ… các nhà khoa học đã có những luận cứ chắc chắn, khoa học chứng minh cho sự tồn tại của chữ Việt cổ – chữ “khoa đẩu” mà thuở xưa Hùng Quốc Vương cho khắc trên lưng rùa bản tóm tắt lịch sử nước ta tặng cho vua Nghiêu để tỏ tình hòa hiếu – (Theo cổ sử Trung Quốc “vào thời Vua Nghiêu ( năm 2357 trước công nguyên) có sứ giả Việt Thường đến kinh đô tại Bình Dương (phía bắc sông Hoàng Hà – tỉnh Sơn Tây ngày nay) để dâng một con thần quy, vuông hơn ba thước, trên lưng có khắc chữ Khoa Đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau”. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch. Sách Lĩnh Nam Chích Quái của ta cũng ghi rõ điều này. Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái tông cũng ghi: “Nghiêu thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần qui, bối hữu Khoa đẩu” nghĩa là thời vua Nghiêu, nước Việt Thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có chữ Khoa đẩu). Đó chính là bộ chữ ẩn trong bộ chữ “hỏa tự” do Tri châu Phạm Thận Duật tìm thấy ở Tây Bắc năm 1855 – 1856, cùng nhiều tài liệu khác có cùng cấu trúc đồng dạng – (Vương Duy Trinh năm 1903 là Tổng đốc Thanh Hóa, ông viết trong “Thanh Hoá quan phong” in năm 1903 đã cho rằng chữ Thái là chữ Việt cổ còn sót lại ở Tây Bắc. Vương Duy Trinh viết: “Vì thập châu (vùng Tây Bắc) là nơi biên viễn (biên giới xa) nên dân ta còn lưu giữ được thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp (186) bắt bỏ hết để học Hán tự”. Bộ chữ Thái thổ tự của Phạm Thận Duật phát hiện năm 1855 cũng ở vùng Tây Bắc). Các nhà khoa học cho rằng văn tự này có thể là một biến thể của chữ “Khoa đẩu” hay “Hoả tự” đã ghi trong cổ sử. Thứ chữ đã tồn tại trong nền văn hoá tiền Việt – Mường. Do không được sử dụng phổ biến, bộ chữ này bị đóng băng, không phát triển theo kịp những biến âm trong tiếng nói người Việt hiện đại. Đến thế kỷ 16 khi đạo thiên chúa truyền vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương tây La Tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay. Bộ chữ khoa đẩu ấy hình thành và phát triển đồng hành với dân tộc Lạc Việt cả về thời gian, không gian và quá trình lịch sử. Bộ chữ ấy dùng để ghi tiếng nói của người Việt cổ trước công nguyên, tồn tại song hành cùng ngôn ngữ Việt, thích ứng với đặc điểm ngôn ngữ Việt. Cũng chính vì tìm được cách giải mã chữ Việt cổ mà các nhà nghiên cứu hiện nay có thể đọc được dễ dàng những trang sách chữ Quốc ngữ có tuổi hàng mấy trăm năm, nay chỉ còn lưu giữ giải rác trong dân và trong thư viện Lisbon, Pari, Roma… mà đến thế kỷ 16 khi đạo thiên chúa truyền vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương tây La Tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay. Đặc biệt theo: “Những tín hiệu thu được từ bản lược đồ địa danh ngôn ngữ Việt cổ” của giáo sư Lê Trọng Khánh, thì không gian phân bố của chữ Việt cổ vô cùng rộng lớn, góp phần vào việc vạch phương hướng tìm hiểu cương vực và nguồn gốc người Việt cổ. Như vậy “Chữ viết đóng góp quyết định vào nền văn minh Việt cổ” và: “Sự đồng nhất ngôn ngữ trên chữ viết và địa danh cổ càng khẳng định tính chất bản địa của người Việt cổ có nguồn gốc Đông Sơn và rất gần với nhau. Vấn đề này có liên quan đến việc phân bố dân cư cổ đại có nguồn gốc chung trên một địa bàn. Sự đồng nhất ngôn ngữ trên chữ viết và địa danh cổ, tổ tiên trực tiếp của chúng ta ngày nay. Người Lạc Việt đã sáng tạo văn minh Đông Sơn, có ảnh hưởng rất lớn đối với các dân tộc khác trước công nguyên” – (Lê Trọng Khánh). Cũng chính vì vậy mà bao năm Sỹ Nhiếp ra lệnh triệt phá, tàn sát, bộ chữ “khoa đẩu” của người Việt cổ vẫn có một sức sống bất diệt. Do tính chất khoa học và tiến bộ đặc biệt của bộ chữ Việt cổ đã được sáng tạo theo kiểu Alphabet, nên chỉ cần điều chỉnh đôi chút, các dân tộc Bách Việt đã có thể sử dụng để ghi tiếng nói của dân tộc mình, cũng như của Tổ Tiên Bách Việt. Một trong những thành tựu rực rỡ nhất mà ông cha ta xây dựng nên từ thời tiền sử là thành tựu giáo dục. Thời Hùng Vương chúng ta đã có một hệ thống giáo dục với các trường học, các thầy cô giáo và các học sinh. Cha ông ta đã phát minh ra giấy viết. Các nhà nghiên cứu đã dầy công tìm hiểu và có được chính xác được tên tuổi 18 thầy giáo từ thời Hùng Vương từ thời Hùng Vương thứ 6 và nhiều tên tuổi các học trò nổi danh trong lịch sử. Theo một cuộc điều tra của Pháp những năm 30 về hệ thống đền, đình ở nước ta – tài liệu vẫn còn lưu trữ ở Viện Hán – Nôm, thì toàn miền Bắc và miền Trung có hơn 40 đền thờ các thầy cô giáo và những học trò thời trước Hán, tức là thời Hùng Vương đến thời An Dương Vương. Tại thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, Thành phố Việt Trì (Phú Thọ) nằm trong địa phận của Kinh đô Văn Lang xưa, có đền Thiên Cổ Miếu, nơi tương truyền thờ hai vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, đời Hùng Vương thứ 18, dạy hai công chúa của Hùng Duệ Vương là Tiên Dung và Ngọc Hoa. Cho đến nay, qua những chứng tích còn lại, đấy là ngôi đền thờ thầy cô giáo, tôn vinh sự học cổ nhất ở Việt Nam. Các nhà nghiên cứu cũng thống nhất được bộ chữ Quốc ngữ được các giáo sỹ phương tây cùng những trí thức Việt Nam La Tinh hóa tên cơ sở bộ chữ “Khoa đẩu”, mà công đầu là của hai giáo sỹ Bồ Đào Nha: Cha Gaspan do Amaral và Cha Antonio Barbosa cùng đội ngũ những trí thức người Việt bằng những căn cứ khoa học không thể chối cãi đã được giới nghiên cứu trong và ngoài nước thừa nhận. Trên cơ sở công trình đó, sau này Alexandre de Rhodes hệ thống hóa và chỉnh lý hoàn thiện thêm. Như vậy, các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước qua hệ thống di chỉ khảo cổ, qua khảo cứu ngôn ngữ: thư tịch cổ, địa danh ngôn ngữ… đã khẳng định chắc chắn: Chữ Việt cổ đã từng tồn tại và phát triển ở trình độ cao từ rất sớm. - Đôi điều suy nghĩ: Các công trình nghiên cứu mới mang tính tự phát, xuất phát từ cái tài, cái tâm của một số nhà khoa học; chưa được các cơ quan chức năng coi trọng đúng mức; chưa có sự tổ chức tham gia của nhiều nhà khoa học và chuyên nghành liên quan; chưa có các hội thảo khoa học đúng nghĩa mang tầm quốc gia về vấn đề này. Bởi vậy ngay trong giới nghiên cứu cũng chưa có tiếng nói chung, con đường đến đích cũng vì thế mà dài thêm và không tránh khỏi có những vấn đề còn phải bàn bạc. Gần đây có những công trình rất đáng chú ý, như: “Phát hiện hệ thống chữ Việt cổ thuộc loại hình khoa đẩu”, của giáo sư Lê Trọng Khánh. Bằng những cứ liệu khoa học và khảo cứu ngôn ngữ mang tính bản địa đặc thù và nhất quán, giáo sư đã chỉ ra được sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ từ thấp lên cao. Công trình cả cuộc đời ấy có giá trị to lớn, đặt nền móng cơ sở vững chắc cho các công trình nghiên cứu tiếp của các họcc giả khác. Trong công trình này có những phần đặc biệt quí giá như: “Những tín hiệu thu được từ bản lược đồ địa danh ngôn ngữ”. Theo giáo sư nghiên cứu địa danh cổ là cơ sở để suy nghĩ về nguồn gốc người Lạc Việt. Và cùng từ lớp địa danh cổ này, khẳng định một vấn đề quan trọng, người Lạc Việt là cư dân bản địa, bắt nguồn từ một cộng đồng người cổ, vốn đã sinh sống trong tiền sử trên đất nước ta. Người Lạc Việt từ Hai Bà Trưng trở về trước, trong ngôn ngữ có lớp từ cơ bản là thống nhất; chính sự xâm nhập của người Hán – là yếu tố cơ bản có tác động đến sự chuyển hóa dần dần tiếng nói của người Lạc Việt thành những nhóm ngôn ngữ có yếu tố khác nhau trong lịch sử. Những dẫn liệu về địa danh cổ không dừng lại ở giới hạn sử liệu khô khan mà còn nêu lên nguyên nhân cơ bản lịch sử, đặc biệt từ sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, phương Bắc đã chiếm đất và đồng hóa một bộ phận người Lạc Việt ở Lưỡng Việt và làm phân liệt về tộc người thành các bộ phận khác nhau. (trong một ngày gần đây cuốn: “Phát hiện hệ thống chữ Việt cổ thuộc loại hình khoa đẩu” được xuất bản và phát hành rộng rãi trong và ngoài nước). Giáo sư vẫn ao ước có một sự tài trợ đúng mức về tinh thần và vật chất để hoàn thành công trình: “Yếu tố Mường – Việt trong ngôn ngữ Thái”, thêm một cứ liệu cho công trình chữ Việt cổ. Ở tuổi 87 trí tuệ còn rất minh mẫn, sức khỏe còn tốt, bầu nhiệt huyết với văn hóa dân tộc vẫn tràn đầy, song tiếc thay..! Ông Đỗ Văn Xuyền ở thành phố Việt Trì, năm nay đã gần 80 tuổi, đã mấy chục năm nghiên cứu về chữ Việt cổ. Theo ông là đã giải mã được bộ chữ Khoa đẩu, dùng bộ chữ ấy ghi lại được các mặt đời sống xã hội từ cổ đại cho đến hiện đại. Ông cũng dày công tìm được hệ thống thầy cô giáo thời Hùng Vương trên khắp đất nước và khao khát công trình được nghiệm thu, chữ Việt cổ được công khai thừa nhận và được đưa vào giảng dạy trong nhà trường… Dư luận trong và ngoài nước quan tâm rất cảm phục cái tài, cái tâm của các nhà nghiên cứu chữ Việt cổ, song không khỏi băn khoăn: Cứ liệu để khẳng định sự tồn tại của chữ Việt cổ qua di chỉ còn ít. Trong công trình của một nhà nghiên cứu, Chữ “khoa đẩu” tìm được giống chữ Thái Việt Nam tới trên 70%, nhưng việc chứng minh chữ Thái có nguồn gốc từ chữ Khoa đẩu chưa đủ tính thuyết phục. Ngay cách đọc các chữ cái khoa đẩu cũng giống người Thái đọc. Vậy ngày xưa ngôn ngữ nói của người Việt cổ như thế nào? Yếu tố Việt trong ngôn ngữ Thái còn đến bây giờ như thế nào? Hiện nay còn bao nhiêu phần trăm còn trong ngôn ngữ nói hiện đại? Cũng theo nhà nghiên cứu đó, chữ khoa đẩu có thể ghi âm được mọi mặt sinh hoạt trong xã hội hiện đại, vậy xã hội mà khi chữ khoa đẩu cực thịnh đã phát triển tới mức nào..? Trong khi mỗi ngôn ngữ là sản phẩm và chỉ phản ánh một giai đoạn lịch sử nhất định. Không có một thứ chữ nào thích ứng với mọi thời đại?! Và tại sao cho đến nay công trình nghiên cứu chữ Việt cổ chưa được trở thành công trình mang tầm quốc gia…? - Thay lời kết: Sự tồn tại và phát triển của chữ Việt cổ là một sự thật khách quan, được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước thừa nhận, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Việc nghiên cứu, tìm và giải mã được chữ Việt cổ có tác dụng to lớn giúp ta hiểu thêm về lịch sử nước nhà, tăng cường lòng tự hào dân tộc. Công trình chữ Việt cổ của các nhà nghiên cứu, dù thành công ở mức nào cũng rất đáng trân trọng. Bởi tất cả những tư liệu quí báu đó như những đốm lửa làm nên ngọn lửa, soi sáng cho chúng ta trên con đường tìm được, giải mã được, khẳng định được chữ Việt cổ của Tổ Tiên! Mong sao công trình chữ Việt cổ của các nhà nghiên cứu được chú trọng và đầu tư đúng mức trong lúc còn chưa quá muộn. Vanhac.org
  6. Tính hòa đồng của những ngôi chùa cổ Việt Nam Những ngôi chùa cổ Việt Nam đều có qui chuẩn vô cùng tinh tế, đó là tam giới giao hòa: mái tượng trưng cho tầng trời, với đất; thân là nơi thần và người tiếp cận, thông nhau, âm dương giao hòa. Đạo Phật được nhân dân ta rất tôn trọng bởi sự gần gũi với tín ngưỡng cổ của người Việt: đạo Mẫu, bắt nguồn từ đời nguyên thuỷ từ mấy nghìn năm trở về trước. Chiêm bái những ngôi chùa cổ trên dải đất hình chữ S, ta đều thấy có sự tương đồng trong kiến trúc. Đó là qui mô không lớn, thấp thoáng bên những ngôi nhà bình dị, hiền lành của những người dân một nắng hai sương, là những ngôi chùa nhỏ, gần gũi nhưng nhưng trang nghiêm, thầm lặng tỏa ra sức mạnh vô hình của đạo Phật và mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Có lẽ xuất phát từ Đạo Phật dạy con người đi tìm sự đơn sơ nhưng thuộc về bản chất tốt đẹp nhất của con người, giúp con người ta luôn hướng tới những giá trị tốt đẹp của Chân – Thiện – Mỹ với đức từ bi hỷ xả. Bước chân vào những ngôi chùa nhỏ, con người ta thấy như được hoà vào thiên nhiên, hoà vào vũ trụ, hoà với thế gian của bản thân họ và họ tự nguyện, tin tưởng, thành tâm hướng về chính đạo, chứ hoàn toàn không bị áp chế do một áp lực tinh thần nào. Sự vĩ đại của đạo Phật và người theo đạo là ở cái tâm thánh thiện chứ không phải hình thức. Cũng chính vì vậy đạo Phật có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống nhân dân, ngay những người không theo đạo Phật cũng có lệ ăn chay vào những ngày mồng một hay ngày rằm… Phật giáo ngay từ khi xuât hiện tại Việt Nam đã được bản địa hóa, khiến Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt Nam. Bởi vậy Phật giáo đã cùng sinh tồn cùng dân tộc trong suốt quá trình phát triển của lịch sử, nhiều triều đại, đạo Phật được coi là Quốc Đạo. Những ngôi chùa cổ Việt Nam đều có qui chuẩn vô cùng tinh tế, đó là tam giới giao hòa: mái tượng trưng cho tầng trời, với đất; thân là nơi thần và người tiếp cận, thông nhau, âm dương giao hòa. Vì thế nền thường để đất mộc, hoặc có lát gạch với những mạch rộng hoặc dùng gạch bát thấm nước… rất gần gũi, không cao sang, nhưng thâm trầm, nghiêm cẩn. Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là thờ thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, trong đó, Phật điện là nơi cao nhất. Bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp: Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được “Phật hóa”. Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi và Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu khắc theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt cùng 80 vẻ đẹp, mà một trong những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế và khuôn mặt đầy lòng từ mẫn… Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa “tiền Phật, hậu thần” hay “tiền Phật, hậu Mẫu”. Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất. Những điều đó hoàn toàn không mang tính mê tín dị đoan, mà phù hợp với truyền thống đạo đức của người Việt. Đạo Phật và ứng xử với đạo Phật của mỗi người đi vào được bản chất tốt đẹp sâu xa của đạo, của phần “người” hơn. Mỗi người đi hành hương, chiêm bái hay dự các lễ hội cũng là trở về với thiên nhiên và nguồn cội tâm linh. Hiện nay do nhiều yếu tố, một số ngôi chùa được xây dựng với qui mô to lớn nhằm những mục đích nhất định, xa rời không gian văn hóa kiến trúc truyền thống. Chưa nói đến một số ngôi chùa người ta nhập vào nhiều thứ không phải Phật, mà nhiều khi gắn với mê tín dị đoan... Người ta đi đến những ngôi chùa đó như một địa điểm du lịch, để thỏa chí tò mò, để ngắm nhìn thán phục trước sự to lớn rất đời thường của công trình mang cái vỏ đạo Phật, để cầu lợi… Thực tế những kiến trúc được gọi là chùa đó đã vô hình bóp chết cái tâm trong sáng trong mỗi con người. Thậm chí qui mô to lớn, có phần thái quá của một số ngôi chùa hiện nay làm cho người ta cảm thấy nhỏ bé, choáng ngợp trước thiên nhiên, bị qui phục, chứ không xuất phát từ cái tâm trong sáng. Nếu những ngôi chùa cổ mang một vẻ đẹp văn hóa truyền thống của người Việt, thì những ngôi chùa đồ sộ kia chỉ thuần tính tôn giáo, xa rời với bản sắc văn hóa dân tộc. Chính vì vậy, việc giữ gìn và bảo tồn những ngôi chùa cổ có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi đó là tiếng nói của tổ tiên, là di sản văn hóa của dân tộc trên con đường phát triển. Đồng thời đã đến lúc cần có những qui định cho kiến trúc một ngôi chùa, dân tộc, hiên đại, phù hợp với đạo đức và tâm hồn người Việt trên con đường hội nhập và phát triển. Trần Thi Nguồn: http://www.hoalinhthoai.com/?option=ban_ti...991&lang=vn
  7. Yếu Tố Việt-Mường và Tày-Thái Trong Nền Tảng Văn Hóa Đất Tổ Đoạn sông Hồng chảy qua Phú Thọ được mang tên theo ngữ hệ Tày - Thái cổ là dòng Nậm Tao, sau gọi Sông Thao. Dọc bờ hữu ngạn sông Thao xa xưa là địa vực cư trú của người Tày - Thái cổ. Thời Hùng Vương bộ tộc người Tày, họ Ma cư trú ở vùng chân núi Đọi Đèn thuộc huyện Sông Thao. Ông tổ họ Ma, tên là Ma Khê được vua Hùng phong làm Lương tướng. Vị Lương tướng họ Ma thường hội kiến với vua Hùng và thánh Tản Viên ở làng Văn Khúc. Đình làng Văn Khúc thờ Ma Khê có sắc phong ông là "Phụ quốc đại thần đại tướng quân Ma Khê" vì tương truyền ông được vua phong chức quan đầu triều lo về chính sự thay vua cha khi già yếu và giúp vị vua trẻ lúc mới kế vị ngai vàng. Ma Khê lấy người con gái ở chân núi Vi, cạnh đền Hùng. Về sau ông chuyển cả bộ tộc sang tả ngạn sông Thao. Cháu chắt ông là Ma Xuân cho đắp thành trồng lũy gọi là Ma Thành, gọi chệch là thành Mè. Ngày nay thị xã Phú Thọ có chợ Mè, nền móng thành Mè và ở phố Phú An có đền thờ ông là vì vậy. Vào thời 12 sứ quân cát cứ, cháu chắt Ma Khê là Ma Xuân Trường cầm đầu Ma tộc trấn giữ Thành Mè. Khi thành Hội Hồ (ở làng Văn Khúc) bị thất thủ, tướng quân Kiều Công Thuận chạy sang Ma Thành cùng với Ma Xuân Trường chống lại Đinh Bộ Lĩnh. Kiều Công Thuận tử trận. Ma Xuân Trường chạy lên Tuần Quán, Trấn Yên, Yên Bái. Sau mất ở đấy, được dân làng lập đền thờ và Đinh Bộ Lĩnh vì thán phục uy đức mà truy phong ông là "Ma tộc thần tướng". Nay ở Làng Trù Mật, thị xã Phú Thọ cũng có đền thờ Kiều Công Thuận và Ma Xuân Trường. Dòng họ Ma nay cư trú ở thị xã Phú Thọ, Lâm Thao hậu duệ của bộ tộc ấy hiện có một chi nhánh cư trú ở Việt Trì có gia đình cụ Ma Văn Thực là thân sinh ca sĩ Ma Thị Bích Việt. Hiếm có dòng họ nào lưu giữ được thần phả, gia phả từ thời Hùng Vương như họ Ma ở Phú Thọ. Họ Ma gốc Tày cũng như nhiều họ gốc Mường: Đinh, Quách, Bạch, Hà... là những nhóm cư dân Việt cổ phát triển lên thành người Việt hiện nay. Các truyền thuyết về Ma Khê và Tản Viên ở vùng đất Tổ cũng nói đến sự hội nhập của hai nhóm Việt Mường và Tày - Thái ở Phú Thọ. Tản Viên là người Mường. Dù Tản Viên đã được thần thoại hóa đến hoang đường, nhưng bóc bỏ lớp huyền thoại, ta vẫn tìm được lõi thật lịch sử: ông là con một bà người Mường có tên là Đinh Thị Đen quê ở chân núi Thu Tinh làng Yên Sơn. Bà lấy chồng rồi về sống, sinh đẻ Tản Viên ở Động Lăng Xương, làng Trung Nghĩa bên bờ sông Đà thuộc Phú Thọ. Ông được dân gian tôn sùng đắp vẽ thành một thần tượng của cộng đồng, vừa là anh hùng trận mạc vừa là anh hùng văn hóa. Ông đánh giặc tài lại có công chống lại Thủy Tinh biểu tượng của thiên tai lũ lụt. Ông là người anh linh nghĩa cử khước từ ngôi báu, khuyên vua cha nhường ngôi cho Thục Phán để muôn dân thái bình. Thục Phán cũng gốc Tày - Thái quản lĩnh miền rừng núi phía trên nước Lạc Việt của các Vua Hùng. Yếu tố Việt - Mường và Tày - Thái còn biểu hiện ở sự pha trộn ngôn ngữ. Ngôn ngữ Tày - Thái cổ gọi tre là pheo, gọi chim là chóc gọi chó là má, gọi thật là chân để đan xen thành những từ ghép trong tiếng Việt như: tre pheo, chim chóc, chó má, chân thật. Cũng ghép như vậy với tiếng Mường để có các từ ghép: cá mú, nắng nôi, v.v. Ở khu di tích đền Hùng có ba quả núi. Trong đó có núi Nỏn, cạnh núi Nghĩa Lĩnh đặt tên theo ngữ hệ Tày - Thái: Nỏn là út, vì thế quả núi còn tên nôm thuần Việt một âm tiết là núi út. Ở xã Hy Cương, nơi có Đền Hùng, bên cạnh núi Nghĩa Lĩnh, nay vẫn còn một xóm có tên là xóm Bản Pheo. ắt hẳn người Tày - Thái cổ đến cư trú lập bản ở đây. Do có nhiều tre nên người ta gọi xóm bản của mình là Bản Pheo (pheo là tre) ngày nay xóm Bản Pheo vẫn chìm ngập trong bóng tre. Xòe là múa dân gian của đồng bào Thái. Người Mường ở các xã sát Sơn La, Nghĩa Lộ xưa cũng hay xòe. Phụ nữ Mường ở các xã đó tuy mặc áo cóm và áo dài kiểu Mường truyền thống, nhưng khuy cài cúc cũng khâu dải ngang. Cổ và hai nẹp áo trước ngực cũng thêu như áo phụ nữ Thái, và đầu vấn khăn "piêu" theo kiểu Thái. Người Mường ở vùng này cũng gọi quan đầu Mường của mình là ông quan ngài như người Thái. Có một họ Hà thờ con cuốc vì truyền thuyết họ Hà này cùng họ hàng với Thục Đế (họ Thục Phán). Con cuốc là tổ tiên của Thục Phán. Vùng Mường ở Phú Thọ vì thế có pha trộn văn hóa Tày - Thái ở cận kề. Tiếng Mường và Tày - Thái đều gọi ruộng là "na" hoặc gọi chệch "na" thành "là". ở vùng người Việt (Phú Thọ) cũng nhiều nơi gọi ruộng là "na" như ở Tứ Xã, Sơn Vi, Do Nghĩa, Hà Thạch, Thụy Vân. Làng Cao Xá có những khu đồng như: Là Pheo, Là Giũa, Là Đỏ, v.v. Một tấm bia trên đền Hùng có 50% số địa danh được ghi là na như na Hưu, na Dầu, na Lao, na Hoàng, v.v. Vì nước Văn Lang thời các Vua Hùng là nước của người Lạc Việt (Việt - Mường) nên yếu tố Mường đậm đặc hơn yếu tố Tày - Thái trong nền văn hóa dân gian vùng Đất Tổ. Tổ tiên người Việt cổ ở Phú Thọ thời hồng hoang ắt hẳn sống trong các hang động có rất nhiều ở huyện miền núi Thanh Sơn. Phải chăng vì thế mà sau này khi rời hang động ra sống ở ngoài trời, người ta lấy động làm tên gọi điểm tụ cư như người Việt gọi là kẻ, chạ, thôn, làng. Trước đây người Mường thường vẫn gọi điểm tụ cư của mình là động. Triều đình cũng gọi là các động. Ở Phú Thọ cũng có các địa danh gọi là động như động Khuất Lão ở huyện Tam Nông, động Lăng Xương ở Thanh Thủy, thị xã Phú Thọ cũng có thời gọi là Phú An động. Thị trấn Hưng Hóa gọi Hoa Nham động. Làng Cự Đà (Phù Ninh) thời nhà Lý còn gọi là động Cự Đà, v.v. Riêng Phú Thọ gọi các ông già bà lão là bủ, do ảnh hưởng phong tục Mường. Người Mường Phú Thọ gọi những người già đã có chắt (cháu 4 đời) là bủ. Những người có chắt nội người Mường gọi là ông bủ hoặc bà bủ. Người có chắt ngoại được gọi là bủ vãi ông hoặc bủ vãi bà. Người chưa có chắt nhưng anh hoặc chị mình có cháu 4 đời cũng được gọi là bủ anh hoặc bủ em nếu anh, em ruột mình có chắt nội và được gọi là bủ vãi anh hoặc bủ vãi em nếu anh, chị mình có chắt ngoại. Từ đấy người Việt ở Đất Tổ gọi gộp những người già sáu bảy mươi tuổi trở lên là bủ để tỏ lòng tôn kính. Người Mường có tục gọi vía lúa. Những năm mất mùa, người ta phải đi gọi vía lúa về làng bản của mình. Người ta phải làm lễ cúng vía lúa, rồi thầy mo hoặc một người hát "rang" gọi vía lúa, rủ rê vía lúa về với mình. Nhiều làng Việt cũng có tục rước bông lúa thần trong lễ hội làng mình. Người Việt gọi là thần lúa cũng bắt nguồn từ người Việt - Mường gọi thần lúa là vía lúa. Vì có truyền thuyết vua Hùng từng đứng trên núi Nghĩa Lĩnh gọi vía lúa, nên ở Đền Hùng xưa cũng thờ hòn đá tượng trưng lúa thần. Nếu như người Mường thuộc Mường Kịt có bài hát "rang" gọi vía lúa như sau: .. Lúa nương thì ở phương xa" "Lúa nhà thì ở phương gần" "Về cúng mâm cơm mâm rượu" "Vui từ cửa từ nhà" "Sáng ngày mai vui ra đồng ruộng"... thì người Việt ở làng Nam Cường (huyện Tam Nông) lại có tục múa mo. Có chúa mo đứng chủ trò. Chúa mo có nguồn gốc từ các ông mo là người hoạt động tín ngưỡng của các cộng đồng người Mường. Chúa mo ở Nam Cường hát gọi: "Trong làng cây muống" "Làng ta làm ruộng" "Lúa tốt đề đa" "Là hú ha ha!" "Là hú hơ hơ!" Các lễ hội về mùa màng của người Việt cũng gần giống như của người Mường: lễ hạ điền, thượng điền, cơm mới, v.v. Nhiều làng Mường và Việt ở Phú Thọ cùng thờ Tản Viên làm Thành hoàng. Nếu như nhiều làng Mường thờ dâm thần như ở Thu Cúc xưa có đình miếu thờ nam thần dâm ở xóm Quẽ, nữ thần dâm ở Đồng Than, thì nhiều làng Việt ở Tam Nông, Lâm Thao, Sông Thao cũng có tục cầu thờ sinh thực khí như thờ nõ nường ở Tứ Xã, Sai Nga. Thờ kén (30 cặp sinh thực khí nam) ở làng Dị Nậu, v.v. Nếu như người Mường làm nhà mồ chia của cho người chết, thì người Việt cũng có tục đem theo đồ dùng cho người chết gọi là đồ tùy táng. Các hình thức cưới xin của người Việt cũng tương tự người Mường như tục nòm (ăn hỏi) đưa đón dâu, của hồi môn, v.v. Người Việt và người Mường đều có các trò chơi ném còn, cướp phết; từ đu cọn của người Mường, người Việt đã làm ra đu tiên. Cả hai dân tộc đều hát ví, hát đúm, đều ăn trầu, nhuộm răng, xăm mình... Người Mường Thanh Sơn có tục hát nàng bung nàng bạn. Những đêm trăng thanh gió mát, các nhà mày (đạo diễn) trải 6 chiếc chiếu ra bãi cỏ cho nam thanh nữ tú vào hát đua tài. Có hát các tích truyện thơ Mường. Chỉ có hát mà chưa có diễn. Có tích nhưng chưa dịch ra trò. Phải chăng chiếu "nàng bung nàng bạn" là tiền thân chiếu chèo của người Việt ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Văn hóa vùng Đất Tổ là sự kế thừa phát huy văn hóa gốc Lạc Việt (Việt - Mường), Tày - Thái, và tiếp thụ các dòng văn hóa khác qua hàng nghìn năm giao lưu, với các vùng khác, các tộc người khác. NGUYỄN HỮU NHÀN
  8. Sau khi sinh bé Tân Mão thì công việc của anh Phamhung sẽ có chút xáo trộn (hoặc bây giờ đang có dấu hiệu xáo trộn) nhưng không phải lo, ít ra thì sẽ không xáo trộn như sinh lúc sinh đứa đầu, năm Tân Mão mạng con hóa giải xung mạng của bố và mẹ. Về cơ bản như vậy là tốt!
  9. Bạn vào topic Lời tiên tri 2010 xem nhé!
  10. Thì nó vẫn là giếng, chứ không thể biến thành cái khác được!
  11. Tây Nam là Tuyệt mạng theo PTLV.
  12. Tuổi Tam Kỵ là như thế nào vậy bạn?
  13. Tác dụng trang trí tốt!
  14. Khóa 4 đang bước sang tháng cuối rồi, bạn đợi khóa 5 nhé!
  15. sao bắt các bác phải quay nghiêng đầu (hoặc máy tính) khi xem hình thế :(
  16. Ở chung cư thì khó khăn khi sửa chữa PT đấy, có thể ko xin phép sửa được vì kết cấu chung cư khó sửa theo ý mình. Ở Sg thì bạn có thể mời anh Hạt Gạo Làng giúp cho.
  17. Không phải kỳ thị... nhưng căn bản đồ hình của TQ chỉ có từ đời Tống, do Chu Đôn Di vẽ ra, còn đồ hình Âm dương Việt có từ 5000 năm nay rồi. Anh nên vào mục Cổ văn hóa sử tìm hiểu thêm!
  18. Đọc xong thì bác đổi luôn avatar âm dương Việt đi, xài hàng Tàu làm gì :)
  19. Sau Tử Đại An là Kinh Luu Niên đó :)) xộ khám :D)
  20. Thầy, trò thời Hùng Vương dạy học bằng chữ gì Trước Tết Mậu Tý, thầy giáo đã nghỉ hưu Đỗ Văn Xuyền bước đầu công bố công trình “giải mã chữ Việt cổ” tại Trung tâm Văn hóa Người cao tuổi Việt Nam, gây được sự chú ý của giới khoa học. Thầy giáo Đỗ Văn Xuyền nói về các ký tự cổ Từ câu chuyện về Thiên Cổ miếu... Gần ba mươi năm dạy học, thầy giáo Xuyền luôn gắn bó với vùng đất thiêng được bồi đắp bởi phù sa của cả ba con sông Hồng, sông Lô và sông Đà. Nhưng ông không phải người gốc ở đây, chỉ là chàng rể của cố đô xưa nhất nước Việt. Đầu đường vào làng Hương Lan có ngôi miếu nhỏ. Trước cửa miếu sừng sững hai cây táu đại thụ hơn ngàn tuổi, gốc năm sáu vòng tay người ôm không xuể. Thầy giáo Xuyền nghe ông từ kể: “Miếu đây có tên Thiên Cổ, thờ hai vợ chồng thầy giáo thời Hùng Vương, dạy học ở làng này”. Ngọc phả của miếu ghi rõ: Thiên Cổ miếu thờ vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, ông quê Hải Dương, bà quê Bắc Ninh, đến kinh đô Văn Lang mở trường dạy học thời Hùng Vương thứ 18. Thầy giáo Lang tài đức vẹn toàn, đông người làng và quanh vùng theo học, danh tiếng vang xa. Vua Hùng nghe tin, gửi hai con gái đến thụ giáo, đấy là công chúa Tiên Dung và công chúa Ngọc Hoa. Về sau cả ông và bà cùng mất một ngày, ngôi miếu nhỏ chính là nơi song táng hai vợ chồng thầy giáo của làng... Thiên Cổ miếu Câu chuyện về thầy giáo Vũ Thê Lang thời Hùng Vương, chứng tích còn đó những ngôi miếu và phong tục thờ cúng, đã có sức cuốn hút đặc biệt với thầy giáo Xuyền. Phải chăng trước khi chìm đắm vào đêm dài Bắc thuộc, nước Văn Lang đã có một nền văn hiến rực rỡ? Không chỉ để lại cho hôm nay những chiếc trống đồng Đông Sơn tuyệt hảo, cha ông ta còn để lại (đâu đó, trong những di tích như Thiên Cổ miếu) bằng chứng về một nền giáo dục, một thể chế kén chọn người tài phát triển ngay từ thời dựng nước? Nhiều năm ròng rã, thầy Xuyền dày công sưu tầm trong các thư viện Hán - Nôm, trong ngọc phả đình miếu, và các câu chuyện dân gian, về sự học sự thi thời kỳ trước khi chữ Hán thâm nhập vào nước ta - gọi tắt là thời trước Hán. Công sức bỏ ra dần cho kết quả hết sức đáng tự hào: Hầu khắp các tỉnh lưu vực sông Đà, sông Lô, sông Hồng, xa hơn nữa mạn Thanh Hóa, Nghệ An, đều có các bằng chứng về các thầy giáo danh tiếng và các học trò giỏi thời Hai Bà Trưng, An Dương Vương, Hùng Vương! Thầy Xuyền bước đầu sưu tầm được 18 thầy giáo, và một con số nhiều hơn các học trò giỏi, còn ghi danh qua truyền thuyết và ngọc phả các đền miếu ngàn đời nay vẫn được nhân dân hương khói thờ phụng. Những sưu tầm còn cho thấy từ thời Hùng Vương, việc kén tìm người giúp nước trị dân thường được tuyển chọn trong những học trò giỏi, hoặc qua việc thi cử mà khẳng định, hoặc lập được chiến công chống ngoại xâm. Qua những kết quả trên, một câu hỏi logic lại thôi thúc thầy giáo Xuyền phải tìm câu trả lời: Thầy, trò thời Hùng Vương dạy và học bằng thứ chữ gì? Cha ông ta đã có chữ viết của riêng mình, từ thời trước Hán? Thế là thầy giáo Xuyền lại tiếp tục dấn thân vào một đề tài mà nhiều nhà nghiên cứu đi trước đã tốn bao công sức, song kết quả chưa được như mong muốn... Đến huyền thoại hay sự thật? Sách Tân Lĩnh Nam Chích quái của Vũ Quỳnh (đời Lê, thế kỷ 15) viết đại ý: Thời Lạc Long Quân có người hái củi, bắt được con rùa, lưng rộng khoảng ba thước, trên mai có khắc chữ như con nòng nọc gọi là chữ Khoa Đẩu. Hùng Quốc vương đã cử phái đoàn đem rùa thần đó cống cho vua Nghiêu. Về việc này, sách Thông Giám Cương Mục do Chu Hy đời Tống viết: “Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ IV (2352 trước Công nguyên) có Nam Di Việt Thường thị đến chầu, hiến con rùa lớn”. Sách Thông Chí của Trịnh Tiểu cũng đời Tống nói rõ hơn: “Đời Đào Đường, Nam Di Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa ước được ngàn tuổi, rộng hơn ba thước, trên lưng có chữ Khoa Đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch”. Chữ Khoa Đẩu được nói tới trong các tài liệu trên là thứ chữ như thế nào? Vì sao đến nay không còn dấu tích gì về nó nữa? Vương Duy Trinh - Hiệp biện Đại học sỹ, Tổng đốc Thanh Hóa - trong cuốn Thanh Hóa quan phong viết năm 1903, đã giới thiệu một số chữ lạ mà ông sưu tập được, khẳng định đó là chữ Việt cổ từ thời Hùng Vương, và đưa ra nhận xét: “Vì Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta còn lưu giữ thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học chữ Trung Quốc”. Giáo sư Hà Văn Tấn đã công bố công trình nghiên cứu “Về một nền văn tự trước Hán và khác Hán”, Giáo sư Lê Trọng Khánh thì khẳng định “Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa Đẩu thời tiền sử để ghi tiếng dân tộc mình”. Giải mã bộ “chữ Thái (thổ tự)” Hướng đi đầu tiên của thầy Xuyền là tìm kiếm dấu tích của chữ Việt cổ. Năm này qua năm khác, nghe đâu có ký tự lạ lưu giữ qua các cổ vật, hang động, vách đá, thầy Xuyền bất chấp đường xa, không ngại tốn kém, lập tức tìm đến. Nhưng tất cả chỉ là những ký hiệu chưa giải mã được Mươi năm gần đây, thầy Xuyền chuyển hướng đi mới - nghiên cứu những ký hiệu đã mang hình hài của ký tự, được phát hiện rải rác từ Hà Giang, qua Bắc Ninh, Hòa Bình, vào tới Thanh Nghệ Tĩnh... Tập trung lên hướng Tây Bắc - vùng ổn định nhất của người Lạc Việt suốt nhiều nghìn năm - thầy Xuyền đã phát hiện ra suốt một vùng dọc theo triền sông Đà, nhân dân ta còn lưu giữ được nhiều văn bản mang trên mình loại ký tự mà mọi người vẫn nhầm là chữ Thái. Trong những tài liệu ấy, thầy Xuyền đặc biệt chú ý đến tài liệu do Thượng thư Phạm Thận Duật, một nhà trí thức uyên bác (Tri châu Điện Biên những năm 1855-1856) công bố. Bên cạnh những công trình nghiên cứu về phong tục, tập quán, Phạm Thận Duật đã có một số trang ghi lại một loại ký tự mà ông cho là “chữ Thái (thổ tự)” (CTTT - chữ Thái chỉ của một vùng người Thái). Những trang ghi chép này không được chú ý vì nội dung của nó mang nhiều điều vô lý. Sau một thời gian dài đi sâu vào sự “vô lý” ấy, thầy Xuyền đã phá bỏ lớp vỏ ngụy trang, dần dần giải mã được bộ ký tự này. Thầy Xuyền cũng khu biệt được bộ chữ mới được giải mã, từ đó rút ra kết luận: Bộ chữ này cũng không phải của hai dân tộc anh em Mường và Thái. Do nhiều lý do, các dân tộc anh em đã sử dụng chung bộ ký tự này (có chỉnh sửa đi chút ít), đúng như nhận định của Vương Duy Trinh “Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta còn lưu giữ thứ chữ ấy”! Tiền thân của chữ Quốc Ngữ?! Chữ Quốc ngữ xuất hiện ở nước ta từ năm 1651. Nhiều cuốn sách cổ được in từ buổi đầu chữ Quốc ngữ xuất hiện, đến nay hầu như không ai đọc được. Khi đem bộ chữ Việt cổ đã được giải mã thử đọc một số cuốn sách cổ, như cuốn “Từ điển Việt Bồ La” của Alexandre de Rodes, hay cuốn “Sách sổ sang” của Philip Bỉnh (Giám mục người Việt, ở Thủ đô Bồ Đào Nha những năm 1790 - 1820), thầy giáo Xuyền đã rất thú vị khi dễ dàng đọc được những từ khó mà lâu nay nhiều người không đọc cũng không giải thích được. Chính từ việc này, thầy Xuyền đã đưa ra một giả thuyết: Chữ Quốc ngữ có lẽ không phải là một công trình hoàn toàn mới của Alexandre de Rodes. Nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ?! Giả thuyết của thầy Xuyền không phải không có căn cứ. Bởi chữ Quốc ngữ và chữ Việt cổ do thầy Xuyền giải mã có cùng cấu trúc ghép vần tương tự nhau, chỉ khác nhau về hình dạng mà thôi! Chính trong cuốn “Từ điển Việt Bồ La”, Alexandre de Rodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, nó đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”. Theo thầy Xuyền thì “cách đọc các từ” đó nhiều khả năng là thứ chữ Việt cổ! Đinh Anh Tuấn tienphong.vn
  21. Cô này có tù tội cũng là cái giá phải trả vì toàn viết những điều ... phi thường!
  22. Thế trước giờ chúng tôi không công tâm sao? Có thời gian bạn ghé trung tâm đi, TL sẽ cùng bạn uống trà luận tuổi nhà bạn nhé :D
  23. Bản thân vật khi phong thủy đã có khí của nó rồi, đôi khi người ta rườm rà "kích hoạt" "khai quang"... phức tạp mà cũng vậy thôi, quan trọng khi sử dụng vật khí phong thủy thì phải biết dùng vào mục đích gì, lợi và hại như thế nào, có ảnh hưởng đến xung quanh hay không.
  24. sinh Tân Mão được, mạng con hóa giải xung mạng cha và mẹ!
  25. TIẾNG VIỆT, DỄ MÀ KHÓ Tiếng Việt vừa dễ vừa khó, đúng hơn, dễ mà lại khó. Dễ đến độ rất hiếm người Việt Nam nào cảm thấy có nhu cầu phải sắm một cuốn Từ Ðiển Tiếng Việt trong nhà. Dễ đến độ bất cứ người nào trưởng thành ở Việt Nam cũng đều có thể tưởng là mình... thông thái, và nếu muốn, đều có thể trở thành... nhà văn được. Thế nhưng, chỉ cần, một lúc thảnh thơi nào đó, ngẫm nghĩ một chút về tiếng Việt, chúng ta bỗng thấy hình như không phải cái gì chúng ta cũng hiểu và có thể giải thích được. Trước đây, có lần, đọc cuốn Trong Cõi của Trần Quốc Vượng, một nhà nghiên cứu sử học, khảo cổ học và văn hoá dân gian nổi tiếng ở trong nước, tới đoạn ông bàn về hai chữ "làm thinh", tôi ngỡ đã tìm thấy một phát hiện quan trọng. Theo Trần Quốc Vượng, "thinh" là thanh, âm thanh, hay là tiếng ồn. "Nín thinh" là kiềm giữ tiếng động lại, là im lặng. Thế nhưng "làm thinh" lại không có nghĩa là gây nên tiếng động mà lại có nghĩa là... im lặng. Cũng giống như chữ "nín thinh". Trần Quốc Vượng xem đó như là một trong những biểu hiện của Phật tính trong ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam: "nín" và "làm" y như nhau; có và không y như nhau; ấm và lạnh cũng y như nhau (áo ấm và áo lạnh là một!); "đánh bại" và "đánh thắng" y như nhau. Quả là một thứ tiếng "sắc sắc không không", nói theo ngôn ngữ Phật giáo, hay "huyền đồng", nói theo ngôn ngữ của Trang Tử. (1) Thú thực, đọc những đoạn phân tích như thế, tôi cảm thấy mừng rỡ và thích thú vô hạn. Thế nhưng, chẳng bao lâu sau, đọc bài viết "Tìm nguồn gốc một số từ ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến đổi ngữ âm" của Lê Trung Hoa, tôi lại bàng hoàng khám phá ra là chữ "làm thinh" thực chất chỉ là biến âm của chữ "hàm thinh" trong chữ Hán. "Hàm" có nghĩa là ngậm (như trong các từ: hàm ân, hàm oan, hàm tiếu, hàm huyết phún nhân...). "Hàm thinh" là ngậm âm thanh lại, không cho chúng phát ra, tức là không nói, tức là... im lặng. (2) Y như chữ "nín thinh". Nhưng sự giống nhau ở đây chỉ là sự giống nhau của hai từ đồng nghĩa, chứ chả có chút Phật tính hay Trang Tử tính gì trong đó cả. Tôi mới biết là mình mừng hụt. Một ví dụ khác: về hai chữ "vợ chồng". Trước đây, đã lâu lắm, đọc cuốn Ngôn Ngữ và Thân Xác của Nguyễn Văn Trung, tôi thấy tác giả giải thích hai chữ "vợ chồng" đại khái như sau: "Chồng" là chồng lên nhau, nằm lên nhau. Còn chữ "vợ"? Nguyễn Văn Trung chỉ viết bâng quơ, trong câu chú thích in cuối trang: "chữ vợ phải chăng là vơ, vớ, đọc trại đi, theo giọng nặng; nếu thế, chữ vợ chỉ thị việc quơ lấy quàng lên, vơ vào, phù hợp với việc chồng lên trong hành động luyến ái?" (tr. 40) Ðọc đoạn ấy, tôi hơi ngờ ngờ, nhưng rồi cũng bỏ qua, không chú ý mấy. Gần đây, tôi sực nhớ lại vấn đề ấy khi đọc cuốn Phương Ngữ Bình Trị Thiên của Võ Xuân Trang. Tôi được biết là ở Bình Trị Thiên, thay vì nói cái "vai", người ta lại nói cái "bai"; thay vì nói đôi "vú", người ta lại nói đôi "bụ"; thay vì nói "vải", người ta lại nói "bải"; thay vì nói "vá" áo, người ta nói "bá" áo; thay vì nói "vả" (vào miệng), người ta lại nói "bả" (vào miệng), v.v... Qua những sự hoán chuyển giữa hai phụ âm V và B như thế, tự dưng tôi nảy ra ý nghĩ: phải chăng nguyên thuỷ của chữ "vợ" là... bợ? "Vợ chồng" thực ra là "bợ chồng"? Tôi càng tin vào giả thuyết trên khi nhớ lại, trong tiếng Việt hiện nay, có cả hàng trăm từ nguyên thuỷ khởi đầu bằng phụ âm B đã biến thành V như thế. Nhiều nhất là từ âm Hán Việt chuyển sang âm Việt. Ví dụ: trong chữ Hán, chữ "bái" sang tiếng Việt thành "vái"; chữ "bản" sang tiếng Việt thành "vốn" và "ván"; chữ "bích" sang tiếng Việt thành "vách"; chữ "biên" sang tiếng Việt thành "viền"; chữ "bố" sang tiếng Việt thành "vải"; chữ "bút" sang tiếng Việt thành "viết"; chữ "bà phạn" sang tiếng Việt thành "và cơm", v.v... Theo Nguyễn Tài Cẩn, trong cuốn Giáo Trình Lịch Sử Ngữ Âm Tiếng Việt (sơ thảo), quá trình hoán chuyển từ B đến V kéo dài khá lâu cho nên hiện nay thỉnh thoảng cả hai biến thể B/V vẫn còn tồn tại song song với nhau, như: băm và vằm (thịt); be và ve (rượu hay thuốc); béo và véo; bíu và víu, v.v... Chúng ta biết là hiện tượng tồn tại song song của hai biến thể như thế không phải chỉ giới hạn trong hai phụ âm B và V. Theo nhiều nhà ngôn ngữ học, ngày xưa, từ khoảng thế kỷ 17 trở về trước, trong tiếng Việt có một số phụ âm đôi như BL (blăng, blời...), ML (mlầm) hay TL (tlánh). Ðến khoảng thế kỷ 18, các phụ âm đôi ấy dần dần rụng mất. Ðiều đáng chú ý là khi những phụ âm đôi ấy rụng đi thì chúng lại tái sinh thành một số phụ âm khác nhau. Ví dụ phụ âm đôi TL sẽ biến thành TR hoặc L, do đó, hiện nay, chúng ta có một số chữ có hai cách phát âm và hai cách viết khác hẳn nhau, cùng tồn tại song song bên nhau, đó là các chữ tránh và lánh; trộ và lộ, trồi và lồi, trêu và lêu, trũng và lũng, trộn và lộn, trọn và lọn, trệch và lệch, trèo và leo, tràn và lan, v.v... Trong khi đó phụ âm đôi ML sẽ biến thành L hoặc NH, bởi vậy, chúng ta cũng có một số từ tương tự, như lầm và nhầm, lời và nhời, lẽ và nhẽ, lát và nhát, lạt và nhạt, lớn và nhớn.(3) Trong những cặp từ tương tự vừa kể, có một số chữ dần dần bị xem là phương ngữ hoặc là cách nói cổ, càng ngày càng ít nghe, như các chữ Nhớn, Nhời, và Nhẽ. Thay vào đó, chúng ta sẽ nói là lớn, lời và lẽ. Tuy nhiên, những chữ khác thì cho đến nay cũng vẫn còn tồn tại khá phổ biến, ví dụ chúng ta có thể nói là rượu lạt hoặc rượu nhạt; nói lầm lẫn hoặc nhầm lẫn; nói một lát dao hay một nhát dao đều được cả. Ðặt trong toàn cảnh mối quan hệ giữa hai phụ âm B và V cũng như quá trình biến đổi phụ âm đầu như thế, chúng ta sẽ thấy ngay giả thuyết cho nguồn gốc của chữ "vợ" trong "vợ chồng" là "bợ" rất có khả năng gần với sự thật. "Vợ chồng" như thế, thực chất là "bợ chồng". "Bợ": từ dưới nâng lên; "chồng": từ trên úp xuống. Danh từ "bợ chồng" diễn tả tư thế thân mật giữa hai người nam nữ khi ăn ở với nhau. Cách gọi tên khá thật thà như thế kể cũng thú vị đấy chứ? Qua các trường hợp biến đổi từ "hàm thinh" thành "làm thinh" và từ "bợ chồng" thành "vợ chồng", chúng ta tiếp cận được một hiện tượng rất phổ biến trong tiếng Việt: hiện tượng biến âm. Biến âm không phải chỉ vì nói ngọng, kiểu "long lanh" thành "nong nanh" hay "nôn nao" thành "lôn lao" như một số người ở một số địa phương nào đó. Biến âm cũng không phải chỉ vì phương ngữ, kiểu "về" thành "dề" như ở miền Nam, hay "nhà" thành "dà" như ở một số làng huyện ở miền Trung, "trung trinh" thành "chung chinh" như ở miền Bắc. Ðiều đáng nói hơn là những hiện tượng biến âm xuất phát từ những quy luật nội tại của ngôn ngữ, những sự biến âm có mặt ở mọi vùng đất nước và nếu không tự giác và tốn công truy lục, chúng ta sẽ không thể nào tái hiện được nguyên dạng của nó. Chúng ta dễ ngỡ biến âm là chính âm. Dễ ngỡ nó tự nhiên là thế. Ví dụ, để diễn tả tâm sự buồn nào đó dần dần giảm nhẹ đi, chúng ta hay dùng chữ "nguôi ngoai". Ðúng ra là "nguôi hoai". Trong các từ điển cổ, "hoai" có nghĩa là phai nhạt. Nghĩa ấy, cho đến bây giờ chúng ta vẫn dùng trong chữ "phân đã hoai". "Nguôi hoai" là từ ghép chỉ sự phai dần của một nỗi buồn, một niềm đau. Tương tự như vậy, chữ "yếu ớt" chúng ta hay dùng ngày nay là do chữ "yếu nớt". "Ớt" thì không có nghĩa gì cả. Trong khi "nớt" có nghĩa là sinh thiếu tháng, vẫn còn dùng trong từ "non nớt". "Yếu nớt", do đó, có nghĩa là yếu đuối, là non nớt. Chữ "nói mớ" thật ra là biến âm của chữ "nói mơ", nói trong giấc mơ. "Nước miếng" thật ra là biến âm của "nước miệng", nước chảy ra từ miệng, cùng cách kết cấu với các chữ nước mắt hay nước mũi. Chữ "to tát" hiện nay tất cả các từ điển đều viết với chữ T ở cuối, TÁT; nhưng trong Ðại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của thì lại viết chữ TÁC kết thúc bằng C: "to tác", kèm theo lời định nghĩa là: thô kệch, lớn tác. Mà chúng ta đều biết chữ TÁC có nghĩa là tuổi hay vóc dáng, như trong các từ tuổi tác, tuổi cao tác lớn, hay ngày xưa người ta nói bạn tác, tức bạn hữu; trang tác, tức cùng lứa, cùng tuổi với nhau. (4) Các con số đếm, nơi rất cần sự chính xác, cũng không thoát khỏi luật biến âm. Như số 1, chẳng hạn. Ðứng một mình là một. Ðứng trước các con số khác cũng là một. Nhưng khi đứng sau các con số khác, trừ số 10, nó lại biến thành "mốt": hai mươi mốt; ba mươi mốt, bốn mươi mốt. Những chữ "mốt" ấy chính là biến âm của "một". Nhưng không phải lúc nào "mốt" cũng có nghĩa là một: "Mốt" trong một trăm mốt hay trong một ngàn mốt, một triệu mốt... không phải là một. Con số 5 cũng vậy. Ðứng một mình là năm. Ðứng trước các số khác cũng là năm. Nhưng khi đứng sau các số, từ 1 đến 9, nó lại biến thành "lăm": mười lăm, hai mươi lăm... Con số hai mươi lăm ấy lại được biến âm thêm một lần nữa, thành hăm nhăm. Số ba mươi lăm cũng thường được biến âm thành băm nhăm. Từ số bốn mươi lăm trở lên thì chỉ có một cách rút gọn là bốn lăm; năm lăm, sáu lăm, bảy lăm, tám lăm, và chín lăm chứ không có kiểu biến âm như hăm nhăm và băm nhăm. Con số 10, cũng vậy. 10 là mười. Nhưng từ 20 trở lên thì "mười" biến thành "mươi”: hai mươi, ba mươi, bốn mươi... Dấu huyền bị biến mất. Có điều, "mươi" không phải lúc nào cũng có nghĩa là mười. Trong nhóm từ "mươi cái áo", chẳng hạn, "mươi" lớn hơn hoặc nhỏ hơn mười: một con số phỏng định, ước chừng, bâng quơ. Con số còn thay đổi được, huống gì những từ khác. Như từ "không", chẳng hạn. Phủ định điều gì, người ta có thể nói "không", mà cũng có thể nói "hông", nói "khổng", nói "hổng". Xuất hiện trong câu nghi vấn, chữ "không" ấy có thể có thêm một biến âm khác là "hôn": "nghe hôn?" Chưa hết. Một số âm vị trong cụm "nghe hôn" ấy bị nuốt đi; "nghe hôn" biến thành "nghen", rồi đến lượt nó, "nghen" lại biến thành "nghén" hay bị rút gọn lần nữa, thành "nhen", rồi "hen", rồi "hén", rồi "nhe", v.v... Như vậy, biện pháp biến âm trở thành một biện pháp tạo từ. Ðã có từ "vậy", chỉ cần thay dấu nặng bằng dấu huyền, chúng ta có từ mới: "vầy" (như vầy này!). Ðã có từ "lui hui", người ta tạo thêm các chữ "lúi húi" rồi "lụi hụi". Ðã có từ "chừ bự", người ta tạo thêm các từ mới: chư bư, chừ bư, chừ bử, chử bử, chứ bứ, chự bự. Ðã có "trật lất", người ta tạo thêm: trết lết, trét lét, trớt lớt, trớt huớt... (5) Ðã có từ "ngoại" vay mượn từ chữ Hán, chúng ta tạo thêm hay từ khác: "ngoài" để các quan hệ không gian cũng như thời gian và "ngoái" để chỉ quan hệ về thời gian: "năm ngoái". Biện pháp biến âm như vậy đã dẫn đến một hiện tượng khá thú vị trong tiếng Việt: hiện tượng từ tương tự, tức những từ hao hao gần nhau về cả ngữ âm lẫn ngữ nghĩa, chẳng hạn: các chữ bớt và ngớt; đớp, tợp, hớp và đợp; bẹp, xẹp, lép, khép, nép và nẹp; khan, khàn và khản; xẻ, chẻ, bẻ và xé; xoăn, xoắn, quăn và quắn; tụt, rụt và thụt; véo, nhéo, và béo; v.v... Các từ tương tự ấy có khi khác nhau về từ loại nhưng lại tương thông tương ứng với nhau về ý nghĩa, chẳng hạn: chúng ta có cái nẹp để kẹp, cái nêm để chêm, cái nan để đan, cái mõ để gõ, cái nệm để đệm, cái vú để bú; hoặc chúng ta cưa thì thành khứa, rung thì rụng, phân thì có từng phần, dựng thì đứng, thắt thì chặt, đập thì giập, dìm thì chìm, ép thì ẹp, dứt thì đứt, chia thì lìa, gạn thì cạn, v.v.... Mới đây, đọc báo, không hiểu tại sao, tình cờ tôi lại chú ý đến chữ "đút" trong một câu văn không có gì đặc biệt: "Chị ấy đút vội lá thư vào túi quần..." Từ chữ "đút" ấy, tôi chợt liên tưởng đến chữ "rút": cả hai từ làm thành một cặp phản nghĩa: đút (vào) / rút (ra). Ðiều làm tôi ngạc nhiên là cả hai từ đều có phần vần giống nhau: "-ÚT". Chúng chỉ khác nhau ở phụ âm đầu mà thôi: một chữ bắt đầu bằng phụ âm "đ-" (đút) và một chữ bằng phụ âm "r-" (rút). Hơn nữa, cả từ "đút" lẫn từ "rút", tuy phản nghĩa, nhưng lại có một điểm giống nhau: cả hai đều ám chỉ sự di chuyển từ không gian này sang không gian khác. "Ðút" cái gì vào túi hay "rút" cái gì từ túi ra cũng đều là sự chuyển động từ không gian trong túi đến không gian ngoài túi hoặc ngược lại. Tôi nghĩ ngay đến những động từ có vần "-ÚT" khác trong tiếng Việt và thấy có khá nhiều từ cũng có nghĩa tương tự. "Sút" là động tác đưa bóng vào lưới. "Hút" là động tác đưa nước hoặc không khí vào miệng. "Mút" cũng là động tác đưa cái gì vào miệng, nhưng khác "hút" ở chỗ vật thể được "mút" thường là cái gì đặc. "Trút" là đổ cái gì xuống. "Vút" là bay từ dưới lên trên. "Cút" là đi từ nơi này đến nơi khác do bị xua đuổi. "Nút" hay "gút" là cái gì chặn lại, phân làm hai không gian khác nhau. Thay dấu sắc (ÚT) bằng dấu nặng (ỤT), ý nghĩa chung ở trên vẫn không thay đổi. "Trụt" hay "tụt" là di chuyển từ trên xuống dưới. "Vụt" là di chuyển thật nhanh, thường là theo chiều ngang. "Lụt" là nước dâng lên quá một giới hạn không gian nào đó. "Cụt" là bị cắt ngang, không cho phát triển trong không gian. "Ðụt" (mưa) là núp ở một không gian nào đó, nhỏ hơn, để tránh mưa ngoài trời. Vân vân. Nếu những động từ có vần "-ÚT" thường ám chỉ việc di chuyển (hoặc việc ngăn chận quá trình di chuyển ấy) giữa hai không gian thì những động từ có vần "-UN" lại ám chỉ việc dồn ứ lại thành cục trong một không gian nhất định nào đó, thường là có giới hạn. "Ùn", "chùn", "dùn", hay "đùn" đều có nghĩa như thế. "Thun" hay "chun" cũng như thế, đều chỉ cái gì bị rút, bị co. "Cùn" là bẹt ra. "Hùn" là góp lại. "Vun" là gom vào. "Lún" hay "lụn" là bẹp xuống. Cả những chữ như "lùn" hay (cụt) "lủn", (ngắn) "ngủn", "lũn cũn"... cũng đều ám chỉ cái gì bị dồn nhỏ hay thu ngắn lại. Với cách phân tích như vậy, nếu đọc thật kỹ và thật chậm các cuốn từ điển tiếng Việt, chúng ta sẽ dễ thấy có khá nhiều khuôn vần hình như có một ý nghĩa chung. Chẳng hạn, phần lớn các động từ hay tính từ kết thúc bằng âm ÉT hay ẸT đều chỉ những động tác hay những vật thể hẹp, thấp, phẳng. "Kẹt" là mắc vào giữa hai vật gì; "chẹt" là bị cái gì ép lại. "Dẹt" là mỏng và phẳng; "tẹt" là dẹp xuống (kiểu mũi tẹt); "bét" là nát, dí sát xuống đất; "đét" là gầy, mỏng và lép. Những dộng từ kết thúc bằng âm EN thường chỉ các động tác đi qua một chỗ hẹp, một cách khó khăn, như: "chen", "chẹn", "chèn", "len", "men", "nghẽn", "nghẹn", "nén". Những từ láy có khuôn vần ỨC – ÔI thì chỉ những trạng thái khó chịu, như "tức tối", "bức bối", "bực bội", "nực nội", "nhức nhối", v.v... Những ví dụ vừa nêu cho thấy hai điều quan trọng: Thứ nhất, nếu chịu khó quan sát, chúng ta sẽ phát hiện trong những chữ quen thuộc chúng ta thường sử dụng hàng ngày ẩn giấu những quy luật bí ẩn lạ lùng. Tính chất bí ẩn ấy có thể nói là vô cùng vô tận, dẫu tìm kiếm cả đời cũng không hết được. Ðiều này khiến cho không ai có thể an tâm là mình am tường tiếng Việt. Ngay cả những nhà văn hay nhà thơ thuộc loại lừng lẫy nhất vẫn luôn luôn có cảm tưởng ngôn ngữ là một cái gì lạ lùng vô hạn. Thứ hai, vì có những quy luật, những điểm chung tiềm tàng giữa các chữ như vậy cho nên việc học tiếng Việt không quá khó khăn. Nói chung, người Việt Nam đều có khả năng đoán được ý nghĩa của phần lớn các chữ mới lạ họ gặp lần đầu. Lần đầu gặp chữ "thun lủn", chúng ta cũng hiểu ngay nó ám chỉ cái gì rất ngắn. Lý do là vì chúng ta liên tưởng ngay đến những chữ có vần "UN" vừa kể ở trên: cụt ngủn, ngắn ngủn, v.v... Lần đầu gặp chữ "dập dềnh", chúng ta cũng có thể đoán là nó ám chỉ một cái gì trồi lên trụt xuống do sự liên tưởng đến những chữ có khuôn vần tương tự: bấp bênh, gập ghềnh, khấp khểnh, tập tễnh, v.v... Nói tiếng Việt vừa dễ vừa khó là vì thế. ****************** Chú thích : 1. Trần Quốc Vượng (1993), Trong Cõi, Garden Grove: Trăm Hoa, tr. 169. 2. Lê Trung Hoa, “Tìm nguồn gốc một số từ ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến đổi ngữ âm”, in trong cuốn Những vấn đề văn hoá, văn học và ngôn ngữ học (nhiều tác giả), nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1999: 211-225. 3. Xem bài "Vài chuyển biến trong phụ âm đầu tiếng Việt và các hiện tượng láy từ liên hệ" của Nguyễn Phú Phong trên Tập san Khoa Học Xã Hội (Paris) số 3 năm 1977, tr. 73-80. 4. Một số ví dụ trong đoạn này lấy từ bài viết của Lê Trung Hoa theo sách dẫn trên. 5. Biện pháp biến âm này đặc biệt thông dụng trong phương ngữ miền Nam. Có thể xem thêm cuốn Từ Ðiển Phương Ngữ Nam Bộ của Nguyễn Văn Ái, Lê Văn Ðức và Nguyễn Công Khai, nxb Thành Phố ****, 1994. Nguyễn Hưng Quốc Theo Văn Học, số 193, tháng 5.2002